Wednesday, November 23, 2016

VIÊTTỪSAIGON =LÊ DIỄN ĐỨC =NGUYỄN VŨ BÌNH =TUẤN KHANH

VIÊTTỪSAIGON * CỘNG SẢN

Hội chứng Cộng sản


Sau gần hai mươi năm không gặp nhau, tôi gặp lại người bạn cũ, khác với cái thuở hai thằng rủ nhau đi phụ hồ, tối đến, buồn quá, lại rủ nhau thức đến 11h đêm, đợi lò mổ bò làm thịt xong, mua một ít lòng về luộc chấm mắm gừng, uống một xị rượu để sáng mai tiếp tục đi phụ hồ… Anh ta bây giờ giàu có, xe cộ, nhà cửa, tiền bạc rủng rỉnh… Nhưng nói chuyện một lúc, tôi thật sự giật mình và tự hỏi “không hiểu con người như thế này sao lại giàu được hay vậy ta?!”.
Sở dĩ tôi phải hỏi thầm như vậy vì tôi nhận ra giữa sự giàu có và tri thức của anh ta tỉ lệ nghịch đến độ khó tin. Nhưng không sao, tri thức không phải ai cũng có đủ để tỉ lệ thuận với sự giàu có, thậm chí có nhiều người giàu có tri thức nhưng lại nghèo tiền bạc. Chuyện ấy bình thường thôi. Vấn đề đáng bàn ở đây là quan điểm sống cũng như suy nghĩ, nhận định về xã hội của anh ta làm tôi bất ngờ.
Tôi vẫn luôn tin rằng với những người xuất thân từ gia đình nghèo khổ và bị ép chế bởi có lý lịch cha làm việc cho “ngụy quyền” như tôi và anh, chắc chắn khi vượt qua số phận, trở nên giàu có, kinh nghiệm sống cũng như những vết thương về lý lịch sẽ giúp tâm hồn chúng tôi trở nên đẹp hơn. Điều này tôi mường tượng giống như cây dó bầu sau khi bị mưa bão đánh tơi tả sẽ cho ra lõi trầm, chính cái lõi trầm khẳng định giá trị cũng như khả năng vượt thoát cái chết và thương tật của cây dó bầu. Điều đó cũng như chính sự giàu có, kinh nghiệm sống và sự tiến bộ sẽ khẳng định giá trị của con người sau một quá trình nghèo khổ, bị ép chế.
Nhưng không, tôi đã lầm, đó chỉ là sự tưởng tượng vô nghĩa của tôi. Anh bạn nghèo ngày xưa của tôi không những giàu có mà công tâm để nói là anh ta rất khốn nạn. Đương nhiên là anh ta chưa hề khốn nạn gì với cá nhân tôi nhưng anh lại khốn nạn với nhiều người khác nghèo khổ, khốn nạn với cộng đồng và xã hội.
Sau một thời gian dài làm phụ hồ, anh phất lên một cách bí ẩn, trở thành giàu có và nhận công trình xây dựng với một đội ngũ kĩ sư xây dựng và thợ thầy khá vững vàng. Không dừng ở đó, có đủ tiền bạc và đàn em, anh cho vay nặng lãi và nhanh chóng trở thành “đại gia” trong xã hội. Đã có nhiều người nghèo mất trắng mọi thứ bởi nợ anh ta, và anh ta không ngần ngại cho đàn em đến xiết nợ của người khác giữa ban ngày, mức lãi có khi lên đến 30% mỗi tháng khiến cho con nợ nhanh chóng kiệt quệ dưới tay anh ta. Nhưng không ai làm gì được anh ta vì anh chơi với các quan chức đứng đầu ngành an ninh tỉnh và huyện, chuyện nhậu nhẹt, chè chén và quà cáp đối với giới quan chức là chuyện thường ngày.
Có thể nói rằng nhờ vào các quan hệ, toa rập, chằng níu giữa anh ta và giới quan lại mà anh ta trở thành một loại Năm Cam mới, tinh vi và yên ổn hơn. Đặc biệt, khi nói chuyện, một hai anh bảo vệ đảng Cộng sản, anh bảo vệ đến độ tôi không dám nhắc đến hai từ này với anh. Bởi nếu nhắc đến mà không kèm với thái độ tôn kính thì không chừng anh ta đập bàn, cho đàn em xử mình như chơi. Vì thấy mức độ mê tín vào đảng của anh ta thì dễ dàng nhận ra kết cục như vậy.
Anh luôn đưa ra quan điểm nhân dân phải sống dưới sự che chở của đảng, phải tin vào đảng, thậm chí thần tượng đảng, thần tượng bác Hồ mới là người trưởng thành. Bằng chứng của sự trưởng thành này là anh đã rất giàu, chơi với giới quan chức và đẳng cấp của anh cũng ở trên cao, thuộc giới thượng lưu… Nghe anh nói một lúc, tôi chỉ thấy miệng đắng ngắt, không thể nhấp thêm ngụm bia nào nữa, vờ có việc gấp mà cáo lỗi, về trước.
Trên đường về, tôi sực nhớ đến câu nói của một anh bạn: “Đất nước này không phải chỉ có hơn ba triệu đảng viên Cộng sản đâu! Nó có đến hơn chín chục triệu đảng viên Cộng sản đó. Chúng ta đang sống trong một thứ hội chứng Cộng sản!”.
Anh này đưa ra quan điểm như vậy và cho rằng không chỉ có những đảng viên đã được kết nạp vào đảng Cộng sản mới là đảng viên, mà những thứ tư duy Cộng sản, hội chứng Cộng sản đã nhiễm dần vào máu huyết của người dân theo từng ngày, từng ngày, để đến một lúc, họ trở thành một đảng viên thụ động và còn yêu đảng, yêu Hồ Chí Minh ghê gớm hơn cả những đảng viên chính thức.
Sự mê tín vào đảng Cộng sản này được tích tụ một cách tiệm tiến trong quá trình tồn tại, nó chuyển hóa từ sợ hãi sang thỏa hiệp và cuối cùng là cơ hội. Nghĩa là với cách quản lý đầy sắc máu, nhà nước Cộng sản đã đẩy đại bộ phận nhân dân đến chỗ sợ hãi, đánh mất chính mình để tồn tại. Và đến một lúc nào đó, người ta cảm thấy những bất công, vô lý là chuyện bình thường, không có gì đáng bàn, người ta chấp nhận, thỏa hiệp với bất cộng, xem bất công và đàn áp như một lẽ đương nhiên. Và một khi đã xem điều đó là đương nhiên, người ta dễ dàng thích nghi để tìm ra cơ hội có lợi cho bản thân. Những kẻ cơ hội trong chế động Cộng sản đều là những kẻ có khuynh hướng phát triển như trên.
Và một khi đã nắm được cơ hội trên tay, người ta bắt đầu phát triển, mở rộng cơ hội. Đương nhiên cơ hội ở đây sẽ có đội trên đạp dưới, có toa rập, có đạp lên nỗi đau của đồng loại mà đi, có thủ đoạn và có cả sự bỉ ổi, vô luân. Bởi lẽ, đây là cơ hội dưới triều đại độc tài Cộng sản.
Và một khi thứ cơ hội này lan tỏa ra trên toàn xã hội, một thứ không khí khác bao trùm lện xã hội, một ông xe ôm hay một bà bán trứng vịt lộn cũng có thể là đảng viên không chính thức, bà ta có thể đấu tố hàng xóm, có thể tìm cách nịnh bợ ông chủ tịch phường, chủ tịch xã để lấn sang phía bà bán bánh mì một chút đất vỉa hè để đặt thêm bộ bàn. Và đương nhiên bà ta lấy làm hãnh diện vì mình có thế lực đảng trong tay! Ông xe ôm cũng thế, ông có thể trở thành một cộng sự viên đắc lực của ngành an ninh để đấu tố những kẻ nào dám nói xấu đảng, nói xấu bác Hồ, với ông, đây là một chiến công, mặc dù cho đến giờ ông không có nghề ngỗng gì, phải chạy xe ôm bởi cơ hội làm người của ông đã bị mất vì lý lịch “ngụy quân” của ông ta!
Đứng trên góc độ tạo ra hiệu ứng mê tín đảng và bao trùm không khí xã hội một thứ “hội chứng Cộng sản” thì rõ ràng là nhà cầm quyền độc tài Cộng sản Việt Nam đã rất thành công, không phải tốn xu nào vẫn tạo ra được hơn chín chục triệu đảng viên, trong đó có nhiều đảng viên không có thẻ nhưng lại có quyền lực đảng và yêu đảng hơn rất nhiều so với các đảng viên chính thức. Bởi với họ, sự giàu có, tài phiệt của họ hình thành là nhờ vào ơn đảng, ai đụng đến đảng là khó sống với họ!
Nhưng nhà cầm quyền Cộng sản, đảng Cộng sản quên mất một điều: Khi mà tấm thẻ đảng trở nên rẻ rúng, khi mà quyền lực đảng đã rơi vào tay tài phiệt và mafia, khi mà tính đảng không còn thiêng liêng như những ngày người ta chấp nhận đói khổ, rúc rừng, chịu sốt rét và bom đạn, cái chết để đi theo đảng… Thì lúc đó, cả một tập hợp đảng lại lúc nhúc những con vi trùng tội ác có thể làm cho cơ thể đảng nổ tung sau khi trương phình và tự hoại lẫn nhau. Đó là điều khó tránh khỏi trong lúc này!


LÊ DIỄN ĐỨC * ĐA ĐẢNG

Việt Nam nếu đa đảng sẽ đổ máu?


Lê Diễn Đức

Khi nói đến tiến trình tiến tới dân chủ hoá của Việt Nam, mặc dù còn mờ mịt, xa vời, có ý kiến cho rằng, xã hội Việt Nam nếu có đa đảng sẽ đổ máu.
Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) luôn tuyên truyền rằng, khi họ là lực lượng duy nhất giữ độc quyền cai trị thì xã hội ổn định, thúc đẩy phát triển kinh tế. Điều này đánh trúng vào tâm lý của dân chúng vốn sợ chiến tranh, xung đột sau một cuộc chiến đã quá dài và tổn thất sinh mạng và vật chất quá lớn.
Cách nguỵ biện trên rõ ràng là bóp méo hoặc thiếu hiểu biết về khái niệm dân chủ.
Dân chủ về bản chất không chỉ là một mô hình nhà nước, cũng không hoàn toàn giống như người ta viết trong các bản hiến pháp.
Dân chủ là quan điểm sống, dựa trên lòng tin vào con người, vào nhân loại và chủ nghĩa nhân đạo. Dân chủ là một cuộc thảo luận. Nhưng cuộc thảo luận chỉ thực sự có ý nghĩa nơi mà con người tin cậy lẫn nhau và tìm kiếm sự thật một cách lương thiện. Dân chủ có nghĩa là cuộc nói chuyện giữa những người bình đẳng, sự suy nghĩ của những công dân tự do trước con mắt quan sát của toàn xã hội.
Wiston Churchil, cựu Thủ tướng Anh, đã có lần nói đùa nhưng rất chính xác rằng, "Dân chủ là mô hình nhà nước tệ nhất, ngoại trừ tất cả các mô hình nhà nước được biết cho đến nay".
Có nghĩa rằng, Dân chủ không phải là phuơng thức hoàn hảo, nhưng là tốt nhất, phục vụ cho nhân loại trong lịch sử.
Chính trị Dân chủ gìn giữ hài hoà giữa sự thống nhất và đa dạng, cũng như sự xung khắc, dựa trên nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số. Chính trị dân chủ không phân chia bạn-thù. Vinh quang của nó không phải là chiến tranh, và mục tiêu của nó không phải là tiêu diệt kẻ thù. Trong xã hội dân chủ có ba nhóm người: ủng hộ/dao động/đối thủ. Mục tiêu của Dân chủ là kéo về phía mình những người dao động để nhận được đa số.
Chính trị Dân chủ không phải là vấn đề sống và chết. Dân chủ không cho phép sử dụng các phương tiện chiến đấu, xung đột vũ trang, giết chết đối thủ. Dân chủ tìm cách thuyết phục các chương trình của mình để tìm kiếm sự ủng hộ mới nhằm đạt được đa số, mà nhờ đó sẽ giành chiến thắng trong cuộc bầu cử.
Dân chủ là một hệ thống chính trị duy trì và phục hồi sự đồng thuận của xã hội và đồng thời giữ gìn, điều chỉnh sự khác biệt và tranh cãi miễn là nó nằm trong khuôn khổ pháp luật. Dân chủ tìm kiếm điểm cân bằng giữa hai xu hướng tương phản, một trong số đó là sự thống nhất, và hướng kia - những khác biệt và mâu thuẫn. Một điểm cân bằng - tức là một sự thỏa hiệp, nhượng bộ, tuy nhiên không loại trừ việc giữ lập trường của mình và thuyết phục các khuynh hướng khác chấp nhận. Trong ý nghĩa này - thỏa hiệp là linh hồn của nền dân chủ.
Từ ngày ra đời đến khi cướp được chính quyền, rồi cưỡng chế miền Nam, giữ vai trò thống trị duy nhất trên đất nước Việt Nam, ĐCSVN luôn luôn chủ trương đàn áp, thủ tiêu mọi lực lượng chính trị khác quan điểm với mình. Một chế độ công an trị được thiết lập. Các nhà bất đồng chính kiến bị tù đày, cô lập. Báo chí truyền thông trở thành công cụ tuyên truyền phục vụ cho mục đích cầm quyền. Sự thống nhất của dân chúng mà như ĐCSVN nói, ví dụ như đi theo đảng và tin chọn đảng làm lãnh đạo, đều là sự áp đặt. Bởi vì cấu trúc nhà nước được hình thành qua sự sắp đặt của các đại hội đảng, chứ không qua bầu cử tự do.
Trong một tư duy dùng bạo lực để tiêu diệt đối thủ/kẻ thù ấy, nói rằng, nếu có đa đảng, ở Việt Nam sẽ đổ máu không có gì là lạ.
Vào năm 1989, khi người dân Ba Lan tập trung trong Công đoàn Đoàn Kết, biểu tình, bãi công dồn dập, làm tê liệt đời sống đất nước, có nghĩa rằng, Đảng Cộng Sản Ba Lan đã nhận thấy một tín hiệu khác. Sự đàn áp cao độ của nhà cầm quyền trong giai đoạn ban hành tình trạng thiết quân luật 1981-1983 với gần 10 ngàn người đối lập dân chủ bị bắt giam và xét xử, đã không mang lại kết quả nào, ngược lại, càng đổ thêm dầu vào ngọn lửa của cao trào cách mạng.
Đảng Cộng Sản Ba Lan, lúc bấy giờ, chấp nhận ngồi vào bàn tròn đàm phán với lực lượng đối lập và kết quả là chấp nhận sự hoạt động của các tổ chức xã hội và tiến hành bầu cử tự do (hạn chế) vào ngày 3 tháng 6 năm 1989. Thắng lợi toàn diện của phe đối lập trong cuộc bầu cử này, đã dẫn đến những thắng lợi tiếp theo trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 1990 và bầu cử quốc hội toàn phần năm 1991.
Cuộc chuyển hoá từ chế độ độc tài qua dân chủ đã diễn ra êm ả, hoà bình và không đổ giọt máu nào. Tất cả ai vào sân chơi dân chủ đều tôn trọng một nguyên tắc khắt khe, bất di bất dịch của nó là không triệt hạ nhau bằng bạo lực. Chỉ lá phiếu của người dân là vũ khí duy nhất để loại bỏ nhau trong cuộc tranh đua quyền lực.
Các cuộc chạy đua vào Nhà Trắng ở Mỹ cũng làm nổi bật sự khác biệt giữa hai khuynh hướng Cộng hoà cvà Dân chủ. Trong mỗi kỳ bầu cử, nước Mỹ gần như bị chia thành hai phần tương đương màu xanh (Dân Chủ) và đỏ (Cộng hoà). Người đắc cử Tổng thống thường cũng chỉ nhích hơn người thua cuộc 1-3% số phiếu, điều này cho thấy cuộc tranh đua hết sức quyết liệt.
Cộng đồng người Việt ở Mỹ như người ta nhận xét khá phức tạp và chia rẽ. Trong các kỳ bầu cử địa phương, người ta sôi nổi công kích nhau trên các phương tiện truyền thông, nhưng kết quả cuối cùng vẫn là sự lựa chọn của dân chúng. Không có bất kỳ mâu thuẫn nào dẫn đến xung đột bạo lực.
Dân chủ là phải biết thất bại, biết nhìn nhận nó một cách sòng phẳng, nhưng có trách nhiệm. Vì thế, người thua trong cuộc bầu cử tổng thống ở Mỹ luôn gọi điện chúc mừng người chiến thắng.
Rất tiếc, Việt Nam hiện nay chưa có một lục lượng đối lập có tổ chức đủ mạnh để buộc ĐCSVN phải ngồi vào bàn thương lượng. Nhưng những người bất mãn với chế độ và có ý thức phản kháng không ít. Các tổ chức dân sự đang nhen nhóm hoạt động là hạt nhân cần thiết cho sự phát triển xã hội dân chủ tương lai.
Một khi tạo được áp lực mạnh mẽ của quần chúng, nhà cầm quyền ắt sẽ thay đổi. Và nếu ĐCSVN can đảm nhận rằng, sân chơi dân chủ là nơi bình đẳng nhất cho cuộc tranh đua, thì chắc chắn chẳng thể nào có đổ máu.
Mặc dù xã hội Việt Nam tồn tại những bất đồng sâu sắc do chính sách của ĐCSVN gây ra, nhưng thiết nghĩ, khi đã chấp nhận dân chủ, đồng ý với luật chơi, tất cả các tổ chức khác sẽ bình đẳng với ĐCSVN trong việc tranh giành lá phiếu của người dân.
Như vậy, đổ máu hay không chẳng phụ thuộc vào việc xã hội Việt Nam có đa đảng mà hoàn toàn phụ thuộc vào thái độ hành xử của ĐCSVN.
© Lê Diễn Đức - RFA


NGUYỄN VŨ BÌNH * DÂN CHỦ

Nội dung của Dân chủ


     Có rất nhiều nội dung và vấn đề trong một phương thức tổ chức xã hội. Song, bất kỳ một phương thức tổ chức xã hội nào cũng phải giải quyết ba vấn đề cơ bản sau đây của xã hội: 1- vấn đề Chính quyền; 2 - Vấn đề Luật; 3 - Vấn đề con người.
     Bản chất của phương thức tổ chức xã hội sẽ được dùng làm cơ sở để giải quyết ba vấn đề trên. Điều đó cũng có nghĩa là, cách thức giải quyết ba vấn đề trên sẽ bộc lộ bản chất của một phương thức tổ chức xã hội. Phương thức tổ chức xã hội dân chủ sẽ giải quyết ba vấn đề bằng các nội dung sau.
     1- Vấn đề Chính quyền
     Hiện nay có hai cách hiểu khi đề cập tới vấn đề chính quyền. Hiểu theo nghĩa rộng, chính quyền được hiểu là Nhà nước với ba chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp, đồng thời đại diện quốc gia. Theo nghĩa hẹp, chính quyền đồng nghĩa với chính phủ, thực hiện chức năng hành pháp. Nhưng trong nhiều trường hợp và văn bản, chính quyền đồng nghĩa với Nhà nước. Dù theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp thì bản chất của chính quyền dân chủ không thay đổi: là một định chế được xây dựng để bảo đảm và bảo vệ quyền con người trong một phạm vi địa lý nhất định.
     Xuất phát từ bản chất của chính quyền dân chủ, có hai nội dung chính cần được xem xét, lý giải và thực hiện.
     Chính quyền là một định chế được xây dựng để bảo đảm quyền con người
     Đúng vậy, quyền con người, yếu tố cốt lõi trong nền dân chủ, dù được tất cả mọi người trong xã hội công nhận và thừa nhận, cũng không phải bỗng dưng mà có. Nó phải được tổ chức trên bình diện xã hội, cực kỳ khoa học và vô cùng công phu, gian khổ. Những khó khăn và hạn chế trong việc bảo đảm quyền con người ở các nước dân chủ ngoài Hoa Kỳ và Tây Âu phần lớn do việc tổ chức và xây dựng chính quyền còn nhiều bất cập. Tuy nhiên, khi đã xác định chính quyền được xây dựng để bảo đảm quyền con người là chúng ta đã đóng khung được một một phần chức năng của chính quyền, từ đó tổ chức chính quyền hợp lý và hiệu quả hơn.
     Chính quyền là một định chế được xây dựng để bảo vệ quyền con người
     Trong hoạt động sống của mình, quyền con người thường bị vi phạm bởi việc sử dụng sức mạnh. Trong xã hội văn minh, việc sử dụng sức mạnh cần phải bị loại trừ. Quyền sống của con người kéo theo quyền tự vệ, sử dụng sức mạnh trả đũa nhắm vào những kẻ đã ra tay sử dụng sức mạnh trước. Nhưng việc dùng sức mạnh trả đũa không thể tùy thuộc vào ý muốn của mỗi một cá nhân. Nó đòi hỏi những luật khách quan, do các bằng chứng đưa ra để xác định một tội ác và chứng minh ai đã phạm tội ác đó. Khi sức mạnh bị cấm trong quan hệ xã hội, con người cần một thể chế nắm nhiệm vụ bảo vệ các quyền lợi của họ, dưới sự điều chỉnh của một tập hợp các luật lệ khách quan.
     Mặt khác, trong xã hội tự do, một người không bị bắt buộc giao dịch với người khác. Họ chỉ giao dịch trên cơ sở tự nguyện, có hợp đồng nếu giao dịch diễn ra trong một thời gian. Nếu hợp đồng bị phá vỡ do quyết định tùy tiện của một bên sẽ gây tổn hại tài chính và thảm họa cho người kia…và ở đây cũng cần một thể chế làm chức năng trọng tài giải quyết các bất đồng giữa mọi người với nhau, theo luật khách quan.
     Ngoài ra, quá trình xây dựng các định chế của một chính quyền là quá trình phức tạp, chưa có nguyên lý chuẩn xác, là quá trình tìm tòi, trải nghiệm. Bản thân quá trình xây dựng và vận hành định chế chính quyền cũng bao hàm trong nó những vi phạm quyền con người. Vì vậy, trong định chế chính quyền được lập ra cũng phải bao hàm trong nó một cơ chế để cá nhân có thể tự bảo vệ quyền con người của mình.
     Như vậy, chính quyền được xây dựng để bảo đảm quyền con người, bảo vệ con người khỏi tội ác, khỏi các thế lực ngoại xâm, làm trọng tài giải quyết tranh chấp giữa con người theo luật khách quan và cũng là để cá nhân tự bảo vệ quyền con người của mình.
     2- Vấn đề Luật
     Theo nghĩa chung nhất, luật là những quy định để điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội. Bất kỳ xã hội nào cũng cần và cũng có luật. Sự khác nhau về luật giữa các phương thức tổ chức xã hội khác nhau là nguồn gốc, chức năng, việc thực hiện và bảo vệ luật. Trong một xã hội dân chủ, điều đặc biệt dễ thấy nhất là luật có mặt ở khắp mọi nơi, tất cả các lĩnh vực, ngành nghề, các cấp trong đời sống, sinh hoạt của mọi tầng lớp người dân. Theo ý nghĩa cơ học, sự đa dạng, phong phú và số lượng luật phản ánh mức độ của một xã hội văn minh. Số lượng luật chính là số lượng các tương quan lợi ích được đưa vào điều chỉnh. Chúng ta xem xét mối tương quan của luật đối với quyền con người, và cao hơn nữa, là đối với tự do trong xã hội dân chủ.
     Các quyền con người muốn được ra đời cần phải có luật, bản thân quyền con người tồn tại bằng luật, và việc bảo vệ quyền con người cũng phải dùng công cụ là luật. Tương tự như vậy, khả năng bảo vệ quyền con người của mỗi cá nhân (ngoại trừ yếu tố khát vọng, động cơ của bản thân con người) đều được bảo đảm và liên quan mật thiết tới luật. Như vậy, ta có thể kết luận: luật chính là bà đỡ, là hiện thân, là linh hồn của tự do và cũng là công cụ để bảo vệ tự do. Chúng ta xây dựng nên luật, đối xử với luật như thế nào cũng chính là chúng ta xây dựng nên tự do và đối xử với tự do như vậy. Đây chính là tinh thần thượng tôn pháp luật trong các xã hội dân chủ.
     Để bảo đảm đúng tinh thần thượng tôn pháp luật, một xã hội dân chủ cần đặt luật như một đối tượng đặc biệt cần được xây dựng và hoàn thiện với tư cách một cơ chế, một cấu trúc và một thiết chế. Đồng thời, định hướng nội dung của luật không gì khác hơn ngoài việc: bảo đảm và bảo vệ quyền con người.
     a- Luật là đối tượng đặc biệt, được xây dựng và hoàn thiện với tư cách là một cơ chế, một cấu trúc và một thiết chế
     Trong quá trình xây dựng chính quyền, việc xây dựng và thực thi luật cũng được đặt ra và thực hiện, đặc biệt có cả một cơ chế tam quyền phân lập để làm việc này. Tuy nhiên, khi chúng ta đặt luật là một đối tượng đặc biệt, như một chỉnh thể riêng biệt và hoàn chỉnh thì sẽ có sự khác biệt rất lớn, từ quan niệm đến việc tập trung sự chú ý và nguồn lực, cũng như sự giám sát của nhân dân và sẽ dẫn tới sự khác biệt tích cực trong xây dựng, thực thi và hoàn thiện luật.
     Sự tách biệt lập pháp, hành pháp và tư pháp thực ra là sự phân công chức năng để bảo đảm luật được ra đời và hình thành phản ánh đúng nguyện vọng của người dân, để việc thực thi luật được bình đẳng và nghiêm minh, để luật được bảo vệ một cách khách quan và công bằng. Tức là quá trình xây dựng và vận hành, thực thi và bảo vệ luật không bị bóp méo bởi việc tập trung nhiều chức năng trong tay một chủ thể. Mặt khác, để sự vận hành trôi chảy, từ lúc hình thành cho tới khi thực thi và bảo vệ luật không bị tắc nghẽn, chúng ta cần có một cấu trúc xã hội tương ứng với cơ chế phân công chức năng. Sau một thời gian, khi mà cả cơ chế và cấu trúc xã hội, trải qua quá trình tìm tòi, trải nghiệm, đã bảo đảm được  chức năng, nhiệm vụ của mình, chúng ta cần xác lập một thiết chế xã hội dựa trên cơ chế và cấu trúc đó.
     b- Chức năng của luật: bảo đảm và bảo vệ quyền con người
     Để thực hiện được chức năng bảo đảm và bảo vệ quyền con người, luật và hệ thống luật cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
     - Xác quyết quyền con người: không nghi ngờ gì nữa, yêu cầu quan trọng nhất đối với luật là xác quyết quyền con người. Đó là các quyền cơ bản về tự do cá nhân của con người bao gồm: quyền sống, quyền sở hữu, quyền tự do ngôn luận, quyền tự do tín ngưỡng, quyền mưu cầu hạnh phúc. Xác quyết các quyền cơ bản về tự do dân sự - chính trị như: quyền tự do ứng cử, bầu cử; quyền tự do hội họp và lập hội; quyền được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật; quyền được tố tụng đúng đắn và xét xử công bằng…. luật cũng phải xác quyết một hệ thống các quyền đi theo các quyền cơ bản và các quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội và đời sống.
     - Luật tham gia quá trình xây dựng cơ chế, cấu trúc và thiết chế xã hội bảo đảm và bảo vệ quyền con người. Quá trình xây dựng chính quyền, quá trình xây dựng cơ chế, cấu trúc và thiết chế xã hội đều có sự tham gia của luật. Những định hướng nội dung bảo đảm và bảo vệ quyền con người của luật giúp cho các quá trình này được thực hiện nhanh chóng, hoạt động được hiệu quả và bền vững hơn bởi sự cộng hưởng mục đích.
     - Luật tham gia xây dựng nhận thức về quyền con người, về tự do, dân chủ và ý thức tự bảo vệ quyền con người cho người dân. Vai trò của nhận thức về quyền con người, về tự do, dân chủ để từ đó hình thành ý thức tự bảo vệ quyền con người của người dân là vô cùng quan trọng. Việc nhận thức này không thể do người dân tự tìm hiểu mà cần phải được sự hướng dẫn, giáo dục và quy định bằng luật pháp đối với các cơ quan chức năng của chính quyền. Vì vậy, việc tham gia xây dựng nhận thức cho người dân về quyền con người và về tự do, dân chủ là nội dung quan trọng trong chức năng bảo đảm và bảo vệ quyền con người của luật.
     3- Vấn đề con người
     Các phương thức tổ chức xã hội đều phải giải quyết vấn đề con người. Một cách giản dị: ai, nhóm người nào chi phối quá trình xây dựng và hoạt động của chính quyền, của hệ thống luật? và hệ thống chính quyền và luật pháp đó hoạt động đem lại và bảo vệ lợi ích cho ai, nhóm người nào? Phương thức tổ chức xã hội dân chủ đã xác quyết, trong nguyên lý và trong các hiến pháp dân chủ: nhân dân chính là chủ thể của quá trình xây dựng và hoạt động của hệ thống chính quyền và luật pháp. Đồng thời hoạt động của chính quyền và hệ thống luật pháp bảo đảm và bảo vệ lợi ích của nhân dân. Nói cách khác, quyền lực thuộc về nhân dân. Vấn đề đặt ra ở đây là, làm thế nào để người dân thực sự tham gia vào quá trình xây dựng các thể chế xã hội và làm thế nào để các thể chế xã hội đó bảo đảm quyền con người và khả năng tự bảo vệ quyền con người của mỗi cá nhân? Có hai nội dung phương thức tổ chức xã hội dân chủ cần thực hiện. Đó là xây dựng nhận thức về quyền con người, về tự do, dân chủ cho người dân và xây dựng cơ chế để mỗi cá nhân có thể tự bảo vệ quyền con người của mình.
     a. Nhận thức về quyền con người, về tự do, dân chủ
     Quyền con người là một khái niệm rất mới trong lịch sử nhân loại. Có hai luận thuyết về nguồn gốc quyền con người, một số người khẳng định quyền là tặng phẩm của chúa trời, số người khác thì cho rằng quyền là tặng phẩm của xã hội. Nhưng trên thực tế, nguồn gốc quyền là bản chất con người. Con người là thực thể thuộc một loài đặc biệt - thực thể có lý trí – con người không thể hành động hiệu quả dưới sự cưỡng ép, quyền là điều kiện cần cho sự tồn tại đặc biệt  của con người. Vậy, quyền là nguyên tắc đạo đức xác định và thừa nhận sự tự do hành động của con người trong một xã hội nhất định. Chỉ có một quyền cơ bản mà thôi - tất cả các quyền khác là kết quả hoặc hệ quả tất yếu của quyền cơ bản này - quyền của con người đối với đời sống cá nhân. Đời sống là một quá trình hành động tự duy trì và tự sinh sôi; quyền đối với đời sống tức là quyền hành động tự duy trì và tự sinh sôi - có nghĩa là: tự do tiến hành tất cả các hành động mà tự nhiên đòi hỏi từ một thực thể có lý trí, để hỗ trợ, thúc đẩy, hoàn thành và hưởng thụ đời sống riêng của mình. Đó là ý nghĩa của quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
     Trong thực tế cuộc sống, quyền con người được xác định trên hai phương diện: quyền tự do cá nhân con người và quyền tự do chính trị-dân sự của con người (quyền công dân).
     - Quyền tự do cá nhân con người bao gồm các quyền cơ bản sau:
               + Quyền Sống: là nguồn của mọi quyền
               + Quyền sở hữu tài sản: là cách duy nhất để thi hành các quyền. Không có quyền sở hữu, tất cả các quyền khác là bất khả thi. Bởi vì con người phải tự mình duy trì đời sống của mình, cho nên người nào không có quyền đối với sản phẩm do nỗ lực cá nhân mình tạo ra thì sẽ không có cách nào sống được. Người nào sản xuất và bị những kẻ khác chiếm đoạt sản phẩm, thì người đó ắt là nô lệ.
               + Quyền tự do ngôn luận: là quyền tự do thể hiện, trình bày ý kiến mà không bị can thiệp, đàn áp và trừng phạt.
               + Quyền tự do tín ngưỡng: quyền theo hoặc không theo một tôn giáo nào đó. Thể hiện tinh thần khoan dung tôn giáo, kết quả đấu tranh hàng nghìn năm của con người.
               + Quyền mưu cầu hạnh phúc: là quyền làm những gì cá nhân coi là cần thiết để đạt được hạnh phúc.
     - Quyền tự do chính trị-dân sự của con người (quyền công dân) bao gồm:
               + Quyền tự do ứng cử và bầu cử
               + Quyền tự do báo chí
               + Quyền tự do hội họp và lập hội
               + Quyền được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật
               + Quyền được tố tụng đúng đắn và xét xử công bằng
     Ngoài ra, còn một số các quyền khác để thể hiện và thực thi các quyền cơ bản của con người. Ví dụ: quyền tự do cư trú, tự do đi lại, quyền thừa kế, quyền được bảo vệ nhân phẩm ..vv..
     Nhận thức của người dân về tự do, dân chủ cần nhấn mạnh phương diện tham gia xây dựng hệ thống chính quyền, hệ thống luật pháp của người dân. Cùng với đó là hệ thống thủ tục, trình tự, các địa chỉ để người dân có thể khiếu nại, tố cáo, khởi kiện nhằm bảo vệ các quyền tự do của họ. Mặt khác, kiến thức về tự do, dân chủ cần phải được trình bày đơn giản, dễ hiểu, và quan trọng hơn, phải gắn chặt và liên quan mật thiết với cuộc sống người dân.
 b. Xây dựng cơ chế bảo đảm khả năng tự bảo vệ quyền con người của mỗi cá nhân: Tòa án Nhân quyền
     Đây là yếu tố, là cơ chế quan trọng nhất của nội dung dân chủ, của thiết chế dân chủ, của phương thức tổ chức dân chủ. Đây là yếu tố cốt lõi, hạt nhân của cấu trúc tự hoàn thiện của bất kỳ nền dân chủ nào. Xây dựng được cơ chế này, thực hiện được nội dung này, nền dân chủ sẽ vượt qua mọi khó khăn, thử thách và tự đi tới trạng thái hoàn thiện. Có hai nguyên nhân lý giải điều này:
     Thứ nhất, quyền con người là đối tượng luôn luôn bị xâm hại, bị vi phạm mọi nơi, mọi lúc và mọi hoàn cảnh. Sự vi phạm quyền con người là do:
              - Việc xây dựng hệ thống chính quyền và luật pháp, với mục đích bảo đảm và bảo vệ quyền con người, là quá trình phức tạp cần tìm tòi, trải nghiệm. Bản thân quá trình này cũng bao hàm trong nó sự vi phạm quyền con người.
              - Sự cám dỗ tự nhiên về quyền lực và lợi ích đối với cá nhân tham gia xây dựng các thiết chế dân chủ sẽ hàng ngày, hàng giờ đưa tới sự vi phạm quyền con người cả trên phạm vi cá nhân và tập thể.
            - Vấn đề tội phạm
     Vì vậy, việc bảo vệ quyền con người phải được đặt lên hàng đầu và phải có cơ chế để thực hiện việc bảo vệ đó.
     Thứ hai, không ai có thể bảo vệ quyền con người hiệu quả bằng chính bản thân cá nhân bảo vệ quyền con người cho mình. Đồng thời, tòa án Nhân quyền cũng là nơi tôn nghiêm và hiệu quả nhất để bảo vệ quyền con người, nhất là đối với những người nghèo và dân thường.
Hà Nội, ngày 29/8/2015
N.V.B


TUẤN KHANH * QUỐC CA

Một bài quốc ca giá bao nhiêu?



Câu chuyện đề nghị thu tiền tác quyền của bài Tiến quốc ca ở Việt Nam hiện nay, gợi lên không ít điều phải bàn, liên quan đến danh dự một quốc gia, cũng như của chính tác giả bài hát đó. Tuy chuyện ông Phó Đức Phương, giám đốc Trung bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam (VCPMC), nêu ra có vẻ rất lạ thường, như lại là cơ hội để công chúng được một dịp nhìn thấy mọi góc cạnh của ứng xử, của hiện trạng về bài quốc ca tại Việt Nam.
Có lẽ, trong lịch sử Việt Nam cho đến nay, chưa có bài hát nào được sử dụng nhiều bằng bài Tiến Quân Ca, bởi tính khách quan, đó là bài hát được Quốc hội của miền Bắc Việt Nam, năm 1946, lúc đó còn mang tên là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, chọn là bài hát chủ đề giới thiệu một chính thể – một national anthem, mà cho tới nay chưa có sự thay đổi chính thức nào. Mặc dù sau khi Việt Nam không còn chiến tranh và chính thức đổi tên là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bài hát này vẫn được vang lên với tư cách là một bài quốc ca.
Nếu tính thành tiền tác quyền, bằng giá của một ca khúc bình thường mà VCPMC vẫn thu hiện nay, tiền tác quyền của của riêng bài hát này (kể cả truy thu) của nhạc sĩ Văn Cao có thể lên đến hàng trăm tỉ đồng Việt Nam. Và nếu được như vậy, nhạc sĩ Văn Cao có thể đi vào lịch sử âm nhạc thế giới qua sự kiện 20 năm sau khi mất, vẫn làm ra những số tiền khổng lồ. Hãy thử tưởng tượng, nếu còn sống đến lúc này, có lẽ nhạc sĩ Văn Cao sẽ là một trong những nghệ sĩ – đại gia hàng đầu của Việt Nam.
Tiếc thay lúc sinh thời, đời của ông không được một phần nho nhỏ nào như vậy. Nhạc sĩ Văn Cao (1923-1995) ra đi trong sự thanh bạch và nghèo khó. Tháng 2.1993, trong chuyến đi của tổng thống Pháp François Mitterrand đến Hà Nội, Việt Nam, ngôi nhà của nhạc sĩ Văn Cao bất ngờ được chọn là một trong những điểm ghé qua, bên cạnh danh sách các điểm đến là chiến trường Điện Biên Phủ xưa, Văn Miếu... Khi ấy, chỉ được biết trước một vài tiếng đồng hồ, nhà nhạc sĩ Văn Cao đã được vội vã tổ chức lại cho tươm tất hơn, cũng như phía chính phủ Việt Nam cũng bất ngờ cho biết sẽ lập khoản trợ cấp vài trăm đồng trong một thời gian, vì nhận ra ông đang có cuộc sống quá chật vật.
Nhưng ngay lúc sinh thời, khi tác phẩm của mình được chọn làm quốc ca, nhạc sĩ Văn Cao lúc đó ắt hẳn cũng mang nhiều tâm trạng khó tả, không thể nào lên tiếng bất cứ điều gì được. Khó mà biết được ông lặng lẽ hay ông im lặng.
Năm 1956, khi tham gia phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm của các trí thức hàng đầu Việt Nam lúc bấy giờ, nhạc sĩ Văn Cao đã phải đối đầu với nhiều đợt phủ nhận tác phẩm của ông. Năm 1958, chính phủ miền Bắc Việt Nam đã dự định dùng bài Bài ca cách mạng tiến quân của Đỗ Nhuận để thay cho Tiến Quân Ca, thế nhưng không hiểu sao, bài hát Tiến Quân Ca cứ in vào tâm trí người dân, không đổi được. Dù vẫn phải sử dụng, nhưng ít ai để ý là nhiều năm liền sau đó, đến tận năm 1980, chính sách dùng quốc thiều để thay cho các buổi hát quốc ca đã được áp dụng khắp nơi.
Có lẽ vì hiến pháp mới, được công bố năm 1980 lại không thấy ghi chính thức chọn Tiến Quân Ca là quốc ca (chỉ ghi là thông qua), nên đến ngày 28/4 năm 1981, đã có hẳn một chương trình thi viết quốc ca mới do báo Nhân Dân đột ngột thông báo, kéo dài trong hai năm, với sự chấp thuận của ông cố tổng bí thư Lê Duẫn và hội đồng xét duyệt như các ông Trường Chinh, Xuân Thủy. Ngoài ra có có nhà thơ Cù Huy Cận, thứ trưởng Bộ Văn hoá Thông tin và nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, chủ tịch Uỷ ban Văn hoá và Giáo dục của Quốc hội là chủ tịch và phó chủ tịch Ban Giám khảo. Theo thống kê, đã có gần 30.000 bài hát từ khắp nơi gửi về nhưng không có bài hát nào được chọn làm quốc ca mới. Đó cũng là một giai đoạn mệt mỏi nhạc sĩ Văn Cao, vì cái giá của một bài quốc ca mà ông đang đối diện, cũng lơ lững không khác nào lưỡi gươm của Damocles.
Trãi qua những gập ghềnh ấy, thật lạ, không hiểu sao người dân vẫn chọn Tiến Quân Ca làm bài hát của mình. Mặc dù lời bài hát này, trong thời điểm hiện tại nghe đầy xương máu, nhưng trong lần nói chuyện lịch sử với ông Văn Cao, tổng thống Pháp François Mitterrand đã so sánh bài Tiến Quân Ca với La Marseillaise – những bài hát được chọn làm quốc ca, đã ghi lại hình ảnh đau thương lịch sử trong chiến tranh thế giới thứ hai và lòng ái quốc có thể đánh đổi bằng cái chết.
Trong lịch sử của những người nghệ sĩ, Văn Cao cũng là một nghệ sĩ yêu nước đến mức sẳn sàng đánh đổi bằng cái chết của mình. Vì từ năm 1944, khi mới 21 tuổi, Văn Cao đã sẳn sàng dùng bàn tay nghệ thuật của mình để đặt vào cò súng, trở thành những ám sát viên lừng danh của Việt Minh của Hà Nội. Ông ám sát thành công Đỗ Đức Phin, một người làm việc cho Pháp tại Hải Phòng, và một lần khác (1945) là ám sát Cung Đình Vận ở Huế, nhưng lần này không thành công. Bài hát Tiến Quân ca cũng ông cũng nói rõ tâm tình của một thanh niên chứng kiến nạn đói và những khí thế cách mạng thời đó. Ông cũng là người hăng hái lên tiếng kêu gọi cải cách và xây dựng lại xã hội trong nhóm Nhân Văn – Giai Phẩm. Năm 2009, khi thời Việt Nam mở cửa đến, ông được phát hành tập thơ Lá, lạ thay trong đó là những dòng đọc mà nghe sao nghẹn ngào “Có lúc một mình một dao giữa rừng đêm không sợ hổ, có lúc ban ngày nghe lá rụng sao hoảng hốt, có lúc nước mắt không thể chảy ra ngoài được...” (bài viết năm 1963).
Trả bao nhiêu cho đủ với những gì mà một nghệ sĩ lớn, một tác giả đã viết ra bằng tâm huyết của mình, được nhân dân chọn làm quốc ca từ mấy mươi năm nay? Mà trên thế giới, cũng ít có tác giả nào viết quốc ca lại đòi tiền, vì đó là danh dự và sứ mạng của một người được cuộc sống ban tặng. Nhưng cách nói của nhạc sĩ Phó Đức Phương thì lại nhắc cho mọi người nhớ rằng có rất nhiều cái chúng ta đã quên, thậm chí quên một cuộc đời đáng nhớ và kính trọng đã viết nên bài hát đó, mà mỗi ngày trên nước Việt Nam này luôn vang lên ồn ào trong sự vô tâm, vô tình, giả tạo. Chúng ta có nợ nhạc sĩ Văn Cao không?
Cái nợ không nhỏ đó cũng thuộc về nhà nước hiện hành. Năm 2010, khi bà Nghiêm Thúy Băng gửi thư cho Quốc hội, hiến tặng ca khúc này cho chính phủ. Đã không ai trả lời. Thậm chí không ai hỏi han. Thật vô phúc cho người dân Việt Nam khi hôm nay có những người đại diện hời hợt và sợ trách nhiệm như vậy. Mãi đến khi có sự cố ồn ào xảy ra, thì mới có đại diện Bộ Văn Hóa mới cất tiếng trả lời suông là đã thấy thư hiến tặng. Cho đến nay, không hề có một thư trả lời hay quyết định tiếp nhận tử tế nào với Tiến Quân Ca. Mọi thứ vẫn đang treo lơ lững như định mệnh của chính người nghệ sĩ tài hoa này, suốt 30 năm, sau thời kỳ Nhân Văn – Giai Phẩm.
Một năm sau khi nhạc sĩ Văn Cao mất, nhà nước Việt Nam trong khuynh hướng đổi mới, đã truy tặng cho ông huân chương Hồ Chí Minh về đóng góp của ông. Kể cả bài Tiến Quân Ca và huân chương ấy, giá tác quyền tưởng thưởng nên được ghi xuống, nên là bao nhiêu?
Thật buồn cười khi rất nhiều quan chức, tỉnh thành lên các dự án xây văn miều, đền thờ, tượng đài ngoại quốc, vô danh... lên đến hàng ngàn tỉ, nhưng với con người thật – việc thật, thậm chí với bài hát mà họ vẫn mấp máy môi mỗi đẩu tuần theo bổn phận – thì có thể họ đã quên. Cho đến giờ phút này, Văn Cao vẫn là một nghệ sĩ lưu danh hậu thế của Việt Nam và là tác giả của quốc ca, mà chưa hề có một nhà tưởng niệm nào xứng đáng, ở nơi chốn sinh ra mình.
Lòng biết ơn và thái độ trân trọng của một chính phủ đối với ông còn chưa đủ, thì nói gì thu được đủ tiền bàn quyền với bài quốc ca có số phận long đong ấy.


SƠN TRUNG * THIÊN CƠ

 THIÊN CƠ

 SƠN TRUNG 

Một số tôn giáo cho rằng Thượng đế toàn năng, toàn trí và Ngài làm việc này việc kia, phán điều này điều nọ , nhưng trong Tứ Thư, Ngũ Kinh, Nho gia dù tin rằng có Thượng đế lại nói rằng Thượng đế không truyền phán gì cả ( Thiên hà ngôn tai, tứ thời hành yên, vạn vật sinh yên, thiên hà ngôn tai?) [1] ;  Trời «không tiếng, không hơi» (vô thanh vô xú).[2]
Nhiều  người Trung Quốc và Việt Nam  tin có Trời, có Phật. Nhiều  người cảm tạ Trời nhưng cũng lắm kẻ oán trách Trời. Gặp nhau, yêu nhau, thành vợ thành chồng , hoăc có chút thành công thì cảm tạ trời Phật:
- Không phải tại em cũng không phải tại anh
Tại Trời xui khiến nên chúng mình yêu nhau..
 -Ơn Trời mưa nắng phải thì
Nơi thì cày cạn, nơi thì bừa sâu.

nhưng cơm không lành, canh không ngon, hoặc gặp thất bại, người ta oán trời:
 -- Không phải tại em cũng không phải tại anh
Tại Trời xui khiến nên chúng mình  xa nhau....


-Trời ơi, Trời ở không cân,
Kẻ ăn không hết, người mần không ra.
-Trẻ Tạo hóa đành hanh quá đáng,
Giết chết người trên cạn mà chơi!( Cung Oán)

Nói chung, trừ người cộng sản, đa số con người đều tin mọi sự tốt xấu, thành bại trong đời là do Thượng Đế gây ra::
-Quyền họa phúc, Trời giành tất cả,
Chút tiện nghi chẳng trả phần ai.
Cái quay búng sẵn trên trời,
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm (Cung Oán)
-Trời làm một trận gió trăng,
Ông lộn xuống thằng, thằng trở nên ông.
-Trời làm một trận mây mù,
Thằng khôn đi học, thằng ngu làm thầy.


Cứ cho rằng " Muôn sự tại Trời "đi. Nhiều thầy, nhiều sách nói rằng " Thiên cơ bất khả lâu" nghĩa cơ trời bí mật, không thể tiết lộ. Tuy nhiên các thầy chuyên nghề sờ mu rùa vẫn tuyên bố rằng họ được thượng đế mặc khải, thánh thần ứng nhập., họ có  tài thượng tri  thiên văn, hạ thông địa lý cho nên họ tuyên bố nhiều điều.

 Việc quá khứ đã qua không nói nữa. Chỉ nói việc hiện tại. Nhìn qua nước Trung Hoa cộng sản, nhiều  thầy chuyên sờ mu rùa nói rằng điềm trời đã báo trước Trung Cộng lâm nguy, có thể bị tận diệt. Nhìn qua trong tháng 7 và 8 năm 2015, thị trường chứng khoán của Trung Cộng đã sut giá liên tiếp.

 Kết thúc ngày hoạt động hôm nay, 18/08/2015, sàn giao dịch Thượng Hải bị mất 6% điểm. Đây là mức giảm lớn nhất kể từ ba tuần qua phản ảnh tình trạng bất cập của nền kinh tế Trung Quốc,
http://vi.rfi.fr/chau-a/20150818-thi-truong-chung-khoan-trung-quoc-roi-6

Thị trường chứng khoán Thượng Hải : hôm nay trượt dài đến 8,5%. Đây là sự xuống dốc nặng nề nhất kể từ 8 năm qua, xóa đi tất cả những lợi tức đạt được từ đầu năm đến nay. Thị trường chứng khoán Thâm Quyến, đứng hàng thứ hai tại Trung Quốc, mất 7,61% kéo theo Hồng Kông sụt 4,64%.http://vi.rfi.fr/chau-a/20150824-kinh-te-trung-quoc-lao-doc-chung-khoan-do-san-tu-a-sang-au-my

Thị Trường Chứng Khóan Hoa Lục sụp đổ tại Thượng Hải và Shenzen, khoảng 200 triệu người Hoa Lục chơi stock bị phá sản, nhiều ngân hàng đóng cửa.
 Ngày 25-8, chỉ số chứng khoán lớn nhất Trung Quốc là Shanghai Composite tiếp tục lao dốc 7,63%, mức giảm tồi tệ nhất trong gần 20 năm qua....
Báo Chứng Khoán Trung Quốc cho biết chỉ số chứng khoán lớn nhất nước này là Shanghai Composite đã giảm 7,63% trong phiên đóng cửa cuối ngày. Chỉ số này mất thêm 244,94 điểm, đứng ở mức 2.964,97 điểm. Shanghai Composite đã giảm tổng cộng 8,16% chỉ trong hôm qua và 42% tính từ ngày 12-6 đến nay.
Theo giới chuyên gia, mốc 3.000 điểm là mốc rất quan trọng đối với nhà đầu tư. Nếu chứng khoán rớt xuống dưới mức này sẽ gây hoảng loạn, dẫn đến hiện tượng bán tống bán tháo cổ phiếu. “Chưa rõ chất xúc tác nào làm tan chảy thị trường chứng khoán toàn cầu.
 http://tuoitre.vn/tin/kinh-te/20150826/chung-khoan-trung-quoc-lai-giam-manh/958428.html

Cơn bão đỏ” của thị trường chứng khoán sau ngày 12-6 đến nay đã khiến túi tiền giới tỉ phú giàu nhất Trung Quốc bốc hơi gần 800 triệu USD. Tổng thiệt hại trong sáu tháng đầu năm 2015 của giới tỉ phú Trung Quốc do giá cổ phiếu giảm lên đến 34 tỉ USD.
Nhiều người vừa được tạp chí Hồ Nhuận (Trung Quốc) và Forbes (Mỹ) xếp hạng giàu nhất Trung Quốc và thế giới cũng đã mất ngôi vị. Báo Chứng Khoán Trung Quốc cho biết một trong số này là tỉ phú Vương Kiện Lâm.


Tính đến ngày 14-7, tài sản của nhà sáng lập tập đoàn đầu tư bất động sản và chuỗi rạp chiếu phim The Dalian Wanda Group đã mất khoảng 661 triệu USD. Cổ phiếu của Wanda Cinema Line niêm yết ở thị trường Thâm Quyến liên tục giảm giá trước khi tạm ngưng giao dịch vào ngày 8-7.
Thiệt hại nặng nề nhất là nữ tỉ phú giàu nhất Trung Quốc Chu Quần Phi. Tài sản cá nhân của bà đã mất khoảng 4,8 tỉ USD sau khi cổ phiếu của tập đoàn chuyên sản xuất mặt kính đồng hồ và kính điện thoại Lens của bà lao dốc đến 36%, chỉ sau ba tháng niêm yết trên thị trường.
Nhà sáng lập trang bán hàng trực tuyến hàng đầu Trung Quốc Alibaba, tỉ phú Mã Vân (Jack Ma) cũng không ngoại lệ khi tài sản của ông bốc hơi khoảng 123 triệu USD sau khi cổ phiếu loại A của Alibaba tuột dốc không phanh ngày 7-7.


Người đứng đầu tập đoàn bán hàng trực tuyến khổng lồ ở Trung Quốc JD.com, tỉ phú Lưu Cường Đông cũng “đứng hình” khi mất khoảng 344 triệu USD.
Sự nổi tiếng của các minh tinh màn bạc Trung Quốc cũng không giúp gì cho họ trong canh bạc thị trường. Thiệt hại nặng nề nhất là “con chim én nhỏ Tiểu Yến Tử” Triệu Vi. Tài sản của cô mất khoảng 570 triệu USD.


Triệu Vi sở hữu 1,93 tỉ cổ phiếu của Công ty điện ảnh Alibaba Pictures niêm yết tại thị trường chứng khoán Hong Kong và 1,7 triệu cổ phiếu trong Công ty điện ảnh quốc tế Talent ở Bắc Kinh.
“Hoa đán” Chương Tử Di mất khoảng 60,6 triệu USD khi số cổ phiếu của Công ty Vạn Đạt niêm yết ở thị trường Hong Kong lao dốc. Hãng tin Tân Hoa xã cho biết chỉ trong hai tháng, nữ nghệ sĩ Phạm Băng Băng đã chịu thiệt hại khoảng 100 triệu nhân dân tệ do giá cổ phiếu giảm.
Tài sản của vị hoàng đế trong phim “tể tướng Lưu gù” Trương Quốc Lập cũng hao hụt 120 triệu nhân dân tệ.
http://tuoitre.vn/tin/the-gioi/20150715/nuoc-mat-chung-khoan-trung-quoc/777648.html


Theo Reuters, trong chỉ số chứng khoán CSI300 tại sàn giao dịch Thượng Hải và Thẩm Quyến sụt 4,8%, chỉ số Shanghai Composite giảm 3,9%. Hôm nay có hơn 500 công ty tuyên bố ngừng giao dịch cổ phiếu. Như vậy đã có tổng cộng 1.300 công ty, tương đương 45% thị trường, ngừng giao dịch cổ phiếu.

Thị trường chứng khoán Trung Quốc tiếp tục đảo lộn bất chấp các nỗ lực can thiệp của chính phủ, bao gồm việc cho phép các công ty bảo hiểm đầu tư mạnh vào chứng khoán và một chương trình mua cổ phiếu của các công ty nhỏ.

Cũng trong hôm nay, thị trường Hong Kong sụt giảm 4,2%, Tokyo (Nhật) hạ 1,52%. AFP dẫn lời chuyên gia Zheng Ge của Hãng Wanda Futures nhận định ngoài cuộc khủng hoảng Hi Lạp, chấn động từ thị trường Trung Quốc cũng đang lan sang các thị trường khu vực.
Tính từ giữa tháng 6, thị trường chứng khoán Trung Quốc đã sụt giảm tới 30%. Mới đây Ngân hàng Bank of America Merrill Lynch cảnh báo tình trạng đảo lộn thị trường có thể đẩy nền kinh tế Trung Quốc rơi vào cảnh bất ổn.
 http://tuoitre.vn/tin/kinh-te/20150708/gan-1300-cong-ty-ngung-giao-dich-co-phieu-tai-trung-quoc/774333.html
VietPress USA (25-8-2015): Thị trường Chứng Khoán Thượng Hải của Trung Quốc (TQ) hôm nay Thứ Ba 25-8 mở màn đã bị rớt tuột tới 7.63%. Tính từ ngày 21-8 đến hôm nay 25-8-2015, Thị trường Chứng khoán tại Thượng Hải là trung tâm lớn nhất của TQ đã rớt mất -699.42 điểm, tức mất giá tới -19.08%. Đây là thời đen tối nhất của Con Sư Tử TQ sau khi công bố thành lập Ngân
Chỉ 3 ngày sau khi ra mắt Ngân hang AIIB, hôm 03-7-2015, TQ đã bị mất trắng USD 2.400 Tỷ và một đợt khác mất thêm USD 1.200 Tỷ mà TQ không biết rõ lý do tại sao! Kể từ đầu tháng 7-2015 đến nay, Thị trưởng Chứng khoán của TQ gần như suy sụp không gượng lên được nên buộc lòng TQ phải liên tục phá giá đồng Nhân dân Tệ để cứu các ngành kinh doanh sản xuất. Nhưng càng cứu càng chết cho đến ngày hôm nay Thứ Ba 25-8-2015 thì sàn giao dịch Chứng khoán lớn nhất của TQ tại Thượng Hải đã sụt xuống thêm -7.63%.

Ngoài ra Trời còn giáng tai ương liên tiếp. Những vụ nổ Thiên Tân., Sơn Đông. Giang Tô...-
(Những vụ nổ khu công nghiệp, nhà máy kinh hoàng ở Trung Quốc. khu-cong-nghiep-nha-may-kinh-hoang-o-trung-quoc-620072.htm

 Biết đâu nay mai còn có giặc giả nổi lên, sóng thần, động đất, cháy rừng, cháy hãng xưởng liên tiếp nhiều nơi , bệnh dịch, mất mùa, các đập Thủy điện, các kho hỏa tiễn, hạt nhân nổ tung,  lửa cháy, nước tràn ngập cà nước Trung Hoa cộng sản...

Ngày xưa, hễ có tai họa vừa xảy ra, các vua chúa phải ăn chay niệm Phật, cầu khẩn Trời Phật ban ân phước. Quan trọng nhất là các vua chúa phải hối lỗi, sửa mình, bãi bỏ những chính sách phản dân, hại nước thì may ra Trời, Phật ngó lại. Trái lại, nếu cứ hung hăng, tự cao, tự đắc, khinh Trời Phật, cứ tàn ác với nhân dân trong nước, ức hiếp các lân quốc bé nhỏ, và  láo xược với thế giới thì  Trời và Người sẽ trừng trị thích đáng.

Ngày nay, Trời Phật đã nghiêng về phe dân chủ, tự do. Miến Điện, Cuba đã đổi chiều. Mong mỏi Tập Cận Bình và bè lũ cộng sản Trung Hoa và thế giới mau mau tỉnh ngộ.



____

CHÚ THICH

[1]. ( Thiên hà ngôn tai, tứ thời hành yên, vạn vật sinh yên, thiên hà ngôn tai? 子 曰: 予 欲 無 言. 子 貢 曰: 子 如 不 言, 則 小 子何 述 焉? 子 曰: 天 何 言 哉, 四 時 行 焉, 萬 物 生 焉, 天 何言 哉 ? (Luận ngữ, XV)
[2].Thượng thiên chi tải, vô thanh vô xú… 天 之 載, 無 聲 無 臭 (Kinh Thi, Đại Nhã tam, Văn Vương chi thập tam chi nhất.)



NGUYỄN THIÊN THỤ * TIỂU THUYẾT ÁI TÌNH CỦA NHÃ CA




TIỂU THUYẾT  ÁI TÌNH CỦA NHÃ CA
Nguyễn Thiên Thụ


Tiểu thuyết ái tình của Nhã Ca khác với các tác giả nữ đồng thời:
-Nội dung tình yêu của Nhã Ca là tình học trò, tình của người con gái mới lớn e ấp thẹn thùng và mơ mộng. Các nhân vật của Túy Hồng, Thụy Vũ, là các ca sĩ, chiêu đãi viên và me Mỹ,  một số là học sinh, thầy giáo, ông già... ở Saigon và các tỉnh. chủ yếu là tình dục.
-Bối cảnh của tác nữ tác giả khác là vũ trường, snack bar còn bối cảnh của Nhã Ca là gia đình và nhà trường. Đặc biệt bối cảnh của Nhã Ca là Huế.(Tình ca cho Huế đổ nát,Truyn Cho Những Tình Nhân ,Đêm nghe tiếng đại bác;Liêu Trai Huế ...)
Huế là một thành phố cổ, có nhiều cảnh trí thiên nhiên, đa số gia đình đều có vườn hoa. Các thiếu nữ lớn lên trong tình thương của cha mẹ và sự bao bọc của thiên nhiên. Dù mùa thu đã vàng võ, những ngày xanh của chúng tôi vẫn còn vô tận ....Không có tuổi nào đẹp bằng tuổi trăng tròn. (Cổng Trường Vôi Tím -ChươngI).. Nàng tưới cây xong, ngồi xuống một hòn đá ở cuối vườn, bên cây bại hoại. Hoa bại hoại nở bốn mùa, hương hoa này ngan ngát, cánh dày, đài như múi mít, màu vàng xanh. Những đêm trăng sáng, mở cửa sổ cho ánh trăng tràn ngập đầy phòng. Đông Nghi thường nằm thẳng, ngửa mặt nhìn những bóng lá cây lay động chiếu lên tường, mũi nàng nở lớn, bít đầy lồng phổi mùi hương hoa bại hoại. Mùi thơm ngọt lịm thấm vào tận tim gan, làm nàng ngây ngất, chân tay bải hoải như bị mùi hương làm cho tê liệt không cất lên được nữa.
Những lúc như thế, Đông Nghi thấy đầu óc nàng đê mê, không còn chân tay, không còn mặt mũi, chỉ còn bộ óc tê lịm trong mùi hương ngọt ngào. Và nàng cảm thấy mình tan biến hòa hợp trong ánh trăng xanh, nhảy múa trong ánh trăng xanh tràn trên gối, trên đỉnh màn, trên tủ áo. Còn nữa chứ, làm sao tinh tế để nhận ra những mùi hương khác như hương hoa nhài, hương hoàng lan, hương khế, hương sầu đông, hương hoa thanh trà, hoa bưởi.( Mưa Trên Cây Sầu Đông)
Phần lớn truyện  của Nhã Ca lấy khung cảnh nhà trường với đời sống vui tươi, thơ mộng của tuổi học trò ( Cổng Trường Vôi Tím, Bước khẽ tới người thương , Hoa Phượng Đừng Đỏ Nữa... )
 Tiểu thuyết của Nhã Ca cũng là tiểu thuyết tâm lý, nói lên tâm trạng  hồng của các nữ sinh Huế, con gái Huế và tâm lý xã hội Huế.
 Con trai, con gái Huế lớn lên trong tình yêu gia đình, sống với những hoa viên gia đình. với sông Hương, núi Ngự, chùa chiền, lăng tẩm, với trường học. Quan trọng nhất là sống trong một khung cảnh gò bó, kỷ luật của gia đình và xã hội. Trai gái phần đông không dạn dĩ. Họ không dám công khai tỏ tình yêu. Ra đường không dám đi sánh đôi bên nhau. Gái Việt Nam khó khăn nhất thế giới
( ngoại trừ một số nàng xã hội chủ nghĩa), mà gái Huế là đĩnh cao của con gái Việt Nam.. Ở một thành phố nhỏ, chuyện gì người ta cũng biết. Trong nhà chưa rõ, ngoài ngõ đã hay... Ăn nói câu gì cũng sợ thiên hạ cười, ngồi đứng không ngay ngắn cũng thiên hạ cười, đi chung với bạn trai cũng thiên hạ cười. Tôi thù ghét cái thiên hạ này lắm. Thiên hạ, thiên thượng chỉ là một lũ người lắm chuyện. Làm sao để sống hết mình, để thoải mái, sung sướng biết bao.....Thiên hạ ảnh hưởng đủ thứ, từ gia đình, ở trong học đường, ngoài đường phố. Con mắt thiên hạ đông vô kể.[...]. Đông Nghi liếc khẽ qua vành nón, nàng nhìn thấy Vinh đã bước kịp mình. Đông Nghi không biết mình nên bước mau hay dùng dằng đứng lại. May mắn, quãng đường vắng người và cũng vì sự vắng vẻ đó làm Nghi e ngại. Giọng Vinh bắt đầu làm quen:
- Nghi đi học về?
- Dạ....[...].Câu chuyện chỉ được tới đó rồi im lặng. Đông Nghi vừa sợ có người bắt gặp cảnh nàng đi song song với Vinh ngoài đường, vừa vui mừng vì câu chuyện mà nàng ước muốn đã bắt đầu có hình dạng. Chuyện Vinh theo đuổi nàng, cả Huế đều biết, nhưng chỉ mới biết về phía Vinh. Đông Nghi không bao giờ phát biểu một câu về đề tài này.[...].Đông Nghi không khỏi giật mình [....].Vinh như đoán được ý người con gái, chàng đi lùi lại vài bước. May mắn, vừa lúc đó, đằng xa, hai ba cậu con trai đạp xe đạp ngược tới, thấy Vinh, họ cười cười rồi khi đã bỏ xa một đoạn, cả Vinh và Đông Nghi nghe tiếng họ cười cười, nói nói. Đông Nghi đỏ bừng mặt, chân nàng như muốn ríu lại, rồi không hiểu sao, Đông Nghi quay lại nhìn Vinh như cầu cứu. ( Mưa Trên Cây Sầu Đông I)
Trai gái Huế thường rủ nhau lên chùa Thiên Mụ lễ Phật và dạo cảnh, hoặc lên núi Ngự Bình ngắm trời mây và ăn bánh bèo. Họ không dám công khai đi bát phố hoặc vào rạp ciné.
 Buổi đi chơi núi cũng chả có gì hết. Hai người đưa nhau lên núi cao, ngồi nhìn thành phố, những lời nói vu vơ. Một cái nắm tay ngập ngừng và buông thả vội vả. Có vậy thôi sao? Nhưng nếu thành phố thấy hai người đi như thế, họ sẽ nghĩ sao và bao nhiêu chuyện ghê gớm sẽ được dựng lên trong đầu óc họ. Làm thế nào cho vỡ ra, cho hủy diệt hết những thành kiến đó.
Huế là một cố đô, một trung tâm văn hóa nhưng thực ra là một tỉnh nhỏ, mọi người quen biết nhau, nghe tên tuổi nhau và rất soi mói đời tư của nhau. Luân lý khắc nghiệt, xã hội cay độc, dư luận tàn ác đã giết chết nhiều người.
Đông Nghi nhớ tới cô bạn thân năm Đệ Lục, chỉ vì lời đồn đại dám gửi thư tán một ông thầy đã ức lòng tự tử chết. Cái chết của nó đã giải tiếng oan cho nó được năm ba tháng rồi cũng quên đi. Chỉ tội nghiệp cho cha mẹ nó khóc con, thương nhớ con một đời. Đông Nghi nghĩ tới hoàn cảnh của mình. Mẹ nàng chắc sẽ xấu hổ đến chết được nếu nàng bị một tai tiếng nào đó. ( Mưa Trên Cây Sầu Đông I)
 Đông Nghi nhớ lại câu chuyện của một cô bạn học cùng lớp. Cô bạn mồ côi cha, ở với mẹ, rồi tự nhiên mẹ nó có bầu. Cả lớp không ai làm thân với nó. Nó đi học không dám cất mặt nhìn ai, rồi vì xấu hổ quá, con nhỏ bỏ nhà đi mất. Bà mẹ nó ở lại một thời gian, không chịu nổi miệng tiếng và sự hất hủi của bà con, cũng phải bỏ xứ mà đi. Bỏ xứ mà đi cũng không yên nữa. Lâu lâu Nghi nghe tụi bạn nói: Mi biết má con Thuận chừ làm chi không? Nghi chưa kịp hỏi, chúng đã nói: Làm gái giang hồ. Nhiều khi Đông Nghi thấy chuyện vô lý, hỏi tụi bạn làm sao biết được tin đó, chúng nó cũng bảo nghe người ta nói lại. Đó, cái miệng người ta sắc bén như rứa đó. Lời nói giết người không cần gươm dao mà. Rồi đây mạ cũng rứa, đố chạy đi mô cho khỏi.( Mưa Trên Cây Sầu Đông II)
Ngoài tình yêu của lứa tuổi học trò, Nhã Ca còn viết về những mối tình khác. Đó là tình yêu của trẻ con, hai cô cậu hàng xóm mến nhau, có tình cảm với nhau, một thứ tình câm (Bước khẽ tới người thương ).
Nhã Ca cũng đề cập đến  tuổi trẻ, rất trẻ vì ghen tuông mà làm chết chị ruột mình (Đêm Dậy Thì).
Tiểu thuyết của Nhã Ca cũng là tiểu thuyết xã hội có dính đến tình dục. Đó là truyên "Con Bần", một tớ gái xinh đẹp bị con trai cậu chủ yêu thương cưỡng ép rồi mang thai, bị bà chủ và cô chủ tra tấn, hành hạ, may nhờ cậu chủ tháo cũi sổ lồng. Sau cả hai gặp nhau tại Mỹ. Con Bần biết là đã có mang với cậu chủ. Nó sợ lắm. Mỗi ngày ra gính nước giếng, nó gặp nhiều con ở khác, kể nhiều chuyện. Con Cau, cũng bị ông chủ làm có mang, bà chủ đánh đập quá, chịu không thấu đã thắt cổ tự tử trong nhà bếp. Con Mực không biết chửa hoang với ai, bị chủ nhà đuổi ra đường, vác cái bụng đi ăn mày, mùa đông, chết cóng trước cửa nhà người ta...Nó lo sợ và chờ những giờ giếng nước vắng hoặc ít người, nó mới ra thả gàu kéo nước. Múc nước lên mà nước mắt của nó rơi tong tong xuống giếng. ... ( Con Bần)

Tiểu thuyết ái tình của Nhã Ca có sắc thái đặc biệt, nó không chạy theo hiện sinh và tình dục như các nữ văn sĩ đương thời. Nhìn chung, Nhã Ca là một con người yêu nước, có ý thức chính trị cao và là một nhà văn đa tài, đa năng có nhiều đóng góp cho văn học Việt Nam.
(Trich VIỆT NAM VĂN HỌC SỬ TOÀN THƯ của Nguyễn Thiên Thụ-sẽ xuất bản) 

No comments: