HỒ SĨ KHUÊ * NGÔ ĐÌNH DIỆM: NƯỚC BẠI THEO MỘT NGƯỜI
MỘT CHẾ ĐỘ TOÀN QUYỀN
Người viết nắm giữ được một số tài liệu liên hệ đến thời điểm khai sinh
chính quyền Ngô Đình Diệm, rơi rãi sau ngày lễ Các Thánh 1963. Theo các
tài liệu này, có thể nêu lên một số sự kiện ý nghĩa.
Trước tháng 7 năm 1954, khi Bảo Đại chịu áp lực phải đưa Ngô Đình Diệm ra cầm quyền ở miền Nam, và theo yêu cầu của ông Diệm, một người miền Trung am hiểu “Nam kỳ” đã soạn cho ông Diệm một tường trình tình hình chính trị Sài Gòn, thực trạng và sức nặng chính trị của các giáo phái vùng Đồng Nai, Cửu Long. Kết luận bản tường trình này là đừng nhận thức các giáo phái theo quan điểm tôn giáo, mà phải nhìn ảnh hưởng chính trị của họ trong lòng quần chúng “Nam kỳ”. Phải nương theo ảnh hưởng ấy mà đi vào lòng quần chúng “Nam kỳ”, nhất thiết không nên để các giáo phái trở thành đối nghịch. Càng không nên tìm cách chia rẽ giáo phái và quần chúng ấy, để không gây kẽ hở tạo cơ hội cho Cộng Sản chen vào.
Tháng 12 năm 1954, khi Chính phủ Sài Gòn thu hồi dinh Độc Lập người Pháp vừa giao lại, Ngô Đình Nhu có mời một số người trước đây có thiện cảm với ông Diệm, nhưng vì lí do này khác, đứng ngoài vòng không muốn cộng tác với chế độ Diệm. Có người đã nói đến chuyện “tội tổ tông” của chế độ mới và đặt vấn đề hóa giải, nếu muốn miền Nam thoát khỏi ách Cộng Sản. Tóm tắt đề nghị ấy là: khi người “Nam kỳ” không giữ quyền lãnh đạo chính trị, phải chia quyền lãnh đạo ấy với họ, đưa họ vào các trung tâm quyết định của nhà nước, của quốc gia, đặt họ trước trách nhiệm cứu nước. Ông Diệm chỉ nên giữ vai trò đảm bảo cho các chính quyền miền Nam dân chủ và tự do, không Cộng Sản.
Nhưng con người khó thoát khỏi bản chất cố hữu của mình. Ngô Đình Diệm không lột được xác quan lại cũ để vươn lên hàng một chính khách đúng mức đáp ứng các vấn đề Việt Nam lúc bấy giờ. Lại càng không đóng nổi vai trò lãnh đạo trong hoàn cảnh phức tạp, tế nhị bên trong cũng như bên ngoài đất nước. Cho nên Ông không xây dựng một chế độ chính trị mà chỉ thiết lập một chế độ cai trị, hành chánh. Một chế độ “toàn quyền” miền Nam, hệt như chế độ Toàn quyền Đông Dương cũ của người Pháp. Nhà nước Sài Gòn chỉ là một tổ chức quyền lực ghép lên dân chúng trong cõi, như ván ghép ghép vào gỗ.
Hành chánh để cai trị dân thì có. Dùng luật pháp để bảo vệ trật tự trên cơ sở một tổ chức công an cảnh sát giàu phương tiện và bất chấp nhân tình. Các ông huyện Tây học cũ của triều đình Huế được tận dụng, người thì đi các tỉnh lo việc củng cố thế lực còn mong manh của lãnh tụ, người thì ở thủ đô, rập theo khuôn sáo miền Bắc Cộng Sản, tổ chức liên gia, tố cộng, hòng kiểm soát dân chúng.
Nhưng chính trị thì không! Vì coi nhẹ việc dung hợp nhân dân, ngờ vực dân Đồng Nai Bến Nghé. Cho nên ông Diệm chỉ chọn lọc kỹ lớp khuyển mã người Nam gọi dạ bảo vâng, rồi tự mãn là dành nhiều địa vị cho người “Nam kỳ” đúng theo sự đòi hỏi của tình thế.
Quan trọng hơn cả là việc đối xử với thành phần cựu kháng chiến chống Pháp quay về thành. Năm 1949, nhóm Tinh Thần gồm một số trí thức Sài Gòn ủng hộ Ngô Đình Diệm, đã cưỡng ông Diệm chấp nhận một số tuyên cáo cam kết với anh em kháng chiến sẽ dành cho họ một địa vị, một phần trách nhiệm đúng mức, khi họ trở về với chính thể quốc gia độc lập về sau. Năm năm sau, quả ông Diệm lên cầm quyền, và anh em kháng chiến trở về thành đã chịu nhiều điêu đứng trong cái chế độ cảnh sát trị của ông. (Đồng bào đang ở Pháp có thể tìm gặp Trần Văn Đỗ, một thành viên của nhóm Tinh Thần, để xác minh sự kiện).
Những hy vọng ban đầu của người miền Nam dần dà tan biến. Chính từ đó người trong nước mới bắt đầu ý thức về cái “tội tổ tông” của chế độ Sài Gòn, một chế độ “toàn quyền” có tính cách thống trị mà họ không thể nhìn nhận được.
Một chế độ họ không muốn chấp nhận, sống trong đó họ chịu nhiều tai ương, nên dễ mang tâm lý ly khai. Đây là thời kỳ đảng Cộng Sản tích cực ly gián nhân dân và chính quyền. Tuy vậy, người miền Nam cho là mình ở vào cảnh “trên đe dưới búa”, tới dở lui cũng dở, mà thôi, Cộng Sản chưa lôi cuốn được. Có nhận ra tâm lý ấy mới hiểu sức mạnh của phong trào Phật giáo vào các năm 60, lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Sức mạnh của một quần chúng muốn thoát khỏi cảnh trên đe dưới búa, cảnh phải chọn lựa giữa Cộng Sản và Ngô Đình Diệm. Quần chúng ấy đã hội tụ trong phong trào Phật giáo.
Tuy thế, đã có ly cách giữa chính quyền và quần chúng Nam bộ, là có chỗ cho Cộng Sản khuấy động, làm ầm ĩ chuyện Phú lợi, chuyện Ấp Bắc, chuyện Đồng Khởi, một nói thành mười, thành trăm, rồi nhân đó mà cho Mặt Trận xuất hiện công khai năm 1960. Chứ thật tình thời cuộc lúc này chẳng có chi mà sôi động bất thường, và cũng không hề có một phong trào đi bưng ào ạt để thành hàng ngũ cho Mặt Trận. Sức mạnh duy nhất lúc bấy giờ là Phật giáo, không phải là Cộng Sản nép sau Mặt Trận. Bằng cớ là trong tình hình chế độ Sài Gòn sụp đổ đang chông chênh, đảng Cộng Sản không thừa cơ hội mà thao túng nổi.
TÌNH HÌNH MIỀN NAM NĂM 1960
Để thi hành hiệp định Genève, hai miền Nam Bắc phân định và được các cường quốc chính thức đảm bảo. Kế đến, việc trưng cầu dân ý để thống nhất năm 1956 bị hủy bỏ. Chế độ hai miền đối nghịch nhau nhưng đều có căn bản pháp lý vững vàng. Công cuộc tập kết hai bên đã thực hiện khá tốt, mỗi bên đều bận bịu nhiều, trước hết, vào việc tổ chức cơ cấu nhà nước, xây dựng chế độ riêng, tuyên truyền cho đường lối của mình, kết hợp quần chúng hòng thiết lập quốc gia, giải quyết các nhu cầu cấp thiết của mỗi miền.
Trong hoàn cảnh ấy, và khi hiệp định đã chấm dứt chiến tranh, súng đạn đã im tiếng, thì các hậu ý bên này hay bên kia về một cuộc tranh chấp bằng vũ lực tạm thời phải dẹp sang một bên dành ưu tiên cho việc củng cố nền tảng của chế độ.
Cho nên, hòa bình đã tái lập cứ thế mà kéo dài. Và có thể nói là suốt chín năm chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa, miền Nam đã sống thanh bình, quần chúng miền Nam dành công sức để xây dựng lại đời sống của mình, trong không khí thanh bình ấy, ở các đô thị cũng như ở thôn quê.
QUẦN CHÚNG MIỀN NAM
Nói đến quần chúng miền Nam lúc bấy giờ, là nói đến một hỗn hợp phức tạp.
Thành phần đông đảo hơn cả là người “Nam kỳ”. Những người đang sống trên chính đất gốc của mình, đất “Nam kỳ”, từ nay trở thành nền tảng lãnh thổ quốc gia: 65% dân số.
Tương lai của quốc gia từ vĩ tuyến 17 đổ xuống tất nhiên tùy thuộc vào đất “Nam kỳ” và vào người “Nam kỳ”. Đất phì nhiêu đủ nuôi ăn cả nước. Người có mức độ văn hóa, chuyên nghiệp cao hơn nơi khác. Gồm sẵn một số cơ sở thương nghiệp, kỹ nghệ có thể làm bước đầu cho việc phát triển kinh tế lúc bấy giờ là một ưu tiên.
30% dân số khác của miền Nam gồm người đất “Trung kỳ” bên dưới vĩ tuyến 17. Chật vật nhiều xưa nay, nhưng vẫn không khỏi phải nhờ đến lúa gạo “Nam kỳ” để có thể giáp mùa hàng năm. Thành phần còn lại, 5%, là đồng bào Bắc Việt di cư. Và một số vài ngàn người, từ Bắc từ Trung, theo nhân vật lãnh đạo vào Nam thiết lập chế độ mới. Gồm quan lại, công chức cũ, cùng tập đoàn tay chân, sớm có muộn có, đã quây quần dưới trướng ông Ngô Đình Diệm. Lấy thành phần di cư làm căn bản quần chúng, lấy tay chân làm nòng cốt cho chế độ Cộng Hòa.
TƯƠNG QUAN GIỮA CHẾ ĐỘ VÀ QUẦN CHÚNG
Ngô Đình Diệm thiết lập chế độ của mình trên những thành phần nhân dân phức tạp như vậy mà nhất đán không gặp một khó khăn nào từ quần chúng. Những khó khăn buổi đầu ông đã vấp phải đều do nguồn gốc tương tranh quyền lợi giữa ông và các thế lực đối đầu với ông (như Bình Xuyên, như Nguyễn Văn Hinh), quần chúng miền Nam nói chung không can dự vào.
Điều đáng nêu lên trước hết, là tinh thần “Nam kỳ quốc”, trước kia thường được nhắc đến để dè bỉu người Nam, xem như là một trở ngại lớn cho tinh thần thống nhất dân tộc, nay không thấy phát hiện. Tuy điều kiện để nó phát hiện đã có đủ, nhất là khi quyền binh nằm trong tay một người không phải gốc “Nam kỳ”.
Người “Nam kỳ” không đố kị chút nào với chế độ mới, trong đó họ không được dành một phân quyền lực xứng đáng với tầm quan trọng của họ. Không đố kỵ chút nào với nhân vật cầm đầu chế độ, họ chưa hề nghe nói đến tên tuổi, mà nay làm chủ phần đất gốc gác của họ.
Người ta có thể thấy rõ thái độ cởi mở ấy trong cách đồng bào miền Nam tiếp đón đồng bào miền Bắc di cư. Sốt sắng, thân tình. Các khu định cư người Bắc ở Cái Sắn, ở Biên Hòa, được bà con địa phương nâng đỡ, chẳng bao lâu đã trở thành những vùng an sinh phồn thịnh.
Thái độ tích cực ấy bắt nguồn từ bản chất, từ tính tình của người Nam kỳ. Đời sống thường dễ dãi, không hề phải lo đói, nên họ có một tâm hồn thật cởi mở, thương người. Tính tình phóng khoáng ấy khiến họ hầu như không có tham vọng quyền bính. Lòng yêu nước thành truyền thống từ thuở Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân cần vương, khiến họ giữ được tinh thần dân tộc dù trải 80 năm thuộc địa bị tách rời khỏi phần kia của đất nước2. Không hề có đầu óc phân ly.
Người “Nam kỳ” không có đầu óc phân ly như người Trung, người Bắc thường lo sợ.
Nhưng điều oái oăm là, với chế độ Ngô Đình Diệm, tinh thần phân ly được phát động mạnh mẽ và ngược chiều.
Thay vì người “Nam kỳ” phân ly với chế độ cưỡng chế họ dưới quyền một người không cùng gốc, thì chế độ này lại tự phân ly với người “Nam kỳ” bằng chính sách Bắc trị trên đất Nam kỳ.
Tính phân ly ngược chiều ấy nằm trong bản chất của chế độ và bản chất của nhân vật cầm quyền, ông Ngô Đình Diệm.
Nằm trong bản chất của người cầm quyền chính, vì ông Diệm xem mình như đương nhiên mang một thiên mệnh cứu dân, cứu nước. Tính khổ tu và óc tôn giáo của ông đã khiến ông nhìn đâu cũng chỉ thấy có tội lỗi. Càng thấy tội lỗi rõ hơn ở những ai không đứng cùng một phía với ông. Người khác đạo, người khác gốc, người ngoài vòng gia đình, ngoài vòng thân thuộc của ông, người nghĩ khác, nói khác ông, đều có thể là những người tội lỗi. Quan niệm thiện ác được ông mang áp dụng trọn vẹn và cứng ngắc ở phạm vi quyền chính ông cầm trong tay. Nhưng thiện hay ác do ông định nghĩa lấy. Thành ra ngờ vực là căn bản sinh hoạt chính trị của ông. Coi thường người khác là căn bản trong thái độ đối xử của ông. Cho rằng ai cũng phải thần phục mình, trung thành với mình, tôn thờ mình là căn bản suy tưởng của ông.
Từ bản chất ấy, từ thái độ ngờ vực người khác ấy, từ quan niệm thiên mệnh ông mang, ông đã tập họp rồi dung túng quanh ông một lớp tay chân và một lớp khuyển mã, đau đáu giữ gìn thế nào cho khỏi thất sủng, hơn là làm được việc cho ông.
Thành ra một thứ triều đình, tách rời chế độ và người cầm đầu chế độ xa lìa quần chúng trong nước. Mà thành phần chủ yếu của quần chúng này, như nói ở trên, là người “Nam kỳ”.
Phần khác, ưu tư tôn giáo, nhu cầu củng cố thế lực, khiến ông Diệm xem thành phần Bắc Việt di cư là căn bản chủ yếu của chế độ. Dùng họ làm lực lượng hậu cần của chế độ, ông Diệm ly khai hẳn với thành phần đa số là người Nam kỳ. Từ tâm lý ly khai ngược chiều ấy, ông đi đến tâm lý kỳ thị người Nam, xem họ không xứng đáng trong cái nhìn “yêu nước” của ông.
MỘT CHẾ ĐỘ BẮC TRỊ, GIA ĐÌNH TRỊ, VÀ CẢNH SÁT TRỊ
Chế độ được thiết lập cũng mang bản chất phân ly. Nhất thiết không có một người “Nam kỳ” nào tham dự vào trung tâm quyết định nhà nước, từ trung ương đến địa phương. ở thượng tầng, của đáng tội, người Nam, người Trung hay người Bắc đều bị kỳ thị hết. Chẳng có ai chen vào trung tâm quyết định việc nước dành riêng cho các anh em ông Diệm (người trong nước gọi chung là gia đình trị). Nhưng ở các địa phương, hàng tỉnh trưởng gồm toàn tay chân, thân tín người Bắc, người Trung, không có lấy một người Nam nào (người trong nước gọi là Bắc trị).
Nhưng tai hại hơn cả là tính phân ly của một thứ chế độ mà bản chất không phải là chính trị mà là cai trị. Vấn đề chính của ông Diệm nằm trong quan niệm phải củng cố rồi nắm vững quyền bính cá nhân của mình để chống Cộng. Chứ không phải xây dựng một miền Nam không Cộng Sản, hưng vượng, phát triển tự do, để làm nổi bật những giá trị văn hóa, xã hội, nhân sự, khiến ai cũng thấy rõ một miền Nam đáng cho người chuộng tự do, chuộng nhân phẩm chọn làm đất sống. Thành ra chế độ không đặt nặng vấn đề phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, mà đặt nặng vấn đề an ninh. Vấn đề chính của ông Diệm là cai trị, không phải là chính trị. Từ bản chất ấy, nền móng của chế độ là tổ chức công an, mật vụ. Chi chít đến nỗi các anh em của ông mỗi người đều có riêng một tổ chức mật vụ hoạt động cho chủ mình, bất chấp luật pháp (người trong nước gọi là cảnh sát trị).
Ghép lên tính phân ly của chế độ, của người lãnh đạo, dần dà thái độ phân ly của các bộ hạ tay chân. Nhất là ở các địa phương. Từ đó nạn cường hào ác bá trở nên một tệ nạn cuối cùng tách hẳn quần chúng “Nam kỳ” khỏi chính quyền. Ưu tư của nhân dân và ưu tư của chính quyền từ đó trở nên trái ngược với nhau, vấn đề của nhân dân không phải là vấn đề của nhà nước, và ngược lại. Lợi cho chế độ là hại cho dân, hại cho chế độ là lợi cho dân. Sau cùng, đó là tâm lý thấy được của người “Nam kỳ” trong các biến cố khuynh đảo chế độ Ngô Đình Diệm các năm 1960 đến 1963. Cảnh hoan lạc của nhân dân miền Nam ngày lễ Các Thánh năm 1963 biểu hiện rõ rệt sự phân cách hoàn toàn giữa chế độ ông Diệm và quần chúng “Nam kỳ”. Cái chết của ông Diệm, ông Nhu là nỗi vui chung của cả nước, vui đúng, vui sai lại là chuyện khác.
Tình trạng phân ly giữa chính quyền và nhân dân ấy đã tạo thời điểm cho phe Cộng Sản đưa Mặt trận ra ánh sáng năm 1960.
NGÔ ĐÌNH DIỆM ĐÁNH MẤT DÂN MIỀN NAM.
PHÂN CÁCH GIỮA CHẾ ĐỘ VÀ NHÂN DÂN MIỀN NAM (trước 1975)
Hiệp định Genève, mang chữ ký các cường quốc, đảm bảo cơ sở quốc tế công pháp của Sài Gòn, đối diện với Hà Nội.
Chính quyền còn phải được thiết lập, trên căn bản nhân vật lãnh đạo là người mới muốn dứt khoát với thực trạng cũ mình không dự phần. Nhằm mở một kỷ nguyên khác theo nguyện vọng chung trong nước. Mọi việc phải bắt đầu lại trong một bầu không khí vừa phấn khởi, vừa thiếu ổn định, của một xã hội từ chiến tranh đi vào hòa bình. Tình huống nhân dân còn lẫn lộn, phức tạp, tâm trạng mọi người chưa lắng đọng kịp.
Mục tiêu dài hạn: xây dựng miền Nam không Cộng Sản thành một quốc gia phát triển vững mạnh, tự do, dân chủ, có đủ giá trị hấp dẫn, chờ ngày thống nhất.
Ngô Đình Diệm, sau gần năm năm sống ở ngoài, về nước cầm quyền tháng 7-1954 trong hoàn cảnh nói trên. Với nhiều lẽ thuận, nhiều lẽ nghịch, chủ quan có, khách quan có. Phải nhận ra trước, để hiểu các sự việc về sau làm sụp đổ miền Nam.
Lẽ thuận: Hậu thuẫn quốc tế và quần chúng trong nước.
A. Quốc tế:
- Sức ủng hộ của Hoa Kỳ, dựa trên thế lực Công giáo ở Mỹ, và của thế giới tự do. Nhiều hứa hẹn viện trợ kinh tế, để phát triển (chương trình Colombo, cơ quan USAID), việc trợ kỹ thuật, viện trợ quân sự, để phòng thủ (tổ chức Liên phòng Đông Nam Á SEATO).
- Pháp từ bỏ quyền bá chủ Việt Nam. Quân đội Pháp trú đóng chỉ giữ nhiệm vụ trật tự thi hành hiệp định, sớm muộn phải rút. Ba Lê mong giải kết duyên nợ thuộc địa một cách thuận lợi, hòng mưu cầu lợi ích kinh tế lâu dài sau đó.
- Các nước Đông Nam Á, nhất là Cao Mên và Lào, đang lo ngại đà tiến của Cộng Sản, xem miền Nam như một tiền đồn, sẵn sàng ủng hộ một cách kín đáo.
- Chiến tranh nguội chia thế giới thành hai khối: Cộng Sản và dân chủ tự do. Khối các nước tự do chờ những kết quả sơ khởi của Sài Gòn để ủng hộ và giúp đỡ cụ thể.
B. Nội Bộ:
- Ngô Đình Diệm là người mới, không dính líu trong chế độ Quốc trưởng. Lại được tiếng là yêu nước, đạo đức, liêm khiết, các đức tính thời thượng lúc bấy giờ.
- Trong địa vị Thủ tướng, được toàn quyền hành động, không chịu chỉ thị, không có kiểm soát của Bảo Đại. Một năm sau làm Tổng thống.
- Đất nước đi vào Hòa bình, nhân dân náo nức, lạc quan. Ông Diệm không phải là người có công mang lại hòa bình, nhưng được hưởng cái lợi tâm lý do hoàn cảnh ấy tạo nên.
- Cuộc di tản vĩ đại của một triệu đồng bào miền Bắc, bỏ mồ mả quê hương, vào Nam tránh nạn Cộng Sản, chọn lựa miền Nam quốc gia theo ông.
2. Lẽ Nghịch: Một thế giới thiên vị và mù quáng.
A. Quốc tế:
- Miền Nam là đối tượng bành trướng của quốc tế Cộng Sản, sau Trung Quốc (1949) và sau miền Bắc Việt Nam (1954).
Chiến lược và mưu đồ xích hóa thế giới nhằm việc thôn tính miền Nam đến cùng. Nhiệm vụ tiền phương thuộc phần Hà Nội. Một nhiệm vụ quốc tế, hoàn toàn không phải là một nhiệm vụ dân tộc. Song song, Bắc Kinh giữ nhiệm vụ hậu cần. Đầu não là Mạc Tư Khoa.
Thành ra, giữa Mỹ và Sài Gòn, quan hệ chỉ có tính cách viện trợ phương tiện, ủng hộ tinh thần, để bảo vệ tự do cho một quốc gia nhỏ, trong mức độ tán đồng của dư luận nội bộ Hoa Kỳ. Mà dư luận một nước dân chủ thì lại dễ giao động đến có thể xoay ngược chiều. Việc ủng hộ và viện trợ không thể vô giới hạn, cũng không thể kéo dài mãi được, nếu không đạt kết quả sớm. Hiệp định Ba Lê 1973 là một minh chứng. Chính dư luận Mỹ đã buộc Hoa Thịnh Đốn bỏ rơi Sài Gòn.
Trái ngược hẳn lại, giữa Liên Xô và Hà Nội, quan hệ là chuyện phân chia công tác và nhiệm vụ nhắm một cứu cánh chung: xích hóa thế giới. Hà Nội đứng ở tuyến đầu. Bắc Kinh tuyến hậu. Mạc Tư Khoa là trung tâm chỉ đạo và lãnh đạo. Cho nên không phải là chuyện viện trợ và ủng hộ. Mà là chuyện bành trướng của khối Cộng Sản thế giới.
Nhiệm vụ này trường kỳ. Thế giới từng bước một phải rơi vào tay Mạc Tư Khoa, nhân danh cách mạng vô sản. Không giới hạn phương tiện về công sức, về của cải. Không giới hạn về nhân mạng, về tai ương của chiến tranh. Cho nên không có chuyện Mạc Tư Khoa bỏ rơi Hà Nội vì lẽ này hay lẽ khác, như Hoa Thịnh Đốn đã bỏ rơi Sài Gòn vì quân đội Mỹ thiệt hại nhiều.
Nói cho cùng: Sài Gòn khác. Hoa Thịnh Đốn khác. Nhất đán vì quyền lợi chung có thể đi với nhau, nhưng vẫn là hai. Mạc Tư Khoa và Hà Nội lại chỉ là một. Trong vấn đề Nam Việt Nam.
Như thế, Sài Gòn không phải chỉ đương đầu với Hà Nội, mà thực sự phải đương đầu với toàn khối Cộng Sản, không những với Mạc Tư Khoa mà còn cả với Trung Hoa, với Đông Âu.
- Trong khối các nước dân chủ Tây phương, khái niệm cách mạng thế giới chống tư bản chủ nghĩa đang hồi thời thượng. Giới trí thức, nhất là tả phái, bị mê hoặc theo những giá trị họ ngưỡng mộ là cách mạng, sẽ thay đổi được thế giới, thay đổi được con người, tranh nhau tán dương Cộng Sản, tâng bốc Liên Xô là thiên đường hạ giới. Jean Paul Sartre đã không ngần ngại tuyên bố: “Chỉ có là chó mới chống Cộng”. Vì thế, trong vấn đề Việt Nam, họ luôn luôn về hùa với Hà Nội. Solzhenitsyne chưa sang Tây Âu, ảnh hưởng của họ có tính cách thời thượng, làm thiệt hại nhiều cho miền Nam khi muốn vận động dư luận quốc tế, vận động ngoại giao, để bênh vực cái thế của mình.
Đến cả tướng De Gaulle, trong tuyên ngôn ở Nam Vang của ông, trên đường công du thuộc địa Nouvelle Calédonie, lên án Mỹ can thiệp vào Việt Nam, cũng đã có một ảnh hưởng thật tai hại cho Sài Gòn. Tuyên ngôn của ông đã được xem là một trong các yếu tố đưa đến thất bại của Hoa Kỳ ở miền Nam.
- Các nước Đông Nam Á chưa đạt đến mức phát triển khả quan, nên tổ chức ASEAN chưa hình thành được như hiện nay để có một tiếng nói chung bênh vực Sài Gòn, mà thế giới không thể không chú ý đến được.
- Các nước trong thế giới đệ tam, tuy gọi là trung lập nhưng lại thiên Hà Nội vì muốn gần Liên Xô.
- Ông Diệm thù người Pháp nên không biết lợi dụng việc họ có mặt và ảnh hưởng ở miền Nam, như quân đội Nhật đã làm từ 1941 đến 1945, như ông Hồ Chí Minh đã làm từ 1945 đến 1946.
B. Nội Bộ:
- Tội tổ tông của chế độ Ngô Đình Diệm: Miền Nam chỉ là đất Nam kỳ mở rộng, ông Diệm không phải gốc Nam kỳ và người Nam kỳ không biết ông Diệm mà chỉ nghe đồn về ông mà thôi.
- Mặt tiêu cực trong con người ông Diệm.
1. Thiếu tầm vóc:
Không có đủ tầm vóc một lãnh tụ quốc gia, một chính khách quốc tế. Vì học thức giới hạn, kiến thức thiếu sót, nên không am hiểu đến nơi các biến chuyển lớn trong thế giới, sau thế chiến thứ hai; không nhìn rõ được các vấn đề đất nước, trong thời điểm thiếu ổn định về mọi mặt sinh hoạt xã hội lúc bấy giờ, khi hòa bình trở về và đất nước qua phân. Thành ra không phân biệt được vấn đề chính, vấn đề phụ, và định sai thứ tự ưu tiên các công việc phải làm.
2. Nhân sinh quan hẹp hòi:
Ông Diệm trọng đạo đức, thuần thành về tín ngưỡng. Đau đáu lo giữ mình đến nỗi quên người, nên sợ kẻ khác làm hỏng việc mình. Thành ra không giám tin ai và thường ngờ vực tất cả, hóa ra người lãnh đạo mà rất quả giao. Lẫn lộn tốt, xấu, theo đạo đức bình thường, với điều hay, dở, trong hành động nhà nước. Cuối cùng đi đến độc tôn, độc đoán, mình cho là phải mình cho là trái đều là phải, là trái, không ai cãi được. Nên không chịu nổi ai nói khác mình, không chấp nhận đối lập.
3. Không dám tin người:
Thung dung được với người thân tín sẵn, mà lúng túng với người chưa quen. Thành ra chỉ biết có anh em, thân quyến trong gia đình, chỉ gần tay chân bộ hạ. Khi lên cầm quyền, trong vấn đề dùng người, chỉ chọn kẻ chịu làm tay sai, không chọn người cộng tác ngang hàng.
4. Quan liêu gia đình:
Gia đình và thủ túc nhiều tham vọng quyền lực, quyền lợi. Từ Trung, từ Bắc vào, làm thêm nặng cái tội tổ tông của chính quyền Diệm.
5. Xung khắc về bản chất giữa ông Diệm và dân Nam kỳ:
Nam kỳ dưới chế độ thuộc địa trực trị có luật pháp rõ ràng, nên được đảm bảo ít nhiều tự do. Nay kháng chiến thành công, dân tại chỗ đòi dân chủ, không sẵn sàng chấp nhận một nhà nước câu thúc quá đáng. Ông Diệm, xuất thân là đại thần triều đình Huế cũ, cá tính con người ông không để cho ông sử dụng quyền bính cách khác hơn là quan liêu, lệnh từ trên ban xuống, không có đối thoại, trao đổi với ai.
Người Nam kỳ tính phóng khoáng, cởi mở, cả tin, không có tham vọng quyền bính, không bận tâm chính trị mấy. Vì thế, mà sau kinh nghiệm kháng chiến, họ không thích Cộng Sản, nhưng đã từng tranh đấu với nhau, họ không chống Cộng. Ông Diệm và tả hữu tay chân lấy việc chống Cộng làm quốc sách, chê người Nam kỳ là ấu trĩ.
6. Không biết sử dụng thành quả kháng chiến Dân Tộc:
Thành quả kháng chiến là niềm tự hào của dân Nam kỳ. Nhưng lại là vết hằn trong tâm thức ông Diệm. Quần chúng Nam kỳ kháng chiến theo truyền thống Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân v.v... để giải phóng đất nước. Không phải để theo Mác, theo Lênin. Họ xem kẻ thù chính là thực dân Pháp.
7. Ông Diệm không tham dự kháng chiến.
Đứng ngoài vòng một thời, và một thời gian sau đó xuất ngoại sang sống ở Hoa Kỳ. Sự kiện lịch sử này có thể giải thích. Kháng chiến do người Cộng Sản lãnh đạo. Quần chúng nhằm mục đích ngắn hạn tranh thủ độc lập, không cần nhìn xa hơn để ngờ vực, Cộng Sản mưu đồ cách mạng vô sản thế giới, không cần chú ý đến mục đích dài hạn của đảng Cộng Sản. Ông Diệm chống Cộng, kẻ thù chính của dân tộc, trong con mắt ông, là Cộng Sản. Ông không thể tham dự kháng chiến, không thể tranh đấu dành độc lập chung với Cộng Sản. Một phần vì ông không chấp nhận lãnh đạo Cộng Sản trong kháng chiến. Phần khác, ông muốn tranh đấu giành độc lập theo một đường lối khác. Thái độ ông khả kính. Đường lối ông có giá trị. Nehru ở Ấn Độ, Soekarno ở Nam Dương chứng minh nhận xét này. Và có lẽ họ đã mở đường cho ông Diệm. Cho nên, nhất thời, ông không thể để cho phong trào quần chúng trong nước lôi cuốn vào cuộc kháng chiến mà ông biết về sau tất nhiên bị Cộng Sản lợi dụng. Lịch sử sẽ ghi nhận định của ông là đúng.
Kháng chiến thành công. Pháp phải từ bỏ quyền bá chủ Việt Nam và ông Diệm được đưa lên cầm quyền trên nửa phần phía Nam đất nước. Trên đó Nam kỳ là địa cư chính và trọng yếu nhất. Đây là cớ sự tạo một mặc cảm thật tế nhị, thật phức tạp, trong tâm thức con người Ngô Đình Diệm.
Nam kỳ kháng chiến đã phần nào ngược với chủ trương chống Cộng của ông. Nên ông mặc cảm như phong trào này cũng chống ông. Nay kháng chiến thành công trên mảnh đất Nam kỳ ông trực tiếp tiếp thu kết quả. Trong tiềm thức ông, ông thấy có chi đó bất ổn. Tâm lý tự xem mình là người phi thường khiến ông hóa giải điều bất ổn này một cách sai lạc. Đến chỗ đố kỵ người Nam kỳ.
8. Mặc cảm đố kỵ người Nam kỳ.
Những người từ nay bị đặt dưới quyền ông, ông Diệm muốn thoát ngoài tình trạng này bằng cách đặt mình lên trên lẽ thường của mọi người. Cách xử sự này hợp với bản tính tự cao tự đại của con người ông. Đưa ông đến việc cho mình là người mang một sứ mệnh thần thánh cứu dân, cứu nước, không cần phải theo sát tâm lý, nguyện vọng “thiển cận” của nhân dân. Nhất là nhân dân Nam kỳ, đương nhiên thuộc trách nhiệm lãnh đạo của ông.
Tâm lý tự tôn để tự ổn này được gia đình ông, tay chân bộ hạ ông cổ súy, phụ họa vào. Cớ sự này đã tạo nên cho ông, cho tả hữu quanh ông, một tâm trạng kẻ cả mà người miền Nam từng biết rõ, và đã tạo ảnh hưởng nặng nề cho tư thế lãnh đạo của ông.
Tâm trạng kẻ cả của ông Diệm, của gia đình và tả hữu ông, đối với dân Nam kỳ, có thể tóm tắt trên vài điểm chính:
- Người Nam kỳ thiếu ý thức chính trị (hàm nghĩa: ồ ạt chạy theo Cộng Sản để kháng chiến).
- Người Nam kỳ ấu trĩ về văn hóa. Vụ tờ báo “Tự Do” của Phạm Việt Tuyền nêu nhận định là “Nam kỳ không có văn chương” đã một thời khiến dân Nam kỳ phẫn nộ.
- Người Nam kỳ đạo đức thấp. Ông Diệm và thân quyến đã võ đoán như vậy khi thấy xã hội Nam kỳ, dù muốn dù không, cũng chịu ảnh hưởng sinh hoạt của người Tây phương nhiều hơn đồng bào các nơi khác.
- Người Nam kỳ phản quốc. Hàm ý họ hết theo Pháp thì theo Cộng. Ngô Đình Nhu đã nói lên lời: “les Cochinchinois sont des traitres” (dân Nam kỳ là phường phản bội) với người viết, ngay tại sảnh đường dinh Độc Lập. Và cũng chính Nhu đã muốn dựng lên Vụ án Tôn Thọ Tường, giao cho một Hội Đồng Nhân Sĩ tay chân tổ chức. Một người hiểu chuyện, đã bảo Nhu: “Người Nam kỳ từng cùng Phan Văn Trị lên án Tôn Thọ Tường. Tường làm việc cho thực dân 60 năm trước Ngô Đình Diệm là phản quốc, vậy Diệm làm việc cho thực dân 60 năm sau Tường, lại không phải là phản quốc hay sao?” Việc làm lố bịch này phải dẹp sớm, nên ít người biết.
NƯỚC BẠI THEO MỘT NGƯỜI
Chế độ miền Nam do ông Diệm thiết lập, phải đương đầu với các lẽ thuận, lẽ nghịch, được nêu ở phần trên. Và tùy thuộc vào các ưu điểm, khuyểt điểm của con người Ngô Đình Diệm.
Những công trình nhân sinh cỡ lớn không thể nhất thiết đòi hỏi đủ điều kiện thuận lợi để tiến hành. Ông Diệm đi vào sự nghiệp ông từng mong mỏi thực hiện, trong những điều kiện nói chung khá tốt. Tương lai thành hay bại tùy thuộc ông có biết khai triển đúng mức hay không các lẽ thuận, giải tỏa các lẽ nghịch. Tùy thuộc ông biết lợi dụng các ưu điểm của mình, biết khắc phục các khuyết điểm của mình đến một mức hiệu quả.
Ngô Đình Diệm có đủ lẽ để thành công. Tiếc là ông đã thất bại. Đưa đến thất bại chung của miền Nam. Rồi của cả dân tộc.
Ông Diệm đứng ra thành lập chế độ miền Nam với các lẽ thuận, nghịch gắn liền vào đó, như đã phân tích trong bài trước. Việc thành hay bại tùy vào tâm mức lãnh đạo của ông, biết hay không biết khai thác lẽ thuận, khắc phục lẽ nghịch, tiên quyết không nhất định là thế nào được.
Thời thế có thể tạo anh hùng. Nhưng người lãnh đạo giỏi đạp lên thời thế mà tiến thành anh hùng. Kinh nghiệm đã qua cho thấy ông Diệm không thuộc hạng lãnh đạo ấy. Không phải là một “homme d’Etat”.
Từ bài này, người viết sử dụng tài liệu một người bạn thân, vượt biển, gửi lại vì không mang theo được. Tài liệu ghi nhận những cuộc thảo luận giữa anh ta và anh em ông Diệm, từ sau 1945 cho đến cuối năm 1954, khi họ bàn về đường lối nên theo, và chính sách phải có, khi ông Diệm nắm được quyền hành.
Người viết giữ việc trình bày cho được mạch lạc, không can thiệp vào nội dung tài liệu. Để bạn đọc có thể thấy có người đã đề nghị với ông Diệm một đường lối lãnh đạo, một chính sách cầm quyền khác những gì anh em ông đã làm, nhưng lại đúng theo những gì ông Diệm đã tiên tri và tiên liệu sẽ làm.
….
BA ĐIỀU BẤT HẠNH CHO ĐẠI CUỘC VIỆT NAM
1. Bất hạnh trong việc giải phóng đất nước khỏi bàn tay ngoại bang.
Ông Diệm ở hải ngoại năm năm. Kéo dài đến bốn năm trên đất Mỹ, sau đó mới sang Âu Châu, ở Pháp và ở Bỉ. Ngoài ra, ông không đặt chân lên một nước nào khác. Nhất là một nước Á Châu.
Ở Hoa Kỳ, ông quanh quẩn trong bóng tối thanh tú của các nhà dòng Công giáo. Sang Pháp, sang Bỉ cũng thế. Ông không dấn thân hoạt động đánh vào dư luận các nơi, không liên lạc, giao thiệp với các chính khách quốc tế, không gần gũi vận động kiều bào. Ông dành công việc chính ông phải làm lấy cho các bào đệ Nhu, Luyện của ông. Họa hoằn, nhờ có nhà dòng móc nối, ông giao thiệp với một hai nhân vật Mỹ rất hiếm hoi, cỡ Hồng Y Spellman, cỡ Thượng nghị sĩ Mansfield.
Tên tuổi ông, báo chí quốc tế không thấy nhắc đến. Tiếng tăm ông chẳng vang dội một nơi nào. Ông không hề xuất hiện trước dư luận thế giới. Như Gandhi, Nehru, Sukarno đã từng làm, khi họ còn phải tranh đấu cho độc lập của xứ sở họ.
Thành ra khi người Mỹ dùng áp lực đưa ông lên cầm quyền, thế giới không biết ông là ai, không thấy ông có tầm vóc nào đáng kể, nên xem ông chỉ là một lá bài của Hoa Kỳ. Người trong nước, nhất là dân Nam kỳ, trừ những người hiếm hoi biết ông trước kia là một vị Thượng thư trẻ tuổi của triều đình Huế, chống Pháp mà từ chức, đa số không biết ông là ai, chưa hề nghe nói đến ông. Chỉ thấy có người Mỹ đưa ông lên.
Không trách được người trong nước, người nước ngoài, xem ông là “một con cờ của Mỹ”. Điều ông không hề muốn, nhưng lại là lỗi của ông. Đúng hơn, điều biểu thị sự bất tài của ông.
Và nhất là điều bất hạnh cho đại cuộc miền Nam. Đại cuộc lúc này là việc giải phóng đất nước khỏi tay ngoại bang. Nhất đán xuất hiện là một “lá bài Mỹ”, đè nặng lên tương lai của chế độ. Tuy vậy, điều bất hạnh này chưa có ảnh hưởng ngay. Bởi lẽ, khi đã chia cắt, miền Nam thấy cần có một cường quốc giúp đỡ, nhất là Hoa Kỳ, để quân bình với miền Bắc, có Liên Xô và Trung Quốc đứng sau. Miền Nam không thể tồn tại được, nếu đứng lẻ. Thành ra, dù sao, ông Diệm cũng biểu hiện cho một hi vọng. Thêm vào đó, ông không có tai tiếng chi, nhờ đứng ngoài thời cuộc từ trước. Dư luận miền Nam mặc nhiên chấp nhận ông. Chỉ mong ông đừng để miền Nam trở thành phụ dung của Mỹ, mà chỉ là thân Mỹ.
2. Bất hạnh thiếu tài lương đống
Ông Diệm biết mình có thể lên cầm quyền, ba tháng trước. Ông lên cầm quyền ngày 7-7-54. Ngày 21-7-54 Hội nghị Genève kết thúc, chia hai Việt Nam , và giao cho ông miền Nam.
Trong thời gian 4 tháng thật quyết định ấy, ông vẫn ù lì như suốt 4 năm ở Mỹ trước kia. Ông không đích thân hoạt động. Mọi việc giao cho hai ông em, Nhu và Luyện, làm thay. Trong tinh thần chung của gia đình này, họ chỉ liên lạc ngầm, hoạt động trong bóng tối. Nên chỉ tiếp xúc với một số người thật hạn hẹp.
Không thấy tấn công vào dư luận thế giới, vào các cơ quan truyền thông quốc tế, buộc họ phải nói đến ông, đến giải pháp ông đề ra, và sẽ thực hiện. Không thấy công khai nêu lên một đường lối, một chính sách nào. Để cho thế giới, thông qua báo chí, biết đến một giải pháp Ngô Đình Diệm. Cũng không thấy vận động kiều bào. Để làm sáng tỏ tư cách một lãnh tụ quốc gia có hậu thuẫn, có lập trường, có đường lối, có khả năng, hòng tranh thủ cảm tình kiều bào đang bị Cộng Sản ve vãn. Hình như Việt kiều phải tự mình nhận ra “sứ mệnh cứu nước của Cụ”. Bằng không, họ chỉ là những người thân Cộng, không cần mở mắt cho họ làm gì. Cho nên, quanh quẩn chỉ tập họp một số kiều bào Công giáo, một số ít “học trò cũ của Đức Cha”4 để chọn sẵn một mớ tay chân về sau.
Ngay chính trong nước cũng thế. Phong trào “Đoàn Kết” Ngô Đình Nhu dựng lên, quanh quẩn ở Sài Gòn, tập họp tay chân đã có rồi, với một số thân hữu cũ trong nhóm “Tinh Thần”, hờm sẵn như chờ chia một món gia tài. Còn quần chúng trong nước, ở Đồng Nai, Bến Nghé, Cửu Long hay ở Thăng Long, ở Thuận Hóa, phong trào không thấy “đoàn kết” với ai khác, và cũng không mấy người nghe nói đến.
Hoạt động của ba anh em ông Diệm, ba tháng trước ngày cầm quyền, là cố gắng tìm mọi cách gây tín nhiệm với Bảo Đại, để ông này chịu ký Dụ trao quyền chính cho. Kể cả việc tuyên thệ trung thành này nọ với Bảo Đại. Kể cả sai Ngô Đình Luyện đi Cannes biếu Bảo Đại một chiếc ô-tô sang trọng. Trong lúc Pháp cầu Hoa Kỳ, Mỹ muốn là trời muốn. Bảo Đại không muốn cũng không xong.
Khi lịch sử chận đứng kim đồng hồ
Rồi ngay cả thời gian lên cầm quyền ngày 7 tháng 7, cho đến lúc Hội nghị Genève kết thúc ngày 21-7, ông Diệm nhất thiết không hề đích thân xuất hiện ở hội trường Genève, không muốn tham dự thảo luận, không thấy phải cầm đầu đoàn Việt Nam quốc gia. Mà gởi đến đó ông Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ về phía Việt Nam.
Ba mươi ngày cuối cùng của Hội nghị, đủ cho cả thế giới và riêng nước Pháp thấy thế nào là một “homme d’Etat”5. Trái lại, lịch sử cận đại đã ghi thật đậm nét cho Mendès France.
Ông Mendès France đã dọa bỏ cuộc, nếu không kết thúc được hội nghị vào đúng 24 giờ ngày 21-7-54. Nhưng một giờ trước khi các lãnh tụ thế giới tham dự hội nghị ký tên vào Hiệp định, cho kịp hạn định ông Mendès France đưa ra. Phái đoàn Cambốt đã nhân hạn định ấy mà đưa ra một đòi hỏi mới, bênh vực cho quyền lợi nước mình. Để tránh việc Thủ tướng Pháp bỏ cuộc, Molotov và Eden đồng Chủ tịch Hội nghị, không những vận động các phái đoàn thỏa mãn yêu sách bắt chẹt của Cambốt, mà còn phải kéo lui kim đồng hồ cho đừng đổ vội 12 tiếng khuya 21-7, hòng có đủ thì giờ chữa lại bản thảo hiệp định kẻo Mendès France rút lui.
Từ ông Diệm lên cầm quyền đến Hội nghị chấm dứt có hơn 3 tuần lễ. Ông không thấy (hay ông ngại) cơ hội để ông chen vai với các lãnh tụ quốc tế khác. Cơ hội để ông đích thân tham dự đến ngay hội trường mở một cuộc tấn công ngoại giao, bênh vực quyền lợi đất nước, trình bày lập trường quốc gia. Cho mọi người thấy được tầm vóc quốc tế của ông, nếu quả ông có, ngang với Mendès France, một Chu Ân Lai, một Eden, một Molotov, một Foster Dulles. Như Phạm Văn Đồng. Để các cường quốc biết đến ông là một sức mạnh khả tín. Mà ủng hộ miền Nam, nếu họ muốn. Nếu họ thù nghịch, họ biết là sẽ phải đối đầu với một sức mạnh.
Ông không chịu tham dự hội nghị. Đây là bất hạnh thứ hai của đại cuộc miền Nam. Vì ở hội nghị, người ta nhìn về phía Việt Nam, chỉ thấy có Phạm Văn Đồng. Chỉ biết có phe Cộng Sản. Chỉ biết có Hà Nội. Sài Gòn là một bóng mờ, Ngô Đình Diệm là ai, người ta có nghe nói tên, nhưng không ai nhắc đến, trong đám các lãnh tụ tham dự hội nghị... Vì thế, dư luận các nơi cho rằng miền Nam chỉ là một bóng ma làm cớ để chấm dứt chiến tranh, không thể đứng vững được. Nhiều lắm là hai năm, thời hạn định sẵn để trưng cầu dân ý mà thống nhất về tay Hà Nội.
3. Bất hạnh coi thường dân miền Nam, và thành phần kháng chiến dân tộc.
Ông Diệm lên cầm quyền trong hoàn cảnh đúng như ông tiên tri từ 1948: Ông lãnh đạo miền Nam, mà đất Nam kỳ là trọng tâm. Mỹ ủng hộ ông, hứa viện trợ Sài Gòn, tức phải dính líu với miền Nam.
Nói cách khác, các điều kiện ông tiên liệu, ông muốn có, để tranh thủ với Cộng Sản, nay ông hội đủ. Và con đường ông phải theo có thể phác họa như sau:
1. Lấy đất Nam kỳ làm gốc cho chế độ. Như Nguyễn Ánh đã làm hồi thế kỷ XVIII, để tranh thủ với Tây Sơn.
2. Dùng nhân dân Nam kỳ làm nguyên tố củng cố, xây dựng miền Nam. Dựa trên quần chúng Nam kỳ làm thế ỷ dốc, để bảo vệ miền Nam, giữ cho Cộng Sản miền Bắc không huy động được dễ dàng các thành phần nằm vùng mà tuyên truyền và quấy phá. Đồng thời, để phát triển kinh tế, xã hội, với nhân lực, tài lực Nam kỳ.
3. Vinh danh thành tích kháng chiến yêu nước. Vạch rõ mưu đồ Cộng Sản lợi dụng nhu cầu giải phóng của đồng bào, để thực hiện cách mạng vô sản.
Đề cao anh em kháng chiến quốc gia. Xem chủ quyền miền Nam là thành quả kháng chiến. Đúng theo tinh thần Tuyên ngôn 1951 nói trên.
Kết hợp các thành phần kháng chiến, phi kháng chiến vì hiểu thấu mưu đồ Cộng Sản, hoặc vì một lý do khác, để tổ chức quyền chính miền Nam.
Đó là con đường kết hợp nhân dân, kết hợp kháng chiến vào chính quyền. Để thu hút vào chế độ các thành phần quần chúng nông thôn, đã từng là cơ sở trung kiên, suốt chín năm qua, của tổ chức kháng chiến chống Pháp. Sự kết hợp này có thực sự và chặt chẽ, sẽ đảm bảo cho tương lai miền Nam.
Tất nhiên phải tùy thuộc vào một chính sách thể hiện trung thành những gì ông Diệm đã tiên tri từ 1948, thực hiện lời ông đã hứa trong Tuyên ngôn năm 1951:
Dùng hai “Vú sữa”: quần chúng Nam kỳ và thành phần kháng chiến quốc gia mà nuôi dưỡng chế độ Sài Gòn.
Chính sách ấy, ngoài chuyện mình trung thành với chính mình, còn là một chọn lựa sáng suốt, vì nông dân Nam kỳ không chấp nhận, thì chế độ tồn tại với ai và thế nào được. Trừ phi bắt chước Cộng Sản, dùng các biện pháp độc tài và đàn áp. Sáng suốt vì có nhìn nhận chủ quyền thu hồi ở miền Nam là sự nghiệp kháng chiến quốc gia, mới không để Hà Nội độc chiếm thành quả ấy về phần Cộng Sản trên cả nước.
Can đảm vì đây là một chọn lựa nguy hiểm. Nguy cơ tiềm tàng trong một chính sách như vậy thật lớn, đòi hỏi một khả năng lãnh đạo cao, một lòng tự tin lớn. Đòi hỏi một “homme d’Etat”.
Ông Diệm không có đủ khả năng chính trị và tự tin, thành ra chọn lựa mà ông đã tiên liệu và cho là thiết yếu từ 1948, từ 1951, thì nay, lên cầm quyền, ông sợ là không thiết thực. Nên đứng trên đất Nam kỳ để đối đầu với miền Bắc, ông khoét mất ngay hai cái “Vú sữa” của miền Nam!
Trước tháng 7 năm 1954, khi Bảo Đại chịu áp lực phải đưa Ngô Đình Diệm ra cầm quyền ở miền Nam, và theo yêu cầu của ông Diệm, một người miền Trung am hiểu “Nam kỳ” đã soạn cho ông Diệm một tường trình tình hình chính trị Sài Gòn, thực trạng và sức nặng chính trị của các giáo phái vùng Đồng Nai, Cửu Long. Kết luận bản tường trình này là đừng nhận thức các giáo phái theo quan điểm tôn giáo, mà phải nhìn ảnh hưởng chính trị của họ trong lòng quần chúng “Nam kỳ”. Phải nương theo ảnh hưởng ấy mà đi vào lòng quần chúng “Nam kỳ”, nhất thiết không nên để các giáo phái trở thành đối nghịch. Càng không nên tìm cách chia rẽ giáo phái và quần chúng ấy, để không gây kẽ hở tạo cơ hội cho Cộng Sản chen vào.
Tháng 12 năm 1954, khi Chính phủ Sài Gòn thu hồi dinh Độc Lập người Pháp vừa giao lại, Ngô Đình Nhu có mời một số người trước đây có thiện cảm với ông Diệm, nhưng vì lí do này khác, đứng ngoài vòng không muốn cộng tác với chế độ Diệm. Có người đã nói đến chuyện “tội tổ tông” của chế độ mới và đặt vấn đề hóa giải, nếu muốn miền Nam thoát khỏi ách Cộng Sản. Tóm tắt đề nghị ấy là: khi người “Nam kỳ” không giữ quyền lãnh đạo chính trị, phải chia quyền lãnh đạo ấy với họ, đưa họ vào các trung tâm quyết định của nhà nước, của quốc gia, đặt họ trước trách nhiệm cứu nước. Ông Diệm chỉ nên giữ vai trò đảm bảo cho các chính quyền miền Nam dân chủ và tự do, không Cộng Sản.
Nhưng con người khó thoát khỏi bản chất cố hữu của mình. Ngô Đình Diệm không lột được xác quan lại cũ để vươn lên hàng một chính khách đúng mức đáp ứng các vấn đề Việt Nam lúc bấy giờ. Lại càng không đóng nổi vai trò lãnh đạo trong hoàn cảnh phức tạp, tế nhị bên trong cũng như bên ngoài đất nước. Cho nên Ông không xây dựng một chế độ chính trị mà chỉ thiết lập một chế độ cai trị, hành chánh. Một chế độ “toàn quyền” miền Nam, hệt như chế độ Toàn quyền Đông Dương cũ của người Pháp. Nhà nước Sài Gòn chỉ là một tổ chức quyền lực ghép lên dân chúng trong cõi, như ván ghép ghép vào gỗ.
Hành chánh để cai trị dân thì có. Dùng luật pháp để bảo vệ trật tự trên cơ sở một tổ chức công an cảnh sát giàu phương tiện và bất chấp nhân tình. Các ông huyện Tây học cũ của triều đình Huế được tận dụng, người thì đi các tỉnh lo việc củng cố thế lực còn mong manh của lãnh tụ, người thì ở thủ đô, rập theo khuôn sáo miền Bắc Cộng Sản, tổ chức liên gia, tố cộng, hòng kiểm soát dân chúng.
Nhưng chính trị thì không! Vì coi nhẹ việc dung hợp nhân dân, ngờ vực dân Đồng Nai Bến Nghé. Cho nên ông Diệm chỉ chọn lọc kỹ lớp khuyển mã người Nam gọi dạ bảo vâng, rồi tự mãn là dành nhiều địa vị cho người “Nam kỳ” đúng theo sự đòi hỏi của tình thế.
Quan trọng hơn cả là việc đối xử với thành phần cựu kháng chiến chống Pháp quay về thành. Năm 1949, nhóm Tinh Thần gồm một số trí thức Sài Gòn ủng hộ Ngô Đình Diệm, đã cưỡng ông Diệm chấp nhận một số tuyên cáo cam kết với anh em kháng chiến sẽ dành cho họ một địa vị, một phần trách nhiệm đúng mức, khi họ trở về với chính thể quốc gia độc lập về sau. Năm năm sau, quả ông Diệm lên cầm quyền, và anh em kháng chiến trở về thành đã chịu nhiều điêu đứng trong cái chế độ cảnh sát trị của ông. (Đồng bào đang ở Pháp có thể tìm gặp Trần Văn Đỗ, một thành viên của nhóm Tinh Thần, để xác minh sự kiện).
Những hy vọng ban đầu của người miền Nam dần dà tan biến. Chính từ đó người trong nước mới bắt đầu ý thức về cái “tội tổ tông” của chế độ Sài Gòn, một chế độ “toàn quyền” có tính cách thống trị mà họ không thể nhìn nhận được.
Một chế độ họ không muốn chấp nhận, sống trong đó họ chịu nhiều tai ương, nên dễ mang tâm lý ly khai. Đây là thời kỳ đảng Cộng Sản tích cực ly gián nhân dân và chính quyền. Tuy vậy, người miền Nam cho là mình ở vào cảnh “trên đe dưới búa”, tới dở lui cũng dở, mà thôi, Cộng Sản chưa lôi cuốn được. Có nhận ra tâm lý ấy mới hiểu sức mạnh của phong trào Phật giáo vào các năm 60, lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Sức mạnh của một quần chúng muốn thoát khỏi cảnh trên đe dưới búa, cảnh phải chọn lựa giữa Cộng Sản và Ngô Đình Diệm. Quần chúng ấy đã hội tụ trong phong trào Phật giáo.
Tuy thế, đã có ly cách giữa chính quyền và quần chúng Nam bộ, là có chỗ cho Cộng Sản khuấy động, làm ầm ĩ chuyện Phú lợi, chuyện Ấp Bắc, chuyện Đồng Khởi, một nói thành mười, thành trăm, rồi nhân đó mà cho Mặt Trận xuất hiện công khai năm 1960. Chứ thật tình thời cuộc lúc này chẳng có chi mà sôi động bất thường, và cũng không hề có một phong trào đi bưng ào ạt để thành hàng ngũ cho Mặt Trận. Sức mạnh duy nhất lúc bấy giờ là Phật giáo, không phải là Cộng Sản nép sau Mặt Trận. Bằng cớ là trong tình hình chế độ Sài Gòn sụp đổ đang chông chênh, đảng Cộng Sản không thừa cơ hội mà thao túng nổi.
TÌNH HÌNH MIỀN NAM NĂM 1960
Để thi hành hiệp định Genève, hai miền Nam Bắc phân định và được các cường quốc chính thức đảm bảo. Kế đến, việc trưng cầu dân ý để thống nhất năm 1956 bị hủy bỏ. Chế độ hai miền đối nghịch nhau nhưng đều có căn bản pháp lý vững vàng. Công cuộc tập kết hai bên đã thực hiện khá tốt, mỗi bên đều bận bịu nhiều, trước hết, vào việc tổ chức cơ cấu nhà nước, xây dựng chế độ riêng, tuyên truyền cho đường lối của mình, kết hợp quần chúng hòng thiết lập quốc gia, giải quyết các nhu cầu cấp thiết của mỗi miền.
Trong hoàn cảnh ấy, và khi hiệp định đã chấm dứt chiến tranh, súng đạn đã im tiếng, thì các hậu ý bên này hay bên kia về một cuộc tranh chấp bằng vũ lực tạm thời phải dẹp sang một bên dành ưu tiên cho việc củng cố nền tảng của chế độ.
Cho nên, hòa bình đã tái lập cứ thế mà kéo dài. Và có thể nói là suốt chín năm chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa, miền Nam đã sống thanh bình, quần chúng miền Nam dành công sức để xây dựng lại đời sống của mình, trong không khí thanh bình ấy, ở các đô thị cũng như ở thôn quê.
QUẦN CHÚNG MIỀN NAM
Nói đến quần chúng miền Nam lúc bấy giờ, là nói đến một hỗn hợp phức tạp.
Thành phần đông đảo hơn cả là người “Nam kỳ”. Những người đang sống trên chính đất gốc của mình, đất “Nam kỳ”, từ nay trở thành nền tảng lãnh thổ quốc gia: 65% dân số.
Tương lai của quốc gia từ vĩ tuyến 17 đổ xuống tất nhiên tùy thuộc vào đất “Nam kỳ” và vào người “Nam kỳ”. Đất phì nhiêu đủ nuôi ăn cả nước. Người có mức độ văn hóa, chuyên nghiệp cao hơn nơi khác. Gồm sẵn một số cơ sở thương nghiệp, kỹ nghệ có thể làm bước đầu cho việc phát triển kinh tế lúc bấy giờ là một ưu tiên.
30% dân số khác của miền Nam gồm người đất “Trung kỳ” bên dưới vĩ tuyến 17. Chật vật nhiều xưa nay, nhưng vẫn không khỏi phải nhờ đến lúa gạo “Nam kỳ” để có thể giáp mùa hàng năm. Thành phần còn lại, 5%, là đồng bào Bắc Việt di cư. Và một số vài ngàn người, từ Bắc từ Trung, theo nhân vật lãnh đạo vào Nam thiết lập chế độ mới. Gồm quan lại, công chức cũ, cùng tập đoàn tay chân, sớm có muộn có, đã quây quần dưới trướng ông Ngô Đình Diệm. Lấy thành phần di cư làm căn bản quần chúng, lấy tay chân làm nòng cốt cho chế độ Cộng Hòa.
TƯƠNG QUAN GIỮA CHẾ ĐỘ VÀ QUẦN CHÚNG
Ngô Đình Diệm thiết lập chế độ của mình trên những thành phần nhân dân phức tạp như vậy mà nhất đán không gặp một khó khăn nào từ quần chúng. Những khó khăn buổi đầu ông đã vấp phải đều do nguồn gốc tương tranh quyền lợi giữa ông và các thế lực đối đầu với ông (như Bình Xuyên, như Nguyễn Văn Hinh), quần chúng miền Nam nói chung không can dự vào.
Điều đáng nêu lên trước hết, là tinh thần “Nam kỳ quốc”, trước kia thường được nhắc đến để dè bỉu người Nam, xem như là một trở ngại lớn cho tinh thần thống nhất dân tộc, nay không thấy phát hiện. Tuy điều kiện để nó phát hiện đã có đủ, nhất là khi quyền binh nằm trong tay một người không phải gốc “Nam kỳ”.
Người “Nam kỳ” không đố kị chút nào với chế độ mới, trong đó họ không được dành một phân quyền lực xứng đáng với tầm quan trọng của họ. Không đố kỵ chút nào với nhân vật cầm đầu chế độ, họ chưa hề nghe nói đến tên tuổi, mà nay làm chủ phần đất gốc gác của họ.
Người ta có thể thấy rõ thái độ cởi mở ấy trong cách đồng bào miền Nam tiếp đón đồng bào miền Bắc di cư. Sốt sắng, thân tình. Các khu định cư người Bắc ở Cái Sắn, ở Biên Hòa, được bà con địa phương nâng đỡ, chẳng bao lâu đã trở thành những vùng an sinh phồn thịnh.
Thái độ tích cực ấy bắt nguồn từ bản chất, từ tính tình của người Nam kỳ. Đời sống thường dễ dãi, không hề phải lo đói, nên họ có một tâm hồn thật cởi mở, thương người. Tính tình phóng khoáng ấy khiến họ hầu như không có tham vọng quyền bính. Lòng yêu nước thành truyền thống từ thuở Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân cần vương, khiến họ giữ được tinh thần dân tộc dù trải 80 năm thuộc địa bị tách rời khỏi phần kia của đất nước2. Không hề có đầu óc phân ly.
Người “Nam kỳ” không có đầu óc phân ly như người Trung, người Bắc thường lo sợ.
Nhưng điều oái oăm là, với chế độ Ngô Đình Diệm, tinh thần phân ly được phát động mạnh mẽ và ngược chiều.
Thay vì người “Nam kỳ” phân ly với chế độ cưỡng chế họ dưới quyền một người không cùng gốc, thì chế độ này lại tự phân ly với người “Nam kỳ” bằng chính sách Bắc trị trên đất Nam kỳ.
Tính phân ly ngược chiều ấy nằm trong bản chất của chế độ và bản chất của nhân vật cầm quyền, ông Ngô Đình Diệm.
Nằm trong bản chất của người cầm quyền chính, vì ông Diệm xem mình như đương nhiên mang một thiên mệnh cứu dân, cứu nước. Tính khổ tu và óc tôn giáo của ông đã khiến ông nhìn đâu cũng chỉ thấy có tội lỗi. Càng thấy tội lỗi rõ hơn ở những ai không đứng cùng một phía với ông. Người khác đạo, người khác gốc, người ngoài vòng gia đình, ngoài vòng thân thuộc của ông, người nghĩ khác, nói khác ông, đều có thể là những người tội lỗi. Quan niệm thiện ác được ông mang áp dụng trọn vẹn và cứng ngắc ở phạm vi quyền chính ông cầm trong tay. Nhưng thiện hay ác do ông định nghĩa lấy. Thành ra ngờ vực là căn bản sinh hoạt chính trị của ông. Coi thường người khác là căn bản trong thái độ đối xử của ông. Cho rằng ai cũng phải thần phục mình, trung thành với mình, tôn thờ mình là căn bản suy tưởng của ông.
Từ bản chất ấy, từ thái độ ngờ vực người khác ấy, từ quan niệm thiên mệnh ông mang, ông đã tập họp rồi dung túng quanh ông một lớp tay chân và một lớp khuyển mã, đau đáu giữ gìn thế nào cho khỏi thất sủng, hơn là làm được việc cho ông.
Thành ra một thứ triều đình, tách rời chế độ và người cầm đầu chế độ xa lìa quần chúng trong nước. Mà thành phần chủ yếu của quần chúng này, như nói ở trên, là người “Nam kỳ”.
Phần khác, ưu tư tôn giáo, nhu cầu củng cố thế lực, khiến ông Diệm xem thành phần Bắc Việt di cư là căn bản chủ yếu của chế độ. Dùng họ làm lực lượng hậu cần của chế độ, ông Diệm ly khai hẳn với thành phần đa số là người Nam kỳ. Từ tâm lý ly khai ngược chiều ấy, ông đi đến tâm lý kỳ thị người Nam, xem họ không xứng đáng trong cái nhìn “yêu nước” của ông.
MỘT CHẾ ĐỘ BẮC TRỊ, GIA ĐÌNH TRỊ, VÀ CẢNH SÁT TRỊ
Chế độ được thiết lập cũng mang bản chất phân ly. Nhất thiết không có một người “Nam kỳ” nào tham dự vào trung tâm quyết định nhà nước, từ trung ương đến địa phương. ở thượng tầng, của đáng tội, người Nam, người Trung hay người Bắc đều bị kỳ thị hết. Chẳng có ai chen vào trung tâm quyết định việc nước dành riêng cho các anh em ông Diệm (người trong nước gọi chung là gia đình trị). Nhưng ở các địa phương, hàng tỉnh trưởng gồm toàn tay chân, thân tín người Bắc, người Trung, không có lấy một người Nam nào (người trong nước gọi là Bắc trị).
Nhưng tai hại hơn cả là tính phân ly của một thứ chế độ mà bản chất không phải là chính trị mà là cai trị. Vấn đề chính của ông Diệm nằm trong quan niệm phải củng cố rồi nắm vững quyền bính cá nhân của mình để chống Cộng. Chứ không phải xây dựng một miền Nam không Cộng Sản, hưng vượng, phát triển tự do, để làm nổi bật những giá trị văn hóa, xã hội, nhân sự, khiến ai cũng thấy rõ một miền Nam đáng cho người chuộng tự do, chuộng nhân phẩm chọn làm đất sống. Thành ra chế độ không đặt nặng vấn đề phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, mà đặt nặng vấn đề an ninh. Vấn đề chính của ông Diệm là cai trị, không phải là chính trị. Từ bản chất ấy, nền móng của chế độ là tổ chức công an, mật vụ. Chi chít đến nỗi các anh em của ông mỗi người đều có riêng một tổ chức mật vụ hoạt động cho chủ mình, bất chấp luật pháp (người trong nước gọi là cảnh sát trị).
Ghép lên tính phân ly của chế độ, của người lãnh đạo, dần dà thái độ phân ly của các bộ hạ tay chân. Nhất là ở các địa phương. Từ đó nạn cường hào ác bá trở nên một tệ nạn cuối cùng tách hẳn quần chúng “Nam kỳ” khỏi chính quyền. Ưu tư của nhân dân và ưu tư của chính quyền từ đó trở nên trái ngược với nhau, vấn đề của nhân dân không phải là vấn đề của nhà nước, và ngược lại. Lợi cho chế độ là hại cho dân, hại cho chế độ là lợi cho dân. Sau cùng, đó là tâm lý thấy được của người “Nam kỳ” trong các biến cố khuynh đảo chế độ Ngô Đình Diệm các năm 1960 đến 1963. Cảnh hoan lạc của nhân dân miền Nam ngày lễ Các Thánh năm 1963 biểu hiện rõ rệt sự phân cách hoàn toàn giữa chế độ ông Diệm và quần chúng “Nam kỳ”. Cái chết của ông Diệm, ông Nhu là nỗi vui chung của cả nước, vui đúng, vui sai lại là chuyện khác.
Tình trạng phân ly giữa chính quyền và nhân dân ấy đã tạo thời điểm cho phe Cộng Sản đưa Mặt trận ra ánh sáng năm 1960.
NGÔ ĐÌNH DIỆM ĐÁNH MẤT DÂN MIỀN NAM.
PHÂN CÁCH GIỮA CHẾ ĐỘ VÀ NHÂN DÂN MIỀN NAM (trước 1975)
Hiệp định Genève, mang chữ ký các cường quốc, đảm bảo cơ sở quốc tế công pháp của Sài Gòn, đối diện với Hà Nội.
Chính quyền còn phải được thiết lập, trên căn bản nhân vật lãnh đạo là người mới muốn dứt khoát với thực trạng cũ mình không dự phần. Nhằm mở một kỷ nguyên khác theo nguyện vọng chung trong nước. Mọi việc phải bắt đầu lại trong một bầu không khí vừa phấn khởi, vừa thiếu ổn định, của một xã hội từ chiến tranh đi vào hòa bình. Tình huống nhân dân còn lẫn lộn, phức tạp, tâm trạng mọi người chưa lắng đọng kịp.
Mục tiêu dài hạn: xây dựng miền Nam không Cộng Sản thành một quốc gia phát triển vững mạnh, tự do, dân chủ, có đủ giá trị hấp dẫn, chờ ngày thống nhất.
Ngô Đình Diệm, sau gần năm năm sống ở ngoài, về nước cầm quyền tháng 7-1954 trong hoàn cảnh nói trên. Với nhiều lẽ thuận, nhiều lẽ nghịch, chủ quan có, khách quan có. Phải nhận ra trước, để hiểu các sự việc về sau làm sụp đổ miền Nam.
Lẽ thuận: Hậu thuẫn quốc tế và quần chúng trong nước.
A. Quốc tế:
- Sức ủng hộ của Hoa Kỳ, dựa trên thế lực Công giáo ở Mỹ, và của thế giới tự do. Nhiều hứa hẹn viện trợ kinh tế, để phát triển (chương trình Colombo, cơ quan USAID), việc trợ kỹ thuật, viện trợ quân sự, để phòng thủ (tổ chức Liên phòng Đông Nam Á SEATO).
- Pháp từ bỏ quyền bá chủ Việt Nam. Quân đội Pháp trú đóng chỉ giữ nhiệm vụ trật tự thi hành hiệp định, sớm muộn phải rút. Ba Lê mong giải kết duyên nợ thuộc địa một cách thuận lợi, hòng mưu cầu lợi ích kinh tế lâu dài sau đó.
- Các nước Đông Nam Á, nhất là Cao Mên và Lào, đang lo ngại đà tiến của Cộng Sản, xem miền Nam như một tiền đồn, sẵn sàng ủng hộ một cách kín đáo.
- Chiến tranh nguội chia thế giới thành hai khối: Cộng Sản và dân chủ tự do. Khối các nước tự do chờ những kết quả sơ khởi của Sài Gòn để ủng hộ và giúp đỡ cụ thể.
B. Nội Bộ:
- Ngô Đình Diệm là người mới, không dính líu trong chế độ Quốc trưởng. Lại được tiếng là yêu nước, đạo đức, liêm khiết, các đức tính thời thượng lúc bấy giờ.
- Trong địa vị Thủ tướng, được toàn quyền hành động, không chịu chỉ thị, không có kiểm soát của Bảo Đại. Một năm sau làm Tổng thống.
- Đất nước đi vào Hòa bình, nhân dân náo nức, lạc quan. Ông Diệm không phải là người có công mang lại hòa bình, nhưng được hưởng cái lợi tâm lý do hoàn cảnh ấy tạo nên.
- Cuộc di tản vĩ đại của một triệu đồng bào miền Bắc, bỏ mồ mả quê hương, vào Nam tránh nạn Cộng Sản, chọn lựa miền Nam quốc gia theo ông.
2. Lẽ Nghịch: Một thế giới thiên vị và mù quáng.
A. Quốc tế:
- Miền Nam là đối tượng bành trướng của quốc tế Cộng Sản, sau Trung Quốc (1949) và sau miền Bắc Việt Nam (1954).
Chiến lược và mưu đồ xích hóa thế giới nhằm việc thôn tính miền Nam đến cùng. Nhiệm vụ tiền phương thuộc phần Hà Nội. Một nhiệm vụ quốc tế, hoàn toàn không phải là một nhiệm vụ dân tộc. Song song, Bắc Kinh giữ nhiệm vụ hậu cần. Đầu não là Mạc Tư Khoa.
Thành ra, giữa Mỹ và Sài Gòn, quan hệ chỉ có tính cách viện trợ phương tiện, ủng hộ tinh thần, để bảo vệ tự do cho một quốc gia nhỏ, trong mức độ tán đồng của dư luận nội bộ Hoa Kỳ. Mà dư luận một nước dân chủ thì lại dễ giao động đến có thể xoay ngược chiều. Việc ủng hộ và viện trợ không thể vô giới hạn, cũng không thể kéo dài mãi được, nếu không đạt kết quả sớm. Hiệp định Ba Lê 1973 là một minh chứng. Chính dư luận Mỹ đã buộc Hoa Thịnh Đốn bỏ rơi Sài Gòn.
Trái ngược hẳn lại, giữa Liên Xô và Hà Nội, quan hệ là chuyện phân chia công tác và nhiệm vụ nhắm một cứu cánh chung: xích hóa thế giới. Hà Nội đứng ở tuyến đầu. Bắc Kinh tuyến hậu. Mạc Tư Khoa là trung tâm chỉ đạo và lãnh đạo. Cho nên không phải là chuyện viện trợ và ủng hộ. Mà là chuyện bành trướng của khối Cộng Sản thế giới.
Nhiệm vụ này trường kỳ. Thế giới từng bước một phải rơi vào tay Mạc Tư Khoa, nhân danh cách mạng vô sản. Không giới hạn phương tiện về công sức, về của cải. Không giới hạn về nhân mạng, về tai ương của chiến tranh. Cho nên không có chuyện Mạc Tư Khoa bỏ rơi Hà Nội vì lẽ này hay lẽ khác, như Hoa Thịnh Đốn đã bỏ rơi Sài Gòn vì quân đội Mỹ thiệt hại nhiều.
Nói cho cùng: Sài Gòn khác. Hoa Thịnh Đốn khác. Nhất đán vì quyền lợi chung có thể đi với nhau, nhưng vẫn là hai. Mạc Tư Khoa và Hà Nội lại chỉ là một. Trong vấn đề Nam Việt Nam.
Như thế, Sài Gòn không phải chỉ đương đầu với Hà Nội, mà thực sự phải đương đầu với toàn khối Cộng Sản, không những với Mạc Tư Khoa mà còn cả với Trung Hoa, với Đông Âu.
- Trong khối các nước dân chủ Tây phương, khái niệm cách mạng thế giới chống tư bản chủ nghĩa đang hồi thời thượng. Giới trí thức, nhất là tả phái, bị mê hoặc theo những giá trị họ ngưỡng mộ là cách mạng, sẽ thay đổi được thế giới, thay đổi được con người, tranh nhau tán dương Cộng Sản, tâng bốc Liên Xô là thiên đường hạ giới. Jean Paul Sartre đã không ngần ngại tuyên bố: “Chỉ có là chó mới chống Cộng”. Vì thế, trong vấn đề Việt Nam, họ luôn luôn về hùa với Hà Nội. Solzhenitsyne chưa sang Tây Âu, ảnh hưởng của họ có tính cách thời thượng, làm thiệt hại nhiều cho miền Nam khi muốn vận động dư luận quốc tế, vận động ngoại giao, để bênh vực cái thế của mình.
Đến cả tướng De Gaulle, trong tuyên ngôn ở Nam Vang của ông, trên đường công du thuộc địa Nouvelle Calédonie, lên án Mỹ can thiệp vào Việt Nam, cũng đã có một ảnh hưởng thật tai hại cho Sài Gòn. Tuyên ngôn của ông đã được xem là một trong các yếu tố đưa đến thất bại của Hoa Kỳ ở miền Nam.
- Các nước Đông Nam Á chưa đạt đến mức phát triển khả quan, nên tổ chức ASEAN chưa hình thành được như hiện nay để có một tiếng nói chung bênh vực Sài Gòn, mà thế giới không thể không chú ý đến được.
- Các nước trong thế giới đệ tam, tuy gọi là trung lập nhưng lại thiên Hà Nội vì muốn gần Liên Xô.
- Ông Diệm thù người Pháp nên không biết lợi dụng việc họ có mặt và ảnh hưởng ở miền Nam, như quân đội Nhật đã làm từ 1941 đến 1945, như ông Hồ Chí Minh đã làm từ 1945 đến 1946.
B. Nội Bộ:
- Tội tổ tông của chế độ Ngô Đình Diệm: Miền Nam chỉ là đất Nam kỳ mở rộng, ông Diệm không phải gốc Nam kỳ và người Nam kỳ không biết ông Diệm mà chỉ nghe đồn về ông mà thôi.
- Mặt tiêu cực trong con người ông Diệm.
1. Thiếu tầm vóc:
Không có đủ tầm vóc một lãnh tụ quốc gia, một chính khách quốc tế. Vì học thức giới hạn, kiến thức thiếu sót, nên không am hiểu đến nơi các biến chuyển lớn trong thế giới, sau thế chiến thứ hai; không nhìn rõ được các vấn đề đất nước, trong thời điểm thiếu ổn định về mọi mặt sinh hoạt xã hội lúc bấy giờ, khi hòa bình trở về và đất nước qua phân. Thành ra không phân biệt được vấn đề chính, vấn đề phụ, và định sai thứ tự ưu tiên các công việc phải làm.
2. Nhân sinh quan hẹp hòi:
Ông Diệm trọng đạo đức, thuần thành về tín ngưỡng. Đau đáu lo giữ mình đến nỗi quên người, nên sợ kẻ khác làm hỏng việc mình. Thành ra không giám tin ai và thường ngờ vực tất cả, hóa ra người lãnh đạo mà rất quả giao. Lẫn lộn tốt, xấu, theo đạo đức bình thường, với điều hay, dở, trong hành động nhà nước. Cuối cùng đi đến độc tôn, độc đoán, mình cho là phải mình cho là trái đều là phải, là trái, không ai cãi được. Nên không chịu nổi ai nói khác mình, không chấp nhận đối lập.
3. Không dám tin người:
Thung dung được với người thân tín sẵn, mà lúng túng với người chưa quen. Thành ra chỉ biết có anh em, thân quyến trong gia đình, chỉ gần tay chân bộ hạ. Khi lên cầm quyền, trong vấn đề dùng người, chỉ chọn kẻ chịu làm tay sai, không chọn người cộng tác ngang hàng.
4. Quan liêu gia đình:
Gia đình và thủ túc nhiều tham vọng quyền lực, quyền lợi. Từ Trung, từ Bắc vào, làm thêm nặng cái tội tổ tông của chính quyền Diệm.
5. Xung khắc về bản chất giữa ông Diệm và dân Nam kỳ:
Nam kỳ dưới chế độ thuộc địa trực trị có luật pháp rõ ràng, nên được đảm bảo ít nhiều tự do. Nay kháng chiến thành công, dân tại chỗ đòi dân chủ, không sẵn sàng chấp nhận một nhà nước câu thúc quá đáng. Ông Diệm, xuất thân là đại thần triều đình Huế cũ, cá tính con người ông không để cho ông sử dụng quyền bính cách khác hơn là quan liêu, lệnh từ trên ban xuống, không có đối thoại, trao đổi với ai.
Người Nam kỳ tính phóng khoáng, cởi mở, cả tin, không có tham vọng quyền bính, không bận tâm chính trị mấy. Vì thế, mà sau kinh nghiệm kháng chiến, họ không thích Cộng Sản, nhưng đã từng tranh đấu với nhau, họ không chống Cộng. Ông Diệm và tả hữu tay chân lấy việc chống Cộng làm quốc sách, chê người Nam kỳ là ấu trĩ.
6. Không biết sử dụng thành quả kháng chiến Dân Tộc:
Thành quả kháng chiến là niềm tự hào của dân Nam kỳ. Nhưng lại là vết hằn trong tâm thức ông Diệm. Quần chúng Nam kỳ kháng chiến theo truyền thống Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân v.v... để giải phóng đất nước. Không phải để theo Mác, theo Lênin. Họ xem kẻ thù chính là thực dân Pháp.
7. Ông Diệm không tham dự kháng chiến.
Đứng ngoài vòng một thời, và một thời gian sau đó xuất ngoại sang sống ở Hoa Kỳ. Sự kiện lịch sử này có thể giải thích. Kháng chiến do người Cộng Sản lãnh đạo. Quần chúng nhằm mục đích ngắn hạn tranh thủ độc lập, không cần nhìn xa hơn để ngờ vực, Cộng Sản mưu đồ cách mạng vô sản thế giới, không cần chú ý đến mục đích dài hạn của đảng Cộng Sản. Ông Diệm chống Cộng, kẻ thù chính của dân tộc, trong con mắt ông, là Cộng Sản. Ông không thể tham dự kháng chiến, không thể tranh đấu dành độc lập chung với Cộng Sản. Một phần vì ông không chấp nhận lãnh đạo Cộng Sản trong kháng chiến. Phần khác, ông muốn tranh đấu giành độc lập theo một đường lối khác. Thái độ ông khả kính. Đường lối ông có giá trị. Nehru ở Ấn Độ, Soekarno ở Nam Dương chứng minh nhận xét này. Và có lẽ họ đã mở đường cho ông Diệm. Cho nên, nhất thời, ông không thể để cho phong trào quần chúng trong nước lôi cuốn vào cuộc kháng chiến mà ông biết về sau tất nhiên bị Cộng Sản lợi dụng. Lịch sử sẽ ghi nhận định của ông là đúng.
Kháng chiến thành công. Pháp phải từ bỏ quyền bá chủ Việt Nam và ông Diệm được đưa lên cầm quyền trên nửa phần phía Nam đất nước. Trên đó Nam kỳ là địa cư chính và trọng yếu nhất. Đây là cớ sự tạo một mặc cảm thật tế nhị, thật phức tạp, trong tâm thức con người Ngô Đình Diệm.
Nam kỳ kháng chiến đã phần nào ngược với chủ trương chống Cộng của ông. Nên ông mặc cảm như phong trào này cũng chống ông. Nay kháng chiến thành công trên mảnh đất Nam kỳ ông trực tiếp tiếp thu kết quả. Trong tiềm thức ông, ông thấy có chi đó bất ổn. Tâm lý tự xem mình là người phi thường khiến ông hóa giải điều bất ổn này một cách sai lạc. Đến chỗ đố kỵ người Nam kỳ.
8. Mặc cảm đố kỵ người Nam kỳ.
Những người từ nay bị đặt dưới quyền ông, ông Diệm muốn thoát ngoài tình trạng này bằng cách đặt mình lên trên lẽ thường của mọi người. Cách xử sự này hợp với bản tính tự cao tự đại của con người ông. Đưa ông đến việc cho mình là người mang một sứ mệnh thần thánh cứu dân, cứu nước, không cần phải theo sát tâm lý, nguyện vọng “thiển cận” của nhân dân. Nhất là nhân dân Nam kỳ, đương nhiên thuộc trách nhiệm lãnh đạo của ông.
Tâm lý tự tôn để tự ổn này được gia đình ông, tay chân bộ hạ ông cổ súy, phụ họa vào. Cớ sự này đã tạo nên cho ông, cho tả hữu quanh ông, một tâm trạng kẻ cả mà người miền Nam từng biết rõ, và đã tạo ảnh hưởng nặng nề cho tư thế lãnh đạo của ông.
Tâm trạng kẻ cả của ông Diệm, của gia đình và tả hữu ông, đối với dân Nam kỳ, có thể tóm tắt trên vài điểm chính:
- Người Nam kỳ thiếu ý thức chính trị (hàm nghĩa: ồ ạt chạy theo Cộng Sản để kháng chiến).
- Người Nam kỳ ấu trĩ về văn hóa. Vụ tờ báo “Tự Do” của Phạm Việt Tuyền nêu nhận định là “Nam kỳ không có văn chương” đã một thời khiến dân Nam kỳ phẫn nộ.
- Người Nam kỳ đạo đức thấp. Ông Diệm và thân quyến đã võ đoán như vậy khi thấy xã hội Nam kỳ, dù muốn dù không, cũng chịu ảnh hưởng sinh hoạt của người Tây phương nhiều hơn đồng bào các nơi khác.
- Người Nam kỳ phản quốc. Hàm ý họ hết theo Pháp thì theo Cộng. Ngô Đình Nhu đã nói lên lời: “les Cochinchinois sont des traitres” (dân Nam kỳ là phường phản bội) với người viết, ngay tại sảnh đường dinh Độc Lập. Và cũng chính Nhu đã muốn dựng lên Vụ án Tôn Thọ Tường, giao cho một Hội Đồng Nhân Sĩ tay chân tổ chức. Một người hiểu chuyện, đã bảo Nhu: “Người Nam kỳ từng cùng Phan Văn Trị lên án Tôn Thọ Tường. Tường làm việc cho thực dân 60 năm trước Ngô Đình Diệm là phản quốc, vậy Diệm làm việc cho thực dân 60 năm sau Tường, lại không phải là phản quốc hay sao?” Việc làm lố bịch này phải dẹp sớm, nên ít người biết.
NƯỚC BẠI THEO MỘT NGƯỜI
Chế độ miền Nam do ông Diệm thiết lập, phải đương đầu với các lẽ thuận, lẽ nghịch, được nêu ở phần trên. Và tùy thuộc vào các ưu điểm, khuyểt điểm của con người Ngô Đình Diệm.
Những công trình nhân sinh cỡ lớn không thể nhất thiết đòi hỏi đủ điều kiện thuận lợi để tiến hành. Ông Diệm đi vào sự nghiệp ông từng mong mỏi thực hiện, trong những điều kiện nói chung khá tốt. Tương lai thành hay bại tùy thuộc ông có biết khai triển đúng mức hay không các lẽ thuận, giải tỏa các lẽ nghịch. Tùy thuộc ông biết lợi dụng các ưu điểm của mình, biết khắc phục các khuyết điểm của mình đến một mức hiệu quả.
Ngô Đình Diệm có đủ lẽ để thành công. Tiếc là ông đã thất bại. Đưa đến thất bại chung của miền Nam. Rồi của cả dân tộc.
Ông Diệm đứng ra thành lập chế độ miền Nam với các lẽ thuận, nghịch gắn liền vào đó, như đã phân tích trong bài trước. Việc thành hay bại tùy vào tâm mức lãnh đạo của ông, biết hay không biết khai thác lẽ thuận, khắc phục lẽ nghịch, tiên quyết không nhất định là thế nào được.
Thời thế có thể tạo anh hùng. Nhưng người lãnh đạo giỏi đạp lên thời thế mà tiến thành anh hùng. Kinh nghiệm đã qua cho thấy ông Diệm không thuộc hạng lãnh đạo ấy. Không phải là một “homme d’Etat”.
Từ bài này, người viết sử dụng tài liệu một người bạn thân, vượt biển, gửi lại vì không mang theo được. Tài liệu ghi nhận những cuộc thảo luận giữa anh ta và anh em ông Diệm, từ sau 1945 cho đến cuối năm 1954, khi họ bàn về đường lối nên theo, và chính sách phải có, khi ông Diệm nắm được quyền hành.
Người viết giữ việc trình bày cho được mạch lạc, không can thiệp vào nội dung tài liệu. Để bạn đọc có thể thấy có người đã đề nghị với ông Diệm một đường lối lãnh đạo, một chính sách cầm quyền khác những gì anh em ông đã làm, nhưng lại đúng theo những gì ông Diệm đã tiên tri và tiên liệu sẽ làm.
….
BA ĐIỀU BẤT HẠNH CHO ĐẠI CUỘC VIỆT NAM
1. Bất hạnh trong việc giải phóng đất nước khỏi bàn tay ngoại bang.
Ông Diệm ở hải ngoại năm năm. Kéo dài đến bốn năm trên đất Mỹ, sau đó mới sang Âu Châu, ở Pháp và ở Bỉ. Ngoài ra, ông không đặt chân lên một nước nào khác. Nhất là một nước Á Châu.
Ở Hoa Kỳ, ông quanh quẩn trong bóng tối thanh tú của các nhà dòng Công giáo. Sang Pháp, sang Bỉ cũng thế. Ông không dấn thân hoạt động đánh vào dư luận các nơi, không liên lạc, giao thiệp với các chính khách quốc tế, không gần gũi vận động kiều bào. Ông dành công việc chính ông phải làm lấy cho các bào đệ Nhu, Luyện của ông. Họa hoằn, nhờ có nhà dòng móc nối, ông giao thiệp với một hai nhân vật Mỹ rất hiếm hoi, cỡ Hồng Y Spellman, cỡ Thượng nghị sĩ Mansfield.
Tên tuổi ông, báo chí quốc tế không thấy nhắc đến. Tiếng tăm ông chẳng vang dội một nơi nào. Ông không hề xuất hiện trước dư luận thế giới. Như Gandhi, Nehru, Sukarno đã từng làm, khi họ còn phải tranh đấu cho độc lập của xứ sở họ.
Thành ra khi người Mỹ dùng áp lực đưa ông lên cầm quyền, thế giới không biết ông là ai, không thấy ông có tầm vóc nào đáng kể, nên xem ông chỉ là một lá bài của Hoa Kỳ. Người trong nước, nhất là dân Nam kỳ, trừ những người hiếm hoi biết ông trước kia là một vị Thượng thư trẻ tuổi của triều đình Huế, chống Pháp mà từ chức, đa số không biết ông là ai, chưa hề nghe nói đến ông. Chỉ thấy có người Mỹ đưa ông lên.
Không trách được người trong nước, người nước ngoài, xem ông là “một con cờ của Mỹ”. Điều ông không hề muốn, nhưng lại là lỗi của ông. Đúng hơn, điều biểu thị sự bất tài của ông.
Và nhất là điều bất hạnh cho đại cuộc miền Nam. Đại cuộc lúc này là việc giải phóng đất nước khỏi tay ngoại bang. Nhất đán xuất hiện là một “lá bài Mỹ”, đè nặng lên tương lai của chế độ. Tuy vậy, điều bất hạnh này chưa có ảnh hưởng ngay. Bởi lẽ, khi đã chia cắt, miền Nam thấy cần có một cường quốc giúp đỡ, nhất là Hoa Kỳ, để quân bình với miền Bắc, có Liên Xô và Trung Quốc đứng sau. Miền Nam không thể tồn tại được, nếu đứng lẻ. Thành ra, dù sao, ông Diệm cũng biểu hiện cho một hi vọng. Thêm vào đó, ông không có tai tiếng chi, nhờ đứng ngoài thời cuộc từ trước. Dư luận miền Nam mặc nhiên chấp nhận ông. Chỉ mong ông đừng để miền Nam trở thành phụ dung của Mỹ, mà chỉ là thân Mỹ.
2. Bất hạnh thiếu tài lương đống
Ông Diệm biết mình có thể lên cầm quyền, ba tháng trước. Ông lên cầm quyền ngày 7-7-54. Ngày 21-7-54 Hội nghị Genève kết thúc, chia hai Việt Nam , và giao cho ông miền Nam.
Trong thời gian 4 tháng thật quyết định ấy, ông vẫn ù lì như suốt 4 năm ở Mỹ trước kia. Ông không đích thân hoạt động. Mọi việc giao cho hai ông em, Nhu và Luyện, làm thay. Trong tinh thần chung của gia đình này, họ chỉ liên lạc ngầm, hoạt động trong bóng tối. Nên chỉ tiếp xúc với một số người thật hạn hẹp.
Không thấy tấn công vào dư luận thế giới, vào các cơ quan truyền thông quốc tế, buộc họ phải nói đến ông, đến giải pháp ông đề ra, và sẽ thực hiện. Không thấy công khai nêu lên một đường lối, một chính sách nào. Để cho thế giới, thông qua báo chí, biết đến một giải pháp Ngô Đình Diệm. Cũng không thấy vận động kiều bào. Để làm sáng tỏ tư cách một lãnh tụ quốc gia có hậu thuẫn, có lập trường, có đường lối, có khả năng, hòng tranh thủ cảm tình kiều bào đang bị Cộng Sản ve vãn. Hình như Việt kiều phải tự mình nhận ra “sứ mệnh cứu nước của Cụ”. Bằng không, họ chỉ là những người thân Cộng, không cần mở mắt cho họ làm gì. Cho nên, quanh quẩn chỉ tập họp một số kiều bào Công giáo, một số ít “học trò cũ của Đức Cha”4 để chọn sẵn một mớ tay chân về sau.
Ngay chính trong nước cũng thế. Phong trào “Đoàn Kết” Ngô Đình Nhu dựng lên, quanh quẩn ở Sài Gòn, tập họp tay chân đã có rồi, với một số thân hữu cũ trong nhóm “Tinh Thần”, hờm sẵn như chờ chia một món gia tài. Còn quần chúng trong nước, ở Đồng Nai, Bến Nghé, Cửu Long hay ở Thăng Long, ở Thuận Hóa, phong trào không thấy “đoàn kết” với ai khác, và cũng không mấy người nghe nói đến.
Hoạt động của ba anh em ông Diệm, ba tháng trước ngày cầm quyền, là cố gắng tìm mọi cách gây tín nhiệm với Bảo Đại, để ông này chịu ký Dụ trao quyền chính cho. Kể cả việc tuyên thệ trung thành này nọ với Bảo Đại. Kể cả sai Ngô Đình Luyện đi Cannes biếu Bảo Đại một chiếc ô-tô sang trọng. Trong lúc Pháp cầu Hoa Kỳ, Mỹ muốn là trời muốn. Bảo Đại không muốn cũng không xong.
Khi lịch sử chận đứng kim đồng hồ
Rồi ngay cả thời gian lên cầm quyền ngày 7 tháng 7, cho đến lúc Hội nghị Genève kết thúc ngày 21-7, ông Diệm nhất thiết không hề đích thân xuất hiện ở hội trường Genève, không muốn tham dự thảo luận, không thấy phải cầm đầu đoàn Việt Nam quốc gia. Mà gởi đến đó ông Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ về phía Việt Nam.
Ba mươi ngày cuối cùng của Hội nghị, đủ cho cả thế giới và riêng nước Pháp thấy thế nào là một “homme d’Etat”5. Trái lại, lịch sử cận đại đã ghi thật đậm nét cho Mendès France.
Ông Mendès France đã dọa bỏ cuộc, nếu không kết thúc được hội nghị vào đúng 24 giờ ngày 21-7-54. Nhưng một giờ trước khi các lãnh tụ thế giới tham dự hội nghị ký tên vào Hiệp định, cho kịp hạn định ông Mendès France đưa ra. Phái đoàn Cambốt đã nhân hạn định ấy mà đưa ra một đòi hỏi mới, bênh vực cho quyền lợi nước mình. Để tránh việc Thủ tướng Pháp bỏ cuộc, Molotov và Eden đồng Chủ tịch Hội nghị, không những vận động các phái đoàn thỏa mãn yêu sách bắt chẹt của Cambốt, mà còn phải kéo lui kim đồng hồ cho đừng đổ vội 12 tiếng khuya 21-7, hòng có đủ thì giờ chữa lại bản thảo hiệp định kẻo Mendès France rút lui.
Từ ông Diệm lên cầm quyền đến Hội nghị chấm dứt có hơn 3 tuần lễ. Ông không thấy (hay ông ngại) cơ hội để ông chen vai với các lãnh tụ quốc tế khác. Cơ hội để ông đích thân tham dự đến ngay hội trường mở một cuộc tấn công ngoại giao, bênh vực quyền lợi đất nước, trình bày lập trường quốc gia. Cho mọi người thấy được tầm vóc quốc tế của ông, nếu quả ông có, ngang với Mendès France, một Chu Ân Lai, một Eden, một Molotov, một Foster Dulles. Như Phạm Văn Đồng. Để các cường quốc biết đến ông là một sức mạnh khả tín. Mà ủng hộ miền Nam, nếu họ muốn. Nếu họ thù nghịch, họ biết là sẽ phải đối đầu với một sức mạnh.
Ông không chịu tham dự hội nghị. Đây là bất hạnh thứ hai của đại cuộc miền Nam. Vì ở hội nghị, người ta nhìn về phía Việt Nam, chỉ thấy có Phạm Văn Đồng. Chỉ biết có phe Cộng Sản. Chỉ biết có Hà Nội. Sài Gòn là một bóng mờ, Ngô Đình Diệm là ai, người ta có nghe nói tên, nhưng không ai nhắc đến, trong đám các lãnh tụ tham dự hội nghị... Vì thế, dư luận các nơi cho rằng miền Nam chỉ là một bóng ma làm cớ để chấm dứt chiến tranh, không thể đứng vững được. Nhiều lắm là hai năm, thời hạn định sẵn để trưng cầu dân ý mà thống nhất về tay Hà Nội.
3. Bất hạnh coi thường dân miền Nam, và thành phần kháng chiến dân tộc.
Ông Diệm lên cầm quyền trong hoàn cảnh đúng như ông tiên tri từ 1948: Ông lãnh đạo miền Nam, mà đất Nam kỳ là trọng tâm. Mỹ ủng hộ ông, hứa viện trợ Sài Gòn, tức phải dính líu với miền Nam.
Nói cách khác, các điều kiện ông tiên liệu, ông muốn có, để tranh thủ với Cộng Sản, nay ông hội đủ. Và con đường ông phải theo có thể phác họa như sau:
1. Lấy đất Nam kỳ làm gốc cho chế độ. Như Nguyễn Ánh đã làm hồi thế kỷ XVIII, để tranh thủ với Tây Sơn.
2. Dùng nhân dân Nam kỳ làm nguyên tố củng cố, xây dựng miền Nam. Dựa trên quần chúng Nam kỳ làm thế ỷ dốc, để bảo vệ miền Nam, giữ cho Cộng Sản miền Bắc không huy động được dễ dàng các thành phần nằm vùng mà tuyên truyền và quấy phá. Đồng thời, để phát triển kinh tế, xã hội, với nhân lực, tài lực Nam kỳ.
3. Vinh danh thành tích kháng chiến yêu nước. Vạch rõ mưu đồ Cộng Sản lợi dụng nhu cầu giải phóng của đồng bào, để thực hiện cách mạng vô sản.
Đề cao anh em kháng chiến quốc gia. Xem chủ quyền miền Nam là thành quả kháng chiến. Đúng theo tinh thần Tuyên ngôn 1951 nói trên.
Kết hợp các thành phần kháng chiến, phi kháng chiến vì hiểu thấu mưu đồ Cộng Sản, hoặc vì một lý do khác, để tổ chức quyền chính miền Nam.
Đó là con đường kết hợp nhân dân, kết hợp kháng chiến vào chính quyền. Để thu hút vào chế độ các thành phần quần chúng nông thôn, đã từng là cơ sở trung kiên, suốt chín năm qua, của tổ chức kháng chiến chống Pháp. Sự kết hợp này có thực sự và chặt chẽ, sẽ đảm bảo cho tương lai miền Nam.
Tất nhiên phải tùy thuộc vào một chính sách thể hiện trung thành những gì ông Diệm đã tiên tri từ 1948, thực hiện lời ông đã hứa trong Tuyên ngôn năm 1951:
Dùng hai “Vú sữa”: quần chúng Nam kỳ và thành phần kháng chiến quốc gia mà nuôi dưỡng chế độ Sài Gòn.
Chính sách ấy, ngoài chuyện mình trung thành với chính mình, còn là một chọn lựa sáng suốt, vì nông dân Nam kỳ không chấp nhận, thì chế độ tồn tại với ai và thế nào được. Trừ phi bắt chước Cộng Sản, dùng các biện pháp độc tài và đàn áp. Sáng suốt vì có nhìn nhận chủ quyền thu hồi ở miền Nam là sự nghiệp kháng chiến quốc gia, mới không để Hà Nội độc chiếm thành quả ấy về phần Cộng Sản trên cả nước.
Can đảm vì đây là một chọn lựa nguy hiểm. Nguy cơ tiềm tàng trong một chính sách như vậy thật lớn, đòi hỏi một khả năng lãnh đạo cao, một lòng tự tin lớn. Đòi hỏi một “homme d’Etat”.
Ông Diệm không có đủ khả năng chính trị và tự tin, thành ra chọn lựa mà ông đã tiên liệu và cho là thiết yếu từ 1948, từ 1951, thì nay, lên cầm quyền, ông sợ là không thiết thực. Nên đứng trên đất Nam kỳ để đối đầu với miền Bắc, ông khoét mất ngay hai cái “Vú sữa” của miền Nam!
Hồ Sỹ Khuê
NGÔ ĐÌNH DIỆM: NƯỚC BẠI THEO MỘT NGƯỜI
Trích
từ “Lịch
trình Hình thành và Giải thể của Mặt Trận Giải Phóng Miền
Nam”
(Văn
Nghệ, USA, 1992)
Hồ
Sỹ Khuê
Saturday, October 26, 2013
TS NGUYỄN PHÚC LIÊN*GÓP Ý VỀ BẠO ĐỘNG VỚI GM. HỢP & TS. A
Chủ đề:
PHÁT HIỆN VÀ VIỄN TƯỢNG BẠO ĐỘNG
CỦA QUẦN CHÚNG NỔI DẬY
Bài 01:
GÓP
Ý VỀ BẠO ĐỘNG
VỚI
GM. HỢP & TS. A
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC
LIÊN, Kinh tế
Geneva, 24.10.2011
Web: http://VietTUDAN.net
Mấy tuần vừa rồi, khi viết về Viễn
Tượng BẠO ĐỘNG của quần chúng Quốc nội NỔI DẬY phải xẩy ra như một định mệnh,
thì một vị Lão thành Cách Mạng từ Paris gọi điện thoại cho chúng tôi để góp ý:
“Công an CSVN đã dùng tiền thuê đám côn đồ
xã hội đen để đánh đập bà con hiền lành đến bể đầu. Tỉ dụ ở những vụ như Thái
Hà trước đây và mới nhất là vụ Mỹ Yên. CSVN dùng tiền Hồ để thuê xã hội đen.
Tại sao từ Hải ngoại, chúng ta không dùng tiền Đô-la để thuê đám xã hội đen
đánh Công an hay con cái Công an. Từ Hải ngoại, dùng tiền Đo-la mà thuê, thì
đám xã hội đen thích Đô la hơn tiền Hồ“.
Trong
lúc những Phong trào đấu tranh tại Quốc nội sôi động, chúng tôi không biết phải
góp ý như thế nào cho thực tiễn để Hải ngoại trợ lực cuộc NỔI DẬY tại Quốc nội,
thì ý kiến của Vị Cách Mạng lão thành từ Paris là một trong những gợi ý khả thi
thực tiễn. Ở thế đấu tranh cam go với một kẻ thù chai lì ương ngạnh khát máu,
thì không những “Răng thay Răng, Mắt thay Mắt“, mà còn “Răng thay Răng, thay
Mắt, cả Mũi, Tai, Họng, Phổi, Phèo… nữa !” thì kẻ thù chai lì điên rồ kia mới
ngại sợ quay về đường thiện. Thực vậy, Hải ngoại đã từ lâu bỏ công sức ra van
lậy những Chính quyền nước ngoài, những Tổ chức quốc tế qua Thỉnh Nguyện Thư về
những vấn đề lùng bùng co dãn như Nhân quyền… để rồi họ cười vào mũi mình rằng
mình không biết tự lực đấu tranh mà chỉ ỷ nại vào sự bố thí can thiệp của nước
ngoài. Thay vì tiêu tiền nướng cho Luật
sư nước ngoài để làm công việc “con kiến mà kiện củ khoai “ tội ác CSVN, thì
hãy dùng tiền đó thuê người đấm thẳng vào mặt đám CSVN chai lì còn tiếp tục gây
tội ác lên Dân Tộc.
Viễn
tượng đấu tranh tại Quốc nội là viễn tượng quần chúng NỔI DẬY BẠO ĐỘNG. Bạo
Động chỉ là hiện tượng tức nước vỡ bờ từ những đàn áp của CSVN chất chồng lên
đầu dân, nghĩa là trách nhiệm của BẠO ĐỘNG quần chúng là do sự đàn áp của CSVN
chất chồng lên đầu quần chúng.
Trong
lúc con đường đấu tranh của quần chúng Quốc nội và Hải ngoại trợ lực đi theo
hướng tất yếu phải nổi dậy BẠO ĐỘNG như trên, thì có một số Lãnh đạo Phong trào
Xã Hội Dân sự hay Xã Hội Tôn giáo lại tuyên bố những chủ trương mang tính cách
“cản mũi kỳ đà“ cái hùng khí NỔI DẬY của quần chúng. Chúng tôi muốn kể ra
trường hợp hai vị: (i) Tiến sĩ NGUYỄN QUANG A, một trong những Lãnh đạo Xã Hội
Dân sự; (ii) Giám mục NGUYỄN THÁI HỢP, một trong những Lãnh đạo Xã Hội Tôn
giáo. Hai vị đã nói gì mà chúng tôi coi như mang tính cách “cản mũi kỳ đà“ ý
chí đấu tranh NỔI DẬY của quần chúng lúc này.
Tiến sĩ NGUYỄN QUANG A,
một trong những Lãnh đạo Xã Hội Dân sự
Ts.NGUYỄN
QUANG A, mà chúng tôi kể như một trong những Lãnh đạo Phong trào Trí thức quốc
nội nổi dậy, nhất nữa là trong Phong trào mới đây gọi là Xã Hội Dân sự, đã viết
bài “KHÔNG ĐƯỢC KÍCH ĐỘNG BẠO LỰC “. Tác giả NGUYỄN NGỌC GIÀ đã viết một bài
phản bác, trong đó Tác giả đã khuyến cáo đích danh Ts.NGUYỄN QUANG A với những
lời lẽ kết tội như sau:
“Rất lâu, từ
trước khi bà Hằng bị ông A cho là "kích động bạo lực", nhiều mạng
người đã chết hay bị thương tật, tù tội oan khuất bằng cách này hay cách khác,
dù gián tiếp hay trực tiếp do giới cầm quyền Việt Nam gây ra như: Bà Bùi Thị
Nhung chết ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng, vụ gia đình Đoàn Văn Vươn, vụ nông dân
Văn Giang chống cướp đất, vụ đặt mìn tại nhà giám đốc công an Khánh Hòa của ông
Nguyễn Viết Trương, vụ bà Đặng Thị Kim Liêng (mẹ cô Tạ Phong Tần) tự thiêu, vụ
người đàn ông tự thiêu cháy đen tại Lâm Đồng v.v... cùng nhiều vụ chết người do
phía công an gây ra. Thử hỏi ông Nguyễn Quang A, những vụ chết người này do ai
"kích động bạo lực"?...
“Đó lại chỉ ra một việc, lâu nay một số vị "có ăn có
học" cứ nhìn một số người dân hay một vài nhóm bạn hữu như là một tổ chức
chính quy có cương lĩnh, có điều lệ, có tài lực, vật lực, nhân lực đủ đầy. Rất
lạ với những người tưởng chừng họ hiểu biết nhiều hơn người dân đen tưởng họ
có.
“Người dân ngày nay không ngu như ông Nguyễn Quang A
tưởng. Hãy nhìn thực tế mà luận, đừng ngồi trong vỏ ốc, tháp ngà mà suy, hỡi
những "trí thức sa lông"! Hãy hỏi thử gia đình Đoàn Văn Vươn, Lê Thị
Ngọc Đa, Trần Thị Hài, Nguyễn Viết Trương, dân Văn Giang, Dương Nội, Thái Bình,
Long An, Đà Nẵng v.v... xem những ai "xúi giục" hay "kích
động" họ đứng lên chống lại bọn tham quan? Hay vì lợi ích của họ bị xâm
phạm bất hợp pháp và bất hợp lý, họ từ những người dân oan lẻ tẻ, tự động đoàn
kết lại để lập hội cùng đấu tranh? Và như thế nó là cái án tù 3 năm rưỡi mà bà
Lê Thị Ngọc Đa phải nhận lãnh! [8] Rõ ràng, dân chẳng ngu chút nào!”
Ngày
10.10.2013, chúng tôi cũng đã viết một bài với đầu đề TS NGUYỄN QUANG A CHỒN
LÙI CẢN NGĂN BẠO ĐỘNG?, trong đó chúng tôi nhắc khéo nhà Trí thức Lãnh đạo Xã
Hội Dân sự rằng:
“Khi đọc nội
dung những lời Tuyên bố về Quyền Xã Hội Dân Sự, nghĩa là một Phong trào đấu
tranh bằng khai triển Xã Hội Dân Sự với lý luận để từ đó đi đến cải tổ Thể chế
Chính trị hiện hành. Theo như đường hướng đấu tranh Dân Sự, thì việc đấu tranh
sẽ dài và bằng lý luận, viết lách và kiến nghị.
Điều mà chúng tôi khá ngạc nhiên về Phong trào Trí thức
này là những Trí thức đã phải la lớn lên để THANH MINH THANH NGA cho CSVN biết
là họ đấu tranh trong ÔN HÒA để cải tổ Thể chế Chính trị. Lời thanh minh thanh
nga này cho CSVN đi guốc trong bụng sợ sệt của mình rồi. Khi đấu tranh, chỉ cần
nói cái Ý chí, còn việc ÔN HÒA, BẤT BẠO ĐỘNG không cần la lớn để thanh minh
thanh nga tỏ ra sự sợ sệt của mình.
Xin nhắc lại cho những Trí thức biết là Thánh GANDHI đấu
tranh bất bạo động, nhưng không cần tuyên bố. Nước Anh phải nhìn qua việc bất bạo động ấy một Lực
Lượng BẠO ĐỘNG của khối người Aán Độ, thì mới trả Độc Lập cho nước này.
Những lời tuyên bố thanh minh thanh nga ÔN HÒA, BẤT BẠO
ĐỘNG, chính là thái độ vừa đấu tranh vừa chắp tay van lậy CSVN tha cho mình, đó
là tranh đấu CHỒN LÙI hay CHUỒN LÙI vậy.
Ts NGUYỄN QUANG A cũng trong Phong trào 130 Trí thức và
còn thanh minh thanh nga bằng một bài viết “KHÔNG ĐƯỢC KÍCH ĐỘNG BẠO LỰC “ để
khuyên hoặc ra lệnh cho quần chúng đang NỔI DẬY với tất cả viễn tượng BẠO ĐỘNG.
Bộ CSVN là cha mẹ, anh em bà con thân của Tiến sĩ hay sao mà Tiến sĩ ra lệnh cho
quần chúng NỔI DẬY không được mang đòn
càn, đòn sóc, búa tạ đập bể đầu những tên đầu trâu mặt ngựa đến cướp của giết
người.”
Giám mục NGUYỄN THÁI HỢP,
một trong những Lãnh đạo Xã Hội Tôn giáo
Chúng
tôi biết Giám mục NGUYỄN THÁI HỢP đã từ lâu vào thế hệ 1970 khi chúng tôi cùng
học chung một Đại Học tại Thụy sĩ. Khi Linh mục NGUYỄN THÁI HỢP làm Giám mục
của Giáo phận Vinh, nơi có 500’000 Cao Đình Thuyên, chúng tôi đã ngẫm nghĩ
trong đầu: “Không hiểu Giám mục HỢP lãnh đạo 500’000 Cao Đình Thuyên hay 500’000
Cao Đình Thuyên sẽ đẩy Giám mục Hợp phải đi theo ý chí đấu tranh của Xã Hội Tôn
giáo Vinh “.
Vụ việc
xẩy ra đẫm máu tại Mỹ Yên. Rồi Báo, Đài CSVN
còn vu khống mạ lỵ Giáo dân Mỹ Yên và chính Gm.NGUYỄN THÁI HỢP nữa.
Chúng
tôi khá ngạc nhiên đọc Bản Tin của Ts.LÊ ĐÌNH THÔNG viết đi từ Paris ngày
20.10.2013 về cuộc Thảo Luận của Gm.NGUYỄN THÁI HỢP tại Paris:
“Trong phần trao đổi, Đức Giám mục giáo phận
Vinh cho biết sau thời gian biến động, đây là thời điểm để tái lập thế quân
bình. Các môn đệ của Chúa Giêsu làm chứng cho sứ điệp tình yêu : Ngài hy sinh
bản thân để cứu độ nhân loại. Đức Cha Nguyễn Thái Hợp nói đến sự cần thiết phải
thiết
lập đối thoại, nhưng đối thoại không có nghĩa là thỏa hiệp, là đi ngược với chân lý.
Ngài cho biết sự yểm trợ của cộng đồng quốc tế qua lời cầu nguyện và trong lãnh
vực truyền thông sẽ được Thiên Chúa nhậm lời.
Nhắc lại những
ngày biến động vừa qua ở Mỹ Yên, ngài khuyên nhủ hãy lấy ân báo oán,
thay cho lề thói của thế nhân : lấy oán báo oán.”
Trong
lúc khí thế đấu tranh cho CÔNG LÝ của 5000’000 Cao Đình Thuyên đang nổi lên rất
chính đáng, thì Gm NGUYỄN THÁI HỢP lại tuyên bố thiết lập ĐỐI THOẠI, rồi lấy ân
báo oán như một gáo nước lạnh tạt vào mặt Giáo dân 500’000 Cao Đình Thuyên của
Giáo phận Vinh, một địa danh kiên cường của NỔI DẬY. Giả thử Gm NGUYỄN THÁI HỢP
có thiện cảm với CSVN đi nữa, thì cũng không nên tuyên bố như trên như cản mũi
kỳ đà cuộc đấu tranh chính đáng của Giáo dân. Chắc Gm.NGUYỄN THÁI HỢP còn nhớ:
=> Dân Tộc
Việt Nam bao nhiêu chục năm trường đã ao ước ĐỐI THOẠI với CSVN mà kết quả là
CSVN đàn áp chính những người muốn đối thoại.
=> Trong
thời Giáo dân Miền Bắc đứng lên đấu tranh cho vụ việc Tòa Khâm Sứ, Thái Hà,
Đồng Chiêm…, thì một số Giám mục cũng nêu ra chiêu bài ĐỐI THOẠI để rồi vị Tổng
Giám Mục NGÔ QUANG KIỆT anh dũng, phải ra đi và Phong trào Giáo dân đấu tranh
cho CÔNG LÝ dần dần xẹp xuống.
=> Cuộc
CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP 2013 là một việc đấu tranh ôn hòa nhất, là việc ĐỐI THOẠI
lớn lao mà cả Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đồng ký tên trong một Bản Gợi Ý sửa
đổi Hiến Pháp. CSVN đã đối thoại gì hay đã quẳng Bản Gợi Ý đó vào sọt rác.
Quần
chúng đã và đang tiến theo Viễn tượng NỔI DẬY BẠO ĐỘNG. Đó là hiện tượng tức
nước vỡ bờ. Xã Hội Dân Sự cần những Trí thức đóng góp trong việc Tổ chức. Nhưng
nếu Trí thức vì sợ hãi hoặc vì địa vị mà mưu mô đưa ra những ý kiến cản mũi kỳ
đà, thì dòng nước quần chúng sẽ cuốn Trí thức theo và chôn vùi luôn. Cũng vậy,
nếu trong lãnh vực Tín lý Tôn gáo, vị Lãnh đạo có uy quyền trong việc nhắc nhở
những Tín điều phải tin để Tín hữu vâng theo. Nhưng trong lãnh vực Xã Hội Tôn
Giáo, Giáo dân có những vấn đề dân sự mà vị Lãnh đạo Tôn giáo phải tôn trọng,
nếu không thì “Thượng vô lý thì Hạ bất
tuân !”.
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 24.10.2011
Web: http://VietTUDAN.net
TS. NGUYỄN PHÚC LIÊN * VAI TRÒ DOLLAR QUAN TRỌNG
VAI
TRÒ DOLLAR QUAN TRỌNG
DO
ĐỒNG THUẬN QUỐC TẾ
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC
LIÊN, Kinh tế
Geneva, 20.10.2011. Cập nhật 20.10.2013
Web: http://VietTUDAN.net
Cập nhật
20.10.2013:
Đúng ngày 20.10.2011, nghĩa là cách đây đúng 2 năm, chúng tôi đã viết một
bài về vai trò Quốc tế của đồng Đo-la nhân khi có ý kiến muốn thay thế nó.
Mới đây, nhân vụ Shutdown và Trần Nợ Hoa kỳ, Trung quốc lại lên giọng vô
lối muốn thay thế đồng Đo-la. Vì vậy, chúng tôi cho đăng lại bài viết này.
Trước đây, TT.De GAULLES cũng đã công kích đồng Đo-la và bị TT.NIXON mắng
cho:
“…… TT. NIXON
đã trả lời TT.De GAULLES bằng một câu bất hủ: «Đồng Dollar là
Tiền của nước Mỹ, còn nếu đồng Tiền của nước ông có những vấn đề, thì đó là
những vấn đề của nước ông« !”
Từ khi cuộc Khủng hoảng Tài chánh/
Kinh tế Thế giới năm 2008 lan tràn mà nguồn gốc là Tín dụng rởm Địa ốc
(Sub-Prime Mortgage Credit) từ Hoa kỳ, một số Chính quyền đã đặt ra vấn đề Ngai
vàng Độc tôn Dollar từ Hội Nghị Bretton Woods 1944 đến nay. Thậm chí Trung quốc
muốn thay thế đồng Dollar bằng một đồng Tiền quốc tế nào đó phát xuất từ
IMF/FMI (Quỹ Tiền Tệ Quốc tế). Một số Chính quyền cũng hùa theo.
Năm nay 2011, Hoa kỳ và Liên Au lại
trải qua một cuộc Khủng hoảng Tài chánh nữa: NỢ CÔNG (Sovereign Debt) chất
chồng tại Mỹ và nhiều nước thuộc Liên Au. Mấy tháng trước đây, khi Tín dụng Hoa
kỳ lần đầu tiên bị mất cấp bậc AAA, tôi xem Đài Truyền Hình Thụy sĩ TRS1 và thấy
một bình luận gia gốc Hy Lạp nói rằng Dollar sẽ mất vị trí độc tôn và thêm rằng
trong tương lai gần có lẽ phải thay thế vào đó đồng YUAN của Trung quốc ! Nghe
và thấy chói tai nghịch lý bởi lẽ Tiết kiệm là Tư hữu tích lũy trong thời gian
lâu dài dưới dạng một đồng Tiền, nên đồng Tiền ấy tối thiểu phải là đồng Tiền
TỰ DO tôn trọng Tư hữu, đó là đồng Dollar, đồng Euro, đồng Yen hay đồng Franc
Thụy sĩ. Nếu thay vào đó bằng đồng Yuan ĐỘC TÀI quyết định tùy ý bởi một Nhà
Nước độc tài, thì bố ai dám tích lũy Tư hữu của mình bằng đồng tiền độc tài này
để rồi Nhà Nước độc tài kia quyết phá giá làm tiêu tan tài sản tư hữu của mình.
Hôm nay, tôi lại đọc trên Diễn Đàn
thấy một bài do một Tiến sĩ Luật sư viết và trình bầy đồng Dollar như một
phương tiện áp đặt thống trị, bành trướng của Hoa kỳ lên các nước khác trên Thế
giới. Thâm chí Tiến sĩ Luật sư ấy còn coi đồng Dollar từ Hội Nghị Bretton Woods
1944 như nguyên nhân của chiến tranh Irak và cái cớ can thiệp quân sự của Hoa
kỳ vào Cách mạng Hoa nhài ở Bắc Phi và Trung Đông. Tôi nhớ lải lời công kích
của STALINE đối với đồng Dollar: “IMPERIALISME DU DOLLAR “!
Hoa kỳ không độc đoán ấn định Dollar
như “Impérialisme du Dollar“
Đọc bài viết của Tiến sĩ Luật sư mà
tôi nói ở phần mở đầu làm lý do để tôi viết bài này như góp ý, tôi cảm tưởng Mỹ
đã quá lợi dụng đồng Dollar như một phương tiện thống trị Thế giới, thậm chí
như nguyên cớ để làm những cuộc chiến tranh từ Irak cho đến can thiệp quân sự
tại những quốc gia Bắc phi và Trung Đông hiện nay. Nếu như vậy, thì lời công
kích “Impérialisme du Dollar“ của Staline là đúng.
Thực ra Hội Nghị Bretton-Woods năm
1944 là thiện ý của Hoa kỳ và đồng Dollar được Quốc tế hóa làm phương tiện
thanh trả thương mại quốc tế là do các Quốc gia khác chấp nhận chứ không hẳn là
Hoa kỳ ấn định Tiền tệ của mình một cách độc đoán theo công kích của Staline.
Năm 1944, cuối Thế chiến thứ II, các
đồng Tiền mỗi nước Âu châu đều ở trong chế độ Bản Vị Vàng (Régime ETALON-OR)
cũng như đồng Dollar. Tỷ giá giữa các đồng Tiền được định theo lượng Vàng mà
mỗi nước có toàn quyền quyết định một cách độc lập:
Tỉ dụ:
FF.1.- = 10 gr.or
fin (FF : Franc Francais )
DM.1.- = 20 gr.or fin (DM : Đức Mã)
Tỷ giá hai đồng Tiền được thiết lập mà không cần qua
trung gian đồng Dollar :
20
gr.or fin
DM.1.- = -------------- = FF.2.-
10
gr.or fin
Nhưng Thế chiến thứ II đã làm cho các
đồng Tiền Au châu mất hết Vàng bảo chứng cho Tiền tệ. Chỉ có hai đồng Tiền còn
Vàng làm bảo chứng, đó là đồng Dollar và đồng FS (Franc Suisse). Chính vì vậy,
Hội Nghị Bretton-Woods 1944 là một thiện ý của Hoa kỳ vẫn giữ chế độ Tiền tệ
Bản Vị Vàng (Etalon-OR) với Cải Cách là sử dụng đồng Tiền nào còn Vàng bảo
chứng để làm trung gian thiết lập Tỷ giá giữa hai đồng Tiền khác. Staline không
thể kết án Mỹ là « Impérialisme du Dollar « vì Mỹ để tự do mỗi Quốc gia chọn
trung gian là đồng Dollar hay đồng Franc Thụy sĩ vì hai đồng Tiền này còn Vàng
bảo chứng. Chế độ Tiền tệ Cải cách này được gọi là « Régime Etalon-DEVISE-Or «.
Tiếng DEVISE này có thể là Dollar hay Franc Suisse, nghĩa là « Régime-DOLLAR-Or
« hay
« Régime-FRANC SUISSE-Or« .
Tỉ dụ :
USD.1.- có 40 gr.Or.fin làm bảo chứng,
FS.1.- có 20 gr.Or.fin làm bảo chứng. Hai đồng Tiền này có Vàng làm bảo chứng.
Còn những đồng Tiền không có Vàng bảo chứng nữa, thì phải định nghĩa tương đương
với hai đồng Tiền còn Vàng.
Tỉ dụ :
FF.1.- =
USD.0.20 hoặc FF.1.- = FS.0.10
DM.1- = USD.0.30 hoặc DM.1.- = FS.0.15
Tỷ giá giữa DM và FF sẽ là :
USD.0.30 FS.0.15
DM.1.- = ------------ = ---------- = FF.1.5
USD.0.20 FS.0.10
Lấy đồng Dollar hoặc Franc Suisse là
trung gian vì Dollar hoặc Franc Suisse còn Vàng bảo chứng, như vậy Tỷ giá giữa
Franc Pháp và Đức Mã không trôi nổi vì có lượng Vàng cố định qua Dollar hoặc
qua Franc Suisse cầm cương. Chế độ Bản Vị Cải cách này « Régime Etalon-DEVISE-Or« từ Hội Nghị Bretton Woods năm 1944 cũng quy
định rằng những đồng Tiền còn Vàng bảo chứng và được chọn làm trung gian phải
tôn trọng « CONVERTIBILITE «, nghĩa là những đồng Tiền ấy có thể chuyển thành
cân lượng Vàng.
Đồng Tiền Franc Suisse có thể đứng ở
vị trí trung gian như Dollar để cầm cương cho Tỷ giá giữa hai đồng Tiền khác.
Nhưng Thụy sĩ quá nhỏ nên không có khả năng bao trùm lượng tiền trung gian khắp
Thế giới. Chính vì vậy các nước khác chọn đồng Dollar chứ không phải Hoa kỳ độc
đoán ấn định để Staline công kích là « Impérialisme du Dollar « .
Sau Thế chiến thứ II, Au châu được tái
thiết với Chương trình MARSHALL USD.173 Tỉ. Au châu bắt đầu nối lại Thương mại
với các cựu Thuộc địa. Thậm chí Pháp còn mang quân đội tái chiếm Đông Dương để
đặt ách thống trị trong khi ấy Ong được mệnh danh là « Người Giải Phóng «
(Libérateur) Pháp khỏi ách thống trị Đức ! Khi Thương mại với các cựu Thuộc địa
phát triển, những nước Au châu lại yêu cầu người mua hàng phải trả bằng đồng
Dollar. Đây cũng không phải Hoa kỳ bắt buộc các nước mua hàng phải thanh toán
bằng Dollar mà chính các nước Au châu yêu cầu việc thanh trả bằng Dollar.
Thời kỳ sử dụng « Máy Hơi nước « (Machines à Vapeur) trong kỹ nghệ và vận tải,
người ta khai thác Năng lượng Than đá. Nhưng sau Thế chiến thứ hai, đó là Thời
kỳ « Máy Nổ « (Machines à Explosion )
khiến việc khai thác Năng lượng Dầu lửa bùng nổ mạnh.
Au châu phát triển và bán hàng cho các
cựu thuộc địa, đã thâu vào được khối lượng Dollar lớn cho mình. Khối lượng
Dollar tồn trữ tại Aâu châu được gọi là EURO-DOLLAR. Các nước A-rập bán dầu lửa
cũng thâu vào được khối lượng Dollar khổng lồ gọi là PETRO-DOLLAR.
Vào những thập niên 70, có hai biến cố
xẩy ra chống lại Hoa kỳ khiến có hai cuộc tiểu chiến tranh Tiền tệ :
* TT. De
GAULLES muốn đi hai hàng : chơi với Khối Cộng sản, nên đã bỏ NATO/ OTAN và yêu
cầu Mỹ phải chở Vàng sang đổi lấy Euro-Dollar. Làm như vậy để hài lòng Mạc Tư
Khoa.
* Khối
A-rập, vì Hoa kỳ ủng hộ Do Thái trong chiến tranh 1967, nên muốn phản ứng lại
là yêu cầu Hoa kỳ chở Vàng sang đổi lấy Pétro-Dollar.
Cả hai cuộc tiểu chiến tranh Tiền tệ
này đều dựa trên khẳng định « CONVERTIBILITE «
của Dollar lấy Vàng từ Hội Nghị Bretton-Woods. Nhưng làm sao Hoa kỳ có
đủ lượng Vàng theo định nghĩa từ năm 1944 để chở sang Pháp và cho Khối A-rập ! Chính vì vậy mà năm 1971, TT. NIXON tuyên bố
bỏ Chế độ Bản Vị « Etalon-Devise (Dollar)-Or«, không chấp nhận vấn đề Chuyển
đổi Dollar sang Vàng nữa (Convertibilité). TT. NIXON đã trả lời TT.De GAULLES
bằng một câu bất hủ : « Đồng Dollar là Tiền của nước Mỹ, còn nếu đồng Tiền của
nước ông có những vấn đề, thì đó là những vấn đề của nước ông«!
Tỷ giá Tiền tệ bắt đầu Trôi Nổi
(Flottant) vì không có Vàng bảo chứng cầm cương. Tiền tệ Thế giới đi vào Chế độ
Bản Vị Tương đương Hàng hóa (Régime du Pouvoir d’Achat) tùy thuộc Kinh tế mỗi
nước khi lên khi xuống. Tiền tệ của một nước vững khi nền Kinh tế của nước đó
vững. Kinh tế Hoa kỳ vẫn vững, nên đồng Dollar vẫn vững dù không cần Vàng bảo
chứng.
Trong Chế độ Bản Vị lấy Vàng bảo chứng
Régime Etalon-Or hay Etalon-Devise-Or, đồng Dollar đã được cả Thế giới sử dụng
trong thanh toán Thương mại. Bây giờ trong Chế độ Régime du Pouvoir d’Achat,
đồng Dollar vẫn vững và được Thế giới sử dụng vì Kinh tế Hoa kỳ vững.
Đồng Dollar vững và phổ quát, nên các
nước chọn Dự trữ Tiền tệ chính là đồng Dollar trong các Ngân Hàng. Hoa kỳ không
bao giờ bắt buộc một Quốc gia phải chọn đồng Dollar làm Tiền Dự trữ. Tỉ dụ Việt
Nam có toàn quyền quyết định chọn đồng Yuan độc tài của Chệt làm Tiền Dự trữ,
nhưng nếu Bắc Kinh độc đoán quyết định cho gía trị của đồng Yuan sau này, thì
Việt Nam ráng mà chịu. Ngay cả Tầu cũng không tin tưởng vào đồng Yuan độc tài,
mà phải chọn Dollar làm Tiền Dự trữ.
Quỹ Tiền Tệ Quốc tế (FMI/IMF)
Quỹ này được lập ra từ Hội Nghị
Bretton-Woods 1944 với mục đích là hỗ trợ Tiền tệ cho những Hội viên (Quốc gia)
khi đồng Tiền của quốc gia này chao động và yếu xuống. Có thể gọi đó là một thứ
Quỹ Tương tế Tiền tệ (Caisse d’Entraide Monétaire) giữa các Hội viên. Mỗi nước
tùy khả năng đóng góp vào Quỹ. Hoa kỳ đóng góp tới 70%. Đây cũng là thiện chí
của Hoa kỳ.
Sau đó, số Hội viên của Quỹ tăng lên.
Trong số những Hội viên, có những nước không đóng góp, mà chỉ nhằm xin hỗ trợ.
Nếu xin vay, thì một số nước Hội viên nhỏ này cũng quỵt nợ luôn. Một số nước
nhỏ Hội viên thuộc Nam Mỹ hoặc Phi châu, khi nhận được Xe xúc Tuyết từ Liên Xô
để hốt tuyết tại Sa mạc Sahara, thì lớn
tiếng ca tụng tình hữu nghị đồng chí Liên Xô, trong khi ấy lại muốn nhận được
Tiền giúp đỡ từ Quỹ IMF/FMI mà Hoa kỳ đóng góp tới 70%, thì lại theo tuyên
truyền « Cách Mạng Giải Phóng « chống
lại Hoa kỳ « Impérialisme du Dollar« , nên Hoa kỳ khó chịu đóng tiền ít đi vào
cho Quỹ.
Ý tưởng Quỹ giúp Phát triển Kinh tế
các nước kém mở mang chưa có từ lúc ban đầu ở Hội Nghị Bretton-Woods 1944.
Nếu viết về đồng Dollar và Hội Nghị
Bretton-Woods 1944 trong ý tưởng « Impérialisme du Dollar « mà Staline công kích, nhất là cắt nghĩa
Dollar như một trong những nguyên cớ chiến tranh, thì có thể xa với thiện chí
của Hoa kỳ về Tiền tệ.
Một trong những cá tính căn bản của
Tiền tệ là TỰ DO chấp nhận. Đó là tính UNIVERSALITE (PHỔ QUÁT) của tiền tệ,
nghĩa là nhiều người chấp nhận. Tiền được sử dụng để TÍCH LUỸ (Stockage) tư hữu
tài sản trong thời gian, phải có quyết định tự do của sở hữu chủ tài sản. Không thể dùng quyền độc tài bắt cá nhân phải
tích lũy tài sản bằng đồng YUAN hay VN ĐỒNG bởi vì hai đồng tiền này không có
tự do và quyền lực độc tài có thể quyết định phá giá nó để tài sản cá nhân bị
tiêu tán, vô giá trị trong thời gian.
Mỗi khi có chao động Tiền tệ là những
người ta tìm đến Vàng hay một đồng Tiền vững có thể tin tưởng trong thời gian.
Vàng từ thời thượng cổ cho đến nay luôn luôn vững với cân lượng của nó. Vàng
hoàn toàn có tính cách UNIVERSALITE (PHỔ QUÁT) không những trong quá khứ mà còn
trong tương lai lâu dài nữa. Vàng càng phổ quát hơn đối với Nữ Giới, những người
giữ túi Tiền. Câu Tục ngữ : « Lấy Lửa thử Vàng ; lấy Vàng thử Đàn Bà ; lấy Đàn
Bà thử Đàn Oâng « . Đến Oâng Dominique STRAUSS-KAHN, làm đến chức Tổng Giám Đốc
IMF/FMI do Hội Nghị Bretton Woods 1944 lập ra, cũng còn bị thử thách chới với
bởi Đàn Bà, mà người Đàn Bà tại Hotel thử thách Ong cũng chỉ vì nhìn qua Oâng
thấy Dollar (Vàng) !
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 20.10.2011. Cập nhật 20.10.2013
Web: http://VietTUDAN.net
Thursday, October 24, 2013
GIÁO HỘI CÔNG GIÁO ĐÃ VÙNG LÊN
Quý vị chức sắc Giáo Hội Công giáo đã ra tay?
Quý hữu,
Chỉ cần nhìn vào hình, chúng ta có thể ghi nhận các điểm sau đây:
Thuận Nghĩa là một giáo hạt đông nhất nhì của Giáo phận Vinh với gần 50 ngàn giáo dân trong tổng số 13 giáo xứ. Truyền thống đạo đức và bề dày lịch sử từ lâu đã thắp lên trong mỗi con tim giáo dân của giáo hạt nhờ tinh thần đoàn kết và một lòng hi sinh cho các nhu cầu của Giáo hội. Cùng với Giáo phận nhà, trong thời gian qua, giáo hạt Thuận Nghĩa luôn đồng cam cộng khổ với anh chị em đang phải chịu bách hại ở Mỹ Yên.
Giáo hạt Cửa Lò
Giáo hạt Nghĩa Yên
Giáo hạt Đông Tháp
Giáo hạt Phủ Quỳ
Giáo hạt Bột Đà
Giáo hạt Bảo Nham
Giáo hạt Can Lộc
Giáo hạt Nhân Hòa
-
Quý hữu,
Chỉ cần nhìn vào hình, chúng ta có thể ghi nhận các điểm sau đây:
- Đây là một cuộc biểu dương có tổ chức và được tổ chức rất chặc chẻ
theo một hệ thống điều hành hữu hiệu chính xác .
(Phải có trung tâm ban lịnh chỉ huy, hệ thống truyền lịnh và thi hành lịnh )
- Tất cả những người tham dự đều được chuẩn bị tinh thần một cách rốt ráo
và họ biết họ phải làm gì theo một chương trình đã được nghiên cứu trước .
(Một nhân số khổng lồ như vậy mà không rối, không trùng lập, đại đa số thanh niên mặc đồng phục)
- Không phải là một hành động tự phát, vậy thì phải có nguồn cung cấp tài chánh rất lớn
(Xin cứ nhẩm tính tiền mua vãi, sơn, gậy căn biểu ngữ)
Xin mạn phép đưa ra kết luận : Quý vị chức sắc Giáo Hội Công giáo đã ra tay .
Tổ chức được như thế nầy, phải dựa vào một hệ thống giáo quyền có sẵn .
Không có hệ thống quyền lực, không có thiên tài nào làm được như thế nầy .
NvĐ
Các giáo hạt trong giáo phận đồng tâm hiệp thông với giáo xứ Mỹ Yên vào sáng Chúa Nhật 06.10.2013
GPVO - Sự việc xẩy ra tại giáo
xứ Mỹ Yên vào ngày 04/9/2013 đến nay đã hơn một tháng. Người bị bắt
giam bất công, kẻ ở nhà vẫn mang một nỗi đau đớn khôn nguôi cả về thể lý
và tâm lý. Một tháng, thời gian chưa đủ để vết thương được chữa lành,
và vết thương vẫn còn tiếp tục rỉ máu bởi cách hành xử bất công và tàn
bạo của cỗ máy cầm quyền đã dùng bạo lực, chiêu bài gian dối, xảo trá...
trước những người dân lành vô tội...
... Sáng Chúa Nhật 06.10.2013, mừng kính lễ Mân Côi, đồng loạt tất cả 20
giáo hạt trong giáo phận Vinh hưởng ứng lời kêu gọi của Tòa Giám mục Xã
Đoài theo Thông báo đề ngày 03/10/2013, đã tổ chức thánh lễ tại các sở
hạt cầu nguyện cho anh chị em tại giáo xứ Mỹ Yên, những nạn nhân của bất
công và bạo quyền, cho Sự Thật - Công Lý - Hòa Bình được sớm hiển trị
tại Giáo phận Vinh và toàn Đất Việt thân yêu.
Trước những bất công và đau khổ, người Công giáo chỉ có một phương cách
duy nhất là cầu nguyện và đấu tranh ôn hòa để sự thật và công lý thực sự
ngự trị trên quê hương đất nước. Cầu cho các nhà lãnh đạo quốc gia biết
tôn trọng các quyền cơ bản của con người, biết nhận ra những giá trị
tích cực của tôn giáo trong đời sống xã hội mà tôn trọng quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo.
Tại giáo phận Vinh, liên tục trong mấy năm gần đây, nhà cầm quyền tỉnh
Nghệ An đã sử dụng bạo lực trấn áp giáo dân, gạt bỏ đối thoại, vu khống
Đức giám mục, các linh mục và giáo dân. Nguyên nhân của mọi “bất ổn” là
từ phía nhà cầm quyền, nhưng sau đó lại dùng các kênh thông tin độc
quyền, cả vú lấp miệng em, đổ lỗi cho giáo dân và đùn đẩy, tránh né
trách nhiệm bằng cách “nâng quan điểm” bày ra mưu đồ đổ cho thế lực thù
địch núp sau các chiêu bài nhân quyền và tự do tôn giáo để kích động
nhân dân, trong đó có giáo dân. Một thực tế là cách thức quản trị xã hội
quá kém cỏi của một số cán bộ, những người có thành tích trong thời
chiến được đưa lên lãnh đạo nhân dân, đã không được nói đến, nhưng để
lấp liếm cái điểm yếu này họ lại đổ cho nguyên nhân khách quan, cho cái
gọi là “thế lực thù địch”. Hậu quả là sự gian dối đã trở thành căn bệnh
trầm kha, như một khối u di căn, vô phương cứu chữa trong xã hội Việt
Nam hôm nay.
Trước thực trạng nẫu nát của xã hội, trước những đau khổ và bất công của
giáo dân giáo xứ Mỹ Yên vẫn chưa được hóa giải. Hai người bị bắt giữ
bất công vẫn chưa được trở về với gia đình. Giáo phận Vinh tiếp tục kêu
gọi mọi thành phần dân Chúa hiệp thông cầu nguyện cho anh chị em đồng
đạo sớm đòi lại được công bằng và sự thật được sáng tỏ, người dân vô tội
được trở lại cuộc sống đời thường với đầy đủ quyền lợi của họ.
Sáng Chúa Nhật 06.10.2013, mừng kính lễ Mân Côi, đồng loạt tất cả 20
giáo hạt trong giáo phận Vinh hưởng ứng lời kêu gọi của Tòa Giám mục Xã
Đoài theo Thông báo đề ngày 03/10/2013, đã tổ chức thánh lễ tại các sở
hạt cầu nguyện cho anh chị em tại giáo xứ Mỹ Yên, những nạn nhân của bất
công và bạo quyền, cho Sự Thật - Công Lý - Hòa Bình được sớm hiển trị
tại Giáo phận Vinh và toàn Đất Việt thân yêu.
--------------------------------------------------
Giáo hạt Xã Đoài
Tại Giáo hạt Xã Đoài, cùng với Đức Cha Phaolô Maria Cao Đình Thuyên chủ
sự thánh lễ, quý Cha giáo sư Đại Chủng viện Vinh Thanh, quý Cha trong
giáo hạt, quý chủng sinh, các nam nữ tu sĩ đến từ nhiều Hội dòng, cùng
với hơn 15.000 giáo dân, đã dâng lên Mẹ Rất Thánh Mân Côi lời nguyện cầu
thiết tha. Nhờ Mẹ chuyển cầu, xin Chúa thương ban bình an cho Giáo Hội,
cho giáo phận nhà, cho dân tộc Việt Nam, cách riêng cho anh chị em đã
và đang bị bách hại tại giáo xứ Mỹ Yên.
Sáng Chủ nhật, ngày 6/10/2013, con đường quốc lộ 1A dường như trở nên
quá nhỏ bé khi hàng chục ngàn người từ các giáo xứ, từ các ngả đường đổ
về trung tâm giáo hạt Thuận Nghĩa. Sức mạnh hiệp thông và tình liên đới
đã phá đổ mọi khác biệt, mọi rào cản ngăn cách, để gần 50 ngàn giáo dân
trong toàn giáo hạt cùng một tiếng lòng hội ngộ tại quảng trường Vũ Đăng
Khoa cầu nguyện cho giáo xứ Mỹ Yên trong cơn quẫn bách.
Thánh lễ được bắt đầu vào lúc 7h30 trước sự hiện diện đông đủ của quý
cha trong toàn giáo hạt, quý tu sỹ, các ban ngành, đoàn thể.
Chia sẻ trong thánh lễ, cha quản hạt Antôn Nguyễn Văn Đính chủ tế thánh
lễ đã ôn lại lịch sử của Kinh Mân côi, qua đó nêu bật những lợi ích: “
Nhờ việc truyền bá sự sùng kính này (Kinh Mân Côi), các tín hữu trở nên
hăng say suy gẫm hơn và thiết tha cầu nguyện hơn, họ biến đổi mau chóng
lạ thường; bóng tối của lạc thuyết tan biến nhường chỗ cho ánh sáng của
đức tin Công Giáo bừng lên trong vinh quang đổi mới” (Đức Giáo hoàng Pio
V). Trước thực trạng xã hội Việt nam hiện nay, Cha Antôn tiếp tục nêu
lên những bất công, bạo quyền mà người dân từng ngày đang phải hứng
chịu.
Trong lời mời gọi cộng đoàn cầu nguyện cho giáo dân Mỹ Yên và hai người
đang bị chính quyền Nghệ An bắt giữ, ngài khẳng định: “Cùng với giáo
phận, gần 50 ngàn giáo dân giáo hạt Thuận Nghĩa tiếp tục lên án những
bất công, bạo lực, gian dối, phản đối nhà cầm quyền Nghệ An bắt bớ người
dân vô tội và yêu cầu thả tự do cho ông Ngô Văn Khởi và Nguyễn Văn Hải;
lên án chính quyền Nghệ An dùng bạo lực đàn áp giáo dân Mỹ Yên vào
chiều 4/9/2013; lên án truyền thông Nghệ An và trung ương xuyên tạc và
bóp méo sự thật, thay đen đổi trắng để che đậy sự tráo trở và vô trách
nhiệm của nhà cầm quyền.”
Thuận Nghĩa là một giáo hạt đông nhất nhì của Giáo phận Vinh với gần 50 ngàn giáo dân trong tổng số 13 giáo xứ. Truyền thống đạo đức và bề dày lịch sử từ lâu đã thắp lên trong mỗi con tim giáo dân của giáo hạt nhờ tinh thần đoàn kết và một lòng hi sinh cho các nhu cầu của Giáo hội. Cùng với Giáo phận nhà, trong thời gian qua, giáo hạt Thuận Nghĩa luôn đồng cam cộng khổ với anh chị em đang phải chịu bách hại ở Mỹ Yên.
Giáo hạt Cửa Lò
Giáo hạt Minh Cầm (Quảng
Bình)
Hiệp thông với
toàn thể Giáo phận, Giáo hạt Minh Cầm đã tổ chức thánh lễ mừng Mẹ Mân Côi và
cầu nguyện cho Giáo phận nhà, đặc biệt là giáo xứ Mỹ Yên, vào lúc 9 giờ sáng
Chúa nhật (06.10.2013) với sự tề tựu đông đủ của 6 linh mục trong giáo hạt và
hàng ngàn giáo dân tham dự.
Giáo hạt Nghĩa Yên
Chúa Nhật kính
trọng thể Đức Mẹ Mân Côi, 06.10.2013, hàng ngàn con tim Giáo hạt Nghĩa Yên
hiệp thông cùng chủ chăn Giáo phận và toàn thể giáo dân Giáo phận Vinh dâng
thánh lễ đặc biệt long trọng cầu nguyện cho Giáo xứ Mỹ Yên trong cơn bách hại.
Với sự hiện diện đông đủ của quý cha trong Hạt cùng toàn thể giáo giáo dân của
9 giáo xứ, thánh lễ đã diễn ra một cách trang nghiêm và sốt
sắng.
Đầu thánh lễ, cha
quản xứ Kẻ Đọng đã đọc Thông báo của Tòa Giám mục Xã Đoài, kêu gọi mọi thành
phần dân Chúa trong Giáo phận Vinh dâng thánh lễ cầu nguyện cho Giáo xứ Mỹ Yên
cùng với các nạn nhân bị đàn áp và bị giam giữ. Trong bài giảng lễ, Cha chủ tế
Phêrô Nguyễn Thái Từ đã khái quát về sự bách hại của Giáo hội trong hơn 2000
năm qua. Từ sự bắt bớ của thế quyền thời Giáo hội sơ khai với sự đàn áp dã
man, bỏ người Kitô hữu vào vạc dầu đến việc cho thú dày xéo trong hý trường…
Tất cả những việc đó nhằm cản trở những người Kitô hữu thiện chí đến với Đức
Kitô. Không chỉ Giáo hội thời sơ khai, mà nhiều nơi khác trên thế giới cũng
phải chịu nhiều áp bức bất công của thế quyền như sự bách hại đạo của tại Liên
Xô, Tiệp Khắc, Bungari và nhiều nước Cộng sản khác. Ở Việt Nam, dưới thời
phong kiến cũng đã có biết bao cuộc bách hại. Cụ thể dưới các thời Thiệu Trị,
Minh Mạng, Tự Đức, Tây Sơn, phong trào Văn Thân…, người Công giáo cũng như
hàng Giáo sỹ bị đánh đập và giết chết, bị xem là bọn tả đạo. Thời kỳ đó đã có
hơn 130 ngàn người tử đạo, trong đó có 117 vị được phong Hiển thánh và 1 vị
được phong Chân phước. Có thể nói, Giáo hội Việt Nam, một Giáo hội nhỏ, chỉ
với 7% là Công giáo nhưng phải chịu biết bao đau đớn về sự bách hại không chỉ
về vật chất, về thể xác mà còn bị bách hại về cả tinh thần
nữa.
Ngày nay, chế độ
phong kiến không còn nữa, việc bắt hại đạo không chỉ là truy lùng các ngõ
ngách hay cấm đoán như xưa nữa mà sự bắt bớ ngày nay là một vỏ bọc “tự do tôn
giáo” với nhiều thủ đoạn công khai, trực tiếp và dối trá của nhà cầm quyền. Sự
bách hại này được diễn ra ở Trung Quốc, Việt Nam với vụ Thái Hà, Tam Tòa,…đặc
biệt là tại Giáo xứ Mỹ Yên - Giáo phận Vinh vừa qua. Thực trạng của “tự do tôn
giáo” đó là một sự “bày binh bố trận”, lừa lọc và gian dối không chỉ ở chính
quyền Nghệ An mà các báo đài từ địa phương đến trung ương cũng nói sai sự thật
theo một sự “chỉ đạo” có sẵn. Bởi vậy, xã hội luôn có những bất công như tham
nhũng, hối lộ, lạm quyền, hách dịch, coi thường tính mạng người dân... Trước
những thử thách lớn lao đó của Giáo hội, đặc biệt là Giáo phận Vinh, Cha chủ
tế mời gọi mọi người hiệp thông cầu nguyện cho các nạn nhân và cho Giáo phận
vượt qua thử thách, cũng như cầu nguyện cho nhà cầm quyền biết tôn trọng công
lý, tôn trọng sự thật.
Truyền
thông Nghĩa Yên
Giáo hạt Đông Tháp
Tại giáo hạt Đông
Tháp, thánh lễ cầu nguyện cho giáo xứ Mỹ Yên đã diễn ra nhân ngày cao điểm
tuần chầu đền tạ của giáo xứ Vĩnh Hòa. Thánh lễ đã quy tụ đông đủ các linh mục
và gần 20 nghìn giáo dân đến từ 15 giáo xứ trong toàn giáo hạt, cùng với quý
chủng sinh và nam nữ tu sỹ. Đặc biệt, Đức Giám mục phụ tá Phêrô Nguyễn Văn
Viên đã về tham dự và chủ tế thánh lễ này.
Cộng đoàn tham dự
cùng hiệp ý cầu nguyện cho luật sư Giuse Lê Quốc Quân, một người con của giáo
xứ Vĩnh Hòa đang bị giam cầm cách bất công. Cộng đoàn cũng không quên cầu
nguyện cho cha quản xứ Antôn Trần Văn Minh đang phải điều trị bệnh gần một năm
nay.
Ngay từ sáng sớm,
trên các ngã đường dẫn về nhà thờ Vĩnh Hòa, từng đoàn người đi trong trật tự,
với biểu ngữ và cờ vàng trắng giương cao, tiến về trong tinh thần tin yêu bừng
cháy.
Trước thánh lễ,
cha quản hạt Đôminicô Phạm Xuân Kế lược lại sự việc tại giáo xứ Mỹ Yên thời
gian qua và nêu lên ý nghĩa của thánh lễ. Đồng thời, ngài mời gọi mọi người
tiếp tục cầu nguyện cho công lý được thực thi, cho mỗi người dân Việt Nam được
sống đúng với phẩm giá và quyền con người.
Giảng trong thánh
lễ, Đức Cha Phêrô nói rằng, mỗi người chúng ta thuộc về Giáo hội và làm cho
Giáo hội thể hiện sống động khi quây quần cử hành Bí tích Thánh thể. Cũng như
Đức Maria, mỗi người chúng ta hãy cưu mang và để cho Đức Kitô lớn lên trong
tâm hồn mình. Ngài mời gọi mỗi người siêng năng lần chuỗi và suy ngắm các mầu
nhiệm Mân côi, vốn được xem là "bản Tin mừng rút gọn". Hãy cậy thác vào Chúa,
bởi con người vốn dĩ là giới hạn bất toàn. Đừng bao giờ lấy mình làm chuẩn.
Chỉ có những kẻ mê muội mới lấy mình hay mượn một ai đó làm chuẩn, để rồi ngây ngô đưa lên những khẩu hiệu "muôn năm" vô lý. Bao lâu, xã hội còn lấy "đấu tranh" làm động lực phát triển chứ không phải là "tình yêu", thì bấy lâu xã hội đó vẫn còn đầy rẫy những thù hằn, bất công. Sống trong thể chế nào, chúng ta tuân thủ những luật lệ đúng đắn của thể chế đó, nhưng mặt khác chúng ta cũng có quyền và bổn phận đóng góp để thể chế đó biến đổi nên tốt hơn. Ngài cũng minh định rằng, tuy không có sứ mệnh chính trị, nhưng Giáo hội không bao giờ lặng câm trước những bất công trong xã hội. Giáo hội luôn luôn là tiếng nói cho sự công chính. Mỗi người chúng ta được mời gọi để sống công chính, và chúng ta đừng sợ phải sống công chính.
Chỉ có những kẻ mê muội mới lấy mình hay mượn một ai đó làm chuẩn, để rồi ngây ngô đưa lên những khẩu hiệu "muôn năm" vô lý. Bao lâu, xã hội còn lấy "đấu tranh" làm động lực phát triển chứ không phải là "tình yêu", thì bấy lâu xã hội đó vẫn còn đầy rẫy những thù hằn, bất công. Sống trong thể chế nào, chúng ta tuân thủ những luật lệ đúng đắn của thể chế đó, nhưng mặt khác chúng ta cũng có quyền và bổn phận đóng góp để thể chế đó biến đổi nên tốt hơn. Ngài cũng minh định rằng, tuy không có sứ mệnh chính trị, nhưng Giáo hội không bao giờ lặng câm trước những bất công trong xã hội. Giáo hội luôn luôn là tiếng nói cho sự công chính. Mỗi người chúng ta được mời gọi để sống công chính, và chúng ta đừng sợ phải sống công chính.
Tuần đền tạ của
giáo xứ Vĩnh Hòa kết thúc với giờ chầu trọng thể do chính Đức Cha Phêrô chủ
sự. Tâm tình sốt mến biểu tỏ trên khuôn mặt của cộng đoàn hiện diện như lời
của các giáo phụ mà Đức Cha Phêrô dẫn trong thánh lễ: "Bí tích Thánh thể làm
nên Giáo hội và Giáo hội làm nên Bí tích Thánh thể".
Trước đó, vào
chiều thứ Sáu, Đức Giám mục Phaolô Nguyễn Thái Hợp đã đến dâng thánh lễ ban
phép Thêm sức cho 93 em và cho 72 em rước lễ lần đầu.
Giáo xứ Vĩnh Hòa
được tách từ xứ mẹ Phi Lộc năm 1947, hiện có hơn 1800 giáo dân với 3 giáo
họ.
Giáo hạt Phủ Quỳ
Giáo hạt Bột Đà
Giáo hạt Bảo Nham
Giáo hạt Can Lộc
Giáo hạt Văn
Hạnh
Giáo hạt Cẩm
Xuyên
Giáo hạt Nhân Hòa
Giáo hạt Cầu
Rầm
Giáo hạt Ngàn
Sâu
Giáo hạt Quy
Chính
Thomas D. Tran
Không Nói, Không Viết, Không Làm
những gì có lợi cho cộng sản.
No comments:
Post a Comment