HỮU LOAN * CŨNG NHỮNG THẰNG NỊNH HÓT
CŨNG NHỮNG THẰNG NỊNH HÓT
Hữu Loan
(Sau khi đọc bài: “Những thằng nịnh hót” của Maiakovski)
Dưới thời kỳ Pháp thuộc
Những thằng nịnh hót nghênh ngang
Lưng rạp trước quan Tây
Bắc vợ như thang
Chân trèo lên danh vọng
Đuôi vợ chúng đi
Lọt theo đầu chúng
Bao nhiêu nhục nhằn
Nhục mất nước muôn phần
Nhục cùng đất nước với những thằng nịnh hót
Một điều đau xót
Trong chế độ chúng ta
Trong chế độ Dân chủ Cộng hoà
Những thằng nịnh còn thênh thang đất sống
Không quần chùng, áo thụng
Không thang đàn bà
Nhưng còn thang lưng thang lưỡi
Những mồm không tanh tưởi
Ngậm vòi đu đủ
Trợn mắt phùng mang
Thổi vào rốn cấp trên
“Dạ, dạ, thưa anh…
Dạ, dạ, em, em…”
Gãi cổ gãi tai:
"… anh quên ngủ quên ăn nhiều quá!
Anh vì nước vì dân hơn tất cả từ trước đến nay"
Chân xoa và xoa tay,
Hít thượng cấp cứ thơm như múi mít
Gọi như thế là phê bình cấp trên kịch liệt
Gặp cấp trên chủ quan
Mũi như chim vỗ cánh
Bụng phềnh như trống làng
Thấy mình đạo đức tài năng hơn tất
Như thế là chết rồi:
Quân nịnh tha hồ lên cấp
Như con gì nhà gác lên thang
Còn muốn lên thủ trưởng cơ quan
Còn đi đây đi đó
Lưỡi và lưng
Lắm thằng gian khổ
Chúng nó ở đâu:
Thối thóc thuế
Mục kho hàng
Phong trào suy sụp
Nhân dân mất cắp đang giữa ban ngày
To cánh và to vây
Những ai không nịnh hót
Đi, mang cao liêm sỉ con người
Chúng gieo hoạ, gieo tai
Kiểm thảo hạ tằng
… Còn quy là phản động!
Có người đã chết oan vì chúng
Vẫn thiết tha yêu chế độ đến hơi thở cuối cùng.
Nguy hiểm thay,
Thật khó mà trông:
Chúng nó nguỵ trang
Bằng tổ chức bằng quan điểm nhân dân
Bằng lập trường chính sách
Chúng nó còn thằng nào
Là chế độ ta chưa sạch
Phải làm tổng vệ sinh cho kỳ hết mọi thằng
Những người đã đánh bại xâm lăng
Đỏ bừng mặt vì những tên quốc sỉ
Ngay giữa những thời nô lệ
Là người, chúng ta không ai biết cúi đầu.
Hữu Loan
9-1956
(Trích Giai phẩm mùa Thu tập II)
NGUYỄN THỊ KIM THOA * VỸ DÃ
Vỹ Dạ chợ – Vỹ Dạ vườn
– Vỹ Dạ thơ
Nguyễn thị Kim Thoa
– Vỹ Dạ thơ
Nguyễn thị Kim Thoa
Trước khi viết những dòng
ký ức này, tôi không có ý
định làm một đối sánh giữa
Vỹ Dạ xưa và Vỹ Dạ nay. Tôi
chỉ muốn ghi chép lại những gì
tôi đã quen biết về các thứ
cây trồng trong vườn nhà tôi và
những vườn nhà khác thuộc khu
vực Vỹ Dạ trước 1975 để giúp
những ai trong các độc giả đời
sau muốn biết về một khía cạnh
đã góp phần làm cho một làng
đã một thời đi vào tâm hồn
của một nước.
Nhưng khi nghĩ lại cái tựa
đề đã viết, tức thì sự
đối sánh xưa - nay hiện ra trước
mắt tôi như hai cực ở hai đầu
cuộc đời mình. Đầu kia là
ký ức với những năm tháng sinh
thành của một người nữ trẻ
giữa một Vỹ Dạ vườn với
những thăng trầm của cuộc sống: có
vui, có buồn, có đau khổ, có
hạnh phúc, có tự hào hãnh
diện, có tự ti xấu hổ, có hy
vọng, có tuyệt vong… Đầu này
duy chỉ có nhức nhối – nhức nhối
– nhức nhối trước một Vỹ Dạ
chợ đang phát triển như một cái
bướu ngày một to, một nặng trước
trán, trên lưng của tuổi già.
Cảm nhận như thế tôi không
hề có ý định bài bác
“chợ” như một khâu không thể
thiếu trong nền kinh tế thị trường
chính danh mà thương mãi được
xem là bộ máy tuần hoàn vận
chuyển “máu” theo nhu cầu của
mọi cơ phận lớn nhỏ khác nhau của
một cơ thể sống (xã hội) bình
thường và lành mạnh.
Thời nhỏ đã nhiều lần
tôi đi chợ Vỹ Dạ để bán
những thứ thu nhặt từ trong vườn
và để mua các thứ mình cần
hoặc theo lời dặn của mẹ, của
chị.
Con buôn trong nền văn hóa quan
lại trọng sĩ đã bị đánh
giá thấp nhất trong hệ thống giá
trị xã hội bấy giờ (sĩ - nông
- công - thương). Nhưng con buôn tại
chợ Vỹ Dạ mà tôi đã giao
tiếp không hoàn toàn là “một
lũ thương nhân đa trá”. Họ
đã để lại trong ký ức những
ngày thơ dại của tôi những dấu
ấn đẹp đẽ mà khi lớn lên
tôi gọi là văn hóa: Không mua rẻ
bán đắt, không trao hàng giả
hàng xấu, tôm thúi cá ương
cho trẻ con, người già, phụ nữ
mang bầu và đàn ông (có vợ
đẻ) đi chợ.
Ngày nay nhìn bề ngoài cái
chợ vốn là một phần của Vỹ
Dạ xưa vẫn còn đó, trông có
vẻ còm cõi chịu đựng giữa
một Vỹ Dạ đổi thay đã ồ
ạt và đang lăm le “chợ hóa”
bất cứ nơi nào có thể. Đường
phố mở to, khách sạn cao tầng sang
trọng, nhà hàng hoành tráng phô
trương, khu vui chơi giải trí xập
xình chấp chới ồn ào náo
nhiệt, cà phê đèn mờ, phòng
mát xa, quán ca ra ô kê, tiệm thời
trang, tiệm hớt tóc và những căn
nhà hình ống mới xây trên những
mảnh vườn đã cắt xé ra từ
mặt bằng vườn xưa.
Một Vỹ Dạ như thế là
niềm thỏa thuê của những ông chủ
mới, những cán bộ đảng viên
quyền chức, là khách “víp”
thường xuyên của các doanh nghiệp
chân rết của nền kinh tế thị
trường. Những đại diện cho thượng
đế thời này đã đến đây
sau những giờ lãnh đạo, họp hành,
lên lớp, vạch chương trình kế
hoạch mệt mỏi ở công đường.
Với những thức ăn đồ uống cầu
kỳ quí hiếm, cường dương, bổ
thận, bên những cô gái ngực nở
chân dài, họ có toàn quyền và
trọng trách phục hồi sức lực để
ngày mai tiếp tục lãnh đạo tỉnh
thành và cả đất nước đi
theo con đường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường – định
hướng xã hội chủ nghĩa. Phương
tiện và mục đích. Mục đích
biện minh cho phương tiện. Mục đích
tốt (xã hội chủ nghĩa) nên tất
cả các phương tiện dù xấu
đến đâu cũng đều tốt cả,
trong đó có sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa cái đê tiện gian ác
nhất của kinh tế thị trường và
bạo lực cùng hung cực ác của
cách mạng Xã hội chủ nghĩa.
Ngăn sông cấm chợ để
tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc
lên Xã hội Chủ nghĩa là ác
đỉnh cao. Quá khiếp hãi cái ác
này, con em của Vỹ Dạ vườn đã
bỏ mặc hay bán tháo bán đổ
cơ nghiệp của tổ tiên, đã bỏ
làng bỏ nước trốn chạy thoát
thân, tha phương cầu thực. Đó
là lần thứ nhất Vỹ Dạ xưa
thay ngôi đổi chủ, hoặc chia cắt,
chặt đốn cây vườn.
Kinh tế thị trường – định
hướng xã hội chủ nghĩa là
ác quán mãn doanh. Đến cái ác
thứ hai này thì Vỹ Dạ mới thực
sự đổi đời. Vườn biến
thành chợ, người làm chủ chợ
(đảng Cộng sản) biến thành con
buôn. Và mọi thứ trên Vỹ Dạ,
trên Thừa Thiên Huế, trên đất
nước từ đất đai, rừng biển,
đến con người đều trở thành
hàng hóa, bất kể trẻ em, người
già, phụ nữ mang bầu, người bệnh
tật và cả đến người chết
(như chủ tịch Hồ Chí Minh và
hàng triệu anh hùng liệt sĩ đã
hy sinh vì đất nước). Tất cả
đều là hàng hóa, đều là
đối tượng kinh doanh. Bọn thương
nhân “đa trá” là chủ nhân
ông của nền kinh tế tư sản phản
động, một thời không đội trời
chung, nay trở thành đồng nghiệp phải
ngả mũ chào thua các đối tác
cộng sản. Thua ở cái đầu tối
tăm đa trá. Thua ở cái bụng chất
chứa tham lam trương phình.
Tôi không phải là người
hiếu cổ để mãi thương tiếc
một Vỹ Dạ xưa không còn lý
do để tồn tại và phát triển
từ nguyên trạng. Nhưng cưỡng bức
Vỹ Dạ đi theo con đường kinh tế
thị trường – định hướng
xã hội chủ nghĩa kiểu này là
cắt lìa nguồn mạch quá khứ vốn
là một phần của Thừa Thiên Huế
di sản.
Để Vỹ Dạ nay được
cứu chữa phần nào trước khi nó
hoàn toàn biến mất, để độc
giả đời sau nhận biết một thời
Vỹ Dạ có vóc dáng như thế,
như thế… Và cũng để đính
chính những sáng tác hoàn toàn
thiếu căn cứ của một số tác
giả cho rằng: “Vỹ Dạ có bến
đò rợp bóng dừa xanh”, “Vỹ
Dạ có những hàng rào dâm bụt
thẳng tắp”, “Vườn Vỹ Dạ
không trồng cau vì chủ nhân vườn
Vỹ Dạ ngại con cháu gái của
mình bắc chước “con gái Năm
Phổ (mà) ở lỗ trèo cau.”(1),
tôi xin ghi lại những gì tôi biết
và vài cảm nhận về Vỹ Dạ.
Làng Vỹ Dạ được tạo
lập trên cánh đồng lau lách (vi
dã) mấy trăm năm trước bởi
các cư dân đồng bằng Bắc Bộ
và bắc Trung Bộ theo chân Công chúa
Huyền Trân Nam tiến, và sau này, các
vương tôn công tử đa phần là
con cháu vua Minh Mệnh, các thượng
thư, quan lại cao cấp trực thuộc triều
Nguyễn và Tôn nhơn phủ thuộc dòng
họ Nguyễn Phước – là dòng
họ có công đầu trong công cuộc
mở cõi, thống nhất đất nước
và xây dựng kinh đô Huế. Là
một bộ phận của vương triều,
người Vỹ Dạ còn chia phần nỗi
cay đắng nhục nhã khi vương triều
bị Pháp đánh bại, phải đầu
hàng, để rồi trở thành triều
đình An Nam bị tướt hết quyền
lực, bị bảo hộ và trở nên
suy tàn.
Nằm ven sông Hương và sông
đào Như Ý, Vỹ Dạ tọa lạc
ở phía đông kinh thành, bên kia
Đập Đá. Người Vỹ Dạ
quay mặt về phía chính Tây bên
bờ bắc sông Hương để ngưỡng
vọng đế đô nơi hoàng đế
nhà mình đang ngự trị. Chẳng bao
lâu sau cái thời đoạn vinh quang tưởng
không bao giờ dứt ấy, người Vỹ
Dạ hướng tầm nhìn về phía
tây-nam qua sông Như Ý, để phải
thấy một tòa nhà cao tầng trông
như một pháo đài, đó là
tòa Khâm sứ Pháp uy nghi quyền lực
đứng sừng sững bên bờ nam sông
Hương trông chừng tứ phía.
Từ phía đông-nam, qua tây-bắc,
người Vỹ Dạ gặp gỡ trên
đường làng mình, giao tiếp, kết
bạn, làm thông gia, làm chính sự,
và làm thơ với một bộ phận
cư dân các làng Vân Dương,
Ngọc Anh, Lại Thế, Năm Phổ, và
Dương Nỗ – cũng xuất thân từ
triều đình và con cháu nội
ngoại dòng họ Nguyễn Phước.
Vỹ Dạ còn có một bộ
phận lãnh thổ nằm giữa sông
Hương gọi là cồn Hến hay Bồi
Thành. Từ Cồn Hến người Vỹ
Dạ nhìn qua bờ bắc sông Hương
thấy Gia Hội và Bãi Dâu.
Vị trí, đất đai, sông
nước có diện tích khoảng 2,2km2,
con người và lịch sử như thế,
nhưng từ xưa du khách chỉ biết có
một Vỹ Dạ với những “Vườn
ai mướt quá xanh như ngọc,” –
một thế giới cây cảnh, hoa lá và
tâm hồn của một bộ phận dân
cư trong các khu vườn nằm kề bên
nhau ở hai bên con đường cái duy
nhất dài trên 2km (trước 1975 gọi
là đường Thuận An, sau 1975 gọi là
Nguyễn Sinh Cung) chạy thẳng từ Đập
Đá đến nghẹo giàn xay cách
bờ sông Hương khoảng một trăm
mét phía tay trái, cách đồng
lúa hai, ba, bốn, năm trăm mét phía
tay phải tùy theo từng khúc đoạn.
Đoạn trên gọi là Vỹ Dạ
thượng, khúc dưới gọi là Vỹ
Dạ hạ.
Vườn Vỹ Dạ xưa đa phần
là vườn của các Mệ, các
Cụ. Ngoài ra còn có vườn chùa
và một số ít vườn của các
thành phần cư dân khác mua lại
của các gia đình quí tộc sa sút
chuyển cư, hoặc tạo lập nên từ
những mảnh đất ruộng nhỏ phía
đồng lúa.
Tôi sinh ra và lớn lên trong
thời nhà Nguyễn đã suy tàn và
cáo chung, nên vườn phủ chỉ có
nghe mà không được thấy. Tôi
chỉ biết và thấy được một
số vườn của các hoàng thân
quốc thích thế hệ Ưng, Bửu, Vĩnh
(cháu chắt đời thứ tư, thứ
năm của vua Minh Mạng) và một số
vườn khác của các cụ thượng
dòng Tôn Thất, Nguyễn Khoa.
Theo tiến sĩ Phan Thanh Hải, giám
đốc bảo tàng Huế, thời nhà
Nguyễn còn thịnh trị, trong và ngoài
thành cố đô có hàng trăm
phủ đệ, riêng Vỹ Dạ có trên
mười. Và vườn Vỹ Dạ là
không gian văn hóa, là bối cảnh
kiến trúc của các phủ đệ.
Tại Vỹ Dạ ngoài phủ Tuy Lý,
tiến sĩ Hải còn kể tên, nhưng
không cho biết vị trí và hiện
trạng của 13 phủ còn lại.(2).
Là cư dân Vỹ Dạ tôi
chỉ biết đại khái về phủ
Tuy Lý, ít biết hơn về phủ Kiến
An, nghe tên và chỉ biết vị trí
về một phủ thứ ba có tên là
Vy Dã chỉ còn một nửa trụ cổng.
Thời học tiểu học, tôi là
đứa mê thích hoa bướm, cây
cỏ, nên một mình hay cùng bạn
bè luồn lách theo các vườn Vỹ
Dạ từ thôn Hô Lâu xuống cầu
Ông Thượng, đến Lại Thế, Ngọc
Anh và một phần của thôn Năm Phổ.
Không có một vườn phủ nào
đúng nghĩa được lưu giữ
trong ký ức của tôi.
Phủ Tuy Lý
Đối với tôi có một
phủ Ba Cửa còn gần như nguyên vẹn
mặt bằng, nhưng nhà cửa, vườn
tược thì đã cũ kỹ, tiêu
điều hoang phế. Cái tên Tuy Lý
có vẻ mơ hồ, thỉnh thoảng mới
nghe người này, người kia nhắc
đến.
Phủ Ba Cửa, cái tên gọi
dân dã này là hình ảnh của
cái cổng có mái che to cao rêu phong
gồm ba vòm cửa đứng giữa một
hàng rào cây lá xiu vẹo khoảng
trăm mét mặt tiền. Phía trong cổng
và hàng rào là một mặt bằng
rộng, bức bình phong đổ nát rêu
phong, không còn bể cạn non bộ, chỉ
thấy mấy cây cau chơ vơ, mấy cây
sứ, mấy bụi tử vi, mấy bụi chuối
um tùm lâu ngày không ai chăm sóc.
Sân không ra sân, vườn hết là
vườn, lối đi chỉ còn lại vài
dấu chân… Tất cả chìm trong cây
cỏ hoang phế.
Căn nhà rường ba gian hai chái
là chính đường của phủ Tuy
Lý ngày xưa nay trở thành nơi
thờ tự đứng trơ trụi một
mình. Tiền đường, hậu tẩm và
các công trình phụ đã bị
dỡ bỏ từ lâu. Phía sau và hai
bên ngôi nhà thờ là một mặt
bằng rộng cỏ cây liu xiu hoang hóa.
Hồi chị Phùng Thăng còn sinh viên
về dưỡng bịnh một thời gian trong
ngôi nhà này, vài ba bốn lần
tôi xuống chơi với chị. Chị không
hề nói gì về giòng họ tổ
tiên mình. Chị chỉ kể chuyện
Phật và đọc thơ Đường
cho tôi nghe. Tôi biết, thuộc lõm bõm
năm ba bài thơ Đường một phần
nhờ chị trong những dịp này.
Phía sau xa ngôi nhà thờ có
mấy căn nhà gạch nhỏ cũ kỹ,
mái nửa ngói nửa tôn quay lưng
ra hàng rào, giao thông với bên ngoài
qua con đường xóm nhỏ. Mẹ con chị
Tôn nữ Thu Thủy (bạn của chị ba
tôi), người đẹp Vỹ Dạ một
thời và ông cậu thi sĩ Võ Ngọc
Trác cư trú tại một trong những
căn nhà đó. Hai mặt bên và
mặt sau của phủ Tuy Lý là hàng
rào cây xanh không kiên cố. Dân
ngụ cư ở bên kia con đường nhỏ
đã vạch cây lá vào đất
phủ trồng nơi này mấy luống rau,
nơi kia mấy hàng sắn, nơi nọ mấy
bụi chuối, giàn mướp… Phủ
Ba Cửa (Tuy Lý) trước 1975 theo kí ức
tôi là như thế.
Sau 1975 đất vườn hai bên và
phía sau bị cắt bán hay bị lấn
chiếm gần hết. Cả một xóm cư
dân mọc lên, ba mặt che khuất ngôi
nhà thờ và mảnh sân tiêu điều
phía trong cái cổng có ba vòm cửa
rêu phong không còn đồ sộ. Phủ
Tuy Lý một thời vang bóng nay chỉ còn
có như thế trên một mặt bằng
rộng vài ngàn mét vuông. Với
mặt bằng và dấu tích đó,
người Vỹ Dạ thời nay có thể
bảo tồn, tôn tạo thành một nhà
lưu niệm vị vương hầu đã
trọn đời trải nghiệm đau thương
cùng vận nước, đã lao đao
lận đận cùng thế sự thăng
trầm, một thi bá chủ soái tao đàn,
một vị hậu khẩn đồng thời là
gạch nối của một Vỹ Dạ đế
vương và một Vỹ Dạ dân dã.
Không bất cứ ai xứng đáng hơn
ông để người Vỹ Dạ đời
nay đặt tên cho con đường lớn
nhất đi qua làng mình.
Cổng phủ Tuy Lý (mới được
trùng tu), ảnh Nguyễn Khoa Phương 2013.
(D.Đ.: bấm chuột nút phải để xem khổ lớn)
(D.Đ.: bấm chuột nút phải để xem khổ lớn)
Bình phong phủ Tuy Lý (mới xây
dựng lại), ảnh Nguyễn Khoa Phương,
2013.
(D.Đ.: bấm chuột nút phải để xem khổ lớn)
(D.Đ.: bấm chuột nút phải để xem khổ lớn)
Nhà thờ phủ Tuy Lý (được
tu sửa sau 1975), ảnh Nguyễn Khoa Phương,
2013.
Phủ Vy Dã
Đối diện với vườn nhà
tôi (49 đường Thuận An cũ, nay là
75 Nguyễn Sinh Cung) là một dãy nhà
mặt tiền, cái nhô ra, cái thụt
vào so với lề đường. Ở giữa
các căn nhà hình ống lồi lõm
thiếu qui hoạch và thẩm mỹ ấy có
một cái trụ vôi và một nửa
vòm cổng còn sót lại. Trên nửa
vòm cổng thách đố với thời
gian và đe dọa thường trực sự
an bình cho người qua đường ấy
còn lại dấu vết của mấy chữ
nho đã loang lổ. Cái trụ đứng
đầu con hẻm nhỏ sâu vài trăm
mét dẫn đến căn nhà cấp bốn
xập xệ là chỗ ở của gia đình
ông Bửu Phát (nay đã mất). Ông
Bửu Phát và mấy người con có
những cái tên thật kêu: Nguyễn
phước Lý Ngân, Nguyễn phước
Lý Hoàng, Nguyễn Phước Lý
Chiêu.
Cả mấy cha con ông Bửu Phát trong bất cứ cơ hội nào đều tự khẳng định mình là hậu duệ của một vương phủ có tên là Vy Dã, là con cháu chính danh của một trong năm ba vị hậu khẩn của làng Vỹ Dạ. Trước 1975 nửa chiếc cổng vẫn còn. Sau 1975 tôi rời xa Huế, nay (2012) trở lại, nửa chiếc cổng đã bị dẹp bỏ, chỉ còn lại một mảnh tường đổ nát nằm sát vách một ngôi nhà mới xây. Tôi không biết tiến sĩ Phan Thanh Hải và viện bảo tàng Huế có xác minh không, và nếu có, xác minh như thế nào về một vương phủ chỉ được khẳng định với vài mấy cá nhân. Là hàng xóm của gia đình ông Bửu Phát, từ mấy chục năm, tôi không nghi ngờ gì về sự tồn tại trong quá khứ của một dinh cơ hoàn toàn có khả năng là một trong mấy vương phủ đầu tiên của Vỹ Dạ xưa.
Cả mấy cha con ông Bửu Phát trong bất cứ cơ hội nào đều tự khẳng định mình là hậu duệ của một vương phủ có tên là Vy Dã, là con cháu chính danh của một trong năm ba vị hậu khẩn của làng Vỹ Dạ. Trước 1975 nửa chiếc cổng vẫn còn. Sau 1975 tôi rời xa Huế, nay (2012) trở lại, nửa chiếc cổng đã bị dẹp bỏ, chỉ còn lại một mảnh tường đổ nát nằm sát vách một ngôi nhà mới xây. Tôi không biết tiến sĩ Phan Thanh Hải và viện bảo tàng Huế có xác minh không, và nếu có, xác minh như thế nào về một vương phủ chỉ được khẳng định với vài mấy cá nhân. Là hàng xóm của gia đình ông Bửu Phát, từ mấy chục năm, tôi không nghi ngờ gì về sự tồn tại trong quá khứ của một dinh cơ hoàn toàn có khả năng là một trong mấy vương phủ đầu tiên của Vỹ Dạ xưa.
Cái dinh cơ ấy khá lớn,
theo lời ông Bửu Phát, phía trên
(phía Đập Đá) tiếp giáp
với dinh cơ của cụ Ưng Thông, phía
dưới (phía Thuận An), tiếp giáp
với vườn nhà thượng thư Tôn
Thất Ngân, phía sau ra tận đồng
lúa, diện tích áng chừng vài
chục ngàn mét vuông, nay hoàn toàn
trở thành khu dân cư bàn cờ.
Một công trình nghiên cứu
nhỏ, một tiểu luận của một sinh
viên cao học, hay một bài báo dài
về các vương phủ đầu tiên
của Vỹ Dạ xưa là đề tài
gây thích thú cho những ai yêu Huế
lưu lạc bất cứ nơi nào trên
hành tinh. Cái trụ vôi, ngôi nhà
xập xệ của gia đình ông Bửu
Phát cũng hoàn toàn có khả
năng chuyển hóa một Vy Dã truyền
thuyết thành dấu tích một vương
phủ lịch sử – một sản phẩm,
một địa chỉ du lịch có chiều
sâu thay thế cho các loại hình du
lịch ăn xổi ở thì.
Phủ Kiến An
Nằm đầu thôn Hô Lâu,
hai mặt nhìn ra sông nước, một
mặt trông ra đường cái (nay là
đường Nguyễn Sinh Cung) ở đầu
Đập Đá, mặt thứ tư tiếp
giáp với vườn nhà Lai Huyền Lục,
Phủ Kiến An Vương có vị trí
đẹp nhất khu vực Vỹ Dạ và
có lẽ cả kinh thành Huế. Vị
vương hầu chủ nhân quyết định
không mở cổng chính ra đường
cái, mà mở ra con đường nhỏ
tự khai phá cạnh bờ sông.
Như thế là hướng nhìn của vương phủ tập chú về phía triều đình và hoàng tộc, hướng của quyền lực chính thống và huyết hệ. Mở cửa như thế còn để hòa nhập với sông Hương nhiều hơn, để cảm nhận cái mùi thơm vi tế lan tỏa, len ngấm từ đầu nguồn mỗi buổi tinh mơ, để chiêm ngắm những gợn sóng nhấp nhô lấp lánh hằng hà châu ngọc trong chiều tà, để chộp bắt cái màu tím Huế trên những ngọn núi xa trước buổi hoàng hôn, để đêm đêm thả hồn trên bến sông trăng, lắng nghe tiếng chuông chùa và giọng hò vang vọng trên sông nước, và cũng để lặng lẽ nhìn vẻ đẹp huyền ảo của ngọn đèn chài ẩn hiện trong mù sương khuya vắng.
Như thế là hướng nhìn của vương phủ tập chú về phía triều đình và hoàng tộc, hướng của quyền lực chính thống và huyết hệ. Mở cửa như thế còn để hòa nhập với sông Hương nhiều hơn, để cảm nhận cái mùi thơm vi tế lan tỏa, len ngấm từ đầu nguồn mỗi buổi tinh mơ, để chiêm ngắm những gợn sóng nhấp nhô lấp lánh hằng hà châu ngọc trong chiều tà, để chộp bắt cái màu tím Huế trên những ngọn núi xa trước buổi hoàng hôn, để đêm đêm thả hồn trên bến sông trăng, lắng nghe tiếng chuông chùa và giọng hò vang vọng trên sông nước, và cũng để lặng lẽ nhìn vẻ đẹp huyền ảo của ngọn đèn chài ẩn hiện trong mù sương khuya vắng.
Vỹ Dạ cái đuôi của
đêm ngắn, kéo dài đêm thêm
chút nữa để những vương tôn
công tử cũng là những thi sĩ, văn
nhân tận hưởng cái thú vui thanh
tao của cuộc phù hoa chóng tàn.
Nhưng đó là chuyện về sau khi vị
hoàng tử Nguyễn Phước Miên Trinh
trở thành Tuy Lý Vương và chủ
soái Tao đàn xây vương phủ
của mình với cái cổng ba vòm
cửa uy nghi bề thế như tôi đã
mô tả ở trên.
Cổng của phủ Kiến An Vương
thanh mảnh hơn cổng phủ Ba cửa nhiều.
Nó gồm hai cái trụ đỡ một
vòm cong ghi tên phủ bằng chữ Hán.
Tất cả được đắp tô bằng
những mô hình, họa tiết và hoa
văn chắc là phù hợp với tâm
thức của chủ nhân và thời đại
ông. Sự tàn phá của thời gian
và sự mù chữ Hán Nôm của
tôi và của chính người chủ
sau này, những dấu vết của Kiến
An phủ còn sót lại chẳng giúp
được gì để độc giả
có được một sự mô tả
đầy đủ và chính xác.
Ông Bửu Biên cháu đời thứ tư của vương phủ nay cũng chỉ là một thành viên của của khu dân cư ấy. Có khác chăng là sân nhà ông rộng rãi khang trang tươm tất hơn với những cây mai cổ thụ mà mỗi độ xuân về những bông hoa vàng rực làm sáng một khúc con hẻm nhỏ mở cửa ra đường Thuận An với những căn nhà hình ống. Căn nhà trệt có hiên bằng sáng sủa, tiện nghi hơn xây ngược hướng với ngôi nhà rường ba căn hai chái ông thừa tự mọt mối dột nát đã bị dẹp bỏ. Gia đình ông Bửu Biên đã quay lưng về phía tây để nhìn về phía bắc và mở cửa ra chợ.
Ông Bửu Biên cháu đời thứ tư của vương phủ nay cũng chỉ là một thành viên của của khu dân cư ấy. Có khác chăng là sân nhà ông rộng rãi khang trang tươm tất hơn với những cây mai cổ thụ mà mỗi độ xuân về những bông hoa vàng rực làm sáng một khúc con hẻm nhỏ mở cửa ra đường Thuận An với những căn nhà hình ống. Căn nhà trệt có hiên bằng sáng sủa, tiện nghi hơn xây ngược hướng với ngôi nhà rường ba căn hai chái ông thừa tự mọt mối dột nát đã bị dẹp bỏ. Gia đình ông Bửu Biên đã quay lưng về phía tây để nhìn về phía bắc và mở cửa ra chợ.
Mùa hè năm ngoái (2012) trong
chuyến về Huế gần nhất, tình cờ
gặp người em họ tên Văn từ Mỹ
về. Văn vai vế em, nhưng cùng trang lứa
với tôi, là giáo viên dạy sử
cấp ba, rất yêu nghề, yêu Vỹ Dạ
và sính văn thơ. Văn đã bỏ
làng, bỏ dạy, làm thuyền nhân
(vượt biên) vì cuộc cách mạng
Xã hội Chủ nghĩa do đảng Cộng
sản tiến hành sau 1975. Chúng tôi rủ
nhau đi xuống, đi lên, dọc theo hai bên
đường Nguyễn Sinh Cung để nhìn,
để nhớ, để nghĩ ngợi và
trò chuyện về Vỹ Dạ xưa, Vỹ
Dạ nay. Người thầy giáo mấy chục
năm vì tình thế phải bỏ nghề
đã “lên lớp” suốt cuộc
đi bộ, và tôi đã tự nguyện
làm người học trò chăm chú
lắng nghe từ đầu chí cuối. Câu
chuyện của Văn không mới mẻ, không
hoàn toàn phù hợp với suy nghĩ
của tôi, nhưng những điều liên
quan đến Vỹ Dạ thì cứ như
xuất phát từ đáy lòng tôi.
“Chị Thoa thấy đó,
người Vỹ Dạ trong đó có
tôi, có chị bị đuổi ra khỏi
nhà, khỏi làng và thành phố
của mình trong biến cố mà họ
gọi là giải phóng và cách
mạng Xã hội Chủ nghĩa. Hết chiến
tranh, Vỹ Dạ và Huế trở nên đông
đúc, thiếu bác sĩ, thiếu thầy
cô giáo, thế mà chị phải ra đi,
tôi phải trốn chạy. Trong thâm tâm
người Cộng sản muốn thế, vì
Vỹ Dạ, Huế và cả miền Nam đều
là chiến lợi phẩm. Họ thu tóm
tất cả, thượng vàng hạ cám,
đến đoạn đường chúng ta
vừa đi giáp vòng cũng có tên
Nguyễn Sinh Cung.
Đưa ông Hồ vào tận Vỹ Dạ để ông ta ngồi đầu chiếu là một thứ tâm lý đình làng của bọn lí hào thời phong kiến và thực dân. Điều bi đát là nhân dân trong đó có người Vỹ Dạ đã góp máu xương lật đổ phong kiến và đánh đuổi thực dân để rồi phải sống trong những điều kiện còn tồi tệ hơn thời thực dân phong kiến thống trị. Vấn đề cấp thời theo tôi không phải là xây dựng Vỹ Dạ như thế nào, mà ai là người làm chủ Vỹ Dạ? Bởi người làm chủ sẽ xây dựng Vỹ Dạ theo cái bụng và tầm nhìn của mình. Đảng Cộng sản hôm nay là đảng của những người nông dân không biết cày, chỉ quen bắn súng. Khi người nông dân không biết cày có nghĩa là không biết làm gì cả.
Không biết lao động và cũng không biết giá trị của lao động. Công thương nghiệp, khoa học kỹ thuật hiện đại, dân quyền, pháp luật, tự do, dân chủ, văn hóa truyền thống chỉ là những từ ngữ trên đầu môi chót lưỡi. Không biết làm gì cả nhưng ăn bù, hưởng thụ bù, tích lũy bù trong điều kiện nắm giữ quyền cai trị tuyệt đối nảy sinh ra quốc nạn tham nhũng, ngại chiến đấu (chống ngoại xâm) và sính đàn áp nhân dân để một mình một chợ cướp bóc và hưởng thụ. Khi người nông dân không biết cày làm chủ đất nước có nghĩa là đất nước sẽ không có đô thị với những hoạt động công thương nghiệp, khoa học kỹ thuật, văn hóa tiên tiến, độc lập, tự do, và cũng không giữ nổi nông thôn với đất đai rừng biển là kết quả lao động, chiến đấu của cả dân tộc suốt chiều dài lịch sử hàng ngàn năm.
Cũng như đa phần vua quan, quí tộc triều Nguyễn vì nhu cầu hưởng thụ đã dễ dàng đầu hàng xâm lược Pháp. Ngày nay đảng Cộng sản cũng vì nhu cầu hưởng thụ và ham muốn làm giàu quá độ mà qui phục lệ thuộc bọn bành trướng Trung Quốc.
Đưa ông Hồ vào tận Vỹ Dạ để ông ta ngồi đầu chiếu là một thứ tâm lý đình làng của bọn lí hào thời phong kiến và thực dân. Điều bi đát là nhân dân trong đó có người Vỹ Dạ đã góp máu xương lật đổ phong kiến và đánh đuổi thực dân để rồi phải sống trong những điều kiện còn tồi tệ hơn thời thực dân phong kiến thống trị. Vấn đề cấp thời theo tôi không phải là xây dựng Vỹ Dạ như thế nào, mà ai là người làm chủ Vỹ Dạ? Bởi người làm chủ sẽ xây dựng Vỹ Dạ theo cái bụng và tầm nhìn của mình. Đảng Cộng sản hôm nay là đảng của những người nông dân không biết cày, chỉ quen bắn súng. Khi người nông dân không biết cày có nghĩa là không biết làm gì cả.
Không biết lao động và cũng không biết giá trị của lao động. Công thương nghiệp, khoa học kỹ thuật hiện đại, dân quyền, pháp luật, tự do, dân chủ, văn hóa truyền thống chỉ là những từ ngữ trên đầu môi chót lưỡi. Không biết làm gì cả nhưng ăn bù, hưởng thụ bù, tích lũy bù trong điều kiện nắm giữ quyền cai trị tuyệt đối nảy sinh ra quốc nạn tham nhũng, ngại chiến đấu (chống ngoại xâm) và sính đàn áp nhân dân để một mình một chợ cướp bóc và hưởng thụ. Khi người nông dân không biết cày làm chủ đất nước có nghĩa là đất nước sẽ không có đô thị với những hoạt động công thương nghiệp, khoa học kỹ thuật, văn hóa tiên tiến, độc lập, tự do, và cũng không giữ nổi nông thôn với đất đai rừng biển là kết quả lao động, chiến đấu của cả dân tộc suốt chiều dài lịch sử hàng ngàn năm.
Cũng như đa phần vua quan, quí tộc triều Nguyễn vì nhu cầu hưởng thụ đã dễ dàng đầu hàng xâm lược Pháp. Ngày nay đảng Cộng sản cũng vì nhu cầu hưởng thụ và ham muốn làm giàu quá độ mà qui phục lệ thuộc bọn bành trướng Trung Quốc.
Nói như thế để chúng
ta khẳng định rằng, với một đảng
cầm quyền như đảng Cộng sản
ngày nay không thể xây dựng và
bảo vệ đất nước trong đó
có Vỹ Dạ theo như nguyện vọng và
lợi ích của đại đa số nhân
dân. Do vậy mà vấn đề Vỹ Dạ
vườn, Vỹ Dạ chợ chị nêu ra
hoặc đã quá muộn, hoặc còn
quá sớm. Quá muộn vì người
Cộng sản đã và đang độc
quyền biến một Vỹ Dạ vườn
thành một Vỹ Dạ chợ như chị
vừa nói, và chúng ta vừa thấy.
Quá sớm vì chưa có một nhà
nước dân chủ để thực hiện
các mục tiêu theo nguyện ước và
quyền lợi của dân, của nước
mà chị cho rằng mình là thành
viên. Cũng cần phải nhận thức cho
thật chính xác về hai chữ “vườn
xưa”. Không có xưa và nay tách
bạch tuyến tính như quan niệm lịch
sử của người Cộng sản nói
riêng và của phương tây Thiên
Chúa giáo nói chung.
Có hai mô hình “vườn
xưa” ở Vỹ Dạ và ở Huế
từ 1975 trở về trước.
Thứ nhất là vườn trong
các phủ đệ của các ông
hoàng bà chúa, các đại thần
thời nhà Nguyễn còn thịnh trị
(diện tích mặt băng chừng 5000 –
20.000m2).
Đây là sản phẩm kết tập
giữa vườn cung đình và tinh hoa
của vườn dân dã đóng góp
từ ba miền đất nước. Bởi Huế
là trung tâm quyền lực, cũng là
trung độ của con đường cái
quan vào Nam ra Bắc.
Thứ hai là vườn của các
vương tôn công tử (đa phần là
cháu chắt của các phủ đệ),
các thượng thư (tại Vỹ Dạ đa
phần là Tôn Thất và Nguyễn
Khoa), và quan lại cao cấp thời bảo
hộ. Mô hình và tính chất của
loại vườn này đa dạng tùy
theo mức độ bảo lưu, hội nhập,
điều kiện và cảm quan thẩm mỹ
của chủ nhân. Qui hoạch kiến trúc
vườn - nhà và giống cây trồng
tại các vườn loại này so với
vườn phủ có những chuyển biến
rõ rệt. Qui mô vườn nhỏ hơn
(diện tích mặt bằng từ 1000m2
đến 5.000m2),
quan hệ cộng đồng rộng mở hơn,
thiết trí vườn nhà thông thoáng,
linh động và tự nhiên hơn. Cây
trồng có thêm nhiều giống mới
lấy từ vườn ươm của sở
canh nông hay qua giao lưu thân hữu ở
các vùng miền và cả từ ngoại
quốc.
Do tính chất thổ nhưỡng
và tâm hồn của các chủ nhân,
Vỹ Dạ không có vườn cây
trái nổi tiếng như thanh trà ở
Nguyệt Biều, nhãn, vải, măng cụt,
dâu ở Kim Long, cau ở Năm Phổ, quýt
ở Mỹ lợi, Hương Cần. Vườn
Vỹ Dạ là vườn của các văn
nhân thi sĩ. Nó là bối cảnh bao
gồm thiên nhiên (trời, mây, trăng,
nước, gió, sương…), con người
và cây cảnh, lá hoa (vườn),
không phân biệt ai, cái gì là
chủ thể. Người Vỹ Dạ thời
nay e rằng phải đọc thơ Hàn Mạc
Tử để biết nhiều hơn về quê
làng mình một thời vang bóng…”
Những điều Văn nói với
tôi không mới mẻ, nhưng cái cách
khái quát các sự việc và sử
dụng các thuật ngữ, cũng như đề
nghị của anh ta về việc tìm hiểu
vườn Vỹ Dạ qua bài thơ Đây
Thôn Vỹ Dạ nổi tiếng của Hàn
Mạc Tử đã đánh thức và
làm sáng tỏ nội dung các ký
ức tôi đã bỏ quên từ rất
lâu.
Như tôi đã nói ở
trên, trước 1975 tôi không biết gì
về vườn phủ ở Vỹ Dạ xưa,
bởi nó đã tàn lụi từ rất
lâu trước khi tôi ra đời. Tôi
chỉ biết một Vỹ Dạ vườn mà,
nói gần chính xác như Văn, đó
là vườn Vỹ Dạ thời thuộc
địa. Tuy vậy, những ký ức của
tôi về cây lá trong vườn Vỹ
Dạ thời kỳ ấy cũng chỉ lưa
thưa mấy gốc, mấy cành, mấy lá,
mấy bông, mấy trái được nhận
diện từ một góc nhìn cố vượt
qua tuyến tính.
Tôi sinh năm 1950, sau này mới
biết đó là thời điểm chế
độ thuộc địa trong giai đoạn
hồi dương. Và như thế, vườn
Vỹ Dạ, nói như Văn, cũng đang
ngoắc ngoải.
Khi tôi bắt đầu vượt
qua khỏi hàng rào vườn nhà mình
để len lỏi vào các vườn lân
cận, rồi những vườn xa hơn, cho đến
khi xâm nhập và tiếp cận gần
khắp các vườn Vỹ Dạ để
hái hoa, bắt bướm và sưu tầm
cây lá, côn trùng cho những bài
học vạn vật thì vốn liếng ngôn
ngữ của tôi chưa có các từ
suy tàn, đổ nát, mặc dù trước
đó rất lâu – từ sau khi cha tôi
đi kháng chiến (1946), đến khi ông
vào Hội An để đưa mẹ và
anh chị em chúng tôi về Huế (1954),
vườn nhà chúng tôi gần như
bỏ hoang, và khu vườn cỏ tranh bên
cạnh (phía tay trái), nơi có cái
lò rèn của đôi vợ chồng
già “bạn bè thân thiết của
tôi thời thơ ấu” – chẳng
biết vắng chủ tự bao giờ.
Theo như cha tôi nói, khu vườn nhà của chúng tôi do ông nội tôi với sự đóng góp của hai cô “lấy Tây” tạo lập trên một nửa khu vườn của ông Ưng Phục. Và như thế, gia đình ông Ưng Phục đã ở lại trên nửa khu vườn nhà mình còn lại trong một thời gian trước khi bỏ đi vì một lý do nào đó, hoặc gia đình ông đã cư trú tại một nơi nào đó trước khi bán một nửa cơ ngơi đời trước để lại, còn một nửa bỏ hoang từ thập niên ba mươi của thế kỷ trước. Khu vườn nhà ông nội tôi tạo lập nên, nơi cha mẹ tôi kết tóc xe tơ – ăn đời ở kiếp, nơi anh chị em chúng tôi sinh thành giữa một Vỹ Dạ không ngừng biến động vào nửa sau của thời kỳ thuộc địa.
Theo như cha tôi nói, khu vườn nhà của chúng tôi do ông nội tôi với sự đóng góp của hai cô “lấy Tây” tạo lập trên một nửa khu vườn của ông Ưng Phục. Và như thế, gia đình ông Ưng Phục đã ở lại trên nửa khu vườn nhà mình còn lại trong một thời gian trước khi bỏ đi vì một lý do nào đó, hoặc gia đình ông đã cư trú tại một nơi nào đó trước khi bán một nửa cơ ngơi đời trước để lại, còn một nửa bỏ hoang từ thập niên ba mươi của thế kỷ trước. Khu vườn nhà ông nội tôi tạo lập nên, nơi cha mẹ tôi kết tóc xe tơ – ăn đời ở kiếp, nơi anh chị em chúng tôi sinh thành giữa một Vỹ Dạ không ngừng biến động vào nửa sau của thời kỳ thuộc địa.
Vườn cụ Ưng Thiều
Phía bên phải vườn nhà
tôi, cách con đường xóm nhỏ,
gần sát bờ sông là vườn
gia đình ông bà Ưng Thiều, các
cô Phùng Trợ, Phùng Khánh, Phùng
Thăng và các cháu ngoại của ông
bà: Tú Anh, Tú Em, Tú Ti, Tú Tí
(thuộc dòng họ Phạm Đăng danh gia
vọng tộc) là bạn bè thân thiết
với anh chị em chúng tôi (tôi nghĩ
tưởng như thế).
Cụ Ưng Thiều, là cháu nội
của ngài Tuy Lý Vương Miên Trinh,
chắt nội của hoàng đế Minh Mệnh.
Trước khi dời nhà ra bờ sông, gia
đình ông bà Ưng Thiều là
chủ sở hữu của khu vườn mặt
tiền có diện tích gần 5000m2
(gấp đôi vườn nhà tôi: 35m x
70m = 2450m2). Tôi
không biết thời cuộc đã tác
động vào cuộc sống gia đình
như thế nào mà ông bà Ưng
Thiều phải nhường phần lớn đất
vườn ở phía trước cho những
người ngụ cư đến từ tứ
xứ để lui về phía sau.
Điều tôi biết chắc chắn là gia đình ông bà Ưng Thiều đã lâm vào tình trạng khó khăn từ trước mà không muốn cải thiện theo cách thông thường, vì hầu như toàn bộ các thành viên trong gia đình rất sùng thượng đạo Phật, đều muốn dấn thân vào cuộc đấu tranh khác, đó là cuộc đấu tranh với chính mình, chẳng màng thế sự.
Điều tôi biết chắc chắn là gia đình ông bà Ưng Thiều đã lâm vào tình trạng khó khăn từ trước mà không muốn cải thiện theo cách thông thường, vì hầu như toàn bộ các thành viên trong gia đình rất sùng thượng đạo Phật, đều muốn dấn thân vào cuộc đấu tranh khác, đó là cuộc đấu tranh với chính mình, chẳng màng thế sự.
Căn nhà ngói xinh xắn có
gác nhỏ nhô ra mặt sông, có
giòng nước buồn thiu, có hoa bắp
lay ở phía bên kia bờ, có gió
thổi mây vần đôi ngã, có
bến sông trăng, cũng có trống trải
chờ đợi, mong ngóng, cô đơn
nhưng rồi các “chúng sinh ấy”
đã quyết định tự mình dấn
thân vào cuộc hành trình mới
để tìm kiếm một bến bờ mới.
Vườn cụ Ưng Úy
Sát rào phía trên (Đập
Đá) vườn nhà ông bà Ưng
Thiều là vườn nhà cụ Ưng
Úy, diện tích tương đương
hoặc lớn hơn.
Cụ Ưng Úy là cháu nội
ngài Tùng Thiện Vương Miên Thẩm,
chắt nội hoàng đế Minh Mệnh, anh
em họ cùng thế hệ với cụ Ưng
Thiều, thân sinh nhà bác học Bửu
Hội, là vị nguyên phu của một
người sau này là sư bà Diệu
Huệ, là thượng thư cơ mật của
triều đinh An Nam thuộc Pháp. Sau cách
mạng tháng Tám cụ Ưng Úy đã
ra chiến khu một thời gian. Cụ còn có
một người con trai tài hoa là ông
Bửu Tiến cũng lên đường đi
kháng chiến.
Vườn nhà cụ Ưng Úy
trước 1975 còn nguyên nhưng đã
tiêu điều. Nhà chính nhà phụ
lợp ngói xây theo kiểu mới (không
có cột như nhà rường) nhưng
cũ kỹ rêu phong đứng chơ vơ
giữa khu vườn rộng từ lâu không
chăm sóc. Cái cổng có hai cánh
nghiêng ngả. Từ cổng, một lối đi
tráng xi măng với hai hàng lề xây
hai bên. Trước nhà là bức bình
phong chè tàu, không có bể cạn,
non bộ và cây chậu. Quanh sân còn
lại mấy cây mai cổ thụ, một vài
cây cau, cây nhãn đứng rải rác
giữa những vạc cỏ tranh lá xanh bông
trắng… Thuở còn là học trò
tiểu học, tôi đã lẻn vào
khu vườn này nhiều lần. Hoa dại,
bướm, dế, chuồn chuồn đã thu
hút tôi. Cha tôi nói cụ Ưng Úy
xây nhà, thiết kế vườn và
trồng cây gần với phong cách Tây.
Vườn Lai Huyền Lục
Bên này hàng rào là
ranh giới phủ Kiến An, bên kia hàng
rào là cơ ngơi của cụ Ưng
Úy, khu vườn nhà Lai Huyền Lục
đối với tôi mãi đến thời
điểm 1975 vẫn là cái gì đó
bí ẩn, có hơi hướm chuyện
cổ tích kiểu người đẹp ngủ
trong rừng.
Cái cổng xập xệ, ngõ vào
sâu hút nằm giữa hai hàng chè
tàu cao được cắt tỉa tương
đối tươm tất là dấu hiệu
duy nhất được chăm sóc trong toàn
bộ khu vườn rộng không dưới
nửa mẫu tây. Cuối ngõ là một
bức “bình phong” cũng bằng cây
chè tàu làm chức năng lá chắn,
rẽ con ngõ thành hai lối đi ở
hai bên. Bức bình phong chè tàu
không phải để chắn gió mà
để ngăn bước chân và tầm
nhìn của những người khách không
mời. Thời còn học tiểu học tôi
đã vài lần men theo con ngõ vào
tận bức bình phong, đứng tần ngần
nhìn qua những đọt chè tàu thấy
phần còn lại của bức tường
sau và mái ngói của ngôi nhà
loang lổ rêu phong.
Tôi đã không đi vào lối nhỏ vì tôi là khách không mời. Tôi cũng không tìm cách vào vườn vì sợ ong độc và rắn rít. Tôi đã có kinh nghiệm nhớ đời là bị ong đốt trong một lần mải mê theo đuổi các mục tiêu của mình. Mẹ tôi thường căn dặn: “Ong vẽ đốt nẻ sừng trâu, ong bầu đốt xâu đòn gánh – Tôi là đứa con gái nhỏ còi cọp chứ không phải là đòn gánh hay sừng trâu”. Trước mắt tôi khu vườn của Lai Huyền Lục đã trở thành một góc rừng. Mấy cây cau, cây chay, cây khế già đang bị lấn áp bởi những cây sung, thầu đâu cành lá um tùm, bị níu kéo che phủ bởi những cây dây leo, chùm gởi và cả chục thứ cỏ dại rối rắm.
Tôi đã không đi vào lối nhỏ vì tôi là khách không mời. Tôi cũng không tìm cách vào vườn vì sợ ong độc và rắn rít. Tôi đã có kinh nghiệm nhớ đời là bị ong đốt trong một lần mải mê theo đuổi các mục tiêu của mình. Mẹ tôi thường căn dặn: “Ong vẽ đốt nẻ sừng trâu, ong bầu đốt xâu đòn gánh – Tôi là đứa con gái nhỏ còi cọp chứ không phải là đòn gánh hay sừng trâu”. Trước mắt tôi khu vườn của Lai Huyền Lục đã trở thành một góc rừng. Mấy cây cau, cây chay, cây khế già đang bị lấn áp bởi những cây sung, thầu đâu cành lá um tùm, bị níu kéo che phủ bởi những cây dây leo, chùm gởi và cả chục thứ cỏ dại rối rắm.
Nhiều chục năm sau trên những
bước đường lưu lạc, mỗi
lần nhớ về Huế, về Vỹ Dạ,
tôi đều nghĩ đến khu vườn
Lai Huyền Lục. Lai Huyền Lục, tên của
khu vườn hay tên của một người
con gái đẹp, tôi không phân biệt,
tôi cũng không tìm hỏi ai là chủ
nhân, là chủ thể sản sinh ra các
tạo vật liêu trai ấy. Tôi nghĩ một
khi cố tình quay lưng lại với cuộc
đời, người ta chẳng cần chứng
tỏ mình là ai. Khu nhà ngói cũ
kỹ Lai Huyền Lục không quay mặt ra
đường cái – hướng đông
hoặc đông-nam, gió nắng thuận hòa
như nhà tôi hoặc nhiều nhà khác,
cũng không quay mặt lên hướng
tây-nam để ngưỡng vọng triều
đình, nhà thờ Nguyễn Phước
tộc, lăng miếu của các bậc tiên
hoàng như đa phần của các vương
tôn công tử ở Vỹ Dạ, mà
quay mặt về hướng chính tây, nơi
suốt mùa hè phải hứng hết cái
khắc nghiệt của gió lào và
những tia nắng tóe lửa, hứng hết
cái giá buốt thấu xương của
gió bấc suốt mùa đông.
Tôi đã nói với Văn
cảm nhận này trong buổi chiều đi
giáp vòng hai bên đường Nguyễn
Sinh Cung năm ngoái. Và Văn đã
làm tôi khựng lại khi bảo rằng:
“Chị đã méo mó
nghề nghiệp và không chừng chị
cũng đã méo mó chính trị.
Cái khái niệm phong thủy của người
xưa không bao hàm yếu tố vệ sinh,
cũng không hờn lẫy cuộc đời,
mà đơn thuần mà là niềm
tin có tính chất tôn giáo (tin
phương hướng hợp với tuổi với
mạng)”.
Vườn cụ Tôn Thất Ngân
Đối diện với nhà tôi
nhìn qua bên kia đường, chếch về
phía dưới, phía Thuận An, là cơ
ngơi to lớn của cụ thượng Tôn
Thất Ngân. Diện tích mặt bằng
vườn nhà cụ thượng Ngân
không thua kém bao nhiêu so với phủ Ba
Cửa cách đó không xa, hình thế
đất đai cũng tương tự, mặt
tiền khoảng 100m, chiều sâu chừng 200m
chạy thẳng ra cánh đồng lúa.
Nhưng sự khác biệt trong qui hoạch, cấu
trúc, xây dựng giữa hai công trình
là rất rõ ràng. Công trình
này là phủ của vương gia với
cấu trúc nhà rường mang hơi thở
cung đình là chủ đạo, công
trình kia là vườn nhà của quan
lớn Nam triều với cấu trúc Pháp
Việt đề huề, từ cổng, lối
vào, sân, nhà đến vườn cây
(bài viết này tập chú về cây
vườn nên các yếu tố khác
xin được giảm trừ).
Đối với tôi khu vườn
của cụ thượng Ngân là một
thế giới cây lá, hoa bướm, dế,
chuồn chuồn, nhưng tấm bảng “chien
méchant” treo trước cổng thường
trực đóng và hàng rào kiên
cố ở bốn phía chung quanh đã
ngăn những bước chân háo hức
của tôi. Tuy vậy cũng đôi lần
tôi đã xem qua sân vườn nhà
này khi mấy đứa em cô cậu (con
của dượng Tôn Thất Tương và
cô Tự Nhiên) từ Phan Thiết về
thăm ông nội.
Lối đi vào dinh cụ thượng
Ngân rải đá cuội chạy quanh sân
và hai bên nhà chính và các
dãy nhà phụ ở phía sau. Sân
trước rộng rãi, thoáng đãng,
không có bể cạn, non bộ và chậu
cây, chỉ có bức bình phong đứng
giữa tương xứng với ngôi nhà
kiểu mới to lớn bề thế. Mặt trước
bức bình phong đắp nổi hình con
cọp trong tư thế vờn mồi – nanh
vuốt tua tủa trông rất dữ tợn. Ở
hai bên sân, cách xa nhà, đầu
này đầu kia có mấy cây vú
sữa, cây nhãn cổ thụ đứng
đối xứng.
Các bồn hoa được thiết trí quanh các lối đi, lưa thưa mấy cây hải đường, tử vi, hồng, lựu… không được chăm bón chu đáo. Vườn hai bên và vườn sau tách bạch. Vườn hai bên trồng cau và các loại cây ăn trái ngay hàng thẳng lối nhưng xác xơ già cỗi. Vườn sau rất rộng, cây lá um tùm. Tất cả đối với tôi là “kính nhi viễn chi” sau hai lần vào nhà cụ thượng cùng với mấy đứa em cô cậu – cháu nội của cụ. Cụ thượng Ngân đã già, thời cụ đã qua, nhưng đến thời điểm 1975 vườn nhà cụ vẫn còn nguyên vẹn. Sau 1975, cụ thượng Ngân già yếu mỏi mòn và qua đời. Trước áp lực của guồng máy chiến thắng, những người chủ còn lại phải bán tháo bán đổ với giá tương đương 6 lượng vàng (tôi nghe phong thanh như vậy).
Các bồn hoa được thiết trí quanh các lối đi, lưa thưa mấy cây hải đường, tử vi, hồng, lựu… không được chăm bón chu đáo. Vườn hai bên và vườn sau tách bạch. Vườn hai bên trồng cau và các loại cây ăn trái ngay hàng thẳng lối nhưng xác xơ già cỗi. Vườn sau rất rộng, cây lá um tùm. Tất cả đối với tôi là “kính nhi viễn chi” sau hai lần vào nhà cụ thượng cùng với mấy đứa em cô cậu – cháu nội của cụ. Cụ thượng Ngân đã già, thời cụ đã qua, nhưng đến thời điểm 1975 vườn nhà cụ vẫn còn nguyên vẹn. Sau 1975, cụ thượng Ngân già yếu mỏi mòn và qua đời. Trước áp lực của guồng máy chiến thắng, những người chủ còn lại phải bán tháo bán đổ với giá tương đương 6 lượng vàng (tôi nghe phong thanh như vậy).
Vườn cụ Tôn Thất Hân
Qua khỏi cầu Ông Thượng là
thôn Lại Thế. Cũng như thôn Hô
Lâu dọc theo sông Như Ý và hai
thôn Vỹ Dạ thượng và Vỹ Dạ
hạ nằm hai bên đường cái và
dọc theo sông Hương, thôn Lại Thế
tập trung rất nhiều biệt thự của
các hoàng thân quốc thích, các
thượng thư và quan chức triều đình
An Nam.
Vườn nhà cụ thượng
Tôn Thất Hân là một trong số đó.
So với cơ ngơi của cụ thượng
con (Tôn Thất Ngân), biệt thự của
cụ thượng cha (Tôn Thất Hân) trang
nghiêm hơn nhưng kém hoành tráng
hơn. Đây là ngôi biệt thự
được xây dựng theo mô hình
kiến trúc nhà rường, là một
phủ đệ thu nhỏ.
Theo sự hiểu biết chưa đầy
đủ của tôi, đây là biệt
thự nhà rường tương đối
hoàn chỉnh còn tồn tại đến
thời điểm 2000 tại Vỹ Dạ. Vườn
nhà được thiết trí trên một
khu đất rộng khoảng 10.000m2.
Mái lợp ngói, nền móng
trụ xây, khung sườn và hai cánh
cửa bằng gỗ, cổng vào nhà cụ
thượng Hân còn vững chắc và
đẹp cổ kính. Đặc biệt cổng
có một thanh gỗ lớn nằm chắn
ngang trên nền từ trụ này qua trụ
kia. Đây là cái ngưỡng mà
bất cứ ai muốn bước qua cũng phải
thận trọng. Hơn nữa cái ngưỡng
cổng vào vườn cụ Thân thần
còn có mục đích là không
để cho bất cứ một chiếc xe nào
đi vào bên trong. Tất cả phải
dừng lại bên ngoài cho dù xe của
hoàng đế, của khâm sứ hay của
toàn quyền.
Lối vào nhà cụ thượng
Thân thần nằm giữa hai hàng chè
tàu chạy theo hình góc khay, rẽ trái
hai lần, bởi nhà quay lưng ra đường
cái (đường làng thôn Lại
Thế, hướng tây-bắc), hướng
mặt về phía đông-nam. Cái đập
vào mắt tôi đầu tiên khi đi
hết lối vào này là bức bình
phong đắp hình nổi hình chữ
triện ở cả hai mặt. Sau bức bình
phong là bể cạn rồi non bộ và
một số chậu cây cổ thụ rải
rác quanh sân. Ngôi nhà chính ba căn
hai chái nằm giữa, cửa bàn khoa đóng
kín. Một ngôi nhà khác cũng ba
gian hai chái, cũng cửa bàn khoa, nhưng
kích cỡ nhỏ hơn, đứng ở mép
sân bên trái. Phía đối diện
là nền móng dấu tích một ngôi
nhà đã bị dỡ bỏ…
Người chủ nhà tiếp tôi
là một phụ nữ lớn tuổi có
khuôn mặt chữ điền, nước da
bánh mật, đôi mắt sắc sảo
không dấu vẻ hoài nghi, cảnh giác,
sẵn sàng chống trả mọi sự xâm
nhập không có lợi cho sự bình
an của bản thân và toàn bộ gia
sản mà bà đang có trách nhiệm
bảo vệ. Tôi nhận ra bà, nhưng bà
thì xem tôi như những người khách
không mời mà bà phải tiếp trong
mấy chục năm qua – những người
tọc mạch muốn biết đủ thứ và
cũng chứng tỏ quyền lực này nọ.
Bà nói bà không thể tiếp tôi
trong nhà vì bà bận, có cần
gì thì hỏi mau mau.
Tôi nói là tôi chỉ muốn biết qua loa về vườn tược, cây cỏ hoa lá…Tôi không phải là quan chức, cũng không phải là nhà báo, tôi đã từng là hàng xóm của bà, bà là mẹ của Th, bạn học của tôi ở trường Thế Dạ, bà là người trong nhà cụ thượng Ngân hay ra mua hàng tại quán của mẹ tôi, lúc bấy giờ tôi còn nhỏ… Bà không phải tiếp tôi trong nhà, cũng không cần phải trả lời các câu hỏi của tôi nếu bà không muốn, vì những điều tôi muốn biết là không quan trọng…
Tôi nói là tôi chỉ muốn biết qua loa về vườn tược, cây cỏ hoa lá…Tôi không phải là quan chức, cũng không phải là nhà báo, tôi đã từng là hàng xóm của bà, bà là mẹ của Th, bạn học của tôi ở trường Thế Dạ, bà là người trong nhà cụ thượng Ngân hay ra mua hàng tại quán của mẹ tôi, lúc bấy giờ tôi còn nhỏ… Bà không phải tiếp tôi trong nhà, cũng không cần phải trả lời các câu hỏi của tôi nếu bà không muốn, vì những điều tôi muốn biết là không quan trọng…
Bà T dẫn tôi đi quanh vườn,
chỉ chỏ nơi này nơi kia đã
từng là: sân cây cảnh, vườn
hoa, vườn cây trái, vườn bầu
bí, rau đậu, vườn cây thuốc,
khu vực chăn nuôi…
Bà nói: “Cô
thông cảm, tôi chỉ về đây
khi vườn nhà trên nớ (vườn
của cụ thượng Ngân) bán đi
(sau 1975). Tôi là người thủ từ
“đời” thứ ba ở đây sau
khi Ngài Phụ chánh qua đời, lại
là phụ nữ. Gia đình người
thủ từ trước tôi đã bỏ
chạy vì không chịu đựng nổi
cách mạng. Dù sao các con tôi cũng
là con cháu của các cụ… Những
điều nói với cô, tôi cũng
chỉ nghe nói lại. Người ta nói
khi chủ nhà qua đời, vườn tược
cây cối cũng buồn mà chết đi
hay tàn lụi. Sáu bảy chục năm
rồi còn gì. May mà hai ngôi nhà
còn lại chưa hư hại, mọt mối
gì nhiều”.
Khi đi ngang qua một bãi mấy
trăm chậu mai mới trồng, tôi hỏi:
“Trong nhà có ai là
đàn ông sao trồng mai đây?”
Bà trả lời: “Con tôi
(tôi nghe không rõ là con trai hay con
rể.), nó là bác sĩ đang làm
ở bệnh viện Trung ương Huế. Chồng
là bác sĩ, vợ là giáo viên,
lương không đủ sống phải làm
thêm. Vườn cây trái ngày xưa
nay là rẫy khoai sắn…”.
Tôi chỉ cái nền nhà còn trơ
móng, hỏi: “Căn nhà
bị phá hủy tự bao giờ, vì sao”.
Bà trả lời: “Bị
đại bác tàu Mỹ bắn trúng
hồi Mậu Thân.” Khi
đưa tôi ra về, qua con ngõ chè
tàu bà nói: “Nghe
nói ngày xưa Ngài Phụ chánh
trồng toàn hoa quí hiếm ở hai bên
con đường này từ đầu ngõ
vào tận trong sân, mùa nào thức
ấy, lúc nào cũng có hoa”.
Khi ra đến cổng tôi hỏi: “Bà
biết gì về cái ngưỡng cửa
này không?” Bà trả
lời: “Nghe nói là
Ngài Phụ chánh không muốn những
ông Tây trên tòa Khâm cho xe đi
thẳng vào trong sân”.
Trước khi chào từ biệt,
tôi sực nhớ đến những cây vả
ở khu chăn nuôi, có cây đã
già, có cây còn xanh tốt sum suê
trái lớn trái nhỏ. Tôi hỏi:
“Trồng vả làm chi mà
nhiều rứa?” Bà trả
lời: “Nghe nói ngày
xưa khi mới lập vườn, Ngài Phụ
chánh bảo người nhà trồng tất
cả mười cây vả. Ngoài xóm
đa phần là người làm ruộng
thuê, trong bếp chẳng có gì ngoài
một hũ muối và một gói ruốc
mua từng bữa ở chợ, cho họ mấy
trái vả, mấy trái khế, nạm
(nắm) rau, bữa ăn của họ sẽ vui
hơn”. Tôi nói: “Có
mấy cây còn xanh tốt chứng tỏ
mới trồng sau này”.
Bà tiếp liền: “Lệnh của Ngài Phụ chánh truyền lại: Bất cứ cây gì già chết, nếu còn sức thì bới đi, trồng lại, không còn sức thì thôi. Riêng cây vả, cây cau, cây chuối thì không được trễ nải. Cây nào không còn cho trái tốt, lập tức thay cây mới. Quan hệ với xóm giềng và cúng kỵ, chạp giỗ là nhiệm vụ của chúng tôi. Cô thấy đó, chúng tôi không chỉ thay thế mấy cây vả mà còn thay thế mấy bụi chuối, mấy cây cau… Có mâm cao cỗ đầy, cô bác anh em con cháu nội ngoại tụ họp đông vui thì tốt. Nếu không, mấy nải chuối, mấy dĩa cau trầu, mấy bình trà, mấy nén hương…trong những ngày Tết giỗ kỵ chạp cũng đỡ thấy hương tàn bàn lạnh”.
Bà tiếp liền: “Lệnh của Ngài Phụ chánh truyền lại: Bất cứ cây gì già chết, nếu còn sức thì bới đi, trồng lại, không còn sức thì thôi. Riêng cây vả, cây cau, cây chuối thì không được trễ nải. Cây nào không còn cho trái tốt, lập tức thay cây mới. Quan hệ với xóm giềng và cúng kỵ, chạp giỗ là nhiệm vụ của chúng tôi. Cô thấy đó, chúng tôi không chỉ thay thế mấy cây vả mà còn thay thế mấy bụi chuối, mấy cây cau… Có mâm cao cỗ đầy, cô bác anh em con cháu nội ngoại tụ họp đông vui thì tốt. Nếu không, mấy nải chuối, mấy dĩa cau trầu, mấy bình trà, mấy nén hương…trong những ngày Tết giỗ kỵ chạp cũng đỡ thấy hương tàn bàn lạnh”.
Câu chuyện của bà T tại
vườn cụ Thượng Tôn Thất Hân
tôi kể lại với chồng tôi, anh Chu
Sơn xác nhận là đã nghe phong
thanh trong lần đi điều nghiên để
viết về nhà rường ở Huế.
Năm ngoái, trong chuyến đi vòng hai bên
đường Nguyễn Sinh Cung, tôi cũng đã
kể lại với Văn. Văn khẳng định:
đó hoàn toàn là sự thật.
Văn nói thêm:
“Căn nhà rường còn
trơ cái móng như chị đã
thấy vốn là nhà học hán-nôm
của các “công tử”. Cụ
thượng Hân làm nhà học, chọn
mời những vị thầy chính danh để
bảo đảm vốn liếng hán-nôm
cho con cháu trong tình thế người Pháp
mưu đồ và thực hiện sách
lược “cắt cuống rốn” (bãi
bỏ việc học hành thi cử theo truyền
thống hán-nôm của triều đình
An Nam, xây trường, tiến hành sách
lược giáo dục và đào tạo
theo chương trình Pháp - Việt.). Trên
bình diện dân tộc, công cuộc
khai dân trí… của phong trào Duy Tân
và công cuộc truyền bá chữ quốc
ngữ – diệt giặc dốt của phong
trào Cộng Sản là những vận động
có tính chiến lược của chủ
nghĩa yêu nước. Nhưng Duy Tân và
Cách mạng theo xu thế “vứt bút
lông, lấy bút chì” một cách
dứt khoát, xét về lâu về dài
cũng đưa đến hậu quả “cắt
cuống rốn”.
Tôi không biết đích xác
cụ Tôn Thất Hân đã dịch Tam
Tự Kinh vào thời điểm cụ thể
nào. Nhưng làm nhà học hán-nôm
và dịch Tam Tự Kinh trong bối cảnh xâm
lược Pháp mưu đồ sách lược
“cắt cuống rốn” dân tộc là
hành động thể hiện tình tự,
tư tưởng yêu nước trên bình
diện văn hóa.
Tình trạng và khuynh hướng
“chợ hóa” Vỹ Dạ, đưa
đất nước vào con đường
“Kinh tế thị trường định
hướng Xã hội chủ nghĩa toàn
diện và tuyệt đối” của đảng
Cộng sản chứng tỏ những người
nắm quyền lực thực sự trên đất
nước này là những người bị
“cắt cuống rốn,” chỉ biết
có chữ quốc ngữ, chỉ biết có
chủ nghĩa Mác - Lê Nin ở trình
độ a - ác, â - ấc, họ đem
cái trí cái bụng của mình,
của đảng mình, của địa
phương mình để biến một Việt
Nam thành một “diệt Nam.”
“Chị Th cũng nên chú ý
xem qua một quan chức đã là thượng
thư nhiều năm trước khi về làm
phụ chính thân thần (thay vua điều
hành chính sự) cho Duy Tân rồi Bảo
Đại (từ 1925 – 1932) nghĩa là
nhiều chục năm đứng ở cương
vị nhất nhì triều đình An Nam
phong kiến và tay sai mà tấm lòng
như thế, suy nghĩ như thế, cách
sống như thế và tài sản cũng
chỉ đến như thế (ở Vỹ Dạ,
ở Huế không ai tố cáo nghi ngờ
cụ Thượng Tôn Thất Hân giàu
có nhờ tham nhũng). Chị thử so sánh
một Tôn Thất Hân như thế với
các nhà lãnh đạo Cộng sản
ngày nay, những người luôn rêu
rao là trung thành với lãnh tụ Hồ
Chí Minh, trung thành với lý tưởng
đấu tranh cho người cùng khổ, cho
độc lập dân tộc…”
Câu chuyện về phụ chính
Tôn Thất Hân và vấn đề
hán-nôm - quốc ngữ của Văn không
mới mẻ đối với chúng tôi.
Nhưng cách đặt vấn đề, cách
lý giải và kết luận của chúng
tôi không dứt khoát, quyết liệt
như Văn. Có thể do sở học chuyên
môn về lịch sử, ngữ văn và
tư duy văn hóa chính trị của
chúng tôi không đầy đủ. Anh
Chu Sơn, chồng tôi mười hai năm
trước sau khi đi tham quan nhiều nhà
rường ở Thừa Thiên Huế đã
than thở: “không đọc
được các bức hoành phi, trướng
liễn, các bức tranh chữ, các gia phả,
các văn bản hán-nôm… thì
việc nghiên cứu nhà rường chỉ
có “nghiên” mà không có
“cứu”. Mù hán-nôm là lơ
mơ về quá khứ dân tộc. Lơ mơ
về quá khứ dân tộc thì khó
nhận biết dân tộc và bản thân
mình sẽ tồn tại ra sao trong thế giới
ngày nay”.
Việc so sánh hai mẫu người,
hai chế độ qua nhân vật Tôn Thất
Hân như đề nghị của Văn gợi
cho tôi một ý tưởng lãng mạn
trong tình hình hiện tại là bảo
tồn, phục hiện đầy đủ khu
vườn nhà của ngài phụ chánh
Thân thần Tôn Thất Hân của triều
đình An Nam như là một địa
chỉ tham quan du lịch, nghiên cứu về
văn hóa, lịch sử của Vỹ Dạ
và thành phố Huế. Mặt bằng khu
vườn còn nguyên vẹn, hai ngôi nhà
rường và những trang thiết bị,
những cổ vật bảo lưu được
(tuy không đầy đủ) đến ngày
nay là nền tảng vô cùng quí
giá để gia đình và viện
bảo tàn Huế khởi đầu một
công việc xem ra đã chậm nhưng còn
hơn không,
Cổng nhà cụ Tôn Thất Hân
(mới trùng tu), ảnh Nguyễn Khoa Phương,
2013.
(D.Đ.: bấm chuột nút phải để xem khổ lớn)
(D.Đ.: bấm chuột nút phải để xem khổ lớn)
Bình phong nhà cụ Tôn Thất
Hân (mới trùng tu), ảnh Nguyễn Khoa
Phương, 2013.
(D.Đ.: bấm chuột nút phải để xem khổ lớn)
(D.Đ.: bấm chuột nút phải để xem khổ lớn)
Vườn cụ Ưng Thuyên
Đối diện với chùa Ba La
Mật, nhìn chếch về phía trái,
bên kia đường Nguyễn Sinh Cung là
một biệt thự, qua mắt nhìn của
tôi: “nhiều tính chất Tây hơn
Việt.” Nhóm từ “nhiều tính
chất Tây hơn Việt” tôi dùng
ở đây đặt trong bối cảnh một
Vỹ Dạ vườn vào nửa sau thời
thuộc địa. Nó không toát ra vẻ
quan quyền và “Tây Việt đề
huề” như vườn nhà cụ thượng
Tôn Thất Ngân. Nó không cổ kính
và truyền thống như biệt thự của
ngài phụ chính thân thần Tôn
Thất Hân. Nó không thơ mộng, tinh
tế và thuần Việt như Chu Hương
viên của Ưng Bình Thúc Giạ Thị.
Nó rất Tây, và cũng rất Vỹ
Dạ, vì chủ nhân của nó là
ông bà Ưng Thuyên, một đôi
vợ chồng quí tộc gắn bó với
Pháp về mặt văn hóa nhiều hơn
quyền lực thực dân.
Đây là ngôi biệt thự
xây theo kiểu Pháp. Nhà có móng
cao, hiên rộng ở chính giữa, bốn
bên là thảm cỏ xanh lác đác
đây đó mấy cây cổ thụ.
Từ cổng vào, hai bên không có
hàng rào chè tàu, không có
bình phong, non bộ, chậu cây cảnh,
cũng không có sân như những ngôi
nhà truyền thống. Hiên không mở
tam cấp ra phía trước mà mở ra
hai bên. Lối đi từ cổng vào đến
một vị trí thích hợp rẽ làm
hai dẫn tới tam cấp và ra phía sau.
Mảnh đất từ chỗ rẽ đến chân hiên có hình trái tim lưa thưa mấy bụi hoa hồng và hoa bươm bướm. Sau này tôi mới biết cụ Ưng Thuyên là anh em ruột của các cụ Ưng Bình, Ưng Thiều, là cháu nội của thi hào Tuy Lý vương. Các cụ Ưng Thiều, Ưng Thuyên cùng tham gia Hương Bình thi xã do Ưng Bình Thúc Giạ Thị làm chủ soái. Cụ Ưng Thuyên còn là một họa sĩ tài tử vẽ tranh theo phong cách tạo hình, thể hiện nghệ thuật phương Tây. Bà Ưng Thuyên là cô giáo, giỏi Pháp văn, đã dịch truyện Kiều ra tiếng Pháp(3).
Mảnh đất từ chỗ rẽ đến chân hiên có hình trái tim lưa thưa mấy bụi hoa hồng và hoa bươm bướm. Sau này tôi mới biết cụ Ưng Thuyên là anh em ruột của các cụ Ưng Bình, Ưng Thiều, là cháu nội của thi hào Tuy Lý vương. Các cụ Ưng Thiều, Ưng Thuyên cùng tham gia Hương Bình thi xã do Ưng Bình Thúc Giạ Thị làm chủ soái. Cụ Ưng Thuyên còn là một họa sĩ tài tử vẽ tranh theo phong cách tạo hình, thể hiện nghệ thuật phương Tây. Bà Ưng Thuyên là cô giáo, giỏi Pháp văn, đã dịch truyện Kiều ra tiếng Pháp(3).
Ông bà Ưng Thuyên có
người con trai út là một kẻ sĩ,
một nghệ sĩ nổi tiếng: Bửu Chỉ.
Bửu Chỉ là một thủ lĩnh học
sinh sinh viên xông xáo trong phong trào đô
thị thời kỳ sau của cuộc chiến
tranh Việt - Mỹ. Ông vẽ tranh (bút sắt
mực tàu), biểu tình, ca hát, hết
mình đấu tranh cho hòa bình, quyền
con người và quyền tự quyết dân
tộc. Ông đã bị chính quyền
miền Nam bắt bỏ tù nhiều năm vì
những hoạt động “phá rối
trật tự trị an”. Hết chiến tranh
Bửu Chỉ trở nên một người
“phản chứng” trước cuộc cách
mạng Xã hội Chủ nghĩa bất nhân
và phi lý. Bửu Chỉ trở thành
một họa sĩ chuyên nghiệp với những
bức tranh sơn dầu biểu hiện thân
phận bi đát của kiếp người,
những xao xuyến, những giằng xé nội
tâm, những khắc khoải siêu hình,
những thôi thúc tìm tòi một
sinh lộ mới để chúng sinh vượt
thoát khỏi cảnh bế tắc, lầm than
đương đại.
Ông bà Ưng Thuyên có
nhiều con trai, con gái. Họ không để
lại khu nhà vườn cho ông trưởng,
cũng không chia năm xẻ bảy như tập
quán của nhiều gia đình ở Thừa
Thiên Huế. Dường như họ muốn
gởi gắm tâm hồn mình cho đứa
con trai út: Bửu Chỉ. Dường như họ
đồng tình chia sẻ những khát
vọng sâu thẳm, không ngừng sôi
sục của anh.
Khu vườn nhà kiểu Tây, dấu
tích kiến trúc của thời thuộc
địa, nơi một gia đình hoàng
tộc đã sống qua những thời đoạn
nhiễu nhương đau khổ cùng cực
của đất nước, nơi đã sản
sinh, un đúc nên một sinh linh bé nhỏ
nhưng có một sức sống mãnh liệt,
một nhu cầu bức phá thường trực
mọi thứ xiềng xích để kiến
tạo cái đẹp và tự do. Nhà
lưu niệm Bửu Chỉ là một trong
những nơi đến của nhiều người
để Vỹ Dạ trở lại là một
địa danh văn hóa.
Một góc vườn nhà cụ
Ưng Thuyến (nhà Bửu Chỉ), ảnh
Nguyễn Khoa Phương 2013.
Vườn Bích Câu của cụ Ưng Bình
Bích Câu là tên do tôi
gọi. Cụ Ưng Bình gọi cõi thơ
của mình là Chu Hương viên. “Vườn
Bích Câu” nằm cùng bên (đường
Thuận An – phía dưới) cách nhà
tôi hơn cây số. Chu Hương viên
của cụ Ưng Bình cách vườn
nhà cụ Ưng Thuyên vài trăm mét.
Hai bụi tre thân vàng (thay thế cái
cổng xây cổ kính và hoa mỹ khi
đường Thuận An mở rộng –
1959) là đường dẫn vào cõi
thơ. Tất cả đã là chuyện đã
qua khi Vỹ Dạ còn là Vỹ Dạ vườn
- thơ, và cũng nổi tiếng nhờ thơ.
Ngày nay đi trên đường Nguyễn
Sinh Cung, du khách thấy Vỹ Dạ vườn
đang thoi thóp, Vỹ Dạ thơ thì đã
bị Vỹ Dạ chợ đánh đuổi
tan tác, tháo chạy tán loạn cùng
trời cuối đất, hoặc lẽo đẽo
leo bò theo hướng cung đình thời
mạt pháp.
Trước 1968 khu vườn nhà cụ
Ưng Bình còn nguyên vẹn trên một
diện tích áng chừng mười ngàn
mét vuông (100m x 100m), cửa vườn mở
ra mặt tiền (đường Thuận An), nhưng
hướng nhà quay lên phía Tây-Nam
(hướng của triều đình và
nhà thờ Nguyễn Phước tộc). Cụ
Ưng Binh Thúc Giạ Thị là cháu
nội chủ soái tao đàn cung đình
Tuy Lý Vương (cùng với Tùng
Thiện Vương) vang danh thời Tự Đức.
Ưng Bình Thúc Giạ Thị cũng là
thi bá chủ soái Hương Bình thi
xã nổi tiếng thời Nam triều - thuộc
địa.
Tiếp thu hai nền giáo dục văn
hóa Tây, Việt, làm quan Nam triều,
làm thơ cảm ứng thiên nhiên,
phong cảnh, thù tạc quan trường, bạn
bè, gói ghém tình tự non nước,
gần gũi đạo Phật và tư tưởng
Lão - Trang, nhưng kiến tạo vườn
thì chỉ có thơ.
Hai bui tre vàng đẹp một cách
sang trọng trông như hai cánh tay của
nhà quí tộc lúc nào cũng mở
ra sẵn sàng đón khách. Lối vào
nhà rộng, không có bờ chè tàu,
ở hai bên chỉ có những cây hoa
thân mộc như nguyệt quới, hải
đường, ngâu, dạ lan, ngọc anh, râm,
tử vi, trang, đinh lăng… mà chủ
nhân cố tình trồng không ngay hàng
thẳng lối, không cắt tỉa tươm
tất, không rào cản giới mốc.
Ngôi nhà chính lợp ngói
đỏ ba gian hai chái là một ngôi
nhà rường được tân trang, tôn
tạo một số bộ phận, chi tiết
nhưng vẫn giữ nguyên bản sắc. Nền
móng cao hơn, hiên rộng hơn, tường
xây, cửa sổ mở nhiều hơn nhưng
ba bộ cửa bàn khoa ở ba căn giữa
và các cửa thông vẫn giữ
nguyên. Trước hiên là một giàn
hoa thiên lý chạy dài từ đầu
hồi này qua đầu hồi kia. Non bộ,
bể cạn và bình phong chè tàu
đối diện với căn giữa. Các
loài hoa thân thảo như quỳnh, thủy
tiên, cúc, địa lan, hồng, thược
dược trồng trong các chậu, xuất
hiện theo mùa tại các vị trí
thích hợp ở hiên và sân.
Các loại hoa thân mộc như mai, đào (bích đào), lê (lê hoa trắng), hải đường, nguyệt quới, ngâu, ngọc anh, trang, tử vi, hồng (hồng trái), và các loài hoa thân thảo khác như hồng tường vi, yên chi, hồng tỷ muội, nức nẻ …trồng chen lẫn và rải rác trên nền đất hay trong các bồn xây quanh nhà. Cây mai bao giờ cũng được trồng ở những vị trí trang trọng. Trước các cửa sổ, lựu trắng, lựu đỏ trồng chen nhau tạo thành những bức rèm hoa tùy theo hướng mà dày mỏng khác nhau, nơi thì che được ánh nắng gắt buổi chiều, nơi thì đón được những tia sợi hồng hào của mặt trời buổi sáng.
Các loại hoa thân mộc như mai, đào (bích đào), lê (lê hoa trắng), hải đường, nguyệt quới, ngâu, ngọc anh, trang, tử vi, hồng (hồng trái), và các loài hoa thân thảo khác như hồng tường vi, yên chi, hồng tỷ muội, nức nẻ …trồng chen lẫn và rải rác trên nền đất hay trong các bồn xây quanh nhà. Cây mai bao giờ cũng được trồng ở những vị trí trang trọng. Trước các cửa sổ, lựu trắng, lựu đỏ trồng chen nhau tạo thành những bức rèm hoa tùy theo hướng mà dày mỏng khác nhau, nơi thì che được ánh nắng gắt buổi chiều, nơi thì đón được những tia sợi hồng hào của mặt trời buổi sáng.
Cuối hè 1962, tôi 12 tuổi –
học xong lớp đệ thất, theo cha đến
thăm Chu Hương viên. Cụ Ưng Bình
Thúc Giạ Thị đã qui tiên hơn
một năm trước. Bác Bửu Kỉnh,
người thừa kế Chu Hương viên
đưa chúng tôi đi xem các khu vực
trồng hoa trong khu vườn mà theo nhận
xét của cha tôi là đẹp nhất
Vỹ Dạ. Cha tôi đã đến vườn
Chu Hương vài ba lần cùng với cụ
Ưng Thiều lúc cụ Ưng Bình còn
tại thế. Cha tôi không phải là
thi sĩ thứ thiệt nên không thích
thú lắm với Hương Bình thi xã,
nhưng lại tỏ ra vô cùng ngưỡng
mộ “cõi thơ”. Đưa tôi
đi thăm “cõi thơ” là để
thưởng công tôi đã thực hiện
“chương trình mùa hè” cha
mẹ tôi đã đề ra cho tôi năm
đó: Tập chép (chữ đẹp) hết
tập thơ Bích Câu kỳ ngộ (678 câu
lục bát) và học thuộc lòng một
số đoạn trong đó.
Xong một vòng khu vực trồng
hoa, bác Bửu Kỉnh mời cha tôi vào
hiên uống trà và trò chuyện.
Tôi thơ thẩn quanh sân, vừa đi vừa
đọc (cốt để bác Bửu Kỉnh
nghe – để khoe…):
“Thành Đông có cảnh
Bích Câu,
Cỏ hoa góp lại một bầu xinh sao.
Đua chen thu cúc xuân đào,
Lựu phun lửa hạ mai chào gió đông…”
Cỏ hoa góp lại một bầu xinh sao.
Đua chen thu cúc xuân đào,
Lựu phun lửa hạ mai chào gió đông…”
Bác Bửu Kỉnh cười ha hả,
kêu tôi lại bảo: “Cháu rất
giỏi, nhưng đã đọc Bích Câu
kỳ ngộ chưa đúng lắm, thành
Tây chứ không phải thành Đông.
Muốn biết Chu Hương viên còn có
gì giống vườn Bích Câu trong
Bích Câu kỳ ngộ, lần sau cháu
tới, bác sẽ dẫn cháu đi thăm
tiếp. Hôm nay cứ tạm bằng lòng
như thế, bác và ba cháu còn
phải nói chuyện.
Tôi không đợi đến lần
sau, ở Chu Hương viên tôi còn có
Như Kim là bạn học ở trường
Thế Dạ, anh Vĩnh Am con trai trưởng của
bác Bửu Kỉnh là bạn học của
các anh chị tôi, cả hai vào kéo
tôi ra nhà sau xâm nhập “cõi
thực” của Chu Hương viên. Tôi
ra nhà sau ăn mít cùng với họ.
Mùi vị của trái mít chín lấy
từ ngoài vườn khiến tôi quên
hết mọi thứ đã làm tôi mê
mẩn chỉ mấy phút trước đó
thôi.
Cụ Ưng Bình cùng con gái
Hỷ Khương
trước cổng Chu Hương viên khi chưa bị phá
bỏ do mở đường (ảnh trên mạng Google).
trước cổng Chu Hương viên khi chưa bị phá
bỏ do mở đường (ảnh trên mạng Google).
Thì ra Chu Hương viên của
cụ Ưng Bình không chỉ là “cõi
thơ”. Nó còn có “cõi
thực” ở phía trước và “cõi
mộng” ở phía sau. Phía trước,
phía sau là bối cảnh được
thiết trí trên một mặt bằng mà
các ngôi nhà chính, phụ, và
vườn hoa là trung tâm như tôi đã
mô tả chấm phá ở trên. Phía
trước là vườn cây trái và
là nơi trồng các loại cây phục
vụ bếp núc: chanh, ớt, rau thơm, tía
tô, bạc hà, môn bẹ tím…
Phía sau là khu vực tiếp giáp bờ
sông, với những cây lưu niên như
mít, nhãn vải, vú sữa… những
gò nống hoa dại, những lối đi nhỏ
trông giống như một góc rừng nhỏ.
Phía trước và phía sau,
“cõi thực” và “cõi mộng”
cũng là thời gian trong cuộc đời
của thi sĩ. Tôi còn đến Chu Hương
viên nhiều lần nữa – cho đến
biến cố tết Mậu Thân (1968). Và
nhiều lần nhớ nghĩ về vườn
Bích Câu của cụ Ưng Bình cho đến
tuổi già để nhận biết sự
thật này.
Trước khi qua đời (cuối hè
1963) cha tôi còn đưa tôi đến
Chu Hương viên hai lần. Một lần ông
được bác Bửu Kỉnh mời uống
rượu ngắm hoa quỳnh nở vào buổi
tối. Một lần vào buổi chiều bác
Bửu Kỉnh mời ông đến nghe nghệ
sĩ Minh Mẫn tài danh hò và ca các
sáng tác của cụ Ưng Bình.
Gia đình tôi sau biến cố
“vụ gạo miền Trung” lâm vào
tình trạng khó khăn. Thiếu thốn
và khủng hoảng là chuyện hàng
ngày. Trước tình cảnh bức bách
ấy cha tôi phải đi làm thư lại
tại Quảng Nam và mỗi chiều thứ
bảy lại về nhà với câu chuyện
những chiếc bao bố căn phồng xác
người trôi trên sông Thu Bồn cùng
những âm thanh khủng khiếp của hận
thù, chết chóc mà ông nghe được
từng đêm đã làm cho mẹ tôi
khóc rưng rức. Do vậy mà việc
uống rượu ngắm hoa quỳnh nở của
người lớn vào thời điểm đó
(cuối năm 1962) đối với tôi vẫn
còn là một trở ngại tâm lý.
Nhưng khi nghe nghệ sĩ Minh Mẫn hò và
ca Huế thì lại là một cảm nhận
khác.
“Chiều chiều trước bến
Văn Lâu,
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông?
Thuyền ai thấp thoàng bên sông
Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non.
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông?
Thuyền ai thấp thoàng bên sông
Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non.
Tôi đã chép và học
thuộc lòng bài vè này vào
mùa hè năm 1958 sau khi học xong lớp
tư (lớp hai bây giờ). Rất thích
nhưng không xao xuyến, không rung động
cả tâm thân như khi trực tiếp nghe
cô Minh Mẫn hò tại Chu Hương viên
bốn năm sau (1962). Cái “lòng nước
non” tôi không hình dung được
như thế nào vào thời điểm
kỳ diệu đó. Nhưng điệu hò,
chất giọng và cách luyến láy
của người nghệ sĩ, đặc biệt
là 9 tiếng ai của người sáng tác
đã tra vấn và theo tôi suốt cả
cuộc đời. Chính “cái lòng
nước non” đã níu chân tôi
lại…
Sau khi cha tôi qua đời, tôi còn
đến Chu Hương viên hai lần nữa.
Một lần theo lời nhắn của bác
Bửu Kỉnh rằng Chu Hương viên còn
có nhiều chỗ rất giống vườn
Bích Câu mà tôi chưa biết. Một
lần anh Vĩnh Am nói là có trái
mít đã chín. Dường như cả
bác Bửu Kỉnh và anh Vĩnh Am đều
muốn chia sẻ phần nào nỗi trống
vắng hụt hẫng của đứa con vừa
mới mất cha.
Tôi xuống. Bác Bửu Kỉnh
dẫn tôi đi thăm “cõi mộng”
của Chu Hương viên. Vừa đi bác
vừa bảo cháu hãy đọc tiếp
Bích Câu kỳ ngộ. Tôi không đọc
tiếp mà đọc từ đầu:
“Thành Tây có cảnh
Bích Câu,
Cỏ hoa góp lại một bầu xinh sao.
Đua chen thu cúc xuân đào,
Lựu phun lửa hạ, mai chào gió đông.
Xanh xanh dãy liễu ngàn thông,
Cỏ lan lối mục, rêu phong dấu tiều.
Một vùng non nước đìu hiu,
Phất phơ gió trúc, dặt dìu mưa hoa…
Cỏ hoa góp lại một bầu xinh sao.
Đua chen thu cúc xuân đào,
Lựu phun lửa hạ, mai chào gió đông.
Xanh xanh dãy liễu ngàn thông,
Cỏ lan lối mục, rêu phong dấu tiều.
Một vùng non nước đìu hiu,
Phất phơ gió trúc, dặt dìu mưa hoa…
Cõi thơ và cõi mộng của
Chu Hương viên chỉ có sự khác
biệt trong ngôn ngữ, nó không có
ranh giới trong cấu trúc tổng thể. Bởi
cõi thơ còn là cõi mộng trong
tâm hồn thi sĩ.
Qua khỏi vườn hoa là tới
vườn rừng. Cái tên vườn rừng
là do tôi đặt. Bác Bửu Kỉnh
không gọi nó là gì. Vườn
rừng nằm hai bên con đường nhỏ
dẫn từ sân ra bờ sông. Bác Bửu
Kỉnh chỉ trỏ và dẫn giải cái
này cái nọ và hướng dẫn
tôi đi trên những “dấu tiều”
bên những đám cỏ, những bờ
rêu. Cha tôi giải thích “dấu
tiều” là lối đi của người
tiều phu trong rừng. Đó là con đường
mòn do người kiếm củi hay người
đốn gỗ để lại sau nhiều năm
vào rừng mưu sinh.
Còn “dấu tiều” trong vườn nhà quí tộc thi bá là lối đi nhỏ (vừa đủ cho một người đi một cách thận trọng để tránh dẫm lên cỏ hoa) quanh co được thiết trí giữa những đám cỏ rêu, những cụm hoa dại nhiều màu, những gò nống đá, cây cổ thụ (đa phần là cây có dáng đẹp và có hoa) và lùm bụi, những ao hồ nho nhỏ với súng với sen. Tất cả được chăm sóc công phu tinh tế nhưng cố gắng giảm thiểu dấu vết do bàn tay con người.
Bến sông của Chu Hương viên là một dãy dài những khối đá to nhỏ dưới tán những cây sung, cây cừa cổ thụ, hai bên những bậc cấp và một tấm bê tông lớn. Rễ của những cây cổ thụ uốn lượn bám vào bờ tạo nên những chỗ rộng vừa đủ để ngồi uống rượu, ngắm trăng và neo đậu thuyền. Bác Bửu Kỉnh nói thời nhà bác còn thịnh vượng, cụ Ưng Bình thường hay dạo thuyền hoặc tổ chức ngâm vịnh, đàn ca xướng hát trên sông Hương. Tôi hỏi nhà bác còn có những lúc không thịnh vượng nữa sao? Bác Bửu Kỉnh xoa đầu tôi, cười buồn: “Nhà bác cũng như nhà cháu, cũng như Vỹ Dạ, Huế và cả đất nước thôi, có lúc như thế này, cũng có lúc như thế kia. Vua mà còn bị giết, bị đày huống hồ là…”
Còn “dấu tiều” trong vườn nhà quí tộc thi bá là lối đi nhỏ (vừa đủ cho một người đi một cách thận trọng để tránh dẫm lên cỏ hoa) quanh co được thiết trí giữa những đám cỏ rêu, những cụm hoa dại nhiều màu, những gò nống đá, cây cổ thụ (đa phần là cây có dáng đẹp và có hoa) và lùm bụi, những ao hồ nho nhỏ với súng với sen. Tất cả được chăm sóc công phu tinh tế nhưng cố gắng giảm thiểu dấu vết do bàn tay con người.
Bến sông của Chu Hương viên là một dãy dài những khối đá to nhỏ dưới tán những cây sung, cây cừa cổ thụ, hai bên những bậc cấp và một tấm bê tông lớn. Rễ của những cây cổ thụ uốn lượn bám vào bờ tạo nên những chỗ rộng vừa đủ để ngồi uống rượu, ngắm trăng và neo đậu thuyền. Bác Bửu Kỉnh nói thời nhà bác còn thịnh vượng, cụ Ưng Bình thường hay dạo thuyền hoặc tổ chức ngâm vịnh, đàn ca xướng hát trên sông Hương. Tôi hỏi nhà bác còn có những lúc không thịnh vượng nữa sao? Bác Bửu Kỉnh xoa đầu tôi, cười buồn: “Nhà bác cũng như nhà cháu, cũng như Vỹ Dạ, Huế và cả đất nước thôi, có lúc như thế này, cũng có lúc như thế kia. Vua mà còn bị giết, bị đày huống hồ là…”
Tôi theo bác Bửu Kỉnh vào
nhà. Sau lưng tôi là “một vùng
non nước đìu hiu”.
Lần cuối cùng tôi đến
“vườn Bích Câu của cụ Ưng
Bình” sau đó không lâu. Lần
đó anh Vĩnh Am mang lên nhà tôi
một nải chuối, mấy trái hồng,
mấy trái vú sữa (nói là lấy
trong vườn) để cúng cha tôi. Anh
Vĩnh Am còn chở tôi xuống nhà
anh ăn mít. Bác Bửu Kỉnh và mọi
người tề tựu hết ở nhà
dưới, đang bàn luận về phong trào
Phật giáo (lúc bấy giờ vào
khoảng giữa tháng 10-1963).
Trên bàn không chỉ có
mít mà có cả ổi, vú sữa,
thanh trà. Ở bàn bên kia bày la liệt
nhiều nải chuối, nhiều trái hồng,
mãng cầu, đu đủ và cả trầu
cau. Anh Vĩnh Am nói chuẩn bị kỵ bà
nội và cúng Phật. Mít không
được ngon nhưng cuộc nói chuyện
râm ran rất vui. Ai cũng mong phong trào Phật
giáo kết thúc, cuộc sống trở
lại bình thường. Tôi hỏi anh Vĩnh
Am có phải tất cả trái cây trên
bàn kia là lấy từ trong vườn?
Anh bảo phải. Tôi hỏi có phải
vườn cây trái là “cõi
thực” của Chu Hương viên? Cả
anh Vĩnh Am và bác Bửu Kỉnh đều
cười thành tiếng. Anh Vĩnh Am nói:
“Cái con nhỏ này đi đâu,
làm gì, nói gì cũng quay trở
lại vườn”. Bác Bửu Kỉnh
lại nói: “Nếu “cõi thực”
chỉ là vườn cây trái thì
hạnh phúc biết chừng nào, mà
như thế thì đâu còn là cõi
thực nữa mà là cõi mơ, cõi
mộng, là vườn địa đàn
rồi. Có điều vườn cây trái
của Chu Hương viên cháu cũng nên
xem qua để hết tò mò.”
Diện tích của Chu Hương
viên chừng một mẫu tây. Trừ diện
tích làm nhà, sân, vườn hoa,
vườn cảnh khoảng 7000m,2
còn lại trên dưới 3000m2
là vườn cây trái, rau dưa và
cả sân gia súc, gia cầm. Bác Bửu
Kỉnh nói: “Từ hồi
ông cụ và con cháu nhà này
theo Phật, việc chăn nuôi giảm dần
rồi bãi bỏ.” Tôi
theo bác Bửu Kỉnh đi một vòng
khắp khu vực phía sau nhà chính,
quanh khu vực nhà phụ và bếp, ra phía
đường cái rồi vòng trở lại
vườn hoa và sân. Lúc quay trở
lại bàn, bác Bửu Kỉnh tiếp tục:
“Thời gia đình còn
thịnh vượng, ông cụ đi làm
quan, giao lưu họ tộc, bạn bè và
du lịch khắp cả nước, tới đâu,
thấy cây gì quí, trái gì ngon
là lấy giống đem về trồng: Nhãn
vải Hưng Yên, cam sành, sầu riêng,
măng cụt, chôm chôm, mãng cầu
xiêm, mãng cầu dai… Nam kỳ lục
tỉnh, cam xà đoài Nghệ An, thanh trà
Nguyệt Biều, quít Mỹ Lợi, Hương
Cần, xa-bu-ti ở vườn ươm canh nông…
mỗi thứ vài cây. Nhưng cháu thấy
đó, hầu như tất cả đều
không tồn tại, hoặc thoái hóa.
Vườn nhà bác cuối cùng còn
lại những cây trái quen thuộc: chuối,
mãng cầu, mít, vú sữa, đu đủ,
chanh…Tất cả cũng đang trên đà
suy thoái lụi tàn. Cây hồng mới
lấy giống đâu từ Lạng Sơn Cao
Bằng gì đó cũng không thích
hợp, cây suy yếu mòn mỏi dần,
trái nhiều nhưng nhỏ, đem trồng
trong vườn hoa làm cảnh…”
Tôi hỏi bác Bửu Kỉnh:
“Lần đầu tiên đến
Chu Hương viên cùng cha cháu, cháu
chỉ chú ý những cây hoa trồng
không ngay hàng thẳng lối ở ngõ
vào, nhưng vừa rồi đi xem vườn
với bác, cháu thấy bên trong các
bụi hoa là hai hàng cau thẳng tắp.
Tại sao vườn nhà bác cũng như
vườn nhà cháu trồng cau thành
hàng thẳng ở hai bên lối vào mà
không trồng ở những vị trí khác
trong vườn?”
Bác Bửu Kỉnh nói:
“Về hình thức, tàn lá
cây cau trông như cái lọng. Xứ
Huế là xứ sở của vua chúa, lọng
được dùng khi các vị di chuyển.
Huế cũng là xứ sở của tế
lễ, lọng dùng để che các mâm
bàn lễ vật khi đưa rước. Hai
hàng chè tàu được cắt tỉa
tươm tất ở phía dưới, hai
hàng cau ngay hàng thẳng lối với vòm
lá trông như hai hàng lọng ở
phía trên, lối vào của một khu
vườn nhà vừa biểu tỏ niềm
hy vọng về một cuộc sống hạnh
phúc trong vinh hoa phú quí, vừa để
che nắng cho người đi.
Cau trầu còn được người
Huế sử dụng trong các dịp giao tế
hàng ngày (miếng trầu là đầu
câu chuyện) và trong tất cả các
lễ Tết, cúng giỗ, kỵ chạp, đặc
biệt là trong các dịp cưới hỏi.
Nhiều nhà vườn ở Vỹ
Dạ, ở Huế trồng cau ở vị trí,
theo mô hình và mục đích như
thế. Ông cụ nhà bác muốn phá
cách đôi chút nên thay vì trồng
chè tàu như nhà cháu, ông
trồng các loại cây hoa ở hai bên
lối vào dưới những lọng vòm
lá tàu cau với ngụ ý chào
đón, đưa tiễn thân tình mà
trang trọng”.
Câu chuyện của bác Bửu
Kỉnh làm tôi say mê. Đó là
lần sau cùng tôi mon men tiếp cận Chu
Hương viên. Nhưng người của Chu
Hương viên, anh Vĩnh Am, vẫn tiếp
tục lui tới nhà tôi cho đến tết
Mậu Thân. Đêm ba mươi Tết năm
ấy, anh Vĩnh Am, anh Bửu Hàm (con cụ
Ưng Luận) đổ xăm hường với
chúng tôi đến gần giao thừa mà
chưa muốn về. Mẹ tôi đã
“đuổi” để các anh về
sum họp với gia đình trong dịp năm
mới.
Sau cái đêm kinh hoàng ngàn
năm có một ấy, anh Vĩnh Am không
bao giờ trở lại nhà tôi nữa.
Chiến tranh, hận thù đã cướp
đi người con trai đầu của bác
Bửu Kỉnh, người cháu đích
tôn của cụ Ưng Bình, người
bạn vong niên của tôi, người rắp
tâm đem cau trầu đến xin hỏi cưới
chị hai tôi. Nhiều năm sau mẹ tôi
vẫn còn ân hận vì đã hành
động rập khuôn theo tập quán.
Chiến tranh, chiến tranh, chiến
tranh...! Biến cố, biến cố, biến cố…!
Cách mạng, cách mạng, cách mạng…!
Bác Bửu Kỉnh và gia đình buồn
rầu bỏ Huế ra đi sau biến cố Mậu
thân và qua đời lúc nào, ở
đâu tôi không hay biết. Chu Hương
viên từ 1968 trở nên tiêu điều,
nhà cửa xuống cấp, nhưng người
ra vào, qua lại thì nhốn nháo hơn.
Mỗi lần có việc đi qua, ngó vào,
lòng tôi buồn rầu xao xuyến.
Sau 1975 khu vườn có thêm nhiều
người ở và hình như ngôi
nhà chính biến thành xưởng thêu
ren… Cõi thơ, cõi mộng tan biến
như chưa từng có trong cõi thực
đắng cay, bạo tàn, hoảng loạn của
mùa xuân 1975.
Tôi nhớ lại lời nói buồn
rầu, bỏ lững của bác Bửu Kỉnh
trong lần cuối tôi đến vườn
Chu Hương: “Nếu cõi thực chỉ
là vườn cây trái thì hạnh
phúc biết chừng nào…”
Tháng ba năm 1986 tôi có việc
đi Hà Nội. Tại Viện Nhi (lúc bấy
giờ là bệnh viện nhi Việt Nam - Thụy
Điển còn gọi là Viện nhi Olop
Palmer), một đồng nghiệp trở nên
thân quen vì cha cô là thi sĩ và
tôi thì hâm mộ và thuộc nhiều
thơ của ông. Nhà thơ Tế Hanh và
bác sĩ Thanh Phước coi tôi như học
trò và là người bạn tâm
tình biết lắng nghe về thơ, về
Quảng Ngãi, về Huế và về Hà
Nội. Nhờ hai vị mà tôi có được
những ngày ở Hà Nội thú vị
và phong phú.
Nhà thơ Tế Hanh đánh giá
cao Bích Câu kỳ ngộ. Ông cho rằng
trong số các trường ca thuộc văn
học cổ điển như Truyện Kiều,
Cung Oán Ngâm Khúc, Chinh Phụ Ngâm,
Hoa Tiên… thì Bích Câu kỳ ngộ
mang nhiều tính chất nội địa hơn
hết. Thể thơ lục bát điêu
luyện chuyển dịch từ một tác
phẩm bằng Hán văn của một tác
giả Việt Nam (Đoàn thị Điểm?).
Bích Câu kỳ ngộ là một câu
chuyện truyền kỳ nhưng thời gian và
không gian diễn biến trong tác phẩm
lại rất cụ thể (triều Lê và
Hà Nội). Những địa danh trong Bích
Câu kỳ ngộ như chùa Ngọc Hồ,
cầu Đông, đền Bạch Mã…
ngày nay chúng ta có thể tìm thấy
dấu vết trên một vùng rộng lớn
thuộc nội thành Hà Nội. Có lẽ
Văn miếu Quốc tử giám là trung
tâm để các nhân vật trong vườn
Bích Câu qui hướng về. Cũng như
kinh thành Huế đối với Vỹ Dạ
vậy.
Tôi nghe nói (không qua nhà
thơ Tế Hanh và cô bạn bác sĩ
Thanh Phước) có một phường Bích
Câu đang tồn tại gần khu vực Văn
Miếu. Tôi một mình tìm đến
mong bắt gặp chút gì đó hao hao
trong tâm tưởng. Và cái mà tôi
đã thấy là một con đường
đất đá mang tên Bích Câu
với tấm bảng ghi tên đường
lắc lư trên cái cọc gỗ xiu vẹo.
Đường nhỏ, mấp mô, xe cộ vắng
hoe, người qua lại lưa thưa lầm lũi,
phố xá tiêu điều lấm lem bụi
đất, rác rưởi; ở bên phải
hay bên trái gì đó có một
lò gạch bỏ không, cỏ cây nhếch
nhác và đồ phế thải ngổn
ngang hoang phế. Đối diện lò gạch
là “Cửa hàng bán rau thịt tươi
sống Thanh niên làm theo lời Bác”.
Quả là một phần của đất
nước đìu hiu, một thứ đìu
hiu đậm đà bản sắc Xã hội
Chủ nghĩa đang thời kỳ tiến xuống
để rồi ngóc đầu lên với
kinh tế thị trường cổ nọng - bụng
phệ - ngực bự - chân dài như Vỹ
Dạ ngày nay.
Vườn Vỹ Dạ và bài thơ Ở Đây thôn Vỹ Giạ.
Vườn Vỹ Dạ vốn là
cõi thơ. Cõi thơ ấy được
làm nên bởi nhiều thế hệ văn
nhân, thi sĩ tài danh (Tuy Lý Vương,
Ưng Bình Thúc Giạ Thị, Nguyễn
Khoa Vi, Võ Ngọc Trác, Trần Vàng
Sao, Nguyễn Khoa Điềm…) và nhiều
thế hệ những người (chủ) làm
vườn nghệ sĩ, cùng một bối
cảnh tự nhiên: cỏ cây, sông nước,
trời trăng, mây gió…
Cõi thơ ấy vang xa và thấm
sâu hơn vào lòng độc giả từ
khi Hàn Mạc Tử trong cơn run rẩy tuôn
trào thi hứng và cơn đau tột cùng
của thân tâm đã sáng tác
nên Ở Đây Thôn Vỹ Giạ.
Cái cõi thơ ấy vang xa và
thấm sâu hơn nữa khi rất nhiều
những cảm nhận và nghiên cứu văn
học của nhiều thế hệ tác giả
(như Trần Thanh Mại, Quách Tấn, Chế
Lan Viên, Đặng Tiến…) đã
cung ứng cho người đọc những khám
phá ngày càng mới mẻ, tinh tế
và phong phú hơn về bài thơ bất
hủ và nhà thơ bất tử.
Người Vỹ Dạ ít văn
chương chữ nghĩa như (chúng) tôi,
không thể không trân trọng biết
ơn tất cả. Trong niềm biết ơn trân
trọng ấy, từ góc nhìn của một
cây lau lạc loài, tôi xin góp một
cách tiếp cận (từ của Đặng
Tiến) bài thơ Ở đây Thôn Vỹ
Giạ.
Bài thơ chỉ vọn vẹn 12 câu
mà đến thời điểm này, sau
hơn bảy mươi năm xuất hiện trên
thi đàn, các thế hệ nhà nghiên
cứu và người yêu thơ vẫn còn
có nhu cầu đào bới, khám phá
để kiếm tìm cái đẹp của
ngôn từ, nhạc điệu và tâm
tư mà nhà thơ thiên tài mệnh
bạc đã cất giấu trong đó.
Ở đây thôn Vỹ Giạ là
một lời giới thiệu, một lời mời,
một nỗi mong ngóng trông chờ, một
nỗi buồn man mác, một nỗi cô đơn
thê thiết, một mối thâm tình
trong sáng thủy chung giữa cõi nhân
gian mịt mù sương khói.
Hàn Mạc Tử đã nhân
danh ai để giới thiệu, để mời,
để bày tỏ…?
Phải chăng ông đã nhân
danh cá nhân mình – chủ thể yêu
đương?
Phải chăng ông đã nhân
danh Hoàng Hoa – đối tượng yêu
thương?
Phải chăng ông nhân danh là
một thi sĩ, người đã khám
phá ra cái hồn của Vỹ Giạ mà
ông tự coi mình có sứ mệnh mời
gọi những ai khát khao tìm đẹp
đến cùng ông chiêm ngắm và
chia sẻ nỗi thương đau. Cái giả
định thứ ba này xem ra gần với sự
thật hơn hết. Bởi Vỹ Dạ là
cái đẹp, cái đẹp nhất thể
trong đó có Hoàng Cúc, có nỗi
buồn, nỗi cô đơn mong ngóng trông
chờ. Và cũng bởi mối tình thâm
trong sáng thủy chung không bao giờ dứt
mà ông đã tự tan biến, hòa
nhập cùng Vỹ Giạ trong một giấc
mơ xa vời, cho dù “Ở
đây (có) sương khói mờ nhân
ảnh”
Sao anh không về chơi thôn Vỹ?
Đích thực là một lời mời
có chút trách móc và rất
nhiều tin cậy, đằm thắm thân
thương. Có người (Quách Tấn
chăng?) cho đây là lời mời của
Hoàng Cúc. Chắc là không phải.
Bởi đến thời điểm này (giữa
năm 1939) Hoàng Cúc chưa một lần
hồi đáp một chút “tình
ai”. Và
Hàn Mạc Tử cho dù trong “cơn
đau vùi”
(từ mượn của Trịnh Công Sơn –
qua Đặng Tiến) lúc tỉnh lúc mê
cũng không xem bức bưu thiếp Hoàng
Cúc gởi là một thông điệp
yêu đương của người tình
trong tâm tưởng. Rất nhiều khả
năng Hàn Mạc Tử xem sự xuất hiện
của bạn ông, Hoàng Tùng Ngâm,
với tấm bưu thiếp của Hoàng Cúc
là sứ giả của một Vỹ Giạ
hiện hữu như là cái đẹp
tổng thể bao gồm người con gái có
khuôn mặt chữ điền trong bối cảnh
khu vườn có nắng hàng cau, có
lá trúc che ngang…
Cái đẹp của nắng hàng
cau qua nhãn quan Hàn Mạc Tử chỉ xuất
hiện trong một khoảnh khắc. Khoảnh khắc
đó là lúc “nắng
mới lên”. Nắng mới lên khi mặt
trời còn dưới thấp. Khi mặt trời
đã lên cao thì nắng đã
chiếu xuống. Mà nắng đã chiếu
xuống thì không còn những giọt
sương đêm lóng lánh trên
những tàu cau, và lá trong vườn
cũng không còn “mướt quá
xanh như ngọc”.
Nắng xuống trong vườn cũng có cái
đẹp riêng của nó. Nhưng qua bốn
câu của đoạn thơ đầu, Hàn
Mạc Tử đã không mời chúng
ta đến thăm Vỹ Giạ
vào các thời điểm
khác của nắng xuống. Nhà thi sĩ
– hướng dẫn viên du lịch tâm
hồn – khó tính này, chỉ mời
chúng ta đến chiêm ngắm thôn Vỹ
Giạ vào cái khoảng khắc tinh khôi
của ngày mới. Và chỉ khoảnh
khắc ấy thôi.
Cái đẹp của Vỹ Giạ trong khoảnh khắc ấy là một tương quan được tập hợp thành một chỉnh thể gồm các yếu tố không thể tách rời. Giả định một trong những yếu tố đó mất đi, lập tức cái tương quan kỳ diệu ấy bị phá vỡ và cái đẹp của Vỹ Giạ mà Hàn Mạc Tử mời chúng ta đến chiêm ngắm tất nhiên không thể hiển hiện. Chưa có “nắng mới lên” trên những tàu lá cau, thì “vườn ai” đang chuyển dần từ màu xanh tối qua màu xanh mờ (tôi tạm gọi là màu hồ thủy), chứ chưa “mướt quá” và chưa “xanh như ngọc”.
Và khuôn mặt chữ điền của “ai đó” ở phía sau khóm trúc cũng chưa phát lộ hết vẻ yêu kiều thần thánh. Tuy nhiên, “nắng mới lên…”, và “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” mới chỉ là những yếu tố cần, chưa phải là yếu tố quyết định, nếu “ai đó” không xuất hiện. “Ai đó” không xuất hiện thì “Vườn ai” dù có nắng…, có mướt xanh như thế nào cũng trở nên vô hồn, vô nghĩa. Vẻ đẹp của H. Hoa qua câu thứ ba của đoạn thơ này của Hàn Mạc Tử không phải là vẻ đẹp của người con gái trong ca dao: Em xinh, em đứng một mình cũng xinh.
Cái đẹp của Vỹ Giạ trong khoảnh khắc ấy là một tương quan được tập hợp thành một chỉnh thể gồm các yếu tố không thể tách rời. Giả định một trong những yếu tố đó mất đi, lập tức cái tương quan kỳ diệu ấy bị phá vỡ và cái đẹp của Vỹ Giạ mà Hàn Mạc Tử mời chúng ta đến chiêm ngắm tất nhiên không thể hiển hiện. Chưa có “nắng mới lên” trên những tàu lá cau, thì “vườn ai” đang chuyển dần từ màu xanh tối qua màu xanh mờ (tôi tạm gọi là màu hồ thủy), chứ chưa “mướt quá” và chưa “xanh như ngọc”.
Và khuôn mặt chữ điền của “ai đó” ở phía sau khóm trúc cũng chưa phát lộ hết vẻ yêu kiều thần thánh. Tuy nhiên, “nắng mới lên…”, và “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” mới chỉ là những yếu tố cần, chưa phải là yếu tố quyết định, nếu “ai đó” không xuất hiện. “Ai đó” không xuất hiện thì “Vườn ai” dù có nắng…, có mướt xanh như thế nào cũng trở nên vô hồn, vô nghĩa. Vẻ đẹp của H. Hoa qua câu thứ ba của đoạn thơ này của Hàn Mạc Tử không phải là vẻ đẹp của người con gái trong ca dao: Em xinh, em đứng một mình cũng xinh.
“Ai đó” là yếu tố
quyết định để làm nên một
“vườn ai”,
nhưng không phải là yếu tố duy
nhất, độc lập, ở ngoài cái
bối cảnh là khu vườn Vỹ Dạ
trong buổi tinh mơ. Đặng Tiến trong bài
“Hàn Mạc Tử và bài thơ
Thôn Vỹ” (số đặc biệt 100
năm Hàn Mạc Tử – diendan.org) đã
rất chính xác khi viết rằng:
“…Nó là một tâm
cảnh, một thực thế duy nhất, cần
được nhìn và cảm nhận như
một tổng hòa toàn bích, và
cảm nhận bằng trực quan thẩm mỹ.”
Tôi hoàn toàn tâm đắc
với nhận định của ông, nhưng
tôi không theo nổi đề nghị của
ông. Bởi tôi chưa đạt tới cái
khả năng thượng thừa là trực
nhận, nên tôi còn phải tra vấn.
Vườn ai theo Đặng Tiến là
một thực thể duy nhất,
một tổng hòa toàn bích,
nghĩa là không thừa và cũng không
thiếu, không cần thêm, và cũng
không thể cắt bỏ bất cứ chi tiết
nào dù rất nhỏ. Và như thế,
“mặt chữ
điền”, theo
tôi, nhất thiết phải được “lá
trúc che ngang”.
Nhưng tại sao “mặt
chữ điền”
phải được “lá
trúc che ngang”?
Hàn Mạc Tử đã sống
ở Huế nhiều năm thời niên thiếu,
là bạn tâm giao của nhiều người
Huế - Vỹ Dạ, văn nhân thi sĩ (Hoàng
Tùng Ngâm, Trần Thanh Mại, Trần Thanh
Địch, Trần Tái Phùng…); khi
trưởng thành, ông không thể không
thấm thấu cái cảm quan thẩm mỹ
của người Huế về vẻ đẹp
của khuôn mặt phụ nữ. Khuôn mặt
phụ nữ Huế ưa nhìn có hình
trái xoan chứ không phải chữ điền.
Người Huế rất có thành kiến
với những bà những cô có khuôn
mặt chữ điền. Mặt chữ điền
là vẻ đẹp trời cho của nam giới.
Nó chứng tỏ nghị lực, sự cứng
cỏi, nghiêm nghị và uy quyền.
“Lá trúc che ngang mặt chữ
điền”: là một
sắp đặt của nhà thi sĩ để
được chiêm ngắm “cái cặp
mắt đen nháy đầy thi vị” của
người con gái Huế là H. Hoa mà
ông đã bị hớp hồn ngay từ
lần chợt thấy đầu tiên năm
1932 tại Qui Nhơn. (xem thêm lời tâm
tình của Hàn Mạc Tử)(4)
Cái “nết
na thùy mị đoan trang”
cũng đã làm ông say đắm
nhưng sau gần chục năm đeo đuổi
mà bị chối từ, càng lúc ông
càng thực tế và sáng suốt nhận
ra rằng chẳng bao giờ nó thuộc về
ông cả. Nó tất yếu thuộc về
cái cấu trúc huyết tộc và gia
phong đã sản sinh và khuôn đúc
nên nó.
“Lá trúc che ngang” xem ra
không thuận tai, vừa ý người nghe
và người đọc thơ bình thường
như chúng tôi. Đã rất nhiều
lần tôi tự hỏi và hỏi bất
cứ ai: tại sao không “che nghiêng”
mà “che ngang”? Phải chăng Hàn
Mạc Tử trong cái khoảnh khắc “chợt
tỉnh” giữa những cơn đau và
mê dài đã không kịp trau chuốt
ngôn từ.
Tôi đã tìm thấy những
lời giải thích uyên bác, thâm
thúy và tinh tế của Đặng Tiến:
“Lá trúc che ngang… Lá
trúc ở đây, là rào dậu,
phân định ranh giới của vườn.
Không rào dậu thì không thành
vườn. Vườn là một bộ phận
môi giới, giữa cõi trong và cõi
ngoài, chưa phải là cõi riêng
nhưng không còn là của chung. Là
trung gian giữa thiên nhiên và văn hóa.
Là nhân loại chuyển mình từ đời
sống du mục sang đời sống định
cư, là giấc mơ đoàn tụ giữa
Chức Nữ với Ngưu Lang, lời tình
tự lứa đôi, có cu gáy và
bướm vàng nữa chứ…(Huy Cận).
Là hạnh phúc có khi đang thực
tại, có khi trong ước mơ hay niềm
tiếc nuối một thiên đường đã
mất. Thiên đường xanh những mối
tình thơ dại, chẳng hạn, như thơ
Baudelaire, một trong những bậc thầy Hàn
Mạc Tử”
Anh Chu Sơn, chồng tôi, bảo:
“Cũng như cặp từ “Ở đây”
trong đầu đề và câu áp cuối
của bài thơ, nhà thi sĩ đồng
thời là nghệ sĩ sắp đặt đã
rất hiện thực khi sử dụng hai từ
“che ngang” ở câu thứ tư của
đoạn thơ đầu. “Che ngang” vừa
có tác dụng thẩm mỹ, vừa gây
cảm thức che chắn, phòng vệ”.
Về mặt thẩm mỹ: Khuôn mặt
chữ điền, nếu “Lá trúc che
nghiêng,” phần còn lại sẽ trở
nên lập thể, góc cạnh, khó coi
và xa lạ trong cái nhất thể vườn
Vỹ Dạ và tâm thức Hàn Mạc
Tử.
Trong tương quan xã hội, “che
ngang” là che chắn, là ngăn chặn,
là rào cản.
Ai che chắn, ai ngăn chặn, ai rào
cản trong bối cảnh vườn Vỹ Dạ
vào cái khoảnh khắc tinh mơ này?
Lá trúc, cái công cụ thẩm mỹ
bỗng dưng trở thành biểu tượng
của uy quyền gia trưởng.
Lá trúc ở đây là
cây trúc. Cây trúc đốt tù,
thân thẳng, vẻ đẹp và dáng
đứng mạnh mẽ tượng trưng cho
người quân tử tiết trực tâm
hư (thân ngay chính – lòng rỗng
không) trong truyền thống triết lý,
thẩm mỹ của người Huế, người
Việt Nam, thuộc tầng lớp trên. Đến
thời điểm thập niên 1930 của thế
kỷ XX, cây trúc vẫn còn hiện
diện phổ biến tại các khu vườn
Vỹ Dạ, để cùng với các cây
mai, lan, cúc hình thành nên bộ tứ
Mai - Lan - Cúc -Trúc danh giá gọi là
tứ quí tương ứng với tứ thời
Xuân - Hạ - Thu - Đông.
Không ít những ông chủ
nhà vườn ở Vỹ Dạ, ở Huế,
ở Việt Nam đến thời buổi ấy
vẫn nhận mình là quân tử cho dù
tình thế đã điên đảo
như thế nào, gia đạo có suy vi
đến đâu, các cụ vẫn giữ
Nếp Nhà. (Nếp Nhà, tên tác
phẩm nổi tiếng của Bửu Kế). Gần
mười năm mê mẩn người con gái
“nết na thùy mị và đoan trang”
có “cặp mắt đen
nháy đầy thi vị” trên khuôn
mặt “chữ
điền”, cuối cùng Hàn Mạc
Tử chỉ còn giữ lại cho mình
“cặp mắt đen nháy đầy thi
vị” mà
ông đã hào phóng mời chúng
ta đến chiêm ngắm vào buổi sáng
tinh mơ.
“Nắng hàng cau”
là một khoảnh khắc. “Vườn
lá ngọc” cũng là một khoảng
khắc. Nhưng “cặp
mắt đen nháy đầy thi vị”
hẳn là vĩnh cửu. Với cặp mắt
đó, Hàn Mạc Tử mời chúng
ta đến thăm Vỹ Dạ vào một
thời điểm khác trong ngày. Đó
là những buổi trưa chiều gió
đứng mây ùn ở tầng cao (nhưng
rất thấp), sông Hương bị mây
ám trở nên trầm mặc, những con
gió nhẹ ở tầng thấp chỉ đủ
làm cho dòng nước gợn những đợt
sóng lăn tăn, và những hoa bắp
bên kia cồn cũng lay trong nỗi buồn cộng
hưởng.
“Cặp mắt đen nháy đầy
thi vị”,
gió – mây, thuyền – bến –
trăng, dòng nước lăn tăn trầm
mặc, hoa bắp lay, … , tất cả hiệp
thành một tổng thể duy nhất mang tên
nỗi buồn. Ôi! sao mà tài tình
thế! Dường như nhà thi sĩ đã
trải nghiệm nhiều đời trong khu vườn
Vỹ Dạ để hóa thân cùng
“dòng nước buồn thiu”
và nỗi lòng sâu kín
của những người con gái danh gia vọng
tộc mà Con tạo, Lịch sử và Nếp
Nhà đã khóa chặt họ bao nhiêu
kiếp ở phía sau những cành lá
trúc.
“Gió theo lối gió, mây
đường mây” trong
mọi trường hợp là biểu tượng,
là ẩn dụ của tâm cảnh. Cái
tâm cảnh mà, nói như Văn, (trong
lần trao đổi giáp vòng hai bên
đường Nguyễn Sinh Cung mùa thu năm
ngoái), là bắt đầu kết tập
nghiệp chướng từ một Vỹ Dạ
của những hộ nông dân lưa thưa
trên một vùng non nước đìu
hiu, thành một thôn làng san sát
những vương phủ và dinh cơ của
những đại thần, hoàng tôn công
tử với những cuộc vui “cổ nhân
bỉnh chúc”. “Cổ nhân bỉnh
chúc” là bắt chước người
xưa mà thắp đuốc lên cho thật
sáng để đêm biến thành ngày
hầu tiếp tục những cuộc chơi tưởng
chừng chẳng bao giờ dứt. Vỹ Dạ
được hiểu như là cái đuôi
của đêm trong tâm cảnh ấy.
Là cái đuôi của đêm,
nhưng lại là rường cột và
tâm phúc của triều đình và
hoàng tộc. Triều đình và hoàng
tộc là quyền lực và huyết hệ.
Quyền lực từ bản chất là
đối kháng, là hận thù, là
giết chóc, là chia lìa, là bế
tắc, là mê lầm, là đau khổ.
Huyết hệ là rào cản, là
giới cấm đầu tiên và cuối
cùng của khát vọng yêu đương
và hạnh phúc lứa đôi.
Triều đình nhà Nguyễn
thành lập chưa được bao lâu
thì thù trong giặc ngoài dồn dập
xẩy ra những biến cố. Người Vỹ
Dạ đã can dự vào các biến
cố ấy: Tranh đoạt ngai vàng, chống
đuổi ngoại xâm, chủ chiến hay chủ
hòa, cần vương hay đầu hàng,
nổi dậy hay làm tay sai, duy tân, chống
thuế hay Đông du, Tây du… ở phía
này hay ở phía kia đều có người
của Vỹ Dạ.
Tất cả những biến cố ấy dồn dập tác động làm thay đổi diện mạo và tâm hồn của Vỹ Dạ từ cảnh quan đến thân phận con người. Công thần bỗng chốc biến thành tội phạm của triều đình. Hoàng thân quốc thích, do áp lực của ngoại nhân, cũng có thể bị chặt đầu, bị lưu đày và bị kiết đuổi ra khỏi họ tộc vì bị kết tội là gian nhân loạn đảng, sỉ nhục tổ tiên. Trong vòng trên dưới một trăm năm, hàng chục vương phủ suy tàn, biến mất. Rất nhiều dinh cơ của các đại thần và của hai ba thế hệ con vua cháu chúa bị tịch biên, phải bán bỏ, san nhượng, thay chủ đổi tên. Dân ngụ cư, đa phần có gốc gác từ nông thôn do chiến tranh ập đến, hình thành nên những chòm xóm lạc lõng và đáng ngờ.
Tất cả những biến cố ấy dồn dập tác động làm thay đổi diện mạo và tâm hồn của Vỹ Dạ từ cảnh quan đến thân phận con người. Công thần bỗng chốc biến thành tội phạm của triều đình. Hoàng thân quốc thích, do áp lực của ngoại nhân, cũng có thể bị chặt đầu, bị lưu đày và bị kiết đuổi ra khỏi họ tộc vì bị kết tội là gian nhân loạn đảng, sỉ nhục tổ tiên. Trong vòng trên dưới một trăm năm, hàng chục vương phủ suy tàn, biến mất. Rất nhiều dinh cơ của các đại thần và của hai ba thế hệ con vua cháu chúa bị tịch biên, phải bán bỏ, san nhượng, thay chủ đổi tên. Dân ngụ cư, đa phần có gốc gác từ nông thôn do chiến tranh ập đến, hình thành nên những chòm xóm lạc lõng và đáng ngờ.
Người con gái, trong khu vườn
truyền thống đến thập niên 1930
còn bảo lưu nguyên chủ, sống cô
đơn, lẻ loi, tù túng giữa bà
con huyết hệ và láng giềng xa lạ
không môn đăng hộ đối. Quyền
lực, huyết hệ, chòm xóm dân ngụ
cư và Nếp Nhà đã nhốt các
tiểu thư con nhà khuê các trong khu
vườn kín cổng cao tường. Tâm
cảnh đã mở ra với nàng vào
các buổi trưa, chiều tối là
“dòng
nước buồn thiu,” là “bến
sông trăng,”
là mong ngóng trông chờ, là “mơ
khách đường xa,”…,
và cuối cùng là cõi nhân gian
mịt mù sương khói.
Mấy năm đầu của thập
niên 1930 mở ra với Hàn Mạc Tử
những cánh cửa của mộng mơ và
khát vọng. Tuổi trẻ với sức sống
mãnh liệt rạo rực những nhu cầu:
Nhu cầu sáng tác, kiến tạo sự
nghiệp văn chương, và nhu cầu yêu
đương bắt đầu với Hoàng
Hoa, tiểu thư khuê các của đất
Thần kinh.
Tâm cảnh cũng đã mở
ra với nàng trong khu vườn Vỹ Dạ
vào buổi trưa chiều là vẻ đẹp
của cô đơn, mong ngóng, trông chờ.
“Dòng
nước buồn thiu” và “hoa bắp
lay” là cảnh vật của một không
gian đang bị đè nén, dấu hiệu
của một cơn giông chẳng biết xẩy
ra lúc nào? Người con gái có
khuôn mặt chữ điền hay khuôn mặt
trái xoan trong khu vườn Vỹ Dạ vào
thời điểm đó, trong tâm cảnh
đó, cũng như Hàn Mạc Tử
trong căn lều rách nát trơ trọi
giữa những “cơn đau vùi” bên
mé biển chỉ còn có những giấc
mơ trăng:
“Thuyền ai đậu bến sông
trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay.
Có chở trăng về kịp tối nay.
Cả Hàn Mạc Tử, cả H. Hoa
và cả những người con gái trong
thôn Vỹ Dạ không tin rằng nỗi
mong ngóng trông chờ trăng của mình
được thỏa đáp. Trăng chắc
sẽ không về kịp tối nay. Thực tế
là “tối nay” trăng đã không
về. Trăng không về mà đêm
về. Đêm mịt mùng về bủa vây
nỗi cô đơn tích tụ từ muôn
ngàn kiếp trước. Và đêm
cùng nỗi cô đơn khủng khiếp
đã đẩy những giấc mơ đến
cao trào.
Những ngày này ở Qui Nhơn
trong căn lều thê lương của người
cùi biết mình sắp chết, một
mình bên mé biển đìu hiu, Hàn
Mạc Tử chỉ thấy có đêm đen
và những giấc mơ cứu rỗi. Hoàng
Hoa người con gái Vỹ Dạ đã
đến với đời ông như một
định mệnh dù đã dửng dưng
trước mối tình tha thiết nồng nàn
của ông, nàng vẫn đến với
ông trong những giấc mơ như một
nàng tiên – xa.Và những lúc
này đây nàng còn đến với
như ông như một người cùng
chung thân phận – gần.
“Mơ khách đường xa
khách đường xa”.
Hàn Mạc Tử mơ, hay H. Hoa mơ
cũng thế thôi.
Mơ trong căn lều thê lương
bên mé biển đìu hiu ở Qui Nhơn,
hay mơ trong khu vườn có lá trúc
che ngang mặt chữ điền bên dòng
nước buồn thiu ở thôn Vỹ Dạ
cũng thế thôi.
Tất cả, tôi và em (Hàn
Mạc Tử và H. Hoa) đều ở đây
– trong cái cõi đời đớn đau
mịt mù sương khói này. Cái
cõi đời mà dù tôi có
yêu, có thương, có nhớ em đến
đâu, có kính ngưỡng, tôn
thờ, hy vọng vào em như thế nào,
tôi cũng không còn nhận ra em nữa.
Hàn Mạc Tử đã qui kết tội
lỗi này cho “áo em trắng quá.”
Ông dư biết sự qui kết
này là phi lí. Ông cũng đủ
tỉnh táo để nhận ra rằng cái
người con gái Huế mặc áo
trắng,“nết
na thùy mị và đoan trang”, có
“cặp mắt đen nháy đầy thi
vị”, đã hớp hồn ông trong
lần gặp gỡ đầu tiên năm 1932,
đã “un đúc cho ông thành
một tâm hồn thi sĩ”,
người có vai trò
quyết định “sự nghiệp văn
chương” của
ông, cuối
cùng cũng chỉ là ảo ảnh.
Đặng Tiến đã trích
dẫn một câu trong Cung Oán Ngâm Khúc
(Ai đem nhân ảnh nhuốm mùi tà
dương) để giúp độc giả
trẻ đời nay hiểu rõ nội dung của
câu áp chót bài thơ Ở đây
thôn Vỹ Giạ (Ở đây sương
khói mờ nhân ảnh).
Nhà khai khoáng Đặng Tiến đã
nhích gần cảm nhận siêu hình về
cõi đời (ông mô tả là kiếp
sống mong manh) của hai nhà thơ tài
danh của dân tộc sống cách nhau đến
mấy trăm năm: Ôn Như Hầu và
Hàn Mạc Tử. Đặng Tiến đã
thay chữ “trệ” của các cụ
tiền bối bằng môt kết luận dứt
khoát khi nhận định câu thơ trên.
“Hiểu như vậy là lìa
xa văn bản, nhưng xích lại gần
định mệnh thảm khốc của nhà
thơ”.
Đúng là nhà thơ tài
hoa, bất hạnh của chúng ta đã
trải nghiệm một định mệnh thảm
khốc. Nhưng, dường như Đặng
Tiến đã cố tình quên (vì
tế nhị địa phương chăng ?) rằng
là cái định mệnh thảm khốc
của nhà thơ không khác mấy với
thân phận của nàng thơ và cõi
thơ. Chẳng phải ngẫu nhiên, mà
ngay từ đầu đề, đến câu
áp chót của bài thơ, Hàn Mạc
Tử đã sử dụng hai từ Ở đây.
“Ở đây thôn Vỹ
Giạ”. “Ở đây sương khói
mờ nhân ảnh”.
Ở đây, ở kia hay ở bất
cứ nơi đâu, tất cả chúng ta,
cả tôi và cả em, và… đều
là tạo vật bé nhỏ và mong manh
của đấng chí tôn, kẻ tạo
tác và điều hành “Cái
quay búng sẵn giữa trời(5).
Khác với Ôn Như Hầu Nguyễn Gia
Thiều, Hàn Mạc Tử Nguyễn Trọng
Trí đã không oán trời trách
người mãnh liệt như một kẻ
hiện sinh dồn nén sự phẫn nộ. Có
lẽ có sự khác biệt giữa một
Thượng đế – Đức Chúa
Trời – của con chiên Nguyễn Trọng
Trí và một ông Trời – trẻ
tạo hóa – của nhà nho Nguyễn
Gia Thiều.
Trong cơn đau vùi, Hàn Mạc
Tử đã tiếp nhận tấm thiệp
do H. Hoa gửi với một thức tỉnh bất
ngờ. Tấm thiệp phong cảnh Huế ước
lệ có ghi mấy lời thăm, chúc sức
khỏe chân thành, mực thước và
không có chữ ký “của người
ngoài cuộc”. “Người ngoài
cuộc” mà ông đã yêu, đã
nhớ, đã ước mơ kỳ vọng,
đã kính ngưỡng tôn thờ từ
lần gặp gỡ đầu tiên đến
giây phút cuối cùng của cuộc
đời thảm khốc.
Thay vì viết cho H. Hoa: Xin cám ơn
em, tôi đã biết tình em. Tôi
cũng đã biết, và tôi đã
sống đến tận huyết tủy tình
tôi, Hàn Mạc Tử đã sáng
tác bài thơ Ở đây thôn Vỹ
Giạ và kết thúc bằng một câu
hỏi vừa khẳng định một tình
yêu tha thiết thủy chung, vừa biểu tỏ
một nỗi đắng cay thầm lặng của
một thân phận được an bài
giữa cõi nhân sinh phù du tăm tối:
“Ai biết tình ai có đậm đà?”
Trịnh Công Sơn trong một phút
thức tỉnh kỳ diệu giữa những cơn
đau vùi đã cô đúc những
nỗi niềm:
“Sống
giữa đời này
chỉ có thân phận và tình yêu.
Thân phận thì hữu hạn. Tình yêu
thì vô cùng. Chúng ta làm cách
nào nuôi dưỡng tình yêu để
tình yêu có thể cứu chuộc thân
phận trên cây thập giá đời”(6).
Nỗi niềm của Trịnh Công
Sơn, tâm cảnh của Hàn Mạc Tử,
của Hoàng Hoa – Hoàng Cúc, hay của
Cô giáo Hoàng Thị Kim Cúc và
Vỹ Dạ Vườn Thơ của (chúng)
tôi, và… e rằng chỉ là MỘT
trong THƯƠNG – ĐAU.
Nguyễn thị Kim Thoa
Ghi chú
(1)
Năm phổ tên làng tiếp
giáp phía đông Vỹ Dạ gồm
có năm thôn: Phổ đông, Phổ
tây, Phổ nam, Phổ bắc, Phổ trung. Nam
Phổ chỉ là tên biến hóa từ
Năm phổ. Ở lỗ là ở truồng. Ở truồng trèo cau cho khỏi vướng quần áo, làm
rách quần áo. Câu này tả thật mà cũng có vẻ châm biếm như câu"Gái Sơn
Tây yếm thủng tày giần".
(2) Phủ đệ loại hình kiến
trúc quí tộc Huế, TS Phan Thanh Hải –
huewordheritage.org.vn.
(3) Đinh Cường: Bửu Chỉ từ
những dấu tay lấm màu;
Bửu Chỉ – Đường bay
nghệ thuật và ký ức trần gian;
tuyển tập Bửu Chỉ, nhà xuất bản
Hội nhà văn, 2012.
(4) Tâm tình Hàn Mạc Tử
:“ Sự nghiệp văn chương của
tôi sau này rực rỡ vẻ vang đều
là do một mình cô H. H. tạo nên.
Hơn nữa cô lại un đúc cho tôi
thành một tâm hồn thi sĩ mà ngày
nay trong thi giới tôi đã chiếm một
địa vị cao quý. Cô là người
mà tôi thường gởi linh hồn một
bên dầu cách xa muôn ngàn dặm
đất. Trái tim của tôi bắt đầu
rung động từ năm 1932 năm tôi được
biết cô H. Hoa.
Tôi yêu cô ấy không sự
gì hơn là vì cái nết na thùy
mị và đoan trang của cô ta. Tôi
lại yêu cặp mắt đen nháy và
đầy thi vị của cô nữa.
Ước gì cô H. Hoa thấy
rõ chỗ tôi yêu cô thì còn
gì sướng bằng!
Ngùi ngùi, tôi ngảnh mặt
về hướng nhà cô H.H đốt một
nén hương tâm cầu nguyện. Xin
chuyển lời tôi kính thăm H.Hoa tiểu
thư an hảo.” (lời tâm tình
của thi sĩ HMT qua thư viết cho ông trợ
Cát); Lá trúc che ngang – chuyện
tình của cô tôi, Hoàng thị
Quỳnh Hoa, nhà xuất bản Đà Nẵng
2013, trang 80-81).
(5) Cái quay búng sẵn giữa
trời/ Mờ mờ nhân ảnh như người
đi đêm. Cung oán ngâm khúc –
Ôn Như Hầu.
(6) Những bài ca không năm tháng
– Trịnh Công Sơn, trang 11.
No comments:
Post a Comment