BÌNH NGUYÊN LỘC * SĂN CỌP ĐỒNG NAI
SĂN CỌP ĐỒNG
NAI
Bình-nguyên Lộc
Trung tâm săn cọp ở miền
Nam nước Việt là Ban Mê Thuột chớ không phải
là ở vùng Đồng Nai. Nhưng người Pháp đã
biến trung tâm Ban Mê Thuộc thành một kỹ nghệ
lớn, dành thu hút đô-la
Mỹ, người mình không chen vào đó được nên
xin không nói đến.
Vả lại cái kỹ
nghệ nói trên chỉ có nhà tổ chức Caffort là
được hưởng, còn kỹ nghệ ở
Đồng Nai thì chính các thợ săn được
hưởng nên mang tính cách khác Ban Mê Thuộc và đáng nói
đến hơn. Hẳn bạn đọc sẽ hỏi
thợ săn mà hưởng cái gì ? Ai thèm ăn thịt
cọp ? Người Mỹ, người Anh săn cọp
ở Ban Mê Thuột, trước năm 1945, là những tay
triệu phú. Họ đến đó để tìm cảm
giác mạnh, chỉ có thế thôi. Họ không thèm
hưởng gì hết ngoài những cảm giác đứng
tim đó. Vả lại, họ cũng chẳng biết cách
hưởng thành quả của các cuộc săn bắn.
Tuy nhiên tôi cũng sẽ dành cho Ban Mê Thuộc vài trang ở
cuối bài.
*
*
*
Dưới thời Pháp
thuộc, thợ săn cọp ở vùng đồng Nai có
đến 95 phần trăm là người Pháp lai. Pháp
thật không săm cọp. Còn lại là người mình và
một gia đình Phi luật Tân có Pháp tịch mà gia đình
tôi quen biết đã từ lâu đời. Đó là gia
đình của ông Ma-rô-cô. Ông này là hậu duệ của
một anh lính đỏ đen cùi bắp, người Phi
Luật Tân. Thuở Pháp đánh Nam Kỳ, có nhờ sức
của một số lính Phi Luật Tân do Tây Ban Nha cho
mượn (thuở đó Phi Luật Tân là thuộc
địa của Tây Ban Nha).
Chiếm xong miền Nam
rồi thì Pháp cho bọn lính đánh thuê này về
nước. Nhưng còn một số nhỏ xin ở
lại và được Pháp chấp thuận. Họ ở
lại, sinh sống bằng ba nghề. Đa số xin làm cảnh
sát là lính mã tà, vì trong ngôn ngữ của ba nước Phi
Luật Tân, Indonesia, và Malaysia cảnh sát được
gọi mà matamata. Danh từ Mã Lai này, nguyên xưa kia có
nghĩa là chiến sĩ, đồng với danh từ
samourai của Nhật, với danh từ lính tráng của ta,
với danh từ tia-hiên của Campuchia, với danh từ
bặc-liêu của Phù Nam. Nghề thứ nhì của họ
là đánh loại xe du lịch mà Pháp gọi là calèche, do hai
ngựa kéo. Đó là xe du lịch sang trọng nhất ở
Sài Gòn ngày xưa, thuở chưa có ô-tô. Nghề săn
cọp thì có một gia đình độc nhất làm mà thôi,
gia đình Ma-rô-cô.
Tại sao Tây lai lại làm
nghề đó? Vì săn cọp phải sắm súng trận.
Mà súng trận thì người mình không được
sắm, trừ vài trường hợp ngoại lệ. Tây
lai thuở đó toàn là con vô thừa nhận, chỉ
học chương trình tiểu học của Pháp rồi
thôi, chẳng xin được chỗ làm nào hết,
trừ nghề cảnh sát. Mà nghề cảnh sát đâu có phải
là nghề ung dung thong thả. Họ nằm không họ chơi,
mỗi tháng hạ được một con cọp là
đủ sống cả năm một cách phong lưu.
TÂY LAI KẾT BẠN VÀ VŨ
TRANG
Người lai nào cũng khôn
vặt cả, không riêng gì là Tây lai. Nhưng Tây lai có vẻ
khôn vặt nhất trong trong các thứ người lai. Muốn
săn cọp thì phải vào rừng sâu. Muốn vào rừng
sâu không thể xuất phát từ Sàigòn mà tới nơi
được. Vậy họ phải lập tiền
đồn ở các chợ huyện. Phải là ở các
chợ, chứ ở làng họ không thành công đâu. Nông dân
không thích chơi với Tây lai. Tây lai cũng không thích
chơi với nông dân.
Chỉ
có bọn con trai ăn không ngồi rồi ở các chợ
xa mới là ham bắt quàng làm họ với Tây lai. Họ
tới một chợ nào đó, vào hiệu cà-phê cắc-chú
từ sáng đến trưa là đã có bạn rồi,
nhứt là nếu ở các chợ cũng có phòng cho thuê bi-da
hoặc bàn ping-pong thì rất tốt. Ở Sài Gòn họ
cũng chỉ ăn no rồi đi thọc bi-da với
đánh ping-pong nên họ chơi khá giỏi, vào chợ quê
thì họ là nhứt rồi vậy.
Tôi
chỉ hạn chế địa bàn quan sát trong tỉnh tôi
thôi, là tỉnh Biên Hòa, không nói đến ba tỉnh khác là
Tây Ninh, Thủ Dầu Một và Bà Rịa. Vả lại,
chỉ ở Biên Hòa mới có nhiều cọp.
Bốn
tiền đồn xuất quân trong tỉnh nầy là:
tiền đồn lớn nhứt là Tân Uyên,
chợ huyện lớn nhứt trong tỉnh Long Thành, là
chợ huyện lớn nhì trong tỉnh. Hai tiền
đồn khác không phải là chợ huyện mà chỉ là
chợ làng giàu, là tiền đồn thứ ba và thứ
tư. Đó là chợ Cây Đào và chợ Tân Ba.
Khi
một anh Tây lai nào đó đến tiền đồn thì
tổ chức ăn uống nhậu nhẹt vài ba ngày cái
đã, có khi chính anh ta đài thọ chi phí, có khi bạn địa
phương chung đậu tiền để đài
thọ những cuộc vui đó. Nó gần có đủ
cả tứ đổ tường. Ăn nhậu đã
đời rồi mới tính chuyện ra quân.
Chỉ
có một cây súng trận độc nhứt của anh Tây
lai thôi. Trai làng mà có súng, loại súng bắn chim, cũng không
được phép mang theo vì vô ích, lại có thể gây tai
nạn. Anh thợ săn lại được võ trang
bằng một món thứ nhì nữa là một cây đèn
đặc biệt, vì phải săn ban đêm, và
người mình gọi lối săn đó là “săn
dọi đèn”.
Cây
đèn này khá giống cây đèn xe đạp mà người
thợ săn cột vào giữa trán của anh ta, chớ
không phải đội trên đầu. Đèn được
thắp bằng hơi của đá đèn. Đá đèn này
đựng trong một bình nhỏ giống như là bình
đựng nước của quân đội Việt Nam
Cộng Hòà. Bình chia ra làm hai ngăn, ngăn trên chứa
nước, ngăn dưới chứa đá. Nước
nhểu từng giọt xuống đá, đá lên hơi,
hơi được đưa lên đèn bằng một
ống cao su nhỏ. Loại đèn này ánh sáng đi xa thua
cả loại đèn pin lớn ba pin, nhưng vẫn
vừa đủ để cho họ thấy cọp. Dùng
đèn pin bất tiện hơn vì một tay phải
cầm đèn, hóa ra thiếu mất một tay để mà
bắn.
Đó
là chưa kể một vài con dao trong đó có một
loại dao đặc biệt, để làm gì ta sẽ
thấy, một cái cuốc mà ta chưa vội biết công dụng,
với lại xoong, chảo, rượu đế, mỡ,
hành tây, muối.
Bạn
của thợ săn đã thuê cho anh ta một chiếc xe
bò rồi, và họ lên đường vào lối bốn
giờ chiều, sau khi ăn cơm rất sớm.
Những
người bạn này, thường thì không đi theo xe, vì
vào rừng rồi thì cấm nói chuyện, cấm nô đùa,
la lối, họ buồn, họ chẳng muốn đi theo
làm gì. Tuy nhiên, thợ săn vẫn nài nỉ một người
theo anh ta, và có thù lao cho người này.
Họ
đi như thế suốt bảy tám tiếng đồng
hồ trên đường mòn xuyên rừng và đến
nơi là đã mười một giờ đêm rồi.
TRƯỜNG
SĂN
Nơi
đó là ở đâu ? Là ở một cái trảng, đôi
khi do người chủ xe bò chỉ định, chớ
không phải là thợ săn, vì các chủ xe bò chuyên đi
rừng, thạo rừng hơn cả thợ săn
nữa.
Cái
trảng, tiếng Anh nói là savanna. Đó là danh từ mà
miền Nam vay mượn của dân Phù Nam, chớ miền
Bắc tuy cũng có cái trảng, nhứt là ở trung du, nhưng
không có danh từ để trỏ nó, hoặc là có mà tôi
không biết.
Nguồn
gốc của cái trảng là đây: cổ dân ở
địa phương đó làm hỏa canh. Họ
đốt rừng trồng trọt. Trồng
được ba năm, đất hết mầu mỡ,
mà họ thì không biết bón phân nên họ bỏ đất,
đi đốt rừng nơi khác. Đất bỏ hoang
một năm là tranh mọc đầy lên đó; mà hễ
tranh mọc rồi thì chẳng có cây gì mọc
được nữa hết, vì rễ tranh rậm rì,
chằng chịt, choán hết đất, rễ của các
cây khác không tìm được thức ăn.
Tranh
là món ăn thích khẩu của nai. Tối lại, nai
từ rừng sâu đổ ra các trảng để ăn
tranh. Trong khi đó thì nai lại là món ăn thích khẩu
của cọp. Vậy muốn săn cọp, phải
đến trảng. Cọp nai ở trảng, thì thợ
săn rình cọp cũng ở trảng.
Nhưng
không phải chỉ giản dị có thế đâu. Cọp
rất thính hơi, và nó biết hơi nào là hơi voi,
hơi gấu, hơi nai, và hơi người. Vậy
thợ săn phải tìm cách ở dưới gió (sous le vent)
so với vị trí của cọp. Thí dụ nai ăn
cỏ ở hướng đông, cọp rình ngay ở
hướng đông. Nếu gặp gió tây mà thợ săn
cũng lại rình ở hướng tây là hỏng, vì gió tây
sẽ đưa hơi của con người sang
hướng đông, báo động cho cọp biết.
Người
thợ săn không được phép là tay săn tập
sự. Đèn của y chiếu vào mắt thú (thú rừng
nào cũng ưa nhìn đèn). Mà mắt nai, không khác mắt
cọp đáng kể, người thường không phân
biệt được đâu. Nếu bắn phải
một con nai, thì cọp dông mất hết vì tiếng súng
xua đuổi chúng nó. Một con nai bán chẳng
được bao nhiêu tiền.
Xin
nói vắn tắt để quí vị độc giả
đỡ ngáp. Thí dụ đêm đó anh thợ săn X
hạ được một con cọp. Công việc
đầu tiên của anh ta là đánh diêm lên để
đốt râu cọp. Anh ta dốt, tin lời của
bạn anh ta, vốn cũng dốt, nên mới làm cái công
việc đó. Họ tin rằng khi ta xẻ một măng
non, ta nhét một sợi râu cọp vào đó thì đến
khi măng già, râu cọp sẽ hóa thành một thứ sâu
lạ. Phân của sâu này là một loại thuốc
độc mạnh nhứt thế giới, chỉ cần
vài hạt bụi phân trong rượu là đủ giết chết
ngay tức khắc một người to lớn. Thợ
săn không nên cho râu cọp lọt vào tay ai hết,
để tránh tội ác.
Xong
đâu đó, thợ săn dùng con dao đặc biệt
được nói đến khi nãy để lột da
cọp. Phải có học mới lột được da
trâu, da bò, da cọp. Vụng tay, làm rách da thì bán chẳng ai
mua đâu. Bộ da cọp này, hôm sau sẽ được
đưa về Sài Gòn bán cho một vài nhà chuyên môn, chuyên
dồn chất độn vào da cọp để dựng
lại một con cọp giống hệt cọp sống,
bán cho nhà giàu họ mua để trang trí nhà cửa. Bán
một con cọp như thế, trừ thù lao cho chuyên viên
rồi, cũng còn tiền đủ sống phong lưu hai
ba tháng theo đời sống Tây lai.
Nhưng
thợ săn không ham lắm, vì bán món khác, giúp sống được
một năm.
Thế
nên công việc thứ nhì của họ là đào huyệt
để chôn xác cọp. Họ vùi nong một nắm,
nhưng không cỏ hoa như người khách viễn
phương đã vùi Đạm Tiên đâu. Xác cọp
bị chôn rất cạn, nhưng được phủ bằng
những cành cây có gai, được đánh dấu nơi
chôn rất cẩn thận. Ba tháng sau, họ trở lại
đó đào đất lên là họ có được
một bộ xương cọp nguyên vẹn. Xương
cọp nguyên vẹn bán được tiền hơn là
những bộ xương không đủ cả các
loại xương. Người Tàu Chợ Lớn họ
mua xương cọp với giá cao, chở về bán bên Tàu
để Tàu chế ra hai thứ thuốc: cao hổ cốt
và thuốc bột “hổ đầu”. Thuốc hay hay
dở thì không biết, anh thợ săn cũng cóc cần
biết, hễ người Tàu còn mua thì họ còn săn.
Có
ai hỏi tại sao mới có ba tháng xa mà một cái xác sinh
vật to lớn như thế đủ thì giờ để
biến thành một bộ xương thật sạch, dùng
được ngay, thì xin “giải đáp thắc mắc”
như sau:
Trong
rừng sâu có một loài sâu bọ, không biết tiếng Việt
gọi ra sao: vì không nghe ai điểm danh loài sâu bọ này
hết, còn tiếng Pháp gọi nó là con charogne. Pháp lại
gọi con charogne là “sở vệ sinh của rừng rú”, vì
chính chúng nó ăn sạch bách muôn vạn xác thú, xác chim trong
rừng, giúp cho rừng khỏi hôi khỏi thúi.
Ấy
đấy xác cọp bị cố ý chôn cạn,vùi nong
một nắm, là nhằm mục đích giúp cho loài charogne
dễ tìm ra xác. Và đó là mẹo của người mình
họ cố vấn cho các tay thợ săn Tây lai, chớ
các anh Tây lai chỉ học tiểu học thôi, chẳng có
đọc sách Pháp bao giờ hết để mà biết
con charogne.
Và
cái cuốc được ám chỉ đến khi nãy, là
để đào lỗ chôn xác cọp còn người bạn
có hưởng thù lao là một tay khiêng xác cọp vứt vào
lỗ vì anh Tây lai và anh đánh xe bò
không chắc mình khiêng nổi những con cọp to. Ba
người thì chắc ăn hơn.
Nãy
giờ cố nói tất tất cả mọi việc
để bạn đọc đỡ ngáp, chứ thật
sự thì mọi việc xảy ra không giản dị
như thế. Nếu quá dễ ăn, thì ai cũng làm
thợ săn cọp hết,và các tay thợ săn
đều thành triệu phú hết trơn, nhà băng nào
đủ chỗ chứa bạc của họ !
Không
dễ ăn vì thợ săn đâu có đủ tài
để hễ bắn là trúng đích. Bắn hụt là
sự thường xảy ra, và bắn đúng mà cọp
không chết cũng rất thường xảy ra.
Nếu
bắn hụt thì cọp dông mất, chẳng có gì đáng
lo. Nhưng cọp bị thương thì rất dễ
sợ. Bị thương quá nặng, chúng sẽ chạy
trốn, mà ta thì không dám theo dấu,vậy là lỗ một
viên đạn súng săn, lỗ tiền mua đá đèn,
lỗ tiền thuê xe bò. Nhưng rủi ro cọp chỉ bị
thương nhẹ thôi thì chắc chắn là chúng nó sẽ
tấn công địch thủ. Thế nên thợ săn
cọp, bọn đi theo thợ săn để chơi,
và cả anh đánh xe bò đều phải thạo cách tránh
né cọp chớ đừng hòng chống lại nó. Cọp
rất mạnh, một mình nó, nó đủ sức kéo xác
một con bò đi xa năm bảy cây số. Mà cũng
đừng mong leo cây. Không đủ thì giờ để
leo cây đâu. Họ chỉ còn một cách độc nhứt
là phân tán mỏng, nhảy lui, rồi núp sau một cổ
thụ. Cọp chỉ nhảy đến vồ ta, vồ
hụt thì nó phải chuẩn bị cái nhảy thứ nhì
trong khi đó ta đủ thời giờ để
đổi chỗ, núp sang cây khác, vô hiệu hóa sự
chuẩn bị của nó. Nhảy lui cũng phải
chuẩn bị trước khi bắn, vì nếu là
đứng trước một bụi cây lớn, một
bụi cây nhỏ mà nhiều gai, ta cũng không thể
nhảy lui được. Tất cả mọi
người trong đám săn đều phải lo
đường rút lui trước khi bắn.
Có
ai dám theo dấu cọp bị thương chăng ? Có,
mặc dù rất nguy hiểm. Người Thượng can
đảm hơn ta về vụ này. Trong mười
thợ săn ta, có thể chỉ có một hoặc hai
người dám theo, còn Thượng thì anh nào cũng dám
cả, mặc dầu các ảnh chỉ có nỏ trong tay.
GỠ
VỐN
Nếu
không được cọp, thợ săn sẽ về tay
không chăng ? Không, họ bắn nai để gỡ
vốn. Nai, khi chúng nghe tiếng súng, chúng cũng chạy.
Nhưng chúng lại nghe cọp vừa rống cà-um, cà-um,
vừa khua lá chạy như giông, nên chúng hiểu ra sự
thật, an lòng trở lại nơi đó ngay hầu
xơi cỗ.
Thợ
săn cọp mà bắn nai thì bá phát bá trúng. Họ
thường bắn hụt cọp vì có can đảm bao
nhiêu, đến phút chót họ cũng có run tay tí tí, nên
bắn trật. Bắn nai hiền lành, tay của họ rất
vững. Hóa ra thường thì non hai tháng họ mới
hạ được một con cọp còn thì chiến
lợi phẩm của thợ săn cọp lại là
thịt nai, họ sẽ chở về chợ huyện
để bán cho các hàng thịt lợn, kiếm tiền còm
đủ ăn nhậu thêm nữa.
Nhưng
thật ra thì họ ăn nhậu trước, ngay tại
chỗ, vì thế mà trên kia tôi mới ám chỉ đến
vài món hơi kỳ khôi mà họ mang theo như soong,
chảo, mỡ, hành tây, và các con dao thường không
phải dao đặc biệt dùng lột da cọp.
Thịt
nai bán ở các chợ dỡ hơn thịt bò, chỉ
được cái là rất mềm mà thôi. Nhưng thịt
nai ăn ngay sau khi nai chết đạn thì tuyệt
diệu. Các tay thợ săn Tây lai này cũng biết làm món
“nồi da xáo thịt” do người Thượng tên là dân
Mạ dạy cho dân ta ở vùng Đồng Nai, và ta dạy
lại Tây lai.
Lột
một tấm da nai to chừng bằng bốn chiếc
khăn mu-soa. Đóng bốn cây cọc ngắn xuống
đất. Căng tấm da nai lên bốn ông táo gỗ
đó. Lúc vừa được căng thì da nai thẳng
tuột, nhưng hai phút sau da nai oằn xuống như lòng
chảo. Bầm thịt nai với củ hành tây, chế
mỡ vào chảo da, rồi bỏ thịt bầm vào
đó. Nhúm lửa lên, dưới cái chảo da nai ấy.
Rồi thì ngồi đó để thưởng thức mùi
thơm của nó, e rằng chai rượu đế
sẽ cạn trước khi thịt chín.
Một
con nai bán được ít tiền hơn một con bò và
nhiều tiền hơn một con lợn. Nhưng thợ
săn vẫn làm giàu được trong việc săn nai,
nếu gặp mùa. Mùa đó là mùa xuân, mà một số nai già
rụng sừng và mọc sừng khác. Cái sừng non đó
người Tàu gọi là lộc nhung, có nghĩa là sừng
non của nai, tôi gọi tắt là nhung, trong những
loại thuốc mang tên “sâm nhung bổ thận hoàn”. Sừng
nai non bán cao giá lắm đấy nhé bà con ơi, vì
dược khoa của Tàu nó quý lắm. Khoa học cũng
đã nhìn nhận rằng lộc nhung rất bổ.
Cái
món lợi sau đây, ít hơn, và người mình không
nỡ tìm nhưng Tây lai thì đủ can đảm tìm:
hạ những con nai cái đang có thai, mổ bụng nó ra
lấy cái bào thai, đem về bán cũng khá tiền.
Người
Việt miền Nam
gọi cái bào thai bằng danh từ vay mượn của
dân Phù Nam
là danh từ hàn-nàm. Nhà giàu Việt Nam rất quý hàn-nàm nai.
Họ ngâm nó vào rượu rồi uống rượu
đó. Đại bổ.
Đại bổ. Bào thai rất bổ. Rượu hàn-nàm
là rượu quý vô song.
Cái
món lợi thứ ba, chỉ nhỏ thôi, và người mình
cũng không nỡ tìm nhưng Tây lai cứ dám làm như
thường: hạ những con nai mẹ đang nuôi con bé
dại. Đôi vú nai căng sữa, thơm vô số kể,
vừa thơm vừa dòn vừa bùi, chiên mỡ rồi
thưởng thức thì có thể làm cạn queo ba bốn
lít rượu đế.
SĂN CỌP
GIỮA ĐƯỜNG
Đôi khi
chưa tới trảng tranh, đã gặp cọp rồi.
Ta chẳng cần rình mò gì hết, hễ đến
gần cọp thì ta biết ngay. Mùi khét của cọp
tỏa ra rất rộng. Bằng như mũi của ta
quá kém thì bò nó sẽ báo động cho ta, vì bò thính hơi
cọp hơn ta, hễ đánh hơi được
cọp là nó sợ, nhất định không kéo xe đi
tới nữa, đánh nó bao nhiêu nó cũng sẽ bất
kể. Bằng như chính bò cũng mắc chứng nghẹt
mũi như con người thì sẽ có một tình báo khác
thông tin cho thợ săn biết rằng quanh họ,
đang có cọp đi chơi đêm.
Có một loài
chim mà lâm dân người mình gọi là chim từ quy. Nó
chỉ là con chim đỗ quyên chứ chẳng có gì lạ.
Người thợ dân miền Nam gọi đùa con chim
từ quy là chim “xỉa răng cọp”. Nó đi theo cọp
suốt ngày đêm, đợi khi cọp nằm nghỉ, há
miệng ra để nó ăn thịt thúi ớ các kẻ
răng cọp. Cọp rất khoái từ quy, vì thuê chuyên
viên xỉa răng khỏi tốn tiền mà ! Hễ vào
đâu mà nghe đỗ quyên kêu thê thảm là chắc
chắn gặp ông ba mươi rồi.
Gặp ông ta,
nhưng chưa thấy đâu. Mà cũng đừng thèm tìm
mất công, bởi ông ta sẽ tự đến để
nộp mình. Thú rừng bất kỳ con nào, cũng rất
khoái ngắm đèn. Cọp cũng thế, nên ông ta sẽ
tìm lại nơi có ánh sáng, tìm cách đứng ngay tia đèn
để cho thợ săn dễ nhắm nhía. Rồi thì là
“bùm”. Một là ông ngủ, hai là tôi bị xơi tái, nhưng
tôi có trí khôn, còn ông thì không. Ông cứ thử thoát, có thể
bỏ xương bỏ da lại cho tôi, còn tôi thì
thường thoát được.
Chim từ quy
không phải chỉ kiếm ăn theo cọp, mà kiếm
ăn theo sấu nửa. Dưới nắng trưa,
sấu thường trườn lên những bãi cát bờ
sông vắng để phơi nắng, và cũng há miệng
ra cho từ quy xỉa răng.
Các tay thợ
săn sấu ở nguồn sông Đồng Nai (toàn thể
là Tây thật, chớ không có Tây lai) rất sợ loài chim
này, vì chúng thính hơi, nghe được hơi
người là báo động cho sấu biết để
sấu chúi xuống nước trốn.
CHẾT
TRƯỚC KHI THẤY NAI, THẤY CỌP
Ở miền
Nam nước Việt, số người mình sắm súng
đông hơn hết là trong tỉnh Thủ Dầu Một.
Súng mà họ sắm chỉ là loại súng Flanbert thôi, dùng
để bắn chim và bắn ăn cướp.
Đạn của loại súng này được gọi là
cái bì. Bì được làm bằng giấy bồi khá
cứng, to hơn một viên đạn súng săn một tí.
Nhà sản xuất cho vào bì phân nửa là thuốc súng, phân
nửa còn lại chứa đầy những viên chì
nhỏ bằng hột tiêu. Người mình gọi đó là
đạn chì, bắn thì đạn nó túa ra như là vãi
chài, viên đạn này sai thì viên đạn khác nào đó
cũng trúng được chim, đôi khi bắn một
phát có thể làm rơi được vài con chim, rất
tiện dụng.
Nhưng
một số người có săn loại súng đó ở
Thủ Dầu Một lại chơi trò rất lạ.
Đây là phát huy sáng kiến theo lối “đầy tinh
thần sáng tạo”.
Họ
đổ hết đạn ra mà vứt đi, đổ
cả hai bì súng, đoạn dồn hết thuốc súng vào chung
một bì, đoạn chôn vào thuốc súng đó một cây
đinh thép thật to, bán trên thị trường thì
đinh này dài đúng một tấc bảy, nên họ
phải chặt đôi cây đinh ra.
Hỏa
lực của loại bì “cải tiến” ấy mạnh bằng
đạn của súng trận, súng săn: Thế rồi
họ dùng loại bì kỳ dị đó để đi
săn cọp và săn nai, bắn cọp và bắn nai
chết như chơi, y như là với súng trận.
Chỉ
phiền là trong mười người chơi cái trò nguy
hiểm đó, có đến bảy tám người bỏ mình.
Nòng súng Flanbert vốn yếu, được chế
tạo vừa đủ tương sức với sức
mạnh không đáng kể của đạn chì. Khi ta dùng
một liều lượng thuốc súng gấp đôi, thì nòng
súng không chịu đựng nổi sức nổ mạnh.
Vậy là nòng súng bể vỡ, ngay trước mũi
của thợ săn, cách mặt họ có năm tấc tây
thôi, không vỡ sọ cũng thủng mặt, đàng nào
cũng chết.
Tuy nói thế chớ
nòng súng không vỡ ngay ở phát súng đầu đâu, vì
nếu thế, đâu có ai mà dám chơi cái trò dại
dột đó. Nói là nòng súng thép yếu là yếu vậy thôi,
chớ dầu sao nó cũng bằng thép. Nó chịu
đựng được chỉ vài mươi phát súng
nổ, tức là bắt đầu bắn đến lúc
thọ nạn, thợ săn cũng có thể hạ
được năm bảy con nai. Và không phải hễ
súng bể vỡ là thợ săn chết, vì có khi nòng súng
chỉ bay đi mất thôi, mà thợ săn không bị gì hết
ráo, chỉ phải ôm bá súng gỗ về nhà, khoe với
vợ là cọp đã nhai nát nòng súng mà anh đây thì nó nhai
không nổi.
Nhờ tai
nạn chậm xảy ra, nên bác thợ săn liều
mạng rằng mình đủ thì giờ bỏ súng cũ
kịp lúc, trước khi nòng súng bể, nên mới còn
người chơi trái trù đó mãi cho đến năm
1945 mới thôi.
KỸ
NGHỆ BAN MÊ THUỘT
Những tay
săn cọp ờ Ban Mê Thuật, trước 1945 (sau 1945 thì
chiến tranh trong nước ta đã giết chết
kỹ nghệ đó) là triệu phú Huê Kỳ, Anh,
Đức, Ý, v.v...
Người
tổ chức là hãng Caffort ở Sài Gòn. Hãng này, bề ngoài
chỉ là một căn nhà ở đường Catinat (sau
này là đường Tự Do, đường Đồng
Khởi). Hiệu buôn nhỏ này chỉ trưng bày vài cây
súng lấy lệ thôi, nhưng đó là một tổ
chức lớn, vốn rất to.
Một anh
triệu phú Huê Kỳ nào đó, thường chỉ tới
một mình, hoặc với một hay hai người
bạn, có thể là nam, mà cũng có thể là nữ.
Nhưng hãng phải có ngay cho họ vài chục cái lều vải,
loại lều cắm trại thưng tuyệt
đẹp, hạng sang nhứt thế giới.
Họ
đổ tiền ra, muốn bao nhiêu họ cũng ô-kê
hết, nhưng họ đòi hỏi rất nhiều.
Phải chở máy phát điện lên Ban Mê Thuột, chớ
họ đâu có ưa đèn dầu, và máy đó phải
đủ mạnh để chế tạo nước
đá. Vậy là phải chở thêm một máy bào
rước đá nhỏ. Phải có cả một nhà
bếp giữa rừng với đầy đủ các
thứ cần thiết cho việc nấu bếp, với
một anh đầu bếp người Tàu Hải Nam, nhóm
Tàu này chuyên môn nấu ăn theo lối Pháp và nấu rất
ngon. Rồi thì đủ thứ rượu Pháp, nào là Champagne
Möet Chandon, nào là rượu loại Muscat, nào là rượu
Cognac hiệu Martel, nào là các thứ nước suối,
nước suối Perrier để pha với rượu
mạnh, nước suối Vichy để giải khát, vài
thứ nước suối khác cũng của Pháp
để trị bệnh gan, bệnh thận, rồi thì
bồi, những anh sai vặt, tùm lum ra, Sàigòn cũng
chẳng sánh kịp.
Tốn nhứt
là phải trả lương tháng cho hai tay thiện xạ
người Pháp (có dạo một người Việt Nam
được thủ vai trò đó). Các ông triệu phú
vốn bắn dở, nếu để cọp vồ các
ổng thì hãng Caffort sẽ tiêu tùng sự nghiệp. Vậy các
ổng đi săn được hộ tống cẩn
thận như tổng thống Huê Kỳ đi Taxas thăm
cao bồi chuyên bắn súng đùng đùng.
Hai tay
thiện xạ này chẳng những thiện xạ,
lại phải là hai nhà tâm lý già rơ. Phải để
cho các ông nhà giàu hạ con cọp, các ổng mới khoái,
mới xỉa đô-la xanh ra, và các thiện xạ viên
chỉ được phép bắn trong vài giây cuối cùng
khi các ông Huê Kỳ bắn hụt. Từ cái giây mà các ông nhà
giàu bắn hụt đến cái giây mà cọp vồ ông nhà
giàu, chỉ có một giây mà thôi để cho hai tay thiện
xạ đó “cứu nguy dân tộc”. Một giây thôi.
Thật là khó. Nhưng phải làm cho được. Hai tay
thiện xạ này ăn lương rất to, mà đôi khi
cả tháng chỉ làm việc có một tuần lễ thôi.
Thỉnh
thoảng họ lại tổ chức một lối
săn rất ngoạn mục và săn giữa ban ngày.
Một đàn voi mười con do người
Thượng điều khiển. Khách hàng và bạn hữu
của họ ngồi trong một bành voi, rồi
mười con voi đó vây quanh một địa
điểm mà nhân viên thám hiểm cho biết nơi đó
một gia đình cọp đang ngủ.
Người
Thượng vừa đánh phèng la vừa hò hét,vừa khép
chặt vòng vây lần lần, cho đến khi mà vòng vây
chỉ to bằng một biệt thự thì triệu phú ra
tay. Lối săn này chẳng có gì nguy hiểm cả, nhưng
lại tốn tiền hơn vì phải thuê mười con
voi và ít lắm cũng hai mươi người
Thượng.
“Săn
cọp Đồng Nai”: Di cảo.
(Đăng trên Phụ Nữ
diễn đàn,
Califomia,
số 103, tháng 8, 1992)
Sunday, September 29, 2013
TS. TRẦN NHƠN * BÃO TỐ NỔI LÊN RỒI
Bão tố nổi lên rồi!
Một thời Đảng cuốn hút hồn tôi,
Đảng ấy dường như biến mất rồi!?
Dân chủ, tự do dìm xuống vực,
Độc tài toàn trị phất lên ngôi.
Con cừu, cháu thỏ tranh tài lộc,
Mặt ngựa, đầu trâu cướp thịt xôi.
Văn hiến bốn ngàn năm tuột dốc,
Không phải ngày xưa Đảng tuyệt vời,
Chẳng qua chưa bị lộ mà thôi.
Lừa công nông ngụy xưng giai cấp,
Gạt đảng phái giành trọn ghế ngôi.
Tín dụng niềm tin chết ngắc ngoải,
Ngân hàng đạo đức sống cầm hơi.
Bôn sê vích lầm đường lạc lối,
Đảng Lê nin chống lại loài người.
Nâng cấp “Lê nin” lên “Lê - Mao”,
Đảng Cộng sản liên tục đổi màu.
Đẩy nước nhà vào rọ Bốn Tột,
Xô nhân dân sập bẫy Ba Tàu.
Niềm tin bánh vẽ chưa tan mộng,
Chiến lược ma trơi đã gãy cầu.
Đảng độc trị đến thời mạt vận,
Hoàn lương cùng đồng chí, đồng bào!
Tháng 9/2013
ĐẶNG CHÍ HÙNG * PHAN VĂN KHẢI
Đặng Chí Hùng – Những sự thật cần phải biết – (Phần 23) – Phan Văn Khải – Từ bàn tay nhuốm máu đến bán nước
Đặng Chí Hùng (Danlambao)
– Phan Văn Khải là một trong những tội đồ của dân tộc, trong suốt thời
gian làm thủ tướng và cả trước đây đã có nhiều tội ác với nhân dân. Đem
những tội ác đó ra trước ánh sáng cũng là một điều cần thiết cho công
cuộc đem lại tự do dân chủ cho Việt Nam. Xin sơ qua để thấy lý lịch của
Phan Văn Khải từ phần văn kiện và tài liệu của báo đảng (1):
I. Con người Phan Văn Khải:
Bí danh: Sáu Khải
Ngày sinh: 25-12-1933
Quê quán: Xã Tân Thông Hội, huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh
Ngày tham cách mạng: 1947
Ngày vào Đảng: 15-7-1959
Ngày chính thức: 15-7-1960
Trình
độ học vấn: Chuyên môn: Đại học kinh tế quốc dân Liên Xô; Lý luận chính
trị: Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc; Ngoại ngữ: Nga văn
Tóm tắt quá trình công tác
Từ 1947
đến 1954: Tham gia Đội thiếu nhi xã, Ủy viên Ban Chấp hành thiếu nhi
huyện Hóc Môn, Công tác văn thư Tỉnh đoàn thanh niên tỉnh Gia Định.
Từ 10/1954: Tập kết ra Bắc.
Từ 1955
đến 1965: tham gia công tác giảm tô, cải cách ruộng đất, học văn hóa ở
trường bổ túc công nông Trung ương và học Đại học kinh tế quốc dân
Matxcơva Liên Xô.
Từ 6/1965 đến 1971: Phó phòng, Trưởng phòng của Ủy ban Kế hoạch Nhà nước.
Từ 1972
đến 1975: Cán bộ nghiên cứu kinh tế miền Nam, 1973 vào chiến trường B2,
1974 ra Hà Nội làm Vụ phó Vụ Kế hoạch chi viện, Ủy ban Thống nhất.
Từ 1976
đến 1980: Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch thành phố Hồ Chí Minh, Thành ủy
viên, Ủy viên thường vụ Thành ủy, Chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch, Phó Chủ
tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
Từ 1981
đến 1984: Phó Bí thư Thành ủy, Phó Chủ tịch thường trực Ủy ban Nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh. Tại Đại hội V (3/1982) của Đảng được bầu làm Ủy
viên dự khuyết và tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 (1984)
được bầu làm Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Từ 1985
đến 3/1989: Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hồ
Chí Minh. Tại Đại hội VI (12/1986) được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành
Trung ương
Từ 4/1989 đến 8/1991: Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước.
Từ
1991: Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; Phó Thủ tướng Chính phủ. Tại Đại
hội VII (6/1991) và Đại hội VIII (6/1996) được bầu vào Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị.
Từ
9/1997 đến 7/2006: Được Quốc hội khóa X và khóa XI bầu làm Thủ tướng
Chính phủ. Tại Đại hội IX (4/2001) của Đảng được bầu vào Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị.”
Đọc qua tiểu sử của Phan Văn Khải chúng
ta thấy điều gì? Đó là một cán bộ cộng sản từ nhỏ đến lớn đều rất trung
thành với chủ nghĩa cướp và bán. Chức vụ cao nhất mà Khải làm chính là
thủ tướng nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam.
Con trai Khải là Phan Tấn Hoàn,
tự là Hoàn Ty, cũng là trùm Mafia ở Việt Nam. Hắn nhập cảng lậu nhiều
tàu, chứa đầy xe ô tô cũ vào nước ta, rồi bán sang Trung Cộng. Hoàn Ty
làm chủ khách sạn Hoàng Gia và Planet ở Sài Gòn và Hà Nội. Ăn chơi sa
đọa, cờ bạc, buôn lậu, cầm đầu một băng đảng gồm con ông cháu cha. Năm
1995, vì tranh giành địa bàn buôn lậu, nên Hoàn Ty bắn chết Phạm Văn Hưng, là công an, con của Phạm Thế Duyệt. Nội vụ được cho chìm xuồng. Ngoài ra Khải nổi tiếng là người thích chửi tục “Đỗ Mười” ngay ở đầu câu nói.
Phan Văn Khải (giũa) vận dụng nghị quyết 36 của Võ Văn Kiệt chia rẽ
đồng bào Việt Nam thông qua vụ chiêu dụ tướng râu kẽm Nguyễn Cao Kỳ (trái).
II. Bán nước:
Ngày 25/12/200, Trần Đức Lương đến Bắc Kinh cùng Giang Trạch Dân
ký Hiệp Ước cắt 11.362 km2 trên vịnh Bắc bộ cho Trung cộng, là hành
động cắt biển bán cho Trung cộng để lấy 2.000.000.000 Usd, để về chia
chác cho Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải… để đổi lấy những cái gật của Khải, Kiệt v.v…
Sau vụ bán nước cho Trung Cộng, theo lời ông Hoàng Minh Chính
cho biết thì không ai biết được ai trong Bộ chính trị đã ký tên trong
vụ bán nước này, Bộ chính trị cộng sản đã dấu nhẹm chuyện này và BÍ MẬT
ĐÃ được BẬT MÍ và sau đây là những diễn biến về cuộc BÁN NƯỚC NHƯ SAU:
1) Lê Khả Phiêu bị Trung cộng gài Mỹ Nhân Kế lấy cô Trương Mỹ Vân
(Cheng Mei Wang) lúc Lê Khả Phiêu sang thăm Trung Quốc năm 1988 và sinh
được một bé gái. Phiêu không đem con về vì sợ tai tiếng đưa đến nhiều
lần Trung Cộng gửi văn thư đòi lấn vùng biển vào tháng 1 năm 1999. Đồng
thời đòi đưa ra ánh sáng vụ nầy nếu Phiêu không hợp tác. Và buộc Lê Khả
Phiêu phải hạ bút ký bản hiến biển ngày 30 tháng 12 năm 1999.
2) Ngày 31 tháng 12 năm 1999
phái đoàn Trung Quốc cầm đầu do Tang Jiaxuan và tình báo Trung cộng sang
Việt Nam, họ gặp kín Lê Khả Phiêu bàn thêm về vấn đề hiến đất.
3) Ngày 25 tháng 2 năm 2000, Lê Khả Phiêu phái Nguyễn Duy Niên
sang Trung cộng và Nguyễn Duy Niên cho biết Lê Khả Phiêu đã đồng ý việc
hiến thêm đất. Trung cộng nghe tin rất hoan hỉ mở tiệc chiêu đãi Nguyễn
Duy Niên một cách nồng nhiệt với nhiều mỹ nữ ở nhà khách Diao-yu-tai ăn
nhậu cùng Ngoại Trưởng Tang Jiaxuan.
4) Bộ Trưởng Trung cộng Tang
Jiaxuan gửi thư kín nhắn tin muốn gặp Bộ Trưởng cộng sản VN tại Thailand
khi Tang Jiaxuan viếng thăm nước này. Ngày 26 tháng 7 năm 2000. Nguyễn
Duy Niên đáp chiếc Air Bus bay từ phi trường Nội Bài vào lúc 6 giờ 47
sáng sang Thailand gặp Bộ Trưởng Ngoại giao TC tại khách sạn Shangri-La
Hotel Bangkok phía sau phòng Ballroom 2. Cuộc gặp rất ngắn ngủi. Tang
giao cho Niên một chồng hồ sơ đòi cộng sản Việt Nam hiến thêm đất, biển
trong hồ sơ ghi rõ TQ đòi luôn 50/50 lãnh hải vùng Vịnh Bắc Việt, đòi
Việt Nam cắt 24, 000 sq Km vùng biển cho TQ. Ngày 28 tháng 7 bộ chính
trị nhóm chóp bu họp kín.
5) Sau hai tháng họp kín và bàn bạc. Bộ chính trị cộng sản VN cử Phan Văn Khải qua gặp mặt Lý Bằng.
Phan Văn Khải bay chuyến máy bay sớm nhất rời Việt Nam ngày 26 tháng 9
năm 2000 qua Bắc Kinh và được xe Limo chở từ phi trường Bắc Kinh về
Quảng Trường Nhân Dân vào trưa hôm đó. Lý Bằng cho Khải biết là hai tay
Lê Khả Phiêu và Giang Trạch Dân đã gặp nhau 2 lần cho vụ hiến đất rồi.
Lý Bằng cho biết Nông Đức Mạnh
phải được cử làm Tổng Bí Thư sau khi Lê Khả Phiêu xuống, nếu không thì
sẽ bị Trung cộng “đòi nợ cũ”, Khải trước khi về vẫn khước từ vụ hiến
vùng biển VN và nói với Lý Bằng là sẽ xem lại sự việc. Sau đó Lý Bằng
bắt Khải ngồi chờ, nói là Chủ Tịch Giang Trạch Dân muốn gặp Khải tại Zhong-nai-hai và sau đó Khải được đưa đi gặp Giang Trạch Dân và cho Zhu Rongji hù dọa Khải nói: “Trung
Quốc đã nắm trong tay Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, nếu không nghe lời
TQ Khải sẽ bị tẩy chay và coi chừng bị “chích thuốc”. Khải cúi đầu và
run sợ, sau đó đòi về. Trước khi Khải về, một lần nữa Giang Trạch Dân
nhắn Khải gửi lời thăm Lê Khả Phiêu và Nông Đức Mạnh chứ không nhắc tới
tên người khác trong Quốc Hội cộng sản VN. Khải không được khoản đãi như
một vị quốc khách vì tính tình bướng bỉnh không nghe lời đàn anh…”.
6) Vào ngày 24 tháng 12 năm 2000, Thứ Trưởng Bộ Ngoại Giao cộng sản Lê Công Phụng được Trần Đức Lương âm thầm phái đến Trung Quốc gặp quan chức tình báo của Trung cộng là Hoàng Di
– cánh tay phải của Bộ Trưởng Ngoại Giao Trung cộng. Di nói tiếng Việt
rất rành. Hai bên đã gặp nhau ở một địa điểm X gần biên giới Việt (tỉnh
Móng Cái Việt Nam). Theo bản báo cáo cho Bộ chính trị cộng sản VN, Lê
Công Phụng cho biết lúc đầu Hoàng Di vẫn khăng khăng đòi chia 50/50 với
Việt Nam về vùng biển Vịnh Bắc Việt “Beibu Bay” đòi lấy luôn đảo Bạch
Long Vĩ sau đó Phụng, được Bộ chính trị dặn trước là xin lại 6% của Vùng
biển gần khu vực Bạch Long Vĩ vì đã được lâu đời là của Việt Nam. Kết
quả cuộc đi đêm Việt Nam còn lại 56% Vịnh Bắc Việt và mất đi 16, 000 Km2
vùng vịnh cho Trung cộng.
7) Ngày 25 tháng 12 năm 2000,
Trần Đức Lương từ Hà Nội qua Bắc Kinh gặp Giang Trạch Dân và được đưa về
Thành Bắc của Quảng Trường Nhân Dân, theo tài liệu lấy được của tình
báo Trung cộng. Trần Đức Lương và Lê Khả Phiêu chính thức quyết định
thông qua bản hiệp ước hiến đất bất chấp lời phản đối của Khải và nhiều
người trong quốc hội. Bản hiến chương hiến đất cho Trung Quốc được chính
Giang Trạch Dân và đảng cs Trung Cộng trả cho số tiền là 2 tỉ USD được
chuyển cho các quan chức cộng sản chi nhau.
8) Ngày 26 tháng 12 năm 2000 vào
lúc 2 giờ trưa, Lý Bằng được cận vệ đưa tới gặp Trần Đức Lương ở Quảng
Trường Nhân Dân. Lý Bằng cho Lương biết là số tiền 2 tỉ dollar để mua
16, 000 km2 vùng vịnh Beibu của Việt Nam là hợp lý. Trần Đức Lương cám
ơn Trung cộng về số tiền này… Sau cuộc gặp này thì Khải, Kiệt v.v… đã
đồng ý với quyết định bán đất cho Trung cộng vì có phần chia chác trong
số tiền này. Lý Bằng nhắc lại chuyện Trung cộng đã bán vũ khí và hỗ trợ
cho cộng sản VN trong thời gian chiến tranh và số nợ trên Trung cộng
dùng để trao đổi mua lại vùng đất Bắc Sapa của Việt Nam, Ải Nam Quan,
Bản Dốc, Cao Bằng… Sau đó Lương được mời lên xe Limo và đưa về
Zhong-nan-hai để gặp Zhu Rongji, Zhu Rongji không nói gì khác hơn là
nhắc lại số tiền 2 tỉ USD sẽ được giao cho Việt Nam sau khi Lương trở về
nước.
9) Ngày 26 tháng 2 năm 2001 Nguyễn Mạnh Cầm bay sang Trung Quốc để gặp Qian Qichen tại đảo Hải Nam. Nguyễn Mạnh Cầm cám ơn Trung Quốc đã mua vùng Vịnh Bắc bộ của Việt Nam (Beibu Bay) với giá 2 tỉ USD.
Ký kết bán nước của cộng sản
Điểm qua các mốc này cho thấy Khải cũng
là một tên hèn khi không chịu phản đối khi qua Trung cộng. Đồng thời
khi về nước và biết có tiền chia chác nên đã ngậm miệng ăn tiền. Nói
cách khác cũng là bán nước. Nhưng để nhìn rõ những sự kiện này hơn xin
mời bạn đọc chú ý những sự kiện sau đây liên quan đến Khải.
Thứ nhất, Khải còn là một thủ tướng hèn và bán nước khi không dám lên tiếng với Phó chủ tịch QH Trung Cộng là Cố Tú Liên
khi sang Việt Nam, về vấn đề tàu chiến Trung Cộng xả súng giết hại 8
ngư dân Việt Nam, rồi còn vu cáo ngư dân Việt Nam là ăn cướp.
Tiếp theo đó đài BBC, phóng viên của AP
ở Hà Nội đề nghị Bộ Ngoại Giao cộng sản khẳng định thông tin nói rằng,
tàu Sea Bee bị tàu hải quân Trung Quốc đang tập trận bắn, làm 23 thủy
thủ trên tàu mất tích. Nhưng phía cộng sản đã lặng im và cho rằng chỉ là
một tai nạn thông thường. Chúng ta nên nhớ tàu Sea Bee được xem như tàu
lớn, có trọng tải 6500 tấn, không thể dễ dàng chìm được nhanh chóng mà
không có bất cứ một cuộc điện đàm kêu cứu nào, ngoài tín hiệu cấp cứu tự
động. Điều này chứng minh cho việc Sea Bee đã bị trúng pháo hoặc ngư
lôi của hải quân Trung Cộng, tuy nhiên, với vai trò thủ tướng thì Khải
đã chỉ đạo cho vụ việc này rơi vào quên lãng.
Thông tin về vụ tàu Sea Bee xem tại bản tin của BBC (2).
Thậm chí khi gặp Cổ Tú Liên thì Khải vẫn còn nịnh bợ Trung cộng: “Ngày
13/1, trong buổi tiếp Phó Chủ tịch Quốc hội Trung Quốc Cố Tú Liên,
Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội Trung Quốc sang Việt Nam tham dự APPF, thủ
tướng cho rằng hai bên cần đẩy mạnh hơn nữa quan hệ hợp tác, trên cơ sở
phương châm 16 chữ và 4 tốt mà các nhà lãnh đạo cấp cao của hai nước đã
đề ra…” (3)
Thứ hai, khi Ôn Gia Bảo đến Việt Nam, Khải vẫn xun xoe bợ đỡ được báo chí lề đảng loan tin:
“Ngày
7-10, tại Văn phòng Chính phủ, Thủ tướng Phan Văn Khải đã hội đàm với
Thủ tướng Ôn Gia Bảo. Trong không khí hữu nghị, chân thành và cởi mở,
hai bên đã điểm lại tình hình mọi mặt của quan hệ hai nước trong thời
gian qua, nhất là từ sau chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Thủ tướng
Phan Văn Khải tháng 5-2004; trao đổi về các biện pháp thực hiện có hiệu
quả nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai nước nhằm đưa quan hệ hai
nước tiếp tục phát triển theo phương châm 16 chữ và tinh thần 4 tốt….
Thủ
tướng Phan Văn Khải khẳng định Việt Nam hết sức coi trọng phát triển
quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Trung Quốc, coi đây là chính
sách nhất quán, cơ bản và lâu dài…
Hai bên
nhất trí cho rằng kể từ cuộc gặp tháng 5-2004 đến nay, quan hệ giữa hai
Đảng, hai nước duy trì đà phát triển mạnh mẽ và ổn định. Hai bên đã đạt
được nhiều nhận thức chung quan trọng, tạo điều kiện cho quan hệ hai
nước có bước phát triển mới tích cực; nhấn mạnh duy trì truyền thống gặp
gỡ cấp cao là nhân tố đặc biệt quan trọng đối với việc xây dựng và củng
cố sự tin cậy, tạo cơ sở cho quan hệ hai Đảng, hai nước phát triển ổn
định, lâu dài theo phương châm 16 chữ “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn
diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần bốn tốt “láng
giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.
Hai bên
đánh giá cao ý nghĩa việc ký được các Hiệp định biên giới trên đất liền
và phân định Vịnh Bắc Bộ, khẳng định cùng phối hợp và hợp tác chặt chẽ
để thực hiện tốt các Hiệp định nói trên cũng như Biên bản cuộc gặp đặc
biệt giữa Thứ trưởng Ngoại giao hai nước ngày 8-8-2004 và các thỏa thuận
hữu quan khác nhằm xây dựng biên giới Việt – Trung thành đường biên
giới hòa bình, hữu nghị, ổn định lâu dài, cùng phát triển. Hai bên khẳng
định triệt để tuân thủ Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông
(DOC) giữa các nước thành viên ASEAN và Trung Quốc…” (4)
Đây cũng là một trong những bằng chứng cho thấy sự bán nước và hèn kém của Phan Văn Khải trước giặc Tàu.
Chủ tịch Trung cộng Giang Trạch Dân và Phan Văn Khải trong thời gian
Đoàn Đại biểu Việt Nam do TBT Đảng CSVN Đỗ Mười đang thăm
Trung cộng ngày 20-10-1998 tại Điếu Ngư Đài (Bắc Kinh).
Trước đó, theo thông tin của đảng thì “Từ
ngày 19 đến ngày 23-10-1998: Thủ tướng Việt Nam Phan Văn Khải thăm
chính thức Trung Quốc. Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ đã hội đàm với
Thủ tướng Phan Văn Khải. Hai bên đã ký Hiệp ước tương trợ tư pháp về dân
sự và hình sự, Hiệp định mậu dịch biên giới và Điều ước lãnh sự giữa
hai nước.” (5)
Thứ ba, nhóm Mạnh, Lương,
An và Khải cũng từng bỏ qua ý kiến của ngay cả các vị cộng sản kỳ cựu
trong việc ký hiệp định bán đất cho Trung cộng. Nhưng vì có tiền bỏ túi
thì Khải cũng đồng ý cũng như các tên bán nước khác. Đây là bức thư của
một người cộng sản kỳ cựu đến từ Hải Phòng để thấy bộ mặt bán nước của
Khải (6):
“Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Đề nghị Quốc Hội không thông qua hiệp định biên giới Việt Trung
Kính gửi:
- Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh,
- Chủ tịch Nước Trần Đức Lương,
- Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An,
- Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải,
Tháng 2
năm 2001, trong bản góp ý với Dự thảo báo cáo chính trị của Đại hội IX,
tôi đã có kiến nghị lên Đại hội Đảng, Chính phủ, Quốc hội không thông
qua Hiệp định biên giới Việt Trung, vì đây là một Hiệp định mà phía Việt
Nam nhượng bộ quá nhiều. Theo tôi, đó là một sai lầm lớn của Đảng và
Chính phủ mà dân tộc ta chưa triều đại nào chịu nhượng bộ nhiều như thế.
Cuối năm nay, Quốc hội sẽ họp, sau khi suy nghĩ và trao đổi với một số
các vị lão thành cách mạng trong Câu lạc bộ Bạch Đằng, tôi trân trọng đề
nghị ông Nguyễn Văn An – Chủ tịch Quốc hội mới được bầu – đưa vấn đề
này ra trước Quốc hội, yêu cầu Bộ trưởng Bộ Ngoại giao điều trần nói rõ
nội dung số cây số vuông đã nhượng cho Trung Quốc so với Hiệp định Pháp –
Thanh và nguyên nhân đi tới ký kết.
Suốt
4000 năm lịch sử kể cả thời Bắc thuộc cho đến hơn 1000 năm độc lập tự
chủ, nhiều triều đại phong kiến lúc yếu cũng chưa bao giờ nhượng cho
phong kiến Phương Bắc một tấc đất, một hòn đảo, cùng lắm chỉ cống nạp
thiên triều ít ngà voi châu báu; lúc mạnh như thời Lý Nhân Tông đã đòi
vua Tống phải hoàn trả ta 2 động, 8 huyện ở biên giới do bọn đầu mục thổ
dân dâng cho nhà Tống. Vua Tống đã phải trả lại. Thế mà ngày nay, theo
Hiệp định biên giới Việt Trung mới đây ta đã nhượng bộ cho Trung Quốc
hàng trăm cây số vuông đất liền và hàng ngàn cây số vuông ở Vịnh Bắc Bộ
(so với Hiệp định Pháp – Thanh đã ký cuối thế kỷ XIX).
Qua lời
thông báo của một vị lãnh đạo của thành phố Hải Phòng tại CLB Bạch Đằng
tháng 2/2001 thì Vịnh Bắc Bộ chia đôi ta được 53%, Trung Quốc 47%. Sao
kỳ lạ thế? Vịnh Bắc Bộ (Golfe du Tonkin) là của Việt Nam cơ mà! Tôi
không rõ sứ thần Trung Quốc đã khôn khéo thế nào, dùng lời ngon ngọt ra
sao mà đã làm mềm lòng sứ thần Việt Nam, thò tay vào ký Hiệp định trước
tháng 12/2000. Có điều kỳ lạ là Trung Quốc đề ra kế sách ký Hiệp định
biên giới Việt – Trung và sát nhập Đài Loan vào Trung Quốc trước thiên
niên kỷ mới. Ta là một nước độc lập có chủ quyền, có cơ sở pháp lý đầy
đủ lại vui vẻ làm theo, còn Đài Loan là đất đai của Trung Quốc họ lại
không tuân theo ý đồ đó. Có người giải thích rằng: ta không ký không
được. Phải chăng ta sợ Trung Quốc mang quân sang đánh ta? Trung Quốc là
nước lớn nhưng không phải dễ dàng uy hiếp được ta. Lịch sử Việt Nam đã
chứng minh trong 10 thế kỷ vừa qua, Phương Bắc đã 10 lần mang quân sang
xâm lược nước ta, nhưng cả 10 lần phong kiến Phương Bắc đều thất bại
thảm hại. Kể cả trận mới đây nhất, tháng 2/1979, cộng sản Trung Quốc đã
mang quân đánh nước ta, định dạy cho Việt Nam một bài học, trái lại họ
đã học được bài thất bại cay đắng. Thực ra lúc này Trung Quốc rất cần ổn
định để phát triển kinh tế, họ chỉ dọa được những người nhát gan yếu
bóng vía, chứ làm sao dọa được dân tộc Việt Nam anh hùng, bất khuất. Nếu
ta không ký mà họ đem quân đánh ta, cả thế giới sẽ ủng hộ ta và nhân
dân ta triệu người như một đoàn kết sẽ đứng lên cầm vũ khí quét sạch
quân thù. Nói thế thôi, chứ Trung Quốc không dại gì đem quân gây chiến
với Việt Nam. Tiếc thay, cả người cho ý kiến lẫn người đi ký đã không
nghiên cứu lịch sử Việt Nam. Họ quên mất rằng biết bao sứ thần Đại Việt
qua nhiều triều đại đã làm cho phong kiến Phương Bắc phải kính nể, khâm
phục. Thậm chí có sứ thần không chịu khuất phục đã bị phong kiến Phương
Bắc chém đầu, gây một vết nhơ cho lịch sử đối ngoại của Bắc Triều, càng
làm rạng danh đất nước Việt Nam.
Nghe
nói trong hội đàm, Trung Quốc đã nêu lên: trước đây nhà Thanh yếu, Pháp
mạnh nên mới có Hiệp định như vậy; tại sao đoàn ta không có ai biết nói:
mạnh yếu trước kia chưa rõ, bây giờ Trung Quốc là nước lớn, Việt Nam là
nước nhỏ, có phải vì thế mà Trung Quốc ép buộc Việt Nam phải nhân
nhượng? Đã là anh em, là đồng chí “như môi với răng”, sao lại nỡ lấn đất
chiếm đảo của Việt Nam? Lẽ ra: Nghĩa tình hữu nghị từng xây dựng Tôn
trọng biên thùy nước mới an. Không phải tự nhiên ông Giang Trạch Dân gợi
ý Đại hội Đảng ta nên tiếp tục để đồng chí Lê Khả Phiêu là Tổng Bí thư.
Dân tộc ta có một nền văn hiến sáng ngời, trung dũng tuyệt vời. Đảng
ta, dân tộc ta đã làm cuộc Cách mạng Tháng 8-1945 vĩ đại, sau đó đã đánh
thắng 2 đế quốc hung bạo nhất của thời đại, mà lại chịu để cho Trung
Quốc ép ký một hiệp định bất bình đẳng như vậy sao?
Tôi đề
nghị ông Nguyễn Văn An với chức danh Chủ tịch Quốc hội thay mặt Quốc hội
– cơ quan quyền lực cao nhất của đất nước – kiên quyết không thông qua
Hiệp định biên giới Việt – Trung, cả trên đất liền và trên biển, đảm bảo
quyền lợi cho Tổ quốc và danh dự cho dân tộc. Các ông biết rõ hơn ai
hết: chỉ có một Hiệp định thương mại Việt – Mỹ ký đã hơn một năm nay, Hạ
viện Mỹ đã thông qua, Thượng viện Mỹ cũng đã thông qua, thế mà hai viện
còn phải ngồi chờ Tổng thống duyệt Hiệp định mới có hiệu lực. Hiệp định
biên giới Việt – Trung còn quan trọng hơn nhiều, sao không đưa ra Quốc
hội bàn mà đã vội ký kết? Bây giờ tuy có muộn nhưng Quốc hội nghe điều
trần rồi kiên quyết không thông qua và báo cho Trung Quốc biết, thì sự
không thông qua ấy vẫn có giá trị. Trong khi chờ đợi hai bên gặp lại,
yêu cầu Trung Quốc cứ coi Hiệp định Pháp – Thanh còn nguyên giá trị. Đất
này công sức của cha ông Khai phá ngàn năm giống Lạc Hồng Xương máu bao
đời mới có được. Xin đừng để thẹn với non sông.
Nhân
đây, tôi cũng đề nghị với Quốc hội và Chính phủ: từ nay về sau tất cả
các Hiệp định quan trọng có liên quan đến lợi ích Tổ quốc đều phải theo
nguyên tắc: được Quốc hội bàn và thông qua mới có giá trị. Ví dụ: Hiệp
định chiến tranh và hòa bình, Hiệp định biên giới và trên biển đa phương
và song phương, Hiệp định kinh tế quan trọng giữa hai Chính phủ v.v…
Tôi tin
tưởng Quốc hội Chính phủ sẽ làm được việc này. Nhân dân Việt Nam sẵn
sàng đoàn kết xung quanh Quốc hội, Chính phủ và Đảng để đòi Trung Quốc
phải công nhận Hiệp định Pháp – Thanh đồng thời trả lại cho Việt Nam các
đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Xin gửi lời chào kính trọng.
Đỗ Việt Sơn, 78 tuổi đời, 54 tuổi đảng.
Hội viên CLB Bạch Đằng.
D-C: 26/14-125 Tô Hiệu Hải Phòng D-T: 031.739039”
Thứ tư, theo Phan Văn Khải kể lại việc đàm phán với Trung cộng: “Thác
Bản Giốc mình không thể nào lấy hết… Bãi Tục Lãm họ có ý đồ lấn thật.
Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu và Cố vấn Đỗ Mười cũng phải đấu với Trung Quốc
trên tình hữu hảo mới được như vậy. Tôi, ông Vũ Khoan và ông Lê Khả
Phiêu đã đấu tranh rất căng thẳng nhưng đôi bên cũng phải có nhân
nhượng, chẳng thà mình có một phân định sau này còn có cơ sở để đấu
tranh”. Qua đây cho thấy chính Khải và Phiêu đã xác nhận hành
động bán nước của mình. Tại sao lãnh thổ của Việt Nam lại phải nhân
nhượng? Và việc để mất thác Bản Giốc và bãi Tục Lãm mà Khải kể chính là
hành động bán nước không thể chối cãi.
Thứ năm, ngày 16-5-1984,
sau mười tám ngày dùng một lực lượng lớn tấn công, Trung cộng đã chiếm
và chốt giữ hai mươi chín điểm dọc biên giới Việt Nam, trong đó có điểm
cao 1509. Hàng ngàn người lính Việt Nam đã hy sinh trong các đợt phản
công lấy lại hai mươi cao điểm ở Thanh Thủy, Vị Xuyên bị Trung cộng
chiếm đóng từ năm 1984. Nghĩa trang Vị Xuyên, Hà Giang, có 1680 ngôi mộ.
Trong đó, 1600 mộ là của các liệt sỹ hy sinh trong cuộc chiến tranh
Biên giới, đa số hy sinh trong giai đoạn 1984 – 1985, có người hy sinh
năm 1988 khi tái chiếm điểm cao 1509. Giai đoạn 1984 – 1985, theo ông Nguyễn Thanh Loan, người trông coi nghĩa trang: “Cứ nửa đêm về sáng, xe GAT 69 lại chở về từng túi tử sỹ xếp chồng lên nhau”. Theo Đại tá Phó chỉ huy trưởng Biên phòng Hà Giang Hoàng Đình Xuất: “Từ
khi chiếm được điểm cao 1509, Trung Quốc cho xây dựng trên đỉnh một
pháo đài quân sự. Ở phía bên kia, Trung Quốc xây được đường xe hơi lên
tận đỉnh trong khi bên mình dốc, hiểm trở. Theo nguyên tắc mà hai bên
thống nhất, đường biên giới đi qua đỉnh, cắt đôi pháo đài mà Trung Quốc
xây dựng trên cao điểm này, nhưng khi hoạch định biên giới, phía Trung
Quốc cho rằng, đây là một khu vực có ý nghĩa thiêng liêng nên họ xin
được giữ lại toàn bộ pháo đài để làm du lịch. Đau xót là các nhà lãnh
đạo của chúng ta đã đồng ý. Phần Việt Nam nhượng Trung Quốc ở đây tuy
chỉ có 0, 77 hecta nhưng, 1509 là một vị trí chiến lược. Từ trên pháo
đài ấy có thể nhìn thấy từng chiếc ô tô ở thị xã Hà Giang”.
Tuy không bình luận trực tiếp trường hợp điểm cao 1509, nhưng Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm giải thích:
“Tôi nghĩ, các anh ấy cũng biết (ý ám chỉ Đỗ Mười, Khải và Phiêu),
nhượng một tấc đất là có tội, nhưng với một nước lớn như Trung Quốc thì
tranh chấp phải được giải quyết để có được một biên giới hòa bình. Trước
đó không ngày nào là không có khiêu khích”. Qua đây cho thấy rõ ràng Cầm thừa nhận Khải, Phiêu… đã nhượng đất cho Trung cộng.
III. Bàn tay nhuốm máu:
Từ năm 1997, Phan Văn Khải nắm chức thủ
tướng cộng sản thì ông ta chưa làm được gì cho quê hương chúng ta. Việt
Nam vẫn chưa vẫn chưa có sinh hoạt chính trị tự do, vẫn chưa có tự do
tôn giáo, vẫn chưa có tự do báo chí, và vẫn còn giữ chính sách hộ khẩu…
Ngược lại quá khứ chúng ta sẽ thấy bàn tay của Khải nhuốm máu đồng bào
từ khá lâu.
Thứ nhất, bạn đọc chú ý
đến tiểu sử của Phan Văn Khải. Phan Văn Khải sinh ngày 25 tháng 12 năm
1933 tại Quận Củ Chi, ngoại ô Sài Gòn. Mới 14 tuổi Khải đã tham gia
“Cách Mạng”, 22 tuổi thì gia nhập Phong Trào Cải Cách Ruộng Đất. Đôi bàn
tay của Khải đã nhuốm máu của rất nhiều đồng bào vô tội trong cuộc đấu
tố dã man nhất lịch sử Việt Nam. Mời bạn đọc coi lại “Những sự thật không thể chối bỏ – Phần 5 và 6”
để thấy những con số kinh hoàng trong đó có Phan Văn Khải gây ra. Chính
vì thánh tích ác ôn nhuốm máu đồng bào trong CCRĐ mà Khải được đi học
Liên Xô. Đánh giá việc này một tài liệu của Nga khi Khải lên làm thủ
tướng có viết “Trong cải cách ruộng đất
và chấn chỉnh hàng ngũ sau khi cách mạng vô sản ở Việt Nam thành công
thì ông (ám chỉ Khải) có công rất lớn mặc dù sau này cuộc cải cách bị
đánh giá là đẫm máu”. (7)
Thứ hai, trong suốt thời
kỳ nắm chức thủ tướng thì Phan Văn Khải cũng cho bắt giam các nhà đấu
tranh trong nước như BS Phạm Hồng Sơn, LS Lê Chí Quang, Nguyễn Khắc
Toàn, mục sư Nguyễn Hồng Quang, BS Nguyễn Đan Quế, GS Trần Khuê, Hòa
thượng Thích Huyền Quang, Hòa thượng Thích Quảng Độ v.v… Như vậy việc
Khải tàn ác và chống lại dân chủ là không thể chối cãi trong vai trò
đứng đầu chính phủ của mình. Như vậy Khải, vi phạm vào Điều 19 của Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền mà cộng sản đã ký với Liên Hiệp Quốc.
Phan Văn Khải và đồng chí X
Thứ ba, bạn của tác giả Lê Nhân là anh Phan Thiệu Cơ, cháu đích tôn của cụ Phan Bội Châu kể
rằng ông nội của anh là cụ Phan bị quy lên thành phần địa chủ, quan lại
phong kiến nên nhà cửa của Phan Bội Châu ở Nam Đàn Nghệ An và sách vở
di cảo của cụ bị đảng cộng sản phần thì tịch thu, phần thì đốt sạch. Cụ
Phan một anh hùng dân tộc vĩ đại nhất thế kỷ XX đã bị Hồ Chí Minh bán
đứng cho Pháp (Xem “Những sự thật không thể chối bỏ – Phần 8”).
Khi cụ chết rồi vẫn bị đội cải cách ruộng đất sai làm hình nộm giống y
người thật đem ra giữa chợ đấu tố, lấy cứt trát vào mặt hình nộm cụ
Phan. Và tác giả Lê Nhân là người bạn học của Khải đã viết bức thư chửi
tội ác và sự ngu dốt của Khải với đại ý: “Thủ tướng Phan Văn Khải cũng
không phân biệt được đâu là chuyện chăn gối, đâu là chuyện quốc gia
chính phủ trị dân, nên sỗ sàng đưa vấn đề con cu ra ví với dân.”
Nguyên văn của nó như sau: (8)
“Kính gửi Ông Phan Văn Khải, Thủ tướng nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Thưa anh Khải
Lê Nhân
viết lá thư ngỏ này gửi anh vì tôi chẳng sợ ai cười chê bảo cái thằng
Lê Nhân cóc nhái, thứ cua cáy, rơm rạ xó bếp ở đâu chui ra, thấy người
sang bắt quàng làm họ, thật chẳng còn ra làm sao! Một người dân ngu khu
đen như Nhân tôi, đôi khi ngồi vắt tay lên trán, nhớ lời Bác Hồ dạy:-
“Cán bộ là đầy tớ của nhân dân”, mà bật cười khanh khách vì sự hài hước
trong chế độ ta không biết đến đâu là giới hạn, tự nhiên thấy mình oai
ngất trời:- hóa ra mình là ông chủ của chúng nó, ông chủ của cái đám
đảng cộng sản, nhà nước và chính phủ cộng sản đang cầm quyền kia, mà sao
mình cứ nơm nớp sợ đám đầy tớ bắt nạt, thậm chí sợ bọn đầy tớ đến bắt
ông chủ nhốt vào tù cho mục xương luôn? Còn các anh, từ anh tổng bí thư,
anh chủ tịch nước, anh thủ tướng chế độ hiện hành, thảy đều là nô bộc,
là ô-sin cho Lê Nhân, ô sin của 80 triệu đồng bào ngoài đảng hihihi!
Với tinh thần ấy của Bác Hồ, Lê Nhân viết thư cho anh Khải với 3 tư cách:
- ông công dân viết thư cho nguyên thủ quốc gia
- ông chủ viết thư sai đầy tớ
- ông bạn cũ viết thư cho ông bạn cũ ngày xưa…
Thưa
anh Phan Văn Khải, tôi cũng chẳng dám trách rằng anh đã quên cái thằng
Lê Nhân cùng tuổi với anh, cùng học một lớp chính trị Mác-xít do thầy
chúng ta là giáo sư tiến sĩ viện trưởng Viện Mác-Lênin Hoàng Minh Chính
từng dạy dỗ chúng ta hết lòng, để rồi sau đó, tôi với nghề gõ đầu trẻ
môn triết học Mác-xít, lại dạy các anh Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Phú
Trọng (sẽ có thư ngỏ gửi hai anh học trò hàm thượng thư đương triều đang
ngấp nghé thế tử này sau).
Người
(tức GS.TS triết học Hoàng Minh Chính) mà cách đây ngót 50 năm trước, đã
cứu anh Khải thoát khỏi vụ khai trừ đảng, nên anh thề sẽ suốt đời mang
ơn ông Chính, người mà anh cho là có công ngang với ơn sinh thành của
cha mẹ, thề trong đời sẽ tìm cơ hội để báo ân, đền đáp công ơn trời bể
của GS.TS Hoàng Minh Chính đối với anh.
Bây
giờ, là một nguyên thủ quốc gia, chắc anh Khải bận vô cùng, hơi đâu nhớ
tới ân nghĩa cũ; anh quên là quên cả nước chứ cứ gì quên cái thằng Lê
Nhân, quên cái ông thầy cũ Hoàng Minh Chính hiện đang bị lính của anh
bốc cứt ném vào mặt hôm 1-12-2005 ngay giữa lòng thủ đô Hà Nội huy hoàng
của đế chế cộng sản?
Tôi xin
nhắc để anh nhớ, tôi là Lê Nhân, biệt hiệu trong lớp anh em gọi là ”
Nhân ngôn luận” (có ý chửi tôi ăn nói nham hiểm, lời nói ác như vị thuốc
độc nhân ngôn giết người). Còn anh Phan Văn Khải có biệt danh cả lớp
đặt cho là “Khải đờ mờ” (vì anh có tật khi nói hay chêm tiếng đệm hai
chữ viết tắt của tên ông Đỗ Mười: Đ.M. mà những anh em người gốc nông
dân Nam Bộ tập kết thường mắc phải). Năm ấy, anh Khải được nhà trường
cấp bằng khen vì thành tích rất lớn là bỏ được hai tiếng “đù má ” chêm
vào trước bất cứ câu gì khi anh nói; nên hôm anh Sáu Thọ (Lê Đức Thọ)
đến dự lễ khai mạc khóa chính trị Mác-Lê cao cấp do thầy Hoàng Minh
Chính giảng, anh được vinh dự đảng ủy nhà trường phân công lên hô chào
cờ. Có lẽ vì anh Phan Văn Khải xúc động quá, khi lần đầu được gặp anh
Sáu Thọ, thần hồn nát thần tính, giữa không khí cực thịnh, cực nghiêm
trang của tôn giáo Mác-Lê, trên có đảng kỳ, kèm chân dung 5 lãnh tụ vĩ
đại: Mác, Lê Nin, Stalin ở giữa, hai bên là Bác Hồ và Bác Mao, dưới nữa
là cờ đỏ sao vàng, dưới nữa là anh Sáu Thọ. Thế mà giữa ba quân ngất
trời thiêng liêng ấy, anh Phan Văn Khải đứng cực nghiêm, hô chào cờ bằng
giọng Củ Chi Nam Bộ, hệt như Trương Phi hét trước cầu Trường Bản; anh
Khải hô (hét) cực vang, cực to, cực nhanh, rằng:
“Đù má nghiêm! Chào cờ, chào!”
Cả hàng
quân ngót trăm người tí nữa ngã đùng ra đất, vội đưa tay bụm miệng, vừa
bịt mồm vừa hát quốc ca, nên âm vang hùng tráng của bài “Tiến quân ca”
nghe như tiếng ếch nhái ho, như thể chó vừa ăn vụng bột vừa hát (sủa),
khiến có vài tên ngã lăn đùng ra như trúng gió vì sặc cười, phải khiêng
đi cấp cứu ngay. Tuy vậy, buổi chào cờ vẫn hoàn tất một cách ngượng chín
mặt, ai cũng ước đất nứt ra lỗ nẻ để chui tọt vào cho đỡ xấu hổ. Sau
buổi chào cờ có một không hai ấy, anh Sáu Thọ vẫn bình tĩnh huấn thị
chừng 5 phút, thay vì theo thông lệ, anh phải dạy dỗ cả tiếng đồng hồ;
vị lãnh tụ này mặt vẫn tỉnh bơ, làm như không hề có chuyện cái thằng phá
thối Phan Văn Khải vừa hô chào cờ bằng câu chửi thề đù má kinh thiên
động địa; đây có lẽ là lần bất ngờ và bực mình nhất trong cuộc đời làm
cách mạng vô cùng vẻ vang của anh Sáu.
Sau
này, anh Phan Văn Khải tâm sự với Lê Nhân rằng: “Hô chào cờ mà vẫn chêm
tiếng đù má vào theo thói quen, chắc tao sẽ phải tử hình mất!”. Nhưng
GS.TS Hoàng Minh Chính đã chạy lên chạy xuống cứu anh Phan Văn Khải
thoát khỏi tội đi tù vì xúc phạm đảng thì ít mà xúc phạm anh Sáu Thọ là
linh hồn của đảng thì nhiều. Thầy Chính còn cứu anh thoát khỏi cái án
khai trừ đảng. Nếu không có thầy Hoàng Minh Chính xả thân cứu giúp, liệu
đến nay anh Khải có lên được đỉnh của quyền lực là chức Thủ tướng chính
phủ hay không?
Thế mà,
lạ lùng thay, thủ tướng Phan Văn Khải đã lấy oán báo ân, đã cùng với Bộ
Chánh trị đảng sai lâu la, lưu manh đến đánh đập cụ Chính, mang cà
chua, trứng thối cùng cứt trộn mắm tôm ném vào người cụ già 86 tuổi
Hoàng Minh Chính và vợ con, nhà cửa của cụ Chính trưa ngày 1-12-2005,
xúc phạm vô cùng tận người thầy ngày xưa mà anh cho là đã có công lớn
cứu anh, ngang công ơn sinh thành ba má, thì hỏi còn trời đất gì nữa hay
không?
Chuyện
tày trời làm ơn cứu Phan Văn Khải ngày xưa thoát khỏi vụ án “đù má” chào
cờ Lê Nhân vừa thuật lại trên, dù ai có cậy miệng thầy Hoàng Minh
Chính, thầy cũng không nói ra đâu; vì nói ra, khoe ra lối ứng xử trả ơn
thầy học cũ bằng cách sai thuộc hạ ném cứt vào mặt thầy mình kiểu này
của anh Phan Văn Khải, thầy Chính sẽ cho là đại sỉ nhục; rằng anh dạy dỗ
thế đếch nào mà học trò của anh khi làm đến chức Thủ tướng, nó lại
thành ra cái thằng bất nhơn, đểu giả, tiểu nhân, đại phản nghịch như
thế? Giờ đây, nhận mình có một anh học trò như anh Phan Văn Khải, thầy
Hoàng Minh Chính thà chết còn hơn.
Thoắt
mấy chục năm sau, Lê Nhân thấy anh Khải xuất hiện trên tivi: khởi đầu là
phó chủ tịch, rồi chủ tịch TP.HCM, leo dần lên chức vụ phó thủ tướng,
rồi thủ tướng chính phủ nhà nước cộng sản. Mỗi lần nhìn thấy anh trên
màn hình, tôi có ý hơi lo lo: – lỡ mà khi anh đang huấn thị đồng bào, sơ
ý, nổi hứng dân Củ Chi ăn tục nói phét lên, theo vô thức tuôn ào ào ra
miệng cái tiếng đệm Đ.M., cứ như cái thuở chào cờ ngày xưa mà vô tư đù
má đồng bào, đù má các đồng chí, đù má quốc dân, thì sẽ gây họa lớn,
đồng bào chắc sẽ vỡ tim mà chết cỡ vài ba chục triệu vì cú sốc văn hóa
quá sức bất ngờ này chăng?
Có lẽ,
chính vì lường trước khả năng tình cảm vô bờ của ông thủ tướng chánh phủ
đương nhiệm, một người nông dân thuần phác Nam Bộ quen chăn trâu, câu
cá, đơm lờ, đánh giậm hơn là việc làm vương, làm tướng, mà khi anh qua
Mỹ gặp tổng thống Mỹ W.Bush vừa qua, Bộ Chánh trị đảng sợ anh nổi hứng
chào cờ, lại chả tuôn ra từ vô thức, tuôn từ trong gan ruột cái tiếng
đệm bình dân thân thương quê kiểng kia; rằng: – đù má ngài W.Bush, rằng
tôi thay mặt đù má đảng nhà nước chính phủ Việt Nam, đù má gởi lời thăm
hỏi tới ngài và gia quyến, có mà Mỹ nó điên lên, chơi bom hạt nhân xuống
lăng Bác vỡ cha cái “mặt trời chân lý”, tiêu mẹ nó cái “mặt trời trong
lăng rất đỏ” thì lấy gì làm vật linh, làm tô-tem mà lễ bái, lừa đảo nhân
dân? Cho nên, Bộ chánh trị đã soạn sẵn cho anh bài diễn văn đáp từ tổng
thống W.Bush, gồm chỉ mấy từ đơn giản xã giao, chào hỏi, chúc mừng, cảm
kích mà một trẻ chăn trâu cũng biết nói vo, không cần phải soạn trước
như đảng sợ anh văng đù má bất tử mà soạn sẵn lời đáp từ ngài W.Bush cho
anh.
Cả thế
giới qua truyền hình, đã thấy ngài W.Bush oai phong, tươi tắn, đường bệ,
sang trọng, lịch lãm, quý phái thơm như mít trước một ngài Phan Văn
Khải dúm dó, mặt đâm lê, co ro, hèn kém, quê mùa, mặc cảm tự ti, ngồi
tội nghiệp hai tay run quá nhét đại vào háng. Đến độ ngài W.Bush phải
thò hết cỡ cánh tay phải sang tận đùi ngài Khải theo kiểu thò tay vào
hang sâu bắt rắn, mới lôi được bàn tay của thủ tướng Việt Nam như con
chim trốn tuyết ra mà bắt cái rụp, thương thay!
Cả thế
giới đã nhìn thấy ngài Khải thò tay vào túi áo, lấy ra miếng giấy bé
bằng cái lá đa, hai tay bê miếng giấy như bê hòn đá nặng, đưa sát lên
mắt ấp a ấp úng đọc lời đáp từ tổng thống Mỹ, trông thê thảm và âm lịch
không sao chịu được. Suốt chuyến đi thăm Mỹ, qua ống kính truyền hình,
nhiếp ảnh, thủ tướng Việt Nam hiện lên chân dung toàn diện của đảng cộng
sản là một kẻ nhà quê ra tỉnh, một gã ăn mày đi xin tiền, lúc thì văng:
– “đù má đuổi nó ra ngay!” khi có hai vị ký giả một nam một nữ của
người Việt di tản lọt vào nơi họp báo chất vấn và tố cáo
tội ác cộng sản, lúc thì với bàn tay vuốt lên mu bàn chân mang giày của
bức tượng ngài Havard, như có ý xin được đánh giày cho quý ngài từng
lập ra trường đại học danh giá nhất thế giới tọa lạc ở Boston… khiến
nhân dân cả nước ngượng chết đi được.
Chỉ
nhìn vào chuyến đi Mỹ của anh, người ta có thể nhận ra chân dung văn hóa
của đảng cộng sản Việt Nam là thứ văn hóa diệt trí thức, văn hóa bần cố
nông con cái tố cha, vợ tố chồng, học trò trả ơn thầy bắt cách bốc cứt
ném vào mặt thầy, thứ văn hóa lừa đảo, lấy việc lừa dân từ A đến Z làm
sự nghiệp, làm cần câu cơm…
Anh
Phan Văn Khải ơi, giờ đây, cả nước cứ nhìn vào thằng con trai của anh,
thằng Hoàn Ty từng bắn chết con trai ông Phạm Thế Duyệt khi hai đứa
giành gái khi cùng đánh bạc, mà nó vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật,
không ai dám động vào cái lông chân của nó, thì thiên hạ có thể biết
người cha làm thủ tướng của hắn là quân tử hay tiểu nhân, bản chất là
loại người nào. Khổng Tử xưa dạy người quân tử phải:- “Tu thân, tề gia,
trị quốc, bình thiên hạ”, lấy nhân, nghĩa, lễ, trí tín làm đầu. Phật dạy
dân ta từ bi hỷ xả cả mấy ngàn năm. Đạo Công giáo dạy kính Chúa yêu
người. Thế mà Bác Hồ của anh và các anh sau khi dùng bạo lực cướp được
đất nước, bèn coi tam giáo đồng nguyên Phật Khổng Lão (cả Chúa sau này)
là phản động, nên sai đập nát đình chùa miếu mạo, đập nát các nhà thờ
Thiên Chúa giáo thời cải cách ruộng đất.
Bạn của
Lê Nhân là anh Phan Thiệu Cơ, cháu đích tôn của cụ Phan Bội Châu kể
rằng ông nội của anh là cụ Phan bị quy lên thành phần địa chủ, quan lại
phong kiến nên nhà cửa của Phan Bội Châu ở Nam Đàn Nghệ An và sách vở di
cảo của cụ bị đảng cộng sản phần thì tịch thu, phần thì đốt sạch. Cụ
Phan một anh hùng dân tộc vĩ đại nhất thế kỷ XX chết rồi vẫn bị đội cải
cách ruộng đất sai làm hình nộm giống y người thật đem ra giữa chợ đấu
tố, lấy cứt trát vào mặt hình nộm cụ Phan. Chính vì chuyện này, giúp Lê
Nhân tin vào việc ngày xưa ở Trung Quốc (thời Quốc Dân đảng), Hồ Chí
Minh đã bán đứng Phan Bội Châu cho mật thám Pháp để lấy tiền, trong khi
ngoài mặt, Hồ luôn coi cụ Phan như cha, làm ai cũng khen là ông Hồ hiếu
đễ. Chao ôi, cái văn hóa lấy cứt ném vào, trát vào mặt cha chú, đã có từ
độ Bác Hồ, chứ đâu phải chuyện anh Điềm và anh Khải mới sáng tạo ra lối
hại cụ Hoàng Minh Chính bằng cách lấy cứt trộn mắm tôm ném vào mặt cụ
như trưa ngày 1-12-2005 vừa qua đảng cộng sản đã làm?
Giết
oan hàng vạn người trong cải cách ruộng đất, đẩy hàng triệu người vào
chỗ chết suốt 30 năm nồi da xáo thịt, làm hơn mười lăm triệu người Việt
Nam chết oan, ngoài Hồ Chí Minh vĩ đại ra, ai, những ai là người phải
chịu trách nhiệm đây?………….
Viết
đến đây, Lê Nhân chợt thấy rùng mình mà ghê thay luật nhân quả ở đời,
làm ác thì sẽ bị quả báo, lưới trời lồng lộng, từ con tép đến Bác Hồ
cũng không thể ăn gian, không thể thoát khỏi thiên la địa võng của luật
vay trả đã từng ứng nghiệm vào cái xác không hồn của Bác Hồ đang bị đứa
con đại bất hiếu là ĐCSVN hành hạ bằng trò lừa hiếu hỉ làm ngược hoàn
toàn di chúc Bác! Xin các ông Lê Đức Anh, Đỗ Mười và giàn thế tử Phan
Diễn, Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Phú Trọng… hãy nhìn gương nhỡn tiền của
Hồ Chí Minh đang treo trước mắt các vị mà bơn bớt gian ác, mà nghĩ lại
xem có nên đi cùng đường với dân tộc, với nhân dân, với trào lưu đa
nguyên đa đảng là nhu cầu thời đại, kẻo các vị chết rồi xác lại có thể
bị treo ngoài cửa thành cho dân đến xem, cho quạ diều đến mổ thì động mồ
động mả di hại cả ngàn năn sau con cháu đấy!………
Xin quý
vị xá cho cách nói tục tĩu của anh Khải, vì anh ít học (anh Khải và Lê
Nhân đều ít học, lớp chống Pháp ta và lớp các anh đàn em như Nông Đức
Mạnh, Trần Đức Lương, Nguyễn Văn An… đều là dân học bổ túc, học chuyên
tu tại chức… nên dân gian mới bảo:- “dốt như chuyên tu, ngu như tại
chức” toàn là dân học giả bằng thật!). Anh Khải chắc không biết rằng cái
câu:- “Trên bảo dưới không nghe!” dùng để chỉ việc phòng the, chuyện
bất lực của đàn ông, rằng rất muốn làm tình với con mẹ đĩ mà con cu bảo
mãi vẫn cứ không nghe, vẫn chỉ sáu giờ, quyết không bao giờ lên được 9
giờ chứ đừng nói gì chuyện nhất dương chỉ 12 giờ. Vả lại, nhiều khi thủ
tướng Phan Văn Khải cũng không phân biệt được đâu là chuyện chăn gối,
đâu là chuyện quốc gia chính phủ trị dân, nên sỗ sàng đưa vấn đề con cu
ra ví với dân, ví với thuộc cấp thì quả tình cũng không lấy gì làm lạ!
Thưa
anh Phan Văn Khải, người xưa đã dạy: – “Thượng bất chính, hạ tắc loạn!”;
kẻ cầm quyền trong chế độ cộng sản theo Bác Hồ luôn làm gương xấu, làm
toàn việc gian ác, lừa đảo thì làm sao các vị BẢO mà DÂN nó thèm nghe!
Chẳng qua, do quý vị ĐCSVN tàn ác quá, mấy chục năm làm dân nhược, quên
mất bản tính phản ứng của con giun:- “Xéo mãi cũng quằn!”.
Dân sợ quá, sống như con cá dưới ao tù thiếu dưỡng khí, lúc nào cũng
trồi lên mặt nước cho công an hộ khẩu dễ kiểm kê mà ngáp ngáp cầm hơi!
Hà Nội 5-12-2005
Kính thư,
Le Nhân”.
Qua bức thư chúng ta thấy điều gì? Đó
là bức thư tố cáo bàn tay vấy máu của Khải với nhân dân trong CCRĐ.
Ngoài ra là nêu lên vụ án và tội ác con trai Khải. Và đặc biệt nói đến
việc Khải để đàn em đàn áp ông Hoàng Minh Chính- một người đấu tranh dân
chủ ôn Hòa. Qua đây có thể thấy được bàn tay của Khải cũng không kém
phần bạo tàn với nhân dân.
IV. Bất tài:
Phan Văn Khải trong kỳ họp Trung Ương Đảng cộng sản Việt Nam từ 6-13/1/04 đã thú nhận trước cử tọa: “… VN cần 20 năm nữa mới theo theo kịp Thái Lan…”.
Tuy nói như vậy nhưng cái mà Khải làm trong suốt thời kỳ của mình là
gì? Đó chính là tham nhũng tràn lan không kém gì thời kỳ của đồng chí X
hiện nay. Để chứng minh điều này chúng ta hãy để ý những tài liệu sau
đây.
Thứ nhất, ngày 25-7-2001,
thủ tướng Phan Văn Khải có quyết định phê duyệt “Đề án tin học hóa quản
lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2005″ (đề án 112). Tính đến ngày
30-12-2005, vốn đầu tư từ ngân sách trung ương cấp cho đề án là 685 tỉ
đồng, trong đó Ban Đề án 112 đã chi hơn 277.97 tỉ đồng (hơn 18 triệu Mỹ
kim, theo tỉ giá hối đoái vào thời gian đó.)
Theo báo Người Lao Động ngày 20/1/2009,
sau 16 tháng điều tra vụ tham nhũng trong ban điều hành đề án “tin học
hóa quản lý hành chính nhà nước”, cơ quan điều tra Bộ Công an cộng sản
đã đề nghị truy tố 20 bị can, trong đó có 1 viên chức hàng thứ trưởng
tên là Vũ Đình Thuần, nguyên phó chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ CSVN (thời kỳ Phan Văn Khải làm thủ tướng), trưởng ban điều hành đề án 112 (tin học hóa quản lý hành chính nhà nước 2001-2005), và Lương Cao Sơn,
thư ký ban điều hành Đề án 112, cùng bị truy tố về 2 tội danh “tham ô
tài sản” và “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”.
Vũ Đình Thuần |
Theo điều tra của công an cộng sản,
Lương Cao Sơn với tư cách là thư ký “đề án 112″ đã “tư vấn” cho các
doanh nghiệp đường đi nước bước và trình Vũ Đình Thuần ký duyệt các
quyết định để kiếm tiền hoa hồng. Cụ thể, Lương Cao Sơn đã trực tiếp
thiết kế tới 7 đường dây cho các vụ làm ăn này. Vụ đầu tiên là mua sắm
nhu liệu bản quyền với Công ty Phần mềm ISA do Nguyễn Thúy Hà làm tổng
giám đốc. Bỏ qua hết các thủ tục mời thầu theo quy định, ngày
11-10-2004, Sơn đề nghị Vũ Đình Thuần quyết định công nhận Công ty ISA
trúng thầu với giá trị nhu liệu bản quyền của hãng Microsoft và IBM trị
giá hơn 9.1 tỉ đồng (hơn 600, 000 Mỹ kim). Trong vụ này, Hà đã đưa cho
Sơn 360 triệu đồng để chia cho Vũ Đình Thuần 200 triệu đồng, bà Phạm Thị Ngọc, kế toán trưởng Ban Đề án
112, 80 triệu đồng, còn lại là phần Sơn. Kết quả điều tra thật bất ngờ,
nguồn gốc nhu liệu ISA giao cho ban “đề án 112 “lại chính là bà Hà mua
của chồng mình là Nguyễn Mạnh Hùng, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Tư vấn hệ thống thông tin, với giá chỉ có 5.8 tỉ đồng.
Báo Người Lao Động ghi nhận rằng cơ
quan điều tra đã khám phá nhiều “mánh” làm ăn của Lương Cao Sơn với một
ban giám đốc nhà xuất bản Tư pháp do Nguyễn Đức Giao làm giám đốc. Thông
qua sự môi giới của Hoàng Đăng Bảo, thư ký của Vũ Đình Thuần, trong thời gian từ tháng 3-2004 đến tháng 6-2006, Nguyễn Đức Giao
đã ký với Vũ Đình Thuần 28 hợp đồng in ấn giáo trình, tài liệu với giá
trị hơn 3, 8 tỉ đồng. Do nhà xuất bản Tư pháp không có chức năng in,
không có nhà in, để có giáo trình, tài liệu giao cho bên A, nên Nguyễn
Đức Giao ký hợp đồng giao cho 7 công ty in khác để rút ra 667 triệu đồng
tiền chênh lệch. Số tiền này Giao đã chuyển lại cho Hoàng Đăng Bảo 409
triệu đồng.
Trong số can phạm có Lương Cao Phong, giám đốc Trung tâm Thẩm định và Tư vấn thông tin thuộc Công ty Tin học xây dựng và là em ruột Lương Cao Sơn, đã môi giới cho Phạm Văn Hạc, giám đốc Công ty Tin học xây dựng,
thực hiện tổng cộng 15 hợp đồng kinh tế và một giao dịch trực tiếp,
tổng giá trị hơn 1.68 tỉ đồng. Trong đó có 7 hợp đồng đào tạo tin học
trị giá 817 triệu đồng và 8 hợp đồng dịch vụ trị giá hơn 864 triệu đồng.
Cơ quan điều tra làm rõ, bằng uy của anh trai, Lương Cao Phong nhận của
Công ty Tin học xây dựng tới hơn 316 triệu đồng, trong đó tiền môi giới
là 113 triệu đồng.
Cũng theo báo NLĐ, qua nhiều thủ đoạn khác nhau, Nguyễn Thị Phương Hoa
đã rút được hơn 1 tỉ đồng. Sau khi chi lại cho Ban Đề án 112 hơn 717
triệu đồng, còn hơn 277, 8 triệu đồng, ngoài việc chia cho các phòng
ban, bị can Trần Tấn Ngô và Nguyễn Thị Minh Thiệu, tổng giám đốc và phó
tổng giám đốc công ty được chia 17 triệu đồng/người…
Theo báo chí cộng sản thì còn nhiều bị can cùng Vũ Đình Thuần trong vụ này đó là: “Cùng
bị khởi tố điều tra trong vụ việc liên quan đến nguyên Phó Chủ nhiệm
Văn phòng Chính phủ Vũ Đình Thuần còn có 7 bị can khác bao gồm: ông
Lương Cao Sơn, cán bộ Văn phòng Chính phủ, Thư ký Ban chỉ đạo điều hành
Đề án 112; ông Hoàng Đăng Bảo, chuyên viên Vụ Hành chính của Văn phòng
Chính phủ; ông Nguyễn Đức Giao, Giám đốc NXB Tư pháp (Bộ Tư pháp); ông
Bùi Duy Hồng, Phó phòng Kế hoạch NXB Tư pháp; bà Nguyễn Thị Phương Hoa,
Phó Tổng giám đốc; bà Nguyễn Thị Minh Thiệu, Phó Tổng giám đốc và bà Ngô
Thị Nhâm, Phó phòng Kinh doanh Tổng công ty Phát hành sách.” (8)
Vai trò của Phan Văn Khải ở đây thế nào? Khải là Thủ tướng và trong thời gian Khải còn đương nhiệm đã là người ký duyệt dự án
này. Đồng thời Khải đã để yên cho dự án cấp quốc gia này có thể ung
dung tham nhũng ngay trước mũi Khải là điều không tưởng. Có chăng Khải
vì tham nhũng và bất tài nên để cho đàn em mặc sức tham nhũng.
Bình luận về vấn đề này RFA có bài viết: “Vụ án Vũ Đình Thuần ảnh hưởng đến T.T. Phan Văn Khải?”. Bài viết là cuộc phỏng vấn L.s – T.s Cù Huy Hà Vũ có đoạn như sau: (9)
“Mặc
Lâm: Đó là những người liên quan trực tiếp đến vụ án. Riêng những người
không được nêu tên nhưng có liên quan gián tiếp như nguyên Thủ Tướng
Phan Văn Khải là thủ trưởng của ông Thuần và cũng là người theo dõi dự
án 112 thì vai trò của ông như thế nào, thưa Luật Sư?
TS Cù
Huy Hà Vũ: Những người có trách nhiệm gián tiếp, chẳng hạn như nguyên
Thủ Tướng Phan Văn Khải thì tôi cho rằng là ông Phan Văn Khải cũng phải
chịu trách nhiệm.
Mặc
Lâm: Thưa, Luật Sư vừa nói là ông Khải cũng phải chịu trách nhiệm, tuy
nhiên thực tế thì từ xưa đến nay chưa có một lãnh đạo cao cấp nào chịu
liên đới trách nhiệm về những việc làm sai trái của nhân viên thuộc cấp,
như vậy thì lần này có sự đột phá mới mẻ và là một trường hợp cá biệt
hay không?
TS Cù
Huy Hà Vũ: Nhà nước Việt Nam từ lâu nay và ngay cả dưới thời ông Phan
Văn Khải cũng kêu gọi và quy định là cơ quan nhà nước nào mà để xảy ra
tham nhũng thì người đứng đầu phải chịu trách nhiệm.
Vậy
trong trường hợp này là vụ án tham nhũng xảy ra ngay tại Văn Phòng Chính
Phủ, tức là dưới sự điều hành trực tiếp của ông Phan Văn Khải thì rõ
ràng nguyên Thủ Tướng Phan Văn Khải phải chịu trách nhiệm về vụ án tham
nhũng này. Không thể nói là không có trách nhiệm một chút gì!
Nhưng
cái chuyện tòa án Việt Nam cho tới bây giờ vẫn chưa có thông lệ là đối
với thủ tướng hay là những nhân vật cao cấp cỡ Bộ Chính Trị có liên quan
thì mời ra tòa với tư cách hoặc là nhân chứng, hoặc là có quyền lợi,
hoặc là có nghĩa vụ liên quan, thì trong trường hợp này, theo tôi, Thủ
Tướng Phan Văn Khải cần được tòa mời vớí tư cách hoặc là nhân chứng,
hoặc là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bởi vì trong trường hợp
này có liên quan tới trách nhiệm của Thủ Tướng Phan Văn Khải.”
Cũng liên quan đến vai trò của Phan Văn
Khải, xin chú ý điểm này. Đầu tiên Khải ký quyết định cho Vũ Đình Thuần
làm chủ nhiệm đề án 112 (9). Sau này trong bản kết luận điều tra sơ khởi ngày 10/9/2008 của công an cộng sản có đoạn tại mục 3/ khoản 4 như sau: “Cần
xét đến trách nhiệm trong việc đề bạt cán bộ cũng như quản lý dự án 112
của nguyên thủ tướng Phan Văn Khải. Chuyển Viện KSNDTC xem xét trách
nhiệm liên đới”. Nhưng cho đến khi bản kết luận điều tra ngày 20/1/2009 thì lại mất hẳn đoạn này.
Chỉ cần nói đến trách nhiệm của người
đứng đầu chính phủ và việc mập mờ trong kết luận vụ án có thể thấy Phan
Văn Khải có vai trò rất lớn trong vụ Vũ Đình Thuần tham nhũng. Việc quan
chức cộng sản bao che cho nhau cũng là chuyện thường. Tuy nhiên qua đó
có thể thấy được bộ mặt thật của Phan Văn Khải.
Sáu Khải đi thăm Lào Cai
Thứ hai, sau đây là bức
thư của một cán bộ cộng sản kỳ cựu tố cáo sự bất tài và tham nhũng của
thời kỳ Phan Văn Khải. Đó là minh chứng rõ nét cho một nhân vật vô dụng
và có bàn tay nhúng chàm tham nhũng như Khải (10):
“KHỞI
KIỆN ông Phan Văn Khải, đứng đầu Hành pháp hai nhiệm kỳ liên tục đến
nay, 2006, ông phải nghỉ mà để lại một guồng máy cầm quyền vận hành bởi
những “người công chức” thương dân thì ít mà hành dân thì nhiều.
Kính gởi: – Tòa án Lương Tri Tối cao.
Đồng kính gởi:
- Những ai quan tâm, xây dựng chế độ pháp quyền xã hội chủ nghĩa
- Các chiến sĩ trên Mặt trận Thông tin Đại chúng
- Tòa án Nhân dân Tối cao
- Viện kiểm sát Nhân dân tối cao
- Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa 11
- Bộ chính trị và Ban Bí thư Đảng CSVN khóa 10
Tôi tên Thiều Thị Tạo,
SN 1950, CMND 020.162.003, cấp ngày 18/06/1997 tại Tp. HCM, đảng viên
từ 1968, lúc 18 tuổi, là Đội Vũ trang Tuyên truyền F.100 Ban Binh vận
Trung ương cục hoạt đông Khu Sài Gòn – Gia Định, sau GP 1975, công tác
khoa học về tội ác chiến tranh rồi chuyên nghiên cứu di truyền học, rồi
đa dạng sinh học, rồi cân bằng sinh thái, nghiên cứu viên 10/10, hưu trí
từ tháng 8/2005, thường trú số 44, đường 11, Khu phố 4, phường An PHú,
Quận 2, [số nhà cũ 513C, ấp An Bình, xã An Phú, huyện Thủ Đức] – Sài
Gòn.
Liên lạc ĐT: 7444220 – Email: taomado@hcm.vnn.vn
Để góp phần phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích và quyền hợp pháp của công dân.
Căn cứ vào Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam.
Tôi khởi kiện ông Phạm Văn Khải, Thủ tướng nước CHXHCN Việt Nam nội dung:
Ông
Phạm Văn Khải sắp nghỉ làm Thủ tướng, cho nên, buộc lòng tôi phải cấp
tốc khởi kiện Thủ tướng Phan Văn Khải vì bộ máy cầm quyền của ông được
vận hành bởi những “người công chức”, mà nếu, “vì Dân” thì khó làm việc
được, thì bị vô hiệu hóa, khó bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhân dân lao
động, mà nhiều công chức vô cảm, vô tư (*), thiếu tầm, thu vén cá nhân
thì lại dễ dàng kéo bè, kéo đảng, dễ dàng lên lương, lên chức, tham ô,
hủ hóa, hại Dân, hại Nước.
Trong
điều kiện “Tam quyền phân lập thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng
CSVN”, bộ máy hành pháp của Thủ tướng là mạnh nhất vì nắm tiền, tiền do
Dân làm ra, không phải tiền của Nhà Cầm quyền làm ra, tại sao Quý vị Cầm
quyền tùy tiện xài tiền, tùy tiện mượn nợ trong nước, ngoài nước khỏi
công khai cho Dân biết, Dân bàn, Dân kiểm tra? Ai trả nợ? Thủ tướng và
gia đình có làm nghề nghiệp gì đóng góp cho kinh tế nước nhà không? cụ
thể là làm được gì. Thủ tướng có kiểm kê tài sản nhà mình trước khi nhận
nhiệm vụ và sắp tới, ông Phan Văn Khải hết làm thủ tướng, theo nguyên
tắc dân chủ, có kiểm kê công khai trước toàn dân hay không? Tại Thủ
tướng duy trì bọn công chứ tham ô từ khi đương chức đến khi về hưu, mỗi
người được cấp 5 nhà, 7 đất? Xe lớn? Xe con? Cổ phần, tài sản công biến
thành của tư nhân: Trải qua hai nhiệm kỳ làm Nguyên thủ Quốc gia, Thủ
tướng Phan Văn Khải để lại gia tài khổng lồ cho xã hội Việt Nam, đó là
hiện thực: Cướp ngày là quan. Có bao nhiêu phần trăm công chức của Thủ
tướng là Quan cướp ngày? Và có bao nhiêu công chức đang lãnh lương Nhà
nước mà tự do hủ hóa như cá độ, đá gà, đánh bạc, buôn lậu, hút chích, bồ
nhí, điếm già, v.v… hưởng thụ gấp triệu triệu, tỷ tỷ tiền lương. Thủ
tướng có biết đám Quan công chức đó xài tiền của Ai không? Nhà Cầm Quyền
cần làm rõ công Ai nuôi Ai? Công chức phải ghi rõ chữ to và phát thanh
liên tục ở nơi công sở cho Dân ngu cu đen phải giác ngộ Quyền lợi và
Nghĩa vụ công dân. Đã thành thói quen cái gì dân làm được từ hột gạo,
con cá đến bãi phân. Dân cứ phải đầu môi chót lưỡi câu thiều: “Nhờ ơn
Đảng, nhờ ơn Chính phủ”. Nay đến thời tiền gia nhập WTO, Nhà cầm quyền
còn phải chứng minh có ai rửa tiền cho ai không?. Một khi những khẩu
hiệu mang tính hù doạ dân lành như: “Có dịch! Có vi-rút! Phải cấm nuôi
con này, phải chuyễn nuôi con khác! Phải giết con này để cứu con kia!
Phải chống dịch! Phải vắc-xin! Phải phun! Phải xịt! Phải khẩu trang!
Phải v.v…” phát ra từ cấp cầm quyền, thì dân lành khốn đốn mất tiền, mất
vốn, mất sinh kế, có khi mất cả mạng, còn giới tài phiệt kinh doanh vắc
xin, thuốc men, thiết bị, con giống v.v… thì tha hồ hốt bạc. Vấn đề này
tôi có đóng góp xây dựng Đại hội Đảng CSVN khóa 10 vì dư luận về ông Lê
Thanh Hải, Chủ tịch Tp HCM là thiếu đức và thiếu cả tài, ngoài thiếu
hiểu biết dịch, đại dịch, còn vướng vào Đất đai, lãnh vực phát sinh
nhiều tham nhũng, còn cấu kết với bà Võ Thị Thắng, Tổng cục trưởng Du
lịch VN, vay tiền nước ngoài, phá rừng ngập mặn Cần Giờ, mở rộng con
đường Rừng Sác, từ 2 làn xe lên 6 làn xe, hình thành một xa lộ thênh
thang, không biết phục vụ cho ai? giữa Khu Dự trữ Sinh quyển Cần Giờ,
dân cư thưa thớt?! Khu Dự trữ Sinh quyển này được MAB và UNESCO công
nhận lần đầu tiên ở Việt Nam từ năm 2000. Bất chấp dư luận chê trách
Quản lý nhà nước ở Tp. HCM, ông chủ tịch Lê Thanh Hải được vào Bộ Chính
trị. Thủ tướng Phan Văn Khải há chẳng có trách nhiệm gì trong việc đề
bạt cán bộ cầm quyền cao cấp mà bị tố cáo, thưa kiện quá nhiều?
Cứ mỗi
lần, có một vụ thưa kiện nát nước ở các cấp không xong, Thủ tướng lập Tổ
Công tác Chính phủ để thanh tra, Tổ thanh tra quậy cặn cáo nổi lên, ai
là người gạn đục khơi trong – không có – xử đập dập theo kiểu cứt trâu
để lâu hóa bùn – Ai chịu? – Dân không bằng lòng thì Thủ tướng phải chịu
trách nhiệm. Từ khi Đất đai (vấn đề cốt từ của cuộc Cách mạng Dân tộc
Dân chủ) trở thành hàng hóa thì bộ máy cầm quyền của Thủ Tướng đã không
làm gì được ngoài việc thao túng cho lớp cường hào ác bá mới áp bức, bóc
lột nhân dân, đẩy nhân dân vào con đường cùng.
Không biết rồi sẽ xảy ra đổ máu và bạo loạn ngày nào!!?
Bởi Thủ
tướng Phan Văn Khải sắp rời ghế Nguyên thủ Quốc gia mà không có trách
nhiệm gì về lòng tin của Dân đối với Nhà cầm quyền do ĐCSVN lãnh đạo,
đau đớn thay, đang bị lung lay tận gốc rễ, (mà Thủ tướng và bộ máy vẫn
cứ điềm nhiên tọa thị, không chút xót xa cho bao máu xương, bao tuổi trẻ
lớp lớp trải đường cho vị trí cầm quyền của Đảng], trên nguyên tắc:
“công chức chỉ được làm những gì luật pháp cho phép còn dân thì được làm
tất cả những gì luật pháp không cấm”, tôi phải khởi kiện ông Phan Văn
Khải, Thủ tướng nước CHXH CNVN trước Tòa án Lương Tri Tối cao thông qua
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân ngày bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước từ Bến
Nhà Rồng Quận 4, Sài Gòn.
Hôm
nay, ngày 5 tháng 6 năm 2006, (ngày Tp làm lễ sự kiện bác Hồ ra đi tìm
đường cứu nước từ Bến Nhà Rồng) với tư cách công nhân của nước CHXH tôi
xin gởi Đơn KHỞI KIỆN ông Phan Văn Khải, đứng đầu Hành pháp hai nhiệm kỳ
liên tục đến nay, 2006, ông phải nghỉ mà để lại một guồng máy cầm quyền
vận hành bởi những “ người công chức” thương dân thì ít mà hành dân thì
nhiều. (Người dân cay đắng lắm thay!).
Rất
mong được sự quan tâm giải quyết của quý vị nhận đơn. Tôi xin hoàn toàn
chịu trách nhiệm trước Luật pháp về tính trung thực của lòng tôi về sự
Khởi kiện và tôi sẵn sang cung cấp nhân chứng khi có yêu cầu.
Nguyên đơn
(Đã Ký)
Thiều Thị Tạo
513C (Số Mới 44 – đường 11)
Khu Phố 4 – Phường An Phú – Quận 2 – Sài Gòn
Tel: 84 – 08 – 7444220”.
Thứ ba, nhắc đến sự bất tài của Phan Văn Khải còn phải nhắc vụ PMU 18.
Đây là một trong số các vấn để nổi bật nhất trong thời kỳ Khải làm thủ
tướng chính là vụ PMU-18, là một vụ bê bối liên quan đến tham nhũng
trong Bộ Giao thông Vận tải đầu năm 2006. Vụ này đã gây xôn xao dư luận
tại Việt Nam cũng như các nước và tổ chức cung cấp viện trợ phát triển
chính thức (ODA) cho Việt Nam, đã khiến Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải
Đào Đình Bình phải từ chức và Thứ trưởng Thường trực Nguyễn Việt Tiến bị
bắt giam… vai trò của Khải trong vụ án này là không thể tránh khỏi vì
khi làm thủ tướng thì ông ta đã ở đâu để cho bê bối ngay trong cơ quan
bộ? Có lẽ chỉ có Khải là biết rõ nhất.
V. Kết luận:
Với bản chất xuất phát từ một kẻ dính
máu nhân dân từ trong CCRĐ thì Phan Văn Khải đã đi trọn con đường quan
lộ cộng sản của mình kèm với độc tài, tham nhũng, bán nước và bất tài.
Chính vì vậy chúng ta cần phải xem xét tội trạng của Khải để sau này khi
Việt Nam có độc lập và dân chủ thực sự sẽ xét hỏi đến những tên như
Khải. Chúng ta không hề mong đợi sự trả thù đẫm máu như cộng sản. Nhưng
công lý phải được thực thi nghiêm minh với những kẻ bán nước hại dân như
Phan Văn Khải.
28/09/2013
___________________________________________
Chú thích:
(7) (Trích báo cáo về thủ tướng Phan Văn Khải của cơ quan an ninh đối ngoại Liên Bang Nga ngày 13/10/1997)
No comments:
Post a Comment