LÀNG DƯỠNG LÃO VIỆT KIỀU
Làng dưỡng lão Việt kiều
400 dollars một tháng
Cho những ai muốn về VN an dưỡng ?
Bạn bị stress? Bạn làm việc quá nhiều đến độ
uể oải? Bạn muốn tìm một không gian yên tĩnh cho 2 người? Bạn muốn trốn
khỏi đô thành náo nhiệt để tìm khoảng thật lặng cho tâm hồn? Một nơi gần
thành phố nhưng đáp ứng tất cả nhu cầu đó của bạn: Làng an dưỡng Ba
Thương. Làng an dưỡng Ba Thương ở ấp Ràng, xã Trung Lập Thượng, huyện Củ
Chi, cách trung tâm thành phố 45km, với diện tích 7ha. Khung cảnh ở Ba
Thương thơ mộng với hoa lá cỏ cây; kiến trúc được thiết kế đậm chất
phương Đông. Đây là địa điểm lý tưởng để khách an dưỡng, nghỉ ngơi. Với
sức chứa 360 khách, mỗi căn hộ ở Ba Thương đều trang bị đầy đủ tiện
nghi: Máy điều hòa, truyền hình, tủ lạnh, máy nước nóng. Khách có nhu
cầu lưu trú ngắn hạn, giá phòng bao gồm bữa ăn sáng. Riêng các bữa ăn
trong ngày tùy theo thực đơn, khách lựa chọn sẽ có bảng giá riêng.
Các dịch vụ massage, giặt giũ được tính phí với giá ưu đãi. Nếu lưu trú dài hạn, khách sẽ được sử dụng rất nhiều dịch vụ phong phú và bổ ích như: Thể dục dưỡng sinh, câu cá, chơi cờ, karaoke, trồng hoa, cầu lông, văn nghệ hằng đêm (đàn ca tài tử, tân nhạc…), thư viện, Wifi miễn phí. Ba Thương tổ chức các hoạt động phong phú trong suốt một tuần:
Chủ nhật – Tổ chức tham quan du lịch đến các đền thờ chùa chiền ở địa phương. Thứ hai – Tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho khách. Thứ ba – Tổ chức các buổi nói chuyện về dinh dưỡng, văn hóa nghệ thuật vào buổi tối. Khách sẽ được phục vụ buffet thân mật kết hợp với chương trình văn nghệ đặc sắc như đờn ca tài từ, tân nhạc, cổ nhạc, ngâm thơ… Thứ tư – Chương trình “Khiêu vũ dưỡng sinh” được tổ chức định kỳ 2 tuần/1 lần vào tối thứ tư, các buổi tối thứ tư còn lại là những buổi thuyết giảng về tín ngưỡng.
Thứ năm – Buổi sáng có chương trình “Những bài tập Yoga” giúp giảm stress, cải thiện trí nhớ.. Thứ sáu – Một phần đất trong các diện tích của làng an dưỡng dành riêng cho quý khách tự trồng tỉa các loại rau quả, một ngày hoạt động đúng nghĩa nhằm tạo sự vận động và thú vui chăm sóc (các loại hạt giống sẽ được cung cấp theo ý thích của khách). Thứ bảy - Ngày thứ bảy của mỗi tuần thường dành cho sự yên tĩnh và là ngày khách tiếp đón người thân và bạn bè; có thể sẽ là bữa cơm trưa tại nhà hàng hoặc một buổi câu cá thú vị tại ven hồ.
Chỉ dẫn: Khách có thể đến Ba Thương bằng xe bus. Từ TP HCM, khách đi tuyến xe bus lộ trình Sài Gòn – bến xe Củ Chi (giá vé 7.000đồng), đến bến xe Củ Chi, chuyển sang xe bus Củ Chi – An Nhơn Tây (giá vé 5.000 đồng), đến ngã 3 Trung Hòa, xuống xe, tiếp tục đi xe Honda ôm vào Làng an dưỡng Ba Thương (10.000 đồng - giá vừa cập nhật). Làng An Dưỡng Ba Thương, địa điểm lý tưởng để khách an dưỡng, nghỉ ngơi.
Làng An Dưỡng Ba ThươngĐịa chỉ:
Ấp Ràng, Xã Trung Thới Thượng, Huyện Củ Chi,TP.Hồ Chí Minh.Điện thọai:(08) 3892 6839
Email: langnghiduong@bathuong.com
Vắng tanh làng dưỡng lão Việt kiều tiêu chuẩn châu Âu
Làng dưỡng lão đầu tiên và có lẽ đến nay vẫn là duy nhất ở Việt Nam được đánh giá đạt tiêu chuẩn châu Âu, người dân thường gọi là “Làng dưỡng lão Việt kiều”, giờ bỗng vắng lặng lạ thường.
Làng dưỡng lão Việt kiều đẹp nhưng vắng tanh.
Ra khỏi “thiên đường”
Thật bất ngờ khi đến Làng an dưỡng Ba Thương (huyện Củ Chi, TPHCM) tôi gặp một cặp cô dâu chú rể đang chụp hình đám cưới trong làng! Ở đây, những con đường rợp cây xanh, thậm chí con đường dẫn đến toa lét công cộng cũng đi giữa hai hàng cau. Nhà thủy tạ mọc giữa hồ sen, nhà ngâm thơ, nhà tập thiền, sân thể dục, hồ nước lung linh, trong đó đặt con thuyền gỗ nhỏ, một khu biểu diễn nghệ thuật và xem phim. Khung cảnh làng dưỡng lão đẹp không thua kém gì một khu nghỉ dưỡng cao cấp dành cho giới thượng lưu!
Một góc làng nghỉ dưỡng.
Những ngôi nhà dành cho người già được xây riêng biệt, gồm bốn phòng, mở cửa ra bốn phía. Mỗi phòng hơn 20 mét vuông trang bị ti vi, tủ lạnh, điều hòa, như phòng khách sạn. Các cụ già được nấu cơm theo từng thực đơn riêng. Đội ngũ điều dưỡng viên được đào tạo luôn theo dõi sức khỏe của họ.
Giang, một nhân viên ở làng dưỡng lão, nói: “Ở đây có cả các cụ trong nước và các cụ Việt kiều cùng an dưỡng. Làng được xây dựng từ năm 2007, trải nhiều thăng trầm”. Cụ lớn tuổi nhất là 92 tuổi, người Sài Gòn. Còn các cụ đa số trên 70 tuổi. Cụ Ái - Việt kiều cao tuổi nhất 85 tuổi.
Các cụ già Việt kiều, hoặc người Việt Nam nhưng con cái ở nước ngoài, đều khá cô độc nên đã tìm tới làng dưỡng lão. Nhiều người thích không khí yên tĩnh ở đây nhưng không chọn nơi đây làm chỗ nghỉ dưỡng cuối đời, bởi mô hình này còn quá mới và giá cả không rẻ.
Người ở ít thì chừng vài tháng, có người ở chừng một năm. Cá biệt có người đã ở làng bốn năm. Nhiều người mất vợ hoặc mất chồng. Nhưng cũng có hẳn một cặp vợ chồng già đang ở trong làng giữa phong cảnh đẹp như mơ.
“Người ta cứ ở rồi đi. Có người phải về nước ngoài lãnh tiền trợ cấp rồi quay lại. Có người đi về nước ngoài rồi kẹt, chưa thấy về”. Giang nói “nhân viên trong trại thường nhận được những lá thư gửi về từ Mỹ, châu Âu, cám ơn sự chăm sóc của làng”. Anh Hải, nhân viên của làng nói: “Ai cũng mong ngày trở lại. Các cụ ra đi, buồn lắm”.
Bà Long đã ở bốn năm trong làng dưỡng lão. Năm nay bà 83 tuổi. Bà thích không khí ở Việt Nam. Về nước, bà được nghe tiếng Việt hàng ngày, trò chuyện với người cùng trang lứa, ăn những món yêu thích. Điều đó khác nhiều với khi bà ở Mỹ. Nhưng khi tôi đến, bà Long cũng chuẩn bị rời khỏi làng an dưỡng. “Người ta đã thông báo tạm ngưng nhận khách để thay đổi hình thức kinh doanh” – người nhà của các cụ nói.
Dạo quanh một vòng, thấy Làng an dưỡng vắng tanh. Cảnh đẹp, nhưng chẳng có người già. Một người con (gần 60 tuổi) từ Tây Ninh lên thăm mẹ, ngồi buồn bên bậu cửa, nói: “Làng bảo chúng tôi đưa các cụ về để họ nâng cấp sửa chữa. Chúng tôi còn có nhà đưa mẹ về, những người không có nhà cửa ở Việt Nam thì sao đây?”. Cô cho biết phần lớn các cụ già đã ra khỏi làng Ba Thương.
Giấc mơ quá lớn?
Một cụ già đang sắp sửa rời khỏi “tiên cảnh” làng Ba Thương (nay là thôn Kinh Đông).
Anh Tùng làm giám đốc điều hành làng Ba Thương đã 7 năm, nói: “Đầu tư vào làng quá lớn mà tiền thu được không đáng kể, thu không đủ bù chi, liên tục thua lỗ, không thể duy trì mô hình cũ được nữa”. Theo anh Tùng, số cụ ở Việt Nam vào làng không nhiều: “Quan niệm của người Việt ta còn nguyên nếp cũ. Người nào quan niệm thoáng lắm mới đưa cha mẹ vào làng dưỡng lão, đa số vẫn để các cụ ở nhà thôi. Việt kiều thì thoáng rồi, nhưng không lẽ chúng tôi chỉ nhận khách Việt kiều? Hơn nữa, chúng tôi không thể áp dụng hai mức giá cho các cụ”.
Mức giá hiện tại áp dụng chung là 8 triệu đồng/ tháng. Giám đốc điều hành nói: “Với các cụ trong nước, mức 8 triệu đồng mỗi tháng đã than mắc, làm sao tăng lên 20 -30 triệu được. Không có tiền làm sao duy trì phát triển? Chúng tôi có hơn 80 phòng, nhưng hiện chỉ có mười mấy cụ thôi”.
Sau 5 năm đưa vào sử dụng, phòng ốc bắt đầu xuống cấp. Anh Hải, nhân viên của làng nói: “Tôi làm bảo vệ, có tháng lương được hơn một triệu đồng. Sống giữa nơi tiên cảnh, nhưng lại không có tiền. Chỉ vì chữ tình mà làm thôi”. Nhiều người cho rằng mức thu 8 triệu mỗi tháng quá cao so với mức sống của người già Việt Nam. Bởi vậy ít khách. Một Việt kiều nói rằng: “Các cụ Việt kiều không hẳn ai cũng giàu có. Bằng chứng nhiều người chỉ có thể lưu lại vài ba tháng để an dưỡng, rồi họ lại về Mỹ, về châu Âu”.
Anh Hải cho biết: “Ông giám đốc cũ đã cùng anh em dựng lên làng an dưỡng Ba Thương từ mảnh ruộng để thành làng nghỉ dưỡng tiêu chuẩn châu Âu”. Nhưng rồi, khách trong nước thì ít, khách Việt kiều đến rồi đi. “Tình hình kinh tế rất bi đát – anh Hải nói – giám đốc cũ đột quỵ qua đời khi mới hơn 50 tuổi”.
Có còn ngày trở lại?
Mới đây, một bác sĩ Việt kiều đã quyết định mua lại dự án để duy trì và phát triển làng. Gặp vị giám đốc mới, ông cho biết: “Trước kia là làng an dưỡng, nay tôi nâng cấp thành làng nghỉ dưỡng. Tôi đặt lại tên là thôn Kinh Đông vì ở đây có con kinh Đông”.
Người chủ mới là Việt kiều Pháp, ông đánh giá: “Việt Nam mình chưa nơi dưỡng lão nào đáp ứng được tiêu chuẩn trại dưỡng lão châu Âu, trừ cái làng này. Ở nước Pháp có trên 4.000 cái như vầy”.
Người chủ mới than phiền, hiện còn hơn chục giường có khách, nhưng điều kiện chăm sóc người già rất thiếu thốn: “Chúng tôi phải nâng cấp làng này thành nơi nghỉ dưỡng. Chúng tôi đang làm sân đánh golf, sân quần vợt, bể bơi. Như thế, làng có thể đón được những Việt kiều về Việt Nam chăm sóc bố mẹ có nơi lưu lại, tăng doanh thu, lấy tiền nuôi các cụ. Chúng tôi sẽ đón nhiều khách nghỉ dưỡng hơn, không kể tuổi tác, và nhiều Việt kiều về hơn”.
Được biết, khoảng cuối năm làng sẽ hoạt động trở lại.
Một gia đình ở Bến Cầu, Tây Ninh tâm sự rằng đang chuẩn bị đưa mẹ về nhà. Bà cụ đang đọc kinh. Người con gái nghe phong thanh, “sau khi nâng cấp sửa chữa, sẽ đón khách trở lại, nhưng mức giá có thể cao hơn rất nhiều”.
Cô nói: “Hẳn làng sẽ còn đẹp hơn bây giờ. Nhưng, với mức thu nhập bình quân của người lao động Việt Nam như chúng tôi, thì có lẽ càng ít người già trong nước có thể nghỉ dưỡng được trong ngôi làng đạt tiêu chuẩn quốc tế này”.
Thursday, October 31, 2013
HUẾ BÙI * NGOẠI CẢM
01-11-2013
Trao bằng khen 38 nhà ngoại cảm, lãnh đạo Bộ LĐ-TB-XH hối hận
Huế Bùi
Nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nghi nhận bằng khen Thủ tướng. |
NQL: Các bà toàn nói vuốt đuôi. Bà
Hải Chuyền nói: "Bộ LĐ-TB-XH đã có nghi vấn từ lâu", bà Kim Ngân nói
"tôi rất ân hận"... Thế tại sao các bà không cho thu hồi các bằng khen
ấy đi, để cho người ta lợi dụng lừa bịp mọi người? Cái bằng khen của
Thủ tướng tặng " nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Nghi" ( tại đây!), nếu các bà không tham mưu cho Thủ tướng làm sao Thủ tướng biết để tặng?
Bà Nguyễn Thị Kim Ngân nói: Tôi rất ân hận vì khi còn làm bộ trưởng
Bộ LĐ-TB-XH, tôi đã ký vào bằng khen cho những nhà ngoại cảm. Sau khi
có tấm giấy đó, họ về phóng to để thành lập trung tâm tìm mộ liệt sĩ.
Chưa dừng ở đó, một số nhà ngoại cảm còn nói bừa là đã gặp gỡ, thân mật
với tôi để trao đổi những vấn đề liên quan đến việc
tìm mộ liệt sĩ nhưng kỳ thực tôi chưa bao giờ biết mặt mũi, gặp gỡ họ
lần nào cả…”
Sau hơn một tuần dư luận dậy sóng, đỉnh điểm là vụ Cơ quan an ninh Quảng
Trị bắt “nhà ngoại cảm” Nguyễn Thanh Thúy (tức ‘’cậu Thủy’’) về hành vi
lửa đảo tìm hài cốt liệt sĩ, bộ trưởng Bộ LĐ-TB-XH, cơ quan đầu mối
quản lý nhà nước về chính sách người có công đã chính thức lên tiếng.
Bộ LĐ-TB-XH đã có nghi vấn từ lâu
Tại buổi thảo luận kết quả thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội của
Quốc hội ngày 31/10, bộ trưởng LĐ-TB-XH hội Phạm Thị Hải Chuyền đã có
cuộc trao đổi với báo chí. Trước việc Ngân hàng Chính sách Xã hội (NHCS)
Việt Nam chi tiền cho “Cậu Thủy” 75 triệu đồng/bộ hài cốt liệt sỹ mà
không xin ý kiến của bộ, bà Chuyền cho biết: Chính phủ cho phép
tổ chức, cá nhân được cùng với Nhà nước phối hợp phát hiện và xử lý. Lẽ
ra khi làm việc này Ngân hàng chính sách phải phối hợp với chính
quyền địa phương và Bộ Quốc phòng để xử lý chứ không phải là Bộ
LĐ-TB-XH thực hiện việc đó.
Theo quy định, khi hài cốt được đưa về thì Bộ LĐ-TB-XH thực hiện việc tiếp nhận và đưa vào các nghĩa trang.
Theo quan điểm của lãnh đạo Bộ quản lý nhà nước, khi phát hiện hài cốt
liệt sĩ ở các địa phương như Đắc Lắk, Bình Phước, lẽ ra Ngân hàng CSXH
cùng với chính quyền địa phương ở đó cũng như cơ quan quân sự ở đó
làm. “Mà tôi tin các anh có làm rồi, chính quyền địa phương cũng như
quân sự địa phương có đồng ý như thế nào đó thì Ngân hàng chính sách mới
tiếp tục làm” bà Chuyền nói.
Bà cũng cho biết thêm, khi phát hiện hài cốt liệt sỹ ở Quảng Trị, Bộ
LĐ-TB-XH thấy có dấu hiệu nghi vấn nên đã có văn bản yêu cầu Viện pháp y
của Quân đội, Viện khoa học LĐ-XH phải giám định AND những hài cốt liệt
sỹ được tìm thấy.
Bộ trưởng LĐ-TB-XH hội Phạm Thị Hải Chuyền trao đổi với báo chí. Ảnh Dân trí
“Khi khẳng định, không có cơ sở “hài cốt” tìm thấy là xương người thì
chúng tôi phải yêu cầu cơ quan chức năng làm rõ. Tháng 8/2013, tôi có
văn bản đề nghị cơ quan an ninh của Bộ Công an xem xét sự việc”, bà
Chuyền nói. Khi phát hiện ra các hiện tượng này, từ
tháng 7/2011 Bộ đã có văn bản yêu cầu các địa phương thực hiện đúng Nghị
định của Chính phủ. Khi phát hiện ra hài cốt thì phải báo cáo với
chính quyền, lực lượng quân đội địa phương để phối hợp tìm.
Riêng trường hợp “cậu Thủy”, lãnh đạo Bộ LĐ-TB-XH đã có công văn đề
nghị cơ quan an ninh vào điều tra. Bộ trưởng nhấn mạnh: “Quan điểm của
chúng tôi là phải sớm tìm ra sự thật và xử lý nghiêm những trường hợp
lừa đảo này”.
Phải giám định AND với mọi hài cốt tìm kiếm được
Theo sự phân công của Chính phủ, Bộ Quốc phòng thực hiện đề án tìm
kiếm hài cốt liệt sỹ, Bộ LĐ-TB-XH thực hiện việc xác định danh tính hài
cốt liệt sỹ.
Đề án xác định danh tính hài cốt liệt sỹ đã được Chính phủ phê duyệt,
Bộ LĐ-TB-XH đã có văn bản chỉ đạo các địa phương, yêu cầu tất cả các hài
cốt liệt sỹ tìm được nằm ngoài kênh thông tin của lực lượng quân đội,
hoặc là bạn bè, chiến hữu của liệt sỹ đưa về, đều phải làm giám định
AND. Nếu đúng, lúc đó mới được làm lễ truy điệu và đưa các liệt sỹ vào
nghĩa trang.
Về việc gần đây nhiều nhà ngoại cảm đi tìm mộ liệt sỹ liên tục xuất
hiện từ đó dẫn đến việc lừa đảo, bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền đánh giá:
Việc tìm kiếm hài cốt liệt sỹ đưa về quê hương là nguyện vọng chính
đáng của toàn xã hội. Chính phủ ngoài việc giao cho Bộ Quốc phòng cũng
đồng ý cho các tổ chức, cá nhân khi phát hiện được thì báo cáo với chính
quyền địa phương nơi phát hiện để phối hợp làm. Thực chất đã có một bộ
phận trục lợi từ việc làm nhân văn này và để làm tốt thì phải tuyên
truyền hơn nữa để bản thân người dân cảnh giác với vấn đề này. Với bất
kể đối tượng nào trục lợi việc tìm hài cốt liệt sỹ phải xử lý nghiêm
trước pháp luật.
Thực ra, không phải gần đây mới có dư luận về câu chuyện lợi dụng tâm
linh để trục lợi. Đầu năm 2011, theo sự tham mưu của cấp dưới, lãnh đạo
Bộ LĐ-TB-XH đã ký quyết định số 13/QĐ-LĐTBXH về việc Tặng Bằng khen -
tặng bằng khen cho 38 cá nhân đã có nhiều đóng góp trong công tác tìm
kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ. Trong số này, có sự góp mặt của phần lớn
là nhà ngoại cảm.
Quyết định số 13 khen thưởng các nhà ngoại cảm
Sau đó ít tháng, giữa tháng 8/2011, theo tường thuật của báo Pháp luật
TP.HCM, tại hội nghị giao ban sáu tháng đầu năm với Sở LĐ-TB-XH các
tỉnh, thành phía Nam, bà Nguyễn Thị Kim Ngân nói: Tôi rất ân hận vì
khi còn làm bộ trưởng Bộ LĐ-TB-XH, tôi đã ký vào bằng khen cho những nhà
ngoại cảm. Sau khi có tấm giấy đó, họ về phóng to để thành lập trung
tâm tìm mộ liệt sĩ. Chưa dừng ở đó, một số nhà ngoại cảm còn nói bừa là
đã gặp gỡ, thân mật với tôi để trao đổi những vấn đề liên quan đến việc
tìm mộ liệt sĩ nhưng kỳ thực tôi chưa bao giờ biết mặt mũi, gặp gỡ họ
lần nào cả…”. Bà tiếp: “Đây là vấn đề rất nhạy cảm, vì vậy tôi đề
nghị khi tham mưu cho bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH ký các quyết định, bằng
khen các nhà ngoại cảm phải hết sức lưu tâm”.
QUÊ CHOA
BẢNG ĐỎ * ĐỒNG CHÍ X XÙ NỢ?
Xóa xổ Vinashin:
Quái chiêu đổi tên để xù nợ của đồng chí X?
Bảng Đỏ (Danlambao)
- Ngày 31/10/2013, website bộ Giao thông Vận tải vừa ra thông cáo báo
chí xác nhận việc xóa bỏ tập đoàn kinh tế nhà nước Vinashin – nơi từng
được hứa hẹn sẽ là “quả đấm thép” của hệ thống kinh tế thị trường theo
định hướng XHCN.
Dựa theo quyết đinh số 3287/QĐ-BGTVT của bộ này, một doanh nghiệp mới có
tên Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy (SHIPBUILDING INDUSTRY
CORPORATION, gọi tắt là SBIC) sẽ chính thức đi vào hoạt động, do Nhà
nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
SBIC được thành lập sẽ là doanh nghiệp thay thế cho tập đoàn Vinashin
từng gây nhiều tai tiếng do tham nhũng và ăn chia, gây thiệt hại hàng
nghìn tỷ đồng tiền thuế nhân dân.
Như vậy, quyết đinh số 3287 của bộ Giao Thông Vận tải đã chính thức xác
nhận về việc phá sản của tập đoàn Vinashin qua cách gọi 'chấm dứt hoạt
động'.
Trên thực tế, Vinashin đáng lý đã phải tuyên bố phá sản từ rất lâu. Tuy
nhiên, đảng cộng sản vì muốn che đậy sự dốt nát trong chính sách điều
hành kinh tế nên vẫn sử dụng thây ma của tập đoàn này qua chiêu bài 'tái
cơ cấu Vinashin'. Tác giả của sáng kiến 'tái cơ cấu' không ai khác
chính là bộ đôi chuyên ăn tục nói phét Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Sinh
Hùng.
Với chủ trương kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, việc đổi tên
Vinashin thành SBIC cũng chỉ giống như con tắc kè đổi màu. Ai cũng biết,
bản chất của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN vẫn chỉ là sự
tham nhũng và dốt nát. Đổi tên cũng đồng nghĩa với việc đổi chác quyền
lợi giữa các phe nhóm lợi ích trong đảng cộng sản.
Ngoài việc tham nhũng gây thiệt hại hàng chục nghìn tỷ đồng tiền thuế
nhân dân, tập đoàn kinh tế Vinashin cũng đang phải gánh khoản nợ khổng
lồ lên đến hơn 80.000 tỷ đồng. Việc đổi tên kèm theo cụm từ 'chấm dứt
hoạt động' cũng là thủ đoạn xù nợ của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam.
Sau cuộc thoát lưới ngoạn mục của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, những sai
phạm nghiệm trọng tại Vinashin cũng đã chính thức được cho chìm xuồng.
Đối với nền kinh tế VN, những 'sáng kiến' kiểu như đổi tên để xù nợ có
lẽ là điều duy nhất mà cựu y tá rừng U Minh có thể nghĩ ra được. Điều
chắc chắn, sắp tới hoạt động kinh doanh phế liệu tại Việt Nam sẽ hết sức
nhộn nhịp sau khi những chiếc tàu cũ của Vinashin được mang ra bán đồng
nát.
NGUYỄN THỊ CỎ MAY * TRIỂN LÃM 100 NĂM ĐÔNG DƯƠNG
TRIỂN LÃM 100 NĂM ĐÔNG DƯƠNG
Chương trình triển lãm đầu tiên về
« Đông Dương,lãnh thổ và con người,1856 – 1956» vừa khai mạc và sẽ kéo dài từ ngày 16/10/2013 tới 26/01/2014 tại Viện Bảo tàng Quân đội ở Paris .
Nói đây là lần đầu tiên về Đông Dương, chủ yếu là Việt nam, vì năm rồi, cũng tại đây, có tổ chức một cuộc triển lãm về Algérie, một xứ thuộc địa củ của Pháp, từ 16/05 tới 29/07 . Chương trình triển lãm làm sống lại những sự việc về chánh trị, kinh tế, xã hội của Algérie suốt thời gian dài 132 năm bị Pháp chiếm đóng và cai trị . Những điều này được nhắc lại khá trung thực nhờ công trình tập họp 271 sử liệu như tranh ảnh, văn kiện, sách vở, báo chí phát hành trong thời gian đó . Chọn thời điểm năm 2012 để tổ chức triển lãm, có lẽ chánh quyền pháp muốn kỷ niệm 50 năm ngày ký Hiệp định Evian cho Algérie thu hồi nền độc lập .
Còn tổ chức triển lãm 100 năm Đông Dương vào lúc này, chánh quyền Pháp nhằm mục đích gì ? Pháp muốn trở lại Việt nam như Đài RFI (Thụy My) viết nhơn đưa tin về lễ khai mạc triển lãm Đông Dương « Nước Pháp trên con đường tài chinh phục Việt nam . Bốn mươi năm sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt nam, Pháp đang cố gắng giành lại thị phần tại thuộc địa cũ … » ? Về mặt quan hệ giữa hai nước, Trung tá Christophe Bertrand đảm trách tổ chức triển lãm nhận xét : « Lịch sử giữa Việt nam và Pháp là một lịch sử phức tạp, phong phú và thú vị (…) được đánh dấu bằng những cuộc chiến dai dẳng và những dịp hội ngộ bị bỏ lỡ … Đối với Việt Nam, sự hiện diện của Pháp chỉ là một đoạn ngắn trong lịch sử. Ngày nay đã thay đổi kỷ nguyên, chúng ta đang trong giai đoạn bành trướng về kinh tế ». Pháp có thêm một lý do nữa, có tính cơ hội, muốn trở lại Việt nam .
« Đông Dương,lãnh thổ và con người,1856 – 1956» vừa khai mạc và sẽ kéo dài từ ngày 16/10/2013 tới 26/01/2014 tại Viện Bảo tàng Quân đội ở Paris .
Nói đây là lần đầu tiên về Đông Dương, chủ yếu là Việt nam, vì năm rồi, cũng tại đây, có tổ chức một cuộc triển lãm về Algérie, một xứ thuộc địa củ của Pháp, từ 16/05 tới 29/07 . Chương trình triển lãm làm sống lại những sự việc về chánh trị, kinh tế, xã hội của Algérie suốt thời gian dài 132 năm bị Pháp chiếm đóng và cai trị . Những điều này được nhắc lại khá trung thực nhờ công trình tập họp 271 sử liệu như tranh ảnh, văn kiện, sách vở, báo chí phát hành trong thời gian đó . Chọn thời điểm năm 2012 để tổ chức triển lãm, có lẽ chánh quyền pháp muốn kỷ niệm 50 năm ngày ký Hiệp định Evian cho Algérie thu hồi nền độc lập .
Còn tổ chức triển lãm 100 năm Đông Dương vào lúc này, chánh quyền Pháp nhằm mục đích gì ? Pháp muốn trở lại Việt nam như Đài RFI (Thụy My) viết nhơn đưa tin về lễ khai mạc triển lãm Đông Dương « Nước Pháp trên con đường tài chinh phục Việt nam . Bốn mươi năm sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt nam, Pháp đang cố gắng giành lại thị phần tại thuộc địa cũ … » ? Về mặt quan hệ giữa hai nước, Trung tá Christophe Bertrand đảm trách tổ chức triển lãm nhận xét : « Lịch sử giữa Việt nam và Pháp là một lịch sử phức tạp, phong phú và thú vị (…) được đánh dấu bằng những cuộc chiến dai dẳng và những dịp hội ngộ bị bỏ lỡ … Đối với Việt Nam, sự hiện diện của Pháp chỉ là một đoạn ngắn trong lịch sử. Ngày nay đã thay đổi kỷ nguyên, chúng ta đang trong giai đoạn bành trướng về kinh tế ». Pháp có thêm một lý do nữa, có tính cơ hội, muốn trở lại Việt nam .
Phải chăng nay Chánh phủ xã hội pháp của T.T Hollande, vốn cũng là
người thích khôi hài, tuy nay không còn khôi hài nổi nữa, đã cảm thấy dể
chịu, quên đi quá khứ ê chề của Điện Biên phủ, bắt tay ông Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng vì Ông Nguyễn Tấn Dũng đã biết làm hề trong buổi họp báo
với Ông Thủ tướng Ayrault nhơn chuyến viếng thăm của ông ấy hồi cuối
tháng 9/2013 ? Đông Dương 100 năm được tổ chức trong Viện Bảo tàng Quân
đội, 129 đường Grenelle, Paris VII, tức trong lâu đài Invlides . Vì
trong Invalides còn dành cho Viện Bảo tàng Lịch sử Giải phóng, Lịch sự
cận đại và Văn miếu giử hài cốt Nả-phá-luận Đại đế I . Hôtel des
Invalides
Nhơn nói về Hôtel des Invalides, tưỏng cũng nên để ý đến cách của Tây
gọi các trụ sở công quyền không giống ai cả . Họ dùng tiếng Hôtel nhưng
Hôtel không có nghĩa thông thường là « Khách sạn » . Dinh Thủ tướng là
Hôtel Matignon. Cơ quan Thuế vụ là Hôtel des Impôts . Bót Cảnh sát là
Hôtel de Police . Và chỉ có Hôtel này là dành cho khách được cảnh sát
mời tới ngủ qua đêm, được hoàn toàn miển phi, có cả ăn uống, trong vài
ngày . Cũng cách gọi này, trước 1945, Tòa Đô chánh Sài gòn là Hôtel de
Ville được người vìệt nam dịch ra là Dinh Đốc lý .
Ngày nay, ở Paris, Tòa Đô chánh hay Tòa Thị xã Paris vẫn gọi là Hôtel de
Ville . Cũng như tất cả các Tòa Thị xã trên toàn nước Pháp Hôtel des
Invalides là một tòa nhà đồ sộ tọa lạc trên Đại lộ Invalides, thuộc Quận
VII của Thành phố Paris, nơi đặt Viện Bảo tàng Quân đội nên cũng là nơi
tổ chức lễ vinh danh những chiến sĩ hi sanh cho nước Pháp khi đưa linh
cữu hồi hương . Hôtel des Invalides do vua Louis XIV cho thành lập bằng
Chiếu chỉ ban hành ngày 24 tháng 2 năm 1670 và qua năm 1676 mở cửa làm
nơi dành cho thương binh và quân đội của nhà vua . Louis XIV được biết
là Vua Mặt Trời . Ông để lại cho đời sau câu nói thời danh « Nhà nước là
ta » . Cộng sản hà nội học lóm được, xác định chế độ của họ đang cai
tri Việt nam « Nhà nước là đảng » . Từ xa nhìn, người ta sẽ nhận ra
Hôtel des Invalides nhờ nóc tháp bầu tròn cao vút màu vàng óng ánh .
Vừa
tới trước cổng, dọc theo bờ tường là một hàng đại bác đen ngòm nằm
thẳng tắp như đón chào khách . Qua khỏi cổng, bên trong bờ tường, trong
sân, cũng đầy những khẩu đại bác ngắn, dài, đủ cở . Tất cả đều còn
trong tình trạng tốt nhờ được bảo quản kỷ vì đó là những chứng tích lịch
sử Pháp từng là một đế quốc hùng mạnh suốt nhiều thế kỷ . Cỏ May ngắm
nhìn những khẩu đại bác mà không bìết khẩu nào đã nả đạn vào Đà nẳng để
sau đó Vìệt nam thất thủ, trở thành thuộc địa của Pháp kéo dài 100 năm .
Và năm 1954, rồi tháng 4/1975, cộng sản hà nội tiếp thu Việt nam, thay
thế Pháp, tiếp tục chánh sách thực dân ác ôn hơn Pháp cả ngàn lần .
Thông thường khi cai tù độc ác bị thay thề, thì cai tù mới, rút kinh
nghiệm, phải ác độc hơn để
có
thể bảo vệ ngôi vị cai tù lâu dài hơn . 100 năm : lãnh thổ và con người
Chân dung Hoàng tử Cảnh tại triển lãm Triển lãm chiếm 2 phòng lớn trên
lầu 3 của Viện Bảo tàng Quân đội . Phòng 1 dành trưng bày những sử liệu
liên quan tới giai đọan đầu Pháp chiếm Việt nam (1858 – 1907) : từ
những bước chơn đầu tiên qua khỏi Ấn độ tới thành lập Đông Dương thuộc
Pháp . Phòng 2 dành cho Đông Dương, tức Đông Dương của Pháp (1907 –
1956) . Khi nói Đông Dương, người ta thường hiểu đó là 3 quốc gia thuộc
Pháp : Việt nam, Cao mên và Ai-lao, khác với Đông dương là 5 nước nằm
giữa Ấn-độ và Trung hoa : Việt, Mên ,Lèo, Thái, Miến.
Phần hai này nhắc lại giai đọan cuối trào của Đế quốc pháp ở Viển đông
và trọng tâm của thuộc địa đông dương . Chương trình triển lãm tập họp
được 380 mẫu vật trong đó có những sử liệu lần đầu tiên được đem ra
trưng bày . Tất cả đánh dấu khá rỏ nét 100 năm quân đội pháp hoạt động ở
Đông Dương và chấm dứt ở trận Điện Biên phủ vào năm 1954 .
Vị trí Việt nam trong địa phương được nhìn nhận là một vị trí chiến
lược bởi bán đảo đông dương nằm ở chổ giao lưu giữa Ấn độ và Trung hoa
nên từ thế kỷ XVI không tránh khỏi khêu gợi tham vọng về quyền lợi của
người Âu châu . Những trao đổi thương mải với bán đảo đông dương bắt đầu
với người Bồ-đào-nha, tiếp theo vào thế kỷ sau, với người Hòa-lan và
người Anh . Người Pháp tới vào thế kỷ XVII theo kế hoạch tôn giáo, tìm
nơi tìếp tế cho đoạn đường giữa Ấn độ và Trung hoa cho Công ty Hàng hải
Đông Ấn của họ . Giáo hoàng Vatican ra lệnh Dòng Tên và những thừa sai
của Phái bộ hải ngoại qua miền đất xa xôi này truyền giáo cho dân địa
phương và đào tạo một đội ngũ giáo sĩ người bản xứ .
Pháp chiếm Bắc Ninh & Sơn Tây Trước khi Pháp đặt chơn tới miền đất
Đông Dương, ba nước này gồm nhiều sắc dân thiểu số nên có nhiều khác
biệt về sắc tộc và ngôn ngữ, văn hóa . Mối quan hệ cũng chênh lệch . Hai
nước Miên và Lèo còn bị Siêm-la (Thái-lan) đô hộ trong lúc đó, Việt nam
nằm trong ảnh hưởng văn hóa chánh trị trung hoa . Trong quá trình chinh
phục, Pháp đã phải mất 40 năm thiết lập sự đô hộ ở Viển-Đông, mặc dầu
bị những thay đổi chế độ ở chánh quốc và những diển tiến chánh trị ở địa
phương .
Sau chiến tranh nha phiến (1839 – 1841), Pháp tăng cường lực lượng hải
quân trên Nam hải . Từ năm 1840, Hải quân pháp, để củng cố vị trí của
mình trên vùng biển này, chủ trương phải can thiệp vào Việt nam . Áo
triều TĐ Nguyễn tri Phương Pháp chiếm Việt nam làm hai lần . Trước tiên,
từ năm 1856 tới 1867, Hải quân của Hoàng đế Napoléon III tiến chiếm
Miền nam Việt nam, đặt tên vùng đất này là Nam kỳ (Cochinchine), sau đó,
mở rộng qua tới Cao-mên . Kế tiếp, từ năm 1873 tới năm 1897, Pháp hưởng
ứng theo áp lực của nhóm quyền lợi kinh tế, say xưa với hào quang Pháp
là một Đế quốc hùng mạnh và thiết tha với sứ mạng đem lại văn minh nên
gởi qua một đạo quân viển chinh tiến chiếm và bình định Miền Trung và
Miền Bắc Việt nam .
Pháp đã phải đối đầu trên bộ và trên biển với Trung hoa. Năm 1887, Pháp
làm chủ vùng này gồm Nam kỳ là thuộc địa, Trung kỳ hay xứ An-nam, Bắc kỳ
và Cao-mên là 3 xứ Bảo hộ . Năm 1893, chiếm Lào . Năm 1907, dưới áp lực
quân sự của Pháp, Siêm trao trả lại cho Mên hai tỉnh . Nhưng phải tới
sau Đệ I Thế chiến, Pháp mời thật sự « bình định » được vùng này . Đất
nước trở thành lãnh thổ đông dương thuộc pháp, làm mất chủ quyền quân
chủ lâu đời của Việt nam, nên giới nho sĩ và một bộ phận lớn nông dân
đứng lên chống lại nhà cầm quyền pháp . Cuộc kháng chiến yêu nước kéo
dài, dai dẳng . Nhưng đặc tánh yêu nước và chánh trị của những phong
trào phản khán võ trang này bị nhà cầm quyền thực dân cho là những hành
động thảo khấu .
Thực dân pháp không ngần ngại dùng võ lực đàn áp thẳng tay . Sứ mạng
khai hóa của Pháp được họ vận dụng để giải thích lý do đô hộ của họ và
sự bất bình đẳng giữa người âu châu và người bản xứ . Năm 1910, đội ngũ
thực dân cai trị Việt nam chỉ có 20 000 người . Ba phần tư sanh sống tại
những thành phố lớn như Sài gò, Chợ lớn, Hà nội .
Vì vậy, hành chánh và quân đội phải tuyển dụng dân bản xứ nhưng những
chức vụ chỉ huy hay quan trọng đều do người pháp nắm giử . Đối phó với
những phản kháng của những phong trào tranh đấu ái quốc của dân chúng
việt nam, Toàn quyền Albert Sarraut vừa dùng cảnh sát và quân đội đàn
áp, vừa thiết lập một chánh sách mới kết hợp những phần tử ưu tú của
Triều đình An nam vào phục vụ nhà cầm quyền thực dân . Nhưng chánh sách
này không thật sự thành công và nhứt là không giúp mở rộng đời sống
chánh trị quốc gia . Trong những năm 1930, cộng sản ra đời ở Việt nam,
tìm cách khai thác có lợi cho phong trào cộng sản quốc tế, sự bất mản
của giới nông dân, từ điền chủ tới tá điền đều khốn đốn do hậu quả
nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929 . Nhựt bổn đầu hàng
đồng minh . Hoàng đế Bảo Đại thoái vị . Chánh trường việt nam trở thành
một khoảng trống vô chủ . Cộng sản Việt minh của Hồ Chí Minh xuất hiện «
cướp chánh quyền » và ngày 2/9, tuyên bố Độc lập, thiết lập
Ở Pháp, dư luận chánh giới và cả dân chúng bị chia rẻ giữa sự thờ ơ và
sự bất mản theo đuổi chiến tranh, còn nhà cầm quyền thì muốn tìm lối
thoát trong danh dự . Ngày 7 tháng 5 năm 1954, Điện Biên phủ thất thủ .
Ngày 21 tháng 7 năm 1954, Thủ tướng Pháp, Ông Pierre Mendès France, tại
Hội nghị Quốc tế Genève, ký Hiệp ước đình chiến và chấm dứt chiến tranh,
chia nước Việt nam làm hai ở vĩ tuyến 17 . Cũng chấm dứt sự có mặt
người Pháp ở Đông dương . Có một chi tiết làm cho khách thăm viếng triển
lảm là người Việt nam không thể bỏ qua là chữ Đông Dương, các chữ Đông
đều đưọc viết theo mẫu tự chữ việt nam, tức chữ Đ có gạch ngang . Một
chi tiết vô cùng thú vị ! Paris-Hà nội trong những ngày tới Để tỏ dấu
hiệu hòa hoản giữa hai nước, lợi dụng khi Ông Võ Nguyên Giáp chết thật
sự,
Ông Laurent Fabius, Tổng trưởng Ngoại giao của Chánh phủ xã hội của Ông
Tổng thống Hollande, không ngần ngại tuyên bố công kênh Ông Giáp lên
thành “ một con người ngoại hạng ”, “ người yêu nước vĩ đại của cộng sản
việt nam ” . Trong lúc đó, cựu chiến binh pháp lên án Tướng Giáp đã
không thi hành qui ước Genève về tù binh, làm tử vong cả hai mươi ngàn
tù binh pháp . Một thứ tội chống nhơn loại . Ông Tổng thống Hollande sẽ
qua thăm viếng chánh thức Việt nam vào năm 2014 . Ngày nay, Pháp không
còn là nhà đầu tư hàng đầu ở Việt nam vì địa vị này đã bị Huê kỳ, Nhựt
bổn, Đại hàn và Tàu chiếm giử từ năm 2011 .
Trong năm 2012, Pháp xuất cảng vào Việt nam trị giá 615 triệu đô-la
nhưng nhập cảng từ Việt nam lên tới 2, 69 tỉ . Những quan hệ thuận lợi
về lịch sử, chánh trị với Việt nam vẫn chưa có thể cải thiện những trao
đổi kinh tế. Trong việc ký kết Hiệp định đối tác chiến lược Pháp-Việt
vào cuối tháng 9 vừa qua, người ta nghĩ quan hệ kinh tế giữa Paris và Hà
Nội sẽ khởi sắc hơn .
Paris hy vọng sẽ bán được cho Vìệt nam nhiều máy bay Airbus 320, sẽ đầu
tư về ngành khí đốt, xây dựng hạ tầng cơ sở, khai thác kỷ thuật cao,
nông nghìệp và y tế, mở ngân hang mới … Những nhận xét lạc quan trên dẩn
tới kết luận: « Các dấu hiệu cho thấy băng giá đã bắt đầu tan nhưng chỉ
mới là bước đầu, còn rất nhiều việc phải làm trong thời gian tới ».
Nhưng có những việc phải làm mà Chánh phủ Pháp không thể làm được để
việc làm ăn của Pháp có kết quả tốt là bộ máy độc tài, tham nhũng của
đảng cộng sản đang cầm quyền ở Hà nội, trước hết, phải được tháo gở sạch
sẻ !
Nguyễn thị Cỏ May
Nguyễn thị Cỏ May
TRẦN TRUNG ĐẠO * VÕ NGUYÊN GIÁP
Trần Trung Đạo: Tang lễ Võ Nguyên Giáp, một trường hợp nghiên cứu về tẩy não
Trần Trung Đạo
Việt Nam có hai ông Võ Nguyên Giáp. Một
ông Võ Nguyên Giáp đã chết từ năm 1984 và một ông Võ Nguyên Giáp khác
vừa mới qua đời. Hai ông Võ Nguyên Giáp về thịt xương chỉ là một ông
nhưng trong quan điểm của lãnh đạo CS lại là hai. Khi Võ Nguyên Giáp còn
sống đảng xem như đã chết nhưng khi Võ Nguyên Giáp tắt thở đảng lại
quyết định ông ta phải sống như một “anh hùng dân tộc”.
Ngày ông Giáp qua đời, các trang mạng
“lề dân”, các hãng tin quốc tế trong đó có BBC loan tin sớm nhất. Hai
mươi bốn giờ đầu tiên, tờ Nhân Dân và cả Thông Tấn Xã Việt Nam, hai cơ
quan ngôn luận chính thức của đảng CSVN không đưa tin ông Giáp từ trần.
Lý do, Bộ Chính trị cần phải họp để quyết định có nên cho phép ông Giáp
chết chưa, chết như thế nào, chết ngày nào và an táng ra sao.
Hơn một ngày sau, đảng quyết định Võ
Nguyên Giáp “nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Quân ủy Trung
ương, nguyên Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ; nguyên Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam; Đại biểu Quốc hội
từ khóa I đến khóa VII…đã từ trần hồi 18 giờ 9 phút, ngày 4-10-2013 (tức
ngày 30 tháng 8 năm Quý Tỵ), tại Bệnh viện T.Ư Quân đội 108; hưởng thọ
103 tuổi.”
Thông cáo chỉ dài một trang nhưng cố
tình viết sót. Thông thường trong cáo phó hay tiểu sử, chức vụ cuối cùng
là chức vụ chính thức và các chức vụ khác trước đó được viết sau hay bỏ
sót cũng không sao. Chức vụ về mặt nhà nước cuối cùng trước khi nghỉ
hưu của ông Giáp không phải là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh
Quân đội nhân dân Việt Nam mà là Phó Thủ tướng kiêm Chủ tịch Ủy ban Quốc
gia Dân số và Sinh đẻ Có Kế hoạch chiếu theo quyết định bổ nhiệm số
58/HĐBT do Phạm Văn Đồng ký ngày 18 tháng 4 năm 1984.
Khi đó ông đã rời
chức Bộ Trưởng Quốc Phòng đến bốn năm. Một chức vụ cả thế giới đều biết
mà đảng còn giấu được nói chi những chuyện khác. Việc xóa đi chức vụ lo
phần sinh đẻ của ông Giáp là một cách thừa nhận chức vụ đó chẳng qua là
vết chàm nhục nhã do Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đóng lên trán của ông Giáp.
Dù sao ông Võ Nguyên Giáp là một người
may mắn. Khi còn sống ông có nằm mơ cũng không nghĩ mình được ca ngợi,
vinh danh và thương tiếc nhiều đến thế. Ngoại trừ Hồ Chí Minh, những
lãnh tụ CS cùng thế hệ không ai được ca ngợi như ông. Việc chọn được an
táng ở một nơi vắng vẻ thay vì nghĩa trang Mai Dịch cho thấy tâm trạng
của Võ Nguyên Giáp là tâm trạng của kẻ thua cuộc và từ lâu đã bị bỏ rơi.
Ngoài ra, chắc ông cũng cảm thấy khó chịu khi nghĩ đến việc phải nằm
cạnh Lê Duẩn, Văn Tiến Dũng, Trường Chinh. Nếu Võ Nguyên Giáp chết vào
đầu thập niên 1980 khi Lê Duẩn còn sống hay khi Đỗ Mười làm tổng bí thư
có lẽ cũng không hơn gì những sĩ quan cấp tướng khác như Lê Trọng Tấn
(1914-1986), Hoàng Văn Thái (1915-1986). Trường Chinh so với Võ Nguyên
Giáp còn cao hơn cả đảng tịch lẫn chức vụ nhưng khi chết cũng không được
tổ chức đình đám hơn.
Dưới chế độ CS, khóc thương, nguyền rủa,
ca ngợi hay phê bình kiểm thảo cũng đều có chủ trương, có chính sách
chứ không phải là một tình cảm tự nhiên. Tận diệt kẻ thù còn sống nhưng
lợi dụng mọi ảnh hưởng có lợi của kẻ thù đã chết cũng là một trong những
đặc điểm trong bộ máy cai trị CS khắp thế giới. Stalin khóc Sergey
Kirov, Fidel Castro khóc Ernesto “Che” Guevara, Đặng Tiểu Bình khóc Mao
Trạch Đông. Tình đồng chí trong giới lãnh đạo đảng CS chỉ có trong các
điếu văn.
Cùng phát xuất một nguồn nên CSVN cũng
chẳng tốt hơn Liên Xô, Trung Cộng. Ca tụng kẻ chết không gây tác hại gì.
Xác chết không nghe được lời ca tụng, không nếm được mỹ vị cao lương,
không sống trong các biệt thự có kẻ hầu người hạ, chỉ có đám độc tài
đang thống trị đất nước mới thật sự là những kẻ hưởng thụ quyền lực,
sống trong chiếc bóng những người đã chết. Họ đối xử nhau còn tệ hơn
giới giang hồ đâm thuê chém mướn. Danh vọng và quyền lực đã làm mờ nhân
tính trong con người họ. Lê Duẩn liên minh với Lê Đức Thọ để loại Võ
Nguyên Giáp, rồi Lê Đức Thọ tính hại Lê Duẩn ngay cả khi y đang nằm trên
giường bịnh vì không chịu viết di chúc truyền chức tổng bí thư.
Đoàn
Duy Thành kể trong hồi ký Làm người là khó, khi Lê Duẩn sắp chết con cái
y còn lo cánh Lê Đức Thọ sẽ giết chết hết cả gia đình.
Nhưng tại sao lãnh đạo CSVN lại muốn Võ Nguyên Giáp tiếp tục sống như một “anh hùng dân tộc” trong giai đoạn này?
Lãnh đạo CS cố dựng lại tấm bình phong chính danh lịch sử.
Như
người viết đã trình bày trong bài Cách mạng dân tộc dân chủ trong tình
hình mới trên talawas trước đây, một câu hỏi thường được đặt ra, tại sao
các nước Cộng Sản Đông Âu và Liên Xô sụp đổ mà Cộng Sản tại các nước Á
châu như Trung Quốc, Việt Nam không sụp đổ. Mặc dầu mỗi nhà phân tích
chính trị có thể giải thích nguyên nhân một cách khác nhau tùy theo góc
độ họ đứng và mục đích nghiên cứu, đa số đã đồng ý rằng các nước Cộng
Sản tại Á Châu có một điểm mà các nước Cộng Sản Đông Âu không có, đó là
sự liên hệ lịch sử giữa dòng sống của đảng Cộng Sản và dòng sống của đất
nước nơi đảng ra đời. Đảng Cộng Sản Trung Quốc được thành lập 1921
trong cuộc kháng chiến chống Nhật, đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời 1930
trong cuộc kháng chiến Pháp. Lãnh đạo Trung Cộng và CSVN đã vận dụng tối
đa mối liên hệ này.
Tại Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình và các
lãnh đạo CS tại Trung Quốc biết rõ hơn ai hết, cây cột duy nhất có thể
giữ chế độ CS khỏi sụp đổ là tính chính danh lãnh đạo của đảng CS. Giáo
sư Peter Hays Gries, một chuyên gia về Trung Cộng, viết “Thiếu vắng tính
hợp luật dựa theo thủ tục để bầu ra các chính phủ theo các nguyên tắc
dân chủ, và đối phó với sự sụp đổ của hệ tư tưởng Cộng Sản, đảng Cộng
Sản Trung Hoa gia tăng phụ thuộc vào các tiêu chuẩn dân tộc để cai trị
đất nước.”
Lãnh đạo CSVN sao chép toàn bộ lý luận
của Đảng Cộng Sản Trung Quốc kể cả việc lợi dụng mối liên hệ lịch sử
ngắn ngủi giữa đảng CS và dân tộc để giải thích tính chính danh của đảng
trong tương lai lâu dài của dân tộc. Đừng quên, trong thời điểm chống
thực dân Pháp, không phải chỉ có đảng CS mà rất nhiều đảng, nhiều phong
trào cách mạng khác ra đời từ nam đến bắc để cùng đánh đuổi thực dân.
Tuy nhiên, không có một phong trào nào, một đảng phái nào trong cương
lĩnh tự cho rằng vì họ đánh Pháp nên đảng của họ có đặc quyền lãnh đạo
cách mạng, đặc quyền lãnh đạo đất nước, không chỉ hôm nay và mãi mãi về
sau như đảng CSVN. Đó là lý luận của kẻ cướp nước.
Sau 38 năm cai trị, chưa bao giờ đảng
CSVN bị phải đương đầu với nhiều khó khăn như hôm nay. Ngoài sự phân hóa
nội bộ và một nền kinh tế suy sụp, những thành phần từng nhiệt tình ủng
hộ đảng, chấp nhận chiến đấu dưới sự lãnh đạo của đảng đang lần lượt ra
đi. Nhiều trong số đó đang công khai thách thức quyền cai trị của đảng.
Hơn bao giờ hết, đảng cần sự ủng hộ của quần chúng, và muốn vậy, phải
hâm nóng lại chiêu bài yêu nước. Võ Nguyên Giáp là những que củi cần
thiết để đốt lên lò lửa “chống thực dân và đế quốc” đã nhiều năm nguội
lạnh. Giới lãnh đạo CS dùng chiếc khăn chính danh lịch sử để bịt mắt
nhân dân và đã nhiều lần chứng tỏ thành công. Giáo sư Archie Brown thuộc
đại học Oxford, Anh, cho rằng sở dĩ các chế độ CS tại Việt Nam, Trung
Quốc còn tồn tại vì khái niệm tình cảm dân tộc nhiều giai đoạn đã có lợi
cho CS.
Lãnh đạo CSVN đánh giá đúng trình độ của các thành phần bị tẩy não.
Nếu so sánh Việt Nam, Trung Cộng và Bắc Hàn, Việt Nam còn quá nhiều
người bị tẩy não, mê muội và lạc hậu hơn cả Trung Cộng và Bắc Hàn. Người
dân Trung Hoa ít ra đã chứng tỏ cho thế giới thấy khát vọng dân chủ của
họ qua biến cố Thiên An Môn với một triệu người vùng dậy chiếm cứ khuôn
mặt của thủ đô Bắc Kinh suốt gần một tháng. Chế độ Cộng Sản tại Trung
Hoa đang đi trên lưỡi dao cạo, chỉ cần mất thăng bằng, mất kiểm soát sẽ
bị đứt chân và rơi xuống vực sâu. Khi dựng bức tượng Nữ Thần Tự Do làm
biểu tượng cho cuộc đấu tranh, các lãnh đạo của phong trào Thiên An Môn
đã chọn dứt khoát một con đường, đó là con đường tự do dân chủ và không
có một con đường nào khác.
Bắc Hàn chìm đắm trong tăm tối, hoàn
toàn bị cô lập nhưng từ 1952 đến nay, mỗi năm vẫn có hàng ngàn người dân
vượt thoát được khỏi địa ngục Bắc Hàn bằng những cách vô cùng nguy
hiểm. Một người Bắc Hàn vượt biên bị bắt, nếu bị bắn ngay tại chỗ, là
một may mắn. Không, phần lớn phải trải qua những trận tra tấn vô cùng dã
man, bị bỏ đói dần dần cho đến khi thân thể chỉ còn máu và mủ. Hầu hết
người bị bắt lại hay bị Trung Cộng trao trả về Bắc Hàn đều bị giết. Tuy
nhiên, những người dân Bắc Hàn đó đã chứng tỏ khát vọng tự do là một
quyền bẩm sinh trong mỗi con người từ khi mới chào đời, không ai ban cho
và cũng không cần ai chỉ dạy. Harvard International Review phỏng vấn
anh Ji Seong-ho, người đã vượt sáu ngàn dặm qua các nước Trung Quốc,
Thái Lan, Lào và Đài Loan để tìm tự do năm 2006 và được anh cho biết chế
độ CS Bắc Hàn đã đánh mất niềm tin trong lòng dân, và khi tôi còn ở đó
người dân đã nghĩ đến sự thay đổi. Họ sợ thảo luận nơi công cộng nhưng
trong riêng tư họ đã bàn đến. Áp bức vẫn tiếp tục, nhưng sự yêu chuộng
cũng như uy tín của chế độ đã giảm nhiều.
Việt Nam thì khác. Để tồn tại, từ 1981
đến nay, giới lãnh đạo CS buộc phải hé cửa và tự diễn biến hòa bình qua
các chính sách đổi mới kinh tế. Ánh sáng văn minh nhân loại đã theo
những kẽ hở đó lọt vào. So với Bắc Hàn, người Việt Nam có nhiều điều
kiện hơn để nhìn ra thế giới. Lẽ ra, người dân, nhất là thành phần trí
thức, có cơ hội học hỏi, so sánh các chế độ chính trị, sở hữu một nhận
thức chính trị và chọn lựa một lập trường chính trị phù hợp với xu hướng
phát triển thời đại, nếu không công khai chống lại chế độ độc tài ít ra
cũng biết tự trọng làm im.
Khi còn sống, những lá thư của ông Võ
Nguyên Giáp lên tiếng về chủ trương xây dựng Nhà Quốc Hội ở khu di tích
18 Hoàng Diệu hay ít nhất ba lần về Dự án khai thác bô xít ở Tây Nguyên
cũng bị ném vào sọt rác. Ngoại trừ một số rất nhỏ, không ai binh vực
ông. Thế nhưng, khi đảng cho phép tiếc thương, nhiều bồi bút tận dụng cơ
hội để lập công, khẳng định sự trung thành và chứng tỏ mình luôn đi sát
với lập trường, quan điểm của đảng. Trên mấy trăm tờ báo đảng, bấm vào
là đọc một mẫu chuyện về “cuộc đời”, “sự nghiệp” và “chiến công” của Võ
Nguyên Giáp.
Đọc những bài thơ, bài văn tâng bốc Võ Nguyên Giáp mà cảm
thấy tội nghiệp cho tiếng Việt. Những cây đinh tuyên truyền tẩy não lại
tiếp tục đóng vào nhận thức của các thế hệ Việt Nam chẳng khác gì thời
chiến tranh. Tang lễ của Võ Nguyên Giáp cho thấy nhiều người vẫn còn bị
lừa gạt một cách quá dễ dàng và thành phần xu nịnh trong xã hội Việt Nam
còn quá đông. Thì ra, dù nhân loại đã bắt đầu thám hiểm những vì sao xa
nhiều triệu dặm, chiếc đồng hồ báo thức tại Việt Nam 60 năm vẫn chưa gõ
lên một tiếng nào.
Như đã viết trong bài Bàn về tẩy não,
sau 38 năm, tầng lớp có học thức, nhà khoa học, nhà văn, nhà thơ, nhà
báo không ít người vẫn còn nghĩ rằng nói gì thì nói đảng CS trong suốt
dòng lịch sử của đảng đã đồng hành với dân tộc, nói gì thì nói chỉ có
đảng CS mới có khả năng đưa đất nước ra khỏi nghèo nàn lạc hậu, nói gì
thì nói đảng CS là đảng nắm trong tay ngọn cờ chính nghĩa, nói gì thì
nói Việt Nam vẫn cần ổn định để phát triển và mọi thay đổi đột biến sẽ
dẫn đến hỗn loạn; nói gì thì nói các lãnh tụ CS vẫn là những người yêu
nước, những anh hùng dân tộc và xứng đáng được kính trọng khi họ sống và
tôn thờ, tiếc thương, than khóc khi họ chết.
Đảng không từ chối đã phạm
nhiều sai lầm trong quá khứ nhưng đó là những sai lầm khách quan. Đảng
không từ chối đang có nhiều tình trạng tiêu cực xã hội nhưng đó chỉ là
hiện tượng không phải bản chất của chế độ. Từ những năm đầu ăn bo bo sau
1975 cho đến gần bốn chục năm, một học sinh cho đến các “tiến sĩ” cũng
đều bị tẩy não bằng những lập luận như vậy qua các lớp chính trị.
Đảng biết rất rõ thành phần “nói gì thì
nói” là ai và quá khứ xuất thân của từng người trong số họ. Họ yêu nước
không? Có. Họ muốn đất nước Việt Nam giàu mạnh không? Có. Họ muốn xã hội
Việt Nam trong sạch không? Có. Họ muốn điều kiện chính trị tại Việt Nam
được nới rộng nhưng đảng CS vẫn tiếp tục lãnh đạo đất nước không? Cũng
có luôn. Nhà tâm lý học Michael Langone mô tả đó tình trạng tâm thần của
những người đang trôi giữa hai bờ, bờ đúng và bờ sai, bờ thực và bờ ảo,
bờ chánh và bờ tà. Họ thoạt trông như có tinh thần cách mạng nhưng
trong thực tế là vật cản cho một cuộc cách mạng xã hội toàn diện và đắp
đập để giữ cho cơ chế độc tài tồn tại lâu dài hơn.
Những nhà khoa học, nhà văn, nhà thơ đó
có bao giờ nửa khuya thức dậy pha một bình trà thật đậm, vừa uống và vừa
tự hỏi những những nhận thức chính trị của mình từ đâu mà có? Những
kiến thức về lịch sử của mình do ai cấy vào? Ông Võ Nguyên Giáp thực sự
là nạn nhân hay cũng chỉ là kẻ sát nhân thất thế như nhiều lãnh đạo CS
khác? Ông Võ Nguyên Giáp là anh hùng dân tộc hay là một trong những
người đưa đất nước vào vòng nghèo nàn, độc tài, lạc hậu hôm nay?
Nếu ông
Võ Nguyên Giáp là anh hùng dân tộc rồi ai sẽ là người chịu trách nhiệm
cho cái chết của hàng triệu đồng bào miền Nam từ 1954 đến 1975, chẳng lẽ
những nạn nhân vô tội kia không phải là một bộ phận của dân tộc Việt
Nam sao? Và cứ thế, hãy đặt ra những câu hỏi ngược với những khẳng định
và kết luận mà đảng đã trang bị, không chỉ riêng về ông Võ Nguyên Giáp
mà cả một giai đoạn lịch sử dài từ khi đảng CSVN có mặt. Phải biết hoài
nghi, so sánh và đặt vấn đề một cách khách quan và độc lập để thấy những
gì được gọi là “chân lý” và “sự thật” dưới chế độ CS chỉ là những bùa
ngải tuyên truyền.
Giải tẩy não
Bác sĩ Robert J. Lifton là nhà nghiên
cứu tiên phong về tẩy não dưới chế độ CS. Trong tác phẩm Cải tạo tư
tưởng và tâm lý học về chế độ toàn trị: Một nghiên cứu về “Tẩy não” tại
Trung Quốc (Thought Reform and the Psychology of Totalism: A Study of
“Brainwashing” in China) ông đã đưa ra 8 đặc điểm về cải tạo tư tưởng
của CS:
(1) Kiểm soát môi trường (Giới hạn tối đa sự liên lạc giữa nạn
nhân và thế giới bên ngoài, giữa nạn nhân và xã hội chung quanh và cả
giữa nạn nhân và chính nhận thức cũ của nạn nhân); (2) Vận dụng huyền bí
(Vận dụng cá nhân bằng mọi cách và không giới hạn ở một phương tiện
nào); (3) Đòi hỏi sự thuần khiết tuyệt đối (Một quá trình phấn đấu liên
tục để đạt đến trình độ tự giác); (4) Tự thú công khai (Con người trong
xã hội CS phải phô bày mọi suy nghĩ, quan tâm và lo âu một cách công
khai, không có riêng tư về thể chất cũng như tinh thần); (5) Chủ thuyết
là tuyệt đối đúng (Chủ thuyết CS được đảng lý luận như đồng nghĩa với
khoa học và phê bình chủ thuyết CS chẳng những sai lầm về đạo đức mà còn
vi phạm các nguyên tắc “khoa học”);
(6) Khẩu hiệu chuyên chở ngôn ngữ
(Những vấn đề phức tạp, khó hiểu và sâu xa nhất của con người được cô
đọng thành những khẩu hiệu có sức cám dỗ cao, dễ giải thích, dễ hiểu và
dễ nhớ); (7) Giá trị của chủ thuyết đặt cao hơn giá trị con người (Kinh
nghiệm quá khứ của một người sẽ không giá trị gì nếu kinh nghiệm đó mâu
thuẫn với chủ thuyết, lịch sử của dân tộc được viết lại, sửa đổi hay cắt
xén để phù hợp với chủ thuyết); (8) Thành phần cần thiết và không cần
thiết tồn tại trong xã hội (Có hai hạng người trong xã hội CS, một hạng
thuộc giai cấp ưu việt gồm công nhân, nông dân, buôn bán lẻ có quyền tồn
tại và thành phần khác gồm tư sản, địa chủ, phản động không cần phải
tồn tại).
Các điểm mà Bác sĩ Robert J. Lifton
trình bày về chính sách tẩy não tại Trung Cộng, đã và đang được áp dụng
tại Việt Nam, cho thấy chính sách tẩy não CS vô cùng thâm độc, tận gốc
rễ và có hệ thống tinh vi.
Chính Mikhail Gorbachev cũng gián tiếp
thừa nhận mình từng bị tẩy não. Lần đầu tiên được đi ra nước ngoài vào
những năm 1970, xã hội Tây phương đã giúp ông ta sáng mắt. Những chuyến
đi trong thập niên 1980, trong tư cách Ủy viên Bộ Chính trị, đã củng cố
quyết tâm thực hiện các chính sách đổi mới sau này.
Gorbachev kể lại,
một lần, khi tháp tùng phái đoàn đảng CS Liên Xô tham dự tang lễ của
lãnh đạo CS Ý Enrico Berlinguer, ông ta ngạc nhiên khi thấy hầu hết các
chính trị gia thuộc các đảng dân chủ kể cả Tổng thống Ý Alessandro
Pertini cũng đến cúi chào tiễn biệt trước quan tài của Enrico
Berlinguer. Đảng CS Ý trong thập niên 1980 đóng vai trò tích cực trong
đời sống chính trị Ý và có hậu thuẫn rộng lớn trong quần chúng.
Gorbachev thán phục tính đa nguyên và cách cư xử văn hóa trong chính trị
Tây phương. Ông nghĩ điều đó không thể nào xảy ra với chủ thuyết CS mà
ông được đào tạo.
Nhiều người Việt Nam tự hào học cao,
hiểu rộng, đọc nhiều sách Anh, sách Mỹ, du học tại các trường đại học
nước ngoài, nghĩ rằng mình không bị tẩy não. Không phải. Quan điểm lịch
sử và nhận thức chính trị của họ bị tẩy từ trong bào thai cho đến tuổi
trưởng thành để chấp nhận những kết luận phản khoa học như là chân lý.
Áp dụng ví dụ của Yuri Alexandrovich Bezmenov trong bài trước vào điều
kiện Việt Nam, dù có mang những người này ra tận các “trại cải tạo” Suối
Máu, Cổng Trời và chỉ họ những nơi CS đã bỏ tù hàng trăm ngàn sĩ quan,
công chức VNCH chưa hẳn họ tin cho đến khi chính họ bị nhốt vào trong
các thùng sắt, bỏ đói và chịu rét, lúc đó họ mới tin.
Tiến trình giải tẩy não vì thế là một tiến trình hết sức khó khăn và chỉ có thể thành công nếu nạn nhân can đảm đối diện với sự thật, thừa nhận tình trạng bị tẩy não và giải tẩy não liên tục.
Can đảm đối diện với sự thật.
Mọi hành trình bắt đầu từ chính con người. Nếu những người bị tẩy não
còn đủ khôn ngoan để hiểu rằng những kiến thức mình đang có là kiến thức
một chiều, là thuốc độc được nhỏ từng giọt vào nhận thức và thấm dần
qua thời gian, từ thuở còn thơ cất tiếng đầu đời cho đến trường mẫu
giáo, tiểu học, trung học, đại học, trường đoàn, trường đảng, hãy đem
những kiến thức đó trả lại cho chủ nhân của chúng.
Không nên tự kết án
vì người bị tẩy não chỉ là nạn nhân chứ không phải là kẻ gây ra tội ác.
Hàng ngàn người khóc vật vã trên đường phố trong tang lễ của ông Võ
Nguyên Giáp không quan trọng vì ngày mai đảng bảo cười họ cũng sẽ cười,
nhưng các nhà văn, nhà thơ, nhà báo thì khác. Họ là những tiếng nói gây
ảnh hưởng và được ví như là những phát ngôn nhân của thế hệ và thời đại.
Không nên tiếp tục bị nô lệ tri thức. Nô lệ vật chất chỉ thiệt hại bản
thân nhưng nô lệ tri thức thiệt hại cho những người chung quanh, người
đọc và nhiều thế hệ con cháu sau này. Hãy nhổ mũi tên độc ra khỏi vết
thương và tiếp tục cuộc hành trình xây dựng một nhận thức mới, độc lập,
khách quan và tự do.
Thừa nhận tình trạng bị tẩy não.
Con người thường bất đồng với những điều nghịch lý nhưng khó chống lại
những điều rất hiển nhiên và hợp lý. Người bị tẩy não thường không thừa
bị tẩy não và luôn sống trong tình trạng từ chối. Tuyên truyền tẩy não
CS không kê súng vô đầu một người để buộc người đó phải tin nhưng thuyết
phục bằng một lý luận rất hợp với nhân tính.
Những tù binh Mỹ bị bắt
trong chiến tranh Triều Tiên không bị tra tấn về thể xác và không bị kết
án giết người. Các cán bộ tuyên truyền Trung Cộng xác định họ là những
người tốt, chỉ vì phải có mặt tại Triều Tiên trong một thời điểm sai để
làm một công việc trái với đạo lý con người do chính phủ Mỹ chủ trương.
Người tù binh cũng là “nạn nhân” như những người dân Triều Tiên vô tội
bị bom đạn Mỹ giết chết. Người tù binh được tiếp đãi tử tế, được cấp các
tiêu chuẩn ăn uống cao hơn những tù binh khác. Sau đó, anh ta được có
trao cơ hội để giải phóng khỏi niềm tin cũ và xây dựng một niềm tin mới.
Tiến trình giải tẩy não là một tiến trình liên tục.
Tẩy
não dưới chế độ CS nhằm thay đổi tận gốc rễ, diễn ra có hệ thống và tập
trung vào mục đích thuần hóa con người. “Trăm năm trồng người” là mục
tiêu đầu tiên và tối hậu của đảng CS. Tuyên truyền CS diễn ra như sóng
vỗ vào bờ, hết đợt này đến đợt khác. Khác với các tù bình Mỹ trong chiến
tranh Triều Tiên bị tẩy não trong một giai đoạn ngắn, phần lớn sau khi
khi về lại nhà, thay đổi môi trường giáo dục, thông tin và tình cảm, họ
nhanh chóng trở lại bình thường. Những người sống ngay giữa lòng chế độ,
việc giải tẩy não khó hơn nhiều. Họ phải chiến đấu liên tục về mặt tư
tưởng để chống lại các thông tin tẩy não bằng mọi hình thức và trong mọi
lãnh vực của đời sống xã hội. Chống lại chính sách tẩy não là một nỗ
lực vô cùng khó khăn, đòi hỏi ý chí quyết tâm cao và tinh thần bền bỉ.
Để trả lời câu hỏi tại sao Liên Xô sụp
đổ, người viết tin rằng phần lớn người có kiến thức chính trị căn bản sẽ
nghĩ ngay đến vai trò của cựu Tổng bí thư đảng CS Liên Xô Mikhail
Gorbachev, người đã đã đưa ra hai chính sách quan trọng Perestroika (cải
cách kinh tế) và Glasnost (cải cách văn hóa xã hội); một số người khác
sẽ nghĩ đến vai trò của Tổng thống Mỹ Ronald Reagan, người đã tăng cường
chạy đua vũ trang đến mức làm nền kinh tế Liên Xô kiệt quệ; một số có
thể nghĩ đến vai trò của Đức Giáo Hoàng John Paul II, người với câu nói
“Các con đừng sợ hãi” đã là chỗ dựa tinh thần của phong trào Công Nhân
Đoàn Kết Ba Lan và phong trào dân chủ tại các nước Đông Âu; một số có
thể nghĩ đến cố thủ tướng Anh Margaret Thatcher, người “phụ nữ sắt” như
báo chí Liên Xô mô tả và đã được tác giả John O’Sullivan xem như là một
trong ba người (Roldnald Reagan và Đức Giáo Hoàng John Paul II) đã góp
phần quan trọng vào việc làm sụp đổ phong trào CS châu Âu.
Tất cả những người nêu trên thật sự đã
có đóng góp quan trọng vào việc làm tan rã hệ thống CS. Tuy nhiên, họ
chỉ là những giọt nước tràn ly và ly nước không thể tràn bằng vài giọt
nước. Lý do chính làm tan vỡ các chế độ CS châu Âu phát xuất từ chỗ nhân
dân các nước Đông Âu và Liên Xô đã vượt qua được căn bịnh tẩy não. Các
chính sách tuyên truyền tẩy não từ thời Lenin, Stalin đã không còn hiệu
quả, không thuyết phục và cũng không làm người dân sợ hãi, không còn ai
kể cả các lãnh đạo đảng tin tưởng vào chủ nghĩa Cộng Sản. Một khi chính
sách tuyên truyền không tác dụng, chế độ độc tài sẽ sụp đổ.
Như một định luật của phát triển xã hội,
ở đâu có áp bức ở đó có đấu tranh. Khát vọng tự do trong con người chưa
bao giờ chết dù giữa mùa đông tuyết giá trong các trại tập trung
Siberia hay trên đường phố Budapest ngập máu trong tuần lễ từ ngày 4 đến
ngày 10 tháng 11, 1956. Sau hơn 70 năm đối kháng trong âm thầm nhẫn
nhục giữa lừa dối và chân thành, giữa bạo lực trấn áp và khát vọng tự
do, giữa độc tài và dân chủ, giữa cổ võ chiến tranh và yêu chuộng hòa
bình, giữa hận thù và tình yêu, cuối cùng, sự thật đã thắng tại châu Âu
và sẽ thắng ở Việt Nam. George Orwell đã viết “trong xã hội đầy lừa dối,
cất lên một tiếng nói thật là một hành động cách mạng”, hơn bao giờ
hết, Việt Nam đang cần những con người làm cách mạng bằng cách sống thật
và nói thật.
Trần Trung Đạohttp://www.trantrungdao.com/?p=2482
TRÍ THỨC * SIÊU PHI CƠ VẬN TẢI
4 siêu phi cơ vận tải dân dụng lớn nhất hành tinh
Ra đời với mục đích chuyên chở những loại hàng hóa đặc biệt nên các siêu máy bay vận tải cũng có hình dạng hầm hố cùng thiết kế dị thường.
“Siêu cá 7 màu” của NASA
Super Guppy là máy bay vận tải hạng nặng do Aero Spacelines nghiên cứu chế tạo. Kích thước lớn cùng hình dáng kỳ dị giúp Super Guppy có thể chuyên chở những loại hàng hóa ngoại cỡ và cồng kềnh.
Được phát triển dựa trên thân loại máy bay C-97J Turbo Stratocruiser, biến thể quân sự của Boeing 377, những chiếc Super Guppy có chiều dài thân 43 m cùng với nơi rộng nhất trong thân máy bay đạt 7,6 m. Khoang chứa hàng của những chiếc Super Guppy dài 28,8 m, đủ sức cho nó chuyên chở những loại hàng hóa quá khổ bằng đường hàng không.
Đáp ứng nhu cầu chở hàng, Super Guppy được trang bị 4 động cơ cánh quạt công suất 4.680 mã lực/chiếc. Cùng với đó, thiết kế cánh và đuôi được cải tiến giúp chiếc phi cơ có khả năng chuyên chở hàng hóa tốt nhất có thể. Tốc độ bay tối đa của Super Guppy đạt 467 km/h, tầm bay 3.219 km và trần bay tối đa đạt 9,7 km. Antonov An-225 Mriya
Antonov An-225 Mriya được xem là máy bay vận tải vĩ đại nhất hành tinh từng được con người chế tạo. Sở hữu 6 động cơ cỡ lớn cùng sải cánh dài 88,4 m, Antonov An-225 Mriya ra đời nhằm mục đích chuyên chở tàu sân bay Buran nặng hơn 100 tấn của Liên Xô. Sau khi dự án chế tạo tàu con thoi bị khai tử, An-225 được sử dụng cho mục đích vận tải.
Antonov An-225 Mriya
Sở hữu thiết kế cồng kềnh nhưng phần mũi của An-225 cũng có thể nâng lên, giúp các loại hàng hóa quá khổ dễ dàng được đưa vào trong thân máy bay. An-225 có tải trọng cất cánh rỗng đạt 285.000 kg trong khi tải trọng cất cánh tối đa lên tới 640.000 kg. Sáu động cơ phản lực cho phép An-225 di chuyển với tốc độ tối đa đạt 850 km/h với trần bay tối đa đạt 11.000 m. Máy bay chứa máy bay Airbus Beluga
Phi cơ vận tải Airbus Beluga là phiên bản nâng cấp của máy bay vận tải A300-600 với phần thân rộng hơn, giúp nó thực hiện nhiệm vụ vận chuyển các loại hàng hóa quá khổ. Mang tên ban đầu là Super Transporter (kẻ vận chuyển khổng lồ), Airbus Beluga là mắt xích quan trọng trong ngành công nghiệp chế tạo máy bay của Airbus. Phần lớn nhiệm vụ của Airbus Beluga là vận chuyển phần thân và cánh máy bay dân dụng giữa các nhà máy chế tạo của Airbus ở khắp châu Âu. Sau khi hoàn tất ở mỗi nhà máy riêng biệt, những phần tách rời của máy bay chở khách Airbus được đưa tới một nhà máy để lắp ráp và hoàn thiện.
Những chiếc Beluga có chiều dài 56,15 m, sải cánh 44,84 m trong khi chiều cao đạt 17,24 m. Airbus Beluga có trọng lượng cất cánh rỗng đạt 86 tấn trong khi trọng lượng cất cá tối đa đạt 155 tấn. Với 40 tấn hàng, những chiếc Beluga có thể hoạt động trong phạm vi 2.779 km trong khi khoảng cách tăng lên 4.632 km với 26 tấn hàng. Boeing 747 Dreamlifter
747 Dreamlifter là phiên bản chở hàng của loại máy bay chở khách Boeing 747-400. Giống với Airbus, Boeing sử dụng 747 Dreamlifter để vận chuyển các phần tách rời của máy bay chở khách Boeing 787 Dreamliner. Để chuyên chở được phần thân chính của máy bay chở khách tối tân nhất do Boeing chế tạo, phần thân của 747 Dreamlifter cũng phình rộng hơn so với các máy bay thông thường.
Thay vì sở hữu phần đầu tách rời, 747 Dreamlifter được thiết kế để tách rời từ phía đuôi. Cơ chế này giúp hàng hóa quá khổ dễ dàng được đưa vào trong thân máy bay. Với 4 động cơ phản lực, 747 Dreamlifter có khả năng cất cánh với tải trọng 364.235 kg. Tốc độ tối đa của chiếc máy bay lên tới 878 km/h với đoạn đường băng cần thiết là 2.804 m.
Trịnh Duy
Theo Tri Thức |
2 comments:
viện dưỡng lão như này mới chuẩn chứ
ở đâu có viện dưỡng lão miễn phí nhỉ? http://benhvienphuclam.com/2018/02/07/vien-duong-lao-mien-phi-cho-nhung-nguoi-gia-khong-noi-nuong-tua/
Post a Comment