SƠN TRUNG * CHIÊM TINH GIA ĐINH SƠN
CHIÊM TINH GIA ĐINH SƠN
Đinh Sơn quê ở ngoại thành Qui Nhơn. Thân phụ
ông làm lý trưởng, có một cái nhà ngói và vài mẫu ruộng. Khi Nguyễn
Nhạc khởi binh, bọn Lý Tài, Tập Đình cướp phá xóm làng, thân phụ của
Đinh Sơn không chịu cung ứng vàng bạc, lúa gạo cho bọn họ nên bị Lý Tài
kết tội là địa chủ, phong kiến, cường hào, ác bá rồi bắt giết. Đinh Sơn
sợ hãi, bỏ vợ con trốn vào Gia Định sinh sống qua ngày. Đinh Sơn không
được học hành nhiều cho nên vốn liếng chữ nghĩa cũng không là bao. Ông
theo một ông thầy bói ở Gia Định học nghề bói toán. Ít lâu sau, ông thầy
bói chết, Đinh Sơn nối nghiệp thầy mở một cửa hàng tướng số tại hương
lộ 18, sau trở thành tỉnh lộ, là con đường nối liền Gia Định và Tây
Ninh, và sau này thành khu Bà Quẹo, gần khu Bình Hưng Hòa.
Đinh Sơn làm ăn cũng khấm khá, mua được một căn nhà ngói ở mặt tiền,
và cũng đã lập một gia đình mới, gồm một vợ và ba con. Khu nhà Đinh Sơn
vốn xưa là một khu rừng. Sau khi chúa Nguyễn mở mang miền Nam, lập Gia
Định trấn, khu này trở thành khu tân lập, gồm những người Bắc, người
Thanh Nghệ theo Nguyễn Hoàng vào từ trước, và một số bà con người Quảng
Nam, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Phan Rang vào sau. Những người này sinh sống
bằng nghề canh nông, một số đốn cây rừng từ Tây Ninh về cưa xẻ làm bàn
ghế đem về Gia Định , Đồng Nai bán. Một số chuyên buôn hàng từ biên giới
Miên Lào về Gia Định và chuyển hàng từ Gia Định đi Miên, Lào.
Khi quân Tây Sơn đánh thành Gia Định quân chúa Nguyễn thua đậm. Chúa Nguyễn phải bỏ chạy ra ngoài. Nguyễn Lữ ra lệnh tịch thu tài sản của những quan lại theo chúa Nguyễn, và những thương gia giàu có tại miền Nam. Những tướng tá và binh lính chúa Nguyễn đều bị bắt giam trong rừng sâu. Những thầy tu, thầy bói cũng bị giam giữ. Thậm chí có người bị giết. Đinh Sơn cũng bị bắt giam một thời gian.
Bỉ
nhân cư ngụ tại Gia Định . Hôm hôm cưỡi ngựa đi thăm một người bạn ở
vùng này, nhân đi qua nhà nọ, thấy bảng hiệu “Đinh Sơn, chiêm tinh gia”
bèn xuống ngựa vào chơi. Vốn từ lâu, nghe danh Đinh Sơn nhưng chưa có
dịp gặp mặt. Nay qua đây, tôi muốn vào thăm. Đinh Sơn có nhà, ông vui vẻ
tiếp tôi. Trong khi ông xin phép vào nhà thay y phục, tôi nhìn xung
quanh thì thấy căn nhà cũng khá đầy đủ tiện nghi như bao gia đình bực
trung tại Gia Định lúc này, mặc dầu nền nhà có những vết cạy phá, chưa
kịp sửa sang.
Đinh Sơn chuyên coi tử vi. Tại phòng khách , ông vẽ lên
tường một bản tử vi to bằng cái chiếu. Khi ông ra tiếp tôi, ông bưng ra
một khay trà mời khách. Chúng tôi cùng uống trà đàm đạo như hai người
bạn quen thân. Ông bảo tôi viết tên tôi vào tay rồi nắm lại. Tôi che kín
tay và viết tên tôi, thế mà ông nói rõ tên tôi. Tôi hỏi ông lá số của
ai trên tường. Ông bảo đó là lá số của ông, rất giống lá số Nguyễn Nhạc,
là lá số làm giặc, làm vua. Nhưng ông không làm vua được, mà làm giặc,
làm kẻ chống đối bạo quyền, vì cung mệnh của ông có Sát, Phá tọa thủ.
Ông cho biết, ông làm nhiều nghề. Khách muốn trừ tà, xin bùa ngãi, ông
đều có. Ông bảo nhà ông có phủ thờ thần linh.
Ông dẫn tôi lên xem. Trên
gác, ông có cả một phủ thờ gồm khoảng một trăm bát nhang. Ngày rằm ,
mồng một và mỗi đêm , ông đều cúng kiếng thờ phụng nghiêm chỉnh. Ông là
một thầy bói và cũng là một thầy pháp. Ông kể chuyện khi quân Tây Sơn
vào, ông bị giam một năm. Nằm trong tù rất khổ sở, thân hình gầy ốm như
quỷ đói. Khi ông ra tù về nhà thì nhà cửa bị cướp phá. Bọn quan quân Tây
Sơn và bọn lưu manh lấy các cửa ngõ, dở gạch ngói nhà ông để xây nhà
chúng, hoặc bán chợ trời. Ông nói:
-Thưa ông, vài tháng nữa, tôi và các thầy bói được lênh phải tập trung lên huyện học tập chính sách của triều đình. Tôi thà chết chứ không đi tù lần nữa. Bọn nó đến nhà tôi, thì tôi sẽ liều chết chống lại. Tôi đã chuẩn bị cả rồi.
-Thưa ông, vài tháng nữa, tôi và các thầy bói được lênh phải tập trung lên huyện học tập chính sách của triều đình. Tôi thà chết chứ không đi tù lần nữa. Bọn nó đến nhà tôi, thì tôi sẽ liều chết chống lại. Tôi đã chuẩn bị cả rồi.
Ông bưng chén trà uống một hơi rồi nói tiếp:
-Chúng nói chống mê tín, dị đoan, nhưng sự thực là chúng muốn độc quyền buôn thần bán thánh. chúng sợ các thầy bói cạnh tranh với chúng, cướp nghề của chúng. Nguyễn Nhạc vốn làm nghề buôn lậu, ăn cướp. Nguyễn Nhạc cho bộ hạ đốt lửa trên núi, giả làm thần linh, kêu Nguyễn Nhạc lên nhận kiếm thần. Nguyễn Nhạc ghét thầy bói vì sợ dân nghe lời thầy bói mà chống lại chúng. Ngày nay, có hai loại thầy bói. Một loại không theo chúng thì bị chúng khủng bố và bắt giam. Một số theo chúng thì trong nhà đã có người của Tây Sơn phục sẵn. Ai có ý chống triều đình, hớ hênh đến xem việc thành bại, hay chọn ngày hưng binh, hoặc tỏ ý bất mãn, phê phán triều đình thì chết với chúng. Nếu thường dân đến xem xuất hành cát hung thì thầy bói hỏi đi xa hay đi gần. Nếu đi xa thì bất lợi, mà đi sông biển tất chết.
Ông kể chuyện nhà của ông. Ông có hai đứa con trai với bà vợ trước ở ngoài Quy Nhơn. Chúng hăng hái theo Nguyễn Nhạc. Sau khi quân Tây Sơn nhập thành Gia Định, chúng tìm vào thăm ông. Chúng ở lại khoảng hai tháng thì về. Ngày chúng về quê, ông mua vải vóc, sâm nhung , và cho chúng mỗi đứa vài lượng vàng. Mấy ngày trước, chúng rất mềm mỏng, hiếu thảo, nhưng sau khi nhận vàng, chúng trở mặt. Chúng chỉ mặt ông chửi mắng.
Thằng cả nói::
-Ông không phải là bố tôi. Ông là một thằng giặc. Ông bỏ quê
hương Quy Nhơn và Đại đế Nguyễn Nhạc, mà chạy vào Nam theo ngụy quyền
Nguyễn Ánh. Ông bỏ chính nghĩa theo giặc bán nước. Ông là đồ phản bội
dân tộc, phản bội tổ quốc.
Thằng hai tiếp theo:Vi ông mả chúng tôi khổ. Chúng tôi không ngửng đầu lên nổi. Chúng tôi bị lý lịch xấu, bị triều đình nghi kị, hành hạ vì có thân phụ bỏ vào Nam. Chúng tôi xấu hổ vì ông. Ông vào Nam theo giặc, ông còn làm nghề bói toán là nghề mê tín dị đoan, lừa dối và bóc lột nhân dân. Người như ông phải ngồi tù suốt đời mới cải tạo được tư tưởng đồi trụy và lạc hậu!
Cuộc gặp gỡ đó cho tôi một cảm giác buồn. It lâu sau, tôi có việc phải qua vùng này. Khi đi qua nhà Đinh Sơn thì thấy quanh cảnh quạnh hiu. Ngôi nhà có vết đạn và vết cháy xém. Tôi ghé một nhà cách nhà Đinh Sơn vài căn , vào xin bát nước lã. Tôi hỏi bà cụ chủ nhà:
-Thưa bà , tại sao ngôi nhà bên cạnh trông tiêu điều lại có vết đạn và vết cháy như thế? Chủ nhân ngôi nhà là ai?
Bà chủ nhà cho biết câu chuyện như sau:
-Đó là nhà của ông thầy bói Đinh Sơn. Ông có lệnh tập trung cải tạo nhưng ông không chịu đi.. Ông cho vợ con đi ở chỗ khác. Huyện phái hai tên lính Tây Sơn đến nhà bắt ông lên huyện trình diện. Ông cầm dao đâm chết một tên. Tên thứ hai sợ hãi chạy ra ngoài. Giờ sau, lính Tây Sơn kéo đến nhà ông vây chặt. Ông đóng cửa, đứng trên gác bắn súng và cung tên sát hại vài tên. Hết tên, ông ném tạc đạn, và phóng lao. Quân Tây Sơn bắn súng, bắn tên và phóng gươm giáo vào nhà ông. Hai bên giao chiến một ngày. Thiên hạ kéo đến xem đông như ngày hội. Cuối cùng ông mở tạc đạn tự sát.
Nghe tin ông mất trong một hoàn cảnh bi hùng như vậy, tôi rất buồn. Trong khi bao nhà khoa bảng và bao nhà tu hành bỏ nhân nghĩa, cúi đầu, khom lưng trước bạo quyền, Đinh Sơn là một kẻ thất phu, dám đem tính mạng tranh đấu cho tự do và chống lại kẻ ác. Riêng đối với tôi, tôi cũng vô cùng cảm kích vì tấm thịnh tình của ông. Thời buổi loạn ly, cha con không dám tin nhau, vợ chồng tố cáo nhau, bè bạn phản trắc, xóm giềng rình rập vu khống để tâng công, thế mà gặp tôi lần đầu, ông đã thật dạ tin tôi, coi như tri kỷ, kể hết chuyện lòng. Nghe đâu sau vụ Đinh Sơn tuẫn tiết, triều đình bỏ lệnh tập trung và cải tạo các thầy bói.
TRẦN YÊN HẠ * VÌ TÔI LÀ ĐÀN BÀ
VÌ TÔI LÀ ĐÀN BÀ
Trần Yên Hạ
Gửi người đàn ông đang ở bên cạnh tôi. Người mà từ bây giờ và cho đến ngày đi về bên kia thế giới sẽ không thể rời xa tôi.
- Tôi mới cắt một kiểu tóc đắc ý nhất, đi qua đi lại nhiều lần trước mặt
ông. Không biết mắt ông có bị “quáng gà” và cổ họng ông có bị “tắt
nghẽn lưu thông” không mà sao chẳng thấy ông có ý kiến gì cả. Tôi muốn
ông nhìn và nói một câu gì đó (dĩ nhiên là khen ngợi) về mái tóc mới của
tôi. Ông không nói, chiều nay tôi có kiếm chuyện gây sự với ông, đừng
có thắc mắc. Vì tôi là đàn bà!
- Tuần trước, khi đi dự tiệc cưới con của người bạn, tôi mặc một chiếc
áo dạ hội lộng lẫy và mang đôi giày mới toanh rất hợp thời trang, thế mà
ông thản nhiên lái xe đến nhà hàng, không hề có biểu hiệu nào biết là
tôi đang mặc áo mới và mang giày mới. Tức quá tôi phải lên tiếng hỏi
ông, chiếc áo tôi mặc hôm nay có đẹp không, ông chỉ nhìn lướt qua và nói
“thì trông cũng giống như những chiếc áo khác”. Vậy thì, ông đừng có
ngạc nhiên tại sao hôm đó tôi lại cau có tại bàn tiệc. Vì tôi là đàn bà!
- Khi đi nhà thờ hoặc dự tiệc tùng, tôi rất khó chịu khi thấy những
“món” trên người ông chẳng “match” với nhau. Thí dụ: áo sơ mi xanh, cà
vạt màu đỏ đậm, suite màu nâu. Tôi mà không nhắc nhở ông từng ngày, chắc
có lúc thiên hạ sẽ lăn bò ra cười vì cái kiểu y phục đủ màu sắc, giống
mấy chú hề trong gánh xiệc của ông. Vậy mà ông cứ than phiền rằng tôi
khó tính hay chú ý những điều nhỏ nhặt. Ông có biết tại sao tôi lại tỉ
mỉ như thế không? Vì tôi là đàn bà!
- Ngày sinh nhật của tôi, ông hỏi muốn đãi tiệc hay thích món quà gì.
Tôi trả lời “không cần thiết”, nhưng thật ra trong lòng rất vui và hồi
hộp chờ đợi những bất ngờ mà ông sẽ dành cho tôi trong giờ phút chót.
Vậy mà ông im re luôn. Tại sao ông lại thật thà đến thế? Nếu ngày đó
chén đũa có xao động, con chó của ông có bị đá đít, la oang oảng, thì
ông cũng đừng lấy làm lạ. Vì tôi là đàn bà!
- Khi ngồi xe với ông, thật sự tôi không bao giờ an tâm, lúc nào cũng
phải nhắc nhở ông về tốc độ, vì không muốn ông bị lãnh giấy phạt (chắc
ông chưa quên, năm vừa rồi ông đã phải đóng tiền phạt đến hai lần). Khi
tìm không ra nhà của một người nào đó, tôi đề nghị ông dừng lại gọi điện
thoại để hỏi đường thì ông nạt ngang “có lạc đâu mà phải hỏi”.
Nhưng
cuối cùng thì sao?… ông cũng phải gọi chủ nhà để nhờ chỉ đường. Lúc đó,
ông lại đổ thừa, tại tôi nói lung tung làm ông bực mình, bị chia trí nên
mới lạc. Thật ra, nếu ông chịu nghe tôi thì đã không bị trễ hẹn. Tôi
nghĩ, nếu nhờ người ta chỉ đường thì cũng đâu có gì gọi là mất mặt, sao
ông lại cứ thích làm “anh hùng rơm”. Tôi không muốn bị phạt và mất thì
giờ vì đi lạc, nên mới góp ý với ông. Thật ra, tôi cũng có lỗi, vì không
chịu “điều chỉnh âm thanh” vừa đủ nghe, nên có phần gây tổn thương cho
cái lỗ nhĩ của ông. Xin ông thông cảm…Vì tôi là đàn bà!
- À, cái nầy mới lạ, ông cũng biết đọc, biết viết chứ có mù chữ đâu mà
lúc nào đi mua hàng cũng trật lất. Bất cứ tiệm nào, hàng hóa cũng được
để đúng nơi, đúng chỗ. Vậy mà mười lần hết tám, khi tôi nhờ ông mua món
gì, nếu không sai thì cũng đắt hơn. Không đắt thì cũng gần quá hạn. Như
thế… nếu tôi không cằn nhằn mới là chuyện lạ. Vì sao? Vì tôi là đàn bà!
- Tôi không bao giờ hiểu được tại sao ông cứ lặp đi lặp lại, mình là vợ
chồng chứ đâu phải thời bồ bịch mà tôi cứ đòi được chiều chuộng, được
khen ngợi. Tôi thật sự tức tối khi ông chê tô phở ở nhà không ngon bằng
Phở Hòa, Bún bò thua nhà hàng Ngự Bình… Lúc chưa lấy nhau, tôi chỉ đãi
ông một dĩa xà lách mà ông ca tụng hết lời và ly nước chanh tôi pha chua
lè vì quên bỏ đường, ông cũng uống không còn một giọt lại còn gật gù
bảo rằng sao nó ngọt lạ kỳ! Tôi nhắc lại để ông nhìn ra sự thật phũ
phàng, thì ông gạt ngang, hỏi tôi sao cứ kiếm chuyện. Vì tôi là đàn bà!
- Mỗi lần ông la ơi ới “cái kềm đâu rồi?” hay “có thấy cái đồ khui ở đâu
không?” là áp huyết tôi lại bắt đầu tăng. Tôi đã nói hàng trăm lần, lấy
cái gì ở đâu thì để lại chỗ đó, lúc nào cần khỏi phải tốn công tìm
kiếm. Vậy mà ông có để ý đâu. Bực bội nên tôi phải gắt gỏng “ông có thể
bỏ cái tính thiếu ngăn nắp, mất trật tự của ông được không?” thì ông lại
bảo tôi lắm mồm, khó tính vậy. Ông có biết vì sao không? Vì tôi là đàn
bà!
- Cuối cùng ông nên nhớ điều nầy, tôi muốn trong mắt ông chỉ có tôi là
đẹp nhất, dịu dàng nhất, thương yêu ông nhất cho dù ông có biết bao tính
xấu. Bởi vậy, khi ra đường tôi không muốn ông nhìn và khen ngợi người
phụ nữ khác. Bây giờ tôi có mập một chút hay tôi có gầy gò, hốc hác so
với thời con gái, cũng vì tôi phải tận tụy chăm lo cho con, cho
chồng–tức là ông đó. Nếu tôi có bực bội, giận dỗi vì cái tật liếc ngang,
liếc dọc của ông, thì đừng hỏi tại sao. Không lẽ, cái lý do đơn giản
như thế mà ông cũng không biết. Và cũng chính vì vậy mà bao năm qua tôi
và ông đã phải “nội chiến từng ngày”. Ông đừng có giơ hai tay lên trời
rồi nhăn mặt bứt tóc, bứt tai than thở “sao lúc nào bà cũng sẵn sàng gây
hấn với tôi”. Vì tôi là đàn bà!
* * *
Bạn thân mến,
Trên đây là những gì mà cô bạn của người viết muốn nhắn với ông chồng
của cô. Không những thế, cô còn “xin phép đại diện cho phe phụ nữ để nói
lên những điều cần phải nói với hy vọng các ông chồng sẽ nhìn ra những
sai sót của mình mà tự điều chỉnh lại để các bà vợ khỏi phải cong cớn
biện minh “Vì tôi là đàn bà!…”
Người viết nghĩ rằng, trong đời sống vợ chồng, không ít các ông không
hiểu hoặc không muốn hiểu những điều mà theo họ rất nhỏ nhặt, chẳng đáng
quan tâm, miễn là mình làm trọn nhiệm vụ người chồng, đi làm kiếm tiền
nuôi gia đình, không ngoại tình… là đủ. Có những điều đối với ông rất
quan trọngnhư tình hình chính trị, kinh tế của Hoa Kỳ ra sao?
Thế giới
có diệt hết các phong trào khủng bố không? Những điều nầy đối với các bà
nhiều khi chỉ là chuyện bao đồng. Bởi thế, hằng ngày có biết bao mâm
cơm gia đình phải chịu cảnh tẻ nhạt. Chỉ cần một chút quan tâm, và vì
tình yêu mà chúng ta cố gắng chấp nhận những điều không hợp ý mình một
cách vô điều kiện, thì bảo đảm gia đình lúc nào cũng sẽ đầy ắp tiếng
cười. Điều này có khó lắm không bạn?
Trần Yên Hạ
- See more at: http://thoibao.com/2013/11/06/vi-toi-la-dan-ba/#sthash.rf2CcU4O.dpuf
TÔN KÀN * HÀ NỘI NĂM XƯA
À la recherche du temps passé…
HÀ NỘI NĂM XƯA
Hồi ký của Tôn Kàn
Nhìn qua cửa sổ thấy thành phố Toronto nằm co ro dưới tia nắng
sớm của một ngày đầu Thu thì lại chợt nhớ đến Hà Nội nơi tôi
sinh trưởng cách đây mấy chục năm.
Tôi nhớ Hà Nội thời tôi còn bé cũng có những ngày chớm Thu
nắng cũng êm dịu thời tiết cũng hanh hanh như thế này.Mùa Thu
thì khô ráo , còn mùa Xuân sau Tết có những ngày mưa phùn gió
bấc buồn lê thê, chỉ ở Hà Nội mới có những ngày buồn rã
rượi dài người ra như vậy ! Những ngày này được húp tô cháo
ám hay cháo gà nóng hổi thì thật là thần tiên ! Tối tối tản
bộ bờ Hồ, sưởi ấm trong tay gói phá xa nóng thơm mùi ngũ vị
hương hay xà vào lề đường húp chén lục tào xá thơm mùi vỏ
quít khô (trần bì ),đây là những petits plaisirs của dân Hà
thành.
Nhà tôi hồi đó ở hàng Đẫy nổi dài ,nay là đường Nguyễn thái
Học ,trước bến xe Kim Mã. Ngày ngày đi học tôi băng qua chợ
Ngọc Hà , qua chùa Một Cột rồi theo Avenue Brière de l’Isle
—đường Hùng Vương— là tới trường Albert Sarraut.Trước cửa
trường là một bãi cỏ rộng mênh mông , nay là quảng trường Ba
Đình. Bãi này chiều chiều chúng tôi thường rủ nhau ra đánh
lộn, phần nhiều là ẩu đả với Tây lai và Ả rập vì cho là
tụi này phách lối.
\
Những ngày nghỉ có thể đi tầu điện lên bờ Hồ ,thả bộ theo
Tràng Thi Tràng Tiền ,qua vườn hoa Con Cóc. Có khi qua đền Ngọc
Sơn , rồi lên tận hàng Đào thăm bà cụ người quen có cửa hàng
bán thuốc Bắc và tơ lụa.Lần nào bà cụ cũng gọi cho hai anh em
chúng tôi mỗi đứa một mẹt bún chả chợ Đồng Xuân.
Thưc tình mà nói chỉ có ít sợi bún rối, một kẹp chả gồm
vài miếng thịt ba chỉ thái mỏng nướng với vài cọng rau muống
chẻ và rau thơm cùng chén nước chấm ,thế mà ối giời ơi sao nó
ngon thế, ăn cứ thòm thèm tới nay nghĩ đến còn rỏ rãi !
Tuy theo học trường Phảp nhưng tôi chỉ thích ăn đồ Việt Nam ,
nhất là những món qùa vặt. Bún riêu bún ốc tôi đều mê.Nhớ
đến tô bún riêu cua đồng nóng hổi, gạch cua trưng vàng ngậy đổ
lên sợi bún trắng ngần,tôi thấy ngon bằng năm bằng mười mấy
loại soupe vô duyên của Tây phương !
Trường trung học Albert Sarraut thành lập năm 1919 và giải thể
năm 1965.Tôi theo học tại trường này từ năm 1952 cho tới năm 1954
thì di cư vô Nha Trang.Tôi phải thi concours mới vào được trường
này ,năm đó chỉ nhận có hai chỗ, tôi dành được một.Kết qủa
này là do ý chí của Mẹ tôi , một người đàn bà mảnh khảnh
nhưng có một nghị lực phi thường. Khi bố tôi bỏ bà đi lấy
người khác , bà ở vậy nuôi hai đứa con trai. Bà thường nói với
hai anh em chúng tôi:” Mẹ không có của cải để lại cho các con
,chỉ có học vấn là đường tiến thân của các con, mẹ sẽ làm
hết sức để giúp các con ăn học ,vậy các con phải chăm lo học
hành , đừng phụ công lao của mẹ.”
Tôi là con trưởng, nên bao nhiêu chiều chuộng , bao nhiêu ưu đãi,
bao nhiêu của ngon vật lạ đều đổ dồn vào tôi . Chú Cường em tôi
cũng chấp nhận vai thứ của mình một cách thản nhiên , tôi
thấy chú không hề tranh dành với tôi bất cứ điều gì vật gì.
Hồi nhỏ hai anh em luôn luôn quấn quít lấy nhau,tôi bảo chú làm
gì là chú làm theo không lầu bầu cãi cọ. Hai đứa đều thù
ghét bà dì ghẻ thậm tệ ,nhưng ngược lại vẫn thương hai đứa em một trai một gái cùng cha khác mẹ.
Tuy không sung túc , mẹ tôi không bao giờ để chúng tôi thiếu thốn
chút gì. Nhất là tôi , bà cụ chiều như một công tử con nhà
đại phú !Lúc nào trong nhà cụ cũng nuôi một chú nhỏ có nhiệm
vụ vác cuốn Larousse nặng chình chịch đưa tôi đên trường.Hồi
đó,chưa có cuốn Petit Larousse bỏ túi. Tôi còn nhớ tên các chú:
đầu tiên là chú Nhâm,bàn tay có sáu ngón; sau đến chú
Tuế,chú này bị hen nặng ,cứ tối tối là chú chui vào một xó
ngồi thở rù rì như con mèo.Chót đến là chú Đơ, người to lớn
lực lưỡng , mẹ tôi mua chiếc xe cyclo để chú chở tôi đi học. Mẹ
tôi gây dựng gia đình cho cả ba chú , họ coi mẹ tôi như má nuôi !
Bà cụ lại còn nuôi thêm một ông thầy dậy tư—một précepteur–để
kèm chúng tôi học thêm ở nhà cũng như chỉ bảo làm bài vở của
nhà trường. Đây là những học sinh lớp đệ nhị đệ nhất đang
sửa soạn thi Tú Tài. Mẹ tôi cho họ ở trọ nuôi ăn nuôi uống ,
ngược lại họ phải kèm học hai anh em chúng tôi. Tôi nhớ có anh
Lý và anh Minh , mấy người này về sau đều thành công trong
đời.Chú Cường và tôi mỗi người một thầy , vì chú Cường theo
học chương trình Việt , còn tôi thi đỗ vào Albert Sarraut tất
nhiên theo chương tình Pháp.Mẹ tôi thường cười khi kể lại:
—Mẹ dẫn hai đứa mày đi thi vào Albert Sarraut .Tao đứng chờ
trước cổng trường.Chỉ năm phút sau là đã thấy thằng Cường tung
tăng đi ra.Thằng Khánh thì cả giờ sau mới ló mặt. Về nhà là
tao tống thằng Cường vào trường Việt liền !
Nói như vậy không phài là chê chú Cường học dốt.Chú rất giỏi
Pháp văn và cả chữ Nho nữa.Chỉ cái là chú không thích Tây
Tầu,chú có lối sống rất Việt Nam ,nhà tranh vách đất ăn mặc
xuề xòa.Chú là Giáo sư Toán , con trai chú là thần đồng Toán,
có Ph.D Toán của Đại học Harvard do học bổng của Gouverneur
Général Jean Sauvé.
Chẳng may chú bị bạo bệnh mất sớm, tôi thương tiếc khôn
nguôi.Chú mất khoảng 2 năm sau khi bà cụ đi ,tôi thường nghĩ có
khi mẹ tôi nhớ chú gọi chú theo.
Chú Cường liên lạc mật thiết với họ hàng ,chú luôn luôn ở bên
mẹ tôi , hầu hạ cụ cho đến khi cụ mất.Tôi thường nghĩ
thầm:”về chữ hiếu và chữ tình ,tôi thua chú xa, không bén gót
!”.
Tôi đấu hót với bạn bè thì như pháo rang, nhưng ngồi tiếp
chuyện họ hàng thì lại ú ớ, vì không có tài small talk !
Hà Nội có những ngày hè oi bức ác liệt, nhiều đêm phải vác
ghế bố ra vỉa đường mới ngủ nổi !Hồi đó chưa ai có máy
lạnh.Thế nhưng mùa đông thì rét cóng, nằm ngủ trong chăn bông
không muốn giậy , cứ tự hỏi tại sao không nghỉ vacance vào mùa
đông? Mùa này thích nhất là dịp Tết,đươc diện quần áo mới ,
được đi thăm viếng bà con họ hàng để nhận mừng tuổi(trong Nam
gọi là lì xì) và được ăn kẹo mứt thả dàn !Tôi nhớ có lần
lên chúc Tết ông chú, ông vừa rót mấy ly rượu Cointreau đãi
khách,khách chưa uống đã ra về, tôi nếm thử thấy ngọt lừ
thơm mùi cam , bèn nốc vội hai ba ly , thế là lăn kềnh ra ói mửa tùm lum !May vào dịp Tết nên không phải đòn.
Mùa đông và mùa thu ở Hà Nội có cái thú ăn qùa vặt vì trời lạnh. Hà Nội nổi tiếng có nhiều món qùa ngon.
Buổi sáng có đủ loại xôi ,bánh giò bánh dầy ép chả quế hoặc
bánh cuốn Thanh Trì hay nhân thịt.Buổi trưa có cơm tấm giò chả
và đủ loại bún, bún chả bún riêu bún ốc bún thang v…v…Tôi
khoái nhất là món bún ốc lạnh chấm dấm bỗng làng Vân.
Buổi tối có phở,ngon nhất là phở gánh đầu đường.Buồn tình
thì gọi tô mì hay tô cháo gà “xực tắc”—xực tắc mì gõ bằng
hai mẩu gỗ, xực tắc cháo gà gõ bằng hai mẩu tre. Lại thêm món
miến gà miến lươn hay cháo lòng với những miếng dồi tiết béo
ngậy và những miếng gan luộc thái mỏng thơm bùi .
Còn món chả cá Lã Vọng, trước nổi tiếng thế giới ,nay thì lăng ba vi bộ lắm !
Ngoài ra còn một món rất Hà Nội , đó là món rươi.Đây là một
loại giun thuộc họ Nereidae. Chúng sinh nở ở những vùng nước
lợ nửa mặn nửa ngọt. Đến mùa lúa chiêm—gạo đỏ ,một loại
wild rice—khi nước biển theo thủy triều tràn vào đồng ruộng
thì chúng xuất hiện đầy đồng , người ta lấy thúng vớt gánh
về Hà Nội bán.Tôi nhìn chúng đủ mầu xanh đỏ trắng vàng bò
lổm nhổm, không hiểu tại sao người ta lại ăn được thứ gớm
ghiếc như vậy! Rươi có hai món chính: mắm rươi và chả rươi ,ăn
với vỏ quít.
Ca dao ta có câu:”Tháng chín ăn rươi, tháng mười ăn nhộng.”
Tất nhiên còn phải viết về hai đặc sản dữ dằn của Hà thành:
trước tiên là tiết canh , sau đến thịt chó (thịt cầy).
Tiết canh thì có tiết canh vịt , tiết canh heo hay tiết canh chó.
Tôi chỉ dám ăn tiết canh vịt làm ở nhà.Tiết canh làm không cẩn
thận ăn bị trúng độc thượng thổ hạ tả , ngỏm củ tỉ như chơi
!
Còn món thịt chó thì tôi xin kiếu. Bố tôi mê món này lắm,
nhưng mẹ tôi chê nên cả hai anh em tôi đều không hẩu món này ,
chỉ biết ăn món giả cầy là món chân giò heo nấu theo kiểu rựa
mận là một trong bẩy kiểu nấu thịt chó.Đi qua mấy nhà hàng
bán thịt chó thấy con chó thui nguyên con treo lủng lẳng răng nhe
răng trắng nhởn, thấy vừa thương vừa gớm, chẳng còn bụng dạ
nào mà ăn với uống !
Tôi nghe nói dân Đại Hàn xực thịt chó còn khiếp đảm hơn dân
Việt, đến nỗi chính phủ phải ra lệnh cho dân chúng ngưng ăn
thịt chó trong kỳ Thế Vận Hội để khỏi làm mích lòng du
khách.
Thời đó Hà Nội còn có xe điện ,có mỗi một toa sơn hai mầu
vàng trên đỏ dưới , chạy lịch cà lịch kịch ,đến gần trạm lại
kéo chuông kêu leng keng , vui đáo để ! Tầu này trông cũng giống
chiếc cable car ở San Francisco.
Tầu chạy qua nhà tôi trên đường từ bờ Hồ đến Ô Cầy Giấy và
ngược lại .Mẹ tôi là thân chủ trung thành , cụ thường hả hê
nói:
—Đi tầu điện vừa rẻ vừa tiện vừa thoải mái, tao đi chơi bằng
tầu điện cả ngày được ! Tao chả cần ô tô
tầu bò gì hết
Uổng thay nay không còn tầu điện nữa, mất một sắc thái ngộ nghĩnh đặc biệt của thành phố.
Đi tầu điện lên chơi bờ Hồ—hồ Hoàn Kiếm—mùa Hè tất nhiên phải
ăn kem (ice cream), kem ly hay kem cây. Còn nhỏ mà được mút cây
kem mát rượi trong những ngày nóng nực là một hạnh phúc thần
tiên, về nhà có bị đau bụng đi tháo tỏng thì cũng mặc kệ !
Đôi khi bố mẹ nổi hứng thì dẫn lên đường Cổ Ngư hay qua vườn
Bách Thảo cho các con ăn bánh tôm, ôi những chiếc bánh vàng
ngậy có con tôm đỏ nho nhỏ nằm trên ,cuốn vào lá xà-lách tươi
xanh rờn, chấm nước mắm pha sao mà nó ngon thế , mỗi đứa chỉ
được một cái , nhẩm bụng lớn lên có tiền sẽ ăn bánh tôm cả
ngày thay cơm !
Thế nhưng oái oăm thay, lớn lên nhìn bánh tôm lại chán ngắt, con
tôm bây giờ qúa to ,răng lợi đến tuổi lung lay ,miếng bánh lổm
nhổm trong mồm khó nhai, thế là tan giấc mơ vàng !
Thưở nhỏ được theo mẹ vào chợ Đồng Xuân ăn qùa thì sướng mê
tơi.Hà Nội có 12 chợ cỡ lớn: chợ cửa Đông (Đồng Xuân), cửa
Nam, chợ Huyện, Đình Ngang, Bà Đá, Văn Cử, Ong Nước, chợ Mới,
Đông Thành, Yên Thọ và Yên Thái(Bưởi). Chợ Đồng Xuân lớn nhất ,
ở ngay khu phố cổ ,được lập vào năm 1804 và được chính quuền
Pháp xây cất năm 1890. Lúc đầu có 5 vòm cửa và 5 nhà cầu dài
52 m cao 19 m ,nay chỉ còn 3.Món bún chả kẹp que tre ăn với rau
muống sống chẻ sợi nhỏ là món tôi ưa thích nhất.
Từ chợ Đồng Xuân lang thang qua khu phố cổ thì không bao xa. Khu
này ngày nào cũng lúc nhúc những người là người, các phố xá
đã được cụ Nguyễn Trãi diễn tả trong Dư Địa Chí.
Phạm vi khu Phố Cổ được ấn định bởi hàng Đậu ở phía Bắc ,
hàng Bông hàng Gai Cầu Gỗ ở phía Nam , đường Trần quang Khải
và Trần nhật Duật ở phía Đông và đường Phùng Hưng ở phía Tây.
Thật ra hồi đó chỉ đi loanh quanh mấy phố hàng Đào, hàng Bạc hàng Buồm hàng Bồ là đã bở hơi tai rồi ¡
Đi bộ mỏi chân thì tạt vào nhà Thủy Tạ phía Tây Bắc bờ Hồ,
uống ly nước chanh đường .Hoặc ngồi xả hơi trên ghế công viên
dưới hàng cây sấu hay cây si.
Các bạn còn nhớ bài hát:
Mình ơi có đi bờ Hồ
Cùng nhau ăn kem kẹo dừa
Phía đông bắc bờ hồ có rạp Philharmonic chiếu phim rẻ tiền ,
đặc biệt ghế ngồi là loại ghế fauteuil bằng tre đan , có nệm
bông. Khổ nỗi nệm có rệp đốt sưng đít !
Thưở đó thường đi rạp Olympia ở hàng Da, coi các phim Tarzan, Zorro hay phim kiếm hiệp như Les Trois Mousquetaires.
Không ông nhóc nào là không đeo mặt nạ và cầm que tre làm kiếm đánh nhau túi bụi.
Rạp hát lớn nhất là rạp Đại Nam ở phố Huế. Rạp này là nơi
đầu tiên chiếu phim nói tiếng Việt , một phim tình cảm Trung Hoa
do nữ tài tử Lý lệ Hoa thủ vai chính. Người ta dubbing tiếng
Việt, mấy ông bà đọc đối thoại như đọc bài , nghe thật buồn
cười! Sau đó chiếu phim do người Việt đạo diễn, nữ tài tử là
bà chị ruột của Nguyễn tiến Tài ,bạn học của tôi. Phim tên là
Bến Cũ , quay bên Pháp và là phim câm, thế mà cũng làm náo
loạn Hà thành !
Nhà hát lớn Hà Nội le grand Théatre xây cất trong khoảng thời
gian từ 1901 đến 1911. Tọa lạc ở phố Tràng Tiền , nhà hát xây
cất theo mẫu le grand Opéra de Paris.Tôi được lãnh vé đi xem kịch
le Cid do phái bộ Pháp sang trình diễn và được nhận giải
thưởng đồng hạng nhất trong lớp tại đây.Tuy hãnh diện được
giải thưởng đi xem le Cid nhưng nghe Tây đầm xì xồ trên sân khấu ,
thật tình chẳng hiểu mô tê gì cả !
Anh Tài vượt biên và chết đắm ngoài biển với cả gia đình.
Hai người anh trai của Tài là Nguyễn tiến Lộc và Nguyễn tiến Đạt.
Anh Lộc cũng mê đóng xi nê lắm , không biết bây giờ lưu lạc nơi đâu?
Còn anh Đạt tự Đạt cồ thì nghe đâu ở Texas. Anh làm luật sư và
cũng là cựu học sinh Albert Sarraut. Anh đô con vì tập tạ, mấy
thằng nhóc chúng tôi thường đem anh ra hù mấy thằng Tây lai để
chúng khỏi bắt nạt Dạo quanh bờ Hồ tất nhiên phải tạt vào
đền Ngọc Sơn.Những công trình kiến trúc đặc thù của đền này
gồm cầu Thê Húc , bút Tháp và đà Nghiên.Đề có tên là Ngọc
Tường thời nhà Lý,để đời nhà Trần thì đổi thành đền Ngọc
Sơn.
Đền Ngọc Sơn thờ Văn Xương Đế Quân và đức Trần hưng Đạo cùng Quan Công.
Đối diện với đền Ngọc Sơn và chếch lên phía Bằc bên kia đường
là đền Bà Kiệu. Cửa Tam quan của đền này ở bên bờ Hồ, ngăn
cách với đền bởi đường Đinh tiên Hoàng ! Đền xây từ đời Lê
trung Hưng để thờ ba vị nữ thần ,đó là công chúa Liễu
Hạnh(còn gọi là Mẫu Phủ Giầy) và hai tì nữ Quỳnh Hoa và Quế
Hoa.
Đền Ngọc Sơn và đền Bà Kiệu nằm về phía Đông Bắc của Hồ
Hoàn Kiếm hay hồ Gươm. Chu vi hồ khoảng 1750m , tôi đã từng thuê
xe cyclo dạo quanh hồ , đi tà tà ngắm phong cảnh thì mất khoảng
3 tiếng đồng hồ.
Giữa hồ lùi về phía Nam là Gò Rùa và Tháp Rùa.Gò Rùa là
một gò đất diện tích khoảng 350 thước vuông, trên gò xây Tháp
Rùa.Hồi còn nhỏ tôi cứ tưởng Tháp này là do Vua Chúa thời xưa
xây lên.Sau này mới biết đây là công trình của ông Nguyễn ngọc
Kim tự Bá hộ Kim bỏ công của ra tạo dựng năm 1886, với ý đồ
cải táng phần mộ của thân sinh trên gò Rùa. Việc đặt mộ không
thành, nhưng Bá hộ Kim vẫn hoàn tất công trình xây Tháp Rùa .
Tháp hình vuông có 3 tầng , cao 8.8m , kết hợp phong cách kiến
trúc Tây phương với quy thức kiến trúc Việt Nam. Nay Tháp đã
trở thành một biểu tượng (icon) của Hà Nội.
Sinh vật nổi tiếng sống trong hồ là những con Rùa khổng lồ Rafetus leloii thuộc họ Ba Ba Trionychidae.
Hà Nội nổi tiếng là thủ đô có nhiều ao hồ. Ao đẹp nổi tiếng
là ao Cầu nằm trong làng An Phú. Các hồ danh tiếng phải kể
đến hồ Tây , hồ Trúc Bạch,hồ Thiền Quang hay hồ Ha Le (Halais) ,
hồ Ba Mẫu ,hồ Bẩy Mẫu ,hồ Linh Đàm, hồ Nghĩa đô, hồ Giảng
Võ, hồ Thủ Lệ…
Cũng như Hồ Gươm, Hồ Tây là một thắng cảnh danh tiếng được
nhiều du khách ưa chuộng.Hồ Tây hay Tây hồ còn nhiều tên gọi
khác như Đầm Xác Cáo, hồ Kim Ngưu, hồ Lãng Bạc, hồ Dâm Đàm,
Đoài Hồ. Mỗi tên gọi đều dính liền với một sự tích lịch sử
ngộ nghĩnh. Một cái thú ở Hà Nội là chiều chiều ngồi ngắm
cảnh hoàng hôn trên Hồ Tây.Bên hồ Trúc Bạch không biết bao nhiêu
kiến trúc đặc thù, nào chùa Kim Liên ,đền Quan Thánh, chùa
Trấn Quốc,chùa Châu Long,đền Cầu Nhi ,làng đúc đồng Ngũ Xá…
Một số đền lập thành Thăng Long Tứ Trấn :đền Quán Thánh ở
phía Bắc (thế kỷ thứ 10); đền Kim Liên ở phía Nam (thế kỷ
thứ17);đền Bạch Mã ở phía Đông (thế kỷ thứ 9) và đền Voi
Phục ở phía Tây (thế kỷ thứ 11) .
Còn Thăng Long Tứ Quán là nơi tu hành của những người theo Đạo
Giáo. Đó là Trấn Vũ quán(chùa Quán Thánh); Huyền Thiên quán
(chùa Huyền Thiên,phố hàng Khoai);Đồng Thiên quán (chùa Kim
Cổ,phố Đường Thành) và Đế Thích quán (chùa Vua, phố Thịnh
Yên)
Khuê văn các là biểu tượng văn học của Thăng Long, được xây cất
năm 1805 dưới thời nhà Nguyễn. Đây là một lầu vuông tám mái
nằm trong khu Văn Miếu, khu này được xây dựng từ năm 1070 dưới
đời Vua Lý thánh Tông.Năm 1076 ,vua Lý nhân Tông cho xây trường
Quốc tử Giám bên cạnh Văn Miếu.Quần thể kiến trúc này nằm
tại phía Nam thành Thăng Long.
Vườn Bách Thảo Hà Nội nằm ở phía Tây Bắc thành phố. Vườn
được khai trương vào năm 1890 và là một công viên có nhiều loại
cây cỏ qúy hiếm và những cây cổ thụ khổng lồ.
Những danh lam thắng cảnh của Hà Nội đã được trình
bày trong rất nhiều tài liệu gíá trị , tôi không cần viết thêm
làm chi cho nhàm. Chỉ nhắc lại một số cảnh vật mà tôi đã có
dịp thăm viếng khi còn nhỏ.
Đến đây viết về một số bạn bè đã học chung với tôi từ cours
Moyen—lớp Nhì. Những người mà tôi còn giữ liên lạc được cho
tới bây giờ chỉ còn có Phạm gia Thuần, Lưu nguyễn Đạt và
Nguyễn thượng Vũ.
Còn mấy người như Quế con nhà Hồng Khê bán thuốc Bắc (không
nhớ họ) , Hoàng bá ước Doanh thì mất liên lạc từ lâu. Quế là
họ sinh độc nhất đi học bằng xe ô tô có tài xế lái , thỉnh
thoảng hắn cũng đưa tôi về nhà bằng xe hơi , cả xóm lác mắt!
Không biết bây giờ hắn lưu lạc nơi nao?
Phạm gia Thuần làm phù rể cho tôi năm 1973.Hồi ở Saigon, Thuần
và tôi cùng Nguyễn vĩnh Đức thường kéo nhau đi ăn cơm Tây uống
rượu chát, bởi vậy tháng nào qua kỳ lĩnh lương cả ba thằng
đều cháy túi ! Tôi thường đến nhà Thuần xoa mạt chược rồi kéo
nhau đi du hí. Gặp nhau ở Paris , chúng tôi mò lên Tour d’Argent
bù khú nhậu nhẹt như Tây con !Cậu Thuần nay vui thú điền viên
với chị Oanh tại Laguna (Cali),cậu trẻ trung ra , lái xe Porsche
Sport chạy ào ào ,thấy mà hãi !
Lưu nguyễn Đạt chơi thân với tôi như anh em. Cậu Đạt đẹp trai,
lúc nào cũng ăn diện bảnh chọe.Hồi còn ở chung với nhau tại
garconnière ở cư xá Đô Thành, tôi thường lấy cravate soie de luxe
của cậu làm dây buộc mùng khiến cậu phát khùng lên !Đạt không
những là một luật sư tài giỏi , cậu còn là một nghệ sĩ—vừa
là họa sĩ lẫn thi sĩ kiêm văn sĩ danh tiếng , cậu đã chủ
trương tập san Cỏ Thơm.Ngoài ra,cậu cũng đã viết một số bài
bình luận chính trị được rất nhiều người huởng ứng. Đạt hiện
sống hạnh phúc với vợ là chị Phùng thị Hạnh(cháu gái cụ
Phạm Quỳnh) tại Washington D.C.
Nguyễn thượng Vũ cư trú tại một biệt thự chảng lồ trên một
ngọn đồi nhìn xuống San Francisco Bay. Vũ học cours Moyen chung
với tôi , sau đó thi đậu lên 6ème nên vượt tôi một lớp.Tôi nhớ
thỉnh thoảng lên chơi nhà Vũ ở phố Huế. Hình như nhà bán vật
liệu xây cất và bán sơn.Phu nhân của Vũ là con gái của Bác Sĩ
Dương cẩm Chương. Bác Sĩ Chương là bạn rất thân của bố vợ tôi ,
kiến trúc sư Đào trọng Cương . Cả hai Cụ năm nay đã trên 103
tuổi mà vẫn còn khỏe mạnh minh mẫn. Bác Sĩ Chương là một danh
họa tài ba , Cụ đã có nhiều cuộc triển lãm rất thành công
trên toàn thế giới.Tôi có đến thăm Bảc Sĩ Chương năm 2008, được
Cụ tặng cho một cuốn sách in những bức tranh mà Cụ ưng ý
nhất. Tôi đóng khung một vài tác phẩm treo trong phòng làm
việc.
Bà giáo đầm đầu tiên trong đời tôi là Mme Delbos.Bà không đánh
học trò nhưng có một hình phạt hắc ám:anh nào có lỗi thì bà
xé đôi tập cahier de classe, về nhà phải chép lại tất cả bài
vở trong một tập vở mới , có khi thức trắng đêm để kịp ngày
sau đem nộp, nếu không sẽ bị consigne thứ bẩy chủ nhật ,còn
khổ hơn nữa !
Ông thầy dậy cours Supẻrieur—lớp nhất—là ông Thomas. Ông người
vạm vỡ nhưng rất hiền lành. Ông viết chữ rất đẹp. Trong lớp
ông sắp xếp học sinh ngồi theo thứ hạng.Bàn số một kê gần bàn
thầy , học sinh giỏi nhất lớp ngồi ghế đầu bàn này ,đó là
anh Lê văn Chương. Tôi ngồi cạnh anh vì đứng thứ nhì , và nực
cười là suốt năm như thế không thay đổi vì hai đứa chúng tôi
luôn luôn chiếm hạng nhất nhì !
Tuy ngồi cạnh anh Chương suốt năm mà tôi lại không thân với anh.
Chương dáng người ỏn ẻn như con gái, tôi không hợp vì tôi nghịch
như qủy sứ !
Sau khi di cư , mãi đến khi đi thi Tú Tài 2 thì tôi mới gặp lại
Chương. Tôi mò đến nhà anh, gặp mẹ anh khóc sướt mướt nói
rằng:
—Cháu ơi, thằng Chương nó khùng rồi !
Bà cụ cho biết Chương học gạo, thi đậu Brevet từ 4ème ,rồi lại
thi đậu Bac Un từ Seconde, tối ngày chỉ uống Maxiton để tỉnh
mà học nên đầu óc lung tung , bây giờ hàng ngày mặc xà lỏng
cởi trần đi lang thang nói lảm nhảm ngoài đường !Tôi ra về
thương tiếc cho một thanh niên xấu số. Nhìn gương của anh , sau
này tôi không bao giờ khuyến khích các con tôi thành mọt sách.
Tôi không hiểu vì sao ông Thomas lại đặc biệt qúy mến tôi. Ông
dậy tư Phảp văn và Toán , giá 80 piastres một giờ. Số tiền này
thời đó khá to lớn. Tuy không khá giả nhưng mẹ tôi cũng bắt
tôi học tư.Ông Thomas dậy tư tôi miễn phí ! Mấy đứa thối mồm xì
xào rằng ông Thomas muốn bắt tôi làm rể ! Tuy chẳng hiểu mô tê
gì nhưng trong bụng tôi cũng khấp khởi mừng thầm !
Sau năm 1954 , các bạn bè của tôi di cư vô Sài Gòn tiếp tục ở
Chasseloup hay Yersin trên Đà Lạt. Riêng gia đình tôi thì định cư
tại Nha Trang , tôi theo học trường Bénilde của các Frères
Chrétiens .Tại đây tôi gặp một lô các bạn mới như Nguyễn dũng
Chí , Nguyễn tiến Tài , Hoàng đức Nhã , Hà xuân Thao ,Hà xuân
Trừng. Anh em Thao Trừng rất dễ thương , thỉnh thoảng mời tôi về
nhà nấu chè cho ăn.
Còn ông anh lớn là Hà xuân Du thì tôi không ưa.Tôi có đụng độ
với anh này một lần , hình như trong dịp đám cưới con gái
Nguyễn thượng Vũ .Gặp tôi anh hỏi:
—Bộ Canada hết người sao mà nó xài mi?
Tôi quạt lại liền:
—Sao anh thở ra câu ngu vậy? Ở Việt Nam tôi là Cố Vấn Tổng
Trưởng, trưởng khu Quang tuyển ba Bệnh viện lớn ở Sài Gòn. Sang
đây tôi là Giáo sư Đại học ,Giám đốc chương trình Hậu Đại học
Quang Tuyến, tác gỉa nhiều sách giáo khoa. Còn anh chỉ là một
tên FP hạng quèn, anh lấy tư cách gì mà lên lớp tôi?
Hắn câm mồm lỉnh ra chỗ khác. Hắn biết rằng nếu hắn tiếp tục
ăn nói cà chớn thì sẽ bị tôi phang cho một trận. Khánh cao
bồi mà, đâu có ngán thằng nào?
Ngồi nhớ lại cảnh cũ người xưa,trong lòng không khỏi bùi ngùi xúc động.
Thời gian qua mau , mới ngày nào mà nay đã cổ lai hi , đời
người qủa thật như giấc chiêm bao.Càng về già tôi càng tin vào
số mệnh. Mỗi người một số , Trời cho ai người nấy hưởng ,
hưởng nhiều thì nghiệp chướng nhiều , có vay thì có trả, cái
triết lý nhà Phật thâm thúy thiệt !
Khơi lại kỷ niệm cũ để thổi sinh khí mới vào dĩ vãng. Gửi
đến các người anh em bài hồi ký này , mong các bạn tiếp nhận
nó trong
tinh thần hoài cổ cũng như với niềm tin vào một tình bạn bất diệt.
Tôn Kàn
Mùa Thu 2013 - See more at: http://thoibao.com/2013/11/06/ha-no%cc%a3i-nam-xua/#sthash.DttWZUG3.dpuf
Mùa Thu 2013 - See more at: http://thoibao.com/2013/11/06/ha-no%cc%a3i-nam-xua/#sthash.DttWZUG3.dpuf
PHAN * ÔNG ÂY NHÀ TÔI
GÓC CỦA PHAN * ÔNG ÂY NHÀ TÔI
1.
Tại sao là “2”? Xin thứ lỗi cho tôi, tôi không lưu giữ được bài viết cũ
vì cứ vài năm thì cái laptop tắc tử do xài (ẩu) quá nhiều, làm cho bao
nhiêu bài báo trong đó cũng đi theo. (Có người mách bảo cho tôi: Hãy đem
cái hard drive ra tiệm sửa computer của Mỹ thì họ back-up lại được các
files trong đó. Nhưng tôi không thể vì họ tính tiền công quá cao. Và lời
tự hứa vào lúc ấy, là mình phải để dành tiền để làm cái việc cần thiết
này, thì thường bớt cần thiết về sau…)
Dù sao, tôi cũng nhớ được mình đã có viết một bài với tựa đề là:
“Ông nhà tôi ấy à!…” Câu chuyện xoay quanh mấy người bạn làm việc chung
hãng ngày xưa. Có đôi vợ chồng mà chú Quang rất mờ nhạt để nổi bật lên
cô Nhâm (vợ chú Quang). Đó là người phụ nữ di cư từ Bắc vào Nam năm
1954. Nhưng cô khác cả triệu người di cư năm đó là với cô, hễ ai nói ra
bất cứ điều gì… cũng không sai thì dở. Chỉ có cô Nhâm nói là đúng; là
chân lý! Và bao giờ cô cũng đem chồng cô là chú Quang ra làm… bia đỡ
đạn.
Giả sử một người đàn ông ta thán là sáng sớm ra xe đi làm, trời thì
lạnh mà cái xe đề hoài cũng không chịu nổ máy; hay người khác nói sáng
sớm ra xe mới biết một bánh xe đã bị xì hết hơi, thiệt là… khổ.
Cô Nhâm sẽ nhanh nhẩu nói ngay, “…Ông nhà tôi ấy à! Trong garage bao
giờ cũng sẵn một cái bình điện để phòng khi xe hết bình – đề không nổ!” ;
“… Ông nhà tôi ấy à! Chả bao giờ để cho bánh xe xì đến hết hơi. Vì
trước khi đi ngủ, ông ấy đã ra garage kiểm tra xe cộ tử tế: đã khoá cửa
xe chưa? (Vì đã có người mất xe ngay trong garage nhà mình, bởi lơ đễnh
đến mức để cả chìa khoá xe trong xe…)
Ông nhà tôi ấy à! Cho dù xe đậu trong garage cũng phải khoá cửa xe cẩn
thận, xem bánh xe có xì xẹp gì không, đâu vào đấy, rồi ông ấy mới lên
giường nằm…”
Thằng quỷ con trong hãng lúc ấy, nó như khắc tinh của cô Nhâm, vì cô
nói gì thì cũng mỗi nó dám lên tiếng với cô thôi – chứ chả ai tranh luận
lại với cô bao giờ. Nó đáp lời cô,
“Nhưng chú Quang lái xe dở lắm phải không cô Nhâm?”
“…Ông nhà tôi ấy à! Ông ấy lái xe jeep của quân đội từ khi cậu chưa
sinh ra đời cơ đấy! Có đã mấy mươi năm rồi nhỉ!” Cô Nhâm đầy tự hào
trong ánh mắt xa xăm dõi về quá khứ…
“Vậy sao chú cứ than với tụi cháu là từng tuổi này rồi, mà đêm nào phải
trả bài, “tao de xe vào garage cũng vẫn cứ kẹt hai cái bánh xe ở ngoài,
có cách nào không – chúng mày ạ!” Làm cháu tưởng chú Quang lái xe dở
ẹt… phải không cô Nhâm?”
“…”
Thế là những cái đầu ma quái được một trận cười, còn thằng nhỏ thì bị
cô mắng xối xả với hàng loạt từ ngữ người di cư đã ra đi mang theo…
Nhưng dù sao cũng thấy được cô Nhâm kỵ thằng quỷ con này vì “miệng nó
bụm còn không kịp thì ai bụm kịp cho nó!” (Cái cụm từ đặc sệt nam bộ là
do bà Sáu-cô đơn nói về nó, và được nhiều người cho là đúng nhất!)
Bất cứ chuyện gì của thiên hạ cũng đều thua… “Ông nhà tôi” của cô Nhâm.
Đặc biệt là chuyện ăn uống. “…Ông nhà tôi không bia rượu, không thuốc
lá, không bài bạc, không trai gái… mỗi ngày, ông ấy ăn đúng một bát cơm
gạo lứt với muối mè vào buổi sáng, uống cốc nước lã, rồi đi làm. Cà phê
từ Việt nam gởi qua – có gì tốt? Trà thì cũng chỉ toàn màu với hương
liệu hoá chất pha chế… chỉ có nước lã đun sôi là tốt cho sức khoẻ.”
Tội nghiệp chú Quang mỗi trưa, cũng duy nhất bát cơm gạo lứt với muối
mè, không được dòm ngó đến thức ăn của người khác. Thuở ấy, hãng đông
người Việt nên anh chị em, cô dì chú… cứ bày phần ăn trưa của mình ra
bàn, rồi ăn chung vì ai cũng hiểu như ai là thức ăn giỡ theo đi làm là
món ăn chiều hôm qua ở gia đình, – nghĩa là đương sự đã ăn món ấy vào
chiều hôm qua nên trưa nay không mặn mòi nữa. Vậy sao không để người
khác ăn món của mình rồi mình đi ăn món của người khác – theo nguyên
tắc: cũ người mới ta. Cụ thể như chiều hôm qua tôi đã ăn món thịt bò xào
đậu cua-ve ở nhà; còn bao nhiêu thì vợ giỡ cơm cho đi làm hôm nay. Tôi
sẽ để mọi người thưởng thức món đậu xào danh bất hư truyền của hiền thê
mình – và tự nhiên xỏ đũa vào các món thịt kho trứng, sường muối sả… của
người khác.
Riêng cô Nhâm, một mặt không cho chú Quang được động đến tất cả các món
ăn trên bàn vì chú bị cao mỡ máu. Còn cô bị áp huyết cao nên không ăn
mặn được! Cô chỉ gắp của mỗi người một tí… cho đỡ nhớ quê hương!
Nói tóm lại là cô chỉ ăn rau cỏ trồng được sau nhà cô, quanh năm rau
luộc. Nhưng cũng là rau luộc đặc biệt, vì… “Ông nhà tôi ấy à! Ông ấy
nhặt rau thật kỹ, rửa rau thì không ai kỹ bằng. Rồi ông ấy luộc rau cũng
tinh xảo lắm, nên ngọn rau chín mềm nhưng vẫn giữ được màu xanh. Chứ
rau luộc xỉn màu thì ngán mắt – làm sao ăn!”
Cái điệp khúc “ông nhà tôi ấy à!” được cô Nhâm nhai đi nhai lại cho bò
trắng răng nên thằng Bò mà chúng tôi gọi là thằng quỷ con rửng mỡ, một
hôm mọi người đã quá chán nghe cái điệp khúc ấy trên bàn ăn, nên nó hỏi
cô Nhâm, “…Vậy, năm nay chú Quang bao nhiêu tuổi rồi hả cô Nhâm?”
Cô đáp, “…Ông nhà tôi ấy à! Ông ấy sáu nhăm (65) rồi đấy! Nhưng mọi
người có thấy là ông ấy trông khoẻ mạnh, trẻ hơn tuổi thật đến chừng
nào? Ấy! Cứ nhìn ông Tùng, ông Bách… xấp xỉ nhà tôi mà trông ra lão cả
rồi đấy!…”
(Ông Tùng thì hiền chứ ông Bách thì chả! Dĩ nhiên là ông cũng chỉ nói
sau lưng cô Nhâm, “… cái con mẹ Bắc kỳ này! Không nể anh Quang là bạn
già thì tao đã rút… thằng nhỏ tao ra, quất vào mặt mẹ ấy một phát đinh
tai nhức óc cho khép mỏ Bắc kỳ.”
Ai nghe thì nấy ôm bụng mà cười với sự táo tợn của ông Bách, nổi tiếng là “già lựu đạn”).
Nhưng cũng chẳng ai dại đến ra mặt đối đáp với cô Nhâm, trừ khắc tinh
của cô, nó nói, “… Cháu nghĩ chú Quang chết bây giờ, hay mười năm, hai
mươi năm nữa, cũng không có gì khác vì ngày nào chú cũng chỉ có 3 chén
cơm gạo lứt với 3 cốc nước lã đun sôi – để nguội. Có phải chú là người
đã chết mà còn thở… để bấm thẻ mua hột xoàn cho cô Nhâm.”
Cái thằng hắt cốc nước ối vào mặt cô Nhâm thì làm sao còn đất sống. Cô
nguyền rủa nó đến nỗi thằng nhỏ phải bỏ việc mà đi học lại. Cuối cùng
lại hoá ra nhờ cô mà nó lấy được mảnh bằng kỹ sư, một thời nó hái ra bạc
khi các hãng điện tử ở Richardson và Plano ăn nên làm ra…
Bọn trẻ chúng tôi thương chú Quang vì khi làm việc thì cánh đàn ông làm
riêng – việc nặng; đàn bà làm riêng – việc nhẹ hơn. Những lúc ấy, con
người chú Quang không còn là “cục đất” trong phòng ăn – trước mặt cô
Nhâm nữa! Chú như con sáo xổ lồng. Có hôm, đang làm việc cực nhọc, chú
bảo chúng tôi, “… ngưng tay đi tụi bay ơi! Đi ăn pizza.”
Chúng tôi nhìn quanh, nhiều ánh mắt đều dừng lại chung một điểm là cái
mông của bà Mỹ đen đang chỏng khu đếm đồ phụ tùng trong cái thùng
các-tông. Bà ấy mặc áo đầm màu vàng nghệ, có những hoa văn tròn màu đỏ –
y như những lát xúc-xích trên mặt bánh pizza. Cái mông bà Mỹ đen lại
tròn vành vạch như cái pizza bốn người ăn… Thật là con cháu ối não no nê
một hôm với trí tưởng và óc khôi hài của chú Quang.
Nhiều lúc, chúng tôi không ngờ chú đã hơn sáu mươi tuổi, cũng vì tánh
khôi hài của chú. Lại càng khó hiểu vì sao chú như một người khác, khác
hẳn trước mặt cô Nhâm. Đến hôm hãng bị cúp điện, cả đám kéo nhau ra cửa
lớn của khu vực Shipping & Receiving ngồi đấu láo. Chú cũng tham gia
bốc phét với đám trẻ cho vui. Nhưng bị cô Nhâm gọi vào phòng ăn ngồi
thiền chứ già không được mất nết… như lão Bách!
Thế là ngoài này thằng quỷ con dựng chuyện! Nó trả lời thắc mắc cho chị
em con Sếu, là: “Sao chú Quang đẹp trai, vui vẻ và hiền lành vậy. Mà
lại lấy cô Nhâm…” Nói tới cô Nhâm thì Sếu chị bịt miệng Sếu em để tránh
phiền phức.
Thằng quỷ nhỏ hăm hở nói, “… tui biết rõ vì chú Quang thường làm chung
với tui mà. Ổng kể, hồi đó ổng đi lính, đóng quân gần khu người Bắc di
cư. Lân la vào xóm dân tán gái, không ngờ gặp cô Nhâm – làm nghề nuôi
heo mà trắng da dài tóc quá nên ổng mê, theo đuổi thì chú Quang nghèo
hơn nhiều người khác, nên ổng chỉ đi chặt chuối hoang ngoài đồi giùm cô
Nhâm để đem về nhà xắt trộn cám cho heo ăn. Hồi hai người ngồi nghỉ mệt
trên đồi chuối, gặp hôm, gió đưa bụi chuối sang hè/ giỡn chơi một chút
ai dè sanh đôi. Chuyện đổ bể, ổng không cưới thì bả tự tử. Ổng nghĩ chết
tới ba mạng người nên ổng hy sinh…”
Nó nói như thiệt, còn hỏi lại hai chị em Sếu khờ, “Nên Sếu chị, Sếu em
có thấy hai người con lớn của cô chú là anh em sanh đôi không?”
Chúng tôi được cười, còn các cô gái thì tin như sấm. Cô nào chả thích
được giỡn chơi một chút với anh lính chiến đẹp trai, vui vẻ, hiền lành
như cô Nhâm nên các cô đi hỏi cô Nhâm!
Thằng quỷ con chuyến ấy biệt xứ… đi Đại học.
2.
Cả một đoạn phim dài thuộc về quá khứ, nhưng tuần tự kể lể trong tôi về thời mới qua Mỹ – đi làm hãng.
Cô Nhâm có lẽ đã về đến nhà. Chỉ mình tôi đứng chơ lơ trong chợ Target –
nơi hàng bán thuốc cảm cúm các loại; nơi tôi gặp cô Nhâm là thật, nhưng
hãy còn như mơ…
“… người đàn bà đẹp lão, tóc trắng phau như tuyết sương ngoài kia. Làn
da và mái tóc nói lên sức khoẻ của bà còn tốt lắm. Nhưng chính cái dáng
đi đã làm nên phong thái quyền quý, mệnh phụ của bà.
Tôi mỏi mắt với những hàng chữ nhỏ li ti trên những chai thuốc nên thả
tầm nhìn đi chơi cho đỡ mỏi mắt. Không ngờ hình ảnh bà lão đã thu hút
tôi từ xa – đang đi lại phía tôi. Tôi hình dung lại nhiều bà cụ (là mẹ
của các bạn bè ở địa phương); các cụ tuy có con cái thành đạt nên được
chăm sóc tử tế hơn nhiều cụ bà ngủ gục, ngủ gật trong viện dưỡng lão một
mình, đến cô đơn, đến động lòng, rồi mủi lòng người thấy những hình ảnh
tương lai của mình khi tuổi già đến trên xứ sở này. Những bà cụ được
chăm sóc tử tế, được ở nhà với con cháu, thường có sinh khí hơn, nhưng
hầu hết cũng chỉ toát lên hình ảnh một “bà mẹ quê”. Sự sang cả của bà cụ
đang đi đến gần tôi như đòi hỏi một gia phả quyền quý lâu đời mới có
được, dù cụ rất đơn giản trong trang phục và một tí son môi phớt hờ cho
đỡ tê tái mùa đông.
Nhưng khi cụ mở lời nói với cô con gái đi sau cụ, tôi liền nghĩ đến cô
Nhâm – dù đã lâu không gặp. Tôi liền nghĩ đến chuyện của chính cô ngày
xưa. Theo cô, người Hà nội có giọng nói như cô mới là người Hà nội. Còn
người Hà nội sau này đã lai tạp nhiều từ các tỉnh thành khác, nhưng cứ
nói mình là người Hà nội… không biết xấu hổ.
Có lẽ tôi đang bệnh cúm miên man nên làm chuyện hoang đường. Tôi đến
chào hỏi cụ, “Xin lỗi cụ… Có phải cụ là cô Nhâm ngày xưa ở hãng Air
Blower không?”
Cụ nhìn tôi như quái vật một hồi mới đáp, “Anh là ai… mà biết tôi?”
“Tôi mừng quá, “Thế thì đúng là cô Nhâm rồi! Cô còn nợ cháu một bữa ốc
bươu nấu với chuối xanh và rau tía tô hay lá lốt đấy! Nhưng cô chú về
Cali nên cháu chưa được ăn. Cô nhớ ra cháu chưa?”
Bà cụ cười thật tươi, “À!… Tôi nhớ ra anh rồi, anh P. Thật là thời gian
làm cho người quen kẻ biết cũng chẳng nhận ra nhau. Có đến hai mươi năm
rồi anh nhỉ…”
“Dạ vâng. Cháu thật mừng – được gặp lại cô. Chú Quang của bọn cháu có khoẻ không, thưa cô?”
Cô con gái tiến lên đỡ tay mẹ vì cô Nhâm xúc động khi nghe tôi hỏi đến
chú Quang. Ngần ấy đã đủ cho tôi hiểu chú tôi đã ra người thiên cổ. Có
lẽ không cần nói gì thêm hơn là lời xin lỗi của tôi đã hỏi một câu không
nên hỏi, tôi nói: “Cháu xin lỗi… vì đã quá lâu không được gặp cô chú,
và cũng chẳng có tin tức gì. Cháu chỉ được biết, sau khi cháu nghỉ hãng
thì cô chú cũng nghỉ và dọn về Cali vì anh lớn của cô chú định cư bên
ấy…”
“Đúng đấy anh ạ! Chúng tôi dọn về Cali, được mười năm thì ông nhà tôi
mất vì cholesterol đã làm đứng tim mà chết. Tôi ân hận mãi là trước đó
đã ép ông nhà tôi kiêng ăn. Rồi cũng chỉ được mười năm. Biết thế!…”
“Nhưng nếu cô không kiêng ăn cho chú thì biết đâu ngay khi cô chú còn ở Dallas, chú đã…
“Số phần mỗi người thôi cô ạ! Cô cũng đừng đau buồn mãi…”
Bà cụ như già đi thấy rõ trong khoảnh khắc hoài niệm. Hình như cụ có
nói lý do xuất hiện ở Dallas là sang thăm cô con gái đã lấy chồng và
định cư ở Dallas nhiều năm.
Người đàn bà trẻ không mang dáng dấp quý phái của mẹ mà có vẻ người
nghịch ngầm và ngang ngạnh của chú Quang. Cô nói với tôi, “có dịp, mời
anh tới chơi với gia đình…” gì gì nữa đó. Rồi họ từ từ xa dần ánh mắt
nhìn theo của tôi, sau lời từ giã giữa chợ đời thì đúng hơn chợ thực
phẩm và thuốc tây…
Những chén cơm gạo lứt – rắc tí muối mè của chú Quang ngày xưa hiện về
trong trí não miên man tôi; cả cái bánh pizza tròn vành vạch của bà Mỹ
đen ngày nọ… Không biết chú có chết vì phở tái, (cho xin chén hành trần,
nước béo); nào là bê thui, lẩu dê, tiết canh vịt… mà chúng tôi đã “bù
lỗ” cho chú trong những dịp cô Nhâm bay về Cali thăm con cháu.
Tôi chỉ thấy đã tan biến những ác cảm không tiện nói ra với cô Nhâm
ngày nào khi giọt nước mắt lăn trên má bà cụ Nhâm hôm nay. Câu hỏi để
lòng là sao chú Quang lại thế – ngày xưa, như đã giải bày mà không cần
hỏi nữa; khi người vợ còn lăn giọt vắn giọt dài sau mười năm chồng mất –
ở tuổi đã ngoài tám mươi. Yêu người đàn bà ấy thì ăn đất cũng cam lòng…
Nhưng cái hay của chú Quang là vẫn đi “ăn chui” với đám trẻ để thấy cái
chết không phải là lớn lao gì đối với chú. Sự sống sao cho hài hoà từ
trong nhà ra ngõ mới lớn.
Phan- See more at: http://thoibao.com/2013/11/16/goc-cua-phan-ong-nha-toi-ay-a-2/#sthash.llKzn25v.dpuf
DU SINH VIỆT NAM
Số du học sinh Việt Nam tại Mỹ đứng đầu các nước Đông Nam Á
Việc tầng lớp trung lưu đang nở rộ cộng với nhu cầu muốn con cái được tiếp cận nền giáo dục hàng đầu thế giới là một trong các yếu tố thúc đẩy nhiều người Việt lựa chọn du học Mỹ.
CỠ CHỮ
13.11.2013
Một phúc trình công bố hồi đầu tuần này cho biết số sinh viên Việt Nam
hiện theo học ở Mỹ là 16.098 người trong niên khóa 2012-2013, trong khi
chỉ có gần 900 sinh viên Hoa Kỳ học tập tại Việt Nam.
Con số đó cao hơn 3,4% so với một năm trước và đã đưa Việt Nam trở thành nước đứng hàng thứ 8 trong số các quốc gia có đông sinh viên hiện du học ở Hoa Kỳ.
Phần lớn các du học sinh Việt Nam du học cấp đại học ở Mỹ, chiếm hơn 70% tổng số sinh viên Việt tại Hoa Kỳ. Hơn 17% học ở cấp sau đại học.
Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam David Shear cho biết ông vui mừng nhận thấy Việt Nam tiếp tục đưa một số lượng lớn sinh viên đến Hoa Kỳ để học đại học.
Ông Shear cũng cho rằng ‘các kỹ năng phân tích và tư duy phản biện mà họ phát triển được sẽ giúp Việt Nam hội nhập đầy đủ hơn vào các hoạt động thế giới như là một quốc gia vững mạnh, thịnh vượng và độc lập’.
Trong một cuộc gặp cộng đồng người Mỹ gốc Việt hồi tháng Tám, người đứng
đầu cơ quan ngoại giao Mỹ ở Hà Nội nói rằng các sinh viên Việt Nam tại
Mỹ ‘sẽ là một tiếng nói quan trọng đóng góp vào quá trình phát triển
Việt Nam trong tương lai’.
Ông Shear nói: “Sớm hay muộn các sinh viên Việt Nam này sẽ trở về nước. Họ mang theo mình không những các kiến thức đã học được tại Mỹ mà còn mang về các trải nghiệm, các giá trị và họ cũng sẽ mang về những gì đã nghe được từ các bạn trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt. Cùng với thời gian, họ sẽ giúp hình thành nên tương lai của Việt Nam”.
Trong năm 2012-2013, có 819.644 du học sinh nước ngoài học tập ở Mỹ, tức là có thêm 55.000 sinh viên quốc tế so với năm 2011-2012.
Ðông nhất là sinh viên đến từ các nước Trung Quốc, Ấn Ðộ và Hàn Quốc.
Số sinh viên Việt Nam học tập và nghiên cứu tại Mỹ đứng đầu con số sinh viên nước ngoài từ khu vực Đông Nam Á.
Cũng giống như Trung Quốc, việc tầng lớp trung lưu đang nở rộ cộng với nhu cầu muốn con cái được tiếp cận nền giáo dục hàng đầu thế giới, là một trong các yếu tố thúc đẩy nhiều người Việt lựa chọn du học Mỹ.
Theo Bộ Thương mại Mỹ, giáo dục và đào tạo được coi là một trong 10 dịch vụ xuất khẩu hàng đầu của Hoa Kỳ.
Tổng chi tiêu của sinh viên quốc tế ở cả 50 bang đóng góp gần 24 tỷ đôla vào nền kinh tế của nước này mỗi năm.
Con số đó cao hơn 3,4% so với một năm trước và đã đưa Việt Nam trở thành nước đứng hàng thứ 8 trong số các quốc gia có đông sinh viên hiện du học ở Hoa Kỳ.
Phần lớn các du học sinh Việt Nam du học cấp đại học ở Mỹ, chiếm hơn 70% tổng số sinh viên Việt tại Hoa Kỳ. Hơn 17% học ở cấp sau đại học.
Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam David Shear cho biết ông vui mừng nhận thấy Việt Nam tiếp tục đưa một số lượng lớn sinh viên đến Hoa Kỳ để học đại học.
Ông Shear cũng cho rằng ‘các kỹ năng phân tích và tư duy phản biện mà họ phát triển được sẽ giúp Việt Nam hội nhập đầy đủ hơn vào các hoạt động thế giới như là một quốc gia vững mạnh, thịnh vượng và độc lập’.
Sớm hay muộn các sinh viên Việt Nam này sẽ trở về nước. Họ mang theo
mình không những các kiến thức đã học được tại Mỹ mà còn mang về các
trải nghiệm, các giá trị và họ cũng sẽ mang về những gì đã nghe được từ
các bạn trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt. Cùng với thời gian, họ sẽ
giúp hình thành nên tương lai của Việt Nam.
Ông Shear nói: “Sớm hay muộn các sinh viên Việt Nam này sẽ trở về nước. Họ mang theo mình không những các kiến thức đã học được tại Mỹ mà còn mang về các trải nghiệm, các giá trị và họ cũng sẽ mang về những gì đã nghe được từ các bạn trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt. Cùng với thời gian, họ sẽ giúp hình thành nên tương lai của Việt Nam”.
Trong năm 2012-2013, có 819.644 du học sinh nước ngoài học tập ở Mỹ, tức là có thêm 55.000 sinh viên quốc tế so với năm 2011-2012.
Ðông nhất là sinh viên đến từ các nước Trung Quốc, Ấn Ðộ và Hàn Quốc.
Số sinh viên Việt Nam học tập và nghiên cứu tại Mỹ đứng đầu con số sinh viên nước ngoài từ khu vực Đông Nam Á.
Cũng giống như Trung Quốc, việc tầng lớp trung lưu đang nở rộ cộng với nhu cầu muốn con cái được tiếp cận nền giáo dục hàng đầu thế giới, là một trong các yếu tố thúc đẩy nhiều người Việt lựa chọn du học Mỹ.
Theo Bộ Thương mại Mỹ, giáo dục và đào tạo được coi là một trong 10 dịch vụ xuất khẩu hàng đầu của Hoa Kỳ.
Tổng chi tiêu của sinh viên quốc tế ở cả 50 bang đóng góp gần 24 tỷ đôla vào nền kinh tế của nước này mỗi năm.
Theo phúc trình của Viện Giáo dục Quốc tế của Mỹ (IIE), giáo dục quốc tế
tạo ra tác động kinh tế và xã hội tích cực cho các cộng đồng ở Hoa Kỳ
và trên khắp thế giới.
Khi mà so sánh dân chủ và tự do, những quyền hạn của con người ở Việt
Nam và nước Mỹ thì mình cần phải nhìn trong cái hoàn cảnh và các điều
kiện cụ thể của Việt Nam. Tôi thấy rằng những năm vừa qua, Việt Nam cũng
có nhiều sự dân chủ hơn, tất nhiên vẫn còn có nhiều cái làm cho tôi cảm
thấy rất là bức xúc và thất vọng, nhất là các vấn đề mà những nước đang
phát triển gặp phải như tình trạng tham nhũng và sự thờ ơ của chính
phủ, đặc biệt là về giáo dục.
Chị Ngọc Diệp, một nghiên cứu sinh tiến sĩ ở Mỹ, cho rằng khi trở về
nước, việc so sánh giữa hai quốc gia là không thể tránh khỏi, nhưng cũng
phải cân nhắc các điều kiện của Việt Nam.
Chị Diệp nói: “Khi mà so sánh dân chủ và tự do, những quyền hạn của con
người ở Việt Nam và nước Mỹ thì mình cần phải nhìn trong cái hoàn cảnh
và các điều kiện cụ thể của Việt Nam. Tôi thấy rằng những năm vừa qua,
Việt Nam cũng có nhiều sự dân chủ hơn, tất nhiên vẫn còn có nhiều cái
làm cho tôi cảm thấy rất là bức xúc và thất vọng, nhất là các vấn đề mà
những nước đang phát triển gặp phải như tình trạng tham nhũng và sự thờ ơ
của chính phủ, đặc biệt là về giáo dục”.
Tiến sĩ Lê Sĩ Long, Giám đốc Sáng kiến Quốc tế về Chương trình nghiên
cứu Toàn cầu của Đại học Houston, từng nói với VOA Việt Ngữ rằng Việt
Nam dường như đang tìm cách ‘cải tạo’ các cá nhân từng đi du học và có
tư tưởng ủng hộ thay đổi hệ thống chính trị.
Ông Long cho rằng, điều đó dẫn tới các hệ quả như “chảy máu chất xám và cản trở tiến trình dân chủ hóa” Việt Nam.
Theo IIE, hồi cuối những năm 90, mới chỉ có hơn 1.500 sinh viên Việt đi du học tại Mỹ và tăng trưởng đều đặn kể từ đó.
Việt Nam lọt vào top 20 quốc gia có nhiều du học sinh nhất ở Mỹ trong niên khóa 2006-2007 và lọt vào top 10 kể từ năm 2010-2011.
Du học sinh quốc tế ở Mỹ tăng cao kỷ lục
CỠ CHỮ
11.11.2013
Viện Giáo dục Quốc tế, IIE, hôm 11/11 vừa công bố báo cáo hàng năm về
số lượng du học sinh quốc tế tại các trường đại học của Mỹ, cho thấy con
số này đã tăng lên mức cao nhất từ trước đến giờ.
Báo cáo Open Doors về Trao đổi Giáo dục Quốc tế năm 2013 cho biết có 819.644 du học sinh ở Mỹ trong năm học 2012-2013. Ðông nhất là sinh viên đến từ các nước Trung Quốc, Ấn Ðộ, Hàn Quốc, Ả-Rập Xê-út và Canada.
Trung Quốc dẫn đầu với khoảng 235,000 du học sinh, tăng 21% so với năm ngoái. Tầng lớp trung lưu đang nở rộ, cộng với nhu cầu muốn con cái được tiếp cận nền giáo dục hàng đầu thế giới, là những nhân tố thúc đẩy nhiều người Trung Quốc lựa chọn du học Mỹ.
Việt Nam xếp thứ 8 với tổng số 16.098 sinh viên du học ở Mỹ, tăng 3,4% so với năm trước, với 70% theo học bậc cử nhân.
Kể từ năm học 1998-1999, số lượng du học sinh Việt Nam tới Mỹ đã tăng trưởng đáng kể, nhiều năm ở mức 2 chữ số. Việt Nam có mặt trong nhóm 20 nước có nhiều du học sinh ở Mỹ nhất từ năm 2006/07 và lọt vào nhóm 10 nước kể từ năm 2010/11.
Báo cáo cho biết du học sinh ở Mỹ tập trung nhiều ở những ngành như kinh doanh và khoa học. Gần phân nửa số du học sinh Trung Quốc theo học ngành kinh doanh hoặc kỹ thuật. Du học sinh Ấn Ðộ thì nghiêng mạnh về những ngành kỹ thuật, toán học, và khoa học máy tính.
Những điểm đến hàng đầu của sinh viên nước ngoài bao gồm Ðại học Nam California, Ðại học Illinois Urbana-Champaign, Ðại học Purdue, Ðại học New York, và Ðại học Columbia.
Du học sinh nước ngoài là đối tượng tuyển sinh ráo riết của các trường đại học Mỹ trong bối cảnh nguồn trợ cấp công bị thu hẹp, học phí chững lại, và số học sinh năm cuối trung học Mỹ sụt giảm. Theo IIE và Bộ Ngoại giao Mỹ, học sinh quốc tế hàng năm đóng góp 24 tỉ đôla vào nền kinh tế Mỹ và 2/3 số học sinh tự trang trải hay có gia đình giúp chi trả học phí.
Báo cáo của IIE cũng ghi nhận số học sinh Mỹ du học ở những nước khác tăng cao kỷ lục. Tuy nhiên con số này ít hơn nhiều so với số du học sinh ở Mỹ, và du học sinh Mỹ ở nước ngoài thường có thời gian học tập ít hơn so với du học sinh quốc tế ở Mỹ.
Nguồn: IIE, AP, Wall Street Journal
http://www.voatiengviet.com/content/du-hoc-sinh-quoc-te-o-my-tang-cao-ky-luc/1788166.htmlBáo cáo Open Doors về Trao đổi Giáo dục Quốc tế năm 2013 cho biết có 819.644 du học sinh ở Mỹ trong năm học 2012-2013. Ðông nhất là sinh viên đến từ các nước Trung Quốc, Ấn Ðộ, Hàn Quốc, Ả-Rập Xê-út và Canada.
Trung Quốc dẫn đầu với khoảng 235,000 du học sinh, tăng 21% so với năm ngoái. Tầng lớp trung lưu đang nở rộ, cộng với nhu cầu muốn con cái được tiếp cận nền giáo dục hàng đầu thế giới, là những nhân tố thúc đẩy nhiều người Trung Quốc lựa chọn du học Mỹ.
Việt Nam xếp thứ 8 với tổng số 16.098 sinh viên du học ở Mỹ, tăng 3,4% so với năm trước, với 70% theo học bậc cử nhân.
Kể từ năm học 1998-1999, số lượng du học sinh Việt Nam tới Mỹ đã tăng trưởng đáng kể, nhiều năm ở mức 2 chữ số. Việt Nam có mặt trong nhóm 20 nước có nhiều du học sinh ở Mỹ nhất từ năm 2006/07 và lọt vào nhóm 10 nước kể từ năm 2010/11.
Báo cáo cho biết du học sinh ở Mỹ tập trung nhiều ở những ngành như kinh doanh và khoa học. Gần phân nửa số du học sinh Trung Quốc theo học ngành kinh doanh hoặc kỹ thuật. Du học sinh Ấn Ðộ thì nghiêng mạnh về những ngành kỹ thuật, toán học, và khoa học máy tính.
Những điểm đến hàng đầu của sinh viên nước ngoài bao gồm Ðại học Nam California, Ðại học Illinois Urbana-Champaign, Ðại học Purdue, Ðại học New York, và Ðại học Columbia.
Du học sinh nước ngoài là đối tượng tuyển sinh ráo riết của các trường đại học Mỹ trong bối cảnh nguồn trợ cấp công bị thu hẹp, học phí chững lại, và số học sinh năm cuối trung học Mỹ sụt giảm. Theo IIE và Bộ Ngoại giao Mỹ, học sinh quốc tế hàng năm đóng góp 24 tỉ đôla vào nền kinh tế Mỹ và 2/3 số học sinh tự trang trải hay có gia đình giúp chi trả học phí.
Báo cáo của IIE cũng ghi nhận số học sinh Mỹ du học ở những nước khác tăng cao kỷ lục. Tuy nhiên con số này ít hơn nhiều so với số du học sinh ở Mỹ, và du học sinh Mỹ ở nước ngoài thường có thời gian học tập ít hơn so với du học sinh quốc tế ở Mỹ.
Nguồn: IIE, AP, Wall Street Journal
Địa Danh Sài Gòn được các em du sinh dùng lại trong 1 khúc phim ngắn.
http://youtu.be/mfW8UmP3qc
Bài đọc suy gẫm: Du Sinh, Lao Động, và Lấy Chồng Ngoại của tác giả Lâm Văn Bé. Hình ảnh chỉ có tính minh họa.
Vẫn biết Việt Nam hôm nay có quá nhiều chuyện kỳ dị mà nói mãi không hết, nhưng hai mẫu tin tháng bảy nầy có tầm ảnh hưởng tác hại đến uy tín các cộng đồng người Việt hải ngoại, đó là hiện tượng du học sinh và người lao động xuất khẩu Việt Nam.
Trước tiên là đoạn vidéo dài 3 phút phổ biến trên YouTube quay lại hình ảnh và đối đáp của 5 sinh viên tự nhận là du sinh tại Nhật đã dùng Iphone4 và Nokia N95 để tranh nhau đập nước đá trong một bửa tiệc. Những tiếng cười phụ họa, tiếng khích động đã phơi bày một cảnh tượng lố bịch, vô ý thức của đám sinh viên con ông cháu cha và tư bản đỏ đang du hí trên đất người với nhãn hiệu du sinh. Cái vidéo đã gây phẫn nộ trong giới truyền thông và dân chúng nước Nhật, vốn là quốc gia nổi tiếng về điện tử và là một dân tộc có tinh thần tự trọng cao, trong khi đó, trên các mạng điện tử ở Việt Nam, có người thản nhiên bình luận là «họ muốn làm gì thì làm, là việc riêng của họ, miễn là không ảnh hưởng đến ai». Đó là cái triết lý sống của chế độ cộng sản hôm nay, làm xấu mà không biết xấu hổ.
Chuyện thứ hai là bài viết của tiến sĩ Daniel Silverstone, chuyên viên về ngành tội phạm ở đại học London Metropolitan gởi cho đài BBC ngày 26/7/2011 có tựa là: Nạn cần sa và người Việt ở Anh.
Sau đây là vài trích đoạn bài viết: «… Trong 10 năm qua, có khi hàng ngàn người Việt di dân lao động bất hợp pháp đến Anh từ Đông Âu (nhiều nhất từ Tiệp khắc, Đông Đức) và cả từ Việt Nam dưới dạng du khách rồi ở lại, chủ yếu là từ Hải Phòng, nhất là từ hai quận Thủy Nguyên và Kiến Thủy. Chi phí hành trình do những tổ chức đưa người lậu từ VN sang Anh thay đổi tùy theo thời điểm, thường từ 15,000 đến 17,000 bảng Anh. Chuyến đi có thể bằng giấy tờ giả mạo, xuất ngoại bằng phi cơ đến thẳng nước Anh, hoặc đến một quốc gia Đông Âu rồi sau đó dùng đường bộ nhập cảnh bất hợp pháp vào nước Anh. Những người mới đến được cộng đồng gọi là người rơm. Họ làm tất cả mọi việc bất hợp pháp, từ thợ điện câu trộm đường dây vào nhà đến việc sản xuất cần sa, kể cả việc sử dụng thiếu niên như nô lệ trẻ con có khi chỉ 13 tuổi. Những người làm vườn nầy được trả lương hàng tuần hay chia lợi nhuận sau khi thu hoạch. Mùa thu họạch đầu tiên xem như để trang trải các chi phí đầu tư, các mùa sau là tiền lời, mỗi mùa thường 8 tuần.
Các người chủ mưu dùng lợi nhuận thu được đầu tư vào các dịch vụ khác
nhau và nhiều nơi khác nhau như lập tiệm ăn, tiệm móng tay hay gởi tiền
về VN qua các ngỏ chính thức và phi pháp. Trong 10 năm qua, nhiều tội
phạm giàu có đã thay đổi từ kẻ làm vườn trở thành chủ xí nghiệp. Họ lại
bắt đầu một quá trình nhập cư mới bằng cách đưa gia đình, bạn bè vào làm
việc trong các cơ sở kinh doanh của họ… Căn cứ theo báo chí, tội phạm
người Việt hiện nay đã nở rộ và họ đã gia tăng không ngừng việc trồng
cần sa đến nổi Vương Quốc Anh hiện nay nổi tiếng là quốc gia sản xuất
cần sa ròng …»
Từ hai bản tin trên, chúng tôi thử nhận định vài nét đặc trưng về diện mạo của du học sinh và lao động xuất khẩu Việt Nam, hai đặc sản của chế độ cộng sản mà báo chí thế giới thường xuyên đề cập đến những điều tệ hại, làm xấu hổ người Việt trong nước, nhất là các cộng đồng người Việt tỵ nạn vốn được các quốc gia định cư nể trọng.
Từ hai bản tin trên, chúng tôi thử nhận định vài nét đặc trưng về diện mạo của du học sinh và lao động xuất khẩu Việt Nam, hai đặc sản của chế độ cộng sản mà báo chí thế giới thường xuyên đề cập đến những điều tệ hại, làm xấu hổ người Việt trong nước, nhất là các cộng đồng người Việt tỵ nạn vốn được các quốc gia định cư nể trọng.
Phần I: Du học
sinh
1.1. Những quốc gia được sinh viên Việt Nam ưa thích xuất ngoại du học
Tháng 3 năm 2009, Viện Giáo Dục Quốc Tế (IIE=Institute of International Education), một cơ quan giáo dục phi lợi nhuận, đã làm một cuộc khảo sát trực tuyến trên hơn 700 học sinh, sinh viên ở VN để tìm hiểu thái độ và nhận thức của họ về các quốc gia mà họ dự định xuất ngoại du học. Số người được hỏi gồm 55% ở vùng TP Hồ Chí Minh, 37% ở vùng Hà Nội và 8% ở vùng Đà Nẵng.
Những câu hỏi về những lý do đi du học như: nâng cao kiến thức và khả năng
ngôn ngữ (đặc biệt tiếng Anh), đạt được cấp bằng nước ngoài để hổ trợ cho việc
tìm kiếm việc làm, học tập được kinh nghiệm kỹ thuật và văn hóa nước ngoài. Về
những trở ngại dự phóng cho việc du học, những câu hỏi gồm có: chi phí, tìm kiếm
thông tin chính xác nơi du học, xin visa, ngôn ngữ và văn hóa khác biệt, khoảng
cách từ gia đình đến nơi du học.Từ những câu hỏi trên, kết quả tổng quát như sau
(theo thứ tự)
Nước xin đi
|
Lựa chọn 1
|
Lựa chọn 2
|
Hoa Kỳ | 81.8 % | 10.4% |
Úc | 7.7% | 30.7% |
Anh | 5% | 20.8% |
Canada | 1.1% | 7.4% |
Singapore | 0.9% | 13.5% |
Pháp | 0.7% | 2.4% |
Thụy Điển | 0.7% | 1.1% |
Hòa Lan | 0.7% | 0.9% |
Nhật Bản | 0.4% | 3.9% |
Thụy Sĩ | 0.4% | 0.6% |
Trong lựa chọn 1, Hoa Kỳ là niềm mơ ước của hơn
80% học sinh, sinh viên, kế đó là Úc và Anh, tất cả đều là quốc gia Anh thoại.
Nếu không đạt được ý muốn như trên, chọn lựa 2 của họ là Úc, kế đến là Anh và
Singapore. Điểm lưu ý là trong chọn lựa 2, đa số sinh viên miền Bắc chọn Anh
quốc và miền Nam chọn Canada.
Khi đề cập đến ấn tượng vể những quốc gia được ưa thích liên quan đến phẩm
chất giáo dục cao, trình độ khoa học kỹ thuật tân tiến, kết quả theo thứ tự là
Hoa Kỳ (68%), kế đến là Úc, Anh, Singapore và Pháp. Về những ấn tượng bất lợi,
Hoa Kỳ bị xem là quốc gia nguy hiểm về bạo lực xã hội, trong khi Anh, Pháp là
không thân thiện (ý nói kỳ thị) với nước ngoài.
Từ các yếu tố trên, bảng xếp hạng sau cùng về việc học sinh, sinh viên Việt
Nam chọn nơi để du học theo thứ tự như sau: Úc, Singapore, Hoa Kỳ, Pháp, Anh.
(Attitudes and perceptions of prospective international students from Vietnam ,
Feb. 2010).
1.2. Có bao nhiêu du học sinh Việt
Nam
Thật khó mà có một con số thống kê chính xác, bởi lẽ không cơ quan thẩm quyền nào của Việt Nam công bố một thống kê giống nhau. Các thống kê VN thường dựa vào các tin tức của các cơ quan giáo dục quốc tế, các tòa lãnh sự các nước rồi vẽ vời thêm. «Bộ Giáo Dục và Đào Tạo VN cho biết có độ 100,000 học sinh và sinh viên du học ở hải ngoại, trong đó 90% là du học tự túc và 10% du học với học bổng của nhà cầm quyền VN và các nước. Bộ Giáo Dục chỉ quản trị số sinh viên do Bộ cấp phát học bổng độ 5,000 người. Chúng tôi ước định thống kê như trên căn cứ vào số visas do các cơ quan ngoại giao các nước cấp phát và tin tức của các cơ quan ngoại giao VN ở các nước, các hiệp hội sinh viên quốc tế, nhưng phương pháp nầy thực sự không chính xác và chúng tôi đang nghiên cứu một cơ chế tập trung tất cả thông tin về người du học… »(Nam Phương. Les études à l’étranger sont en vogue, đăng trong «Le courrier du Vietnam» ngày 14/8/2011).
Thật khó mà có một con số thống kê chính xác, bởi lẽ không cơ quan thẩm quyền nào của Việt Nam công bố một thống kê giống nhau. Các thống kê VN thường dựa vào các tin tức của các cơ quan giáo dục quốc tế, các tòa lãnh sự các nước rồi vẽ vời thêm. «Bộ Giáo Dục và Đào Tạo VN cho biết có độ 100,000 học sinh và sinh viên du học ở hải ngoại, trong đó 90% là du học tự túc và 10% du học với học bổng của nhà cầm quyền VN và các nước. Bộ Giáo Dục chỉ quản trị số sinh viên do Bộ cấp phát học bổng độ 5,000 người. Chúng tôi ước định thống kê như trên căn cứ vào số visas do các cơ quan ngoại giao các nước cấp phát và tin tức của các cơ quan ngoại giao VN ở các nước, các hiệp hội sinh viên quốc tế, nhưng phương pháp nầy thực sự không chính xác và chúng tôi đang nghiên cứu một cơ chế tập trung tất cả thông tin về người du học… »(Nam Phương. Les études à l’étranger sont en vogue, đăng trong «Le courrier du Vietnam» ngày 14/8/2011).
- Úc. Úc là quốc gia được học sinh, sinh viên Việt Nam ưa thích hàng đầu để xuất ngoại. Giá học phí và sinh hoạt không cao so với Bắc Mỹ và Tây Âu, điều nầy thích hợp với các sinh viên tự túc, các trường học đủ loại thích hợp với các trình độ kiến thức và sinh ngữ, thường sinh viên bậc trung và kém vẫn có thể được chấp nhận sau các lớp dự bị. Úc lại là quốc gia tương đối gần Việt Nam, thích hợp cho các du sinh giàu đi về VN vào những ngày lễ, và nhất là tiện lợi cho các «đại gia», các tay tham nhũng thường xuyên chuyển tiền ăn cướp và lường gạt trong những chuyến đi thăm con em.
Là quốc gia trù phú nhưng thưa dân, chánh sách di dân rộng rãi của nhà cầm quyền Úc cho phép thân nhân những sinh viên hậu đại học có thể đi theo và làm việc trên đất Úc, đó là cửa ngỏ di cư hợp pháp cho những «tu nghiệp sinh» thuộc giai cấp lãnh đạo. Ngoài ra, trong số du học sinh đến Úc còn có rất nhiều học sinh trung học và học nghề, họ có thể xin định cư ở Úc sau khi tốt nghiệp nếu làm việc trong số 181 nghề mà nước Úc đang cần. Để thu hút sinh viên VN, nước Úc đã cấp nhiều học bổng cho du sinh VN (4,000 trong năm 2010). Đó là những lý do chính yếu khiến Úc là đất hứa cho du học sinh Việt Nam. Theo Tổ chức Giáo Dục Quốc Tế Úc (AEI =Australian Education International) trực thuộc nhà cầm quyền Úc, số du sinh Việt Nam tăng nhanh trong những năm gần đây. Năm 2010, số du học sinh Việt Nam tại Úc là 25,788 người, tăng 8,8% so với năm 2009, đứng hạng 4 trong số du học sinh các nước tại Úc.
- Hoa Kỳ. Theo Viện Giáo Dục Quốc Tế IIE với sự hổ trợ của US Department of State’s Bureau of Educational Affairs, trong báo cáo Open Doors 2010 thì năm 2000, tổng số du sinh tại Hoa kỳ là 2,022 người, năm 2009/10 tăng lên đến 13,122 người. Như vậy, trong vòng 10 năm, số du sinh VN tại Hoa Kỳ đã tăng gấp 6 lần và trong số sinh viên năm 2009/10 có 18,7% là du sinh cấp cao học và tiến sĩ mà đa số được các học bổng của nhà cầm quyền Hoa Kỳ (Vietnam Education Foundation, Ford Foundation, Fulbright…) hay của nhà cầm quyền VN trong các chương trình đào tạo hậu đại học.
Việc gia tăng sinh viên VN tại Mỹ, không phải chỉ phát xuất từ sự mơ ước của
người Việt mà còn từ sự toan tính của chính người Mỹ, vừa để thu hút chất xám
của các phần tử ưu tú Việt Nam, vừa để thu góp tài sản tẩu tán của tập đoàn đảng
viên tham những. Michael Michalak, đại sứ Mỹ tại Hànội, trong điện thư gởi về Bộ
ngoại giao ngày 24/2/2010 đã viết: «… Sứ quán tích cực tìm cách áp dụng các
chuẩn mực giáo dục của Hoa Kỳ trong các đại học VN để gây ảnh hưởng đến thế hệ
lãnh đạo kế tiếp, gia tăng số người tốt nghiệp có kỹ năng để làm việc cho các
công ty Mỹ ở VN và để hiện đại hóa Bộ Giáo Dục-Đào Tạo bị nhiều người xem là hệ
thống giáo dục đổ vỡ, Quỹ Giáo Dục VN (Vietnam Education Foundation) đến năm
2010 đã đưa 306 người sang học ở 70 đại học Mỹ đa số là học tiến sĩ khoa học… »
(Wikileads. Giáo Dục Mỹ ở VN,bbc.co.uk ngày
28/8/2011)
Tuy số lượng sinh viên gia tăng, nhưng vì khả năng sinh ngữ cũng như kiến
thức tổng quát kém, đa số sinh viên chọn các trường đại học cộng đồng (2 năm),
dễ học, nhanh chóng về nước có cấp bằng Mỹ quốc, hành trang cho việc thăng tiến
dễ dàng trong một quốc gia chống Mỹ nhưng «háo» Mỹ. Hơn phân nửa số du sinh ở Mỹ
tập trung tại 3 tiểu bang Texas, Washington, California. (Vietnamese market for
educational and training / US Commercial Service. Vietnam , March 2010),
Điều cần ghi nhận là thống kê trên cho biết số người ghi danh nhập học chớ
không cho biết số người tốt nghiệp, bởi lẽ từ năm 1995 đến năm 2010, Hoa Kỳ đã
cấp gần 300,000 visas cho người Việt không định cư trong đó có khoảng 40,000
visas cấp cho thanh thiếu niên du học. Trong số visa không định cư có bao nhiêu
là công nhân xuất khẩu, du khách ở lại bất hợp pháp, và trong số visa du học có
bao nhiêu là du học trá hình để du hí sau khi đóng tiền ghi danh nhập học, không
kể số du sinh bỏ học vì học không nổi hay bị đuổi vì hạnh kiểm.
-
Pháp. Tuy số sinh viên du học tại Pháp ít hơn so với Hoa Kỳ và Úc, và
tuy sự quan trọng của tiếng Pháp trong nền giáo dục ở Việt Nam hiện nay
chỉ còn ngang hàng với tiếng Đại Hàn, tiếng Nhật, và cấp bằng Pháp ít
còn được trọng vọng trong chế độ cộng sản, du học ở Pháp vẫn là ước vọng
của nhiều sinh viên có khả năng bởi lẽ học tập ở Pháp đòi hỏi nhiều thử
thách, không phải chỉ sinh ngữ mà còn về kiến thức. Đa số du sinh đến
Pháp thuộc bậc hậu đại học (Cao học, Tiến Sĩ) hay tu nghiệp ngắn hạn.
Năm 2009/10, Pháp đã tiếp nhận 6,295 du học sinh trong đó có 5,160 (82%)
ghi danh học đại học, đứng hạng 9 trong số các du học sinh các nước tại
Pháp. Tổng số sinh viên VN taị Pháp như sau:
Bằng cấp
|
2006-07
|
2007-08
|
2008-09
|
2009-10
|
Cử Nhân (L) | 2,355 | 2,239 | 2,267 | 2,295 |
Cao học (M) | 1,655 | 1,632 | 2,083 | 2,078 |
Tiến sĩ (D) | 553 | 627 | 681 | 787 |
Tổng số | 4,563 | 4,498 | 5,031 | 5,160 |
Trong niên học 2009-10, số sinh viên các ngành
học và các cấp như sau:
Bằng cấp
|
Luật, chính trị
học
|
Kinh tế, xã hội
học
|
Văn chương, nhân
văn
|
Khoa
học
|
Y, Nha,
Dược
|
Cử nhân | 43 | 1,436 | 304 | 466 | 46 |
Cao học | 121 | 928 | 208 | 616 | 205 |
Tiến sĩ | 40 | 73 | 98 | 556 | 20 |
Tổng số | 204 | 2,437 | 610 | 1,638 | 271 |
- Anh và Canada. Vương quốc Anh đã thu nhận sinh viên VN trước khi Cộng Sản VN và Mỹ thiết lập bang giao. Số sinh viên tăng nhiều sau chánh sách mở cửa trong 2 thập niên qua nhưng từ đầu năm 2010, Anh quốc đã siết chặt hơn luật du học và di dân nên số du học sinh đến Anh giảm bớt, số du học sinh và di dân bất hợp pháp dưới dạng du học bị trục xuất càng lúc càng nhiều. Có khoảng 5,000 du học sinh VN tại Anh tập trung phần lớn ở khu Hackney, Peckham, Southward, Brixton. Trong số các quốc gia Tây Phương,
Canada là quốc gia có ít nhất du học sinh VN. Chánh sách du học khe khắc, giá
sinh hoạt cao và tổ chức trường học của Canada không thuận lợi cho các du học
sinh có học lực trung bình, Canada không có những giáo trình riêng biệt dành cho
sinh viên ngoại quốc, du học sinh không thể đến các campus Canada để du hí hay
tìm chồng, đó là những yếu tố chính yếu khiến Canada không có hấp lực với sinh
viên VN. Năm 2008, Canada tiếp nhận chỉ có 586
du học sinh VN. Gần đây, nhà cầm quyền áp dụng vài biện pháp cởi mở hơn như cho
phụ huynh đến thăm con em, cho sinh viên tốt nghiệp có thể ở lại làm việc một só
ngành nghề để hy vọng số du học sinh đạt được 1000. Năm 2008, số du sinh
VN ở các tỉnh bang của Canada như sau: Ontario: 232, Colombie-Britannique: 132,
Alberta: 105, Québec: 79, Manitoba: 19, Saskatchewan: 9, Miền Đông Bắc: 10. (Le
marché de l’éducation internationale du VN – Octobre 2009/ Affaires étrangères
et commerce international Canada).
- Trung cộng và các quốc gia khác ở châu Á. Trung cộng là thị trường cho sinh viên muốn xuất ngoại nhưng có nguồn tài chánh giới hạn bởi lẽ học phí và chi phí chỉ rất thấp, chỉ bằng ¼ so với Anh Mỹ (khoảng 7,000$ một năm), nhưng thời gian học tập để có bằng cử nhân kéo dài 4-5 năm vì phải trải qua ít nhất một năm học tiếng Trung cộng. Đa số du học sinh đến Trung cộng học thương mại, canh nông, y học cổ truyền, và kỹ thuật chế biến. Có độ 12,500 sinh viên VN tại Trung cộng, đứng hạng 4 trong số các du sinh tại Trung cộng (sau Hàn quốc, Nhựt, Hoa Kỳ) và 500 du sinh ở Đài Loan, Singapore là nơi gần nhất VN nhưng có chương trình dạy tiếng Anh nên Singapore là thị trường tốt nhất cho du sinh nghèo vì chi phí ít, và cho du sinh giàu để đến ăn chơi, cuối tuần về VN mà vẫn có «bằng ngoại». Năm 2010, có độ 7,000 du sinh VN ở Singapore.
Chuyện du học ở VN hiện đang lên cơn sốt nên đi du học ở đâu cũng được miễn
là có nhãn hiệu du học sinh để nở mặt nở mày với hàng họ và dễ làm ăn. Hàn Quốc
đã có đến 1,900 sinh viên VN trong làn sóng phụ nữ lấy chồng Hàn Quốc. Ấn độ,
Phi luật Tân, Mả Lai Á, Thái Lan, thậm chí Miên và Lào cũng mở cửa thị trường du
học VN bằng cách cấp học bổng để khai thác thị trường béo bở nầy. Duy chỉ có
Nhật Bản, mặc dù là quốc gia hậu kỹ nghệ nhưng ít sinh viên VN thích đến du học
vì đại học Nhật chỉ dạy bằng tiếng Nhật và kỹ luật trường học nghiêm minh. Theo
Asahi, cơ quan giáo dục quốc tế Nhật, năm 2010, Nhật đón nhận 3,597 sinh viên
Việt Nam.
- Các quốc gia khác ở Âu châu ngoài Anh và Pháp. Du học ở Liên Sô và các
quốc gia Đông Âu đã sụt giảm sau khi Liên Sô sụp đổ và sau khi VN đã
bình thường hóa ngoại giao với Hoa Kỳ. Tổng số sinh viên VN ở Nga, Tiệp
khắc, Slovaquie, Roumanie độ 6,000.Tại các quốc gia Bắc Âu (Na Uy, Thụy
Điển, Đan Mạch, Hòa Lan) Thụy Sĩ, Đức số sinh viên VN vài trăm tại mỗi
nước.Tính chung, tổng số du sinh VN tại hơn 40 quốc gia trên thế giới vào năm 2009 độ 90,000 người.
1.3. Diện mạo của du sinh Việt Nam
Du học sinh Việt Nam được huấn luyên tại
Đức.
Tùy theo gia cảnh, mục tiêu và cung cách, du học sinh Việt Nam có thể nhận diện qua 3 loại : du sinh du học, du sinh du hí và du sinh địch vận.
- Du sinh du học
Đó là những du học sinh có khả năng, có tư cách, muốn tìm học những kiến thức về khoa học kỹ thuật và văn hóa ở xứ người để cải thiện đời sống kinh tế cá nhân và vận mệnh đất nước. Đa số họ là sinh viên tự túc, xuất thân từ những gia đình khá giả hay trung lưu, nhưng không có quyền thế. Cha mẹ họ phải hy sinh cho họ để mong họ có một tương lai tươi sáng hơn và nếu có thể được, thoát khỏi cái xã hội mafia cộng sản.
Tại đất người, ngoài những giờ chuyên cần học tập, đôi khi họ phải đi làm lao động thêm để phụ vào số tiền cấp dưỡng của cha mẹ chắt chiu gởi nuôi họ. Sau khi tốt nghiệp, họ trở về mang theo kiến thức học tập ở xứ người để phục vụ đất nước, nhưng nếu cha mẹ họ không có liên hệ với quyền lực, số phần họ cũng chẳng mấy gì khả quan. Một số khác tìm cách ở lại trên đất nước mà họ đã du học để lập nghiệp mà theo ước đoán, số du học sinh không hồi hương nhiều hơn số du học sinh hồi hương.
- Du sinh du hí
Đó là những du sinh con ông cháu cha, mà trong nước gọi là đám 4C (con cháu các cụ) và con em các tư bản đỏ, làm giàu nhờ làm ăn với bạo quyền cộng sản. Đa số đám du sinh nầy là những học sinh dốt về kiến thức lẫn sinh ngữ, lêu lỏng, thiếu tư cách, xuất ngoại bằng văn bằng giả hay thế lực của ông cha, cốt ra nước ngoài để du hí và có chứng chỉ ghi danh nhập học tại đại học nước ngoài để ăn trên ngồi trước khi trở về nước. Tại nước ngoài, họ là những phần tử bất hảo, vung vít tiền bạc để ăn chơi, có tác phong bất xứng, tạo ác cảm cho người dân sở tại. Họ «xuất khẩu» những thói hư tật xấu của ông cha như ăn cắp trong siêu thị, lường gạt khi đi xe bus (dùng thẻ cũ), thô tục trong cung cách xã giao (không xếp hàng, không nhường chỗ ưu tiên cho người già, người phế tật, chửi thề, nới năng ồn ào trước đám đông… ), ăn mặc trang sức lố bịch, tiêu xài theo lối vung tiền qua cửa sổ để chứng tỏ giàu sang (đơn vị tiền tệ của họ là một «giấy» tức tờ giấy 100 dollars).
Thái độ xấc láo của họ nhiều khi tạo nên những cuộc xung đột đẫm máu với các băng đảng, ngay cả đối với những công dân bình thường cũng «xốn mắt» trước tác phong mất dạy của đám sinh viên nầy. Ngoài ra, đám du học sinh nầy còn là bình phong để cha mẹ họ thuộc giai cấp lãnh đạo cộng sản tẩu tán tài sản một cách hợp pháp ra nước ngoài mỗi lần đi thăm con em, mà những chuyến đi đi về về như đi chợ. Thông thường, sinh viên du học chỉ ở cấp đại học, nhưng với những tay tham nhũng và tư bản đỏ, họ đưa con ra nước ngoài ngay từ cấp trung học, có khi từ tiểu học (như ở Canada) dưới dạng du học sinh và họ mua nhà đất cho con em họ ở, chuẩn bị cho một cuộc định cư cư về sau. Bảng thống kê sau đây cho thấy tỷ lệ số du sinh học trung học, học trường dạy nghề và học Anh ngữ chiếm hơn phân nửa trong tổng số du sinh Việt Nam.
Quốc gia
|
Đại học
|
Trung học
|
Học Anh ngữ
|
Học nghề
|
Hoa Kỳ | 68% | 22% | 6% | 4% |
Anh | 43% | 34% | 20% | 3% |
Úc | 42% | 31% | 16% | 11% |
Canada* | 11% | 60% | 27% | 2% |
*Chú thích về Canada: trong 60% học sinh Trung học có 21% học CEGEP và 3% học cấp tiểu học. (nguồn: Le marché de l’éducation internationale du VN).
Ngoài việc «trồng» người dưới dạng gởi con em du học, những tư bản đỏ và bọn
tham nhũng còn tìm cách làm sui với các gia đình ở ngoại quốc để rửa tiền mà họ
đã cướp giựt ở VN (một trong những sui gia nổi tiếng là Thủ Tướng cộng sản
Nguyễn Tấn Dũng và «tên ngụy» Nguyễn Bang). Họ chỉ cần áp dụng phương pháp cổ
điển của mafia. Gia đình họ ở nước ngoài thành lập các công ty ở VN, tiền vốn
không từ nước ngoài đưa vào mà từ tiền của các tay tham nhũng trong nước bỏ ra
đầu tư. Họ khai gian thương vụ, thổi phồng lợi nhuận khổng lồ để chuyển ngân hợp
pháp ra các ngân hàng nước ngoài qua các thương vụ.
Khi cần ra ngoại quốc để trốn, để định cư, thì dâu rể, con cháu họ sẽ đứng ra bảo lảnh họ dưới dạng đoàn tụ gia đình hay họ di dân dưới dạng kinh doanh. Những cuộc hôn nhân nầy lại còn có tác dụng thêm bạn bớt thù trong cộng đồng người Việt di tản, tạo ấn tượng tốt đẹp cho dân chúng và nhà cầm quyền các quốc gia có người Việt di tản về chính sách đoàn kết, cởi mở của chế độ cộng sản đối với kẻ thù khi xưa. Tính lưu manh, qũy quyệt của cộng sản quả là siêu việt.
Khi cần ra ngoại quốc để trốn, để định cư, thì dâu rể, con cháu họ sẽ đứng ra bảo lảnh họ dưới dạng đoàn tụ gia đình hay họ di dân dưới dạng kinh doanh. Những cuộc hôn nhân nầy lại còn có tác dụng thêm bạn bớt thù trong cộng đồng người Việt di tản, tạo ấn tượng tốt đẹp cho dân chúng và nhà cầm quyền các quốc gia có người Việt di tản về chính sách đoàn kết, cởi mở của chế độ cộng sản đối với kẻ thù khi xưa. Tính lưu manh, qũy quyệt của cộng sản quả là siêu việt.
Nghĩ ra thì cộng đồng người Việt tỵ nạn đã phải trả giá bằng nửa triệu sinh
linh bỏ mạng trên biển khơi để tránh bạo quyền cộng sản thì hôm nay, chính bạo
quyền ấy, sau khi đã vơ vét tài sản trên một đất nước VN nghèo khổ, lại ngang
nhiên mang tài sản ăn cướp ấy để đến sống vương vả trên những vùng đất mà những
nạn nhân của họ trong 36 năm qua đã phải đổ mồ hôi nước mắt để tạo dựng lại lúc
giữa đời người.
- Du sinh địch vậnĐó là 5,000 du sinh con ông cháu cha và những công chức, công an giả dạng là «tu nghiệp sinh» đi học với học bổng của nhà nước. Họ đi học nhưng họ phải làm công tác địch vận theo nghị quyết 36 của đảng. Họ len lỏi trong các hội đoàn, các campus đại học, sử dụng các chiến thuật địch vận thời chiến tranh để tuyên truyền, khủng bố, khuynh đảo các cộng đồng người Việt.
Trong đại học, họ khôn khéo lập các hiệp hội sinh viên, tuân hành các chỉ thị của tòa đại sứ để lôi cuốn các sinh viên con em người Việt tỵ nạn, vốn có tinh thần cởi mở nhưng lại ngây thơ trước các mưu chước thâm độc tâm lý chiến cộng sản. Đám du sinh địch vận nầy lại được sự hổ trợ của đám sinh viên du hí, bởi lẽ chúng phải bảo vệ tập đoàn cầm quyền của cha ông chúng. Chúng cũng có tác phong côn đồ ngang ngược khi cần đối phó với cộng đồng di tản chống đối chúng.Đám đông thầm lặng người Việt tỵ nạn ngao ngán trước viễn cảnh đã trốn cộng sản mà vẫn chưa được yên thân
2.1- Có bao nhiêu người lao động xuất khẩu
Chính sách xuất khẩu lao động được áp dụng từ năm 1980 khi cộng sản VN muốn giải tỏa nạn thất nghiệp trầm trọng trong nước đồng thời dùng người lao động xuất khẩu để trả nợ cho các quốc gia anh em khối cộng sản đã giúp VN trong thời chiến tranh và các quốc gia thân hữu như Irak, Arabie Séoudite, Koweit, Qatar…
Trong thời gian từ 1980-1990, có khoảng nửa triệu người trong đó có khoảng 70,000 sinh viên, nghiên cứu sinh, và khoảng 300,000 người lao động được nhà cầm quyền gởi di Liên Sô, Đông Đức, Tiệp khắc, Bulgarie và khoảng 100,000 người đến các nước Trung cộng, Cuba, Mông Cổ, Bắc Hàn để học tập và làm việc. Tiền lương của nhân công được chia làm ba: một đóng cho nước chủ, một gởi về cho gia đình và một phát cho công nhân. Các công việc phần lớn là công việc người địa phương từ chối: đổ rác, thợ mỏ, phu khuân vác, làm cầu đường, ống dẩn dầu ở Sibérie. Các phụ nữ thường làm nghề may, giúp việc nhà (oshin). Nhưng không bao lâu sau đó, các chế độ cộng sản đã lần lượt sụp đổ, các quốc gia chủ hủy bỏ hợp đồng và cho hồi hương công nhân VN, nhưng đa số công nhân trốn ở lại. Thảm cảnh của công nhân bắt đầu từ đó với cảnh đối xử bất công của dân chúng và chánh quyền địa phương. Thất nghiệp đã đưa đến phạm pháp, tạo thêm ác cảm cho người bản xứ.
Khi bức tường Bá Linh sụp đổ tháng 11/1989,
tại Đông Đức có 59,000 lao động xuất khẩu và du sinh VN tập trung tại các
thành phố như Karl-Marx-Satadt, Đông Berlin và Leipzig. Sau khi nước
Kể từ năm 1990, khi tham nhũng trở thành phổ quát, chính sách xuất khẩu lao
động thay đổi theo lối ăn chia với các tổ chức tuyển dụng người xuất khẩu mà các
người đứng đầu không ai khác hơn là bè đảng các lãnh đạo thế lực. nhà cầm quyền
phụ trách tìm kiếm các hợp đồng với các quốc gia cần nhân công rồi giao cho các
công ty tư vấn tuyển dụng nhân công.
Đó là chính sách tham nhũng vừa hàng dọc vừa hàng ngang, các công ty tuyển dụng tung hoành bóc lột, lường gạt người dân nghèo phải bán nhà bán ruộng để đóng tiền lệ phí cắt cổ cho các công ty để đi lao động nước ngoài hy vọng thoát được cảnh nghèo đói, nhưng chính sách đem con bỏ chợ của các công ty tư vấn thực chất là các tổ chức buôn bán người, làm giàu trên xương máu của người nghèo trước sự bao che của nhà nước.
Đó là chính sách tham nhũng vừa hàng dọc vừa hàng ngang, các công ty tuyển dụng tung hoành bóc lột, lường gạt người dân nghèo phải bán nhà bán ruộng để đóng tiền lệ phí cắt cổ cho các công ty để đi lao động nước ngoài hy vọng thoát được cảnh nghèo đói, nhưng chính sách đem con bỏ chợ của các công ty tư vấn thực chất là các tổ chức buôn bán người, làm giàu trên xương máu của người nghèo trước sự bao che của nhà nước.
Theo số liệu của Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ Lao Động-Thương
Binh và Xã hội), từ năm 2001 đến 2011, VN đã gởi 739,710 lao động VN làm
việc tại hơn 40 quốc gia trên thế giới, tính trung bình mỗi năm có
khoảng 70,000 người. Thu nhập của người lao động xuất khẩu thường từ 6
đến 10 lần cao hơn so với những người cùng làm một công việc trong nước
và mỗi năm họ gởi về nước khoảng 1,7 đến 2 tỷ mỹ kim. (Nguyễn Cảnh Toàn.
Bước đầu nghiên cứu cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Tạp chí Khoa
Học Xã hội VN số 1(44) 2011).
2.2- Diện mạo của người lao động xuất khẩu
Người lao động xuất khẩu ra nước ngoài có hai dạng: ra đi hợp pháp dưới sự quản lý của các công ty tuyển dụng, ra đi bất hợp pháp hay ở lại bất hợp pháp sau khi khế ước làm việc chấm dứt. Ngoài ra, những phụ nữ ra đi lấy chồng Hàn Quốc, Trung cộng, Đài Loan, thực chất cũng là một hình thức xuất khẩu lao động.
Người lao động xuất khẩu ra nước ngoài có hai dạng: ra đi hợp pháp dưới sự quản lý của các công ty tuyển dụng, ra đi bất hợp pháp hay ở lại bất hợp pháp sau khi khế ước làm việc chấm dứt. Ngoài ra, những phụ nữ ra đi lấy chồng Hàn Quốc, Trung cộng, Đài Loan, thực chất cũng là một hình thức xuất khẩu lao động.
- Người lao động xuất khẩu theo hợp đồng
Từ năm 1990, chánh sách tham nhũng và vô trách nhiệm của nhà nước cộng sản đã làm nở rộ các loại công ty môi giới lao động nước ngoài, phát triển từ thành phố đến nông thôn. Đó là một sách lược tham nhũng toàn bộ, chia phần từ trung ương đến địa phương. Những người muốn đi lao động không phải là những người tứ cố vô thân mà phải có chút ít tài sản. Họ hay thân nhân họ phải bán nhà, bán đất hay thế chấp tài sản cho ngân hàng (danh từ sổ đỏ dùng để chỉ tiền nợ ngân hàng với tài sản thế chấp) để đóng tiền lệ phí cho cơ quan tuyển dụng.
Từ năm 1990, chánh sách tham nhũng và vô trách nhiệm của nhà nước cộng sản đã làm nở rộ các loại công ty môi giới lao động nước ngoài, phát triển từ thành phố đến nông thôn. Đó là một sách lược tham nhũng toàn bộ, chia phần từ trung ương đến địa phương. Những người muốn đi lao động không phải là những người tứ cố vô thân mà phải có chút ít tài sản. Họ hay thân nhân họ phải bán nhà, bán đất hay thế chấp tài sản cho ngân hàng (danh từ sổ đỏ dùng để chỉ tiền nợ ngân hàng với tài sản thế chấp) để đóng tiền lệ phí cho cơ quan tuyển dụng.
Theo những văn kiện của nhà cầm quyền, tiền lệ phí nầy không được hơn
một tháng tiền lương, nhưng thực tế, những công ty môi giới khuynh đảo
thị trường bởi người dân nghèo quá đông, mật ít ruồi nhiều, nên họ bày
ra đủ thứ lệ phí, thường từ 5,000 đến 15,000 mỹ kim tùy theo nơi đến làm
việc và thời gian của hợp đồng. Thử tưởng tượng tiền lương của một giáo
chức, sau khi khấu trừ mọi thứ đóng góp cho nhà nước chỉ còn lại độ 30
mỹ kim mỗi tháng thì số tiền lệ phí như trên quả là một tài sản khổng
lồ.
Với những hợp đồng bảo đảm tiền lương tại nước ngoài trên 1,000 mỹ kim hàng tháng, điều kiện làm việc thuận lợi, nhiều gia đình nghèo tranh nhau đi tìm số đỏ với sổ đỏ. Người lao động xuất khẩu đong đưa với vận may nếu hợp đồng được tôn trọng, hy vọng trả được hết nợ và có chút vốn khi trở về nước. Nhưng thế giới cộng sản là thế giới của lừa đão, những công ty tư vấn lường gạt dân nghèo với những viễn cảnh tốt đẹp để vơ vét lệ phí đủ loại, đưa người ra nước ngoài rồi phủi tay, hành xử theo lối đem con bỏ chợ.
Với những hợp đồng bảo đảm tiền lương tại nước ngoài trên 1,000 mỹ kim hàng tháng, điều kiện làm việc thuận lợi, nhiều gia đình nghèo tranh nhau đi tìm số đỏ với sổ đỏ. Người lao động xuất khẩu đong đưa với vận may nếu hợp đồng được tôn trọng, hy vọng trả được hết nợ và có chút vốn khi trở về nước. Nhưng thế giới cộng sản là thế giới của lừa đão, những công ty tư vấn lường gạt dân nghèo với những viễn cảnh tốt đẹp để vơ vét lệ phí đủ loại, đưa người ra nước ngoài rồi phủi tay, hành xử theo lối đem con bỏ chợ.
Những người đi lao động ở Nga, ở Trung Đông bị áp bức, làm việc trong
những điều kiện tồi tệ, không được trả lương theo như hợp đồng, hay bị
hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn, bơ vơ nơi xứ người không biết liên lạc
với ai. Một lời thán oán trong muôn một của một người lao động xuất khẩu
tại nước Nga: «Ba tháng không có lương, đấu tranh thì bị chủ dọa đuổi,
gọi điện thoại về hỏi công ty xuất khẩu thì được bảo: chờ hết suy thoái
chủ sẽ trả lương, muốn bỏ về thì tự túc mua vé mà về… »
Viện Nghiên Cứu Phát Triển Xã Hội Việt Nam hợp tác với trường đại học Western
Ontario (Canada) đã thực hiện một cuộc khảo sát về người lao động xuất khẩu VN
tại 4 quốc gia ở Châu Á (Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan và Mã Lai) trong giai đoạn
2000-2009 đã công bố kết quả ngày 15 tháng 3 năm 2010 như sau: «… chỉ có 33%
người XKLĐ trả hết nợ trước khi về nước, trung bình muốn trả hết nợ vay mượn
phải làm việc 18 tháng, 36% người bị tổn thương sức khỏe và tâm lý vì môi trường
và điều kiện làm việc, 26% người không được trả lương như mong đợi và 8% bị hành
hạ về mặt thể chất.
Nhiều người bị hủy giao kèo hay không chịu nổi sự bốc lột phải trở về nước, gánh thêm nợ nần. Một tỷ lệ quan trọng không thấy có sự cải thiện về mặt kinh tế sau khi đi XKLĐ, thậm chí tình trạng còn tồi tệ hơn: 40,1% hài lòng vì số thu nhập tăng lên, 51,1% không thấy có sự thay đổi tích cực nào, 8,8% bị mắc nợ nhiều hơn….» (Đi xuất khẩu lao động để mưu sinh. baomoi.com, ngày 15/5/2010).
Chánh sách xuất khẩu lao
động của nhà cầm quyền cộng sản phơi bày bản chất vô nhân đạo và vô trách
nhiệm. Những công ty môi giới là những công ty quốc doanh hay phe nhóm
của cấp lãnh đạo đã lợi dụng sự nghèo đói của người dân, nhẩn tâm bốc lột người
nghèo rồi vô trách nhiệm đưa đám người nầy ra nước ngoài phải tự phấn đấu với
bao nhiêu cam go không chuẩn bị. Chánh sách tham nhũng bất lương nầy không giải
quyết trọn vẹn được nạn thất nghiệp và nghèo đói triền miên trong nước mà còn
lại tạo nên một hiểm họa ở ngoài nước bằng cách xuất cảng một khối người Việt
sống bất hợp pháp và phạm pháp tại nhiều quốc gia trên thế giới.Nhiều người bị hủy giao kèo hay không chịu nổi sự bốc lột phải trở về nước, gánh thêm nợ nần. Một tỷ lệ quan trọng không thấy có sự cải thiện về mặt kinh tế sau khi đi XKLĐ, thậm chí tình trạng còn tồi tệ hơn: 40,1% hài lòng vì số thu nhập tăng lên, 51,1% không thấy có sự thay đổi tích cực nào, 8,8% bị mắc nợ nhiều hơn….» (Đi xuất khẩu lao động để mưu sinh. baomoi.com, ngày 15/5/2010).
- Người xuất khẩu lao động bất hợp pháp
Đa số người XKLĐ là nông dân, công nhân ít học, vì nghèo đói phải đi lao động nước ngoài hy vọng sẽ thoát khỏi cảnh nghèo đói. Không am tường ngôn ngữ xứ người, không thích nghi với điều kiện sống và làm việc, không biết thông tin khi gặp bất công, bất trắc, người XKLĐ quả thực làm cuộc phiêu lưu lớn khi đặt niềm tin vào các công ty môi giới mà đa số chỉ là nhóm người bất lương được nhà nước bao che. Ngoài ra, nếu đa số người XKLĐ là nạn nhân của các công ty từ trong nước đến ngoài nước, nhưng trong nhiều trường hợp, chính họ cũng lại là tác nhân của những khốn khổ của họ. Chỉ đan kể một số trường hợp phổ quát: không tuân hành luật lệ xứ người, không tuân hành hợp đồng, tác phong bất xứng (gây gổ, trộm cắp). Tại Hàn Quốc, theo tin tức của chính Bộ Lao Động, 32% người XKLĐ Việt Nam đòi đổi nghề khi đến Đại Hàn, 8,750 người ở lại bất hợp pháp sau khi hết hợp đồng (trên 60,000 XKLĐ), có người bỏ trốn ngay khi vừa đến phi trường, đến nổi Hàn Quốc phải ngưng không nhận XKLĐ Việt Nam. (các bản tin tháng 8, 2011).
Tại Mã Lai, nhà cầm quyền phải ân xá cho
13,000 người Việt XKLĐ ở lậu, tại Arabie Séoudite, tài xế XKLĐ đình công
viện lẽ thời tiết quá nóng đến 45 độ mà xe vận tải không có máy điều hòa không
khí (trước khi đi, họ đã biết sẽ làm việc trong vùng khí hậu sa mạc và xe vận
tải ở VN có chiếc nào có máy điều hòa không khí?).
Tại Moscou, cảnh sát Nga dẹp các xưởng may «chui», bắt giữ 500 người Việt
XKLĐ ở lại bất hợp pháp thì họ quay lại tố cáo chủ nhân bắt họ làm việc như
người nô lệ. Thì ra, người XKLĐ Việt Nam cũng mưu chước không kém gì những công
ty môi giới và công ty mướn người lao động. Một thống kê của Bộ Lao Động,
Thương-Binh Xã hội ước lượng có khoảng 50,000 người XKLĐ bất hợp pháp trên thế giới, nhiều
nhất tại Á Châu và các quốc gia Đông
Âu.
Ngoài những người XKLĐ ở lại bất hợp pháp, nhiều quốc gia trên thế giới đang
phải đối diện với tình trạng người Việt định cư bất hợp pháp, do nhập cư lậu và
người đi với visa du lịch rồi ở lại sau khi hết hạn, tổ chức các hoạt động phạm
pháp như trồng cần sa, mãi dâm, tập hợp thành băng đảng chém giết nhau, gây rối
loạn trật tự công cộng.
Số người di cư nầy được các tổ chức mafia VN đưa bằng đường bộ đến Nga, phần
lớn qua ngả Trung cộng. Một số ở lại Nga sống bằng nghề buôn bán lẻ ở các chợ
trời, may quần áo hay các nghề lao động linh tinh.
Tháng 6/2009, chính phủ
Nga đóng cửa
chợ Vòm (Cherkizovsky), nơi có 6,000 thương buôn người Việt tập trung các hàng
lậu thuế từ Trung cộng.
Ngoài nước Nga, tại Ba Lan, Tiệp Khắc, Đông Đức (cũ), mỗi nơi hàng có chục
ngàn người Việt sống ngoài vòng pháp luật, gồm những người XKLĐ không về nước và
những người nhập cảnh lậu. Dariusz Loranty, cảnh sát trưởng ở Warsaw đã nói với
Ulricht Adrian, ký giả của đài truyền hình Đức ARD như sau:
«… Dân VN không bao giờ chết, chưa hề thấy đám tang người Việt. Một ngày kia, chúng tôi thấy một xác người Việt bị mafia thủ tiêu quăng trong ven rừng ở Warsaw. Một người Việt nào đó mới đến bất hợp pháp sẽ mang tên người chết mà không ai kiểm soát được. Với chúng tôi, người Việt Nam nào cũng giống nhau không phân biệt được. Bọn mafia còn giết người đồng hương thiếu nợ lấy các bộ phận đem bán… » (Ulricht Adrian. Wo Warschau vietnamesisch ist- DCV online dịch).
Món nợ mà ông cảnh sát trưởng Warsaw nói là món nợ từ 10,000 đến 15,000 mỹ kim mà người di cư lậu phải mượn của bọn mafia VN trước khi lên đường, một món nợ quá lớn phải trả suốt đời. Cách trả nợ nhanh nhứt là tham gia vào các tổ chức trồng cần sa, buôn ma túy. Ba Lan hiện nay là trung tâm sản xuất cần sa lớn nhất ở Đông Âu mà các người cầm đầu đường dây đa số là người Việt.
Người rừng
Téteghem
Để tránh sự cạnh tranh, một số di dân lậu được tổ chức đưa qua Đức, Pháp
và điểm đến sau cùng là Vương Quốc Anh, bởi tại đó luật pháp liên quan
đến ma túy có phần nhẹ hơn các nơi khác. Muốn đến Anh, những người nầy
tập trung ở miền Bắc nước Pháp, trốn trong rừng Téteghem, Grande Synthe,
từ đó họ chờ đến đêm để «nhảy bãi» qua cảng Pas de Calais để sang Anh.
Có khi họ phải chờ hàng tuần, hàng tháng trong những khu rừng lạnh lẽo
nầy. Họ vứt bỏ tất cả giấy tờ, hình ảnh để khi cảnh sát bắt họ không
biết lý lịch, xuất xứ của họ, do đó người Anh gọi họ là «người rơm».
Những người rơm nầy đang hoành hành Vương Quốc Anh. Nick Thorpe, phóng
viên đài BBC trong bài EU’s biggest crackdown on Vietnamese illegal
migrants ngày 26/6/2010 đã viết : «… người Việt định cư hợp pháp ở Anh
khoảng 30,000 nhưng số người bất hợp pháp lên đến 35,000».
Hình từ Sunday Times, em bé bị bọn buôn người
bắt trông coi cần sa, hình bên Lê Quang Nhật bị chính quyền Odessa – Ukraina bắt
về tội trồng cần sa quy mô.
No comments:
Post a Comment