NGUYỄN THIÊN THỤ * KARL MARX ĐẠI MỘNG
Rất nhiều người mê chủ nghĩa Marx vì trong các tác phẩm của Marx, Engels, Lenin, Stalin, Mao, Hồ. .. và tuyên Ngôn Cộng Sản chứa đựng nhiều mộng mơ, tươi đẹp. Chúng tôi xin trình bày một số ý kiến của Marx và các nhà cộng sản khác.
I. GIAI CẤP VÔ SẢN ĐÀO MỒ CHÔN GIAI CẤP TƯ BẢN
Trong học thuyết Marx, ông dùng từ ngữ rất rộng rãi. Giai cấp vô sản là giai cấp thợ thuyền nhưng cũng trỏ đảng cộng sản. Marx cho rằng trong xã hội hiện đại có hai giai cấp mâu thuẫn nhau là giai cấp tư bản và giai cấp vô sản. Trong cuộc đấu tranh này, giai cấp vô sản sẽ đại thắng. Trong TNCS, nhà thi sĩ lạc quan yêu đời Karl Marx mơ thấy một ngày không xa giai cấp vô sản đào mồ chôn giai cấp tư bản (1) , và tất cả các giai cấp đều tiêu vong , chỉ có giai cấp vô sản là tồn tại và phát triển (2) .
Trong học thuyết Marx, ông dùng từ ngữ rất rộng rãi. Giai cấp vô sản là giai cấp thợ thuyền nhưng cũng trỏ đảng cộng sản. Marx cho rằng trong xã hội hiện đại có hai giai cấp mâu thuẫn nhau là giai cấp tư bản và giai cấp vô sản. Trong cuộc đấu tranh này, giai cấp vô sản sẽ đại thắng. Trong TNCS, nhà thi sĩ lạc quan yêu đời Karl Marx mơ thấy một ngày không xa giai cấp vô sản đào mồ chôn giai cấp tư bản (1) , và tất cả các giai cấp đều tiêu vong , chỉ có giai cấp vô sản là tồn tại và phát triển (2) .
Trên đây, chúng tội đã trình bày những ước mơ của Marx. Sau đây là những nhận xét thô thiển của chúng tôi.
Sở
dĩ Marx mơ mộng như thế là vì những mơ mộng của ông được xây dựng trên
thuyết "Duy Vật Sử Quan " do ông lập ra. Lênin cho rằng: Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học (3). Nguyễn Bách Khoa vừa đọc được mấy trang về Duy Vật Sử Quan đã hạ bút viết:" Không
công nhận những kết quả rực rỡ của khoa học hiện tại , không tán thành
và áp dụng biện chứng pháp duy vật, cứ khư khư cố chấp ôm lấy những quan
niệm đã lỗi thời về linh hồn, về thiên tài về cái đẹp, về nghệ thuật:
đó là thái độ của những người phản động (4).
Thuyết
này là một thuyết biến động, cho rằng vạn vật không bất động mà luôn
biến chuyển theo các quy luật khoa học, như các quy luật sau:
-Phủ định của phủ định:
Quy luật này quan niệm rằng vạn vật biến chuyển, cái sau phủ định cái
trước. Phủ định nghĩa là tiêu diệt, bãi bỏ, thay thế, vượt trội. Thí
dụ: máy hơi nước phủ định cánh quạt gió . Chủ nghĩa tư bản phủ định chế
độ phong kiến, chế độ cộng sản phủ định chủ nghĩa tư bản.
-Vạn vật luôn luôn tiến bộ theo chiều thẳng đứng hay xoáy trôn ốc.
-Trong Duy vật sử quan, Marx quả quyết rằng xã hội loài người sẽ phát triển qua năm giai đoạn:
từ
chế độ cộng sản nguyên thủy, đến chiếm hữu nô lệ, rồi tới phong kiến,
đến chủ nghĩa Tư bản và tất yếu và dứt khoát là phải tiến lên Chủ Nghĩa
Xã Hội.
Marx cho rằng theo luật phủ định của phủ định, xã hội
phong kiến phủ định xã hội bộ lạc, rồi xã hội tư bản lại phủ định xã hội
phong kiến ,tất nhiên xã hội cộng sản sẽ phủ định xã hội tư bản, và
nhất định xã hội cộng sản là đỉnh cao, sản xuất nhiều của cải vật chất
và đem lại tự do, hạnh phúc cho loài người.Ông theo Hegels nhấn mạnh
quyluật phủ định của phủ định và thuyết biến
dịch Thế mà ông lại nói xã hội cộng sản là điểm cao, sau nó là không có
xã hội nào nữa. Một mặt ông nói xã hội cứ biến chuyển, thế tại sao sau
chủ nghĩa cộng sản, vũ trụ và xã hội đứng im? Theo quy luật phủ định,
sau xã hội cộng sản sẽ có một xã hội khác phủ định xã hội cộng sản, và
xã hội này sẽ tốt hơn xã hội cộng sản. Chủ thuyết Marx là tự nó mâu
thuẫn.
Với những luật trên
của Duy Vật Sử Quan, do ông chế tạo, Marx đã mơ ước, tưởng tượng ra cảnh
giai cấp vô sản chôn sống giai cấp tư bản, các giai cấp khác sẻ không
tồn tại, chỉ có giai cấp vô sản tồn tại và phát triển. Duy Vật Sử
Quan của Marx cũng chỉ là một lý thuyết Duy Tâm, Duy Ý Chí không
phải là khách quan và khoa học như Marx thường dán các nhãn hiệu này
trong hàng hóa do ông sản xuất. Lý thuyết của ông không qua thí nghiệm
và kiểm chứng cho nên không phải là khoa học. Dù đó là lý thuyết duy tâm
cũng mắc chán vạn sai lầm. Vậy kết quả là ta thấy chủ nghĩa Marx không khoa học,
Sau Lenin cho rằng xã hội có thể tiến lên cộng sản mà không qua phát triển tư bản chủ nghĩa. Như vậy, xã hội loài người không tất yếu qua năm giai đoạn, và xã hội cộng sản cũng không tất yéu vì cho đến bây giờ nhiều xã hội không kinh qua chủ nghĩa cộng sản như Mỹ, Canada, Úc, Nhật Bản, Anh quốc, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Tân Tây Lan...
Sau Lenin cho rằng xã hội có thể tiến lên cộng sản mà không qua phát triển tư bản chủ nghĩa. Như vậy, xã hội loài người không tất yếu qua năm giai đoạn, và xã hội cộng sản cũng không tất yéu vì cho đến bây giờ nhiều xã hội không kinh qua chủ nghĩa cộng sản như Mỹ, Canada, Úc, Nhật Bản, Anh quốc, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Tân Tây Lan...
Sự vật không phải bao giờ
cũng tiến bộ, cái sau không phải lúc nào cũng tốt hơn cái trước. Có
nhiều dạng biểu đồ. Có dạng hyperbol, có dạng parabol và có dạng zich
zắc. Biểu đồ về khí hậu, về bệnh trạng và về kinh doanh thường là lên
xuống bất định. Kinh dịch thường nói đến biến hóa âm dương, bỉ thái,
thịnh suy. Cái dạng đường thẳng đứng không phải mang ý nghĩa thắng lợi (
tiến từ thấp lên cao) mà có thể mang ý nghĩa một sự thất bại, là sự vật
tụt hậu, là từ cao tụt xuống thấp. Cái dạng xoáy ốc cũng vậy, có thể là
dạng tụt dốc.
Luật phủ định của phủ định có nhiều
nghĩa. Phủ định không phải là trừ diệt mà là thay thế, chuyển hóa từ âm
sang dương, từ dương sang âm. Hạt đâu sinh cây đậu, cây đậu sinh hạt đậu
là một chuổi kế thừa không phải là hủy diệt. Những bộ lạc hùng mạnh
thâu tóm các bộ lạc nhỏ thành ra chế độ quân chủ. Những trưởng giả trong
thời quân chủ gặp buổi khoa học tiến triển, bỏ vàng bạc ra kinh doanh
thì hóa ra tư bản hiện đại. Những ông con tư sản, địa chủ , quan lại
chạy theo Marx thì hóa ra cộng sản. Họ theo cộng sản, sau từ bỏ đảng,
trở thành tư sản. Đó là hiện tượng " bảng đỏ sao zàng, sang zào bỏ đảng".
Cuộc
đời biến biến hóa hóa chứ có chết ai đâu! Phủ định là biến hóa, là
cộng sinh, là cùng nhau tồn tại. Ai bảo chế độ quân chủ phủ định chế độ
bộ lạc? Thế giới loài người đã sinh ra năm hinh thái xã hội nhưng tại
thế kỷ XXI, xã hội bộ lạc vẫn còn, xã hội vua quan vẫn còn. Xã hội vua
quan vẫn sống trong lòng xã hội tư bản như tại Anh quốc, Nhật Bản, Thái
Lan. Nay thì rõ rệt tư bản vẫn sống mạnh, sống tốt trong khi cộng sản
đã chết ngay tại thành trì Moscow kiên cố của nó, và vùng Đông Âu phụ
cận. Tại Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình đã từ bỏ kinh tế chỉ huy mà theo
kinh tế thị trường. Đừng dùng chữ phủ định để gây căm thù, chém giết
và hủy diệt.
Chính Duy Vật Sử Quan đã nêu lên luật "Mâu thuẫn và Thống
nhất", nghĩa là sự vật luôn có hai mặt mâu thuẫn và thống nhất như đồng
tiền có hai mặt nhưng vẫn là một, bàn tay có hai mặt nhưng vẫn là
một.Hai mặt mâu thuẫn này cần nhau, hợp lực với nhau trong một thực thể.
Hai mặt đồng tiền không thể tách rời và tranh đấu với nhau.Mặt trên và
mặt dưới bàn tay cũng vậy. Tay trái và tay phải cũng vậy. Không ai điên
dại dùng tay phải chặt tay trái của mình.
Trước khi
Liên Xô sụp đổ năm 1991, nhiều chính trị gia, đảng viên cao cấp cộng sản
đã đưa ra chủ trương xét-lại (“revisionism”) là một chủ trương xét
lại chủ nghĩa Marx. Người đầu tiên chủ trương xem
xét lại học thuyết Mác ở cuối thế kỷ XIX là Eduard Bernstein
(1850-1932),
một sử gia, lý thuyết gia về chính trị và là người cổ võ cho chủ nghĩa
xã hội dân chủ ở Ðức. Ông bác bỏ thuyết của Mác về giá trị lao động,
kinh tế chỉ huy và đấu tranh giai cấp. Ông cũng không chấp nhận những
lời tiên đoán của Mác về sự sụp đổ đến nơi của chủ nghĩa tư bản.
Lãnh tụ cộng sản thứ hai chủ trương “xét lại” là Nikita Khrutshchev
(1894-1971), tổng bí thư (danh xưng chính thức lúc ấy là “bí thư thứ
nhất“) đảng cộng sản Liên Xô, kiêm thủ tướng Liên Bang Xô Viết, đã thực hiện chủ trương này một cách
thực tế bằng việc hạ bệ Staline tại đại hội đảng cộng sản XX của Liên
Xô vào năm 1956, Ông đưa ra chính sách sống chung hòa bình với tư bản.
Người cộng sản thứ ba chủ trương “xét lại” là Mikhail Gorbachov, tổng
bí thư Liên Xô từ 1985 đến 1991. Ông là cha đẻ của Glasnost và
Perestroika (Cởi Mở và Tái Cấu Trúc), chủ trương và thực hiện cải cách
về kinh tế và hành chánh.
Nhưng ta có thể nói rằng
người cộng sản đầu tiên chủ trương tư bản, cộng sản sống chung hòa bình
chính là Stalin. Stalin mặc dù theo Marx căm thù tư bản Mỹ nhưng sau
khi bị phát xít Đức tấn công, Stalin đã thực hiện chủ trương sống chung
hòa bình, liên minh với Mỷ để có lúa mì nuôi lính, nuôi dân và có vũ khí
tiền bạc chống phát xít.Mao Trạch Đông trong đệ nhị thế chiến cũng vậy.
Cộng
sản Trung quốc và Việt Nam kết tội chủ trương "Xét lại Hiện Đại",
nhưng sau này thời Đặng Tiểu Bình, Trung Quốc và Việt Nam dù ghét Mỹ
nhưng vẫn quỳ lụy Mỹ, lấy việc Mỹ đầu tư và giao thương làm mục tiêu xây
dựng XHCN. Hơn nữa, ngày nay tại Trung Quốc, Giang Trạch Dân đã đưa ra
thuyết "Ba Đại điện", nghĩa là bên cạnh công nông, giai cấp tư sản cũng
được một vị thế quan trộng. Theo DOANH NHÂN CAFELAND, Có tới 83 tỷ phú
đôla xuất hiện
trong 2 kỳ họp chính trị quan trọng của Trung Quốc trong năm nay. Quốc
hội Trung Quốc có thể được xem là quốc hội “giàu” nhất trên thế giới
hiện nay bởi mật độ cao của các tỷ phú. (5)
Theo một báo cáo về quản lý hành chính và tình hình các công ty, gia
đình Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo sở hữu lượng tài sản có tổng giá
trị vào khoảng 2,7 tỷ USD.(6).
Tờ báo Mỹ hôm thứ Sáu đưa tin rằng tài sản mà gia đình của ông Ôn Gia
Bảo kiểm soát trị giá ít nhất là 2,7 tỷ USD. Trung Quốc đã lên án bài
phóng sự như một hành động bôi nhọ và các trang mạng của tờ New York
Times cùng các trang tham khảo khác được phóng sự điều tra này kết nối
trên các blogs đã bị chặn ở Trung Quốc (7).
Trong nửa
thế kỷ chiến tranh, phe cộng sản đã chiếm nửa thế giới nhưng chỉ những
nước nghèo, sống trong kinh tế nông nghiệp lạc hậu, bị thực dân, đế quốc
đô hộ thì mới theo cộng sản vì tinh thần dân tộc chứ không phải vì đấu
tranh giai cấp. Còn tại các nước tư bản, công nhân không theo cộng sản.
Như vậy, giai cấp vô sản không chôn sống giai cấp tư bản, mà một số đã
yểu tử như cộng sản Liên Xô và cộng sản Đông Âu, con cộng sản Trung
Quốc, cộng sản Việt Nam và cộng sản Bắc Hàn đã chết một nửa rồi! Mặc dầu
con đảng Cộng sản, cờ cộng sản nhưng họ đã từ bỏ kinh tế chỉ huy quay
sang kinh tế thị trường và buôn bán với tư bản.
II. GIAI CÁP VÔ SẢN ĐẠI ĐOÀN KẾT
Giai cấp vô sản hưởng ứng lời hộ
hào đoàn kết của Marx (8) ,nên đã liên kết thành lực lượng quốc tế, tạo ra một
lực lượng dân chủ hùng mạnh (9).
Marx
và Engels là tác giả bản Tuyên Ngôn Cộng sản viết năm 1848. Lúc này,
lực lượng cộng sản đã mạnh. Và trước đó, cộng sản đã lập thành lực lượng
quốc tế:
-Quốc tế I tức là Hội Quốc Tế Công Nhân do Marx và Engels lập ngày 28 tháng 9 năm 1864 tại London, Anh Quốc và giải tán năm 1876 tại Philadelphia, Hoa Kỳ.
Lực
lượng cộng sản phát triển mạnh, chiến nửa diện tích thế giới và nửa dân
số thế giới Mộng mơ của Marx như vậy là đã thực hiện. Tuy nhiên ngay
trong đệ nhất thế chiến, đệ nhất quốc tế và đệ nhị quốc tế tan rã cho
nên Lenin mới lập đệ tam quốc tế, và it lâu sau, Trostky lên tiếng chống
Stalin và lập đệ tứ quốc tế.-Quốc tế I tức là Hội Quốc Tế Công Nhân do Marx và Engels lập ngày 28 tháng 9 năm 1864 tại London, Anh Quốc và giải tán năm 1876 tại Philadelphia, Hoa Kỳ.
Stalin ra lệnh đàn em giết Trostky và các đảng viên đệ tứ trên toàn thế giới. Do đó, Hồ Chí Minh sai bọn Trần Văn Giàu giết Tạ Thu Thâu, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm...
Tại Nga, các nhóm cộng sản giết nhau để cướp quyền. Hai phe Bolchevith và
Menchevith, , việc Stalin khởi
lên Đại khủng bố giết các tướng lãnh Hồng quân và đại biểu quốc hội, việc Mao giết hại các đồng chí đã cho thấy mâu thuẫn
giữa cộng sản với nhau rất trầm trọng. Khoảng thập niên 1960 chiến tranh
giữa Trung Quốc và Liên Xô đã xảy ra, và khoảng thập niên 1970, chiến
tranh đã bùng nổ giữa các đảng Cộng sản Trung Quốc-Việt Nam và Việt
Nam-Khmer Đỏ. Tuy cộng sản là một lực lượng quốc tế nhưng thực ra là một
chủ nghĩa đế
quốc mới mà Liên Xô là Đại Đế quốc, sau đó Trung quốc vươn lên muốn
chiếm quyền lãnh tụ quốc tế của Liên Xô sau khi Stalin chết. Ngoài ra,
Liên Xô xâm chiếm các nước xung quanh để lập liên bang Xô Viết. Sau nữa
Liên Xô đem quân chiếm các nước Đông Âu. Điều này cho thấy Cộng sản cũng
là một dạng đế quốc, không phải là một lực lượng cách mạng, là trung
tâm của thế giới đại đồng như nhiều người tưởng. Việc Trung Cộng chiếm
Mông Cổ, Tây Tạng và chiếm đất đai và hải đảo Việt Nam cũng cho ta thấy
mặt thực của chủ nghĩa cộng sản Trung Quốc mà Hồ Chí Minh vui cười phấn khởi
"Mối tình thắm thiết Việt Hoa,
Vừa là đồng chí, vừa là anh em".
Ở thế kỷ XX, nhân loại đã thấy sự dã man của cộng sản. Cộng sản chỉ thành công ở giai đoạn đầu, và sau đó là thất bại và tan rã.
____________________
(1).What the bourgeoisie therefore produces, above all, are its own grave-diggers. Its fall and the victory of the proletariat are equally inevitable. Trước hết, giai cấp tư sản sản sinh ra những người đào huyệt chôn chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu. (TNCS I)
(2). The other classes decay and finally disappear in the face of Modern Industry; the proletariat is its special and essential product.
Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp.(TNCS II )
(3). VI.Lê nin: Toàn tập: tập 23, Nhà xuất bản Tiến bộ, Matxcova, năm 1980, trang 258
(4). Nguyễn Bách Khoa. Văn Chương Truyện Kiều. Hàn Thuyên, Hà Nội, 1944,tr.81).
(5). http://doanhnhan.cafeland.vn/doanh-nhan/vi-sao-nhieu-ty-phu-trung-quoc-thich-tham-gia-chinh-truong-4488.html
(6).http://www.baomoi.com/He-lo-khoi-tai-san-khong-lo-cua-gia-dinh-Thu-tuong-Trung-Quoc-On-Gia-Bao/119/9624748.epi
(7). http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2012/10/121028_wenjiabao_rejects_claims.shtml
(8). They have a world to win. Proletarians of all countries, unite!
Họ sẽ giành được cả thế giới. Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại! (TNCS IV)
(9).Finally, they labor everywhere for the union and agreement of the democratic parties of all countries. Sau hết, những người cộng sản ở mọi nơi đều phấn đấu cho sự đoàn kết và sự liên hợp của các đảng dân chủ ở tất cả các nước.
BS. JILL TAYLOR * TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO VÀ SỰ PHỤC HỒi.
Gửi cho quý vị cùng xem bài dịch tiếng Việt cuốn sách của JILL TAYLOR nói về TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO VÀ SỰ PHỤC HỒi.
Tôi đặc biệt chú ý đến phần bà nói về hoạt động của ÓC TRÁI & TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO VÀ SỰ PHỤC HỒI, rất chi tiết. Thưa quý vị,
Tôi rất cám ơn tất cả những vị đã dịch và chuyển đến tay tôi bài viết của bà bác sĩ thần kinh não bộ Jill Taylor, người bị tai biến mạch máu não (stroke hay AVC) năm 1996 và nay đã bình phục.
Tôi cũng đã là một nạn nhân của stroke cách đây 7 năm, nhưng ở trong số 83% (stroke ischemic, mạch máu não bị tắc), không như bà Jill Taylor trong số 17% (stroke hemorragic, mạch máo não bị vỡ).
Bài viết của bà BS Taylor đã hết sức đầy đủ cả về phương diện khoa học, lý trí đến phương diện tâm tâm lý, tâm linh. Tôi không thấy, và không dám, viết gì thêm về chuyện này. Tuy nhiên, có một số diểm, tôi không thấy nhắc đến trong chuyện này. Bởi vậy, tôi muốn trình bầy lại dưới đây để quý vị tùy nghi thẩm định:
1. Năm 1996 người ta chưa biết đến một phương thuốc mới trị stroke. Sau 2000, người ta đã tìm ra một phương thuốc để trị stroke, gọi là tPA, hay là tissue Plasmimogen Activator. Thuốc này chỉ hiệu nghiệm nếu bệnh nhân bị stroke được chữa trị trong vòng 3 hay 3 tiếng rưỡi đồng hồ mà thôi. Gần như khỏi hẳn. Sau đó, trễ hơn, vô phương cứu chữa.
Hồi tôi bị stroke, được con cháu mang vào một nhà thương có tiếng vùng tôi ở. Nhưng tại đó, sau khi tìm ra chắc chắn là tôi bị stroke (mất khá nhiều thì giờ), họ phải chuyên chở đến một nhà thương khác. Đến nơi thì đã quá trễ. Tôi đã bị stroke với tất cả những hậu quả của stroke, gần giống như những gì tả trong bài viết của BS Taylor.
Kết luận: Những ai thấy mình có thể bị stroke, xin hãy vào ngay bệnh viện thật sớm để được chữa trị ngay trong vòng ba bốn tiếng đồng hồ bằng tPA.
2. Stroke là một bệnh có tính cách di truyền. Trong gia đình nếu thấy có người bị stroke rồi thì anh em, hoặc con cái (như gia đình tôi) rất có thể cũng sẽ bị stroke.
Kết luận: Trong trường hợp này, phải hết sức cẩn thận, trong việc ăn uống thuốc men, mục đích để giảm thiểu cholesterol, áp huyết cao, tiểu đường nay tiền-tiểu đường.., kể cả trong việc giữ gìn sức khỏe (tập thể dục, đi bộ mỗi ngày…)
3. Tôi tin rằng vận động thân thể cũng như luyện tập trí óc là một phần không thể thiếu trong việc phòng ngừa bị stroke cũng như sớm hồi phục sau khi bị stroke. Tôi có một ông anh rể, bác sĩ về thần kinh não bộ như bà Jill Taylor, năm nay đã 80 tuổi, vẫn chạy marathon, mỗi lần đến chơi, tôi thấy cầm một cuốn sách Hán Văn Tự Học, đôi khi lại đem một phương trình Vi phân và Tích phân (calcul differentiel et integral) ra hỏi chúng tôi. Anh tôi nói rằng, tuy đã có tuổi, mình vẫn phải học, học đi học lại cho trí óc dược minh mẫn khỏi bị cùn lụt đi, vẫn phải tập thể dục mỗi ngày. Thấy tôi hàng ngày lên mạng, viết “blog”, anh tôi cho rằng đó là một việt rất nên làm mặc dầu bị bà xã (em gái ông ta) quở trách.
Đó là một vài lời thô thiển để góp ý với tất cả mọi người, với lòng tri ân đến tất cả những vị đã dịch và chuyển đến tay tôi bài viết của bà bác sĩ thần kinh não bộ Jill Taylor.
P.
Xin chuyển tiếp để tham khảo kinh nghiệm được ghi lại của môt người bị TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO VÀ SỰ PHỤC HỒI, rất chi tiết.
Minhha
Gởi bạn cùng tham khảo.
TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO VÀ SỰ PHỤC HỒI
Tác Giả : TS Jill Bolte Taylor
Dịch Giả : TS Minh Tâm
Đôi Giòng Tâm Sự
Mỗi bộ óc con người đều có một câu chuyện và sau đây là câu chuyện của bộ óc tôi...Hơn mười năm trước đây, tôi là giáo sư Đại học Y Khoa Harvard, chuyên nghiên cứu và giảng dạy cho sinh viên về bộ óc của con người. Nhưng vào ngày 10 tháng 12 năm 1996, tôi đã học được bài học về não bộ từ chính bộ óc của mình.
Sáng hôm ấy, bản thân tôi đã trãi qua một dạng “đứt mạch máu não” rất ít khi có,từ bán cầu Trái của não bộ. Sự xuất huyết trầm trọng này là do một mạch máu não bất thưòng từ lúc sơ sinh đã không được khám nghiệm và cắt bỏ, nay thình lình vỡ ra. Trong bốn tiếng đồng hồ ngắn ngủi, với đôi mắt kinh nghiệm của một nhà nghiên cứu tế bào não bộ học, tôi đã chứng kiến bộ óc tôi từ từ băng hoại đến độ hoàn toàn tê liệt trong khả năng phân định các sự kiện diễn biến chung quanh. Đến cuối sáng hôm đó, tôi đã không còn có thể đi đứng, ăn nói, đọc viết hoặc nhớ lại những gì đã xảy ra từ trước trong đời. Nằm vo tròn như một thai nhi trong bụng mẹ, tôi cảm giác mình sắp chết, không còn chút hỉ vọng nào có thể sống sót để kể lại câu chuyện này cho bất kỳ ai.
Những điều cần biết về Tai biến mạch máu não là một tài liệu khoa học được ghi lại theo thứ tự thòi gian. Và cũng theo đó, từ vực thẳm vô hình của một đầu óc hoàn toàn rỗng lặng, tôi đã khám phá ra sự an tĩnh của nội tâm mà những nhà khoa học não bộ như tôi không mấy khi có dịp trãi nghiệm. Như tôi được biết, đây là tài liệu lần đầu tiên được ghi lại từ một nhà Tế bào thần kinh học, qua kinh nghiệm
bản thân mình, sau khi đã phục hồi vì một cơn xuất huyết não trầm trọng. Tôi rất vui mừng vì tập tài liệu này cuối cùng đã được in ra và phổ biến khắp thế giới để mọi người có thể biết mà chạy chữa đúng lúc và đúng cách.
Hơn tất cả mọi thứ trên đời, tôi rất biết ơn Thượng đế đã cho tôi cơ hội sống còn và ca ngợi sư hiện hữu hôm nav. Ban đầu, tôi được khuyến khích để vượt qua bạo bệnh và phục hồi là nhờ vào những người có lòng gửi cho các lá thư tràn đầy tình yêu thương vô bờ bến. Rồi qua nhiều năm, tôi vẫn kiên trì trong nỗ lực phục hồi, do vì biết bao câu hỏi gửi đến chưa được trả lời. Như một phụ nữ trẻ đã gửi thư hỏi tôi rằng: Tại sao bà mẹ của cô khi bị tai biến mạch máu não mà không thể tự mình gọi điện thoại cấp cứu, nên đã phải chết? (Người Mỹ không có thói quen khỉ con cái đã trưỏng thành mà còn ỏ chung nhà với cha mẹ.), hay một người đàn ông lớn tuổi khác, vẫn còn mãi đau buồn về cái chết của bà vợ, đã hỏi:Vì sao tai biến mạch máu não đã làm bà phai nằm mê man bất động cho đến khi qua đời?
Rồi thư của những người chăm sóc bệnh nhân tai biến não hỏ tôi về đưòng hướng và hi vọng trong sự điều trị. Cho nên tôi đã quyết tâm hoàn tất tập tài liệu này cho 700 ngàn người bị tai biến não hằng năm trong xã hội ta. Chỉ cần một người đọc chương “Buổi sáng ngày bị tai biến” để nhận diện được triệu chứng nguy cấp, rồi gọi ngay cấp cứu - gọi liền chứ không nên trễ, để cứu một mạng người – thì những công sức tôi đã bỏ ra để viết quyển sách này kể như đã được đền bù xứng đáng.
Quyển sách này đươc chia ra làm bốn Phần
I. Phần một nói về cuộc đời tôi trước khi Xuất huyết não xảy ra. Bạn sẽ biết tại sao tôi lớn lên và quyết định thành một nhà khoa học về não bộ với tràn đầy nghị lực và lý tưỏng.
Tôi rất tích cực hoạt động trong lãnh vực này. Tôi là một giáo sư khoa Não bộ học của Đại học Harvard và là thành viên trẻ tuổi nhất trong Ủy ban nghiên cứu về các bệnh thần kinh. Tôi đi khắp nước diễn thuyết về căn bệnh và cách trị liệu và kêu gọi những người bệnh khỉ qua đời thì thân nhân họ nên hiến bộ óc cho viện đại học để nghiên cứu.
II. Nếu bạn hiếu kỳ muốn biết thế nào là bị Tai biến mạch máu não thì Phần hai, “Buổi sáng ngày bị Tai biến”, là chương bạn nẽn đọc. Trong phần này, tôi sẽ dẫn bạn qua một hành trình lạ thường để bạn thấy được những suy sụp từ từ về khả năng hiểu biết - cái biết hiện tại về sự vật chung quanh và cái biết về những điều đã học hỏi trong quá khứ - của người bị Tai biến, dưới cái nhìn của một nhà khoa học. Khi não của tôi bị xuất huyết càng lúc càng nhiều thì tôi biết rằng đấy là sự mất mát và suy sụp của trí tuệ về phương diện Sinh học. Còn về phương diện Tế bào thần kỉnh học, Phải thú nhận rằng tôi đã học được rất nhiều về não bộ và sự vận hành của nó trong buổi sáng xuất huyết này, nhiều như tôi đã học hỏi trong bao năm khoa bảng. Đến cuối buổi sáng hôm ấy, ý thức của não bộ còn lại - não bộ Phải - đã đưa tôi sang một vùng nhận thức mới: tôi đã trỏ thành một với vũ trụ. Từ đó tôi mới hiểu được rằng tại sao với bộ óc vật chất này, người ta có thể đạt đến sự hiểu biết về những điều “thần bí” và “siêu hình”.
III. Nếu như bạn muốn giúp một người đã bị Tai biến não hay do một tai nạn mà bị chấn thương ỏ não bộ, thì những chương về sự phục hồi là rất cần thiết và hữu ích - trong đó có hơn 50 lời gợi ý về những điều nên và không nên làm cho ngưòi bệnh. Tôi hi vọng bạn sẽ chia sẻ kiến thức này cho mọi người chung quanh khỉ họ cần đến.
IV. Phần cuối, quyển sách cho thấy cơn Xuất huyết này đã dạy tôi những điều mới lạ về bộ óc, bạn sẽ thấy rằng quyển sách này không hoàn toàn viết về Tai biến mạch máu não. Nói cho chính xác hơn, Tai biến não chỉ là một chấn thương khiến cho những hiểu biết mới về não bộ xuất hiện.
Quyển sách này cho thấy những nét đẹp và khả năng phục hồi của não bộ con người, do khả năng nội tại của nó không ngừng thay đổi và luôn thích ứng để tồn tại. Sau rốt cuốn sách cho thấy hành trình của nhận thức thuộc bán cầu Phải của não bộ khỉ nó dẫn tôi vào cảnh giới An lành của vùng Tâm thức sâu thẳm. Tôi đã phục hồi Ý thức luận lý của bán cầu não Trái để trình bày và giúp cho người đọc
đạt đến Cảnh gioi An lành của vùng Tâm thức thâm sâu mà không cần Phải trải qua một cơn xuất huyết não như tôi. Hy vọng độc giả sẽ hài lòng trong cuộc du hành trí thức này.
CHƯƠNG 1
ĐỜI SỐNG CỦA TÁC GIẢ TRUÓC KHI TAI BIẾN NÃO
Tôi là nhà nghiên cứu tế bào não bộ, đã được huấn luyện, thực tập và đã xuất bản nhiều công trình nghiên cứu. Tôi sinh trưỏng ỏ thành phố Terre Haute thuộc tiểu bang Indiana. Một người anh của tôi, chỉ lớn hơn tôi 18 tháng tuổi, mắc bệnh Tâm thần Phân liệt. Anh được chính thức chẩn đoán là mắc bệnh này ỏ tuổi 31, nhưng thực ra anh đã có triệu chúng của bệnh từ nhiều năm trước. Từ thời thơ ấu, anh đã tỏ ra khác hơn tôi về cách nhìn thực tại và cách đối xử với mọi người. Do vậy, tôi rất có hứng thú tìm hiểu về bộ óc con người từ lúc còn bé. Tôi đã thường tự hỏi, vì sao mà hai anh em cùng quan sát một sự việc vừa mới xảy ra, tại có thể đi dến hai lời giải thích khác nhau. Sự khác biệt về nhận thức, về cách tiếp thu và phân tích dữ kiện giữa hai anh em tôi, đã thúc đẩy tôi trỏ thành một nhà khoa học về não bộ.
Tôi bắt đầu 4 năm đại học từ cuối thập niên 1970 ỏ đại học Indiana, thành phố Bloomington. Do sự giao tiếp với người anh của tôi mà tôi rất muốn biết thế nào là một con người “bình thường” trên bình diện trí óc. Lúc bấy giò, Khoa tế bào não bộ học hãy còn phôi thai và chưa được giảng dạy ỏ đại học như một phân khoa riêng biệt. Nhưng nhờ môn Cơ thể học và Sinh học mà tôi được biết ít nhiều về bộ óc con người.
Công việc đầu tiên tôi nhận được sau 4 năm tốt nghiệp không ngờ là một ân phước lớn trong đời học hỏi. Tôi được tuyển làm Cán sự ỏ phòng thí nghiệm của Viện đại học, mà thời gian được phân chia làm hai phần: một là nghiên cứu về giải phẩu Nhân thể học và hai là giải phẩu Tế bào thần kỉnh.
Trong suốt hai năm, tôi say mê trong lãnh vực y học này dưới sự hướng dẫn của giáo sư Tiến sĩ Robert C. Murphy, và tôi thích mổ xẻ cơ thể con ngưòi để tìm hiểu và học hỏi. Bỏ qua việc lấy bằng Thạc sĩ, sáu năm kế tiếp tôi đã ghi danh học chương trình Tiến sĩ trong phân khoa Sinh học. Năm đầu tôi học phần lớn các lớp của Y khoa, và công trình nghiên cứu của tôi lại chuyên về Giải phẩu Tế bào Thàn kinh não dưới sự hướng dẫn của giáo sư Tiến sĩ William J. Anderson. Tôi tốt nghiệp Tiến sĩ năm 1991, và cảm thấy đủ tự tin để giảng dạy các môn Giải phẩu Nhân thể, Giải phẩu Tế bào não và Sinh học cho sinh viên ỏ Đại học Y Khoa.
Trỏ lại thời điểm 1988, khi tôi đang làm công việc cán sự ỏ phòng thí nghiệm nghiên cứu về não bộ, thì anh tôi chính thức được giới y học xác định mắc Phải chứng bệnh Tâm thần Phân liệt. Về phương diện Sinh học thì anh em tôi là hai hiện hữu gần giống nhau nhất trên thế gian này. Nên tôi muốn tìm hiểu tại sao tôi đã có thể đem ước mơ gắn liền với thực tế và biến chúng thành hiện thực, còn bộ óc của anh tôi thay vì làm việc đó thì lại chỉ phát sinh ra hoang tưỏng?
Vì vậy, tôi rất hăm hỏ theo đuổi việc nghiên cứu bệnh Tâm thần Phân liệt này. Tiếp theo lễ tốt nghiệp Tiến sĩ ỏ Đại học Indiana, tôi được mời làm việc trong chương trình nghiên cứu hậu đại học của trường Đại học Y Khoa Harvard, phân khoa Thần kinh. Tôi đã nghiên cứu trong 2 năm, dưới sự hướng dẫn của giáo sư Tiến sĩ Roger Tootell, trên bộ phận vỏ não liên quan đến thị giác. Tôi rất hứng thú trong công cuộc nghiên cứu này vì đa số những người mắc bệnh tâm thần phân liệt thường cho thấy họ có cái nhìn rất bất thường khi quan sát những vật chuyễn động.
Sau đó, tôi đã xin chuyễn qua nghiên cứu ỏ phân khoa Tâm thần. Mục đích của tôi là được nghiên cứu dưới sự chỉ dẫn của giáo sư Tiến sĩ Francine M. Benes trong bệnh viện McLean. Tiến sĩ Benes là chuyên gia nổi tiếng về việc giải phẩu não bộ những người bệnh tâm thần phân liệt sau khi chết, để tìm hiểu và giải thích tại sao họ đã bệnh như vậy. Tôi tin tưỏng công trình nghiên cứu này sẽ giúp tôi chữa trị được những người đã mắc chứng bệnh rối loạn não bộ như ông anh của tôi.
Một tuần trước khi sang nhận công việc nghiên cứu mới ỏ bệnh viện McLean,tôi được mời dự buổi điều trần hằng năm - năm ấy là 1993 - của “Hội bạn người bệnh Tâm thần toàn quốc” ỏ Miami, Florida. Lúc đó, Hội có khoảng 40 ngàn hội viên có người nhà mắc bệnh tâm thần. Hiện nay, 2009, con số đó đã tăng lên đến khoảng 220 ngàn. Chuyến đi này làm thay đổi hẳn đời tôi. Ở cuộc điều trần, tôi đã hiểu được nỗi đau của 40 ngàn gia đinh có thân nhân bị bệnh, cũng như gia đình tôi, mà chưa tìm ra được nguyên nhân và cách cứu chữa. Hội họp ỏ đây là để báo động cho chính quyền và những người có trách nhiệm trong giới y học Phải quan tâm giải quyết, vì đó là sự đòi hỏi của người dân về Công Bằng Xã Hội.
Khi trỏ về lại bệnh viện McLean để bắt tay vào việc nghiên cứu bệnh, tôi rất hăm hỏ và đầy nhiệt tình. Không những tôi muốn cứu anh tôi, mà tôi còn muốn cứu cả mấy mươi ngàn người qua cuộc điều trần ỏ Miami. Với nhiệt tình tuổi trẻ, với sự thông cảm nỗi đau của gia đình có người bệnh và với kiến thức của một nhà khoa học về bệnh tâm thần, năm sau - 1994 - tôi được đề cử vào ủy ban điều hành của Hội. Thật là một vinh dự và cũng là trách nhiệm rất lớn lao với một người trẻ tuổi như tôi - mới có 35 tuổi, trong khi tuổi trung bình trong ủy ban là 67. Hằng năm tôi đều tham dự các cuộc họp tổ chức khắp toàn quốc để tường trình những tiến bộ trong việc nghiên cứu của chúng tôi.
Bấy giờ tôi lại được cho biết rằng phòng thí nghiệm ỏ bệnh viện McLean thật sự cần thêm não bộ của người bệnh đã chết để nghiên cứu.
Một năm phòng thí nghiệm chỉ nhận được có vài ba bộ não của người chết gửi tặng thì không đủ vào đâu. Khi tôi đi tham dự các phiên họp, tôi đã kêu gọi sự đóng góp, thì số não bộ hiến tặng đã tăng lên được 35. Nhưng hằng năm Ngân hàng não Phải có trên 100 bộ não thì mới đủ cho công cuộc nghiên cứu. Qua sự nghiên cứu, chúng tôi đã tìm thấy có ba hệ thống hóa chất khác nhau làm công việc tiếp nối sự “truyền tin” trong mỗi bộ óc. Nhờ những hóa chất này, như dopamine là một, mà các tế bào thần kinh có thể chuyển tin tức cho nhau. Nếu chúng tôi nhận biết được các hóa chất này, sự vận hành vi tế giữa các mạch tế bào não, biết được liều lượng hóa chất cần thiết của não bộ từng người bệnh, chúng tôi có thể điều trị những chứng bệnh này bằng những loại thuốc với liều lượng hiệu quả hơn.
Công trình nghiên cứu của tôi đã được đăng trên báo y học “BỉoTechniques Journal” đầu Xuân 1995; và đến năm 1996, tôi được giải thưỏng của Đại học Y Khoa Harvard, phân khoa Tâm thần về kết quả nghiên cứu này. Tôi thật lạc quan và yêu đời. Nhưng rồi một sự kiện không thể ngờ xảy ra. Tôi đang ỏ giữa độ tuổi ba mươi. Con đường sự nghiệp đang đi lên.
Thì bỗng nhiên trong chớp mắt, màu hồng tươi thắm của cuộc đời và những viễn cảnh đẹp đẽ của tương lai đã tan thành mây khói. Tôi thức dậy buổi sáng ngày 10 tháng 12 năm 1996 để khám phá ra rằng não bộ của chính tôi cũng đã mang bệnh. Tôi đang bị Xuất huyết não! Trong vòng 4 tiếng đồng hồ ngắn ngủi, tôi theo dõi và thấy tâm trí tôi từ từ hũy hoại trong khả năng phân tích sự vật xung quanh qua các giác quan của tôi. Một hình thức xuất huyết não hiếm hoi xảy ra đã làm cho cơ thể tôi hoàn toàn tê liệt, từ khả năng đi đứng, nói năng, đọc viết, hoặc hồi tưỏng lại mọi việc trong đời.
Tới đây, tôi nghĩ rằng độc giả muốn biết ngay những gì đã xảy ra cho tôi trong buổi sáng xuất huyết não ấy. Nhưng hãy khoan. Để quý vị có thể hiểu được những gì đã xảy ra trong não bộ khi nó bị xuất huyết, tôi xin trình bày trong chương 2 và 3 sau dây vài điều cơ bản về khoa não bộ học.
CHƯƠNG 2
MỘT MÔN KHOA HỌC ĐƠN GIẢN
Thông thường, để cho hai người chúng ta có thể trao đổi với nhau về một vấn đề gì, trước hết chúng ta Phai có một số ý niệm chung về thực trạng của vấn đề đó. Hơn nữa, hệ thống thần kinh của chúng ta cũng Phai tương đương trong khả năng nhận xét và hiểu biết các dữ kiện từ ngoại cảnh, phân tích và kết nạp dữ liệu đó vào bộ óc, rồi cũng Phải tương đồng trong cách biến hiểu biết đó ra thành ý nghĩ, lời nói, hay việc làm. Những cảnh “ông nói gà, bà hiểu vịt” không Phải là không thường xảy ra.
Việc ra đời của Sự Sống là một biến cố đáng kể nhất. Từ sự xuất hiện một đơn bào sinh vật, một giai đoạn mới về cấu trúc sinh thể ỏ lĩnh vực tế bào đã xuất hiện. Những nguyên tử và phân tử trong tế bào kết tập nhau thành DNA và RNA có thứ lớp và không thể nhầm lẫn. Các tế bào này quần tụ với nhau và phát triển qua thời gian để sản sinh ra bạn và tôi và tất cả mọi loài. Ở mức độ cấu trúc DNA, chúng ta được cấu tạo tương tợ như loài chim, loài bò sát, loài lưỡng thê, loài động vật có vú, và ngay cả loài thực vật. Nhưng đứng về mặt sinh học, cơ thể chúng ta mặc dù đã được cấu tạo rất phức tạp, vẫn chưa Phải là hoàn hảo và cố định, mà là còn đang trên đà phát triển.
Chẳng hạn như não bộ đã và đang thay đổi không ngừng. Não bộ của tổ tiên ta từ bốn ngàn năm trước không giống như não bộ của con người ngày nay. Chỉ riêng sự phát triển về ngôn ngữ đã làm thay đổi từ hình thể đến cấu trúc hệ thống tế bào não bộ. Hầu hết những nhóm tế bào khác nhau của cơ thể đều sinh ra và chết đi trong vài tuần hoặc vài tháng, rồi được thay thế bằng những tế bào mới, các tế bào não lại không như thế, kể từ khi chúng được sinh ra. Có nghĩa là các tế bào não của bạn ngày nay cũng “già đi” theo số tuổi của bạn. Sự sống không bao giò chết của tế bào não cắt nghĩa phần nào cái cảm gỉác của ban: dù đã 50 hav 70 tuổi, bạn vẫn ngỡ mình đang là 15 hay 20!
Số lượng tế bào thần kinh trong bộ óc con người không thay đổi, nhưng sự “tiếp xúc” giữa các tế bào thì thay đổi, tùy theo sự học hỏi và kinh nghiệm sống của mỗi cá nhân. Hệ thống tế bào thần kinh của con người thật năng động và tuyệt vời, với con số tế bào ước khoảng một ngàn tỉ. Để có ý niệm một ngàn tỉ tế bào óc là bao nhiêu, thì hãy nhớ rằng dân số toàn thế giới hiện nay là 6 tỉ. Nhân con số 6 tỉ dân này lên 166 lần, thì bạn có được con số một ngàn tỉ tế bào đang chen chúc trong cái sọ bé nhỏ của mỗi con người chúng ta, với trọng lượng trung bình của não bộ không hơn 1,5 kg. Dĩ nhiên con người chúng ta không Phải chỉ có não bộ. Còn có thân thể nữa. Trung bình, cơ thể một người trưỏng thành gồm chứa khoảng 50 ngàn tỉ tế bào.
Có nghĩa là số tế bào trong một cơ thể gấp 8.333 làn tổng dân số trên toàn thế giới. Thật là kỳ diệu: những tế bào xương, tế bào thịt, tế bào tạng phủ..., làm sao chúng có thể điều phối và hoạt động nhịp nhàng với nhau để tạo thành một cơ thể hoàn toàn khỏe mạnh và không bao giò bệnh tật? Cho nên nếu bạn có mang bệnh, đừng lấy làm lạ! Sự tiến hóa về phương diện sinh học thường bắt đầu từ thô sơ lên đến phức tạp. Để bảo đảm sự tiến tạo các sinh vật được hữu hiệu, Tạo hóa luôn theo một khuôn mẫu nhất định. Như con ong hút mật, con chim làm tổ, quả tim bơm máu, tuyến mồ hôi điều hòa thân nhiệt...; mỗi mỗi được tạo tác theo những “mã số“ riêng không hề bị xáo trộn.
Do đó, qua hàng triệu triệu năm, mọi loài chỉ tiến hóa và phát triển trên “căn bản” của mình để tiến đến mức độ phức tạp hơn. Chẳng hạn như con người và loài dã nhân. Con người có đến 99,4% DNA cấu tạo tương tự như dã nhân. Nhưng như vậy không có nghĩa dã nhân là thủy tổ của loài người; chúng chỉ có trí thông minh xấp xỉ như con ngưòi mà thôi. Điều đó chứng minh sự kỳ diệu của bàn tay tạo hóa: chỉ thay đổi một chút xíu các mã số DNA mà đã tạo ra các loài sinh vật khác nhau. Còn giữa loài người với nhau, bạn và tôi có cùng loại DNA, nhưng chỉ khác nhau có 0,01% (1/100 của 1%) trên cách cấu trúc. Vỉ vậy, mắt mũi, màu da, cao thấp, mập ốm, dáng vẻ... không giống nhau.
Và con người khác với những loài có vú khác là ỏ bộ não: con người có lớp vỏ não dợn sóng và uốn khúc một cách phức tạp. Mặc dù não bộ loài có vú đều có vỏ não bao bọc bên ngoài, nhưng vỏ não con người lại dày hơn gấp đôi và vì vậy các chức năng sinh hoạt cũng gấp đôi. Hơn nữa, vỏ não con người còn chia não bộ ra làm 2 bán càu riêng biệt mà chức năng sinh hoạt mỗi bán cầu lại bổ túc cho nhau.
Nhờ bổ túc cho nhau mà mỗi người chúng ta có một nhận thức nhất định và độc nhất - không ai giống ai - về thế giới bên ngoài. Lớp vỏ não trên cùng mới được “thêm vào” cho não bộ con người gần đây thôi (vài ngàn năm) đã làm cho con ngưòi khác hẳn các loài có vú khác, Nhờ những mạch thần kinh ỏ đây mà con người có được tri thức về những vật chất “cụ thể“ (nhà cửa, vật dụng) và những ý niệm “trừu tượng” (ngôn ngữ, nghệ thuật...). Còn những lớp sâu hơn của vỏ não thì chức năng sinh hoạt giữa người và vật đều giống nhau.
Bán cầu não bộ cũng cần mạch máu mang dưỡng khí lên nuôi sống. Các mạch máu này được phân nhiệm vụ riêng biệt, như mạch máu thuộc phần cử động tứ chi, phần tạo tác ngôn ngữ, phần hiểu biết ngôn ngữ, phần thuộc thị giác, phần phân biệt vật thể. Mạch máu nào bị hư hỏng thì phần liên hệ đó của thân thể không còn hoạt động được. Và cũng như các bộ phận khác của cơ thể là thường hay bị bệnh, các mạch má ỏ bán cầu não bộ cũng hay bị ‘tai biến". Những tai biến này chia làm 2 loại thường làm chết người hoặc biến con bệnh thành phế nhân.
Tai biến thông thường nhất, lên đến 83% trường hợp, là “nghẽn” mạch máu.
Tai biến hiếm hoi, chỉ có khoảng 17%, nhưng nặng nề nhất, là “vỡ“ mạch máu.
Nghẽn mạch máu là khỉ mỡ cholesterol đóng theo thành mạch máu làm trỏ ngại máu không thể lưu thông trên vỏ não. Không dưỡng chất, tế bào thần kinh ỏ vùng này Phải tê liệt. Thường thì tế bào thần kinh tê liệt sẽ không được thay thế. Các sinh hoạt của thân thể liên hệ tới vùng thần kinh này sẽ bị đình chỉ vĩnh viễn, trừ phi có những tế bào thần kinh khác học hỏi vai trò của những thần kỉnh đã tê liệt qua một thời gian, gọi là phục hồi chức năng. Bỏi vì mỗi người có sự nối kết các đường dây thần kinh não bộ một cách khác nhau, nên khả năng phục hồi cũng khác nhau.
Vỡ mạch máu là khi mạch máu não có chỗ cấu tạo bất thường - thành mạch máu quá mỏng - bị vỡ ra, lớp vỏ não bị ngập lụt trong máu và tế bào não ỏ vùng đó không còn hoạt động được; vì máu là độc tố của tế bào thần kỉnh, không thể được tiếp xúc trực tiếp. Đôi khi vỡ mạch máu là do áp suất huyết quá cao, các vi huyết quản nốỉ liền động mạch và tĩnh mạch chịu đựng không nổi áp lực. Đây là những tai biến chết người.
Những Dấu Hiệu của Tai Bién Mạch Máu Não:
· Tự nhiên nói không ra tiếng.
· Tay chân bị tê hay bắp thịt bị cứng.
· Tự nhiên quên hết mọi sự một cách bất thường.
· Tự nhiên đi đứng mất thăng bằng.
· Bị nhức đầu dữ dội khác với bình thường.
· Bỗng nhiên mắt mờ, không còn thấy gì hết.
Tai biến Mạch máu Não là vấn đề Sống Chết. Hãy đưa đi cấp cứu lập tức.
CHƯƠNG 3
SỰ KHÁC BIỆT GIỮA HAI BÁN CẦU NÃO
Từ hơn 200 năm nay, các nhà khoa học đã nghiên cứu về sự khác biệt giữa hai bán cầu não bộ con người. Người đầu tiên là DuPuis. Vào năm 1780, DuPuis đã tuyên bố là con người có bộ óc đôi, vì có hai bán cầu. Gần một thế kỷ sau, Arthur L. Wigan đã chứng kiến cuộc giảo nghiệm một người đã chết mà não bộ chỉ có một bán cầu.
Người này lúc sống cũng đi, đúng, nói năng, và có ý thức như một người bình thường. Vì vậy Wigan rất hào hứng đưa ra thuyết “Con người có nhị trùng tâm”. Thuyết này gây nhiều hứng khỏi cho các nhà khoa học Hoa Kỳ. Cho tới thập niên 1970, tiến sĩ Roger W. Sperry nhờ giải phẫu cắt rời hai bán cầu não để chữa bệnh “kinh phong”, đã khám phá ra vài điều mới mẻ. Trong bài diễn văn lãnh giải Nobel Y học năm 1981, tiến sĩ Sperry nhận định: “Khi hai bán cầu não bộ bị cắt rời, đương sự sẽ hành xử khác nhau như hai con người khác nhau, tùy theo bán cầu não Trái hay Phải được sử dụng”.
Những nghiên cứu và quan sát tiếp theo các bệnh nhân bị tách não làm đôi (để trị bịnh kỉnh phong) cho các nhà khoa học kết luận rằng: Khi 2 bán cầu não còn dính với nhau thì hoạt động “bổ túc” cho nhau; còn khi bị mổ tách rời thì sẽ hoạt động như 2 bộ não “độc lập”, riêng biệt. (Tiến sĩ Jekyll).
Nhờ hai bán cầu não Trái và Phải hoạt động bổ túc cho nhau nên chúng ta mới có những nhận xét, hiểu biết về nhân sinh và vũ trụ một cách rất độc đáo mà các loài sinh vật khác không thể có được. Sự bổ túc này rất hài hòa đến nỗi chúng ta không thể phân biệt khi nào chúng ta sử dụng bán cầu não Trái và khi nào là bán cầu não Phải. Tuy nhiên, ỏ một mức độ nào đó, chúng ta có thể biết.
Nhưng trước hết, điều quan trọng là Phải biết phân biệt người thuận tay Phải hay tay Trái với người thiên về bán cầu não Phải hay Trái. Bán cầu não Phải điều khiển nửa phần thân thể bên tav Trái, và bán cầu não Trái điều khiển nửa phần thân thể bên tay Phải. Còn người thuận sử dụng bán cầu não Phải hay Trái thì lại khác. Muốn biết một người thiên về sử dụng bán cầu Phải hay Trái thì hãy quan sát cách họ “nói năng” (sử dụng ngôn ngữ) và cách họ “nghe” và “hiểu“ lời nói (tiếp nhận và giải mã ngôn ngữ) của người khác. Nói chung, gần như 85% dân số thuận tay Phải và thiên về sử dụng bán cầu não Trái. Và khoảng 60% người thuận tay Trái cũng thiên về sử dụng bán cầu não Trái. Như vậy số người thuận sử dụng bán cầu não Phải không nhiều.
Khi các dữ kiện (ánh sáng, âm thanh, mùi, vị, cảm giác, ý tưỏng) hằng ngày không ngớt tràn ngập não bộ con người qua các giác quan, thì bán cầu não Phải tiếp nhận các dữ kiện này bằng hình ảnh như hình chụp của máy ảnh, được rửa ra và được dán chồng lên nhau. Thí dụ: Mắt “thấy“ cô gái này đẹp thì trong não bộ Phải có nguyên hình cô gái với toàn cảnh, thí dụ cô gái ấy ỏ một tiệc cưới, ỏ quán kem, ỏ nhà một người bạn
... Tai “nghe” tiếng giảng đạo của một linh mục thì có hình ảnh của vị linh mục đó tại nhà thờ...“Nỗi buồn” hay sự “thất vọng” cũng được não Phải lưu giữ bằng hình ảnh trong một bối cảnh nào đó. Những hình ảnh này được lưu giữ cho dù sự kiện đã xảy ra cách nhiều năm, khi hồi tưỏng lại ta cũng như đang “thấy” trước mắt, nhất là khi hình ảnh đó ngày xưa đã gây quá nhiều ấn tượng.
Với não bộ Phải, sự ghi nhận không có thời gian. Chỉ là “hình ảnh” được ghi lại “bây giò“ và “nơi đây” với đầy đủ cảm giác rất sống động. Não bộ Phải không bị gò ép Phải “suy tưỏng” theo một nguyên tắc hay khuôn khổ lề luật nào, và đó là não bộ của các nghệ sĩ, tu sĩ, nhà đạo đức, các nhà khoa học lo cho tương lai nhân loại, chuyên nghĩ đến những việc mà người “bình thường” không hề nghĩ đến.
Não bộ Phải, phần trước trán, cũng làm cho chúng ta nghĩ đến tình nhân loại, nghĩa đồng bào, cùng sống trong một dãi đất, trên một tỉnh cầu, biết thương yêu nhau, giúp đỡ, nhường nhịn, sống chung hay chết chung với nhau.
Não bộ Trái thì ngược lại trong việc ghi nhận các dữ kiện. Tiếp nhận những sự kiện từ não bộ Phải như là hình ảnh của một tổng thể, não bộ Trái đem ra phân tích, phê phán và sắp xếp theo hình dáng, màu sắc, âm thanh, mùi vị, thời gian (quá khứ, hiện tại, vị lai), tình cảm (thương ghét, vui buồn), khối lượng (nặng nhẹ, lớn nhỏ)...
Nói chung là não bộ Phải nhìn mọi sự dưới dạng toàn cảnh và tổng thể; còn não bộ Trái thì dùng ngôn ngữ để mô tả từng chi tiết, theo thứ tự thời gian, theo phân biệt tình cảm. Thí dụ: Não bộ Phải khi gặp một người thì ghi nhận ngay hình ảnh người ấy gặp trong một khung cảnh nào đó. Não Trái sẽ ghi chi tiết: nam nữ, chủng tộc, cách ăn mặc, nói năng, học vấn, cá tính... (Ỏ điểm này, ta gọi là óc nhận xét). Hay nhìn một đóa hoa. Não bộ Phải chỉ ghi nhận: đóa hoa và bất cứ hoa gì thì cũng thấy đẹp. Còn não Trái sẽ ghi hoa gì, màu gì, mùi gì, cánh hoa, đài hoa, cuống hoa, xấu, đẹp như thế nào.
Nhờ thu nhận hình ảnh ngưòi, vật, cảnh nên não bộ Phải nhìn đâu cũng đẹp, dễ thương, độc đáo, biết tôn trọng vật hay người đã nhìn thấy, và thấy cá nhân mình chỉ là một phần trong toàn phần, không có sự kỳ thị, phân biệt hơn kém, thương ghét. Trái lại, với chức năng phân biệt, phê phán theo giá trị, xếp loại theo hạng mục, não bộ Trái tạo ra nhiều dễ dàng trong đời sống, nhưng cũng từ đó làm cho đờisống thêm phức tạp hơn lên.
Thí dụ: mục đích của thức ăn là để no bụng. Nhưng có ngưòi đói thấy thức ăn, thì ăn. Có người đói lại không ăn, vì thức ăn bị chê là không ngon, hay bày biện không hợp... lễ. (Còn con vật hễ đói, thấy đồ ăn thì...ăn, không cần ngon dỏ hay lễ nghĩa gì cả).
Thêm nữa, não bộ Trái có khả năng ngôn ngữ nên biết diễn tả mọi sự mọi vật thật chi tiết, rõ nét, dễ hiểu, làm cho sự hiểu biết của loài người được tích lũy và lưu truyền càng ngày thêm phong phú, khiến cho con người càng ngày một thông minh, tiến bộ qua quá trình tiếp thu kiến thức hàng ngàn năm.
Với những kiến thức được phân loại theo hạng mục, con người cũng tiên đoán được những gì sắp xảy ra, tránh được phần nào tai họa (thòi tiết, giông bão, động đất, sóng thần...). Nhưng cũng chính với những khả năng đặc biệt của não bộ Trái, con người, và chỉ có loài người mà thôi, đã tạo ra biết bao khốn khổ cho chính mình và người chung quanh. Nhờ khả năng ngôn ngữ, con người biết tự đặt câu hỏi "TÔI LÀ...AI?” Bản Ngã từ đó sinh ra.
Cái Tôi, cái Ngã càng được trau chuốt, quan trọng hóa, thì khốn khổ tự thân của con người cũng dồn dập.Khi bán cầu não Trái bị thương tật, người bệnh sẽ mất khả năng nói và hiểu lời nói của kẻ khác. Nhưng nhờ bán cầu não Phải, họ sẽ cảm nhận được là người đối diện đang nói thật hay nói dối qua sự nhận xét cách nói, giọng nói, vẻ mặt, và điệu bộ. Bán cầu não Phải vì vậy có khả năng bổ túc cho bán cầu não Trái về moi lĩnh vực sinh hoạt trong đời sống hằng ngày, khi não Trái bị tai biến hay thương tật.
Loại tai biến mà tôi trải nghiệm là sự Xuất huyết trầm trọng bên bán cầu não Trái. Sau khi đã được mổ sọ để lấy khối máu khô ra, tôi đã Phải mất 8 năm mới hoàn toàn hồi phục thể lực và trí lực. Các chương tiếp theo sẽ kể tiếp cho bạn biết những gì đã xảy ra.
Tôi cũng nhiệt tình khuyến khích các bạn hãy tìm đọc thêm những tài liệu về khả năng của bộ óc, về sự sinh hoạt của hai bán cầu trong một con người bình thường, để bạn có thể giúp những người bị Tai biến mạch máu não phục hồi một cách hữu hiệu, và giúp cho chính bạn sống cuộc đời mình tốt đẹp hơn.
CHƯƠNG 4
BUỔI SÁNG NGÀY BỊ TAI BIẾN
Lúc ấy là 7 giờ sáng ngày 10 tháng 12 năm 1996. Tôi thức dậy theo tiếng báo thức của đồng hồ reo bên giường. Với tay bấm tắt tiếng reo, hình như tôi vẫn còn chập chờn trong trạng thái nửa thức nửa ngủ. Nhưng tinh thần tôi đã sảng khóaí, sẵn sàng cho một ngày bình thường. Tôi biết tôi Phải thức dậy đi làm việc. Đang trỏ mình lăn ra khỏi giường, bỗng tôi cảm thấy đau nhói bên phía trong đầu sau mắt Trái, một cơn đau chưa từng có. Chẳng mấy khi bệnh hoạn, tôi lấy làm lạ về một cơn đau khỉ mới vừa thức giấc.
Tôi đưa tay Trái lên kéo đóng tấm mành che bớt ánh sáng mặt tròi chói chang đã làm mắt tôỉ khó chịu, và đưa tay Phải lên che con mắt đau lại. Tôi cảm thấy bối rối tự hỏi tại sao mới sáng mà lại đau thế này? Con mắt Trái cứ tiếp tục đau giật tê buốt từng cơn, tê buốt như cắn Phải cục nước đá. Tôi rời giường, khập khểnh leo lên chiếc máy tập thể dục như một người lính bị thương, hy vọng sự vận động cơ thể, máu huyết lưu thông sẽ làm giảm cơn đau. Sau vài động tác, tôi thấy cơ thể như rã rời, tay chân như không còn là của tôi nữa, mặc dù tôi vẫn tỉnh táo. Hay đúng hơn, cơ thể như không còn theo mệnh lệnh của bộ óc tôi.
Tôi như một người khác đang quan sát cử động của chính mình. Tôi đưa hai tay nắm lấy tay nắm của máy tập thể dục, mà vụng về như hai tay của người tiền sử. Đầu vẫn tiếp tục đau điếng từng cơn.
Tôi có cảm giác lạ kỳ: Ý thức tôi đã tản mạn đâu mất và thân thể tôi như đang lơ lửng giữa thực tại và một cõi mông lung nào. Nhận thấy sự vận động của thể dục không giúp ích gì cho cơn đau, tôi rời máyvà hướng vào nhà tắm. Tôi để ý thấy tôi bước đi không còn tự nhiên, mà cà thọt như một tên hề. Và không thể bước đi một cách thăng bằng, tôi Phải cố gắng hết sức mới không Phải té. Để bước chân vào bồn tắm, tôi Phải vịn vào vách, và cố gắng lắm thì hai chân mới đứng vững được cho khỏi ngã. Tôi lấy làm ngạc nhiên là sao hôm nay tôi không thể điều khiển được cái khối 50 ngàn tỉ tế bào theo ý muốn và tự hỏi không biết bộ óc kỳ diệu của tôi sao hôm nay lại bất thường?
Tôi biết rằng sỏ đĩ con người có thể đi đứng một cách thăng bằng và nghe được, thỏ được là nhờ phần não bộ nối dài với tủy sống. Như vậy là tôi có thể bị rối rắm với các tế bào não bộ ỏ phần này, và có thể nguy hiểm chết người. Trong khi tôi cố tìm ra lòi giải đáp bằng kiến thức của một nhà khoa học não bộ, tôi bỗng nhiên nhận ra mình đang ỏ vào một tình trạng thật là kỳ lạ:
Thông thường não bộ Trái hay “nói” cho tôi biết những gì đang xảy ra, nhưng bây giờ thì im lặng, hoặc nói vài điều không mạch lạc, không liên hệ, không nghĩa lý gì với nhau. Hơn nữa, thính giác của tôi thường rất nhạy bén, nhưng bây giờ tôi không còn nghe được cả tiếng ồn ào thường lệ của xe cộ bên ngoài. Hoang mang, tôi lục lọi ký ức xem tình trạng này có bao giờ xảy ra chưa. Hiện tượng giống như bị nhức đầu dữ dội.
Tôi càng cố tập trung ý tưỏng, thì trí óc và sự suy nghĩ của tôi càng như tan biến vào nơi đâu. Bộ phận não Amygdala có bổn phận thông báo về những tai họa, những điều đáng sợ, Phải có phản ứng thế nào cho thích hợp, đã không thấy hoạt động vào lúc này. Và thay vào sự lo lắng về “chuyện gì đã xảy ra trong bộ óc tôi”, tôi bỗng nhiên cảm thấy “bình an” thật lạ. Cả đời mấy mươi năm, lúc nào tôi cũng nghe não bộ Trái của tôi “báo cáo” từng chi tiết về đủ thứ chuyện: Nào là chuyện nghiên cứu, chuyện dạy học, kế hoạch này, chương trình kia Phải hoàn tất kịp thời.
Thì nay, những việc làm bận rộn đó đã biến đâu mất. Tôi chỉ còn một cảm giác thanh tịnh, hạnh phúc và cực kỳ an lạc. Và vì Trung tâm Ngôn ngữ ỏ bán cầu não Trái đã bị tê liệt, tôi không còn liên lạc được với mọi ký ức trong đời. Tôỉ không còn biết “tôi là ai”. Tôi như hòa làm một với vũ trụ, và cảm giác đó làm tôi thích thú vô cùng. Tới đây thì gần như tôi không còn ý niệm về không gian ba chiều vật chất ỏ quanh tôi. Tôi đứng trong bồn tắm, lung tựa vào vách, nhung không còn khả năng phân biệt thân thể và tay chân tôi có giới hạn tới đâu. Tôi có cảm giác toàn thân tôi là một khối chất lỏng hòa tan với mọi vật thể chung quanh. Khối lỏng của cơ thể tôi trỏ nên nặng nề, và năng lượng trong người dường như tan biến mất.
Tôi nghĩ: “Ủa, mình thật là lạ. Mình là một sinh vật kỳ lạ vô cùng. Mình là môt túi nước lớn bao bọc bên ngoài bằng một lớp màng nhầy. Mình là đời sống! Với hình thức này mình là một “ý thức sống trong bọc nước” và đó là mình! Mình là hàng ngàn tỉ tế bào có chung một tri thức. Mình ỏ đây, bây giò và hăm hỏ sống đời!
Coi kìa, thật là một khái niệm kỳ diệu và không thể hiểu thấu được! Mình là một tế bào đời sống, ủa, mà không Phải, mình là một phân bào đòi sống, có cả sách hướng dẫn cách phát triển rõ rệt, và là phân bào có trí hỉểu biết!” Với sự thay đổi tình trạng của hiện hữu, tâm trí tôi không còn vướng bận với hàng ngàn chi tiết mà bộ óc hướng dẫn tôi trong đời sống hàng ngày, cả những suy nghĩ mà bán càu óc Trái “nói” với tôi mỗi ngày cũng hoàn toàn im lặng. Và với yên lặng này, tôi không còn ký ức về quá khứ, cũng không suy nghĩ đến tương lai.
Tôi lại nghĩ rằng bán cầu não tráỉ đang bị thương hóa ra rất dễ chịu. Tôi hăm hỏ quay ra chú tâm tới hàng ngàn tỉ tế bào thông minh đang hoạt động hài hòa để giữ cho cơ thể tôi được sống. Và trong khi máu càng lúc càng chảy nhiều hơn trong đàu tôi, ý thức về ngoại cảnh của tôi nhạt nhòa dàn. Tôi chỉ còn cảm giác hạnh phúc và sung sướng rằng các tế bào li ti trong cơ thể vẫn còn hoạt động liên tục không ngừng nghỉ để cho tấm thân vật chất của tôi được tồn tại.
Đây là lần đầu tiên trong đời, tôi thật sự cảm thấy mình là “một” với sự sống. Và tôi vui mà thấy đời sống là một tập hợp những tê' bào thông minh quanh một phân bào thiên tài tuyệt vòi. Tôi cảm giác mình như là khối hơi trong vũ trụ, dù cơn đau từng chập trong đầu vẫn còn rõ nét nhưng không Phải là không chịu nổi. Cơn đau lan xuống tới ngực và chạy ngược lên tận cổ, kéo tôi về với thực tại. Tôi nhận ra ngay mình đang lâm tình trạng cực kỳ nguy hiểm. Nhất định Phải biết cái gì đã xảy ra, tôi cố lục soát phần hiểu biết còn lại trong ý thức để tự chẩn bệnh mình: “Cái gì đang xảy ra trong cơ thể? Bộ óc đã như thế nào rồi?”. Mặc dù ý thức tôi bị đứt quãng và mơ hồ, tôi cũng cố gắng giữ thăng bằng cơ thể. Bước ra khỏ bồn tắm, tôi như người say rượu.
Thân nghiêng ngửa, chân nặng nề, bước chậm chạp. Câu hỏi trong đầu: ‘Tôi đang muốn làm gì bây giờ? Thay đồ. Thay đồ để đi làm”. Tôi vất vả lựa quần áo. Lúc đó đã 8:15 sáng, và tôi sẩn sàng lái xe ra đi. Tôi nghĩ: “Được rồi, tôi đi làm đây. Tôi đi làm đây. Mà tôi có biết làm sao đến sở làm không? Tôi có thể lái được xe không?”. Trong khỉ tôi đang nghĩ đến con đường Phải lái xe từ nhà đến bệnh viện McLean nơi tôi làm việc, tôi tự nhiên mất thăng bằng vì cánh tay Phải bị xụi thình lình một bên. Lúc đó, tôi mới hiểu ra: “Trời ơi! Tôi bị xuất huyết não! Tôi bị xuất huyết não!” Phút tiếp theo đó, một ý tưỏng thoáng chớp lên trong đầu:
“Ô! Cái xuất huyết não này mới dễ thương làm sao!”. Tôi như bị rơi từ vùng ảo giác hạnh phúc, an lạc trỏ về thực trạng nguy hiểm của não bộ. Dù vậy, tôi vẫn luôn nghĩ: “ồ kìa, có bao nhiêu nhà khoa học được dịp may mắn quan sát sự vận hành và suy thoái của chính bộ óc mình từ trong ra ngoài?” Tôi đã để cả đòi tìm hiểu: Làm sao mà bộ óc con người tạo ra được sự hiểu biết cho chúng ta về những thực tại chung quanh? Và bây giờ, tôi được dịp trải nghiệm sự vận hành của Não bộ từ chính bộ óc của mình qua cơn Xuát huyết não.
Khi cánh tay Phải trỏ thành bại xụi, tôi có cảm tưỏng như sức sống của nó nổ tung ra. Nó nằm im xuôỉ xuống một bên vai mà tưỏng như đã bị chặt đút đâu mất. Về não bộ học, tôi biết rằng phần vỏ não về động tác tay chân đã bị ảnh hưỏng, và tôi may mắn là cánh tay chỉ chết trong vài phút rồi hơi cử động lại được, với sự đau tê dữ dội.
Tôi như người bị thương. Cánh tay Phải như mất hết sức lực, tựa như khúc cây. Tôi tự hỏi không biết có bao giờ cánh tay sẽ trỏ lại bình thường. Ngó qua thấy cái giường ngủ ấm áp, nhất là vào buổi sáng mùa Đông lạnh lẽo ỏ vùng này, tôi muốn nằm. “ổi, tôi mệt quá rồi. Tôi đau quá rồi. Tôi muốn nghỉ ngơi. Tôi muốn nằm và ngủ một chút”. Nhưng tự trong thâm tâm tôi, một giọng nói như ra lệnh: “Không được nằm! Nếu ngươi nằm, ngươi sẽ chết!”. Kinh ngạc vì tiếng đe dọa, tôi thử phán định tình hình bấy giò. Nghịch lý thay, mặc dù tôi thực tế đang ỏ trong tình trạng khẩn cấp thúc giục tôi Phải gọi ngay cấp cứu đưa vào bệnh viện, một phần khác trong tôi vẫn cảm thấy thú vị vì đang sống trong cảm giác An vui và Thanh tịnh. Tôi bước ra khỏi ngạch cửa phòng ngủ, ngang qua tấm gương.
Nhìn vào đôi mắt tôi phản chiếu trong đó, tôi ngừng lại một chút để tìm vài chỉ dẫn hiển lộ trong ánh mắt của mình. Trong cái sáng suốt còn sót lại của một não bộ đã bị thương, tôi chợt hiểu ra là, qua thiết kế sinh học tuyệt vời của tạo hóa, cơ thể con người là một món quà quí giá và rất mong manh. Đối với tôi, cái thân thể này vận hành như một cánh cửa lớn qua đó năng lượng của cái ‘lôi” được chiếu rọi vào một khoảng trống gọi là không gian ba chiều.
Khối lượng tế bào của thân thể này cung cấp cho tôi cái gọi là “nhà” tạm thời nhưng rất hoành tráng. Và với bộ óc kỳ diệu, có khả năng kết nạp thực sự hàng tỉ của hàng ngàn tỉ dữ kiện mỗi phút, đã tạo cho tôi cảm tưỏng rằng có một không gian ba chiều không những là có thực mà còn là an toàn để sống trong đó.
Trong cái ảo giác đó, tôi đã bị thôi miên vì khối lượng sinh học đã tạo ra hình dáng tôi,và kinh ngạc với sự vận hành vừa đơn giản vừa phức tạp của nó. Tôi đã nhận ra tôi chỉ là sự kết hợp của một hệ thống phức tạp và sống động, một tổng thể những tế bào có khả năng tập kết dữ kiện của thế giới bên ngoài qua những bộ phận nối kết nhau gọi là giác quan. Và khi hệ thống này vận hành thích hợp, nó sản sinh ra một ý thức có khả năng phân biệt ý nghĩa mọi thực trạng chung quanh. Tôi ngạc nhiên tự hỏ tôi đã sống trong cái thân thể này đã nhiều năm, vói hình thức một nhà nữ bác học như vầy, mà sao đã không thực sự nhận ra rằng mình chỉ là ngưòi khách lạ từ nơi khác đến đây thăm viếng?
Ngay cả trong tình trạng như thế này, cái ngã ỏ bán cầu não Trái của tôi vẫn ương ngạnh giữ niềm tin rằng, mặc dù tôi đang bị bệnh ỏ não bộ nghiêm trong, tôi vẫn không sao! Cho nên, trong lúc lạc quan, tôi cũng tin sẽ hoàn toàn bình phục. RỒI hơi bực bội vì bệnh làm hỏng thòi khóa biểu làm việc sáng nay, tôi pha trò một mình:
“Được rồi, tôi bị xuất huyết não! Phải rồi, tôl đang bị xuất huyết não!
Nhưng tôi là ngưòỉ bận rộn với công việc. Bỏi vì tôi không thể làm cho sự xuất huyết ngưng lại, tôi sẽ nghỉ một tuân. Tôi sẽ tìm hiểu xem làm sao mà bộ óc tôi có thể tạo ra ảo giác tôi là người rất bận rộn. Sau đó, tôi sẽ làm việc trỏ lại đúng như thời khóa biểu đã định. Bây giờ tôi Phải làm gì? Gọi cấp cứu. Phải gọi cấp cứu ngay tức khắc”.
CHƯƠNG 4
KHÓ KHĂN KHI TỰ MINH GỌI CẤP CỨU
Tôi không biết chính xác là tôi bị vỡ mạch máu loại nào, nhưng chỉ biết là mạch máu đang vỡ từ bán cầu não Trái và máu đang đổ ra từng khối lượng lớn. Khỉ máu tràn ngập qua vùng suy nghĩ những vấn đề phức tạp ỏ vỏ não Trái, tôi bắt đầu mất khả năng nhận thức về các sự kiện này. Tôi chỉ còn có thể nhớ được một điều là lúc bấy gio Phải làm sao đến bệnh viện càng sớm càng tốt.
Nhưng gọi cấp cứu để được đưa đến bệnh viện là cả một vấn đề. Bỏỉ vì tôi không còn khả năng tập trung ý thức vào công việc nào được nữa. Cái ý nghi “Phải gọi bệnh viện cấp cứu” cứ nhảy ra nhảy vô, lúc biến lúc hiện trong đầu tôi, khiến tôi không biết đó có Phải là “mệnh lệnh” nên làm hay không. Hai bán cầu não làm việc chung nhau bấy lâu nay như một dàn nhạc hợp tấu rất hài hòa, khiến tôi có thể sinh hoạt bình thường trong thế giới này. Nhưng bây giờ, do vì sự khác biệt phần hành giữa hai bán càu, tôi cảm thấy khả năng ngôn ngữ và tính toán của bán càu Trái không còn nữa. Tôi không còn biết số nào là số điện thoại để gọi và gọi thì sẽ nói gì. Thay vào đó, tôi lại có cảm giác “an lành” len lỏi khắp người tôi, phát sinh từ bán cầu Phải.
Không còn cái biết “theo đường thẳng” (đã qua, bây giờ, sắp tới) và sự chỉ dẫn của bán cầu não Trái, tôi như Phải vật lộn để tìm hiểu thế giới bên ngoài. Tôi không còn phân biệt điều gì là quá khứ, hiện tại hay vị lai, mà chỉ thấy tất cả là những sự kiện riêng lẻ, biệt lập trong hiện tại, chẳng dính dáng gì đến nhau. Tôi cố gắng trong tuyệt vọng để lập lại sự hiểu biết thường ngày, để nối kết những sự kiện rời rạc thành một chuỗi tiến trình có ý nghĩa. Trong đầu lúc này tôi chỉ còn lặp đi lặp lại ý nghĩ: ‘Tôi đang cố gắng làm gì đây? Gọi cấp cứu! Tôi đang thảo một phương án gọi cấp cứu! Tôi đang làm gì đây?
Tôi Phải soạn cho được một kế hoạch gọi cấp cứu. Được rồi. Tôi Phải gọi cấp cứu”. Trước buôi sáng bị xuất huyết não này, bộ óc tôi biết phân loại, sắp xếp các dữ kiện đưa vào từ bên ngoài như sau: Tưỏng tượng như tôi đang ngồi giữa bộ óc với những tủ đựng “hồ sơ” xếp thành hàng dài. Khi tôi muốn tìm một ý nghĩ, ý tưỏng, hay một điều gì trong quá khứ, tôi sẽ nhìn qua các tủ “hò sơ” xem nó nằm ngăn nào. Khi đã tìm đúng tủ rồi, thì tôi biết tất cả “dữ kiện“ đều nằm trong đó và mỏ ra sử dụng. Nếu nhìn lần đầu mà không thấy ngăn tủ muốn tìm, tôi sẽ lặp lại lần nữa cho đến khỉ có mới thôi.
Nhưng buổi sáng này thì khác. Các ngăn đựng “hồ sơ” như bị đóng chặt và bị đẩy xa ra khỏ sự kiểm soát của tầm tay tôi. Tôi biết tất cả kiến thức của tôi nằm trong đó, nhưng không phân biệt được chúng đang ỏ ngăn nào. Tôi không biết làm sao nối kết lại với khả năng ngôn ngữ, kiến thức về đời sống, về những năm dài học hỏi. Tự nhiên tôi hơi buồn vì không biết mình có thể trỏ lại bình thường đượckhông.
Không còn khả năng ngôn ngữ và sự phân định thời gian, tôi như bị tách ròi khỏ cuộc sống và mọi sinh hoạt bình thường. Không còn ký ức, không còn khả năng phân tích và phê phán của não thùy Trái, tôi như người mà đầu óc bị che phủ bỏi một màn đen lớn, không biết mình là ai và có mặt trong đời này để làm gì!
Trong khi đó, nhịp máu đập ỏ đầu vẫn tiếp tục như búa bổ.
Và bây giờ, khi không còn liên hệ được với mọi vật quanh mình nữa, tôi có cảm tưỏng thân xác tôi đã tan chảy ra như chất loảng và hòa vào vũ trụ mênh mông.
Khi sự xuất huyết càng lúc càng trầm trọng thì sinh hoạt của não thùy Trái cũng ngừng bặt. Tôi không còn nhận thức gì được về các chi tiết và sự phân loại dữ kiện bên ngoài. Bán cầu não Phải giò không còn bị bán cầu não Trái chi phối nữa, nên đã tự do hoạt động. Như được giải thoát khỏi những lo âu, toan tính, phân tích, phê phán hằng ngày, bán cầu não Phải đã đưa nhận thức tôi đến một vùng trời kỳ diệu của làn sóng ngắn “theta", và tôi cảm thấy an lạc vô cùng.
Tôi không Phải là Phật tử và cũng không biết gì về Phật pháp, nhưng tôi có cảm tưỏng là tôi đã đạt tới cảnh giới mà người Phật giáo gọi là Niết Bàn, nơi mà tâm ý không còn bận rộn và mơ ước một điều gì nữa. Nơi đây, cảm giác của tôi là không còn toan tính, tranh đua, hơn thiệt; mà chỉ thấy thật thanh tịnh, bình an, đủ đầy phước báu và hòa làm một với vạn vật. Và hiển nhiên, một phần của con người tôi đang thích thú với cảm giác này. Nhưng còn phần khác trong tâm thức vẫn thúc giục tôi Phải kêu gọi cấp cứu vì cảm giác đau nhức ỏ đầu vẫn còn dữ dội. Nhờ sự thôi thúc không ngừng này mà cuối cùng tôi đã được giải cứu.
Tại sao tôi không nhấc điện thoại lên và gọi số cấp cứu 9-1-1 ? Vì phần não Trái liên hệ tới những con số đã bị máu tràn ngập. Các tế bào ỏ đây đã bị ngập máu nên ý niệm về con số đã không còn hiện hữu. Tại sao tôi không khập khểnh bước ra đường, ngoắc một người lạ và nhờ họ gọi cấp cứu ? Ý tưỏng này không thể có được vì não thùy Trái đã bị tê liệt. Trong tình trạng bất lực này, tôi chỉ còn một ý tưỏng mơ hồ là Phải làm sao để gọi cấp cứu!
Những gì tôi có thể làm bấy giò là ngồi đó và đợi, ngồi kiên nhẫn với cái điện thoại bên cạnh và kiên nhẵn trong im lặng. Tôi ngồi đó một mình cô đơn trong ngôi nhà rộng với những ý tưỏng lạ lùng xâm chiếm tôi. Chúng thoắt hiện thoắt biến như trêu chọc. Tôi ngồi đó đợi chờ một giây phút tâm trí trỏ lại rõ ràng hơn, để tôi có thể nối kết hai ý nghĩ thành ý tưỏng cụ thể để có thể thực hiện kế hoạch cấp cứu. Tôi vẫn tiếp tục im lặng và tự hỏi “Tôi đang làm gì? Gọi cấp cứu. Gọi cấp cứu. Tôi đang cố gắng gọi cấp cứu đây!
Trong hi vọng đợi chờ phút “tâm trí rõ ràng” sẽ đến, tôi để cái điện thoại trên bàn viết trước mặt và chăm chăm nqó vào các con số. Ránn nhớ lại xem Phải gọi những số nào. Tôi cảm thấy não Trái tôi trống không và trên đầu rất đau khỉ tôi chăm chú muốn tìm cách nhớ lại. Mạch máu bên đầu gỉụt liên hồi... “Chúa ơi! Con đau đầu quá!”.
Thình lình, một số điện thoại loáng hiện lên. Đó là số của Mẹ tôi. Tôi mừng run vì đã có thể nhớ được số của bà. Thật là tuyệt diệu vì trí tôi đã có thể nhớ được số điện thoại, mà còn biết là của ai nữa. Nhưng cũng thật là vô dụng trong tình trạng khẩn cấp này. Nhà mẹ tôi cách đây mấy tiểu bang và xa hơn ngàn dặm; gọi bà vào lúc này và nói rằng tôi bị xuất huyết não, thì chắc bà Phải ngã ra bất tỉnh. ‘
Tôi Phải tìm ra một kế hoạch nào khác!”. Rồi tôi nhớ đến văn phòng tôi ỏ trường Harvard. Phải rồi, tôi đã làm việc ỏ phòng Nghiên cúu Não bộ của Đại học Harvard từ nhiều năm. Những khỉ đi khắp các tiểu bang diễn thuyết và kêu gọi mọi người hãy đóng góp bộ óc người chết cho Ngân hàng Não ỏ đây để dùng vào việc nghiên cứu, thì tôi bảo họ cứ gọi số miễn phí 1-800-... của trường. Nhưng buổi sáng này tôi không thể nhớ được gì rõ ràng cả! Tôi chỉ mơ hồ biết tôi là ai và đang muốn làm gì. Một màn sương phủ kín trí óc tôi. Tôi cố gắng nhớ số điện thoại văn phòng. “Tôi Phải gọi bạn ỏ văn phòng. Nhưng... số mấy?”.
Nơi làm việc, muốn liên lạc với nhau không bao giờ Phải gọi nguyên số. Chỉ càn bấm 4 con số chót. Thành ra trong bộ nhớ của óc tôi không bao giờ có nguyên số điện thoại của bất kỳ đồng nghiệp nào. Bỗng tôi nhận ra các danh thiếp để trên bàn. Ò, đây là danh thiếp của trường Harvard, vì nó có dấu hiệu đặc biệt. Cầm lên, tôi biết là danh thiếp của người bạn mà văn phòng sát bên tôi. Nhưng tôi không đọc được số điện thoại. Các con số bây giò, dưới mắt tôi, chỉ là những vệt đen vô nghĩa. Tên của người bạn, giáo sư tiến sĩ Stephen Vincent, cũng vậy. Tôi không còn khả năng nhận diện chữ nghĩa nữa.
Cuối cùng, sau gần một tiếng đồng hồ cố gắng trong mệt mỏi và đau nhức, với những chớp lóe sáng ngắn ngủi trong đàu, tôi đã bấm được mấy số trên điện thoại mà có hình dạng giống như số trên danh thiếp. Cầm ống nghe lên tai, tiếng nói quen thuộc của Vincent - đồng nghiệp ngồi sát văn phòng tôi - sao nghe như tiếng của một con dã nhân, tôi không hiểu gì cả. Và tôi cũng lên tiếng, nhưng không ra
tiếng.
Tôi cố dùng hết hơi sức từ trong buồng phổi hét lớn: “Tôi là Jillẽ Tôi cần giúp đỡ”, Về sau, Vincent kể lại là anh ta cũng chẳng nghe tôi nói được gì, chỉ nghe tiếng “gầm gừ‘ của dã thú; nhưng Vincent nhận ra giọng của tôi và thấy tôi trể hơn nửa giờ rồi, biết là tôi có chuyện nên đã vội mang xe đến đón. Thì ra tôi đã không còn khả năng ngôn ngữ đọc, viết, nói... gì nữa, sau khi các tế bào não Trái bị tràn ngập trong vũng máu. Nhờ vào não bộ Phải, tuy tôi không hiểu Vincent nói gì, nhưng nghe ra “cách nói” nhẹ nhàng và quan tâm của anh, tôi yên trí anh hiểu tôi nói gì và sẽ đến giúp. Cho nên lúc ấy tôi thấy an tâm. Tôi đã làm hết sức mình một công tác thật “khó khăn” và tôi đả thành công.
CHƯƠNG 5
KHI BÁN CẦU NÃO TRÁI NGỪNG HOẠT ĐỘNG
Trong lúc ngồi chờ bạn đồng nghiệp đến chỏ đỉ bệnh viện, tôi chợt nhớ là Phải gọi bác sĩ gia đình. Tôi ít khi đi bác sĩ vì tình trạng sức khỏe-quá tốt và cũng vì tôi rất bận rộn. Bây giờ Phải báo cho bác sĩ của tôi biết là tôi Phải vào “cấp cứu”. Tôi mới đi bác sĩ cách đây 6 tháng, nên danh thiếp vẫn còn trong xấp trên bàn viết và vì cái dấu hiệu Harvard rất dễ nhớ. Dễ nhớ, nhưng không Phải dễ tìm. Tôi quên là tôi không còn khả năng phân biệt chữ nghĩa hoặc con số. Tôi nhìn mãi các danh thiếp nhưng không thể chọn ra tấm nào là của bác sĩ tôi.
Tất cả chữ nghĩa và con số trên danh thiếp chỉ còn là những chấm đen dưới mắt tôi bấy giờ. Chán nản lẫn hãi hùng, tôi nhận ra là khả năng tiếp xúc với ngoại vật của tôi đã tồi tệ hơn tôi tưỏng. Mắt tôi không còn phân biệt được hình dáng và màu sắc của mọi vật thể xung quanh. Ngay cả thân thể tôi, tôi cũng không phân biệt nó là thể đặc hay thể lỏng, nên không còn dám di động từ chỗ này sang chỗ khác. Và trí nhớ dài hạn hay ngắn hạn cũng không còn. Thật là một công việc đáng sợ khi Phải chỉ ngồi yên đó với một đầu óc im vắng, trống không như lặng chết, trong tay cầm một xấp danh thiếp và cố gắng nhớ xem mình Phải làm gì! “Tôi là ai? Tôi đang làm gì đây?” là câu hỏ không có câu trả lời, bỏi đầu óc không còn hiểu được thực trạng của ngoại cảnh. Và tôi cũng mất đi cảm giác Phải gấp rút tới bệnh viện.
Nhưng cũng kỳ lạ thay, phần tiền đình của não bộ Trái vẫn còn giữ được ý tưỏng là tôi Phải đến bệnh viện. Cơn đau nhói trẻn đầu thỉnh thoảng đưa lại những giây phút “sáng suốt” khiến tôi nối kết được với thực tại, biết Phải làm gì và làm thế nào. Cuối cùng, tôi đã lựa ra được tấm danh thiếp của bác sĩ riêng nhờ vào dấu hiệu trường Harvard ỉn trên góc Trái. Ở thời điểm này, cái ý nghĩ “nói chuyện qua điện thoại” cho tôi cảm giác thật là kỳ lạ. Sao mà khó hiểu quá vậy? Làm sao mà chỉ bấm vào mấv con số. mà môt người ngồi ỏ đâv lai có thể nói chuyện với một người ỏ xa trong một không gian khác biệt? Và người này nói mà người kia nghe và hiểu?
Vi tôi sợ sẽ mất sự chú ý về công việc đang làm, tôi đẩy xấp danh thiếp qua một bên. Não bộ tôi đang đi dần vào sự phân hóa trầm trọng, sự hiện hữu của các con số trước mắt tôi dàn trỏ nên kỳ lạ như chưa tùng thấy bao giờ. Tôi ngồi đó, im lặng, thần trí như tỉnh như mê. Tôi nhìn nhũng con số lạ lùng trên danh thiếp và trên điện thoại, rồi cố gắng bấm đều đặn từng con số ngoằn ngoèo trên danh thiếp
giống với con số ngoằn ngoèo trên điện thoại. Tôi Phải lấy ngón tay trỏ của bàn tay Trái che lại những số vừa bấm xong, để ngón tay trỏ của bàn tay xụi bên Phải không lẫn lộn. Tôi Phải làm như vậy vì không còn nhớ được cái gì mới vừa làm. Cảm giác mệt mỏi vì đã làm một việc quá sức khó, tôi còn lo âu là tôi sẽ quên mát mình đang muốn làm gì. Tôi Phải lặp đi lặp lại trong đầu: “Đây là Jill Taylor. Tôi đang bị xuất huyết não.
Đây là Jill Taylor. Tôi đang bị xuất huyết não”. Nhưng khi điện thoại đàu kia reo và tôi cố gắng lên tiếng, tôi chết điếng cả ngưòỉ khi khám phá ra tôi không còn nói được. Tôi vẫn nghe được câu tôi muốn nói vang lên trong đàu, nhưng thực tế âm thanh không phát ra ỏ miệng vì thanh quản đã không còn làm việc. Ngay cả tiếng ồ ồ như dã nhân mà tôi đã gọi bạn đồng nghiệp mới đây, cũng không còn. “Chúa ơi! Con không thể nói. Con không thể nói nữa”. Sợ đầu dây kia nghĩ rằng đây là có người gọi “phá đám” và họ sẽ gác máy, tôi vội cố hết sức bình sinh từ buồng phổi, hét lên: “Đừng gác máy; xin đừng gác máy”. Thì tôi chỉ nghe được: “Uhhhh, ahhh, thhhhhhh, thhhhììzzzzăa...”.
Nhưng rồi điện thoại cũng được chuyển cho bác sĩ. Cũng may, bác sĩ của tôi mới vào tới văn phòng. Nghe một hồi, bà cũng đoán được tình trạng của tôi, nên đã bảo tôi đi đến bệnh viện Mount Auburn. Nhưng tôi nghe mà không hiểu được gì. Bà Phải ôn tồn kiên nhẫn lặp lại thật chậm mấy lần, tôi mới hiểu. Thì ra, khi nghe tiếng nói của ngưòi khác, tôi không còn khả năng phân biệt được âm thanh và nghĩa lý của âm thanh.
Tôi có cảm giác càng lúc tôi càng không thể liên lạc được với thế giới bên ngoài. Lần đầu tiên, tôi nhận ra mình không Phải là không thể bệnh, là “bất tử’. Không Phải như cái máy vi tính bị “yếu” hay “chậm” thì tắt nó đi, rồi “mỏ”trỏ lại thì nó sẽ mạnh và nhanh hơn. Tôi nhận ra con người sống không Phải chỉ nhờ các tế bào cơ thể khỏe mạnh, mà còn Phải có bộ óc với các tế bào thần kinh liên lạc với nhau một cách thích hợp và hữu hiệu.
Bây giờ thì tôi cảm thấy cái chết đã gần kề. Mặc dầu não bộ bên Phải cho tôi cảm giác an lành vô hạn, tôi thực sự chưa muốn chết. Tôi vẫn cố gắng trong tuyệt vọng nắm giữ những gì còn cung cấp được cho tôi từ não thùy Trái. Tôi biết hiện trạng đã làm tôi không còn là người bình thường. Ý thức của tôi đã trỏ nên mơ hồ, không còn khả năng phân biệt, phân tích và phán đoán những dữ kiện xảy ra chung quanh. Không còn sự vận hành của não thùy Trái để nhận biết ra tôi là một cá nhân với hệ thống sinh học đặc biệt gồm những cơ phận riêng lẻ kết hợp, não thùy Phải đã tự do đưa tôi vào một vùng tâm thức “bình an và vui tươi” chưa bao giò được biết.
Trong khi ngồi im lặng nghĩ đến cái chết trong an lạc, tôi tự hỏ mình có thể trỏ nên bất lực đến mức độ nào khi bộ óc Trái bị hư hại đến không thể cứu vãn được. Tôi thử ước đoán có bao nhiêu mạch thần kỉnh đã bị hư hỏng, ảnh hưỏng đến phần trí tuệ cấp “cao” và liệu có hi vọng gì thiết lập chúng lại. Tôi không muốn bao năm đã bỏ công ra ăn học đến trình độ này, rồi bỗng dưng Phải chết ỏ cái tuổi đời rất trẻ, hoặc bị liệt bại trí năng thành người vô dụng. Nghĩ đến đây, tôi gục đầu vào tay và bật khóc. Rồi tôi cầu nguyện thầm thì trong tâm,
“Lạy Chúa, đừng bắt con chết; đừng để con chết!...”. Trong sự ỉm vắng vô cùng đó, tôi nghe văng vẳng lời khuyên, “Hãy bình tĩnh; yên lặng, và chờ đợi...”. Tôi thấy an ổn trong tâm hơn.
Ngồi trong phòng khách chò bạn đến cứu mà tôi tưỏng như vô tận. Nhưng rồi anh bạn cũng đến. Tôi không nói được gì, chỉ dùng tay Trái đưa ra tấm danh thiếp bác sĩ gia đinh. Anh gọi ngay bác sĩ để hiểu rõ lời chỉ dẳn, rồi chỏ tôi gấp tới bệnh viện Mount Auburn.
Sau một hồi chậm chạp để điền giấy tò theo thủ tục, tôi được đưa di chụp hình bộ óc. Bấy giờ tôi vẫn còn tỉnh đôi chút để nghe được kết quả đúng như tôi đã tự chẩn đoán lúc ỏ nhà, là tôi đã bị một loại tai biến đứt mạch máu rất ít khi xảy ra, ỏ não thùy Trái, khiến não thùy này hiện đang bị tràn ngập trong vũng máu. Tôi được cho uống sơ khởi một thứ thuốc cầm máu và chống sưng, rồi được bỏ lên xe cấp cứu đưa sang bệnh viện lớn chuyên khoa gần bên.
Tôi còn nhớ được người y tá theo xe lo cho tôi rất tận tình với tấm lòng của người lương y. Anh ta sửa lại chiếc mền đắp cho tôi ấm và che bớt ánh sáng cho tôi không bị nhức mắt. Anh lại vỗ nhẹ vai tôi và an ủi, “Cô không sao, không sao đâu!”. Những cử chỉ này thật quý giá đối với bệnh nhân trong tình trạng nguy cấp.
Sau đó, hình như tôi đã mê man. Tôi đã thoát khỏ mọi lo âu, phiền muộn.
Chuyên chết sống bây giò là chuyện của bệnh viện và các bác sĩ chuyên khoa ỏ đó. Tôi đã làm hết mọi sự tôi có thể làm. Tôi chỉ biết rằng suốt buổi sáng này tôi đã chứng kiến từng giai đoạn suy thoái của cơ thể và các mạch thần kinh ỏ não bộ Trái của tôi.
Trong suốt 37 năm nay, lúc nào tôi cũng vui vẻ và hãnh diện vì các DNA của tôi đã tinh vi sắp xếp cho tôi có một cơ thể khỏe mạnh, lỉnh hoạt và đầy sức sống. Nhưng giờ thì hình như các mạch năng lực của khối tế bào cơ thể đang sắp dừng hoạt động. Sáng hôm nay, trước trưa ngày 10 tháng 12 năm 1996, các dòng điện trong cơ thể tôi như tắt dàn. Khi cảm thấy năng lượng thoát ra từng khối lớn khỏi cơ thể, thì ý thức của tôi cũng dần dần không còn điều động hay liên hệ gì được với các giác quan và tứ chi. Tôi biết tôi không còn là người đạo diễn của cái thân thể này nữa. Chung quanh tôi bây giò trỏ nên thật im lặng. Trong cái vắng bặt của hình ảnh, âm thanh, mùi vị và cảm giác, tôi không còn chút gì lo sợ và đau đớn nữa. Và cũng như phần lớn mọi người sắp chết, tôi ước ao được tỉnh táo trỏ lại để được chứng kiến mình về đâu trong sự chuyển tiếp trọng đại này.
CHƯƠNG 6
CHỈ CÒN NÃO TRÁI HOẠT ĐỘNG
Đến bệnh viện chuyên khoa, tôi được đưa vào trung tâm cấp cứu mà nơi đó ồn ào như một tổ ong khổng lo. Thân thể tôi đã trỏ nên nặng nề và bất động. Nó đã mất hết tất cả nội lực, giống như cái bong bóng xì hơi và xẹp hẳn. Nhân viên bệnh viện bu quanh tôi. Ánh đèn chói chang và âm thanh ồn ào đã làm cho thân tôi đau đớn như bị một đám côn đồ hành hạ. Tôi như đã gần chết mà họ cứ hỏi những câu tôi không hơi sức đâu để trả lời. Mà ví tôi có muốn trả lời, họ cũng không thể nghe và hiểu được.
‘Điền những câu trả lời vào bản này; cầm và bóp Trái banh này; ký tên vào đây...”. Họ bảo với tôi như vậy khi tôi đang nửa tỉnh nửa mê. Và tôi đã nghĩ, “Thật là vô lý. Các người không thấy tôi đang gần chết rồi đây hay sao? Hãy chậm chậm với tôi và hãy kiên nhẫn một chút. Các người làm đau tôi quá”. Họ càng cố mạnh tay để làm cho tôi tỉnh lại thì tôi càng ráng trốn sâu vào nội tâm để tránh sự thô bạo của họ. Tôi cảm giác như bị họ nắn bóp, đâm, chém, và đau đớn như một con đĩa bị rắc vôi. Tôi muốn la lên, “Hãy để tôi yên!” nhưng tiếng la không thoát được ra khỏi cửa miệng. Rồi tôi bất tỉnh, như một con vật bị thương đã tuyệt vọng thoát ra khỏi những bàn tay đang cấu xé nó.
Khi tôi tỉnh dậy một lúc sau bữa trưa hôm đó, tôi rất ngạc nhiên thấy mình vẫn còn sống. (Tôi cảm thấy vô cùng biết ơn các bác sĩ và y tá đã hết sức cứu tôi sống lại, mặc dù không ai biết làm sao tôi có thể hồi phục và hồi phục tới mức độ nào.) Tôi đang mặc áo của nhà thương và nằm ỏ phòng riêng. Vì không còn chút hơi sức nào, tôi nằm như một đống sắt vụn nặng nề không thể nhúc nhích. Tôi không
cảm nhận được thân thể tôi dài ngắn tới đâu. Vì không còn ý niệm về không gian ba chiều, tôi tưỏng như tôi bao trùm cả vũ trụ. Nhịp máu trên đầu vẫn còn làm tôi đau như búa bổ. Mỗi hơi thỏ hít vào như cực hình ỏ be sườn.
Còn ánh đèn chói vào mắt thì như lửa đốt trong bộ óc. Không thể kêu với ai, vì không nói được, để tắt bớt ánh sáng, tôi trỏ mình một cách khó khăn úp mặt vào tấm trải giường. Tôi không nghe được gì ngoài nhíp tim đều đặn. Những nhịp tim này mạnh và lớn đến nỗi làm bộ xương rung động theo và nhức nhối các thớ thịt. Tôi muốn oà khóc như một đứa bé sơ sinh thình lình Phải tiếp xúc với một môi trường hỗn tạp. Không còn khả năng nhận biết mình là ai, quá khứ đã làm gì và hiện tại ra sao, tôi như đứa trẻ trong cơ thể một người lớn. Chỉ vì não thùy Trái của tôi không còn hoạt động!
Rồi có hai chuyên viên bước vào phòng. Họ xì xào những gì thì tôi không thể hiểu. Nhưng nhìn cách họ nói với các điệu bộ thì tôi biết tình hình của tôi thật nghiêm trọng. Vói những tấm ảnh chụp não bộ của tôi có cái lổ hổng trắng khổng lồ ỏ giữa não, không cần Phải là một tiến sĩ chuyên môn về giải phẩu não bộ cũng biết rằng lổ hổng kia không nên có ỏ vị trí đó.
Bộ óc Trái của tôi như vậy là đã bị máu tràn ngập và nguyên cả não bộ sưng lên vì đã bị thương. Trong ỉm lặng, tôi cầu nguyện: “Tôi không nên ỏ lại đây lâu hơn nữa! Tôi buông bỏ tất cả! Sức sống của tôi không còn và sự sống của tôi cũng đã ra đi. Thật là không Phải khi tôi còn quyến luyến ỏ lại đây. Lạy Chúa toàn năng, con bây giò đã là Một cùng với vũ trụ. Con đã hòa đồng với dòng sông Vĩnh cữu tới mức độ không thể trỏ lại đòi sống này được nữa. Vậy mà con hãy còn bị ràng buộc ỏ đây. Bộ óc mong manh của cái thùng chứa sinh học này đã hư hỏng và không còn thích hợp cho một cá thể thông minh nữa! Con không còn thích hợp ỏ lạỉ đây!”.
Không còn bị ràng buộc tình cảm vói bất cứ người nào và vật gì xung quanh, tiềm thức của tôi đã tự do trôi theo dòng sông An lạc. “Thả tôi ra. Để tôi đi. Tôi buông bỏ tất cả!”. Tôi muốn chạy trốn khỏ cái thân xác đau đón và rối loạn vận hành này. Trong một thóang, tôi cảm thấy hết sức tuyệt vọng rằng mình đã còn sống sót. Toàn thân tôi bây giờ lạnh ngắt, nặng nề và đau đớn vô cùng. Những mệnh lệnh từ bộ óc đến thân thể đã không còn hữu hiệu đến nỗi tôi không còn nhận ra hình thể vật chất của tôi.
Tôi có cảm giác tôi là một sinh vật bằng điện mà có một bộ phận bị chạm mạch nên bốc khói và tan chảy. Tôi trỏ thành vật phế thải, bị bỏ qua một bên. Nhưng tôi vẵn còn ý thức. Ý thức này khác với cái ý thức tôi biết trước kla. Bỏi vì cái ý thức trước kia giúp tôi biết được thế giới bên ngoài. Những chi tiết này được sắp xếp và cất giữ trong các mạch điện của não bộ. Bây giờ các mạch điện đó ngừng hoạt động, tôi trỏ nên bất động và vụng v'ê với cái ý thức mới. Làm sao tôi có thể là tiến sĩ Jill Taylor khi tôi không biết cô ta là ai, đã làm gì, kiến thức ra sao và ưa thích những gì trong cuộc sống này?
Tôi còn nhớ ngày đầu tiên bị xuất huyết não với nỗi hãi hùng cay đắng nhưng ngọt ngào. Khi não thùy Trái không còn hoạt động bình thường được nữa, tôi mất đi ý thức về giới hạn của thân thể vật chất. Tôi cảm thấy mình như vị thân trong cổ tích, bị nhốt ngàn năm trong lọ nhỏ, vừa thoát ra khỏi lọ và lớn trùm trong không gian.
Năng lượng tỉnh thàn thoát ra khỏi thân xác, ò ạt như con cá voi khổng lồ đang lướt nhanh trên mặt đại dương với sức sống mãnh liệt. Khi cơ thể vật chất không còn giới hạn, tôi cảm thấy một niềm an vui trùm khắp mà tôi chưa từng thấy trong đòi. Và với tâm thức đang cuồn cuộn trong dòng chảy an lành và thanh tịnh đó, tôi thấy rõ ràng là không làm sao tôi có thể bắt ép cái khối năng lượng lớn lao này quay trỏ lại vào tấm thân nhỏ bé của tôi. Được vào cảnh giới Cực Lạc là một sự trốn chạy tuyệt vời của tôi khi não Trái bị tàn phá. Tôi như đang hiện hữu ỏ một vùng trời thật xa lạ - xa lạ hẳn vói những thông tin mà tôi được biết lâu nay. Một điều rất rõ ràng là trong thế giới này, cái
“Tôi” không còn nữa! Cái “Tôi” mà tôi được dạy dỗ Phải giữ gìn và trau chuốt từ bé đến lớn, đã không còn sống sót sau tai họa xuất huyết. Tôi cũng biết là tiến sĩ Jill Taylor đã chết vào buổi sáng xuất huyết não này rồi. Vậy ai còn sống sót?
Không còn cái Trung tâm ngôn ngữ ỏ bán cầu Trái bảo “Tôi là tiến sĩ Taylor, là nhà nghiên cứu tế bào não bộ; tôi ỏ địa chỉ này và có thể liên lạc bằng số điện thoại này...”, tôi thấy mình không có bổn phận đóng vai cô ta nữa. Điều này cũng thật kỳ lạ về mặt cảm giác; nhưng bỏi vì không còn mạch thần kinh nào nói cho tôi biết cô ấy tính tình thế nào, ưa gì, ghét gì, cái Ngã của cô ra sao, có hay chỉ trích, phê bình người khác không? Tôi thật không có chút ý niệm gì về cô ấy cả! Lại thêm, trên thực tế, với những thiệt hại lớn lao về mặt sinh học - một nửa bộ óc đã không còn hoạt động- tôi càng không nên bắt chước giữ vai trò cô ta. Cô tiến sĩ Jill Taylor thực sự không còn hiện hữu. Tôi đã không biết gì về cuộc đòi cô,những liên hệ bạn bè, việc làm, thành công, thất bại của cô thì làm sao tôi đóng vai cô được?
\
Mặc dù tôi buồn rầu về cái chết của não thùy Trái và về cô gái đó, hiện tại tôi cảm thấy được giải thoát và rất nhẹ lòng. Được biết cô tiến sĩ Taylor đã lớn lên trong nhiều phiền muộn, sân hận và cả một đời mang theo những mối hỉ nộ mà chắc cô phải tốn kém rất nhiều năng lượng để nuôi dưỡng chúng! Cô đã nhiệt tình trong công việc, với lý tưỏng và rất năng động. Nhưng dù cô có dễ thương hay đáng kính, trong cái hình hài hiện tại của tôi, tôi không thể tiếp tục cuộc sống như cô.
Tôi đã không còn nhớ đến người anh bệnh hoạn, đến cha mẹ tôi đã ly dị từ lâu và những công việc làm đã mang lại cho tôi rất nhiều ưu tư và áp lực. Tóm lại là tôi không còn chút trí nhó nào về quá khứ. Tôi cảm thấy vừa giải thoát, vừa an lạc.
Trong suốt cuộc đời 37 năm qua, hình như lúc nào tôi cũng nhiệt tình lo làm đủ mọi thứ việc, mà thứ nào cũng phải hoàn tất theo hạn kỳ. Trong ngày đặc biệt hôm nay, lần đầu tiên tôi học được ý nghĩa của bài học về sự sống: Chỉ là đơn giản... sống!
Khi não thùy Trái không còn làm việc và trung tâm ngôn ngữ đã đóng, đồng hồ sinh học trong tôi cũng ngừng. Thời gian không còn được phân chia ra từng giờ phút ngắn ngủi nữa. Thòi gian với tôi bây giờ là thời gian “mỏ“, không có kỳ hạn; nên tôi không còn phải gấp gáp cho việc gì cả. Tương tự như dạo chơi trên bãi biển hay chỉ thơ thẩn ngoài vườn hoa, tôi bây giờ đổi từ ý thức phải làm đúng giờ theo thời biểu đã định của não thùy Trái, thành ý thức chỉ “là” sống, “là” hiện hữu của não thùy Phải. Tôi siêu việt chính mình từ cảm thấy nhỏ nhoi và biệt lập sang vĩ đại và hòa đồng với vũ trụ. Tôi không còn suy nghĩ bằng ngôn ngữ, lo lắng về quá khứ hay tương lai; mà chỉ còn khả năng hiểu biết bằng hình ảnh trong hiện tại, ỏ đây và bây giờ. Và cái hiện tại, ỏ đây và bây giò... luôn luôn đẹp vô cùng!
Khi tôi không còn thấy mình là một vật thể cứng rắn, có hình dáng cô' định, một đơn vị sinh học riêng biệt với các hữu thể chung quanh, thì tất cả ý niệm về cái “Tôi” cũng hoàn toàn biến mất. Về phương diện sinh học, ỏ trình độ hiểu biết sơ đẳng nhất, con người chỉ là một hiện hữu có dạng chất lỏng.
Thật vậy, tôi là một chất lỏng! Mọi thứ chung quanh chúng ta, giữa chúng ta, trong chúng ta, về chúng ta, hay chính bản thân ta đi nữa...đều chỉ là những nguyên tử và phân tử của những chát lỏng đang rung động trong không gian. Vậy thì cái “Tôi”, cái “Ngã” của chúng ta nằm ỏ chỗ nào? Mặc dù trung tâm ngôn ngữ ỏ não thùy Trái thích định nghĩa “ngã” là TỒI, một cá nhân riêng biệt, một khối đặc và cụ thể, nhưng người có học nào cũng biết chúng ta đều được hình thành như nhau bằng hàng ngàn tỉ li tỉ tế bào với nước trong đó và tất cả chúng ta đang “là” trong sự rung động không ngừng với tần số cực kỳ nhanh.
Não bộ Trái của tôi đã được huấn luyện từ bao nhiêu năm để sản sinh ra một nhận thức rằng tôi là một cá thể cứng rắn, độc nhất và khác biệt với mọi người. Bây giờ, bỏ đi sự kiểm soát của các mạch thần kinh ỏ não bộ Trái, não bộ Phải được tự do sinh hoạt theo cách nhìn của chân lý vĩnh cữu. Tôi nhận ra mình không phải là một sinh vật nhỏ bé, riêng biệt và cô độc. Tôi không phải hiện hữu độc lập mà là “liên lập” với mọi người. Tâm hồn tôi mỏ lớn ra cùng vũ trụ và bay lượn vui tươi trong khắp biển tròi tự do. Đối với nhiều người, cái ý tưỏng cá nhân chúng ta chỉ là hợp chất lỏng, bỏ vào bình chứa hình gì sẽ ra dạng đó và tâm hồn chúng ta rộng lớn như vũ trụ... làm cho cảm thấy không được “yên ổn”. Chỉ vì ý thức từ não bộ Trái và giáo dục sai lầm đã tạo ra.
Nhưng rõ ràng khoa học đã chứng minh rằng mỗi con người chúng ta là do tỉ tỉ nguyên tử vật chát hợp lại và nhẹ nhàng rung động. Chúng ta được kết hợp bằng hàng tỉ túi nhỏ đầy chất lỏng trong một thế giới chất lỏng và ỏ đó tất cả đều hiện hữu trong sự rung động. Các hiện hữu có khác nhau chỉ do mật độ tập hợp phân bào khác nhau. Nhưng nói chung thì tất cả đều là tập hợp của âm điện tử, dương điện tử, trung hòa tử... hài hòa trong một vũ điệu tuyệt vời. Giữa bạn và tôi, và cả khoảng cách không gian nữa, dù là một phần nhỏ đến đâu, cũng chỉ là nguyên tử vật chất và năng lượng mà thôi. Tan ra là năng lượng, hợp lại là nguyên tử vật chất.
Thật sự mắt tôi không còn “thấy” các sự vật rời rạc nữa, mà là thấy năng lượng của các vật thể quyện lẫn vào nhau, tương tự như những tranh vẽ của trường phái Ấn Tượng. Tâm thức tôi lúc này thật tỉnh táo và tôi nhìn thấy mọi hiện hữu đều có năng lượng quyện lấy nhau, di động cùng nhau như cùng chảy trong một dòng sông. Tôi không còn nhận ra vật thể có ba chiều trong không gian và cũng không phân biệt màu sắc nữa. Ngay cả khi nhìn con người, tôi chỉ thấy họ là những khối năng lượng di động không màu sắc, dù họ có mặc y phục nhiều màu.
Những ngày trước kia, trước buổi sáng này, khỉ tôi còn hiểu con người là một vật thể rần, tôi có khả năng cảm thấy đau buồn vì mất mát, hoặc về thể chát - chết hay bị thương, hoặc về tình cảm - thiệt thòi hay mất mát. Bây giờ chỉ còn não thùy Phải hoạt động, tôi không còn thấy đau buồn hay mất mát gì cả. Mà thấy tất cả chỉ là sự chuyển đổi từ vật chất ra năng lượng, chứ nào có mất mát đi đâu. Cho nên hiện tại dù bị thương nặng ỏ đầu, một cảm giác không thể quên được đã xâm chiếm hồn tôi là sự bình an cùng cực. Vì vậy, tôi rất yên tâm. Nhưng rồi tôi lại nghĩ ra như vậy tôi là người “bất thường”. Làm sao tôi giải thích cho mọi người hiểu được rằng những điều tôi nói trên là sự thật...
Tôi đặc biệt chú ý đến phần bà nói về hoạt động của ÓC TRÁI & TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO VÀ SỰ PHỤC HỒI, rất chi tiết. Thưa quý vị,
Tôi rất cám ơn tất cả những vị đã dịch và chuyển đến tay tôi bài viết của bà bác sĩ thần kinh não bộ Jill Taylor, người bị tai biến mạch máu não (stroke hay AVC) năm 1996 và nay đã bình phục.
Tôi cũng đã là một nạn nhân của stroke cách đây 7 năm, nhưng ở trong số 83% (stroke ischemic, mạch máu não bị tắc), không như bà Jill Taylor trong số 17% (stroke hemorragic, mạch máo não bị vỡ).
Bài viết của bà BS Taylor đã hết sức đầy đủ cả về phương diện khoa học, lý trí đến phương diện tâm tâm lý, tâm linh. Tôi không thấy, và không dám, viết gì thêm về chuyện này. Tuy nhiên, có một số diểm, tôi không thấy nhắc đến trong chuyện này. Bởi vậy, tôi muốn trình bầy lại dưới đây để quý vị tùy nghi thẩm định:
1. Năm 1996 người ta chưa biết đến một phương thuốc mới trị stroke. Sau 2000, người ta đã tìm ra một phương thuốc để trị stroke, gọi là tPA, hay là tissue Plasmimogen Activator. Thuốc này chỉ hiệu nghiệm nếu bệnh nhân bị stroke được chữa trị trong vòng 3 hay 3 tiếng rưỡi đồng hồ mà thôi. Gần như khỏi hẳn. Sau đó, trễ hơn, vô phương cứu chữa.
Hồi tôi bị stroke, được con cháu mang vào một nhà thương có tiếng vùng tôi ở. Nhưng tại đó, sau khi tìm ra chắc chắn là tôi bị stroke (mất khá nhiều thì giờ), họ phải chuyên chở đến một nhà thương khác. Đến nơi thì đã quá trễ. Tôi đã bị stroke với tất cả những hậu quả của stroke, gần giống như những gì tả trong bài viết của BS Taylor.
Kết luận: Những ai thấy mình có thể bị stroke, xin hãy vào ngay bệnh viện thật sớm để được chữa trị ngay trong vòng ba bốn tiếng đồng hồ bằng tPA.
2. Stroke là một bệnh có tính cách di truyền. Trong gia đình nếu thấy có người bị stroke rồi thì anh em, hoặc con cái (như gia đình tôi) rất có thể cũng sẽ bị stroke.
Kết luận: Trong trường hợp này, phải hết sức cẩn thận, trong việc ăn uống thuốc men, mục đích để giảm thiểu cholesterol, áp huyết cao, tiểu đường nay tiền-tiểu đường.., kể cả trong việc giữ gìn sức khỏe (tập thể dục, đi bộ mỗi ngày…)
3. Tôi tin rằng vận động thân thể cũng như luyện tập trí óc là một phần không thể thiếu trong việc phòng ngừa bị stroke cũng như sớm hồi phục sau khi bị stroke. Tôi có một ông anh rể, bác sĩ về thần kinh não bộ như bà Jill Taylor, năm nay đã 80 tuổi, vẫn chạy marathon, mỗi lần đến chơi, tôi thấy cầm một cuốn sách Hán Văn Tự Học, đôi khi lại đem một phương trình Vi phân và Tích phân (calcul differentiel et integral) ra hỏi chúng tôi. Anh tôi nói rằng, tuy đã có tuổi, mình vẫn phải học, học đi học lại cho trí óc dược minh mẫn khỏi bị cùn lụt đi, vẫn phải tập thể dục mỗi ngày. Thấy tôi hàng ngày lên mạng, viết “blog”, anh tôi cho rằng đó là một việt rất nên làm mặc dầu bị bà xã (em gái ông ta) quở trách.
Đó là một vài lời thô thiển để góp ý với tất cả mọi người, với lòng tri ân đến tất cả những vị đã dịch và chuyển đến tay tôi bài viết của bà bác sĩ thần kinh não bộ Jill Taylor.
P.
Xin chuyển tiếp để tham khảo kinh nghiệm được ghi lại của môt người bị TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO VÀ SỰ PHỤC HỒI, rất chi tiết.
Minhha
Gởi bạn cùng tham khảo.
TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO VÀ SỰ PHỤC HỒI
Tác Giả : TS Jill Bolte Taylor
Dịch Giả : TS Minh Tâm
Đôi Giòng Tâm Sự
Mỗi bộ óc con người đều có một câu chuyện và sau đây là câu chuyện của bộ óc tôi...Hơn mười năm trước đây, tôi là giáo sư Đại học Y Khoa Harvard, chuyên nghiên cứu và giảng dạy cho sinh viên về bộ óc của con người. Nhưng vào ngày 10 tháng 12 năm 1996, tôi đã học được bài học về não bộ từ chính bộ óc của mình.
Sáng hôm ấy, bản thân tôi đã trãi qua một dạng “đứt mạch máu não” rất ít khi có,từ bán cầu Trái của não bộ. Sự xuất huyết trầm trọng này là do một mạch máu não bất thưòng từ lúc sơ sinh đã không được khám nghiệm và cắt bỏ, nay thình lình vỡ ra. Trong bốn tiếng đồng hồ ngắn ngủi, với đôi mắt kinh nghiệm của một nhà nghiên cứu tế bào não bộ học, tôi đã chứng kiến bộ óc tôi từ từ băng hoại đến độ hoàn toàn tê liệt trong khả năng phân định các sự kiện diễn biến chung quanh. Đến cuối sáng hôm đó, tôi đã không còn có thể đi đứng, ăn nói, đọc viết hoặc nhớ lại những gì đã xảy ra từ trước trong đời. Nằm vo tròn như một thai nhi trong bụng mẹ, tôi cảm giác mình sắp chết, không còn chút hỉ vọng nào có thể sống sót để kể lại câu chuyện này cho bất kỳ ai.
Những điều cần biết về Tai biến mạch máu não là một tài liệu khoa học được ghi lại theo thứ tự thòi gian. Và cũng theo đó, từ vực thẳm vô hình của một đầu óc hoàn toàn rỗng lặng, tôi đã khám phá ra sự an tĩnh của nội tâm mà những nhà khoa học não bộ như tôi không mấy khi có dịp trãi nghiệm. Như tôi được biết, đây là tài liệu lần đầu tiên được ghi lại từ một nhà Tế bào thần kinh học, qua kinh nghiệm
bản thân mình, sau khi đã phục hồi vì một cơn xuất huyết não trầm trọng. Tôi rất vui mừng vì tập tài liệu này cuối cùng đã được in ra và phổ biến khắp thế giới để mọi người có thể biết mà chạy chữa đúng lúc và đúng cách.
Hơn tất cả mọi thứ trên đời, tôi rất biết ơn Thượng đế đã cho tôi cơ hội sống còn và ca ngợi sư hiện hữu hôm nav. Ban đầu, tôi được khuyến khích để vượt qua bạo bệnh và phục hồi là nhờ vào những người có lòng gửi cho các lá thư tràn đầy tình yêu thương vô bờ bến. Rồi qua nhiều năm, tôi vẫn kiên trì trong nỗ lực phục hồi, do vì biết bao câu hỏi gửi đến chưa được trả lời. Như một phụ nữ trẻ đã gửi thư hỏi tôi rằng: Tại sao bà mẹ của cô khi bị tai biến mạch máu não mà không thể tự mình gọi điện thoại cấp cứu, nên đã phải chết? (Người Mỹ không có thói quen khỉ con cái đã trưỏng thành mà còn ỏ chung nhà với cha mẹ.), hay một người đàn ông lớn tuổi khác, vẫn còn mãi đau buồn về cái chết của bà vợ, đã hỏi:Vì sao tai biến mạch máu não đã làm bà phai nằm mê man bất động cho đến khi qua đời?
Rồi thư của những người chăm sóc bệnh nhân tai biến não hỏ tôi về đưòng hướng và hi vọng trong sự điều trị. Cho nên tôi đã quyết tâm hoàn tất tập tài liệu này cho 700 ngàn người bị tai biến não hằng năm trong xã hội ta. Chỉ cần một người đọc chương “Buổi sáng ngày bị tai biến” để nhận diện được triệu chứng nguy cấp, rồi gọi ngay cấp cứu - gọi liền chứ không nên trễ, để cứu một mạng người – thì những công sức tôi đã bỏ ra để viết quyển sách này kể như đã được đền bù xứng đáng.
Quyển sách này đươc chia ra làm bốn Phần
I. Phần một nói về cuộc đời tôi trước khi Xuất huyết não xảy ra. Bạn sẽ biết tại sao tôi lớn lên và quyết định thành một nhà khoa học về não bộ với tràn đầy nghị lực và lý tưỏng.
Tôi rất tích cực hoạt động trong lãnh vực này. Tôi là một giáo sư khoa Não bộ học của Đại học Harvard và là thành viên trẻ tuổi nhất trong Ủy ban nghiên cứu về các bệnh thần kinh. Tôi đi khắp nước diễn thuyết về căn bệnh và cách trị liệu và kêu gọi những người bệnh khỉ qua đời thì thân nhân họ nên hiến bộ óc cho viện đại học để nghiên cứu.
II. Nếu bạn hiếu kỳ muốn biết thế nào là bị Tai biến mạch máu não thì Phần hai, “Buổi sáng ngày bị Tai biến”, là chương bạn nẽn đọc. Trong phần này, tôi sẽ dẫn bạn qua một hành trình lạ thường để bạn thấy được những suy sụp từ từ về khả năng hiểu biết - cái biết hiện tại về sự vật chung quanh và cái biết về những điều đã học hỏi trong quá khứ - của người bị Tai biến, dưới cái nhìn của một nhà khoa học. Khi não của tôi bị xuất huyết càng lúc càng nhiều thì tôi biết rằng đấy là sự mất mát và suy sụp của trí tuệ về phương diện Sinh học. Còn về phương diện Tế bào thần kỉnh học, Phải thú nhận rằng tôi đã học được rất nhiều về não bộ và sự vận hành của nó trong buổi sáng xuất huyết này, nhiều như tôi đã học hỏi trong bao năm khoa bảng. Đến cuối buổi sáng hôm ấy, ý thức của não bộ còn lại - não bộ Phải - đã đưa tôi sang một vùng nhận thức mới: tôi đã trỏ thành một với vũ trụ. Từ đó tôi mới hiểu được rằng tại sao với bộ óc vật chất này, người ta có thể đạt đến sự hiểu biết về những điều “thần bí” và “siêu hình”.
III. Nếu như bạn muốn giúp một người đã bị Tai biến não hay do một tai nạn mà bị chấn thương ỏ não bộ, thì những chương về sự phục hồi là rất cần thiết và hữu ích - trong đó có hơn 50 lời gợi ý về những điều nên và không nên làm cho ngưòi bệnh. Tôi hi vọng bạn sẽ chia sẻ kiến thức này cho mọi người chung quanh khỉ họ cần đến.
IV. Phần cuối, quyển sách cho thấy cơn Xuất huyết này đã dạy tôi những điều mới lạ về bộ óc, bạn sẽ thấy rằng quyển sách này không hoàn toàn viết về Tai biến mạch máu não. Nói cho chính xác hơn, Tai biến não chỉ là một chấn thương khiến cho những hiểu biết mới về não bộ xuất hiện.
Quyển sách này cho thấy những nét đẹp và khả năng phục hồi của não bộ con người, do khả năng nội tại của nó không ngừng thay đổi và luôn thích ứng để tồn tại. Sau rốt cuốn sách cho thấy hành trình của nhận thức thuộc bán cầu Phải của não bộ khỉ nó dẫn tôi vào cảnh giới An lành của vùng Tâm thức sâu thẳm. Tôi đã phục hồi Ý thức luận lý của bán cầu não Trái để trình bày và giúp cho người đọc
đạt đến Cảnh gioi An lành của vùng Tâm thức thâm sâu mà không cần Phải trải qua một cơn xuất huyết não như tôi. Hy vọng độc giả sẽ hài lòng trong cuộc du hành trí thức này.
CHƯƠNG 1
ĐỜI SỐNG CỦA TÁC GIẢ TRUÓC KHI TAI BIẾN NÃO
Tôi là nhà nghiên cứu tế bào não bộ, đã được huấn luyện, thực tập và đã xuất bản nhiều công trình nghiên cứu. Tôi sinh trưỏng ỏ thành phố Terre Haute thuộc tiểu bang Indiana. Một người anh của tôi, chỉ lớn hơn tôi 18 tháng tuổi, mắc bệnh Tâm thần Phân liệt. Anh được chính thức chẩn đoán là mắc bệnh này ỏ tuổi 31, nhưng thực ra anh đã có triệu chúng của bệnh từ nhiều năm trước. Từ thời thơ ấu, anh đã tỏ ra khác hơn tôi về cách nhìn thực tại và cách đối xử với mọi người. Do vậy, tôi rất có hứng thú tìm hiểu về bộ óc con người từ lúc còn bé. Tôi đã thường tự hỏi, vì sao mà hai anh em cùng quan sát một sự việc vừa mới xảy ra, tại có thể đi dến hai lời giải thích khác nhau. Sự khác biệt về nhận thức, về cách tiếp thu và phân tích dữ kiện giữa hai anh em tôi, đã thúc đẩy tôi trỏ thành một nhà khoa học về não bộ.
Tôi bắt đầu 4 năm đại học từ cuối thập niên 1970 ỏ đại học Indiana, thành phố Bloomington. Do sự giao tiếp với người anh của tôi mà tôi rất muốn biết thế nào là một con người “bình thường” trên bình diện trí óc. Lúc bấy giò, Khoa tế bào não bộ học hãy còn phôi thai và chưa được giảng dạy ỏ đại học như một phân khoa riêng biệt. Nhưng nhờ môn Cơ thể học và Sinh học mà tôi được biết ít nhiều về bộ óc con người.
Công việc đầu tiên tôi nhận được sau 4 năm tốt nghiệp không ngờ là một ân phước lớn trong đời học hỏi. Tôi được tuyển làm Cán sự ỏ phòng thí nghiệm của Viện đại học, mà thời gian được phân chia làm hai phần: một là nghiên cứu về giải phẩu Nhân thể học và hai là giải phẩu Tế bào thần kỉnh.
Trong suốt hai năm, tôi say mê trong lãnh vực y học này dưới sự hướng dẫn của giáo sư Tiến sĩ Robert C. Murphy, và tôi thích mổ xẻ cơ thể con ngưòi để tìm hiểu và học hỏi. Bỏ qua việc lấy bằng Thạc sĩ, sáu năm kế tiếp tôi đã ghi danh học chương trình Tiến sĩ trong phân khoa Sinh học. Năm đầu tôi học phần lớn các lớp của Y khoa, và công trình nghiên cứu của tôi lại chuyên về Giải phẩu Tế bào Thàn kinh não dưới sự hướng dẫn của giáo sư Tiến sĩ William J. Anderson. Tôi tốt nghiệp Tiến sĩ năm 1991, và cảm thấy đủ tự tin để giảng dạy các môn Giải phẩu Nhân thể, Giải phẩu Tế bào não và Sinh học cho sinh viên ỏ Đại học Y Khoa.
Trỏ lại thời điểm 1988, khi tôi đang làm công việc cán sự ỏ phòng thí nghiệm nghiên cứu về não bộ, thì anh tôi chính thức được giới y học xác định mắc Phải chứng bệnh Tâm thần Phân liệt. Về phương diện Sinh học thì anh em tôi là hai hiện hữu gần giống nhau nhất trên thế gian này. Nên tôi muốn tìm hiểu tại sao tôi đã có thể đem ước mơ gắn liền với thực tế và biến chúng thành hiện thực, còn bộ óc của anh tôi thay vì làm việc đó thì lại chỉ phát sinh ra hoang tưỏng?
Vì vậy, tôi rất hăm hỏ theo đuổi việc nghiên cứu bệnh Tâm thần Phân liệt này. Tiếp theo lễ tốt nghiệp Tiến sĩ ỏ Đại học Indiana, tôi được mời làm việc trong chương trình nghiên cứu hậu đại học của trường Đại học Y Khoa Harvard, phân khoa Thần kinh. Tôi đã nghiên cứu trong 2 năm, dưới sự hướng dẫn của giáo sư Tiến sĩ Roger Tootell, trên bộ phận vỏ não liên quan đến thị giác. Tôi rất hứng thú trong công cuộc nghiên cứu này vì đa số những người mắc bệnh tâm thần phân liệt thường cho thấy họ có cái nhìn rất bất thường khi quan sát những vật chuyễn động.
Sau đó, tôi đã xin chuyễn qua nghiên cứu ỏ phân khoa Tâm thần. Mục đích của tôi là được nghiên cứu dưới sự chỉ dẫn của giáo sư Tiến sĩ Francine M. Benes trong bệnh viện McLean. Tiến sĩ Benes là chuyên gia nổi tiếng về việc giải phẩu não bộ những người bệnh tâm thần phân liệt sau khi chết, để tìm hiểu và giải thích tại sao họ đã bệnh như vậy. Tôi tin tưỏng công trình nghiên cứu này sẽ giúp tôi chữa trị được những người đã mắc chứng bệnh rối loạn não bộ như ông anh của tôi.
Một tuần trước khi sang nhận công việc nghiên cứu mới ỏ bệnh viện McLean,tôi được mời dự buổi điều trần hằng năm - năm ấy là 1993 - của “Hội bạn người bệnh Tâm thần toàn quốc” ỏ Miami, Florida. Lúc đó, Hội có khoảng 40 ngàn hội viên có người nhà mắc bệnh tâm thần. Hiện nay, 2009, con số đó đã tăng lên đến khoảng 220 ngàn. Chuyến đi này làm thay đổi hẳn đời tôi. Ở cuộc điều trần, tôi đã hiểu được nỗi đau của 40 ngàn gia đinh có thân nhân bị bệnh, cũng như gia đình tôi, mà chưa tìm ra được nguyên nhân và cách cứu chữa. Hội họp ỏ đây là để báo động cho chính quyền và những người có trách nhiệm trong giới y học Phải quan tâm giải quyết, vì đó là sự đòi hỏi của người dân về Công Bằng Xã Hội.
Khi trỏ về lại bệnh viện McLean để bắt tay vào việc nghiên cứu bệnh, tôi rất hăm hỏ và đầy nhiệt tình. Không những tôi muốn cứu anh tôi, mà tôi còn muốn cứu cả mấy mươi ngàn người qua cuộc điều trần ỏ Miami. Với nhiệt tình tuổi trẻ, với sự thông cảm nỗi đau của gia đình có người bệnh và với kiến thức của một nhà khoa học về bệnh tâm thần, năm sau - 1994 - tôi được đề cử vào ủy ban điều hành của Hội. Thật là một vinh dự và cũng là trách nhiệm rất lớn lao với một người trẻ tuổi như tôi - mới có 35 tuổi, trong khi tuổi trung bình trong ủy ban là 67. Hằng năm tôi đều tham dự các cuộc họp tổ chức khắp toàn quốc để tường trình những tiến bộ trong việc nghiên cứu của chúng tôi.
Bấy giờ tôi lại được cho biết rằng phòng thí nghiệm ỏ bệnh viện McLean thật sự cần thêm não bộ của người bệnh đã chết để nghiên cứu.
Một năm phòng thí nghiệm chỉ nhận được có vài ba bộ não của người chết gửi tặng thì không đủ vào đâu. Khi tôi đi tham dự các phiên họp, tôi đã kêu gọi sự đóng góp, thì số não bộ hiến tặng đã tăng lên được 35. Nhưng hằng năm Ngân hàng não Phải có trên 100 bộ não thì mới đủ cho công cuộc nghiên cứu. Qua sự nghiên cứu, chúng tôi đã tìm thấy có ba hệ thống hóa chất khác nhau làm công việc tiếp nối sự “truyền tin” trong mỗi bộ óc. Nhờ những hóa chất này, như dopamine là một, mà các tế bào thần kinh có thể chuyển tin tức cho nhau. Nếu chúng tôi nhận biết được các hóa chất này, sự vận hành vi tế giữa các mạch tế bào não, biết được liều lượng hóa chất cần thiết của não bộ từng người bệnh, chúng tôi có thể điều trị những chứng bệnh này bằng những loại thuốc với liều lượng hiệu quả hơn.
Công trình nghiên cứu của tôi đã được đăng trên báo y học “BỉoTechniques Journal” đầu Xuân 1995; và đến năm 1996, tôi được giải thưỏng của Đại học Y Khoa Harvard, phân khoa Tâm thần về kết quả nghiên cứu này. Tôi thật lạc quan và yêu đời. Nhưng rồi một sự kiện không thể ngờ xảy ra. Tôi đang ỏ giữa độ tuổi ba mươi. Con đường sự nghiệp đang đi lên.
Thì bỗng nhiên trong chớp mắt, màu hồng tươi thắm của cuộc đời và những viễn cảnh đẹp đẽ của tương lai đã tan thành mây khói. Tôi thức dậy buổi sáng ngày 10 tháng 12 năm 1996 để khám phá ra rằng não bộ của chính tôi cũng đã mang bệnh. Tôi đang bị Xuất huyết não! Trong vòng 4 tiếng đồng hồ ngắn ngủi, tôi theo dõi và thấy tâm trí tôi từ từ hũy hoại trong khả năng phân tích sự vật xung quanh qua các giác quan của tôi. Một hình thức xuất huyết não hiếm hoi xảy ra đã làm cho cơ thể tôi hoàn toàn tê liệt, từ khả năng đi đứng, nói năng, đọc viết, hoặc hồi tưỏng lại mọi việc trong đời.
Tới đây, tôi nghĩ rằng độc giả muốn biết ngay những gì đã xảy ra cho tôi trong buổi sáng xuất huyết não ấy. Nhưng hãy khoan. Để quý vị có thể hiểu được những gì đã xảy ra trong não bộ khi nó bị xuất huyết, tôi xin trình bày trong chương 2 và 3 sau dây vài điều cơ bản về khoa não bộ học.
CHƯƠNG 2
MỘT MÔN KHOA HỌC ĐƠN GIẢN
Thông thường, để cho hai người chúng ta có thể trao đổi với nhau về một vấn đề gì, trước hết chúng ta Phai có một số ý niệm chung về thực trạng của vấn đề đó. Hơn nữa, hệ thống thần kinh của chúng ta cũng Phai tương đương trong khả năng nhận xét và hiểu biết các dữ kiện từ ngoại cảnh, phân tích và kết nạp dữ liệu đó vào bộ óc, rồi cũng Phải tương đồng trong cách biến hiểu biết đó ra thành ý nghĩ, lời nói, hay việc làm. Những cảnh “ông nói gà, bà hiểu vịt” không Phải là không thường xảy ra.
Việc ra đời của Sự Sống là một biến cố đáng kể nhất. Từ sự xuất hiện một đơn bào sinh vật, một giai đoạn mới về cấu trúc sinh thể ỏ lĩnh vực tế bào đã xuất hiện. Những nguyên tử và phân tử trong tế bào kết tập nhau thành DNA và RNA có thứ lớp và không thể nhầm lẫn. Các tế bào này quần tụ với nhau và phát triển qua thời gian để sản sinh ra bạn và tôi và tất cả mọi loài. Ở mức độ cấu trúc DNA, chúng ta được cấu tạo tương tợ như loài chim, loài bò sát, loài lưỡng thê, loài động vật có vú, và ngay cả loài thực vật. Nhưng đứng về mặt sinh học, cơ thể chúng ta mặc dù đã được cấu tạo rất phức tạp, vẫn chưa Phải là hoàn hảo và cố định, mà là còn đang trên đà phát triển.
Chẳng hạn như não bộ đã và đang thay đổi không ngừng. Não bộ của tổ tiên ta từ bốn ngàn năm trước không giống như não bộ của con người ngày nay. Chỉ riêng sự phát triển về ngôn ngữ đã làm thay đổi từ hình thể đến cấu trúc hệ thống tế bào não bộ. Hầu hết những nhóm tế bào khác nhau của cơ thể đều sinh ra và chết đi trong vài tuần hoặc vài tháng, rồi được thay thế bằng những tế bào mới, các tế bào não lại không như thế, kể từ khi chúng được sinh ra. Có nghĩa là các tế bào não của bạn ngày nay cũng “già đi” theo số tuổi của bạn. Sự sống không bao giò chết của tế bào não cắt nghĩa phần nào cái cảm gỉác của ban: dù đã 50 hav 70 tuổi, bạn vẫn ngỡ mình đang là 15 hay 20!
Số lượng tế bào thần kinh trong bộ óc con người không thay đổi, nhưng sự “tiếp xúc” giữa các tế bào thì thay đổi, tùy theo sự học hỏi và kinh nghiệm sống của mỗi cá nhân. Hệ thống tế bào thần kinh của con người thật năng động và tuyệt vời, với con số tế bào ước khoảng một ngàn tỉ. Để có ý niệm một ngàn tỉ tế bào óc là bao nhiêu, thì hãy nhớ rằng dân số toàn thế giới hiện nay là 6 tỉ. Nhân con số 6 tỉ dân này lên 166 lần, thì bạn có được con số một ngàn tỉ tế bào đang chen chúc trong cái sọ bé nhỏ của mỗi con người chúng ta, với trọng lượng trung bình của não bộ không hơn 1,5 kg. Dĩ nhiên con người chúng ta không Phải chỉ có não bộ. Còn có thân thể nữa. Trung bình, cơ thể một người trưỏng thành gồm chứa khoảng 50 ngàn tỉ tế bào.
Có nghĩa là số tế bào trong một cơ thể gấp 8.333 làn tổng dân số trên toàn thế giới. Thật là kỳ diệu: những tế bào xương, tế bào thịt, tế bào tạng phủ..., làm sao chúng có thể điều phối và hoạt động nhịp nhàng với nhau để tạo thành một cơ thể hoàn toàn khỏe mạnh và không bao giò bệnh tật? Cho nên nếu bạn có mang bệnh, đừng lấy làm lạ! Sự tiến hóa về phương diện sinh học thường bắt đầu từ thô sơ lên đến phức tạp. Để bảo đảm sự tiến tạo các sinh vật được hữu hiệu, Tạo hóa luôn theo một khuôn mẫu nhất định. Như con ong hút mật, con chim làm tổ, quả tim bơm máu, tuyến mồ hôi điều hòa thân nhiệt...; mỗi mỗi được tạo tác theo những “mã số“ riêng không hề bị xáo trộn.
Do đó, qua hàng triệu triệu năm, mọi loài chỉ tiến hóa và phát triển trên “căn bản” của mình để tiến đến mức độ phức tạp hơn. Chẳng hạn như con người và loài dã nhân. Con người có đến 99,4% DNA cấu tạo tương tự như dã nhân. Nhưng như vậy không có nghĩa dã nhân là thủy tổ của loài người; chúng chỉ có trí thông minh xấp xỉ như con ngưòi mà thôi. Điều đó chứng minh sự kỳ diệu của bàn tay tạo hóa: chỉ thay đổi một chút xíu các mã số DNA mà đã tạo ra các loài sinh vật khác nhau. Còn giữa loài người với nhau, bạn và tôi có cùng loại DNA, nhưng chỉ khác nhau có 0,01% (1/100 của 1%) trên cách cấu trúc. Vỉ vậy, mắt mũi, màu da, cao thấp, mập ốm, dáng vẻ... không giống nhau.
Và con người khác với những loài có vú khác là ỏ bộ não: con người có lớp vỏ não dợn sóng và uốn khúc một cách phức tạp. Mặc dù não bộ loài có vú đều có vỏ não bao bọc bên ngoài, nhưng vỏ não con người lại dày hơn gấp đôi và vì vậy các chức năng sinh hoạt cũng gấp đôi. Hơn nữa, vỏ não con người còn chia não bộ ra làm 2 bán càu riêng biệt mà chức năng sinh hoạt mỗi bán cầu lại bổ túc cho nhau.
Nhờ bổ túc cho nhau mà mỗi người chúng ta có một nhận thức nhất định và độc nhất - không ai giống ai - về thế giới bên ngoài. Lớp vỏ não trên cùng mới được “thêm vào” cho não bộ con người gần đây thôi (vài ngàn năm) đã làm cho con ngưòi khác hẳn các loài có vú khác, Nhờ những mạch thần kinh ỏ đây mà con người có được tri thức về những vật chất “cụ thể“ (nhà cửa, vật dụng) và những ý niệm “trừu tượng” (ngôn ngữ, nghệ thuật...). Còn những lớp sâu hơn của vỏ não thì chức năng sinh hoạt giữa người và vật đều giống nhau.
Bán cầu não bộ cũng cần mạch máu mang dưỡng khí lên nuôi sống. Các mạch máu này được phân nhiệm vụ riêng biệt, như mạch máu thuộc phần cử động tứ chi, phần tạo tác ngôn ngữ, phần hiểu biết ngôn ngữ, phần thuộc thị giác, phần phân biệt vật thể. Mạch máu nào bị hư hỏng thì phần liên hệ đó của thân thể không còn hoạt động được. Và cũng như các bộ phận khác của cơ thể là thường hay bị bệnh, các mạch má ỏ bán cầu não bộ cũng hay bị ‘tai biến". Những tai biến này chia làm 2 loại thường làm chết người hoặc biến con bệnh thành phế nhân.
Tai biến thông thường nhất, lên đến 83% trường hợp, là “nghẽn” mạch máu.
Tai biến hiếm hoi, chỉ có khoảng 17%, nhưng nặng nề nhất, là “vỡ“ mạch máu.
Nghẽn mạch máu là khỉ mỡ cholesterol đóng theo thành mạch máu làm trỏ ngại máu không thể lưu thông trên vỏ não. Không dưỡng chất, tế bào thần kinh ỏ vùng này Phải tê liệt. Thường thì tế bào thần kinh tê liệt sẽ không được thay thế. Các sinh hoạt của thân thể liên hệ tới vùng thần kinh này sẽ bị đình chỉ vĩnh viễn, trừ phi có những tế bào thần kinh khác học hỏi vai trò của những thần kỉnh đã tê liệt qua một thời gian, gọi là phục hồi chức năng. Bỏi vì mỗi người có sự nối kết các đường dây thần kinh não bộ một cách khác nhau, nên khả năng phục hồi cũng khác nhau.
Vỡ mạch máu là khi mạch máu não có chỗ cấu tạo bất thường - thành mạch máu quá mỏng - bị vỡ ra, lớp vỏ não bị ngập lụt trong máu và tế bào não ỏ vùng đó không còn hoạt động được; vì máu là độc tố của tế bào thần kỉnh, không thể được tiếp xúc trực tiếp. Đôi khi vỡ mạch máu là do áp suất huyết quá cao, các vi huyết quản nốỉ liền động mạch và tĩnh mạch chịu đựng không nổi áp lực. Đây là những tai biến chết người.
Những Dấu Hiệu của Tai Bién Mạch Máu Não:
· Tự nhiên nói không ra tiếng.
· Tay chân bị tê hay bắp thịt bị cứng.
· Tự nhiên quên hết mọi sự một cách bất thường.
· Tự nhiên đi đứng mất thăng bằng.
· Bị nhức đầu dữ dội khác với bình thường.
· Bỗng nhiên mắt mờ, không còn thấy gì hết.
Tai biến Mạch máu Não là vấn đề Sống Chết. Hãy đưa đi cấp cứu lập tức.
CHƯƠNG 3
SỰ KHÁC BIỆT GIỮA HAI BÁN CẦU NÃO
Từ hơn 200 năm nay, các nhà khoa học đã nghiên cứu về sự khác biệt giữa hai bán cầu não bộ con người. Người đầu tiên là DuPuis. Vào năm 1780, DuPuis đã tuyên bố là con người có bộ óc đôi, vì có hai bán cầu. Gần một thế kỷ sau, Arthur L. Wigan đã chứng kiến cuộc giảo nghiệm một người đã chết mà não bộ chỉ có một bán cầu.
Người này lúc sống cũng đi, đúng, nói năng, và có ý thức như một người bình thường. Vì vậy Wigan rất hào hứng đưa ra thuyết “Con người có nhị trùng tâm”. Thuyết này gây nhiều hứng khỏi cho các nhà khoa học Hoa Kỳ. Cho tới thập niên 1970, tiến sĩ Roger W. Sperry nhờ giải phẫu cắt rời hai bán cầu não để chữa bệnh “kinh phong”, đã khám phá ra vài điều mới mẻ. Trong bài diễn văn lãnh giải Nobel Y học năm 1981, tiến sĩ Sperry nhận định: “Khi hai bán cầu não bộ bị cắt rời, đương sự sẽ hành xử khác nhau như hai con người khác nhau, tùy theo bán cầu não Trái hay Phải được sử dụng”.
Những nghiên cứu và quan sát tiếp theo các bệnh nhân bị tách não làm đôi (để trị bịnh kỉnh phong) cho các nhà khoa học kết luận rằng: Khi 2 bán cầu não còn dính với nhau thì hoạt động “bổ túc” cho nhau; còn khi bị mổ tách rời thì sẽ hoạt động như 2 bộ não “độc lập”, riêng biệt. (Tiến sĩ Jekyll).
Nhờ hai bán cầu não Trái và Phải hoạt động bổ túc cho nhau nên chúng ta mới có những nhận xét, hiểu biết về nhân sinh và vũ trụ một cách rất độc đáo mà các loài sinh vật khác không thể có được. Sự bổ túc này rất hài hòa đến nỗi chúng ta không thể phân biệt khi nào chúng ta sử dụng bán cầu não Trái và khi nào là bán cầu não Phải. Tuy nhiên, ỏ một mức độ nào đó, chúng ta có thể biết.
Nhưng trước hết, điều quan trọng là Phải biết phân biệt người thuận tay Phải hay tay Trái với người thiên về bán cầu não Phải hay Trái. Bán cầu não Phải điều khiển nửa phần thân thể bên tav Trái, và bán cầu não Trái điều khiển nửa phần thân thể bên tay Phải. Còn người thuận sử dụng bán cầu não Phải hay Trái thì lại khác. Muốn biết một người thiên về sử dụng bán cầu Phải hay Trái thì hãy quan sát cách họ “nói năng” (sử dụng ngôn ngữ) và cách họ “nghe” và “hiểu“ lời nói (tiếp nhận và giải mã ngôn ngữ) của người khác. Nói chung, gần như 85% dân số thuận tay Phải và thiên về sử dụng bán cầu não Trái. Và khoảng 60% người thuận tay Trái cũng thiên về sử dụng bán cầu não Trái. Như vậy số người thuận sử dụng bán cầu não Phải không nhiều.
Khi các dữ kiện (ánh sáng, âm thanh, mùi, vị, cảm giác, ý tưỏng) hằng ngày không ngớt tràn ngập não bộ con người qua các giác quan, thì bán cầu não Phải tiếp nhận các dữ kiện này bằng hình ảnh như hình chụp của máy ảnh, được rửa ra và được dán chồng lên nhau. Thí dụ: Mắt “thấy“ cô gái này đẹp thì trong não bộ Phải có nguyên hình cô gái với toàn cảnh, thí dụ cô gái ấy ỏ một tiệc cưới, ỏ quán kem, ỏ nhà một người bạn
... Tai “nghe” tiếng giảng đạo của một linh mục thì có hình ảnh của vị linh mục đó tại nhà thờ...“Nỗi buồn” hay sự “thất vọng” cũng được não Phải lưu giữ bằng hình ảnh trong một bối cảnh nào đó. Những hình ảnh này được lưu giữ cho dù sự kiện đã xảy ra cách nhiều năm, khi hồi tưỏng lại ta cũng như đang “thấy” trước mắt, nhất là khi hình ảnh đó ngày xưa đã gây quá nhiều ấn tượng.
Với não bộ Phải, sự ghi nhận không có thời gian. Chỉ là “hình ảnh” được ghi lại “bây giò“ và “nơi đây” với đầy đủ cảm giác rất sống động. Não bộ Phải không bị gò ép Phải “suy tưỏng” theo một nguyên tắc hay khuôn khổ lề luật nào, và đó là não bộ của các nghệ sĩ, tu sĩ, nhà đạo đức, các nhà khoa học lo cho tương lai nhân loại, chuyên nghĩ đến những việc mà người “bình thường” không hề nghĩ đến.
Não bộ Phải, phần trước trán, cũng làm cho chúng ta nghĩ đến tình nhân loại, nghĩa đồng bào, cùng sống trong một dãi đất, trên một tỉnh cầu, biết thương yêu nhau, giúp đỡ, nhường nhịn, sống chung hay chết chung với nhau.
Não bộ Trái thì ngược lại trong việc ghi nhận các dữ kiện. Tiếp nhận những sự kiện từ não bộ Phải như là hình ảnh của một tổng thể, não bộ Trái đem ra phân tích, phê phán và sắp xếp theo hình dáng, màu sắc, âm thanh, mùi vị, thời gian (quá khứ, hiện tại, vị lai), tình cảm (thương ghét, vui buồn), khối lượng (nặng nhẹ, lớn nhỏ)...
Nói chung là não bộ Phải nhìn mọi sự dưới dạng toàn cảnh và tổng thể; còn não bộ Trái thì dùng ngôn ngữ để mô tả từng chi tiết, theo thứ tự thời gian, theo phân biệt tình cảm. Thí dụ: Não bộ Phải khi gặp một người thì ghi nhận ngay hình ảnh người ấy gặp trong một khung cảnh nào đó. Não Trái sẽ ghi chi tiết: nam nữ, chủng tộc, cách ăn mặc, nói năng, học vấn, cá tính... (Ỏ điểm này, ta gọi là óc nhận xét). Hay nhìn một đóa hoa. Não bộ Phải chỉ ghi nhận: đóa hoa và bất cứ hoa gì thì cũng thấy đẹp. Còn não Trái sẽ ghi hoa gì, màu gì, mùi gì, cánh hoa, đài hoa, cuống hoa, xấu, đẹp như thế nào.
Nhờ thu nhận hình ảnh ngưòi, vật, cảnh nên não bộ Phải nhìn đâu cũng đẹp, dễ thương, độc đáo, biết tôn trọng vật hay người đã nhìn thấy, và thấy cá nhân mình chỉ là một phần trong toàn phần, không có sự kỳ thị, phân biệt hơn kém, thương ghét. Trái lại, với chức năng phân biệt, phê phán theo giá trị, xếp loại theo hạng mục, não bộ Trái tạo ra nhiều dễ dàng trong đời sống, nhưng cũng từ đó làm cho đờisống thêm phức tạp hơn lên.
Thí dụ: mục đích của thức ăn là để no bụng. Nhưng có ngưòi đói thấy thức ăn, thì ăn. Có người đói lại không ăn, vì thức ăn bị chê là không ngon, hay bày biện không hợp... lễ. (Còn con vật hễ đói, thấy đồ ăn thì...ăn, không cần ngon dỏ hay lễ nghĩa gì cả).
Thêm nữa, não bộ Trái có khả năng ngôn ngữ nên biết diễn tả mọi sự mọi vật thật chi tiết, rõ nét, dễ hiểu, làm cho sự hiểu biết của loài người được tích lũy và lưu truyền càng ngày thêm phong phú, khiến cho con người càng ngày một thông minh, tiến bộ qua quá trình tiếp thu kiến thức hàng ngàn năm.
Với những kiến thức được phân loại theo hạng mục, con người cũng tiên đoán được những gì sắp xảy ra, tránh được phần nào tai họa (thòi tiết, giông bão, động đất, sóng thần...). Nhưng cũng chính với những khả năng đặc biệt của não bộ Trái, con người, và chỉ có loài người mà thôi, đã tạo ra biết bao khốn khổ cho chính mình và người chung quanh. Nhờ khả năng ngôn ngữ, con người biết tự đặt câu hỏi "TÔI LÀ...AI?” Bản Ngã từ đó sinh ra.
Cái Tôi, cái Ngã càng được trau chuốt, quan trọng hóa, thì khốn khổ tự thân của con người cũng dồn dập.Khi bán cầu não Trái bị thương tật, người bệnh sẽ mất khả năng nói và hiểu lời nói của kẻ khác. Nhưng nhờ bán cầu não Phải, họ sẽ cảm nhận được là người đối diện đang nói thật hay nói dối qua sự nhận xét cách nói, giọng nói, vẻ mặt, và điệu bộ. Bán cầu não Phải vì vậy có khả năng bổ túc cho bán cầu não Trái về moi lĩnh vực sinh hoạt trong đời sống hằng ngày, khi não Trái bị tai biến hay thương tật.
Loại tai biến mà tôi trải nghiệm là sự Xuất huyết trầm trọng bên bán cầu não Trái. Sau khi đã được mổ sọ để lấy khối máu khô ra, tôi đã Phải mất 8 năm mới hoàn toàn hồi phục thể lực và trí lực. Các chương tiếp theo sẽ kể tiếp cho bạn biết những gì đã xảy ra.
Tôi cũng nhiệt tình khuyến khích các bạn hãy tìm đọc thêm những tài liệu về khả năng của bộ óc, về sự sinh hoạt của hai bán cầu trong một con người bình thường, để bạn có thể giúp những người bị Tai biến mạch máu não phục hồi một cách hữu hiệu, và giúp cho chính bạn sống cuộc đời mình tốt đẹp hơn.
CHƯƠNG 4
BUỔI SÁNG NGÀY BỊ TAI BIẾN
Lúc ấy là 7 giờ sáng ngày 10 tháng 12 năm 1996. Tôi thức dậy theo tiếng báo thức của đồng hồ reo bên giường. Với tay bấm tắt tiếng reo, hình như tôi vẫn còn chập chờn trong trạng thái nửa thức nửa ngủ. Nhưng tinh thần tôi đã sảng khóaí, sẵn sàng cho một ngày bình thường. Tôi biết tôi Phải thức dậy đi làm việc. Đang trỏ mình lăn ra khỏi giường, bỗng tôi cảm thấy đau nhói bên phía trong đầu sau mắt Trái, một cơn đau chưa từng có. Chẳng mấy khi bệnh hoạn, tôi lấy làm lạ về một cơn đau khỉ mới vừa thức giấc.
Tôi đưa tay Trái lên kéo đóng tấm mành che bớt ánh sáng mặt tròi chói chang đã làm mắt tôỉ khó chịu, và đưa tay Phải lên che con mắt đau lại. Tôi cảm thấy bối rối tự hỏi tại sao mới sáng mà lại đau thế này? Con mắt Trái cứ tiếp tục đau giật tê buốt từng cơn, tê buốt như cắn Phải cục nước đá. Tôi rời giường, khập khểnh leo lên chiếc máy tập thể dục như một người lính bị thương, hy vọng sự vận động cơ thể, máu huyết lưu thông sẽ làm giảm cơn đau. Sau vài động tác, tôi thấy cơ thể như rã rời, tay chân như không còn là của tôi nữa, mặc dù tôi vẫn tỉnh táo. Hay đúng hơn, cơ thể như không còn theo mệnh lệnh của bộ óc tôi.
Tôi như một người khác đang quan sát cử động của chính mình. Tôi đưa hai tay nắm lấy tay nắm của máy tập thể dục, mà vụng về như hai tay của người tiền sử. Đầu vẫn tiếp tục đau điếng từng cơn.
Tôi có cảm giác lạ kỳ: Ý thức tôi đã tản mạn đâu mất và thân thể tôi như đang lơ lửng giữa thực tại và một cõi mông lung nào. Nhận thấy sự vận động của thể dục không giúp ích gì cho cơn đau, tôi rời máyvà hướng vào nhà tắm. Tôi để ý thấy tôi bước đi không còn tự nhiên, mà cà thọt như một tên hề. Và không thể bước đi một cách thăng bằng, tôi Phải cố gắng hết sức mới không Phải té. Để bước chân vào bồn tắm, tôi Phải vịn vào vách, và cố gắng lắm thì hai chân mới đứng vững được cho khỏi ngã. Tôi lấy làm ngạc nhiên là sao hôm nay tôi không thể điều khiển được cái khối 50 ngàn tỉ tế bào theo ý muốn và tự hỏi không biết bộ óc kỳ diệu của tôi sao hôm nay lại bất thường?
Tôi biết rằng sỏ đĩ con người có thể đi đứng một cách thăng bằng và nghe được, thỏ được là nhờ phần não bộ nối dài với tủy sống. Như vậy là tôi có thể bị rối rắm với các tế bào não bộ ỏ phần này, và có thể nguy hiểm chết người. Trong khi tôi cố tìm ra lòi giải đáp bằng kiến thức của một nhà khoa học não bộ, tôi bỗng nhiên nhận ra mình đang ỏ vào một tình trạng thật là kỳ lạ:
Thông thường não bộ Trái hay “nói” cho tôi biết những gì đang xảy ra, nhưng bây giờ thì im lặng, hoặc nói vài điều không mạch lạc, không liên hệ, không nghĩa lý gì với nhau. Hơn nữa, thính giác của tôi thường rất nhạy bén, nhưng bây giờ tôi không còn nghe được cả tiếng ồn ào thường lệ của xe cộ bên ngoài. Hoang mang, tôi lục lọi ký ức xem tình trạng này có bao giờ xảy ra chưa. Hiện tượng giống như bị nhức đầu dữ dội.
Tôi càng cố tập trung ý tưỏng, thì trí óc và sự suy nghĩ của tôi càng như tan biến vào nơi đâu. Bộ phận não Amygdala có bổn phận thông báo về những tai họa, những điều đáng sợ, Phải có phản ứng thế nào cho thích hợp, đã không thấy hoạt động vào lúc này. Và thay vào sự lo lắng về “chuyện gì đã xảy ra trong bộ óc tôi”, tôi bỗng nhiên cảm thấy “bình an” thật lạ. Cả đời mấy mươi năm, lúc nào tôi cũng nghe não bộ Trái của tôi “báo cáo” từng chi tiết về đủ thứ chuyện: Nào là chuyện nghiên cứu, chuyện dạy học, kế hoạch này, chương trình kia Phải hoàn tất kịp thời.
Thì nay, những việc làm bận rộn đó đã biến đâu mất. Tôi chỉ còn một cảm giác thanh tịnh, hạnh phúc và cực kỳ an lạc. Và vì Trung tâm Ngôn ngữ ỏ bán cầu não Trái đã bị tê liệt, tôi không còn liên lạc được với mọi ký ức trong đời. Tôỉ không còn biết “tôi là ai”. Tôi như hòa làm một với vũ trụ, và cảm giác đó làm tôi thích thú vô cùng. Tới đây thì gần như tôi không còn ý niệm về không gian ba chiều vật chất ỏ quanh tôi. Tôi đứng trong bồn tắm, lung tựa vào vách, nhung không còn khả năng phân biệt thân thể và tay chân tôi có giới hạn tới đâu. Tôi có cảm giác toàn thân tôi là một khối chất lỏng hòa tan với mọi vật thể chung quanh. Khối lỏng của cơ thể tôi trỏ nên nặng nề, và năng lượng trong người dường như tan biến mất.
Tôi nghĩ: “Ủa, mình thật là lạ. Mình là một sinh vật kỳ lạ vô cùng. Mình là môt túi nước lớn bao bọc bên ngoài bằng một lớp màng nhầy. Mình là đời sống! Với hình thức này mình là một “ý thức sống trong bọc nước” và đó là mình! Mình là hàng ngàn tỉ tế bào có chung một tri thức. Mình ỏ đây, bây giò và hăm hỏ sống đời!
Coi kìa, thật là một khái niệm kỳ diệu và không thể hiểu thấu được! Mình là một tế bào đời sống, ủa, mà không Phải, mình là một phân bào đòi sống, có cả sách hướng dẫn cách phát triển rõ rệt, và là phân bào có trí hỉểu biết!” Với sự thay đổi tình trạng của hiện hữu, tâm trí tôi không còn vướng bận với hàng ngàn chi tiết mà bộ óc hướng dẫn tôi trong đời sống hàng ngày, cả những suy nghĩ mà bán càu óc Trái “nói” với tôi mỗi ngày cũng hoàn toàn im lặng. Và với yên lặng này, tôi không còn ký ức về quá khứ, cũng không suy nghĩ đến tương lai.
Tôi lại nghĩ rằng bán cầu não tráỉ đang bị thương hóa ra rất dễ chịu. Tôi hăm hỏ quay ra chú tâm tới hàng ngàn tỉ tế bào thông minh đang hoạt động hài hòa để giữ cho cơ thể tôi được sống. Và trong khi máu càng lúc càng chảy nhiều hơn trong đàu tôi, ý thức về ngoại cảnh của tôi nhạt nhòa dàn. Tôi chỉ còn cảm giác hạnh phúc và sung sướng rằng các tế bào li ti trong cơ thể vẫn còn hoạt động liên tục không ngừng nghỉ để cho tấm thân vật chất của tôi được tồn tại.
Đây là lần đầu tiên trong đời, tôi thật sự cảm thấy mình là “một” với sự sống. Và tôi vui mà thấy đời sống là một tập hợp những tê' bào thông minh quanh một phân bào thiên tài tuyệt vòi. Tôi cảm giác mình như là khối hơi trong vũ trụ, dù cơn đau từng chập trong đầu vẫn còn rõ nét nhưng không Phải là không chịu nổi. Cơn đau lan xuống tới ngực và chạy ngược lên tận cổ, kéo tôi về với thực tại. Tôi nhận ra ngay mình đang lâm tình trạng cực kỳ nguy hiểm. Nhất định Phải biết cái gì đã xảy ra, tôi cố lục soát phần hiểu biết còn lại trong ý thức để tự chẩn bệnh mình: “Cái gì đang xảy ra trong cơ thể? Bộ óc đã như thế nào rồi?”. Mặc dù ý thức tôi bị đứt quãng và mơ hồ, tôi cũng cố gắng giữ thăng bằng cơ thể. Bước ra khỏ bồn tắm, tôi như người say rượu.
Thân nghiêng ngửa, chân nặng nề, bước chậm chạp. Câu hỏi trong đầu: ‘Tôi đang muốn làm gì bây giờ? Thay đồ. Thay đồ để đi làm”. Tôi vất vả lựa quần áo. Lúc đó đã 8:15 sáng, và tôi sẩn sàng lái xe ra đi. Tôi nghĩ: “Được rồi, tôi đi làm đây. Tôi đi làm đây. Mà tôi có biết làm sao đến sở làm không? Tôi có thể lái được xe không?”. Trong khỉ tôi đang nghĩ đến con đường Phải lái xe từ nhà đến bệnh viện McLean nơi tôi làm việc, tôi tự nhiên mất thăng bằng vì cánh tay Phải bị xụi thình lình một bên. Lúc đó, tôi mới hiểu ra: “Trời ơi! Tôi bị xuất huyết não! Tôi bị xuất huyết não!” Phút tiếp theo đó, một ý tưỏng thoáng chớp lên trong đầu:
“Ô! Cái xuất huyết não này mới dễ thương làm sao!”. Tôi như bị rơi từ vùng ảo giác hạnh phúc, an lạc trỏ về thực trạng nguy hiểm của não bộ. Dù vậy, tôi vẫn luôn nghĩ: “ồ kìa, có bao nhiêu nhà khoa học được dịp may mắn quan sát sự vận hành và suy thoái của chính bộ óc mình từ trong ra ngoài?” Tôi đã để cả đòi tìm hiểu: Làm sao mà bộ óc con người tạo ra được sự hiểu biết cho chúng ta về những thực tại chung quanh? Và bây giờ, tôi được dịp trải nghiệm sự vận hành của Não bộ từ chính bộ óc của mình qua cơn Xuát huyết não.
Khi cánh tay Phải trỏ thành bại xụi, tôi có cảm tưỏng như sức sống của nó nổ tung ra. Nó nằm im xuôỉ xuống một bên vai mà tưỏng như đã bị chặt đút đâu mất. Về não bộ học, tôi biết rằng phần vỏ não về động tác tay chân đã bị ảnh hưỏng, và tôi may mắn là cánh tay chỉ chết trong vài phút rồi hơi cử động lại được, với sự đau tê dữ dội.
Tôi như người bị thương. Cánh tay Phải như mất hết sức lực, tựa như khúc cây. Tôi tự hỏi không biết có bao giờ cánh tay sẽ trỏ lại bình thường. Ngó qua thấy cái giường ngủ ấm áp, nhất là vào buổi sáng mùa Đông lạnh lẽo ỏ vùng này, tôi muốn nằm. “ổi, tôi mệt quá rồi. Tôi đau quá rồi. Tôi muốn nghỉ ngơi. Tôi muốn nằm và ngủ một chút”. Nhưng tự trong thâm tâm tôi, một giọng nói như ra lệnh: “Không được nằm! Nếu ngươi nằm, ngươi sẽ chết!”. Kinh ngạc vì tiếng đe dọa, tôi thử phán định tình hình bấy giò. Nghịch lý thay, mặc dù tôi thực tế đang ỏ trong tình trạng khẩn cấp thúc giục tôi Phải gọi ngay cấp cứu đưa vào bệnh viện, một phần khác trong tôi vẫn cảm thấy thú vị vì đang sống trong cảm giác An vui và Thanh tịnh. Tôi bước ra khỏi ngạch cửa phòng ngủ, ngang qua tấm gương.
Nhìn vào đôi mắt tôi phản chiếu trong đó, tôi ngừng lại một chút để tìm vài chỉ dẫn hiển lộ trong ánh mắt của mình. Trong cái sáng suốt còn sót lại của một não bộ đã bị thương, tôi chợt hiểu ra là, qua thiết kế sinh học tuyệt vời của tạo hóa, cơ thể con người là một món quà quí giá và rất mong manh. Đối với tôi, cái thân thể này vận hành như một cánh cửa lớn qua đó năng lượng của cái ‘lôi” được chiếu rọi vào một khoảng trống gọi là không gian ba chiều.
Khối lượng tế bào của thân thể này cung cấp cho tôi cái gọi là “nhà” tạm thời nhưng rất hoành tráng. Và với bộ óc kỳ diệu, có khả năng kết nạp thực sự hàng tỉ của hàng ngàn tỉ dữ kiện mỗi phút, đã tạo cho tôi cảm tưỏng rằng có một không gian ba chiều không những là có thực mà còn là an toàn để sống trong đó.
Trong cái ảo giác đó, tôi đã bị thôi miên vì khối lượng sinh học đã tạo ra hình dáng tôi,và kinh ngạc với sự vận hành vừa đơn giản vừa phức tạp của nó. Tôi đã nhận ra tôi chỉ là sự kết hợp của một hệ thống phức tạp và sống động, một tổng thể những tế bào có khả năng tập kết dữ kiện của thế giới bên ngoài qua những bộ phận nối kết nhau gọi là giác quan. Và khi hệ thống này vận hành thích hợp, nó sản sinh ra một ý thức có khả năng phân biệt ý nghĩa mọi thực trạng chung quanh. Tôi ngạc nhiên tự hỏ tôi đã sống trong cái thân thể này đã nhiều năm, vói hình thức một nhà nữ bác học như vầy, mà sao đã không thực sự nhận ra rằng mình chỉ là ngưòi khách lạ từ nơi khác đến đây thăm viếng?
Ngay cả trong tình trạng như thế này, cái ngã ỏ bán cầu não Trái của tôi vẫn ương ngạnh giữ niềm tin rằng, mặc dù tôi đang bị bệnh ỏ não bộ nghiêm trong, tôi vẫn không sao! Cho nên, trong lúc lạc quan, tôi cũng tin sẽ hoàn toàn bình phục. RỒI hơi bực bội vì bệnh làm hỏng thòi khóa biểu làm việc sáng nay, tôi pha trò một mình:
“Được rồi, tôi bị xuất huyết não! Phải rồi, tôl đang bị xuất huyết não!
Nhưng tôi là ngưòỉ bận rộn với công việc. Bỏi vì tôi không thể làm cho sự xuất huyết ngưng lại, tôi sẽ nghỉ một tuân. Tôi sẽ tìm hiểu xem làm sao mà bộ óc tôi có thể tạo ra ảo giác tôi là người rất bận rộn. Sau đó, tôi sẽ làm việc trỏ lại đúng như thời khóa biểu đã định. Bây giờ tôi Phải làm gì? Gọi cấp cứu. Phải gọi cấp cứu ngay tức khắc”.
CHƯƠNG 4
KHÓ KHĂN KHI TỰ MINH GỌI CẤP CỨU
Tôi không biết chính xác là tôi bị vỡ mạch máu loại nào, nhưng chỉ biết là mạch máu đang vỡ từ bán cầu não Trái và máu đang đổ ra từng khối lượng lớn. Khỉ máu tràn ngập qua vùng suy nghĩ những vấn đề phức tạp ỏ vỏ não Trái, tôi bắt đầu mất khả năng nhận thức về các sự kiện này. Tôi chỉ còn có thể nhớ được một điều là lúc bấy gio Phải làm sao đến bệnh viện càng sớm càng tốt.
Nhưng gọi cấp cứu để được đưa đến bệnh viện là cả một vấn đề. Bỏỉ vì tôi không còn khả năng tập trung ý thức vào công việc nào được nữa. Cái ý nghi “Phải gọi bệnh viện cấp cứu” cứ nhảy ra nhảy vô, lúc biến lúc hiện trong đầu tôi, khiến tôi không biết đó có Phải là “mệnh lệnh” nên làm hay không. Hai bán cầu não làm việc chung nhau bấy lâu nay như một dàn nhạc hợp tấu rất hài hòa, khiến tôi có thể sinh hoạt bình thường trong thế giới này. Nhưng bây giờ, do vì sự khác biệt phần hành giữa hai bán càu, tôi cảm thấy khả năng ngôn ngữ và tính toán của bán càu Trái không còn nữa. Tôi không còn biết số nào là số điện thoại để gọi và gọi thì sẽ nói gì. Thay vào đó, tôi lại có cảm giác “an lành” len lỏi khắp người tôi, phát sinh từ bán cầu Phải.
Không còn cái biết “theo đường thẳng” (đã qua, bây giờ, sắp tới) và sự chỉ dẫn của bán cầu não Trái, tôi như Phải vật lộn để tìm hiểu thế giới bên ngoài. Tôi không còn phân biệt điều gì là quá khứ, hiện tại hay vị lai, mà chỉ thấy tất cả là những sự kiện riêng lẻ, biệt lập trong hiện tại, chẳng dính dáng gì đến nhau. Tôi cố gắng trong tuyệt vọng để lập lại sự hiểu biết thường ngày, để nối kết những sự kiện rời rạc thành một chuỗi tiến trình có ý nghĩa. Trong đầu lúc này tôi chỉ còn lặp đi lặp lại ý nghĩ: ‘Tôi đang cố gắng làm gì đây? Gọi cấp cứu! Tôi đang thảo một phương án gọi cấp cứu! Tôi đang làm gì đây?
Tôi Phải soạn cho được một kế hoạch gọi cấp cứu. Được rồi. Tôi Phải gọi cấp cứu”. Trước buôi sáng bị xuất huyết não này, bộ óc tôi biết phân loại, sắp xếp các dữ kiện đưa vào từ bên ngoài như sau: Tưỏng tượng như tôi đang ngồi giữa bộ óc với những tủ đựng “hồ sơ” xếp thành hàng dài. Khi tôi muốn tìm một ý nghĩ, ý tưỏng, hay một điều gì trong quá khứ, tôi sẽ nhìn qua các tủ “hò sơ” xem nó nằm ngăn nào. Khi đã tìm đúng tủ rồi, thì tôi biết tất cả “dữ kiện“ đều nằm trong đó và mỏ ra sử dụng. Nếu nhìn lần đầu mà không thấy ngăn tủ muốn tìm, tôi sẽ lặp lại lần nữa cho đến khỉ có mới thôi.
Nhưng buổi sáng này thì khác. Các ngăn đựng “hồ sơ” như bị đóng chặt và bị đẩy xa ra khỏ sự kiểm soát của tầm tay tôi. Tôi biết tất cả kiến thức của tôi nằm trong đó, nhưng không phân biệt được chúng đang ỏ ngăn nào. Tôi không biết làm sao nối kết lại với khả năng ngôn ngữ, kiến thức về đời sống, về những năm dài học hỏi. Tự nhiên tôi hơi buồn vì không biết mình có thể trỏ lại bình thường đượckhông.
Không còn khả năng ngôn ngữ và sự phân định thời gian, tôi như bị tách ròi khỏ cuộc sống và mọi sinh hoạt bình thường. Không còn ký ức, không còn khả năng phân tích và phê phán của não thùy Trái, tôi như người mà đầu óc bị che phủ bỏi một màn đen lớn, không biết mình là ai và có mặt trong đời này để làm gì!
Trong khi đó, nhịp máu đập ỏ đầu vẫn tiếp tục như búa bổ.
Và bây giờ, khi không còn liên hệ được với mọi vật quanh mình nữa, tôi có cảm tưỏng thân xác tôi đã tan chảy ra như chất loảng và hòa vào vũ trụ mênh mông.
Khi sự xuất huyết càng lúc càng trầm trọng thì sinh hoạt của não thùy Trái cũng ngừng bặt. Tôi không còn nhận thức gì được về các chi tiết và sự phân loại dữ kiện bên ngoài. Bán cầu não Phải giò không còn bị bán cầu não Trái chi phối nữa, nên đã tự do hoạt động. Như được giải thoát khỏi những lo âu, toan tính, phân tích, phê phán hằng ngày, bán cầu não Phải đã đưa nhận thức tôi đến một vùng trời kỳ diệu của làn sóng ngắn “theta", và tôi cảm thấy an lạc vô cùng.
Tôi không Phải là Phật tử và cũng không biết gì về Phật pháp, nhưng tôi có cảm tưỏng là tôi đã đạt tới cảnh giới mà người Phật giáo gọi là Niết Bàn, nơi mà tâm ý không còn bận rộn và mơ ước một điều gì nữa. Nơi đây, cảm giác của tôi là không còn toan tính, tranh đua, hơn thiệt; mà chỉ thấy thật thanh tịnh, bình an, đủ đầy phước báu và hòa làm một với vạn vật. Và hiển nhiên, một phần của con người tôi đang thích thú với cảm giác này. Nhưng còn phần khác trong tâm thức vẫn thúc giục tôi Phải kêu gọi cấp cứu vì cảm giác đau nhức ỏ đầu vẫn còn dữ dội. Nhờ sự thôi thúc không ngừng này mà cuối cùng tôi đã được giải cứu.
Tại sao tôi không nhấc điện thoại lên và gọi số cấp cứu 9-1-1 ? Vì phần não Trái liên hệ tới những con số đã bị máu tràn ngập. Các tế bào ỏ đây đã bị ngập máu nên ý niệm về con số đã không còn hiện hữu. Tại sao tôi không khập khểnh bước ra đường, ngoắc một người lạ và nhờ họ gọi cấp cứu ? Ý tưỏng này không thể có được vì não thùy Trái đã bị tê liệt. Trong tình trạng bất lực này, tôi chỉ còn một ý tưỏng mơ hồ là Phải làm sao để gọi cấp cứu!
Những gì tôi có thể làm bấy giò là ngồi đó và đợi, ngồi kiên nhẫn với cái điện thoại bên cạnh và kiên nhẵn trong im lặng. Tôi ngồi đó một mình cô đơn trong ngôi nhà rộng với những ý tưỏng lạ lùng xâm chiếm tôi. Chúng thoắt hiện thoắt biến như trêu chọc. Tôi ngồi đó đợi chờ một giây phút tâm trí trỏ lại rõ ràng hơn, để tôi có thể nối kết hai ý nghĩ thành ý tưỏng cụ thể để có thể thực hiện kế hoạch cấp cứu. Tôi vẫn tiếp tục im lặng và tự hỏi “Tôi đang làm gì? Gọi cấp cứu. Gọi cấp cứu. Tôi đang cố gắng gọi cấp cứu đây!
Trong hi vọng đợi chờ phút “tâm trí rõ ràng” sẽ đến, tôi để cái điện thoại trên bàn viết trước mặt và chăm chăm nqó vào các con số. Ránn nhớ lại xem Phải gọi những số nào. Tôi cảm thấy não Trái tôi trống không và trên đầu rất đau khỉ tôi chăm chú muốn tìm cách nhớ lại. Mạch máu bên đầu gỉụt liên hồi... “Chúa ơi! Con đau đầu quá!”.
Thình lình, một số điện thoại loáng hiện lên. Đó là số của Mẹ tôi. Tôi mừng run vì đã có thể nhớ được số của bà. Thật là tuyệt diệu vì trí tôi đã có thể nhớ được số điện thoại, mà còn biết là của ai nữa. Nhưng cũng thật là vô dụng trong tình trạng khẩn cấp này. Nhà mẹ tôi cách đây mấy tiểu bang và xa hơn ngàn dặm; gọi bà vào lúc này và nói rằng tôi bị xuất huyết não, thì chắc bà Phải ngã ra bất tỉnh. ‘
Tôi Phải tìm ra một kế hoạch nào khác!”. Rồi tôi nhớ đến văn phòng tôi ỏ trường Harvard. Phải rồi, tôi đã làm việc ỏ phòng Nghiên cúu Não bộ của Đại học Harvard từ nhiều năm. Những khỉ đi khắp các tiểu bang diễn thuyết và kêu gọi mọi người hãy đóng góp bộ óc người chết cho Ngân hàng Não ỏ đây để dùng vào việc nghiên cứu, thì tôi bảo họ cứ gọi số miễn phí 1-800-... của trường. Nhưng buổi sáng này tôi không thể nhớ được gì rõ ràng cả! Tôi chỉ mơ hồ biết tôi là ai và đang muốn làm gì. Một màn sương phủ kín trí óc tôi. Tôi cố gắng nhớ số điện thoại văn phòng. “Tôi Phải gọi bạn ỏ văn phòng. Nhưng... số mấy?”.
Nơi làm việc, muốn liên lạc với nhau không bao giờ Phải gọi nguyên số. Chỉ càn bấm 4 con số chót. Thành ra trong bộ nhớ của óc tôi không bao giờ có nguyên số điện thoại của bất kỳ đồng nghiệp nào. Bỗng tôi nhận ra các danh thiếp để trên bàn. Ò, đây là danh thiếp của trường Harvard, vì nó có dấu hiệu đặc biệt. Cầm lên, tôi biết là danh thiếp của người bạn mà văn phòng sát bên tôi. Nhưng tôi không đọc được số điện thoại. Các con số bây giò, dưới mắt tôi, chỉ là những vệt đen vô nghĩa. Tên của người bạn, giáo sư tiến sĩ Stephen Vincent, cũng vậy. Tôi không còn khả năng nhận diện chữ nghĩa nữa.
Cuối cùng, sau gần một tiếng đồng hồ cố gắng trong mệt mỏi và đau nhức, với những chớp lóe sáng ngắn ngủi trong đàu, tôi đã bấm được mấy số trên điện thoại mà có hình dạng giống như số trên danh thiếp. Cầm ống nghe lên tai, tiếng nói quen thuộc của Vincent - đồng nghiệp ngồi sát văn phòng tôi - sao nghe như tiếng của một con dã nhân, tôi không hiểu gì cả. Và tôi cũng lên tiếng, nhưng không ra
tiếng.
Tôi cố dùng hết hơi sức từ trong buồng phổi hét lớn: “Tôi là Jillẽ Tôi cần giúp đỡ”, Về sau, Vincent kể lại là anh ta cũng chẳng nghe tôi nói được gì, chỉ nghe tiếng “gầm gừ‘ của dã thú; nhưng Vincent nhận ra giọng của tôi và thấy tôi trể hơn nửa giờ rồi, biết là tôi có chuyện nên đã vội mang xe đến đón. Thì ra tôi đã không còn khả năng ngôn ngữ đọc, viết, nói... gì nữa, sau khi các tế bào não Trái bị tràn ngập trong vũng máu. Nhờ vào não bộ Phải, tuy tôi không hiểu Vincent nói gì, nhưng nghe ra “cách nói” nhẹ nhàng và quan tâm của anh, tôi yên trí anh hiểu tôi nói gì và sẽ đến giúp. Cho nên lúc ấy tôi thấy an tâm. Tôi đã làm hết sức mình một công tác thật “khó khăn” và tôi đả thành công.
CHƯƠNG 5
KHI BÁN CẦU NÃO TRÁI NGỪNG HOẠT ĐỘNG
Trong lúc ngồi chờ bạn đồng nghiệp đến chỏ đỉ bệnh viện, tôi chợt nhớ là Phải gọi bác sĩ gia đình. Tôi ít khi đi bác sĩ vì tình trạng sức khỏe-quá tốt và cũng vì tôi rất bận rộn. Bây giờ Phải báo cho bác sĩ của tôi biết là tôi Phải vào “cấp cứu”. Tôi mới đi bác sĩ cách đây 6 tháng, nên danh thiếp vẫn còn trong xấp trên bàn viết và vì cái dấu hiệu Harvard rất dễ nhớ. Dễ nhớ, nhưng không Phải dễ tìm. Tôi quên là tôi không còn khả năng phân biệt chữ nghĩa hoặc con số. Tôi nhìn mãi các danh thiếp nhưng không thể chọn ra tấm nào là của bác sĩ tôi.
Tất cả chữ nghĩa và con số trên danh thiếp chỉ còn là những chấm đen dưới mắt tôi bấy giờ. Chán nản lẫn hãi hùng, tôi nhận ra là khả năng tiếp xúc với ngoại vật của tôi đã tồi tệ hơn tôi tưỏng. Mắt tôi không còn phân biệt được hình dáng và màu sắc của mọi vật thể xung quanh. Ngay cả thân thể tôi, tôi cũng không phân biệt nó là thể đặc hay thể lỏng, nên không còn dám di động từ chỗ này sang chỗ khác. Và trí nhớ dài hạn hay ngắn hạn cũng không còn. Thật là một công việc đáng sợ khi Phải chỉ ngồi yên đó với một đầu óc im vắng, trống không như lặng chết, trong tay cầm một xấp danh thiếp và cố gắng nhớ xem mình Phải làm gì! “Tôi là ai? Tôi đang làm gì đây?” là câu hỏ không có câu trả lời, bỏi đầu óc không còn hiểu được thực trạng của ngoại cảnh. Và tôi cũng mất đi cảm giác Phải gấp rút tới bệnh viện.
Nhưng cũng kỳ lạ thay, phần tiền đình của não bộ Trái vẫn còn giữ được ý tưỏng là tôi Phải đến bệnh viện. Cơn đau nhói trẻn đầu thỉnh thoảng đưa lại những giây phút “sáng suốt” khiến tôi nối kết được với thực tại, biết Phải làm gì và làm thế nào. Cuối cùng, tôi đã lựa ra được tấm danh thiếp của bác sĩ riêng nhờ vào dấu hiệu trường Harvard ỉn trên góc Trái. Ở thời điểm này, cái ý nghĩ “nói chuyện qua điện thoại” cho tôi cảm giác thật là kỳ lạ. Sao mà khó hiểu quá vậy? Làm sao mà chỉ bấm vào mấv con số. mà môt người ngồi ỏ đâv lai có thể nói chuyện với một người ỏ xa trong một không gian khác biệt? Và người này nói mà người kia nghe và hiểu?
Vi tôi sợ sẽ mất sự chú ý về công việc đang làm, tôi đẩy xấp danh thiếp qua một bên. Não bộ tôi đang đi dần vào sự phân hóa trầm trọng, sự hiện hữu của các con số trước mắt tôi dàn trỏ nên kỳ lạ như chưa tùng thấy bao giờ. Tôi ngồi đó, im lặng, thần trí như tỉnh như mê. Tôi nhìn nhũng con số lạ lùng trên danh thiếp và trên điện thoại, rồi cố gắng bấm đều đặn từng con số ngoằn ngoèo trên danh thiếp
giống với con số ngoằn ngoèo trên điện thoại. Tôi Phải lấy ngón tay trỏ của bàn tay Trái che lại những số vừa bấm xong, để ngón tay trỏ của bàn tay xụi bên Phải không lẫn lộn. Tôi Phải làm như vậy vì không còn nhớ được cái gì mới vừa làm. Cảm giác mệt mỏi vì đã làm một việc quá sức khó, tôi còn lo âu là tôi sẽ quên mát mình đang muốn làm gì. Tôi Phải lặp đi lặp lại trong đầu: “Đây là Jill Taylor. Tôi đang bị xuất huyết não.
Đây là Jill Taylor. Tôi đang bị xuất huyết não”. Nhưng khi điện thoại đàu kia reo và tôi cố gắng lên tiếng, tôi chết điếng cả ngưòỉ khi khám phá ra tôi không còn nói được. Tôi vẫn nghe được câu tôi muốn nói vang lên trong đàu, nhưng thực tế âm thanh không phát ra ỏ miệng vì thanh quản đã không còn làm việc. Ngay cả tiếng ồ ồ như dã nhân mà tôi đã gọi bạn đồng nghiệp mới đây, cũng không còn. “Chúa ơi! Con không thể nói. Con không thể nói nữa”. Sợ đầu dây kia nghĩ rằng đây là có người gọi “phá đám” và họ sẽ gác máy, tôi vội cố hết sức bình sinh từ buồng phổi, hét lên: “Đừng gác máy; xin đừng gác máy”. Thì tôi chỉ nghe được: “Uhhhh, ahhh, thhhhhhh, thhhhììzzzzăa...”.
Nhưng rồi điện thoại cũng được chuyển cho bác sĩ. Cũng may, bác sĩ của tôi mới vào tới văn phòng. Nghe một hồi, bà cũng đoán được tình trạng của tôi, nên đã bảo tôi đi đến bệnh viện Mount Auburn. Nhưng tôi nghe mà không hiểu được gì. Bà Phải ôn tồn kiên nhẫn lặp lại thật chậm mấy lần, tôi mới hiểu. Thì ra, khi nghe tiếng nói của ngưòi khác, tôi không còn khả năng phân biệt được âm thanh và nghĩa lý của âm thanh.
Tôi có cảm giác càng lúc tôi càng không thể liên lạc được với thế giới bên ngoài. Lần đầu tiên, tôi nhận ra mình không Phải là không thể bệnh, là “bất tử’. Không Phải như cái máy vi tính bị “yếu” hay “chậm” thì tắt nó đi, rồi “mỏ”trỏ lại thì nó sẽ mạnh và nhanh hơn. Tôi nhận ra con người sống không Phải chỉ nhờ các tế bào cơ thể khỏe mạnh, mà còn Phải có bộ óc với các tế bào thần kinh liên lạc với nhau một cách thích hợp và hữu hiệu.
Bây giờ thì tôi cảm thấy cái chết đã gần kề. Mặc dầu não bộ bên Phải cho tôi cảm giác an lành vô hạn, tôi thực sự chưa muốn chết. Tôi vẫn cố gắng trong tuyệt vọng nắm giữ những gì còn cung cấp được cho tôi từ não thùy Trái. Tôi biết hiện trạng đã làm tôi không còn là người bình thường. Ý thức của tôi đã trỏ nên mơ hồ, không còn khả năng phân biệt, phân tích và phán đoán những dữ kiện xảy ra chung quanh. Không còn sự vận hành của não thùy Trái để nhận biết ra tôi là một cá nhân với hệ thống sinh học đặc biệt gồm những cơ phận riêng lẻ kết hợp, não thùy Phải đã tự do đưa tôi vào một vùng tâm thức “bình an và vui tươi” chưa bao giò được biết.
Trong khi ngồi im lặng nghĩ đến cái chết trong an lạc, tôi tự hỏ mình có thể trỏ nên bất lực đến mức độ nào khi bộ óc Trái bị hư hại đến không thể cứu vãn được. Tôi thử ước đoán có bao nhiêu mạch thần kỉnh đã bị hư hỏng, ảnh hưỏng đến phần trí tuệ cấp “cao” và liệu có hi vọng gì thiết lập chúng lại. Tôi không muốn bao năm đã bỏ công ra ăn học đến trình độ này, rồi bỗng dưng Phải chết ỏ cái tuổi đời rất trẻ, hoặc bị liệt bại trí năng thành người vô dụng. Nghĩ đến đây, tôi gục đầu vào tay và bật khóc. Rồi tôi cầu nguyện thầm thì trong tâm,
“Lạy Chúa, đừng bắt con chết; đừng để con chết!...”. Trong sự ỉm vắng vô cùng đó, tôi nghe văng vẳng lời khuyên, “Hãy bình tĩnh; yên lặng, và chờ đợi...”. Tôi thấy an ổn trong tâm hơn.
Ngồi trong phòng khách chò bạn đến cứu mà tôi tưỏng như vô tận. Nhưng rồi anh bạn cũng đến. Tôi không nói được gì, chỉ dùng tay Trái đưa ra tấm danh thiếp bác sĩ gia đinh. Anh gọi ngay bác sĩ để hiểu rõ lời chỉ dẳn, rồi chỏ tôi gấp tới bệnh viện Mount Auburn.
Sau một hồi chậm chạp để điền giấy tò theo thủ tục, tôi được đưa di chụp hình bộ óc. Bấy giờ tôi vẫn còn tỉnh đôi chút để nghe được kết quả đúng như tôi đã tự chẩn đoán lúc ỏ nhà, là tôi đã bị một loại tai biến đứt mạch máu rất ít khi xảy ra, ỏ não thùy Trái, khiến não thùy này hiện đang bị tràn ngập trong vũng máu. Tôi được cho uống sơ khởi một thứ thuốc cầm máu và chống sưng, rồi được bỏ lên xe cấp cứu đưa sang bệnh viện lớn chuyên khoa gần bên.
Tôi còn nhớ được người y tá theo xe lo cho tôi rất tận tình với tấm lòng của người lương y. Anh ta sửa lại chiếc mền đắp cho tôi ấm và che bớt ánh sáng cho tôi không bị nhức mắt. Anh lại vỗ nhẹ vai tôi và an ủi, “Cô không sao, không sao đâu!”. Những cử chỉ này thật quý giá đối với bệnh nhân trong tình trạng nguy cấp.
Sau đó, hình như tôi đã mê man. Tôi đã thoát khỏ mọi lo âu, phiền muộn.
Chuyên chết sống bây giò là chuyện của bệnh viện và các bác sĩ chuyên khoa ỏ đó. Tôi đã làm hết mọi sự tôi có thể làm. Tôi chỉ biết rằng suốt buổi sáng này tôi đã chứng kiến từng giai đoạn suy thoái của cơ thể và các mạch thần kinh ỏ não bộ Trái của tôi.
Trong suốt 37 năm nay, lúc nào tôi cũng vui vẻ và hãnh diện vì các DNA của tôi đã tinh vi sắp xếp cho tôi có một cơ thể khỏe mạnh, lỉnh hoạt và đầy sức sống. Nhưng giờ thì hình như các mạch năng lực của khối tế bào cơ thể đang sắp dừng hoạt động. Sáng hôm nay, trước trưa ngày 10 tháng 12 năm 1996, các dòng điện trong cơ thể tôi như tắt dàn. Khi cảm thấy năng lượng thoát ra từng khối lớn khỏi cơ thể, thì ý thức của tôi cũng dần dần không còn điều động hay liên hệ gì được với các giác quan và tứ chi. Tôi biết tôi không còn là người đạo diễn của cái thân thể này nữa. Chung quanh tôi bây giò trỏ nên thật im lặng. Trong cái vắng bặt của hình ảnh, âm thanh, mùi vị và cảm giác, tôi không còn chút gì lo sợ và đau đớn nữa. Và cũng như phần lớn mọi người sắp chết, tôi ước ao được tỉnh táo trỏ lại để được chứng kiến mình về đâu trong sự chuyển tiếp trọng đại này.
CHƯƠNG 6
CHỈ CÒN NÃO TRÁI HOẠT ĐỘNG
Đến bệnh viện chuyên khoa, tôi được đưa vào trung tâm cấp cứu mà nơi đó ồn ào như một tổ ong khổng lo. Thân thể tôi đã trỏ nên nặng nề và bất động. Nó đã mất hết tất cả nội lực, giống như cái bong bóng xì hơi và xẹp hẳn. Nhân viên bệnh viện bu quanh tôi. Ánh đèn chói chang và âm thanh ồn ào đã làm cho thân tôi đau đớn như bị một đám côn đồ hành hạ. Tôi như đã gần chết mà họ cứ hỏi những câu tôi không hơi sức đâu để trả lời. Mà ví tôi có muốn trả lời, họ cũng không thể nghe và hiểu được.
‘Điền những câu trả lời vào bản này; cầm và bóp Trái banh này; ký tên vào đây...”. Họ bảo với tôi như vậy khi tôi đang nửa tỉnh nửa mê. Và tôi đã nghĩ, “Thật là vô lý. Các người không thấy tôi đang gần chết rồi đây hay sao? Hãy chậm chậm với tôi và hãy kiên nhẫn một chút. Các người làm đau tôi quá”. Họ càng cố mạnh tay để làm cho tôi tỉnh lại thì tôi càng ráng trốn sâu vào nội tâm để tránh sự thô bạo của họ. Tôi cảm giác như bị họ nắn bóp, đâm, chém, và đau đớn như một con đĩa bị rắc vôi. Tôi muốn la lên, “Hãy để tôi yên!” nhưng tiếng la không thoát được ra khỏi cửa miệng. Rồi tôi bất tỉnh, như một con vật bị thương đã tuyệt vọng thoát ra khỏi những bàn tay đang cấu xé nó.
Khi tôi tỉnh dậy một lúc sau bữa trưa hôm đó, tôi rất ngạc nhiên thấy mình vẫn còn sống. (Tôi cảm thấy vô cùng biết ơn các bác sĩ và y tá đã hết sức cứu tôi sống lại, mặc dù không ai biết làm sao tôi có thể hồi phục và hồi phục tới mức độ nào.) Tôi đang mặc áo của nhà thương và nằm ỏ phòng riêng. Vì không còn chút hơi sức nào, tôi nằm như một đống sắt vụn nặng nề không thể nhúc nhích. Tôi không
cảm nhận được thân thể tôi dài ngắn tới đâu. Vì không còn ý niệm về không gian ba chiều, tôi tưỏng như tôi bao trùm cả vũ trụ. Nhịp máu trên đầu vẫn còn làm tôi đau như búa bổ. Mỗi hơi thỏ hít vào như cực hình ỏ be sườn.
Còn ánh đèn chói vào mắt thì như lửa đốt trong bộ óc. Không thể kêu với ai, vì không nói được, để tắt bớt ánh sáng, tôi trỏ mình một cách khó khăn úp mặt vào tấm trải giường. Tôi không nghe được gì ngoài nhíp tim đều đặn. Những nhịp tim này mạnh và lớn đến nỗi làm bộ xương rung động theo và nhức nhối các thớ thịt. Tôi muốn oà khóc như một đứa bé sơ sinh thình lình Phải tiếp xúc với một môi trường hỗn tạp. Không còn khả năng nhận biết mình là ai, quá khứ đã làm gì và hiện tại ra sao, tôi như đứa trẻ trong cơ thể một người lớn. Chỉ vì não thùy Trái của tôi không còn hoạt động!
Rồi có hai chuyên viên bước vào phòng. Họ xì xào những gì thì tôi không thể hiểu. Nhưng nhìn cách họ nói với các điệu bộ thì tôi biết tình hình của tôi thật nghiêm trọng. Vói những tấm ảnh chụp não bộ của tôi có cái lổ hổng trắng khổng lồ ỏ giữa não, không cần Phải là một tiến sĩ chuyên môn về giải phẩu não bộ cũng biết rằng lổ hổng kia không nên có ỏ vị trí đó.
Bộ óc Trái của tôi như vậy là đã bị máu tràn ngập và nguyên cả não bộ sưng lên vì đã bị thương. Trong ỉm lặng, tôi cầu nguyện: “Tôi không nên ỏ lại đây lâu hơn nữa! Tôi buông bỏ tất cả! Sức sống của tôi không còn và sự sống của tôi cũng đã ra đi. Thật là không Phải khi tôi còn quyến luyến ỏ lại đây. Lạy Chúa toàn năng, con bây giò đã là Một cùng với vũ trụ. Con đã hòa đồng với dòng sông Vĩnh cữu tới mức độ không thể trỏ lại đòi sống này được nữa. Vậy mà con hãy còn bị ràng buộc ỏ đây. Bộ óc mong manh của cái thùng chứa sinh học này đã hư hỏng và không còn thích hợp cho một cá thể thông minh nữa! Con không còn thích hợp ỏ lạỉ đây!”.
Không còn bị ràng buộc tình cảm vói bất cứ người nào và vật gì xung quanh, tiềm thức của tôi đã tự do trôi theo dòng sông An lạc. “Thả tôi ra. Để tôi đi. Tôi buông bỏ tất cả!”. Tôi muốn chạy trốn khỏ cái thân xác đau đón và rối loạn vận hành này. Trong một thóang, tôi cảm thấy hết sức tuyệt vọng rằng mình đã còn sống sót. Toàn thân tôi bây giờ lạnh ngắt, nặng nề và đau đớn vô cùng. Những mệnh lệnh từ bộ óc đến thân thể đã không còn hữu hiệu đến nỗi tôi không còn nhận ra hình thể vật chất của tôi.
Tôi có cảm giác tôi là một sinh vật bằng điện mà có một bộ phận bị chạm mạch nên bốc khói và tan chảy. Tôi trỏ thành vật phế thải, bị bỏ qua một bên. Nhưng tôi vẵn còn ý thức. Ý thức này khác với cái ý thức tôi biết trước kla. Bỏi vì cái ý thức trước kia giúp tôi biết được thế giới bên ngoài. Những chi tiết này được sắp xếp và cất giữ trong các mạch điện của não bộ. Bây giờ các mạch điện đó ngừng hoạt động, tôi trỏ nên bất động và vụng v'ê với cái ý thức mới. Làm sao tôi có thể là tiến sĩ Jill Taylor khi tôi không biết cô ta là ai, đã làm gì, kiến thức ra sao và ưa thích những gì trong cuộc sống này?
Tôi còn nhớ ngày đầu tiên bị xuất huyết não với nỗi hãi hùng cay đắng nhưng ngọt ngào. Khi não thùy Trái không còn hoạt động bình thường được nữa, tôi mất đi ý thức về giới hạn của thân thể vật chất. Tôi cảm thấy mình như vị thân trong cổ tích, bị nhốt ngàn năm trong lọ nhỏ, vừa thoát ra khỏi lọ và lớn trùm trong không gian.
Năng lượng tỉnh thàn thoát ra khỏi thân xác, ò ạt như con cá voi khổng lồ đang lướt nhanh trên mặt đại dương với sức sống mãnh liệt. Khi cơ thể vật chất không còn giới hạn, tôi cảm thấy một niềm an vui trùm khắp mà tôi chưa từng thấy trong đòi. Và với tâm thức đang cuồn cuộn trong dòng chảy an lành và thanh tịnh đó, tôi thấy rõ ràng là không làm sao tôi có thể bắt ép cái khối năng lượng lớn lao này quay trỏ lại vào tấm thân nhỏ bé của tôi. Được vào cảnh giới Cực Lạc là một sự trốn chạy tuyệt vời của tôi khi não Trái bị tàn phá. Tôi như đang hiện hữu ỏ một vùng trời thật xa lạ - xa lạ hẳn vói những thông tin mà tôi được biết lâu nay. Một điều rất rõ ràng là trong thế giới này, cái
“Tôi” không còn nữa! Cái “Tôi” mà tôi được dạy dỗ Phải giữ gìn và trau chuốt từ bé đến lớn, đã không còn sống sót sau tai họa xuất huyết. Tôi cũng biết là tiến sĩ Jill Taylor đã chết vào buổi sáng xuất huyết não này rồi. Vậy ai còn sống sót?
Không còn cái Trung tâm ngôn ngữ ỏ bán cầu Trái bảo “Tôi là tiến sĩ Taylor, là nhà nghiên cứu tế bào não bộ; tôi ỏ địa chỉ này và có thể liên lạc bằng số điện thoại này...”, tôi thấy mình không có bổn phận đóng vai cô ta nữa. Điều này cũng thật kỳ lạ về mặt cảm giác; nhưng bỏi vì không còn mạch thần kinh nào nói cho tôi biết cô ấy tính tình thế nào, ưa gì, ghét gì, cái Ngã của cô ra sao, có hay chỉ trích, phê bình người khác không? Tôi thật không có chút ý niệm gì về cô ấy cả! Lại thêm, trên thực tế, với những thiệt hại lớn lao về mặt sinh học - một nửa bộ óc đã không còn hoạt động- tôi càng không nên bắt chước giữ vai trò cô ta. Cô tiến sĩ Jill Taylor thực sự không còn hiện hữu. Tôi đã không biết gì về cuộc đòi cô,những liên hệ bạn bè, việc làm, thành công, thất bại của cô thì làm sao tôi đóng vai cô được?
\
Mặc dù tôi buồn rầu về cái chết của não thùy Trái và về cô gái đó, hiện tại tôi cảm thấy được giải thoát và rất nhẹ lòng. Được biết cô tiến sĩ Taylor đã lớn lên trong nhiều phiền muộn, sân hận và cả một đời mang theo những mối hỉ nộ mà chắc cô phải tốn kém rất nhiều năng lượng để nuôi dưỡng chúng! Cô đã nhiệt tình trong công việc, với lý tưỏng và rất năng động. Nhưng dù cô có dễ thương hay đáng kính, trong cái hình hài hiện tại của tôi, tôi không thể tiếp tục cuộc sống như cô.
Tôi đã không còn nhớ đến người anh bệnh hoạn, đến cha mẹ tôi đã ly dị từ lâu và những công việc làm đã mang lại cho tôi rất nhiều ưu tư và áp lực. Tóm lại là tôi không còn chút trí nhó nào về quá khứ. Tôi cảm thấy vừa giải thoát, vừa an lạc.
Trong suốt cuộc đời 37 năm qua, hình như lúc nào tôi cũng nhiệt tình lo làm đủ mọi thứ việc, mà thứ nào cũng phải hoàn tất theo hạn kỳ. Trong ngày đặc biệt hôm nay, lần đầu tiên tôi học được ý nghĩa của bài học về sự sống: Chỉ là đơn giản... sống!
Khi não thùy Trái không còn làm việc và trung tâm ngôn ngữ đã đóng, đồng hồ sinh học trong tôi cũng ngừng. Thời gian không còn được phân chia ra từng giờ phút ngắn ngủi nữa. Thòi gian với tôi bây giờ là thời gian “mỏ“, không có kỳ hạn; nên tôi không còn phải gấp gáp cho việc gì cả. Tương tự như dạo chơi trên bãi biển hay chỉ thơ thẩn ngoài vườn hoa, tôi bây giờ đổi từ ý thức phải làm đúng giờ theo thời biểu đã định của não thùy Trái, thành ý thức chỉ “là” sống, “là” hiện hữu của não thùy Phải. Tôi siêu việt chính mình từ cảm thấy nhỏ nhoi và biệt lập sang vĩ đại và hòa đồng với vũ trụ. Tôi không còn suy nghĩ bằng ngôn ngữ, lo lắng về quá khứ hay tương lai; mà chỉ còn khả năng hiểu biết bằng hình ảnh trong hiện tại, ỏ đây và bây giờ. Và cái hiện tại, ỏ đây và bây giò... luôn luôn đẹp vô cùng!
Khi tôi không còn thấy mình là một vật thể cứng rắn, có hình dáng cô' định, một đơn vị sinh học riêng biệt với các hữu thể chung quanh, thì tất cả ý niệm về cái “Tôi” cũng hoàn toàn biến mất. Về phương diện sinh học, ỏ trình độ hiểu biết sơ đẳng nhất, con người chỉ là một hiện hữu có dạng chất lỏng.
Thật vậy, tôi là một chất lỏng! Mọi thứ chung quanh chúng ta, giữa chúng ta, trong chúng ta, về chúng ta, hay chính bản thân ta đi nữa...đều chỉ là những nguyên tử và phân tử của những chát lỏng đang rung động trong không gian. Vậy thì cái “Tôi”, cái “Ngã” của chúng ta nằm ỏ chỗ nào? Mặc dù trung tâm ngôn ngữ ỏ não thùy Trái thích định nghĩa “ngã” là TỒI, một cá nhân riêng biệt, một khối đặc và cụ thể, nhưng người có học nào cũng biết chúng ta đều được hình thành như nhau bằng hàng ngàn tỉ li tỉ tế bào với nước trong đó và tất cả chúng ta đang “là” trong sự rung động không ngừng với tần số cực kỳ nhanh.
Não bộ Trái của tôi đã được huấn luyện từ bao nhiêu năm để sản sinh ra một nhận thức rằng tôi là một cá thể cứng rắn, độc nhất và khác biệt với mọi người. Bây giờ, bỏ đi sự kiểm soát của các mạch thần kinh ỏ não bộ Trái, não bộ Phải được tự do sinh hoạt theo cách nhìn của chân lý vĩnh cữu. Tôi nhận ra mình không phải là một sinh vật nhỏ bé, riêng biệt và cô độc. Tôi không phải hiện hữu độc lập mà là “liên lập” với mọi người. Tâm hồn tôi mỏ lớn ra cùng vũ trụ và bay lượn vui tươi trong khắp biển tròi tự do. Đối với nhiều người, cái ý tưỏng cá nhân chúng ta chỉ là hợp chất lỏng, bỏ vào bình chứa hình gì sẽ ra dạng đó và tâm hồn chúng ta rộng lớn như vũ trụ... làm cho cảm thấy không được “yên ổn”. Chỉ vì ý thức từ não bộ Trái và giáo dục sai lầm đã tạo ra.
Nhưng rõ ràng khoa học đã chứng minh rằng mỗi con người chúng ta là do tỉ tỉ nguyên tử vật chát hợp lại và nhẹ nhàng rung động. Chúng ta được kết hợp bằng hàng tỉ túi nhỏ đầy chất lỏng trong một thế giới chất lỏng và ỏ đó tất cả đều hiện hữu trong sự rung động. Các hiện hữu có khác nhau chỉ do mật độ tập hợp phân bào khác nhau. Nhưng nói chung thì tất cả đều là tập hợp của âm điện tử, dương điện tử, trung hòa tử... hài hòa trong một vũ điệu tuyệt vời. Giữa bạn và tôi, và cả khoảng cách không gian nữa, dù là một phần nhỏ đến đâu, cũng chỉ là nguyên tử vật chất và năng lượng mà thôi. Tan ra là năng lượng, hợp lại là nguyên tử vật chất.
Thật sự mắt tôi không còn “thấy” các sự vật rời rạc nữa, mà là thấy năng lượng của các vật thể quyện lẫn vào nhau, tương tự như những tranh vẽ của trường phái Ấn Tượng. Tâm thức tôi lúc này thật tỉnh táo và tôi nhìn thấy mọi hiện hữu đều có năng lượng quyện lấy nhau, di động cùng nhau như cùng chảy trong một dòng sông. Tôi không còn nhận ra vật thể có ba chiều trong không gian và cũng không phân biệt màu sắc nữa. Ngay cả khi nhìn con người, tôi chỉ thấy họ là những khối năng lượng di động không màu sắc, dù họ có mặc y phục nhiều màu.
Những ngày trước kia, trước buổi sáng này, khỉ tôi còn hiểu con người là một vật thể rần, tôi có khả năng cảm thấy đau buồn vì mất mát, hoặc về thể chát - chết hay bị thương, hoặc về tình cảm - thiệt thòi hay mất mát. Bây giờ chỉ còn não thùy Phải hoạt động, tôi không còn thấy đau buồn hay mất mát gì cả. Mà thấy tất cả chỉ là sự chuyển đổi từ vật chất ra năng lượng, chứ nào có mất mát đi đâu. Cho nên hiện tại dù bị thương nặng ỏ đầu, một cảm giác không thể quên được đã xâm chiếm hồn tôi là sự bình an cùng cực. Vì vậy, tôi rất yên tâm. Nhưng rồi tôi lại nghĩ ra như vậy tôi là người “bất thường”. Làm sao tôi giải thích cho mọi người hiểu được rằng những điều tôi nói trên là sự thật...
HỒNG HÀ NỮ SĨ GIÁNG CƠ
Nữ Trung Tùng Phận
Chú thích
1. Giới thiệu tác phẩm Nữ Trung Tùng Phận.
2. Tiểu sử Bà Đoàn Thị Điểm.
3. Mục đích giáo dục của Nữ Trung Tùng Phận.
4. Những giới hạn thời gian.
5. Tứ Đức và Tam Tùng của người phụ nữ thời nay.
6. Gỉải thích hình bìa, tên sách, khảo đính.
7.0. Nữ Trung Tùng Phận nguyên văn.
7.1. Nữ Trung Tùng Phận chú thích từ câu 001 đến câu 356.
7.2. Nữ Trung Tùng Phận chú thích từ câu 357 đến câu 724.
7.3. Nữ Trung Tùng Phận chú thích từ câu 725 đến câu 1104.
7.4. Nữ Trung Tùng Phận chú thích từ câu 1105 đến câu 1401.
8. Phụ lục: Chinh Phụ Ngâm.
9. Hướng dẫn tìm các: Từ ngữ, Thành ngữ, Điển tích
7.2. Nữ Trung Tùng Phận chú thích từ câu 357 đến câu 724.
7.3. Nữ Trung Tùng Phận chú thích từ câu 725 đến câu 1104.
7.4. Nữ Trung Tùng Phận chú thích từ câu 1105 đến câu 1401.
8. Phụ lục: Chinh Phụ Ngâm.
9. Hướng dẫn tìm các: Từ ngữ, Thành ngữ, Điển tích
Đoàn Thị Điểm Giáng cơ bút viết tại Toà Thánh Cao Đài
ĐỨC NGUYỆN GIỚI THIỆU & CHÚ THÍCH
Nữ Trung Tùng Phận
- Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
-Toà Thánh Tây Ninh
-Thánh Thất Hóc Môn-SAIGON
-Toà Thánh Tây Ninh
-Thánh Thất Hóc Môn-SAIGON
Nữ Trung Tùng Phận là một tác phẩm độc nhứt vô nhị trong kho tàng văn
chương Việt Nam, vì nó không do một con người bằng xương bằng thịt nơi
cõi phàm trần sáng tác, mà do một Đấng Nữ Tiên nơi Thượng giới dùng
huyền diệu Tiên gia trong Đạo Cao Đài giáng cơ viết ra.
01.Dụng văn hóa trau tria nữ phách,
Lấy kinh luân thúc thách quần hồng.
Gươm thư giúp sức gươm hùng,
Điểm tô nghiệp cả con Rồng cháu Tiên.
Chú thích:
Văn hóa: Văn là vẻ đẹp, hóa là biến đổi. Nghĩa đen, văn hóa là biến đổi trở nên tốt đẹp. Nghĩa tổng quát, văn hóa là tất cả những công trình vật chất và tinh thần của con người đã sáng tạo ra để làm cho cuộc sống được tốt đẹp hơn. Nghĩa hẹp, văn hóa là văn chương để giáo hóa con người. Trau tria: Giồi mài cho trở nên tốt đẹp và tài giỏi hơn. Nữ phách: Phách là tinh thần, khí phách. Nữ phách là khí phách của người phụ nữ, tinh thần của người phụ nữ. Kinh luân: Trong công việc của người thợ dệt, chia các sợi tơ ra gọi là Kinh, so các sợi tơ lại cho bằng đầu thì gọi là Luân. Kinh luân, dùng theo nghĩa bóng là sắp đặt, sửa sang các việc chánh trị trong nước một cách khéo léo tài giỏi như việc kéo tơ dệt lụa. Thúc thách: Thúc giục và thách đố.
Quần hồng: Cái quần màu đỏ, chỉ đàn bà con gái. Thời xưa ở bên Tàu, các nhà giàu thường cho con gái mặc quần màu đỏ. Gươm thư gươm hùng: Thường nói là Gươm thư hùng hay Thư hùng kiếm. Gươm thư là cây gươm mái, chỉ người vợ; gươm hùng là cây gươm trống, chỉ người chồng. Cặp gươm thư hùng có đủ âm dương, nếu dùng một cây thì tác dụng của nó bình thường, nhưng nếu dùng 2 cây thư và hùng phối hợp thì tác dụng của nó tăng lên gấp bội, vì có đủ âm dương. Gươm thư hùng là chỉ một cặp vợ chồng đồng tâm nhứt trí, vợ tài giỏi giúp chồng làm nên sự nghiệp vẻ vang.
Điểm tô: Tô điểm, bồi đắp cho tốt đẹp thêm. Nghiệp cả: Sự nghiệp lớn. Cả là lớn. Con Rồng cháu Tiên: Đồng nghĩa với con Hồng cháu Lạc, chỉ dân tộc Việt Nam. (Hồng: Hồng Bàng; Lạc: Lạc Long Quân).
Theo truyền thuyết trong cổ sử nước ta, vua Đế Minh, cháu 3 đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh tỉnh Hồ Nam, gặp một nàng Tiên, rồi lấy làm vợ, sanh ra Lộc Tục. Vua Đế Minh có 2 người con: Con lớn là Đế Nghi được cho làm vua ở phương Bắc, còn Lộc Tục được cho làm vua ở phương Nam, lấy hiệu là Kinh Dương Vương. Vua Kinh Dương Vương lấy nàng Long Nữ, con gái của Động Đình Quân, sanh ra Sùng Lãm. Sùng Lãm lên nối ngôi Kinh Dương Vương, lấy hiệu là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy nàng Âu Cơ, con của vua Đế Lai, sanh ra một cái bọc 100 trứng, nở ra 100 người con trai. Lạc Long Quân bảo Bà Âu Cơ rằng: "Ta là dòng dõi Long Quân (vua Rồng), nàng là dòng dõi Thần Tiên, ăn ở với nhau lâu không đặng, nay được 100 đứa con, nàng đem lên núi 50 đứa, còn 50 đứa ta đem xuống miền Nam Hải." Lạc Long Quân phong con trưởng làm vua nước Văn Lang, xưng hiệu là Hùng Vương, lập ra họ Hồng bàng, truyền được 18 đời, đều xưng là Hùng Vương, tính cả thảy được 2622 năm. (Theo Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim)
Dân tộc Việt Nam là con cháu của Lạc Long Quân (Vua Rồng) và Bà Âu Cơ (Tiên Nữ), nên thường tự hào là "con Rồng cháu Tiên."
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 01 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
05.Bởi rẻ rúng thuyền quyên thiếu học,
Dầu chí thân tơ tóc cũng khi.
Tinh thần cao thấp nhờ thi,
Dục tài nữ sĩ sánh bì cùng nam.
Chú thích:
Rẻ rúng: Coi thường, coi không có giá trị gì hết. Thuyền quyên: Xinh đẹp dịu dàng, chỉ con gái hay đàn bà đẹp. Thiếu học: Không được học hành. Chí thân: Rất gần gũi thân thiết. Chí là rất, thân là gần gũi thương yêu. Tơ tóc: Xe tơ kết tóc, ý nói kết thành vợ chồng. Cũng khi: Cũng khinh rẻ, cũng coi thường. Tinh thần: Phần vô hình sáng suốt tốt đẹp nhất trong con người. Chính cái tinh thần nầy làm chủ thể xác và điều khiển các hoạt động của thể xác. Thi: Thơ, ý nói văn chương thơ phú. Dục tài: Chữ Hán, Dục là nuôi nấng; tài là khả năng làm được việc. Dục tài là nuôi nấng tài năng cho phát triển. Nữ sĩ: Người phụ nữ có học thức, có tài viết văn và làm thơ. Sánh bì: So sánh để có thể cân bằng được. Nam: Đàn ông con trai.
Hai câu 5-6: Theo tục lệ thời xưa, con gái không được phép đi học nên phải chịu phận dốt nát, khiến cho con trai khinh rẻ. Do đó, dầu là vợ chồng với nhau rất gần gũi thương yêu mà người chồng cũng không tránh khỏi khinh khi vợ.
Hai câu 7-8: Nhờ học văn chương thơ phú mà tinh thần của con người được trổi cao. Cần phải nuôi dưỡng tài năng của các Nữ sĩ để Nữ phái vương lên đứng ngang hàng cùng Nam phái.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 05 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
09.Chinh phụ trước treo nên giá quí,
Áng văn làm nhuệ khí cầu vinh.
Thêm duyên chước quí giao tình,
Mỹ ngôn nương ý gia đình an vui.
Chú thích:
Chinh phụ: Vợ của người lính đi đánh giặc phương xa. Chinh là đánh giặc, phụ là vợ. Trong Câu 9, Chinh phụ là chỉ tác phẩm "Chinh Phụ Ngâm" do Bà Đoàn Thị Điểm diễn nôm viết ra hồi Bà sanh tiền. Giá quí: Giá trị cao quí. Áng văn: Một bài văn, một khúc thi văn. Nhuệ khí: Cái vẻ mạnh mẽ toát ra ngoài. Cầu vinh: Cầu mong sự vẻ vang. Vinh là vẻ vang. Duyên: Cái vẻ hài hòa tế nhị đáng yêu tạo cho người con gái một sức hấp dẫn tự nhiên. Chước quí: Cách sắp đặt khôn khéo rất hay. Giao tình: Tình cảm bạn bè giao tiếp với nhau. Mỹ ngôn: Lời nói đẹp. Mỹ ngôn không phải là lời nói văn chương bóng bẩy, mà là lời nói thanh nhã dịu dàng, gây được sự hòa hảo giữa mọi người trong gia đình. Nương ý: Dựa theo các ý kiến để dung hòa cho được tốt đẹp giữa mọi người.
Hai câu 9-10: Bà Đoàn Thị Điểm, trong kiếp sanh, đã diễn nôm, viết nên tác phẩm "Chinh Phụ Ngâm". Đó là một áng văn chương có giá trị cao quí để lấy đó làm thế mạnh cầu mong đạt đến sự vinh hiển.
Hai câu thơ nầy, một lần nữa xác nhận chính Bà là người diễn nôm tác phẩm Chinh Phụ Ngâm Hán văn của Đặng Trần Côn, bởi vì học giả Hoàng Xuân Hãn đưa ra thuyết nói rằng: "Bản diễn nôm nầy là của Ông Phan Huy Ích, nhưng còn có chỗ hồ nghi."
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 09 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
13.Nấu kinh sử ra mùi son phấn,
Cầm bút nghiên đặng thắm má đào.
Quần xoa đỡ ngọn binh đao,
Xây hình thục nữ giặm màu nước non.
Chú thích:
Kinh sử: Kinh là sách do các bậc Thánh Hiền viết ra, thí dụ như Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Xuân Thu,...; sử là sách chép lại các việc xảy ra trong nước theo thời gian. Nấu Kinh sử: Do thành ngữ "Nấu sử xôi kinh", ý nghĩa là học tập kinh sử một cách nhuần nhuyễn để đi thi. Bút nghiên: Cây viết và bình mực. Bút nghiên là chỉ việc văn chương. Thắm: Có màu sắc đậm và tươi. Má đào: Gò má ửng hồng như màu hoa đào, chỉ con gái đẹp. Thắm má đào: là làm cho con gái thêm xinh đẹp. Quần xoa: Cái quần và cái trâm cài tóc, chỉ giới phụ nữ. Xoa tức là Thoa: Cái trâm cài tóc. Đỡ: Chống đỡ. Ngọn binh đao: Cái mũi nhọn của khí giới và của cây đao. Đỡ ngọn binh đao là ý nói chống ngăn quân giặc. Thục nữ: Người con gái hiền lành, nết na. Thục là đức tánh hiền lành. Kinh Thi: Yểu điệu thục nữ, Quân tử hảo cừu. (Người con gái nết na xinh đẹp, xứng đôi cùng người quân tử.) Giặm: Kết thêm vô chổ thiếu sót. Giặm màu nước non: Ý nói thêm cái công chống giặc bảo vệ tổ quốc.
Hai câu 13-14: Người con gái sẵn có sắc đẹp, lại được trang bị thêm kiến thức văn chương thì vẻ đẹp càng cao quí hơn nữa.
Hai câu 15-16: Phụ nữ cũng phải biết chống giặc để bảo vệ tổ quốc. Phải xây dựng người phụ nữ hiền lành xinh đẹp có thêm cái công bảo vệ tổ quốc. "Xây hình thục nữ giặm màu nước non" gợi lên một bức tranh sơn thủy, nếu chỉ có non và nước thì bức tranh có vẻ thiếu sót, nếu giặm thêm vào đó bóng dáng người thục nữ thì bức tranh mới toàn bích.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 13 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
17.Cửa Thánh miếu hỡi còn thiếu gái,
Chốn quyền môn nữ lại vẫn không.
Vật chơi ở chốn khuê phòng,
Đã cam phận vợ để chồng cầm duyên.
Chú thích:
Thánh miếu: Miếu thờ Đức Thánh Khổng Tử và các vị Thánh Hiền của Nho giáo. Cửa Thánh miếu: Chỉ giới Nho sĩ thời xưa, tức là giới trí thức khoa bảng. Hỡi: Từ ngữ biểu thị ý muốn kêu lên để than thở. Quyền môn: Cửa quyền, nơi làm việc của quan lại. Chốn quyền môn: Ý nói giới quan lại cầm quyền cai trị dân chúng. Vật chơi: Món đồ chơi. Khuê phòng: Nơi đàn bà con gái ở. Khuê là cái cửa buồng nhà trong. Cam: Đành chịu vậy. Duyên: Mối dây ràng buộc thành vợ chồng.
Hai câu 17-18: Trong giới trí thức khoa bảng, cũng như trong giới quan lại (thời xưa) vẫn không có phụ nữ góp mặt vào. (Đây là một thiệt thòi rất lớn cho phụ nữ).
Hai câu 19-20: Thời xưa quan niệm trọng Nam khinh Nữ, cho rằng "Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô" (một đứa con trai gọi là có, 10 đứa con gái gọi là không), vì con trai mới được nối dõi tông đường, thờ cúng tổ tiên; lại cho phép đàn ông cưới nhiều vợ, chồng chúa vợ tôi. Do đó: Người phụ nữ chỉ được xem là món đồ chơi nơi khuê phòng, cam đành chấp nhận số phận làm vợ tùy thuộc hoàn toàn vào chồng, và người chồng cầm quyền định đoạt tất cả các công việc trong gia đình.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 17 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
21.Phần nội trợ trăm phiền đeo đẳng,
Đạo phụ cơ đã nặng cho mình.
Duyên may chồng đã nghĩ tình,
Còn cha còn mẹ có đành phận đâu?
Chú thích:
Nội trợ: Lo liệu sắp đặt các việc sinh hoạt hằng ngày trong gia đình để giúp đỡ người chồng. Nội là bên trong. Trợ là giúp đỡ. Trăm phiền: Trăm thứ phiền phức, bực bội. Đeo đẳng: Theo đuổi mãi, không dứt bỏ được. Đạo: Nguyên tắc, đường lối phải theo trong cuộc sống chung đụng trong xã hội. Phụ: Vợ. Cơ: Người đàn bà đẹp, vợ nhỏ. Đạo phụ cơ: Đường lối mà người vợ trong gia đình phải theo để cư xử cho đúng phép. Duyên may: Số phận may mắn dành cho mình. Nghĩ tình: Nghĩ đến tình thương yêu mà dành cho sự tốt đẹp. Đành: Cam chịu. Phận: Bổn phận.
Câu 22: Cái bổn phận làm một người vợ trong gia đình đã là nặng nhọc lắm rồi.
Câu 23-24: Có được cái số phận may mắn là chồng nặng tình thương yêu, nhưng còn có cha mẹ chồng thì làm con dâu đâu có đành lòng mà không lo tròn bổn phận.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 21 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
25.Nỗi em chị bởi đâu chẳng thuận,
Nỗi nhi tôn lẩn bẩn bên lưng.
Nỗi nhà, nỗi bếp, nỗi lân,
Nỗi trong thân tộc, nỗi gần, nỗi xa.
Chú thích:
Nỗi: Sự tình, tình cảnh không hay xảy ra ảnh hưởng đến tình cảm con người. Nỗi em chị: Tình cảnh giữa chị em. Nhi tôn: Con cháu. Nhi là con, tôn là cháu. Lẩn bẩn bên lưng: Quanh quẩn bên mình, không rời ra được. Nỗi lân: Tình cảnh cư xử với xóm giềng. Thân tộc: Những người bà con trong dòng họ. Nỗi gần nỗi xa: Những tình cảnh xảy ra ở gần bên mình và những tình cảnh xảy ra ở cách xa mình.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 25 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
29.Trên lo thảo, giữa hòa, dưới thuận,
Ngoài nên danh, trong vững mối giềng.
Nỗi trông hương hỏa giữ bền,
Giúp nên chồng có phẩm quyền cao sang.
Chú thích:
Thảo: Hiếu thảo, quan tâm săn sóc cha mẹ, ông bà. Ngoài nên danh: Bên ngoài tạo được tiếng tăm tốt. Trong vững mối giềng: Trong nhà thì giữ vững khuôn phép gia đình. Mối giềng là chỉ khuôn phép gia đình. Hương hỏa: Nhang đèn, chỉ sự thờ cúng tổ tiên. Hương là cây nhang đốt cháy tỏa mùi thơm. Hỏa là lửa, chỉ cây đèn. Phẩm quyền: Chức tước và quyền hành. Cao sang: Ở bực cao quí và sang trọng.
Câu 31: Tâm trạng của người vợ là trông mong sanh đặng con trai để nối dõi dòng họ nhà chồng, giữ bền việc thờ cúng tổ tiên.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 29 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
33.Mảng lo lắng chữ nhàn nào rõ,
Huống để công đến ngõ Khổng Trình.
Rừng Nho biển Thánh thinh thinh,
Nữ lưu nào thấu muôn nghìn thi thơ.
Chú thích:
Mảng: Mải miết. Mảng lo lắng: Mãi lo lắng. Huống: Phương chi, không có cách gì. Ngõ: Cái cổng. Khổng Trình: Đức Khổng Tử và Ông Trình Di. Đức Khổng Tử là Giáo chủ Nho giáo. Trình Di, hiệu là Y Xuyên, một bực đại nho vào thời nhà Tống bên Tàu. Ngõ Khổng Trình: Ý nghĩa giống như "cửa Khổng sân Trình", chỉ trường dạy chữ Nho, nơi đào tạo nhân tài trí thức thời xưa. Rừng Nho biển Thánh: Chữ của Thánh Hiền nhiều như cây trên rừng, sâu rộng như biển. Ý nói việc học không biết đến bao giờ mới biết hết được. Thinh thinh: Thênh thang. Nữ lưu: Nữ phái. Lưu là một ngành, một phái. Thấu: Biết rõ. Thi thơ: Ý nói kinh sách. Thơ là sách.
Câu 34: Không có cách gì để làm cái công việc là đến trường học văn chương chữ nghĩa.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 33 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
37.Kỉnh tổ hiển nỗi thờ nỗi phụng,
Tế tông đường lo cúng lo đơm.
Kiến thân viếng sớm thăm hôm,
Chua cay rõ miếng cơm ngon cá bùi.
Chú thích:
Tổ hiển: Tiếng con cháu kính xưng Tổ tiên đã chết. Thờ: Tôn kính bằng sự lễ bái. Phụng: Phục vụ. Tế tông đường: Cúng tế tổ tiên nơi nhà thờ của dòng họ với nghi thức long trọng. Đơm: Sắp đặt thức ăn vào dĩa. Kiến thân: Thăm viếng cha mẹ. Kiến là gặp gỡ thăm viếng, thân là chỉ cha mẹ. Chua cay: Ý nói khổ cực vất vả.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 37 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
41.
|
Lưỡi lừa miếng nhai cơm lũ trẻ, Kiêng vật ăn đặng để nuôi con. Còn con nòi giống chồng còn, Mảnh thân đành chịu hao mòn với ai? |
Lừa miếng: Chọn lựa miếng ăn. Kiêng vật ăn: Tránh không ăn vì sợ có hại sức khỏe. Xanh mày: Mày xanh, chỉ thời thanh xuân tuổi trẻ.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 41 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
45.
|
Còn gặp thuở xanh mày lịch sắc, Dâng hình hoa treo mắt bướm ong. Nào là hương đượm lửa nồng, Nết khuôn giữ vẹn chữ đồng lương nhân. |
Lịch sắc: Nhan sắc xinh đẹp. Lịch là xinh đẹp. Hình hoa: Hình dáng đẹp đẽ của người con gái. Hoa là chỉ người con gái. Dâng: Đưa lên. Treo mắt: Treo trước mắt để ngắm, ý nói khêu gợi sự ham muốn. Bướm ong: Hai loại sinh vật thích hút mật nhụy hoa. Bướm ong gặp hoa thì liền đáp vào để hút mật. Hoa tượng trưng con gái, bướm ong tượng trưng các chàng trai. Trai gặp gái thường hay đến gần chọc ghẹo tỏ tình. Hương đượm lửa nồng: Tình yêu thắm thiết sâu đậm giữa vợ chồng. Đượm là thấm sâu. Nồng là đậm đà. Hương lửa là tình yêu thắm thiết giữa vợ chồng. Nết khuôn: Nết na và khuôn phép cư xử trong nhà. Chữ đồng: Đồng là cùng chung. Hễ là vợ chồng thì nghèo chung chịu, giàu chung hưởng, khổ chung lo. Chữ đồng là ý nói sự liên kết mật thiết giữa vợ chồng. Lương nhân: Người tốt, người lành. Khi xưa, vợ gọi chồng là Lương nhân. Lương là tốt, nhân là người.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 45 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
49.
|
Muốn trau chuốt mặt ngần thân dịu, Vẽ cho hay mày liễu má đào. Thương gìn lúc ốm khi đau, Sợ chê xấu phận, cậy màu phấn son. |
Trau chuốt: Sửa sang tô điểm cho đẹp hơn. Mặt ngần thân dịu: Gương mặt sáng đẹp, mình mẩy mềm mại dịu dàng. Ngần là sáng bóng, dịu là mềm mại dịu dàng. Mày liễu: Cặp chân mày cong và nhỏ như lá liễu. Do câu thơ của Bạch Cư Dị đời Đường: Phù dung như diện, liễu như mi (Mặt như hoa phù dung, mày như lá liễu).
Hai câu 51-52: Thương chồng nên lo gìn giữ nhan sắc, lúc ốm đau, nước da xanh tái, sợ chồng chê xấu xí, nên phải nhờ phấn son trang điểm.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 49 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
53.
|
Mình mỏng mảnh sức non nớt yếu, Đỡ nâng chồng vốn thiếu tay co. Không toan sớm đói chiều no, Lựa là tứ hải ngũ hồ giúp nhau. |
Tay co: Cánh tay đắc lực. Khi nói người nầy là cánh tay mặt hay cánh tay đắc lực của Giám Đốc, có nghĩa người nầy là một cộng sự viên thân tín và đắc lực, giúp Giám Đốc giải quyết thành công nhiều việc khó khăn rất hợp ý. Toan: Tính toán, lo liệu. Lựa là: Lọ là, huống chi. Tứ hải Ngũ hồ: Bốn biển năm hồ, ý nói khắp thế giới. Như thường nói: Năm châu bốn biển.
Câu 54: Giúp đỡ chồng vì chàng vốn thiếu người cộng sự thân tín và đắc lực.
Hai câu 55-56: Lo liệu không hết việc cơm nước sáng chiều, huống chi là việc anh em giúp nhau trong khắp năm châu bốn biển.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 53 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
57.
|
Cứ tựa cửa phòng đào giấu dạng, Ngoài nước non nào hẳn vơi chênh. Mảng trong thấm nghĩa nặng tình, Để công bẻ liễu, bắn bình trượng phu. |
Phòng đào: Phòng của người vợ ở. Giấu dạng: Giấu kín hình bóng của mình.Vơi chênh: Không đầy, nghiêng lệch, chỉ sự đổi thay, lúc thế nầy lúc thế khác. Mảng: Mải miết. Thấm nghĩa nặng tình: Tình nghĩa thương yêu sâu nặng. Bẻ liễu: Ý nói lấy người con gái làm vợ. Liễu là loại cây mềm yếu tha thướt nên được ví với người con gái. Bắn bình: Điển tích: Lý Uyên bắn trúng mắt con chim sẻ vẽ trên tấm bình phong, nên được Ông Đậu Nghi gả con gái là Đậu thị cho. Bắn bình là ý nói cưới được vợ đẹp. Trượng phu: Vợ gọi chồng là Trượng phu.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 57 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
61.
|
Dầu khôn mấy giả ngu cho thuận, Phải bao nhiêu cũng nhận lỗi lầm. Phòng đào giữ rủi rơi trâm, Sợ lơi hơi sắt, tiếng cầm lạc cung. |
Dầu khôn mấy: Dù có khôn ngoan cách nào đi nữa. Giả ngu: Giả vờ mình ngu dại. Phải bao nhiêu: Dù mình có được lẽ phải bao nhiêu đi nữa. Trâm: Cái trâm cài tóc của phụ nữ. Nó thường được dùng làm vật đính hôn giữa trai và gái. Nếu cái trâm rủi bị gãy thì nó báo hiệu cuộc tình duyên gặp trở ngại, có khi đổ vỡ. Giữ rủi rơi trâm: Giữ gìn không cho cái trâm rơi gãy, ý nói: Giữ cho tình thương yêu giữa vợ chồng được toàn vẹn mãi. Hơi sắt tiếng cầm: Tiếng đàn sắt đàn cầm. Sắt cầm là ví đôi vợ chồng, nên thường nói: Sắc cầm hảo hiệp, loan phụng hòa minh. Lơi: Không giữ được chặt chẽ. Lạc cung: Cung đàn lạc điệu, ý nói vợ chồng không hòa hợp với nhau.
Hai câu 63-64: Trong nhà, người vợ cố gắng giữ gìn không để xảy ra sơ sót vì sợ ảnh hưởng xấu đến sự hòa hợp giữa vợ chồng.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 61 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
65.
|
Thử từ nết khi chung lúc chạ, Gióng từ hơi hòa nhã tơ loan. Chiều vui dưới trướng ngoài màn, Nhẫng lo ngại nỗi phụ phàng ái ân. |
Thử từ nết: Người vợ làm một việc nào đó để xem phản ứng của chồng như thế nào, qua đó biết được tính nết của chồng. Chung chạ: Sống chung đụng với nhau đến mức không còn phân biệt cái nào là của riêng mình. Gióng từ hơi: Nghe ngóng từ cái hơi trong giọng nói của chồng để đoán biết ý chồng. Hòa nhã: Hòa hợp tốt đẹp. Tơ loan: Loan là chất keo làm bằng máu chim loan, để nối dây đàn bằng tơ khi dây đàn đứt. Tơ loan là chỉ dây đàn. Chiều vui: Chiều theo ý chồng để chồng vui vẻ. Trướng: Bức màn che có thêu hình trang trí cho đẹp. Nhẫng: Những, chỉ. Phụ phàng: Đối xử bạc bẽo.
Câu 66: Nghe ngóng từ giọng nói của chồng để đoán biết ý chồng mà chiều theo cho tình vợ chồng hoà hợp tốt đẹp.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 65 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
69
|
Nghe từ lịnh, cúi vâng từ mạng, Nhọc lòng chi nào dám dỉ hơi. Sợ cơn giông gió tơi bời, Trà mi sơ sẩy hoa rời rã bông. |
Từ lịnh , Từ mạng: Mạng lịnh của mẹ. Từ là tiếng để chỉ người mẹ. Dỉ hơi: Xì hơi, kêu than cho hả hơi. Trà mi: Loại hoa đẹp như hoa hồng, chỉ con gái đẹp. Sơ sẩy: Không cẩn thận để xảy ra điều đáng tiếc.
Hai câu 71-72: Lo sợ những tai biến xảy đến (giông gió tơi bời) không khéo thì làm cho thân gái phải chịu cảnh tan nát đau khổ (hoa rời rã bông).
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 69 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
73
|
Che đậy kín tường đông ong bướm, Giấu nhặt nghiêm nhụy tướng hương hình. E khi vách có âm thinh, Để gương lỗi đạo, lỗi tình phu thê. |
Tường đông: Bức tường phía đông, chỉ nhà láng giềng phía đông. Thơ của Lý Bạch: Tự cổ hữu tư sắc, Tây Thi tự đông lân. (Từ xưa có sắc đẹp, Tây Thi ở nhà láng giềng phía đông). Tường đông chỉ nhà có con gái đẹp. Ong bướm: Đám con trai hay chọc ghẹo con gái. Giấu nhặt nghiêm: Giấu kín một cách nghiêm nhặt. Nhụy tướng hương hình: Hình dạng và mùi thơm của nhụy hoa, ý nói sắc đẹp và đức hạnh của người con gái. Gương: Tấm gương soi, thấy ảnh của mình trong gương, chỉ người phụ nữ vì thường phụ nữ soi gương để trang điểm. Lỗi đạo: Sái với đạo lý. Phu thê: Chồng vợ.
Câu 73: Che đậy kín đáo chỗ con gái đẹp ở, sợ đám con trai biết mà tới lui chọc ghẹo.
Câu 75: E sợ như vách có lỗ tai nghe được tiếng nói thì lộ chuyện ra hết, không giấu kín được nữa.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 73 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
77.
|
Giao thân cứ gần kề kẻ thiết, Ép nhớ thương làm điếc làm đui. Mặc người cha mẹ dễ duôi, Ngoại tông nương phận nếm mùi trân cam. |
Giao thân: Giao tiếp thân mật. Kẻ thiết: Người thân. Làm điếc làm đui: Làm bộ như đui điếc để không thấy không nghe. Cha dễ mẹ duôi: Cha mẹ dễ tánh, rộng lượng. Ngoại tông: Dòng họ nhà chồng, do câu: Nữ sanh ngoại tộc, vì con gái khi lớn lên có chồng thì về ở nhà chồng. Trân cam: Ngon và ngọt, chỉ đồ ăn ngon. Làm con hiếu thảo thì phải dành những thức ăn ngon ngọt cho cha mẹ. Trân cam là chỉ sự phụng dưỡng cha mẹ.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 77 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
81.
|
Hiểu thương ghét giả cam phận dại, Biết nên hư chẳng cãi cho cùng. Nên thì an phận kiếm cung, Hư thì khổ vợ tội chồng chung nhau. |
Kiếm cung: Chỉ người đàn ông, người chồng, vì kiếm cung là 2 thứ binh khí mà đàn ông con trai thường luyện tập. An phận kiếm cung: An phận sống bên chồng. Ngoài mặt phép: Bên ngoài, về mặt pháp luật quốcgia.
Câu 81: Hiểu rõ lẽ thương lẽ ghét và những hậu quả của nó, nên đành giả vờ ngu dại để được người ta thương.
Câu 82: Biết rõ lẽ nên lẽ hư, nên chẳng dám tranh cãi cho tận cùng lý lẽ, vì sợ chạm tự ái, mích lòng.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 81 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
85.
|
Ngoài mặt phép, chàng sao thiếp vậy, Giữa cửa công, phải quấy đồng thân. Vinh thì chàng mão thiếp cân, Hèn thì chàng váy thiếp quần đổi thay. |
Giữa cửa công: Giữa nơi cơ quan nhà nước. Phải quấy: Việc đúng lẽ phải, việc sai trái sái quấy. Đồng thân: Cùng đem thân gánh chịu. Váy: Cái quần mà không có chia ra 2 ống.
Hai câu 85-86: Đối với luật pháp quốc gia hay trước cơ quan nhà nước, người vợ và người chồng đều bình đẳng, chịu trách nhiệm như nhau.
Câu 87: Khi vinh hiển, chàng làm quan thì mặc áo mão của triều đình, thiếp cũng được đội khăn. Ý nói khi vẻ vang thì vợ chồng cùng hưởng. Cân là cái khăn bịt đầu.
Câu 88: Lúc nghèo nàn không đủ tiền mua quần áo mặc thì vợ chồng mặc quần áo chung, đổi thay với nhau.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 85 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
89.
|
Lấy khổ cực làm bài thuốc mến, Dụng đau thương rù quến thâm tình. Dầu chàng đổi dạ én anh, Tề mi vẹn đạo, giữ gìn phép khuôn. |
Mến: Thương yêu. Bài thuốc mến: Bài thuốc thương yêu. Rù quến: Rủ rê dụ dỗ. Thâm tình: Tình cảm sâu đậm. Én anh: Chim én và chim anh, chỉ việc chơi bời trăng hoa. Đổi dạ én anh: Thay lòng đổi dạ, sanh ra chơi bời phóng túng. Tề mi: Ngang mày. Tề là ngang bằng, mi là lông mày. Do thành ngữ: Cử án tề mi (nâng mâm cơm lên ngang mày), chỉ sự cung kính của vợ đối với chồng, theo điển tích nàng Mạnh Quang. (Xem câu 675). Vẹn đạo: Trọn vẹn bổn phận của vợ đối với chồng. Phép khuôn: Phép tắc trong gia đình.
Câu 89-90: Dùng những nỗi khổ cực đã qua làm bài thuốc thương yêu trị bịnh chia rẽ ghen ghét. Dùng những nỗi đau thương vừa qua để dẫn dụ tình thương yêu thêm sâu đậm.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 89 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
93.
|
Nâng khăn trấp giải buồn quân tử, Hầu tửu trà giấc ngủ không an. Chàng vui thiếp cũng vui càn, Chàng buồn thiếp tựa bên màn khóc theo. |
Nâng khăn trấp: Thành ngữ: Nâng khăn sửa trấp, ý nói vợ chăm sóc chồng. Quân tử: Tiếng vợ gọi chồng. Vui càn: Vui theo mà không cần biết trong lòng ra sao.
Câu 94: Vợ phải thức khuya dậy sớm để lo phục vụ chồng, rót rượu châm trà cho chồng.
Hai câu 95-96: Người vợ sống hoàn toàn tùy thuộc vào nhịp sống của chồng, khi chồng vui thì vui theo, khi chồng buồn thì buồn theo.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 93 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
97.
|
Dòng Tương chảy thân bèo trôi nổi, Chẳng ai thương chữa lỗi binh lời. Chàng thì biển cả vơi vơi, Thiếp như bóng bọt giữa vời linh đinh. |
Dòng Tương: Dòng nước mắt. Điển tích: Vua Thuấn đi tuần thú phương Nam và chết. Hai bà vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh đi tìm, đến bờ sông Tương ngồi khóc thảm thiết. Chữa lỗi: Bào chữa những lỗi lầm. Binh lời: Dùng lời nói binh vực. Vơi vơi: Mênh mông, không thấy bến bờ. Bóng bọt: Cái bọt bong bóng nước rất mau tan vỡ. Giữa vời: Giữa mặt nước mênh mông. Linh đinh: Lênh đênh.
Câu 97: Người vợ than khóc cho tấm thân của mình như cánh bèo trôi nổi trên mặt nước, không biết đi về đâu.
Câu 99: Chàng thì biền biệt như đi vào biển cả mênh mông, không biết chừng nào trở về.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 97 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
101.
|
Nếu gặp phước bố kinh đáng khách, Biết yêu hoa dưới ngạch phòng thu. Rủi duyên gặp phải thường phu, Nhành xuân thì trọng, gương thu dở cầm. |
Bố kinh: do câu chữ Hán: Kinh thoa bố quần, nghĩa là trâm cài tóc bằng cây kinh, quần mặc bằng vải bô, chỉ người vợ hiền đức, theo điển tích nàng Mạnh Quang (Xem câu 675). Hoa: Cái hoa, chỉ người con gái. Phòng thu: Chỉ người con gái luống tuổi. Phòng xuân: là chỉ người con gái trẻ tuổi. Nhành xuân: Người con gái trẻ tuổi. Gương thu: Người con gái đã luống tuổi. Gương là chỉ người con gái vì con gái hay soi gương. Thường phu: Người đàn ông tầm thường. Dở cầm: Nửa muốn cầm, nửa muốn bỏ.
Câu 101: Nếu có phước thì người con gái hiền đức gặp được người chồng xứng đáng.
Câu 102: Vẫn biết yêu vợ lúc vợ đã luống tuổi.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 101 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
105.
|
Khi lịch sắc trao trâm đáng giá, Cơn tàn hoa, keo rã sơn rời. Vẻ hồng mắc mỏ bao mươi, Đưa cho quân tử trọn đời chủ trương. |
Lịch sắc: Nhan sắc xinh đẹp. Trao trâm: Người con gái lấy cây trâm cài tóc trao cho bạn trai làm vật đính hôn. Cơn tàn hoa: Lúc người vợ về già, sắc đẹp phai tàn. Keo rã sơn rời: Vợ chồng không còn gắn bó thương yêu nhau nữa. Keo sơn là chỉ sự gắn bó giữa vợ chồng. Vẻ hồng: Sắc đẹp tươi thắm của người con gái. Mắc mỏ bao mươi: Dù có đắt giá bao nhiêu đi nữa. Chủ trương: Quyết định phương hướng hành động.
Hai câu 107-108: Cái sắc đẹp của người con gái dù có đắt giá bao nhiêu đi nữa, mà đã có chồng thì trao tất cả cho chồng quyết định đến trọn đời.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 105 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
109.
|
Nhụy đương nở mùi thơm ngào ngạt, Dâng hình hoa lo lót con ong. Trăm năm kim cải cũng chồng, Trái duyên cũng vẹn đạo tòng mà thôi. |
Kim cải: Cây kim và hột cải, ý nói tình vợ chồng khắn khít nhau như nam châm hút cây kim, hổ phách hút hột cải. Trái duyên: Tình duyên ngang trái, bị chồng phụ bạc. Đạo tòng: Bổn phận Tam tùng của người phụ nữ.
Câu 109: Ý nói: Thời thanh xuân của người con gái.
Câu 109-110: Dâng cho chồng tất cả sắc đẹp và cái quí giá nhứt của đời con gái để mong được chồng thương yêu.
Hai câu 111-112: Dầu thương yêu khắn khít cũng là chồng, dù phụ bạc cũng là chồng, người vợ suốt đời cũng vẫn gìn giữ trọn vẹn cái đạo Tam Tùng mà thôi.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 109 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
113.
|
Thân lòn cúi, vợ tôi chồng chúa, Đạo phu thê như đũa nên đôi. Dầu cho lúc đứng khi ngồi, Chàng là chúa cả, thiếp thời gia nô. |
Thân lòn cúi: Hạ mình chiều lụy.Vợ tôi: Vợ là bề tôi. Chúa cả: Ông chủ lớn. Gia nô: Đày tớ trong nhà.
Câu 113: Dưới thời quân chủ phong kiến xưa, người chồng có toàn quyền đối với vợ, chồng là chúa, vợ là bề tôi.
Câu 114: Đạo vợ chồng như đũa nên đôi. Hai chiếc đũa thì phải giống nhau và bằng nhau. Nếu thiếu 1 chiếc đũa thì không thể gắp đồ ăn được. Như vậy vợ chồng phải bình đẳng nhau. Câu nầy có ý đối chọi với 2 câu: 113 và 116.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 113 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
117.
|
May quan cả, rủi cho lê thứ, Trong tộc gia cũng cứ phép nhà. Hèn người sang ấy của ta, Chê người ta lại cho là đáng khen. |
Quan cả: Quan lớn. Lê thứ: Dân đen, dân nghèo. Lê là màu đen, thứ là đông đảo. Lê thứ đồng nghĩa với Lê dân. Tộc gia: Gia tộc, họ hàng trong dòng họ. Phép nhà: Gia pháp, phép tắc cư xử trong nhà.
Câu 117: May mắn thì lấy được chồng làm quan lớn, rủi phận thì lấy chồng là dân nghèo.
Câu 119-120: Cái mà người ta cho là hèn (xấu), nhưng trong hoàn cảnh của mình, cái ấy là sang (tốt) đối với mình. Cái mà người ta chê, thì cái ấy lại là đáng khen đối với mình.
Tai sao vậy? Bởi vì người phụ nữ ấy muốn an phận, cho những cái của mình hiện đang có được là tốt rồi, không cần phải đòi hỏi tiêu chuẩn cao hơn nữa.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 117 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
121.
|
Chồng sang đặng, ta hèn chẳng quản, Chồng đẹp hình, ta mảng lo âu. E ra nhiều thiếp nhiều hầu, Rồi tham bẻ lựu, bỏ đào bơ vơ. |
Chẳng quản: Chẳng ngại. Mảng: Mải miết. Đẹp hình: Hình dáng đẹp đẽ, đẹp trai. E ra: Sợ rằng. Thiếp: Vợ nhỏ. Hầu: Người con gái có bổn phận hầu hạ, mà cũng là vợ nhỏ. Thuở xưa, nhà giàu có thì người đàn ông, ngoài vợ chánh ra, còn được lấy thêm vợ nhỏ gọi là Thiếp, và bỏ tiền ra mua nàng Hầu để hầu hạ và sai vặt. Lựu và đào: Hai thứ trái cây mà trong văn chương dùng để tượng trưng người con gái. Thành ngữ: Tham lựu bỏ đào, ý nói có mới nới cũ, ham chuộng cái mới, bỏ bê cái cũ, chỉ người có lòng dạ đổi thay, không chung thủy.
Câu 124: Chồng ham mê vợ bé, bỏ bê vợ lớn bơ vơ.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 121 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
125.
|
Hễ xấu dạng thì nhơ mặt thiếp, Còn đẹp hình, nhát kiếp phù dung. Mình thương người cũng thương cùng, Còn như chê bỏ, lại dùng vào đâu? |
Xấu dạng: Hình dạng xấu xí, xấu trai. Nhơ: Nhục nhã. Phù dung: Tên một thứ hoa đẹp, dùng để ví sắc đẹp của người con gái. Hoa phù dung nở to vào sáng sớm có màu vàng rất đẹp, buổi trưa biến thành màu hồng, buổi chiều thì đổi sang màu đỏ thẩm rồi tàn. Kiếp phù dung: Kiếp sống của người con gái đẹp. Nhát: Hay sợ sệt.
Câu 125: Hễ chồng xấu trai thì nhục cho phận thiếp.
Câu 126: Còn chồng có hình dáng đẹp đẽ thì người vợ lo sợ có người con gái khác quyến rũ chồng mình.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 125 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
129.
|
Kiếm xứng mặt mày râu dưới thế, E không mưu đủ kế gìn duyên. Còn theo thăm ván bán thuyền, Trông chi giữ mảnh hương nguyền cùng nhau. |
Xứng mặt: Người xứng đáng, có đủ tài đức và hình dung tốt đẹp. Mày râu: Do chữ Hán là Tu mi: Tu là râu, mi là mày, Tu mi là Râu mày, hay Mày râu, chỉ đàn ông con trai. Dưới thế: Trong đời. Thế là đời. Không mưu đủ kế: Không đủ mưu kế. Duyên: Sự gắn bó vợ chồng. Thăm ván bán thuyền: Mới đi thăm ván định mua để đóng thuyền mới mà đã lo bán thuyền cũ đi. Thành ngữ nầy có ý chê kẻ chưa có cái mới mà đã coi rẻ cái cũ. Mảnh: Một miếng. Mảnh hương: Một bó hương nhỏ. Hương nguyền: Hương là cây nhang đốt lên tỏa mùi thơm, nguyền tức là nguyện, ước muốn, thường nói thề nguyền, nghĩa là ước muốn mà phát ra lời thề. Những đôi trai gái yêu nhau thường đốt nhang khấn vái Trời Đất thề nguyền chung thủy với nhau.
Hai câu 131-132: Còn người chồng nếu theo cái tánh có mới nới cũ, mê theo vợ bé bỏ bê vợ lớn, thì có mong chi giữ được lời thề nguyền chung thủy cùng nhau khi trước.
Chú ý: Bản in Nữ Trung Tùng Phận của Hội Thánh, in là: "Tham ván bán thuyền". Chúng tôi nghĩ rằng đây là thành ngữ: Thăm ván bán thuyền, ý nghĩa hợp với câu thơ trong đoạn nầy hơn. Mong được sự góp ý của chư Đồng đạo.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 129 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
133.
|
Lỡ lối cũ động đào lạc bước, Khó cầm duyên đợi ngọc cầu Lam, Thân Tiên dầu lỡ gót phàm, Gương xưa lỗi ráp, ai cầm làm chi? |
Động đào: Động là cái hang núi. Đào là cây đào có hoa đào. Động đào là cái hang núi có cây đào mọc hai bên, và có hoa đào rớt xuống, cảnh rất đẹp mắt. Động đào là chỉ cảnh Tiên theo điển tích sau đây:
Trong bài Đào Hoa Nguyên Ký của Đào Tiềm có kể lại rằng: Một người đánh cá ở huyện Vũ Lăng, bơi thuyền ngược theo dòng suối, hai bên bờ suối có mọc cây đào. Đi mãi, người ấy đến một hang núi, rời thuyền lên bộ, lách mình vào hang thì thấy phía sau hang núi nở rộng và hiện ra một khung cảnh tuyệt đẹp như cảnh Tiên, dân cư sống rất hạnh phúc. Người đánh cá trở về thuật chuyện cho mọi người biết. Sau người đánh cá muốn trở lại nơi đó, lần theo lối cũ là suối hoa đào (Đào nguyên), nhưng không tìm được lối vào cửa động.
Văn học thường dùng các từ ngữ: Động đào, Đào nguyên để chỉ cảnh Tiên, căn cứ theo điển tích nầy.
Ngọc cầu Lam: Cái chày bằng ngọc để giã thuốc mà Bùi Hàng dùng làm sính lễ cưới nàng Vân Anh ở tại cầu Lam (Lam kiều) theo điển tích sau đây:
Bùi Hàng, người đời Đường, đi thi hỏng, trở về nhà. Trên đường đi, Bùi Hàng gặp nàng Vân Kiều tặng bài thơ:
Một chén quỳnh tương dễ cảm tình,
Chày sương giã thuốc gặp Vân Anh.
Lam kiều là chốn Thần Tiên đấy,
Len lỏi làm chi đất ngọc kinh. Ý của Vân Kiều là khuyên Bùi Hàng không nên len lỏi vào chốn quan trường ở kinh đô, mà nên đến Lam kiều (cầu Lam) là chốn Thần Tiên, dùng chày ngọc giã thuốc thì gặp được nàng Tiên Vân Anh.
Bùi Hàng đọc thơ xong thì lòng nghi hoặc, nhưng cũng thuê ngựa đi đến Lam kiều thử coi thế nào. Khi đến đấy thì Bùi Hàng cảm thấy khát nước lắm, phải dừng ngựa lại, rồi vào nhà của một Bà Lão ở bên đường để xin nước uống. Bà Lão biểu cháu gái là Vân Anh bưng nước ra. Bùi Hàng nhìn thấy Vân Anh tuyệt đẹp thì nhớ lại bài thơ của Vân Kiều, liền ngỏ ý cầu hôn. Bà Lão nói: Trước đây, Tiên có cho Lão một thứ thuốc, bảo rằng phải có cái chày bằng ngọc, giã thuốc đủ 100 ngày thì uống được trường thọ. Lão định hễ ai hỏi cưới Vân Anh thì phải có cái chày ngọc làm sính lễ thì Lão mới gả, còn vàng bạc thì Lão đây không cần.
Bùi Hàng xin Bà Lão chờ để chàng lên đường đi tìm chày ngọc. Chàng may mắn tìm mua được chày ngọc, liền đem về Lam kiều dâng lên Bà Lão.
Bà Lão nói: Có được chày ngoc rồi thì ở đây giã thuốc cho Lão đủ 100 ngày mới được thành thân cùng Vân Anh.
Bùi Hàng làm y lời. Thuốc giã xong, Bà Lão uống ngay, rồi tổ chức đám cưới cho Bùi Hàng và Vân Anh.
Gương vỡ lại lành: Điển tích: Lạc Xương Công Chúa là em của Trần Hậu Chủ, vợ của Từ Đức Ngôn. Gặp lúc Trần Hậu Chủ bị Tùy Dượng Đế đánh sắp thua tới nơi, Từ Đức Ngôn lúc đó nghĩ rằng chắc vợ chồng chàng khó được trọn vẹn cùng nhau, nên bảo vợ là Lạc Xương Công Chúa rằng: Công Chúa sắc tài gồm đủ, hễ nước mất ắt bị nhà Tùy chiếm lấy, còn mong gì sum họp nhau lâu dài. Nếu nàng chưa dứt hẳn mối tình với tôi thì đây là tấm gương đã bể làm 2 mảnh, nàng giữ một mảnh, tôi giữ một mảnh, hẹn rằng về sau, cứ đến rằm tháng giêng mỗi năm thì nàng đem mảnh gương ra bán ở chợ Kinh đô, tôi sẽ tìm đến mà gặp nhau.
Đến khi nhà Trần mất, Lạc Xương Công Chúa lọt vào tay danh tướng nhà Tùy là Dương Tố; còn Từ Đức Ngôn lưu lạc gian nan. Khi yên giặc, chàng lần về kinh đô. Chàng y hẹn, ra chợ kinh đô vào ngày rằm tháng giêng, tìm thấy một người ăn mặc theo dáng đầy tớ, đem ra chợ bán một mảnh gương, nói giá thật cao, ai cũng cho là điên khùng. Từ Đức Ngôn đến mời người ấy ra chỗ vắng, đem mảnh gương của mình ra ghép với mảnh gương kia thì khớp nhau. Chàng hỏi thì biết được Lạc Xương Công Chúa đang ở trong dinh của Dương Tố. Chàng viết bức thơ bảo người bán gương đem về cho Công Chúa. Công Chúa nhận thơ biết chồng mình còn sống, nên khóc lóc thảm thiết, tỏ hết sự tình cho Dương Tố rõ. Dương Tố là người anh hùng quảng đại, mời Từ Đức Ngôn đến, đem Công Chúa trả lại, còn tặng cho nhiều tiền bạc.
Thành ngữ: Gương vỡ lại lành, ý nói vợ chồng sau thời gian lạc xa nhau vì hoàn cảnh, nay được đoàn viên hạnh phúc.
Gương xưa lỗi ráp: Hai mảnh gương ráp lại không đúng khớp, ý nói tình duyên đổ vỡ không nối lại được.
Bốn câu thơ: 133, 134, 135, 136 đều nói về sự lỡ làng, tan vỡ của cuộc tình duyên vợ chồng.
Câu 133: Lỡ hết rồi, theo lối cũ đến động đào nhưng bị lạc bước. Ý nói không thể tìm lại được cảnh cũ người xưa.
Câu 134: Khó cầm giữ được cái duyên để chờ người đem chày ngọc tới cầu Lam. Ý nói duyên phận lỡ làng.
Câu 135: Tấm thân là một Tiên Nữ cõi Thượng giới là đã lỡ bước xuống cõi phàm trần đầy gió bụi.
Câu 136: Hai mảnh gương ráp không khớp nhau, đành chịu tình duyên tan vỡ.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 133 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
137.
|
Nhẹ là bức, nặng chì tình nghĩa, Để dùng riêng cho phía nữ lưu. Thung dung quân tử hảo cừu, Năm thê bảy thiếp mặc dầu trăng hoa. |
Bức: tức là bấc, ruột của cây điên điển, màu trắng, rất nhẹ, thường nói nhẹ như bấc. Nặng chì: Nặng như chì. Nữ lưu: Phái Nữ. Lưu là phái, ngành. Thung dung: Thong dong nhàn hạ. Quân tử: Tiếng vợ gọi chồng. Hảo cừu: tức Hảo cầu, nghĩa là đẹp đôi. Trăng hoa: Ngắm trăng xem hoa, chỉ sự lả lơi chơi giỡn không đứng đắn giữa nam và nữ. Mặc dầu: Mặc sức làm, không ai ngăn cản.
Câu 139: Người chồng thong dong đi kiếm người con gái khác kết đôi. Ý nói người chồng có vợ bé.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 137 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
141.
|
Nào có tưởng vợ nhà đau đớn, Ôm tình si muôn lượng sầu than. Máu ghen chăn gối dẫy tràn, Hình mai ủ dột sắc càng héo don. |
Tình si: Tình yêu đắm đuối đến độ như ngây dại. Muôn lượng: Ý nói nhiều lắm. Máu ghen: Tánh hay ghen. Ghen là tức giận khi biết người hôn phối của mình ngoại tình. Chăn gối: Cái mền và cái gối, chỉ sự ân ái của vợ chồng. Dẫy tràn: Tràn ra đầy dẫy. Hình mai: Hình dáng mỏng mảnh của người vợ. Ủ dột: Buồn rầu ảm đạm. Héo don: Héo úa như sắp mất hết sự sống.
Hai câu 143-144: Người vợ ghen tuông vì chồng ngoại tình nên hình dáng gầy mòn, mặt mày ủ dột buồn rầu, nhan sắc càng héo úa.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 141 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
145.
|
Hễ càng ngắm hao mòn đóa ngọc, Càng riêng lo tơ tóc không bền. Chàng vui cung nguyệt trao duyên, Thiếp sầu sợ nén hương nguyền bớt thơm. |
Đóa ngọc: Chỉ người đàn bà đẹp quí phái. Đóa là cái hoa, chỉ đàn bà hay con gái; ngọc là đá quí, chỉ sự quí phái. Tơ tóc: Xe tơ kết tóc, chỉ sự kết duyên vợ chồng. Cung nguyệt: Cung trăng, nơi ở của Hằng Nga. Ở đây, cung nguyệt là chỉ nơi ở của người con gái đẹp. Trao duyên: Đưa cái duyên của mình cho người mình yêu, ý nói kết duyên thành vợ chồng. Nén hương nguyền: Đồng nghĩa Mảnh hương nguyền, nơi câu 132. Nén hương là một bó nhang nhỏ gồm vài ba cây.
Hai câu 147-148: Chàng vui vẻ cùng người con gái khác trao đổi duyên tình với nhau. Còn thiếp thì ở nhà rầu buồn lo sợ cho lời thề nguyền phai lạt dần, tình nghĩa vợ chồng không còn khắn khít nữa.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 145 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
149.
|
Lo ngại rồi ra cơn mất nết, Vì ghen tương hết biết thân mình. Dám toan tử tiết với tình, Còn chi kể đến gia đình hư nên. |
Mất nết: Mất đi cái tánh hạnh tốt đẹp lúc trước. Ghen tương: Biểu lộ sự tức giận khi biết chồng mình ngoại tình, tức là chồng mình đem tình yêu chia xẻ với một cô gái khác. Ghen tương là đặc tính của tình yêu ích kỷ của vợ đối với chồng, mà tình yêu nào lại không ích kỷ? Tử tiết: Tự giết chết mình để giữ tròn tiết nghĩa. Tiết nghĩa là lòng cứng cỏi quyết giữ đúng lẽ phải.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 149 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
153.
|
Nếu ôm ấp một bên thương nhớ, Bịnh tương tư khó gỡ cho kham. Nên toan đập nát cung cầm, Vô duyên đành phận, sống làm chi đây? |
Tương tư: Trai gái thương nhớ nhau một cách tha thiết, quên ăn bỏ ngủ đến độ sanh bịnh, gọi là bịnh tương tư. Gỡ: Tháo ra cho hết rối. Kham: Nổi, chịu đựng nổi. Cung cầm: Cầm là cây đàn, cung là thứ bực âm thanh phân ra trên cần đàn. Cung cầm là chỉ về âm nhạc, mà âm nhạc thì phải hòa. Đây là cái kỷ niệm lúc vợ chồng sống hòa hợp hạnh phúc bên nhau, lúc rảnh đem đàn ra ca hát với nhau. Đập nát cung cầm: Ý nói phá vỡ tình yêu.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 153 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
157.
|
Thương ra giận khó khuây nỗi nhớ, Mối tơ duyên ai gỡ cho đang? Hỡi người cỡi phụng ngừa loan, Phải chi vợ dám phụ phàng mới sao? |
Ai gỡ cho đang: Ai tháo ra cho được. Cỡi phụng ngừa loan: Phụng loan là chỉ vợ chồng, phụng là con chim trống chỉ người chồng, loan là con chim mái chỉ người vợ, ngừa là bỏ (từ ngữ xưa). Cỡi phụng ngừa loan là cỡi con phụng bay đi, bỏ con chim loan ở lại, ý nói, chồng phụ bạc vợ, bỏ nhà ra đi. Phụ phàng: Đối xử tệ bạc không kể gì đến tình nghĩa thương yêu thuở trước.
Câu 160: Đây là tiếng nói uất hận của người vợ bị chồng phụ bạc. Luân lý của xã hội dành cho người chồng nhiều đặc quyền, gây bất bình đẳng giữa vợ chồng, làm người vợ uất ức, muốn nổi dậy tranh đấu cho quyền lợi của phụ nữ, nhưng không thể được, đành ôm hận thở than cho số kiếp.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 157 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
161.
|
Tả nỗi thảm thêm đau mấy đoạn, Mượn bút hoa đắp cạn thành sầu. Tiếng tiêu dầu lọt phụng lầu, Hoặc may gỡ đặng dây sầu nữ nhi. |
Đau mấy đoạn: Đau đớn như ruột bị cắt ra nhiều đoạn. Bút hoa: Cây viết nở hoa. Nhà thơ Lý Bạch đời Đường nằm mộng thấy cán bút của mình nở hoa. Từ đó, thơ văn của Lý Bạch viết ra mỗi ngày một xuất sắc, tiếng tăm lùng lẫy. Bút hoa là cây bút viết ra văn chương đẹp như hoa. Thành sầu: Mối sầu muộn lớn lao, chứa cả một thành. Đắp cạn thành sầu: Làm cho sự sầu thảm bớt dần. Tiếng tiêu: Tiếng sáo thổi, chỉ tiếng nói nhỏ nhẹ của vợ khuyên can chồng. Phụng lầu: Cái lầu có con chim phụng đến đậu, ý nói nơi người chồng đến chơi bời. Dây sầu: Mối dây sầu muộn.
Hai câu 161-162: Mượn cây viết đề ra mấy vần thi để tả nỗi sầu thảm của mình, lòng đau đớn như cắt ruột ra mấy đoạn, nhưng nhờ vậy mà nỗi sầu thảm vơi đi dần dần.
Hai câu 163-164: Tiếng nói nhỏ nhẹ của người vợ khuyên can chồng, nếu lọt tai chồng làm cho chàng thức tỉnh thì may ra mới tháo gỡ được mối dây sầu muộn của người vợ.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 161 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
165.
|
Cầm bút ngọc đề thi tự thuật, Một kiếp sanh của bậc văn tài. Nêu gương tuyết giá hậu lai, Gỡ trong muôn một những bài sanh ly. |
Bút ngọc: Cây viết quí như ngọc. Đề thi: Viết ra các câu thơ. Bậc văn tài: Người tài giỏi về văn chương. Tuyết giá: Chỉ lòng trong sạch sáng đẹp của vợ đối với chồng, sạch như tuyết, trong như giá (nước đá). Hậu lai: Thời gian sắp tới. Sanh ly: Sống mà xa cách nhau, chỉ cảnh người vợ bị chồng phụ bạc, chồng bỏ nhà đi đến ở với vợ bé.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 165 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
169.
|
Khi đầu ấp cùng khi tay gối, Thân thiết nhau sớm tối quen hơi. Chừ sao chong ngọn đèn ngồi, Cô đăng giỡn bóng, ghẹo người thương tâm. |
Đầu ấp tay gối: Cảnh vợ chồng thương yêu quấn quít nhau không rời. Quen hơi: Vợ chồng chung sống lâu ngày quen mùi nhau, khi vắng thì cảm thấy nhớ nhung da diết. Chừ sao: Sao bây giờ lại... Chừ là bây giờ. Chong ngọn đèn: Đốt ngọn đèn lên, vặn cho cháy vừa đủ sáng và để vậy suốt đêm. Cô đăng: Ngọn đèn cô đơn, chỉ có một ngọn đèn trong phòng. Người cô đơn thấy ngọn đèn cũng cô đơn như mình. Giỡn bóng: Ngọn đèn leo lét làm cho bóng người ngồi lung linh chập chờn trên vách. Thương tâm: Đau lòng.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 169 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
173.
|
Nào là thuở âm thầm dan díu, Vịn bóng trăng đặng níu hoa đào. Chừ sao bỏ cảnh úa xào, Nhụy phai hương lợt, khuôn rào tả tơi. |
Âm thầm dan díu: Yêu nhau một cách thầm lén. Vịn: Đặt bàn tay tựa vào. Níu: Nắm kéo xuống. Úa xào: Cây lá héo úa rủ xuống, sắp chết. Nhụy phai hương lợt: Tình trạng hoa tàn, nhụy hoa phai màu, mùi hương bay hết. Khuôn rào tả tơi: Hàng rào chung quanh nhà tả tơi hư nát, vì không người chăm sóc.
Câu 174: Tả cảnh thơ mộng lúc 2 người mới yêu nhau, hẹn hò nhau đi ngắm trăng xem hoa.
Hai câu 175-176: Người vợ trách chồng bạc tình, bỏ vợ ở nhà một mình trong cảnh héo úa, nhan sắc phai tàn, cảnh nhà tơi tả.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 173 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
.
Nào khi đứng lúc ngồi đủ mặt, Qua tường đông lóng bậc tơ đồng. Chừ sao chăn chiếu lạnh lùng. Phím loan nín bặt, tranh tòng đứt dây. |
Tường đông: (Đã giải nơi câu 73), chỉ nơi ở của người con gái đẹp. Lóng: Lắng nghe. Tơ đồng: Dây đàn làm bằng đồng, nhỏ như sợi tơ. Bậc tơ đồng: Cung bậc âm thanh do dây đàn phát ra. Phím loan: Phím đàn, vì phím đàn được dán dính vào cần đàn bằng keo loan (làm bằng máu chim loan). Nín bặt: Lặng im một cách đột ngột. Tranh tòng đứt dây: Tranh đua nối theo nhau mà đứt dây. Tòng là theo, nối theo.
Câu 178: Người vợ nhớ lại lúc 2 người mới yêu nhau, chàng qua nhà nàng lắng nghe thưởng thức tiếng đàn của nàng.
Câu 180: Tiếng đàn nín bặt vì các dây đàn tranh nhau mà đứt dây. Ý nói: Khi ngồi đàn mà bỗng nhiên đứt dây đàn thì nó báo hiệu cho biết có cảnh biệt ly.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 177 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
181.
|
Nào khi lén vẽ mày thục nữ, Nào khi lo gìn giữ hương thề. Chừ sao bướm cũ lìa huê, Vườn thu vắng khách, ủ ê canh tàn. |
Thục nữ: Người con gái nết na hiền lành. Hương thề: Cây nhang đốt lên van vái Trời Đất thề nguyền với nhau. Huê: Hoa. Bướm cũ lìa huê: Ý nói người chồng lìa xa người vợ. Vườn thu vắng khách: Ý nói: Nhà ở của người vợ vắng mặt chồng. Vườn thu, Phòng thu, chỉ nơi ở của người vợ hay của người đàn bà luống tuổi. Ủ ê: Buồn rầu âm thầm kéo dài. Canh tàn: Đêm tàn. (1 đêm có 5 canh).
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 181 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
185.
|
Nào khi tựa bên màn canh lụn, Nào khi ngồi ngó bóng Hằng Nga. Chừ sao để lụn canh gà, Vắng hoe gối phụng, nguyệt tà hoa thưa. |
Canh lụn: Canh tàn, tức là đêm tàn, gần sáng. Lụn: là tàn dần. Một đêm chia làm 5 canh. Canh năm là lúc gà gáy, sắp sáng, nên được gọi là canh gà. Lụn canh gà: Canh năm tàn dần sắp hết, trời rựng sáng. Bóng Hằng Nga: Ánh sáng mặt trăng. Vắng hoe: Vắng vẻ im lặng. Gối phụng: Gối có thêu chim phụng dành cho chồng nằm, chỉ người chồng. Nguyệt tà: Trăng đã chếch qua đầu, trời gần sáng. Hoa thưa: Vườn hoa thưa thớt, chỉ cảnh buồn bã vắng vẻ.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 185 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
189.
|
Nào khi đổ mây mưa đảnh giáp, Nào khi lo ấm áp cung thiềm. Chừ sao vắng dạng tàn đêm, Gia cư rách cửa, ven thềm cỏ chen. |
Đổ mây mưa đảnh giáp: Chỉ việc ái ân giữa vợ chồng. Cung thiềm: Tương truyền nơi cung trăng có con thiềm thừ (con cóc) to lớn, dưới họng có chữ son. Cung thiềm là cung trăng, nơi ở của Hằng Nga. Ở đây, cung thiềm là chỉ nơi ở của người vợ, cũng chỉ người vợ. Gia cư: Nhà ở.
Câu 192: Nhà cửa rách nát, thềm nhà cỏ mọc chen vào. Ý nói: Nhà cửa thiếu tay người chồng chăm sóc.
Các đoạn 4 câu thơ trong phần nầy, thường thì 2 câu đầu nhắc lại những kỷ niệm êm đẹp lúc 2 người mới yêu nhau, rồi cưới nhau và sống hạnh phúc bên nhau. Hai câu lục bát tiếp theo là nói người vợ trách chồng phụ bạc, bỏ nhà đi theo vợ nhỏ.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 189 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
193.
|
Nào khi ước giữ niềm son sắt, Nào thề non nắm chặt dải đồng. Chừ sao đổi dạ thay lòng, Hẹn xưa bỏ chảy theo dòng Tương giang. |
Ước: Cầu mong điều mà mình biết là khó thực hiện được. Niềm: Lòng tưởng nghĩ tới. Son sắt: Đỏ như son, cứng như sắt. Ý nói bền vững như sắt, không phai lợt như màu đỏ của son. Niềm son sắt: Lòng trung thành không dời đổi, trước sau như một. Thề non: Do thành ngữ "Minh sơn thệ hải": Thề non hẹn biển. Thề non là chỉ núi mà thề, dầu cho biển cạn non mòn, lòng dạ quyết không thay đổi. Dải đồng: Dải đồng tâm. Theo Tùy thư, vua Tùy Dượng Đế sai lấy lụa ngũ sắc kết thành nút gọi là đồng tâm kết (dải đồng tâm) để ban cho quí phi, tỏ lòng yêu đương khắn khít. Do đó, dải đồng là chỉ sự thương yêu khắn khít giữa vợ chồng. Nắm chặt dải đồng: Ý nói giữ chặt lòng thương yêu khắn khít giữa vợ chồng. Chừ sao: Bây giờ sao lại... Chừ là bây giờ. Tương giang: Dòng sông Tương. Đây là dòng sông tượng trưng sự đau khổ, vì khi vua Thuấn đi tuần thú phương Nam và chết ở đó, 2 bà vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh đi tìm vua Thuấn, bị dòng sông Tương ngăn lại, 2 bà buồn rầu, ngồi bên bờ sông Tương khóc than thảm thiết, nước mắt của 2 bà vẩy vào các khóm trúc nơi bờ sông, làm cho cây trúc có dấu lốm đốm như đồi mồi.
Câu 196: Lời thề hẹn ngày xưa, chàng đã bỏ trôi hết theo dòng nước.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 193 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
197.
|
Nào khi đứng giữa đàng trông ngọc, Nào khi ngồi dưới bộc trong dâu. Chừ sao phụ nghĩa sơ giao, Phòng toan ném gánh tâm đầu sông Ngân. |
Giữa đàng: Giữa đường. Trông ngọc: Ý nói trông ngóng người yêu. Thơ cổ có câu: Nguyệt di hoa ảnh ngọc nhân lai, có nghĩa là: Bóng trăng đã xế, người ngọc đến. Người ngọc là người con gái đẹp như ngọc, chỉ người yêu. Dưới bộc trong dâu: Chỉ sự hẹn hò tình tự lén lút bất chánh giữa trai và gái. Điển tích: Theo Hán thư, con trai và con gái của nước Trịnh và nước Vệ thường hẹn hò nhau ra bãi sông Bộc, núp trong các ruộng dâu để tình tự và làm chuyện dâm ô. (Sông Bộc là con sông chảy qua 2 nước Trịnh và Vệ). Sơ giao: Bạn bè lúc mới quen biết nhau. Phụ nghĩa sơ giao: Phụ bạc cái tình nghĩa lúc mới quen biết nhau. Phòng toan: Dự bị toan tính. Phòng là dự bị, phòng hờ. Gánh: Mang vật gì ở 2 đầu một cái đòn đặt lên vai. Nghĩa bóng là cái trách nhiệm mang vào thân. Ném gánh: Vứt bỏ cái trách nhiệm mà mình đã mang lấy trước đây. Tâm đầu: Tâm là lòng dạ, đầu là hợp nhau. Thường nói: Tâm đầu ý hợp. Tâm đầu là lòng dạ hòa hợp nhau. Sông Ngân: Ngân Hà. Theo truyền thuyết, vợ chồng Ngưu Lang và Chức Nữ mắc tội với Trời, nên bị Trời phạt, mỗi người phải ở một bên sông Ngân Hà, mỗi năm chỉ được gặp nhau một lần vào đêm Thất tịch (mùng 7 tháng 7 âm lịch). Sông Ngân là chỉ sự chia cách giữa vợ chồng.
Câu 200: Dự phòng toan tính ném bỏ cái tâm đầu ý hợp của vợ chồng để gây ra cảnh chia ly đôi ngã.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 197 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
201.
|
Nào khi đến cầu Lam chưởng ngọc, Nào khi lo giã thuốc trường sanh. Chừ sao bỏ nghĩa én anh, Tham lê bỏ lựu, phụ tình trước mai. |
Cầu Lam: Chữ Hán là Lam kiều. Chưởng ngọc: Cầm cái chày bằng ngọc để giã thuốc. Giã thuốc trường sanh: Dùng chày đâm nhuyễn các thứ thuốc để bào chế thuốc trường sanh, uống vào được sống hoài không chết. Én anh: Từ ngữ nầy đều có trong 2 câu thơ: 203 và 206, nhưng nghĩa lý khác hẳn nhau. - Trong câu 203: Én anh là chỉ vợ chồng. Nghĩa én anh là tình nghĩa vợ chồng. - Trong câu 206: Én anh là chỉ người đi chơi lũ lượt, tấp nập, như chim én và chim anh bay từng đàn. Tham lê bỏ lựu: Ý nói có mới nới cũ. Trước mai: Cây trúc và cây mai, ở đây chỉ tình nghĩa vợ chồng khắn khít.
Hai câu 201-202: Lấy theo điển tích Chày ngọc - Cầu Lam (đã có giải nơi Chú Thích câu 134). Hai câu nầy nhắc lại lúc 2 người mới đính hôn nhau, thật là thơ mộng.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 201 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
205.
|
Nào khi cửa then gài mấy lớp, Cấm vườn xuân nườm nượp én anh. Chừ hoang cây cỏ xủ mành, Gần cây chim lánh, đến cành gió day. |
Vườn xuân: Giống chữ Phòng xuân, chỉ người con gái lúc trẻ. Cấm vườn xuân: Chưa cho ai vào vườn xuân, ý nói con gái mới lớn chưa chồng. Cây cỏ xủ mành: Lá cây và cỏ rủ xuống như bức mành. Én anh: là chỉ người đi chơi lũ lượt, tấp nập, như chim én và chim anh bay từng đàn. Nườm nượp én anh: Người ta đi lại đông đảo lớp nầy tiếp đến lớp khác.
Câu 208: Chim bay đến gần cây mà không đáp vào, lại bay lánh đi; gió thổi đến gần cành cây, gió cũng day qua hướng khác. (Dùng cảnh để nói lên tâm trạng của vợ bị chồng phụ bạc).
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 205 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
209.
|
Nào khi sắc so tài đẹp dạ, Nào khi nhen hương hỏa ba sinh. Chừ toan bứt mảnh tơ tình, Trà ngâu chê nhớ, rượu quỳnh chối thương. |
Sắc so tài: Người con gái thì cần nhan sắc, người con trai thì cần tài hay, sắc so tài cân xứng, đẹp đôi vừa lứa. Đẹp dạ: Đẹp lòng, rất bằng lòng. Nhen: Nhúm, thường nói là nhen nhúm. Ở đây nhen là nhúm lửa để đốt đèn, đốt nhang. Hương hỏa ba sinh: Ba sinh là 3 kiếp sống. Hương hỏa là thắp đèn đốt nhang. Hương hỏa ba sinh là thắp đèn và đốt nhang để khấn nguyện Trời Đất chứng minh lòng chung thủy của đôi trai gái yêu nhau, thề hẹn với nhau nội trong 3 kiếp phải kết làm vợ chồng với nhau. Bứt mảnh tơ tình: Bứt cho đứt sợi dây tơ tình yêu mà bấy lâu đã cột chặt 2 người. Trà ngâu: Trà ướp hoa ngâu. Hoa ngâu là loại hoa rất thơm, giống như hoa lài, dùng để ướp trà. Rượu quỳnh: Chữ Hán gọi là Quỳnh tương. Quỳnh là loại ngọc màu đỏ, được vua chúa hay các nhà quyền quí mướn thợ gọt đẽo, tạo thành cái chung uống rượu, cái chất ngọc quỳnh làm tăng thêm mùi vị thơm ngon của rượu.
Câu 212: Hồi vợ chồng thương yêu sống chung với nhau, thường ngồi uống trà ngâu hay uống rượu quỳnh với nhau, nhưng giờ đây, chàng đã chê trà ngâu, không còn muốn nhớ tới nữa, chê rượu quỳnh, chối bỏ tình thương yêu vợ chồng thuở trước.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 209 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
213.
|
Nào khi hỏi thăm hang Từ Thức, Nào khi dò mấy bực cầu ô. Chừ sao kẻ Hớn người Hồ, Để cho phòng hạnh ra mồ quạt duyên. |
Từ Thức: Từ Thức là người ở Hóa Châu nước ta, làm Tri huyện Tiên Du, đời nhà Trần. Gần huyện có một ngôi chùa nổi tiếng đẹp, trồng nhiều hoa mẫu đơn. Hằng năm du khách đến xem đông như ngày hội. Năm Quang Thái thứ 9 (1396), trong số du khách có một thiếu nữ vô ý làm gãy một cành mẫu đơn. Nhà chùa bắt đền. Nàng không có sẵn tiền, lại không có người quen nên không biết tính sao. May lúc ấy có quan huyện Từ Thức đi đến, thấy vậy động lòng, liền cỡi áo thế cho nhà chùa, cô gái mới được buông tha ra về.
Từ Thức có tâm hồn phóng dật, không thích gò bó trong chốn quan trường, nên xin treo ấn từ quan, đi ngao du sơn thủy, với bầu rượu túi thơ. Một hôm Từ Thức bơi thuyền dạo chơi cửa biển, chợt thấy một hòn núi nổi lên giữa biển có phong cảnh rất kỳ vĩ, liền bơi đến nơi, trèo lên xem, gặp một hang núi nhỏ liền đi vào, đường dốc lần lần lên tới đỉnh núi, gặp một khung cảnh hoàn toàn khác lạ, đẹp đẽ vô cùng.
Từ Thức gặp một người con gái, nhìn kỹ thì đúng là nàng đã làm gãy cành mẫu đơn ngày nọ. Cô gái liền chào hỏi và xưng tên là Giáng Hương. Nàng cho biết nàng là Tiên Nữ và đây là cảnh Tiên. Nàng lại nói việc Từ Thức giúp nàng hôm nọ, khiến cho Từ Thức có duyên phận với nàng, nên xui khiến chàng lên đây gặp nàng. Từ Thức ở lại đó và kết hôn với Giáng Hương.
Thời gian thấm thoát được một năm, Từ Thức quá nhớ nhà, nên đòi về thăm. Giáng Hương hết sức ngăn cản, nhưng không được, đành viết một phong thư niêm kín, dặn chàng chừng nào về tới quê nhà mới mở ra xem, rồi đưa chàng xuống núi từ biệt. Đây là bức thư vĩnh biệt, vì Giáng Hương biết rằng Từ Thức không có căn Tiên, nên mới xảy ra việc nhớ nhà đòi về, khiến chàng trở lại trần gian, không thể lên cõi Tiên được nữa.
Từ Thức về tới làng cũ thấy cảnh vật đổi khác rất nhiều, vì đã qua 60 năm nơi cõi trần. Các người cùng thời với chàng đã chết hết, nhà Trần đã mất, đổi sang nhà Lê. Từ Thức bùi ngùi thương cảm. Con cháu đều không nhìn ra nữa.
Từ Thức trở lại đường cũ, đi tìm Giáng Hương, nhưng không thấy hòn núi. Chàng quá thất vọng, đi vào núi Hoành Sơn và mất tích luôn trong đó.
Cầu ô: Ô là con quạ, cũng gọi là chim ô thước. Điển tích: Theo sách Kinh Sở Tuế Thời Ký, Chức Nữ là cô gái dệt vải, là cháu của Ông Trời, rất siêng năng dệt vải. Trời đem gả cho Ngưu Lang là chàng chăn trâu nơi Thượng giới. Hai vợ chồng quá âu yếm nhau mà bê trễ bổn phận. Trời phạt đày mỗi người ở một bên sông Ngân Hà, chỉ cho gặp nhau một lần vào đêm Thất tịch (mùng 7 tháng 7 âm lịch). Đêm đó, các con chim ô thước đội đá bắc cầu qua sông Ngân Hà, để cho Ngưu Lang đi qua sông gặp vợ. Khi gặp nhau, vợ chồng than khóc kể lể cảnh ly biệt, nước mắt rơi xuống trần gian tạo thành các đám mưa, gọi là mưa ngâu.
Kẻ Hớn người Hồ: Kẻ Hớn là người Trung Hoa ở Trung nguyên, người Hồ là rợ Hồ hay rợ Hung Nô ở phía Bắc Trung nguyên. Vào thời nhà Tống, vua Hung Nô đem quân đánh vào Trung nguyên, buộc vua Tống phải đem nàng Chiêu Quân là ái phi của vua Tống, nạp cho vua Hung Nô. Vua Tống nhu nhược, đánh thua quân Hồ nên phải ép lòng đưa Chiêu Quân đi cống Hồ. Từ ấy, vua và nàng Chiêu Quân xa cách nhau, kẻ Bắc người Nam, đau khổ vô cùng.
Phòng hạnh: Hạnh là trái mơ, cùng loại với trái đào. Phòng hạnh đồng nghĩa với Phòng đào, chỉ nơi ở của người đàn bà. Ở đây, phòng hạnh là chỉ người vợ.
Ra mồ quạt duyên: Quạt cái mả còn ướt của chồng cho mau khô đặng đi tìm duyên mới. Điển tích: Trang Tử là vị Tiên đắc đạo tại thế. Một hôm ông đi chơi ở mé chân núi, gặp một thiếu phụ còn trẻ đang mặc đồ tang, tay cầm cái quạt lớn, đứng quạt vào một nấm mồ mới đắp đất. Trang Tử thấy lạ đến gần hỏi thử cho biết nguyên do. Thiếu phụ đáp : Chồng tôi chết vừa mới chôn cất xong. Lúc hấp hối, chàng có trối lại dặn rằng, chừng nào nấm mộ của chàng mồ khô cỏ ráo thì nàng mới được đi lấy chồng khác. Nay tôi thấy nấm mồ còn ướt mãi nên tôi lấy quạt ra đây quạt cho mau khô.
Trang Tử ngẫm nghĩ một lát rồi nói với chị ta là để ông giúp cho chị ta quạt mồ mau khô. Nói rồi, Trang Tử làm phép trên cái quạt, trao trả cho chị ta, và chị ta quạt mấy cái thì mồ khô cỏ ráo liền.
Chị ta vui mừng không xiết, cảm tạ Trang Tử, và tặng Trang Tử cái quạt làm kỷ niệm.
Câu 213: Người vợ nhắc lại lúc vợ chồng còn trẻ, dẫn nhau đi du sơn, hỏi thăm nơi nào là cái hang mà Từ Thức đi vào gặp Tiên.
Câu 214: Nào những khi 2 vợ chồng ngắm xem trăng sao giữa Trời, tìm đâu là sao Chức Nữ, sao Ngưu Lang, đâu là mấy bực cầu ô thước.
Câu 215: Ý nói: Sao bây giờ, vợ chồng chia ly kẻ Bắc người Nam?
Câu 216: Ý nói: Để cho người vợ chịu cảnh chồng chết mà đi tìm duyên mới.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 213 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
217.
|
Nào là lúc ngửa nghiêng đêm quạnh, Nào là khi thức tỉnh đêm khuya. Chừ sao loan phụng chia lìa, Con trông vợ nhớ, mắt kề ngó song. |
Ngửa nghiêng: Lúc nằm ngửa, lúc nằm nghiêng, ý nói trăn trở thao thức không ngủ được. Đêm quạnh: Đêm vắng vẻ im lặng, gây cảm giác trống trải buồn bã. Loan phụng: Loài chim phượng luôn luôn sống từng cặp, con mái gọi là loan, con trống gọi là phụng. Loan phụng là chỉ đôi vợ chồng khắn khít. Trong đám cưới thường chúc: Loan phụng hòa minh, sắt cầm hảo hiệp (2 con chim loan phụng hòa tiếng hót, 2 cây đàn cầm sắt hòa hợp tốt đẹp). Mắt kề ngó song: Mắt kề sát vào cửa sổ ngó mong ra ngoài, trông đợi người chồng đi chưa về. Song là cái cửa sổ.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 217 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
221.
|
Càng thấy con khờ không đủ trí, Càng thêm lo huyết khí bên chồng. Nâng niu lúc ẵm khi bồng, Phụ thân thế phận cho chồng dạy khuyên. |
Khờ không đủ trí: Khờ khạo không đủ trí khôn. Huyết khí: Huyết là máu, khí là chất tinh túy do máu tạo thành để lưu truyền nòi giống. Huyết khí là chỉ dòng giống nhà chồng. Phụ thân: Cha ruột. Thế phận: Thay thế bổn phận.
Câu 224: Chồng ra đi không về, người vợ ở nhà thay thế chồng làm bổn phận người cha dạy khuyên con trẻ. Câu nầy có ý nghĩa rất giống câu thơ bên Chinh Phụ Ngâm Câu 160: Dạy con đèn sách, thiếp làm phụ thân.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 221 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
225.
|
Càng sợ hở thung huyên phiền muộn, Thảm bao nhiêu gắng gượng làm vui. Tảo tần sớm dưỡng chiều nuôi, Thế chàng thiếp lãnh vai người hiếu nam. |
Càng sợ hở: Càng sợ không kín chuyện, tin tức lọt ra ngoài. Hở là không kín. Phiền muộn: Buồn rầu. Thung huyên: Cây thung, cũng gọi là cây xuân, chỉ cha; cỏ huyên chỉ mẹ. Thung hay xuân là loại cây, sống rất lâu năm, cứ 8000 năm mới tới mùa xuân của nó, 8000 năm nữa mới tới mùa thu của nó. Dùng cây xuân để chỉ người cha vì con muốn cha sống lâu như cây xuân. Huyên là loại cỏ sống lâu năm, ăn cỏ huyên thì hết buồn phiền, nên cỏ huyên còn được gọi là Vong ưu thảo. Dùng cỏ huyên chỉ người mẹ, vì con muốn mẹ không buồn phiền, vui vẻ mãi. Tảo tần: Trong Kinh Thi, bài Thái tần có câu: Vu dĩ thái tần, nam giản vu chi tân, vu dĩ thái tảo, vu bỉ hàng lạo. Nghĩa là: Đi hái rau tần, bên bờ khe phía nam, đi hái rau tảo bên lạch nước kia. Cho nên dùng chữ Tảo tần để chỉ người vợ hiền hiếu thảo cần kiệm, đi hái rau tần rau tảo về làm cỗ cúng tổ tiên. Hiếu nam: Con trai có hiếu với cha mẹ.
Câu 228: có ý nghĩa giống câu 159 của Chinh Phụ Ngâm: Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 225 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
229.
|
Thấy em dại không ham đèn sách, Càng để lòng hỏi hạch kinh luân. Thay chàng thiếp trả nghĩa thâm, Dạy em văn hóa, thiếp làm trưởng huynh. |
Kinh luân: Tổ chức, xếp đặt việc chánh trị trong nước. (Xem lại Chú thích 2 câu: 1 và 2). Nghĩa thâm: Nghĩa sâu. Trưởng huynh: Anh cả.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 229 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
233.
|
Càng nghĩ đến linh đinh phận thiếp, Càng ngại lo tội nghiệp thân con. Những ngờ nước thấm đầu non, Nào hay trăng khuyết hao mòn nhơn duyên. |
Linh đinh: Lênh đênh, trôi nổi nay đây mai đó, như cánh bèo, không nơi nhứt định. Tội nghiệp: Đáng thương vì gặp cảnh ngộ không may. Nước thấm đầu non: Mưa rơi đỉnh núi, nước chảy tuột xuống hết, chỉ thấm được một ít trên đầu núi mà thôi. Nhưng nếu mưa nhiều lần nhiều ngày, mỗi ngày thấm một ít thì lần lần cũng thấm ướt đầu núi. Ý nói: Lời khuyên nhủ, mỗi ngày mỗi khuyên thì lâu ngày cũng lọt lỗ tai mà nghe theo. Những ngờ: Cứ tưởng rằng mà không chắc lắm. Nhơn duyên: Mối ràng buộc giữa người nầy với người khác, ở đây chỉ sự ràng buộc vợ chồng.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 233 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
237.
|
Càng đeo đẳng nỗi phiền nỗi thảm, Càng thương thân chích bạn lìa đôi. Phận sao phận bạc như vôi, Nước lưng đáy gáo, hương trôi dòng là. |
Thương thân: Thương hại cho tấm thân của mình. Chích bạn lìa đôi: Ý nói: Lẻ loi một mình. Chích là lẻ loi, chích bạn là lẻ bạn. Lìa đôi là 2 người chia lìa nhau. Nước lưng đáy gáo: Nước trong gáo 10 phần, lưng tới đáy hết 7 phần, còn 3 phần, ý nói: người phụ nữ đã luống tuổi. Dòng là: Dòng sông ban đêm trăng sáng, trông giống như dải lụa trắng uốn khúc. Là: Lụa là. Dòng là: Dòng sông. Hương trôi dòng là: Hương sắc bỏ trôi theo dòng nước, ý nói nhan sắc của người vợ phai tàn dần.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 237 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
241.
|
Càng ngắm đến cỏ hoa vật loại, Càng thẹn vì vắn vỏi tơ tình. Chim kết cánh, cây liền cành, Còn thân thiếp chịu một mình đơn cô. |
Vắn vỏi: Ngắn ngủi, thời gian quá ít. Tơ tình: Tình yêu vương vấn như tơ. Vắn vỏi tơ tình: Tình yêu vợ chồng chỉ được một thời gian ngắn. Đơn cô: Cô đơn.
Chim kết cánh, cây liền cành: Ý nói vợ chồng gắn bó không rời nhau. Điển tích: Theo sách Sơn Hải Kinh của Đông Phương Sóc, có loài chim, chỉ có 1 bên cánh và 1 con mắt, nên lúc nào con trống và con mái phải kết cánh lại thì mới bay được, gọi là Tỵ dực điểu. (Tỵ dực là kết cánh lại).
Hàn Bằng làm quan Đại phu nước Tống đời Chiến quốc, có vợ là Hà thị rất đẹp. Vua Khang Vương thấy vậy liền cướp Hà thị về làm vợ và cầm tù Hàn Bằng. Bằng tự sát chết. Hà thị cự tuyệt Khang Vương và tự tử theo, để lại bức thơ xin được chôn cùng mộ với chồng là Hàn Bằng. Khang Vương căm giận, đem chôn riêng. Qua một đêm, bỗng nhiên người ta thấy có 2 cây tử mọc lên ở nách 2 ngôi mộ, thân cây và cành cây quấn vào nhau.
Trong bài Trường Hận Ca của Bạch Cư Dị, đoạn nói vua Đường Minh Hoàng thề thốt với Dương Quí Phi, có 2 câu: Tại thiên nguyện tác tỵ dực điểu, Tại địa nguyện vi liên lý chi. (Trên trời xin làm chim kết cánh, dưới đất xin làm cây liền cành.)
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 241 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
245.
|
Kìa cá giỡn vẩn vơ đáy nước, Nọ kết đôi cưu thước ven trời. Còn thân thiếp chịu cút côi, Đèn khuya nhắc thảm, gió mơi ghẹo sầu. |
Vẩn vơ: Nhởn nhơ qua lại một cách thong thả tự nhiên. Cưu thước: Cũng gọi là chim thư cưu, luôn luôn sống từng đôi. Cút côi: Lẻ loi không nơi nương tựa.
Câu 248: Lòng buồn nên thấy ngọn đèn khuya hay gió ban mai, như khêu gợi hay trêu ghẹo nỗi buồn.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 245 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
249.
|
Kìa oan ương ấp nhau chẳng hở, Nọ én anh rỉ rả kêu thương. Còn ta luống những đoạn trường, Gối chăn tê tái, chiếu giường lạnh tanh. |
Oan ương: Chim uyên ương, con trống là uyên, con mái là ương, sống từng đôi, nếu một con chết thì con kia nhịn đói chết theo. Uyên ương được ví đôi vợ chồng chung thủy. Én anh: Chỉ vợ chồng. (Xem lại Chú thích câu 203). Rỉ rả kêu thương: Nói chuyện yêu thương rỉ rả với nhau. Đoạn trường: Đứt ruột, chỉ sự đau khổ dữ dội. Đoạn trường có nghĩa bóng là sự đau đớn phủ phàng của người phụ nữ bạc mệnh trong tình trường. Tê tái: Đau khổ đến mức không còn cảm giác. Lạnh tanh: Rất lạnh lẽo, không một chút hơi ấm.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 249 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
253.
|
Kìa cầm điểu bẻ cành kết ổ, Nọ thú trùng moi lỗ làm hang. Nầy thân thiếp chịu gian nan, Linh đinh đất chiếu, trời màn không nơi. |
Cầm điểu: Chỉ chung loài chim. Cầm là loài chim. Thú trùng: Thú vật và côn trùng. Gian nan: Khó khăn vất vả. Linh đinh: Lênh đênh, trôi nổi trên mặt nước không biết đi về đâu, hay nương tựa vào đâu. Đất chiếu trời màn: Chỉ kẻ sống nghèo khổ, lang thang không nhà cửa, không tiền mua mùng, chiếu, dùng mặt đất làm chiếu (tức là nằm dưới đất), dùng bầu trời làm mùng (tức là không giăng mùng).
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 253 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
257.
|
Kìa ong kiến tha mồi dành để, Cơn khốn cùng có thể nuôi thân. Còn thân thiếp chịu khốn nàn, Tả tơi nỗi mẹ, truồng trần nỗi con. |
Khốn cùng: Nghèo túng khổ cực tột độ. Khốn nàn: Khốn khổ nghèo nàn. Tả tơi nỗi mẹ: Tình cảnh của mẹ thì rách rưới tả tơi. Truồng trần nỗi con: Tình cảnh của con thì ở trần ở truồng, không quần áo mặc.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 257 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
261.
|
Thôi đành kiếp nớt non gượng sống, Sống vì con, chẳng sống vì thân. Đòi phen đổi thảm ra mầng, Nâng niu trẻ dại cho gần đặng cha. |
Kiếp nớt non: Kiếp sống non nớt yếu đuối của người phụ nữ. Gượng sống: Sống một cách miễn cưỡng. Đòi phen: Nhiều lần. Mầng: Mừng.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 261 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
265.
|
Đưa giọt sữa ra hòa giọt lụy, Trong tình chung huyết khí đúc hình. Còn con may đặng giữ tình, Khối chung tình ở nơi mình ấu nhi. |
Giọt lụy: Giọt nước mắt. Huyết khí đúc hình: Huyết là máu của mẹ, Khí là tinh khí của cha. Tinh cha huyết mẹ hiệp lại tạo nên hình hài đứa con trong bụng mẹ. Đúc hình là nắn đúc nên hình thể đứa bé. Khối chung tình: Khối tình thương yêu giữa vợ chồng. ƒu nhi: Đứa con bé bỏng non nớt. ƒu là bé nhỏ non nớt, nhi là đứa con.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 265 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
269.
|
Nghe trẻ khóc như chì dần dạ, Thấy con đau như đá đập đầu. Còn con ô thước bắc cầu, Mất con là cửa vô lầu lãnh cung. |
Chì dần dạ: Đau đớn như có cục chì đập tan nát cõi lòng. Dần là đập liên tiếp nhiều lần cho mềm ra. Đá đập đầu: Đau đớn như có cục đá đập lên đầu. Ô thước bắc cầu: Chim ô thước đội đá bắc cầu nối liền 2 bờ sông Ngân Hà cho Ngưu Lang qua gặp Chức Nữ. (Xem Điển tích nơi câu 214). Lãnh cung: Cung lạnh, nơi giam giữ các bà vợ có tội của vua.
Hai câu 271-272: Còn đứa con thì như còn cây cầu ô thước để vợ chồng tái hợp với nhau; mất đứa con thì duyên vợ chồng chấm dứt, như vợ vua bị đày vào lãnh cung.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 269 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
273.
|
Thấy xuân đến vẻ hồng khắp chốn, Nương con thơ sống rốn cùng xuân. Ru con giọng hát ngập ngừng, Xuân ôi! Xuân biết mấy lần đau thương? |
Sống rốn cùng xuân: Rán sống cho hết những ngày xuân. Rốn: Cố kéo dài thêm một ít thời gian nữa.
Câu 275: Vừa ru con vừa khóc nên giọng ru đứt đoạn.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 273 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
277.
|
Ve kêu hạ như dường trêu thảm, Mưa sầu tuôn mấy dặm biệt ly. Dỗ con lệ ngọc li bì, Hạ ôi! Hạ có biết nghì phu thê? |
Lệ ngọc: Giọt nước mắt long lanh như hạt ngọc. Li bì: Liên tục không dứt. Nghì phu thê: Tình nghĩa vợ chồng.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 277 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
281.
|
Chiều thu nhắc ủ ê cảnh hạn, Nhấp nhô xem cánh nhạn về non. Trông thu rầu nhớ thân con, Thu ôi! Thu biết hao mòn tấm duyên? |
Ủ ê: Buồn rầu âm thầm và kéo dài. Cảnh hạn: Cảnh là hoàn cảnh, hạn là điều không may lớn hay tai nạn gặp phải do số phận đã định sẵn. Cảnh hạn là hoàn cảnh không may. Nhấp nhô: Khi lên cao khi xuống thấp. Tấm duyên: Cái tình thương yêu ràng buộc vợ chồng.
Câu 282: Xem cảnh trời chiều gần tối, đàn chim nhạn bay nhấp nhô trở về núi (tức bay về tổ), gợi nhớ cảnh sum họp buổi tối trong gia đình gồm đủ mặt vợ chồng con cái.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 281 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
285.
|
Đông lạnh ngắt mảnh mền úm trẻ, Ngồi đêm trường quạnh quẽ phòng không. Nhớ chồng thấy trẻ não nồng, Đông ôi! Đông biết tấm lòng kiên trinh? |
Lạnh ngắt: Lạnh lẽo như không còn chút hơi ấm. Mảnh mền: Cái mền rách chỉ còn có một mảnh. Đêm trường: Đêm dài. Quạnh quẽ: Vắng vẻ im lặng đến mức gây cảm giác cô đơn buồn bã. Phòng không: Cái phòng không có người nào ở khác hơn là mình, thường nói Phòng không chiếc bóng. Não nồng: Não nùng, buồn rầu sâu đậm. Kiên trinh: Kiên là lòng cứng rắn vững chắc, trinh là lòng trong sạch của vợ đối với chồng. Kiên trinh là lòng trong sạch bền vững của vợ đối với chồng.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 285 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
289.
|
Vắng mặt chồng, cân hình của trẻ, Ngó thấy con đặng vẽ tượng chồng. Cân thương trẻ ấy mà đong, Thì trong thương ấy, của chồng tám phân. |
Cân hình của trẻ: Đem đứa trẻ đặt lên bàn cân mà cân. Tượng chồng: Hình ảnh của chồng. Tám phân: Ý nói phân nửa. 1 cân có 16 lượng, 8 phân tức là 8 lượng, bằng nửa cân.
Câu 290: Đứa con sanh ra giống chồng như đúc, nên ngó thấy con thì vẽ được hình ảnh của chồng.
Hai câu 291-292: Vợ chồng thương yêu nhau, kết quả là sanh được đứa con. Người vợ thương chồng mà cũng thương con. Tình thương ấy thể hiện bằng sức nặng của đứa con. Nếu đem cân so sánh, thương chồng 8 phân thì thương con cũng 8 phân, 2 tình thương ấy đồng đều như nhau.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 289 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
293.
|
Kìa máu huyết, cành xuân nhụy nở, Khối ái ân đành ở nơi con. Dầu cho biển cạn non mòn, Tơ duyên khắn khít chỉ còn bấy nhiêu. |
Máu huyết: Chỉ đứa con, vì máu thịt của con là do máu huyết của mẹ tạo nên. Cành xuân nhụy nở: Cành xuân là chỉ người con gái trẻ tuổi, nhụy nở là ý nói sanh ra được đứa con. Cành xuân nhụy nở là người con gái trẻ tuổi sanh ra được đứa con. Biển cạn non mòn: Ý nói thời gian lâu dài, sự đời nhiều thay đổi.
Câu 296: Tình thương yêu khắn khít của vợ chồng ngày nay chỉ còn có đứa con mà thôi.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 293 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
297.
|
Trẻ nhỏ dại lắm điều học hỏi, Thường kiếm cha mong mỏi thấy nhau. Dỗ con chỉ bóng giải sầu, Rằng khuya đèn thắp cha hầu về thăm. |
Chỉ bóng: Người mẹ chỉ cái bóng của mình hiện lên vách khi thắp đèn lên. Giải sầu: Cởi bỏ sự buồn rầu. Cha hầu về thăm: Cha sắp về thăm. Hầu là sắp sửa.
Hai câu 299-300: Nói theo sự tích Thiếu phụ Nam Xương.
Thiếu phụ Nam Xương là nàng Vũ Thị Thiết, ở quận Nam Xương, tỉnh Hà Nam nước ta. Nàng Vũ Thị Thiết có tánh tình thùy mị đoan trang, dung nhan xinh đẹp. Chàng Trương Sinh mến mộ, xin mẹ đem trầu cau và lễ vật cưới nàng Thiết về. Trương Sinh có tánh hay ghen, đối với vợ phòng ngừa nhiều điều thái quá. Cuộc sống chung chẳng đặng bao lâu thì nước ta có chiến tranh với nước Chiêm Thành, chàng Trương Sinh phải sung vào quân ngũ. Chàng lạy mẹ từ giã và dặn dò nàng Thiết rồi lên đường, lúc đó nàng Thiết đã có thai gần ngày sanh nở.
Sau khi chồng ra đi chừng mươi ngày thì nàng Thiết sanh đặng một đứa con trai, đặt tên là Đản. Bà mẹ vì thương nhớ con trai mà đau ốm luôn. Nàng dâu hết sức thuốc thang nuôi mẹ, hằng đêm cầu khẩn Trời Phật cho mẹ qua cơn bịnh. Nhưng số Trời đã định, bà mẹ mất. Nàng Thiết thương xót vô cùng, lo liệu đầy đủ tang lễ cho mẹ.
Hơn một năm sau, quân Chiêm Thành bị đánh bại, quân ta kéo quân trở về ca khúc khải hoàn. Trương Sinh sau đó được rời quân ngũ, trở về quê nhà, mới hay mẹ đã mất, và con mới vừa biết nói.
Chàng hỏi vợ mồ của mẹ ở đâu rồi ẵm đứa con đi ra thăm mộ của mẹ. Ra đến đồng, thằng bé quấy khóc.
Trương Sinh dỗ dành con: Con nín đi đừng khóc. Cha về thì bà nội mất, lòng cha buồn khổ lắm!
Thằng Đản ngây thơ nói: Ô! Ông là cha sao lại biết nói? Chớ không như cha Đản trước kia cứ nín thin thít.
Chàng Trương Sinh ngạc nhiên, gạn hỏi đứa con thì đứa con nói: Khi đêm thì cha Đản hiện đến, đi theo mẹ Đản, mẹ đi thì cha đi, mẹ ngồi thì cha ngồi, nhưng chẳng bao giờ nói hay bồng Đản cả.
Vốn tính hay ghen, Trương Sinh nghe con nói vậy thì vội tin chắc là vợ hư, ngoại tình với kẻ khác, máu ghen nổi lên, lật đật về nhà la mắng vợ dữ dội, không ai can ngăn được.
Nàng Thiết khóc lóc nói rằng: Thiếp vốn nhà nghèo, được vào làm vợ chàng, sum họp chưa thỏa tình chồng vợ, lại bị chia phôi vì việc đao binh. Cách biệt đã gần 3 năm, thiếp giữ gìn một tiết, ở nhà thờ mẹ nuôi con, chờ chàng trở về, nào biết việc gì khác bên ngoài, đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Xin chàng đừng nghi oan cho thiếp.
Trương Sinh vẫn không tin lời vợ. Nàng hỏi chuyện đó do ai nói với chàng thì Trương Sinh giấu biệt, không kể lại lời nói của thằng Đản, mà chỉ nhiếc mắng nàng nặng lời và đánh đuổi nàng đi. Họ hàng lối xóm đều bênh vực và biện bạch cho nàng Thiết nhưng chẳng làm Trương Sinh thôi mắng vợ.
Nàng Thiết quá tuyệt vọng, chỉ còn biết lấy cái chết mà bày tỏ lòng trinh liệt của mình. Nàng liền tắm gội sạch sẽ, chạy ra bên bờ sông Hoàng giang của huyện Nam Xương, ngửa mặt lên Trời vái rằng: Kẻ bạc mệnh nầy, duyên phận hẩm hiu, bị chồng ruồng bỏ, tai bay họa gởi, chịu tiếng nhuốc nhơ, Thần sông có linh, xin Ngài chứng giám. Nếu thiếp đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mỹ, nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa dối phản bội chồng, dưới nước xin làm mồi cho tôm cá, trên bờ xin làm mồi cho diều quạ, và chịu cho mọi người phỉ nhổ.
(- Mỵ Nương là vợ của Trọng Thủy, con gái của Thục An Dương Vương, vì chồng mà thác oan, hóa thành ngọc trai dưới biển.
- Ngu Mỹ là Ngu Mỹ nhơn, tức là nàng Ngu Cơ, vợ của Sở Vương Hạng Võ. Khi Hàn Tín đánh đuổi Hạng Võ chạy vào thành Cai Hạ, Ngu Cơ rút gươm tự tử để Hạng Võ rảnh tay đối phó với Hàn Tín, nhưng sau đó Hạng Võ thất thủ thành Cai Hạ, chạy đến bến sông Ô Giang, tự cắt đầu tự tử chết. Tục truyền hồn Ngu Cơ không tan, hóa thành 2 khóm cỏ quấn quít nhau trên mộ nàng, gọi là cỏ Ngu Mỹ).
Vái xong, nàng Thiết nhảy xuống sông Hoàng giang mà chết. Trương Sinh thấy vợ tự tử cũng động lòng thương, tìm kiếm vớt xác nàng, nhưng chẳng thấy đâu cả.
Đêm đến, phòng không vắng vẻ, Trương Sinh ngồi buồn, đốt ngọn đèn lên. Chợt đứa con là thằng Đản nói: Ô! Cha Đản đã về.
Trương Sinh liền hỏi: Đâu?
Thằng Đản chỉ cái bóng của chàng trên vách và nói: Đây nầy.
Thì ra, khi chàng đi tòng quân, nàng ở nhà thường đùa với con, chỉ cái bóng của nàng trên vách mà bảo rằng đó là cha của Đản. Bây giờ, Trương Sinh tỉnh ngộ, biết mình ghen bậy, gây ra cái chết oan uổng của vợ, hối hận vô cùng.
Ở dưới sông Hoàng giang huyện Nam Xương, có một tòa cung điện gọi là Qui động của Bà Linh Phi, vợ của Nam Hải Long Vương. Bà Linh Phi biết nàng Vũ thị Thiết có lòng trinh liệt nên rất thương tình, nên khi nàng gieo mình xuống sông thì Bà Linh Phi rẽ nước rước nàng về Qui động.
Tại bến sông Hoàng giang có một Đầu mục tên là Phan Lang, khi trước có ơn cứu sống Linh Phi, nay bị chìm tàu chết đuối, Bà Linh Phi biết được nên cứu sống đem về Qui động. Phan Lang gặp nàng Thiết thì biết là người cùng làng, liền hỏi: Nương tử, từ khi lạc đến thủy cung thấm thoát đã một năm, há không nhớ tưởng quê hương ư?
Nàng Thiết liền đáp: Tôi bị chồng ruồng rẫy, thà chết ở thủy cung chớ không còn mặt mũi nào về gặp chồng.
Hôm sau, Bà Linh Phi lấy một túi lụa, bỏ vào 10 hạt minh châu, trao tặng Phan Lang, rồi sai sứ giả đưa Phan Lang lên khỏi mặt nước. Nàng Thiết bèn gởi một chiếc hoa vàng trao lại cho chàng Trương và nhờ nói hộ với chàng Trương: "Nếu còn nhớ chút tình xưa thì lập đàn nơi bờ sông giải oan cho nàng, đốt một cây đèn lớn cho ánh sáng chiếu xuống mặt nước thì sẽ thấy nàng hiện về."
Phan Lang được đưa lên khỏi mặt nước liền trở về nhà.
Phan Lang kể chuyện gặp nàng Thiết nơi thủy cung cho Trương Sinh nghe. Ban đầu Trương Sinh không tin, nhưng khi nhận được chiếc hoa vàng của nàng Thiết thì kinh sợ nói: Đây quả thật là vật dùng của vợ tôi.
Trương Sinh liền lập đàn tràng nơi bến sông Hoàng giang, cúng tế nàng Thiết trong 3 ngày đêm, đốt một cây đèn sáng đúng theo lời nàng Thiết dặn, quả nhiên trong đêm tối, thấy nàng Thiết ngồi trên chiếc kiệu hoa hiện ra giữa dòng sông, theo sau có hơn 50 chiếc nữa, cờ tán rực rỡ, lúc ẩn lúc hiện. Trương Sinh cất tiếng gọi thì nàng Thiết đáp vọng vào: Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi nên không trở lại nhơn gian nữa. Đa tạ chàng đã giải oan cho thiếp.
Rồi trong chốc lát, nàng Thiết và cả xe cộ biến mất.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 297 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
301.
|
Hơi mảnh áo còn cầm đặng ngữi, Gối loan gìn từ buổi kết duyên. Ba sanh dầu toại thửa nguyền, Họa trong giấc mộng giải phiền giao hoan. |
Hơi mảnh áo: Cái mùi trong cái áo. Hơi là mùi. Gối loan: Cái gối có thêu hình chim loan, dành cho người vợ nằm; cái gối dành cho chồng thì thêu hình chim phụng. Đây là cặp gối cưới. Ba sanh: Ba kiếp sống, ý nói cái duyên vợ chồng đã tiền định do sự thề nguyền với nhau từ kiếp trước. Thửa nguyền: Cái ước muốn ấy. Họa: May ra. Giải phiền: Cởi bỏ sự buồn rầu. Giao hoan: Vợ chồng ân ái với nhau.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 301 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
305.
|
Càng bạc phước càng than con dại, Lo tảo tần mảy mạy dưởng nuôi. Còn cha con tỷ như côi, Chít chiu trẻ khó, bồi hồi mẹ đơn. |
Bạc phước: Phước mỏng, ít phước. Tảo tần: (Đã giải ở câu 227), chỉ sự cần kiệm và chịu cực khổ của người vợ. Mảy mạy: Một chút nhỏ. Tỷ: Ví như. Chít chiu: Chiu chít, tiếng chim con kêu đòi chim mẹ đút mồi cho ăn. Chít chiu trẻ khó: Ý nói con đòi ăn. Bồi hồi: Bồn chồn xao xuyến. Mẹ đơn: Người mẹ cô đơn.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 305 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
309.
|
Nhịn ăn mặc ngừa cơn thiếu thốn, Làm lụng nhiều nuôi dưỡng sắp con. Nại chi xác yếu thịt mòn, Gia tư miễn đặng vuông tròn giữ duyên. |
Sắp con: Đàn con. Nại chi: Có nề hà chi. Gia tư: Của cải trong nhà. Tư là của cải. Miễn đặng: Chỉ cần được. Giữ duyên: Gìn giữ cái duyên vợ chồng.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 309 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
313.
|
Lớn một tuổi, mẹ thêm một khổ, Hiểu một điều, mẹ hổ cho thân. Trí con lần mở nẻo gần, Hỏi cha sao phụ, tố trần làm răng? |
Hổ: Hổ thẹn, xấu hổ. Trí non: Sự hiểu biết non kém. Cha phụ: Cha phụ bạc mẹ, đối xử bạc bẽo với mẹ. Tố trần: Tố là nói cho biết rõ, trần là bày tỏ. Tố trần là bày tỏ cho mọi người biết rõ. Làm răng: Làm thế nào?
Câu 314: Tại sao đứa con hiểu một điều mà làm cho mẹ xấu hổ? Bởi vì nó muốn hiểu cha nó làm gì? Ở đâu? Tại sao cha phụ bạc mẹ? Những điều đó làm mẹ nó khó trả lời và cảm thấy xấu hổ vì những việc làm không tốt của cha nó.
Câu 315: Sự hiểu biết non nớt của đứa con từ từ mở ra, từ việc gần rồi đến việc xa, từ việc dễ đến việc khó.
Câu 316: Đứa con hỏi tại sao cha phụ bạc mẹ, thì phải tỏ bày với nó thế nào đây?
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 313 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
317.
|
Chẳng lẽ nói cho chàng đen bạc, Chẳng lẽ cho cỡi hạc quên nhà. Không đành nói thác ra ma. Không đành nói ngụ nơi nhà lầu xanh. |
Đen bạc: Phụ bạc, không thủy chung. Cỡi hạc quên nhà: Ý nói đi chơi xa, quên nhà quên cửa. Hạc là loại chim chân cao cổ dài, lông trắng, bay cao và xa, sống đến ngàn năm. Cỡi hạc còn có ý nói là cỡi hạc du Tiên, nghĩa là chết, linh hồn cỡi chim hạc lên chơi cõi Tiên. Thác ra ma: Chết thành ma. Thác là chết. Lầu xanh: Chữ Hán là Thanh lâu, chỉ nhà chứa gái điếm, gái làng chơi.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 317 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
321.
|
Không lẽ nói mến anh quên én, Không lẽ rằng trộm nén hương thừa. Nói chi tìm vợ dâng dưa, Lẽ nào nói rượt theo vừa Hằng Nga. |
Mến anh quên én: Đồng nghĩa với các thành ngữ: Tham lựu bỏ đào, Tham lê bỏ lựu, Có mới nới cũ,... Trộm nén hương thừa: Ý nói yêu đương vụng trộm với một người con gái thuộc loại không ra gì. (Thừa là vô ích). Trộm nén hương: Ý nói việc trai gái yêu nhau vụng trộm. Điển tích: Theo Thế Thuyết Tân Ngữ, Hàn Thọ đang làm thư lại cho quan đại thần Giả Sung, dưới triều nhà Tần. Hàn Thọ đẹp trai, nên con gái của Giả Sung phải lòng và tư thông nhau. Giả Sung có thứ hương liệu quí do vua Tần ban thưởng, bị con gái đánh cắp đem cho Hàn Thọ. Khi lộ chuyện ra, Giả Sung buộc lòng phải gả con gái cho Hàn Thọ.
Tìm vợ dâng dưa: Đội dưa xuống dâng cho Diêm Vương để tìm vợ. Điển tích: Vua Đường Thái Tôn du Địa phủ, khi từ giã Thập Điện Diêm Vương, vua Thái Tôn nói: Tôi trở về dương thế, chẳng có gì biếu Thập Điện, chỉ xin dâng mấy quả dưa kính tạ.
Hồn vua Thái Tôn được sứ giả đưa về thế gian nhập xác sống lại, uống thuốc bổ an dưỡng vài ngày thì khỏe mạnh như trước, liền ra Bảng chiêu hiền, để chọn người đi dâng dưa cho Thập Điện.
Lúc đó có một hiền giả đến gỡ bảng tình nguyện đi dâng dưa. Người nầy tên là Lưu Toàn, quê ở Quận Châu, nhà giàu có. Vợ là Lý Thúy Liên rút kim thoa đem cúng nhà sư ngoài cổng. Lưu Toàn trông thấy liền mắng vợ là không biết giữ nết. Lý thị tức giận chồng bèn treo cổ tự tử, bỏ lại 2 đứa con thơ kêu khóc. Lưu Toàn buồn rầu, gởi gấm con cái ở lại, quyết xuống Âm phủ tìm vợ nên liều chết lãnh nhiệm vụ đi dâng dưa cho Thập Điện.
Vua Đường hạ chỉ cho Lưu Toàn đến Kim Đình quán, đầu đội một quả dưa to, túi đựng tiền vàng, miệng ngậm thuốc độc. Giây lát, Lưu Toàn chết, linh hồn đội dưa xuống Âm phủ, được Quỉ sứ dẫn vào điện Sum La, tâu lên Thập Điện: Tôi vâng chỉ vua Đường, từ cõi dương gian, đội dưa dâng hiến Thập Điện Diêm Vương để báo đáp ân nghĩa của Thập Điện đã tha thứ vua Đường.
Diêm Vương cả mừng nói: Tốt lắm, Đường Thái Tôn thật có tín nghĩa.
Diêm Vương thâu dưa, rồi hỏi tên họ và quê quán của Lưu Toàn, Lưu Toàn đáp: Tiểu nhân họ Lưu tên Toàn, quê ở Quận Châu, vì vợ là Lý thúy Liên tự tử, bỏ lại 2 đứa con không người trông nom, tiểu nhân tình nguyện bỏ nhà lìa con, trước là liều chết để báo ơn vua, đi dâng dưa lên 10 Vua, sau là tìm vợ.
Thập Điện nghe nói vậy thì sai Quỉ sứ dắt hồn Thúy Liên đến cho gặp mặt chồng. Hai vợ chồng gặp nhau, giải bày chuyện cũ và tạ ơn 10 Vua. Diêm Vương cho tra xét Sổ Sinh Tử, thấy 2 vợ chồng Lưu Toàn có số thọ và được lên Tiên, vội sai Quỉ sứ dẫn 2 hồn trở về dương thế nhập xác. Quỉ sứ tâu: Lý Thúy Liên về cõi Âm khá lâu nên thi thể đã thúi nát thì hồn nhập xác sao được?
Diêm Vương nói: Em gái vua Đường là Công Chúa Lý ngọc Anh nay bị chết tươi, nhà ngươi mượn xác ấy cho Thúy Liên nhập đỡ.
Quỉ sứ vâng lịnh dẫn 2 hồn Lưu Toàn và Thúy Liên ra khỏi Âm phủ, trở về dương thế. Hồn Lưu Toàn được dẫn đến Kim Đình quán và cho nhập vào xác sống lại, còn hồn Lý Thúy Liên được dẫn vào Hoàng cung, thấy Công Chúa Lý Ngọc Anh đi dạo, Quỉ sứ đẩy mạnh làm Ngọc Anh té xuống, Quỉ sứ bắt hồn Ngọc Anh dẫn đi và xô hồn Thúy Liên vào nhập xác Công Chúa.
Xác Công Chúa sống lại nhưng là hồn của Lý Thúy Liên, nên không nhận mình là Công Chúa làm cho Hoàng gia bối rối. Vua Đường Thái Tôn đã được Thập Điện báo trước em gái vua sẽ bị bất đắc kỳ tử, nên vua không ngạc nhiên, xác nhận việc đó và cho vợ chồng Lưu Toàn tái hợp mà vợ là Thúy Liên trong xác Công Chúa, và ban thưởng rất hậu.
Hằng Nga: Theo Thần Tiên Truyện, Hằng Nga là vợ của Hậu Nghệ. Hậu Nghệ có tài bắn cung. Tương truyền, thời xưa bỗng nhiên có 10 Mặt Trời mọc lên một lượt làm cho nắng nóng cháy cây chết vật. Hậu Nghệ giương cung, lần lượt bắn rớt 9 Mặt Trời, làm khí hậu trở lại mát mẻ. Dân chúng vui lòng tôn lên làm vua. Hậu Nghệ được Đức Bà Tây Vương Mẫu ban cho thuốc trường sanh. Về sau, Hậu Nghệ làm nhiều điều tàn ác, Hằng Nga khuyên can không được nên lén lấy thuốc trường sanh của Hậu Nghệ uống vào, thì nhẹ mình bay lên ở trên Cung Trăng. Hậu Nghệ mất thuốc Tiên, nên không thể bay lên Mặt Trăng để bắt Hằng Nga trị tội.
Câu 321: Chẳng lẽ nói cha con là người đen bạc, mê theo vợ bé, bỏ bê vợ lớn ở nhà.
Câu 322: Chẳng lẽ nói cha con lén lút vụng trộm với những người đàn bà mất nết, không ra gì.
Câu 323: Nói chi đến chuyện chung tình như chàng Lưu Toàn liều chết đi dâng dưa cho Thập Điện Diêm Vương để tìm vợ nơi cõi Âm phủ.
Câu 324: Chẳng lẽ nói cha con như chàng Hậu Nghệ rượt theo đuổi bắt Hằng Nga.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 321 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
325.
|
Không lẽ nói đi qua Đông Độ, Không lẽ rằng vô số chinh phu. Lẽ nào nói bị tội tù, Lẽ nào nói trấn Tây Âu làm hoàng. |
Đông Độ: Danh từ của Phật giáo, chỉ nước Tàu. Đông độ tức là Đông thổ, là đất ở phía Đông của nước ƒn Độ. Xưa, Đạt Ma Tổ Sư, từ ƒn Độ đi thuyền qua nước Tàu để truyền bá Phật giáo tại đó, nên gọi nước Tàu là Đông độ.
Câu 325: Không lẽ nói chàng đi qua nước Tàu.
Câu 326: Không lẽ nói chàng đi chinh chiến phương xa.
Câu 327: Không lẽ nói chàng bị tội ở tù.
Câu 328: Không lẽ nói chàng được bổ trấn nhậm Tây Âu và làm vua nơi đó.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 325 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
329.
|
Còn nói thiệt rằng chàng phụ thiếp, Cũng vì mê theo kiếp làng chơi. E con đến lớn nên người, Gương cha để thẹn những lời bợm hoang. |
Kiếp làng chơi: Đời sống của những người chỉ biết chơi bời, tìm hưởng thú vui xác thịt. Bợm hoang: Bợm là tay ăn chơi sành sỏi, có nhiều mánh khóe xảo quyệt lừa gạt người. Hoang là rong chơi đàng điếm, không có độ lượng.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 329 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
333.
|
Riêng chịu thảm không than với trẻ, Đổ lụy rơi theo khóe miệng cười. Vui là gắng gượng làm vui, Cái vui cùng trẻ là hồi ai bi. |
Đổ lụy: Rớt nước mắt. Gắng gượng: Cố gắng làm một cách gượng gạo. Trẻ: Chỉ đứa con còn nhỏ dại. Ai bi: Bi ai, buồn rầu thương xót.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 333 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
337.
|
Ngàn dâu ngó ngày chầy thăm thẳm, Bận lòng con lại vấn nô y. Xem chừng coi mảnh anh nhi, Co tay đếm tuổi bấy chầy không cha. |
Ngàn dâu: Rừng cây dâu. Ngàn là rừng. Chữ Hán có thành ngữ: Tang điền biến vi thương hải, nghĩa là: Ruộng dâu biến thành biển xanh. Ngàn dâu là ý nói cuộc đời nhiều biến đổi. Ngày chầy: Ngày dài. Thăm thẳm: Xa lắm. Vấn: Quấn chung quanh. Nô y: Nghĩa đen là cái áo của đày tớ. Nô là đày tớ, y là cái áo. Ở đây, Nô y có nghĩa là cái áo choàng vào bên ngoài để làm các công việc trong bếp. Anh nhi: Đứa con bé nhỏ. Anh là bé con, nhi là con. Co tay đếm tuổi: Xòe bàn tay trái ra, co ngón tay cái để làm dấu đếm trên các lóng tay, tính tuổi con theo năm âm lịch: Tý, Sửu, Dần, Mẹo,... Bấy chầy: Bấy lâu.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 337 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
341.
|
Hột cơm tẻ nhai ra như cát, Gan còn nguyên như nát bao chừ. Nuôi con từ lúc đào thư, Bao nhiêu máu thịt công chờ bấy nhiêu. |
Cơm tẻ: Cơm nấu từ gạo thường. Tẻ có nghĩa là ít nhựa. Nói cơm tẻ để phân biệt với cơm nếp, mềm có nhựa. Đào thư: Đào là cây đào chỉ người con gái, thư tức là thơ, trẻ tuổi. Đào thư hay Đào thơ là người con gái trẻ tuổi. Đào thơ cũng là Đào non, chữ Hán là Đào yêu. Trong Kinh Thi có nói: Con gái về nhà chồng gặp lúc đào non lá xanh mướt. Do đó, chữ Đào yêu là chỉ con gái mới về nhà chồng.
Câu 344: Bao nhiêu máu thịt của đứa con thì cái công chờ đợi chồng trở về cũng bằng bấy nhiêu (vì người chồng đã bỏ nhà ra đi theo vợ nhỏ từ lúc vợ lớn mới sanh đứa con).
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 341 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
345.
|
Chàng đâu rõ khúc khiu cực nhọc, Lớn khôn ngoan biết học biết hành. Biết ơn nuôi dưỡng sanh thành, Tìm cha lại bỏ một mình thiếp côi. |
Khúc khiu: Những nỗi khó khăn vất vả. Sanh thành: Sanh ra, nuôi nấng và dạy dỗ thành người.
Câu 348: Người vợ sợ đứa con khi lớn đi tìm cha, bỏ mẹ ở lại một mình cô đơn.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 345 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
349.
|
Càng thấy lớn, mầng rồi lại sợ, Mầng nên hình, còn sợ theo cha. Dường như con vịt mẹ gà, Trẻ thơ vội phản, mụ già kinh tâm. |
Mầng: Mừng. Con vịt mẹ gà: Ý nói con nuôi, không phải con ruột. Kinh tâm: Lòng rất sợ sệt.
Câu 351: Dường như là con nuôi, chớ không phải con ruột (nên người mẹ lo sợ khi con lớn nó đi theo cha, bỏ mẹ).
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 349 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
353.
|
Làm lụng té bao lăm của cải, Để cho con làm ngãi cùng con. Nỗi lo đôi lứa vuông tròn, Còn lo gia thất vĩnh tồn hậu lai. |
Té: Sanh lợi ra, dư ra. Bao lăm: Có đáng bao nhiêu. Làm ngãi: Làm nghĩa. Ngãi là ơn nghĩa. Gia thất: Gia là chỉ người chồng, thất là chỉ người vợ. Gia thất là vợ chồng. Có câu: Nữ tử sinh nhi nguyện vi chi hữu gia và Tam thập viết tráng hữu thất. Nghĩa là: Con gái sanh ra mong cho nó có chồng. Ba mươi tuổi gọi là tráng niên có vợ. Vĩnh tồn: Tồn tại lâu dài. Hậu lai: Thời gian về sau.
Trở lại Nữ Trung Tùng Phận câu 353 / Trở lại Nữ Trung Tùng Phận mục lục.
___________________________________________________________________________
Đức Nguyên: Giới thiệu & Chú thích.
Nhóm Bạn Đạo Thánh Thất New South Wales (Australia).
No comments:
Post a Comment