Thursday, October 27, 2016

TIN THẾ GIỚI = TRỐNG ĐỒNG = VẼ VÀ CƠM ÁO =CÁC CHÙA Ở HUẾ

TIN THẾ GIỚI

  Chuyên gia kêu gọi Mỹ-Trung dự phòng Bắc Triều Tiên sụp đổ

 Lãnh đạo Kim Jong Un đến thăm một công trường của quân đội Bắc Triều Tiên (ảnh do KCNA công bố 27/05/2013)

Lãnh đạo Kim Jong Un đến thăm một công trường của quân đội Bắc Triều Tiên (ảnh do KCNA công bố 27/05/2013)
REUTERS

Tú Anh
Cũng như Đông Đức, chế độ Bắc Triều Tiên có thể sụp đổ bất ngờ, không có dấu hiệu báo trước. Tuy nhiên, khác với Đông Đức, tình trạng « rắn mất đầu » tại Bình Nhưỡng sẽ đưa đến thảm họa kinh hoàng, vì không có chuẩn bị. Viện nghiên cứu chiến lược RAND Corp kêu gọi Hoa Kỳ và Trung Quốc hội ý.

Hôm qua 19/09/2013,Viện nghiên cứu chiến lược Mỹ RAND Corp, một tổ chức bất vụ lợi, công bố bản phúc trình về tình hình Bắc Triều Tiên với nhận định : Chính quyền Kim Jong Un có dấu hiệu mất ổn định trong một giai đoạn. Hầu hết các nhà phân tích đều đồng ý rằng chế độ này có khả năng bị sụp đổ. Tác giả bản báo cáo, Bruce Bennett, một chuyên gia về quốc phòng cho rằng đây không còn là vấn đề « khi nào » hay là « nếu ».
\
Bản báo cáo liệt kê một loạt hệ quả nếu chính quyền Kim Jong Un sụp đổ : Từ khủng hoảng lương thực cho đến nội chiến tại quốc gia khép kín, nhưng có vũ khí sát hại hàng loạt . Rand Corp không loại trừ kịch bản chiến tranh với Trung Quốc.
Theo dự báo, tình hình Bắc Triều Tiên có thể suy thoái nhanh chóng. Trong điều kiện lương thực và thuốc men đang thiếu nghiêm trọng, một khi chế độ lung lay sẽ đưa đến phản xạ tích trữ nhu yếu phẩm, làm cho tình hình nguy ngập hơn. Nạn đói sẽ làm cho dân chúng bỏ nhà đi kiếm sống tạo ra một làn sóng tỵ nạn làm cho các giải pháp viện trợ nhân đạo, cứu đói khó có thể thực hiện. Rồi số phận của 200.000 tù nhân cải tạo sẽ ra sao ?
Trong tình thế này, quân đội và lực lượng an ninh có thể xung đột với nhau để bảo vệ trước nạn giành giựt lương thực. Nếu cộng đồng quốc tế không phản ứng kịp thì có nguy cơ xẩy ra nội chiến với những cuộc nổi dậy mang tinh chất cướp bóc, gây ra tình trạng bất ổn kéo dài, cản trở tiến trình thống nhất đất nước.
Do vậy, bản báo cáo đề nghị các biện pháp làm giảm bớt các hệ quả này: Hoa Kỳ và đồng minh Hàn Quốc cần phải có sẵn kế hoạch và phương tiện nhanh chóng vận chuyển lương thực thuốc men cho miền bắc. Nhưng điều quan trọng hơn hết là phải thuyết phục được cán bộ và binh sĩ Bắc Triều Tiên biết rằng họ sẽ được Hàn Quốc đối xử tốt, và có đời sống tươi sáng hơn trong một đất nước thống nhất. Có lẽ ý thức và lo ngại quân đội bội phản, bộ máy tuyên truyền của chính quyền Bình Nhưỡng khẳng định người dân miền nam đói khổ gấp mười lần người dân miền bắc.
Về quân sự, quân đội Bắc Triều Tiên, với kho vũ khí hóa học, vi trùng và có thể có cả hạt nhân là một mối đe dọa lớn. Mỹ và Hàn Quốc cần phải can thiệp nhanh chóng để « kiểm soát » kho vũ khí này được cất giấu đó đây trên lãnh thổ.
Vấn đề là Trung Quốc cũng dự phóng khả năng này và sẽ đưa quân ra tay trước để « bảo vệ » các kho vũ khí chiến lược này và nhân đó « lấn chiếm một phần lớn lãnh thổ Bắc Triều Tiên » .
Nguy cơ quân đội Mỹ và Trung Quốc đụng nhau sẽ rất lớn, nhưng theo viện RAND Corp, thái độ của Bắc Kinh đang thay đổi trong thời gian gần đây và có thể mở đường cho đối thoại.
Cho đến nay, Trung Quốc ngần ngại thảo luận về khả năng chế độ Bình Nhưỡng sụp đổ, vì không muốn mang tiếng « phản bội » đồng minh và vô tình làm tình hình Bắc Triều Tiên suy thoái thêm.
Bản báo cáo đề nghị Bắc Kinh và Washington cần phải thỏa thuận lập một đường ranh để quân đội hai bên không chạm mặt nhau. Đường ranh đó không lấn sâu quá 50 km kể từ dòng sông Áp lục, biên giới thiên nhiên Trung-Triều.
Một điểm đáng lo khác được nêu lên là quân số của Bắc Triều Tiên có thể đươc cắt giảm từ 22 sư đoàn xuống còn 12 sư đoàn vào năm 2022 vì sinh suất thấp. Bình Nhưỡng sẽ cân bằng quân số bằng cách nào ? Vũ khí hạt nhân ? Hay gia tăng lực lượng trừ bị ?
Trước câu hỏi chất vấn của báo chí về « xác suất » Bình Nhưỡng sụp đổ trong năm tới, chuyên gia Bruce Bennett trả lời là 2%. Tuy nhiên, ông lý giải, xác xuất này tuy thấp, nhưng vẫn còn cao hơn xác xuất « bị cháy nhà ». Biết vậy nhưng ai cũng mua bảo hiểm.
Cũng theo Bruce Bennett, tất cả các quốc gia trong khu vực đều lo âu chế độ Bình Nhưỡng tự tan rã. Một trong những kịch bản có xác suất cao nhất là Kim Jong Un bị ám sát.
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20130920-chuyen-gia-keu-goi-my-trung-du-phong-bac-trieu-tien-sup-do

 

Bắc Hàn sụp đổ và kịch bản ứng phó

Cập nhật: 12:13 GMT - thứ sáu, 20 tháng 9, 2013
Bắc Hàn
Nguy cơ Bắc Hàn sụp đổ trong năm tới là 2% theo nghiên cứu
Hoa Kỳ nên cân nhắc đàm phán trước với Trung Quốc về một giới tuyến phân chia quân sự trong trường hợp Bắc Hàn sụp đổ, theo một nghiên cứu công bố hôm thứ Năm.
Nghiên cứu của Viện nghiên cứu chiến lược RAND tại Hoa Kỳ cảnh báo về các hậu quả thảm khốc nếu chế độ Kim Jong-un đột nhiên sụp đổ, theo AFP.
Báo cáo của viện nghiên cứu có tiếng này nói rằng sự sụp đổ của nhà nước toàn trị ở Bình Nhưỡng có thể gây ra một nạn đói nghiêm trọng cũng như một cuộc khủng hoảng nhân quyền ở một quốc gia giam giữ hàng trăm ngàn tù nhân.
Hoa Kỳ và đồng minh Hàn Quốc sẽ gần như chắc chắn can thiệp, điều gây báo động với Trung Quốc, quốc gia đồng minh chính của Bắc Hàn, nghiên cứu cho hay .
Trung Quốc lâu nay lo ngại việc ngăn chặn dòng người tị nạn và tránh việc các lực lượng Hoa Kỳ tiếp cận gần biên giới. Vì thế Bắc Kinh sẽ có thể gửi quân tới Bắc Hàn và tạo ra nguy cơ leo thang nhanh chóng cho một cuộc đối đầu với các lực lượng quân sự của Mỹ hay Hàn Quốc.
"Cách tốt nhất để giảm thiểu tai nạn như vậy là xác định giới tuyến phân chia cho các lực lượng của Trung Quốc đối với (Hàn Quốc) và quân đội Mỹ," nghiên cứu nói.
Bruce Bennett, tác giả của nghiên cứu, thừa nhận rằng ý tưởng này có thể không được hoan nghênh ở Hàn Quốc và gợi lên sự phân chia nước Đức sau Thế chiến II.
Bán đảo Triều Tiên vẫn trong tình trạng chia cắt kể từ cuộc chiến 1950-1953 với cuộc đọ sức giữa Hoa Kỳ, các đồng minh phương Tây chống lại Trung Quốc khi đó.
"Thiết lập một giới tuyến như thế thực sự không phải là một ý tưởng tốt, về mặt chính trị, nhưng mặt khác, xảy ra chiến tranh với Trung Quốc còn tồi tệ hơn," tác giả Bennett nói.
"Rốt cuộc chúng ta có thể phải tạo lập một giới tuyến chỉ ra rằng Trung Quốc không tiến xuống phía nam, và chúng ta sẽ không tiến lên phía bắc," ông nói.

'Cần bàn bạc trước'


"Cách tốt nhất để giảm thiểu tai nạn như vậy là xác định giới tuyến phân chia cho các lực lượng của Trung Quốc đối với (Hàn Quốc) và quân đội Mỹ."
Báo cáo của Viện Rand
Hoa Kỳ và Hàn Quốc cần phối hợp với Trung Quốc về các ưu tiên chính như đưa thực phẩm vào Bắc

Hàn và bảo đảm kiểm soát hạt nhân cùng các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt khác của nước này, nghiên cứu nói.
Trung Quốc, nước có thể tìm cách hậu thuẫn một nhóm thuộc chế độ cũ của Bắc Hàn, cuối cùng nên đồng ý rút quân và cho phép thống nhất đất nước, trong phương án khả dĩ nhất dưới sự bảo trợ của một nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc (LHQ), báo cáo của Viện Rand nói.
Thế nhưng các nghị quyết của LHQ có thể mất thời gian và do đó sẽ là "thích hợp hơn" khi có một thỏa thuận về chủ trương với Trung Quốc trước khi Bắc Hàn sụp, theo báo cáo.
Bennett nói ông đã tiến hành báo cáo nghiên cứu do có lo ngại rằng các quốc gia chủ chốt đã không thảo luận đủ với nhau về những việc cần làm nếu quốc gia cộng sản nghèo nàn này đổ vỡ.
"Có lẽ xác suất của việc Bắc Hàn sụp đổ vào năm tới là hai phần trăm. Đó là mối nguy hiểm ở tỷ lệ hai phần trăm," ông nói .
"Xác suất mà căn nhà của bạn bị cháy là bao nhiêu? Có lẽ không phải là hai phần trăm, nguy cơ ấy ít hơn rất nhiều, nhưng bạn có bảo hiểm hỏa hoạn không? Tôi thì có," ông nói .
Nghiên cứu không dự đoán về một thời gian cụ thể cho sự sụp đổ của Bắc Hàn, nhưng dự kiến chế độ cuối cùng sẽ sụp đổ.
Một trong những kịch bản có nhiều khả năng nhất cho sự sụp đổ, theo nghiên cứu, có thể là một vụ ám sát nhắm vào lãnh đạo Kim Jong-un .
Kim, người thay thế cho cha đẻ quá cố Kim Jong-il từ tháng 12/2011, được cho là chưa đến 30 và chưa chỉ định người kế nhiệm.
Sự mất mát đột ngột của một nhà lãnh đạo trung ương có thể dẫn đến các phe phái tranh phần điều hành Bắc Hàn, mang lại tình trạng hỗn loạn và cản trở nghiêm trọng cho phân phối thực phẩm, nghiên cứu nói.
Hàng trăm ngàn người Bắc Hàn bị chết đói vào giữa thập niên 1990, sau khi sự tan rã của Liên Xô chấm dứt nguồn viện trợ quan trọng.

 Obama đã quên Việt Nam?
Cập nhật: 09:56 GMT - thứ sáu, 20 tháng 9, 2013
Tổng thống Barack Obama và Ngoại trưởng Hillary Clinton ở Miến Điện trong năm 2012
Ông Obama thăm Miến Điện hồi cuối năm ngoái
Tháng 11 năm ngoái, Tổng thống Barack Obama công du ba quốc gia Đông Nam Á. Ngạc nhiên trong chuyến đi là ông đã đến Myanmar.
Giới quan sát chính trị đặt câu hỏi là lãnh đạo Mỹ có nên đến Myanmar không, vì chính quyền quân phiệt Yangon chỉ mới công bố tiến trình cải cách chính trị vài tháng trước đó, trong khi tại đất nước này vẫn còn những xung đột giữa người theo Phật giáo và Hồi giáo làm nhiều người chết và cả trăm nghìn dân phải dời cư để tránh bạo động.

Sự kiện ông Obama đến thăm, như thế có phải là ủng hộ lãnh đạo Myanmar, mà năm trước còn là những người cầm quyền độc tài và để những xung đột tôn giáo xảy ra.
Nhưng Tổng thống Obama vẫn đến, không phải là dấu chỉ ông tán đồng chính sách độc tài, đàn áp của lãnh đạo quân phiệt, nhưng là để nói lên sự ủng hộ những bước cải cách dân chủ do Yangon khởi xướng.
Myanmar đã bắt đầu thay đổi, và đang thay đổi nhanh, từ cuối năm 2010 khi bà Aung San Suu Kyi, lãnh đạo phe đối lập, được trả tự do sau hơn hai thập niên tù và quản chế tại gia. Trong kỳ bầu cử năm 1990, đảng đối lập do bà lãnh đạo đạt 59% số phiếu và chiếm đa số ghế trong quốc hội, nhưng phe cầm quyền đã không công nhận kết quả và còn tiếp tục giam bà trong nhiều năm.

Năm ngoái, ngay sau khi lãnh đạo Myanmar tuyên bố cải cách chính trị, Tổng thống Obama đã nhanh chóng quyết định bỏ cấm vận và Hoa Kỳ đẩy mạnh đầu tư kinh tế vào đất nước với 56 triệu dân này.
Ông Obama quyết định đến Myanmar vì là người sớm lên tiếng ủng hộ những cải cách chính trị đã mở ra. Sự có mặt của lãnh đạo Mỹ ở đó tuy trong thời gian rất ngắn, chỉ 6 giờ đồng hồ, là vì ông muốn đưa ra “bàn tay thân hữu” với Myanmar để tự do, dân chủ sẽ nở hoa ở đây.
Tổng thống Obama là lãnh đạo Mỹ đầu tiên thăm Myanmar từ nửa thế kỷ qua, kể từ khi phe quân đội nắm quyền năm 1962 và đã cai trị bằng chính sách độc tài với nhiều vụ đàn áp đẫm máu sinh viên, các nhà sư. Nhiều người đối lập đã bị giam tù.

Cổ súy dân chủ

Khi quyết định cải cách dân chủ, chính quyền Rangon đã thả nhiều đợt với hàng trăm tù chính trị, đã cho phép tự do báo chí, cho cựu tù chính trị tham gia sinh hoạt đảng phái.
Đảng Liên hiệp Quốc gia vì Dân chủ (National League for Democracy, NLD) của bà Suu Kyi đã tham gia chính trường trong hai năm qua, sau nhiều lần bà kêu gọi tẩy chay những cuộc bầu cử thiếu dân chủ từ khi chiến thắng của NLD bị chính quyền quân phiệt hủy bỏ năm 1990.
Đến Myanmar, sau khi được Tổng thống Thein Sein tiếp, ông Obama cũng đã gặp gỡ lãnh đạo đối lập Suu Kyi.

Thủ tướng Hun Sen của Campuchia và Tổng thống Barack Obama
Trong chuyến đi cuối năm ngoái tới châu Á, ông Obama cũng thăm Campuchia

Chuyến đi của ông Obama chính là để cổ xúy cho những cải cách dân chủ ở Myanmar.
Trong chuyến công du năm ngoái, Tổng thống Obama cũng đến Thái Lan và Campuchia. Thái Lan trong nhiều thập niên qua đã là đồng minh của Mỹ nên sự kiện ông ghé đó chỉ thắt chặt thêm quan hệ bền bỉ giữa hai nước.
Tại Campuchia, như Myanmar, là quốc gia đón lãnh đạo Mỹ đến thăm lần đầu trong nửa thế kỷ qua. Tuy không được đón tiếp nồng ấm như khi ông Obama đến Myanmar, nhưng trong thảo luận riêng tư lãnh đạo Mỹ cũng nhắc nhở Thủ tướng Hun Sen về những đàn áp phe đối lập và kêu gọi cải cách chính trị tại đây.
Sắp tới lãnh đạo Mỹ lại công du Đông nam Á. Bạch Ốc đã ra thông báo về chuyến đi vào đầu tháng Mười của Tổng thống Barack Obama, nhân hội nghị Hợp tác Kinh tế châu Á Thái Bình Dương APEC khai diễn tại Indonesia. Dịp này, ông Obama cũng sẽ chính thức thăm Brunei, Malaysia và Philippines.
Việt Nam không có trong lịch trình, tuy Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã chính thức mời Tổng thống Obama trong chuyến thăm Hoa Kỳ cuối tháng Bảy vừa qua. Ông Obama hứa sẽ cố gắng thực hiện chuyến đi trước khi hết nhiệm kỳ, nhưng chưa xác định thời điểm nào.

Khác biệt chính trị

Nếu coi những chuyến viếng thăm của lãnh đạo để định mức quan trọng trong mối bang giao hai nước thì quan hệ Mỹ-Việt không mặn mà cho lắm.
Vì sao? Có phải vì từng là cựu thù, vì địa chính trị, vì quyền lợi hay khác biệt trong hệ thống kinh tế, chính trị?
Chuyện chiến tranh năm xưa coi như hai bên đã bỏ qua, chẳng bên nào còn muốn nhắc lại.
"Phải năm năm sau từ khi Tổng thống Bill Clinton đến Hà Nội, năm 2005 Tổng thống George W. Bush mới đón Thủ tướng Phan Văn Khải tại Bạch Ốc."
Còn địa chính trị, nếu cho rằng vì nằm sát bên nên Việt Nam khó thoát khỏi ảnh hưởng của láng giềng khổng lồ Trung Quốc, thì sao Myanmar có thể chuyển đổi được, còn Việt Nam thì chưa?
Khác biệt trong hệ thống kinh tế, chính trị có lẽ là điều khiến hai bên khó xích lại gần hơn. Việt Nam vẫn là một nước cộng sản, độc tài toàn trị và cho đến nay Mỹ vẫn chưa công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường. Vì những khác biệt này mà quan hệ hai nước chưa tiến nhanh được.
Sau khi nối lại quan hệ ngoại giao năm 1995, phải năm năm sau Tổng thống Bill Clinton mới đến thăm Việt Nam, trước khi ông rời Bạch Ốc.

Hà Nội nhiệt tình đón ông Clinton vì là người đã bãi bỏ cấm vận, thiết lập bang giao giữa hai nước. Nói chuyện với sinh viên Đại học Ngoại thương Hà Nội, Tổng thống Clinton nhắc đến tự do báo chí, nền tư pháp độc lập và những quyền căn bản của con người.
Tuy nhiên, ngoại trưởng Mỹ thời Tổng thống Clinton là Madeleine Albright trong một lần gặp Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu có đề cập đến tiến trình dân chủ thì được đáp lại một cách lạnh nhạt. Sau đó bà đã phát biểu: “Quan hệ hai nước sẽ không bao giờ hoàn toàn bình thường cho đến khi vấn đề nhân quyền được bàn thảo.”


Phải năm năm sau từ khi Tổng thống Bill Clinton đến Hà Nội, năm 2005 Tổng thống George W. Bush mới đón Thủ tướng Phan Văn Khải tại Bạch Ốc.
Năm 2006 Tổng thống Bush đã đến thăm Việt Nam nhân dịp Hội nghị APEC tổ chức tại đây.
Từ đó đến nay, Bạch Ốc đã đón Chủ tịch Nguyễn Minh Triết, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và gần đây nhất Tổng thống Obama đón Chủ tịch Trương Tấn Sang.

Thiếu 'chiến lược'?

Với chủ trương chuyển trọng tâm chiến lược sang Đông Á của Tổng thống Barack Obama nên Hoa Kỳ đang quan tâm nhiều hơn đến vùng này, thể hiện qua sự hợp tác và thường xuyên thăm viếng các quốc gia trong vùng của bộ trưởng ngoại giao và bộ trưởng quốc phòng Mỹ, cùng với những cuộc tập trận chung. Tàu chiến của Mỹ cũng hay ghé các cảng dọc biển Đông Á.
Trong viễn cảnh đó, Hoa Kỳ và Việt Nam đang có những cố gắng xích lại gần nhau hơn, nhất là từ khi Trung Quốc gây hấn với các quốc gia trong vùng, đặc biệt là với Việt Nam và Philippines.

Ông Barack Obama và Chủ tịch Trương Tấn Sang ở Nhà Trắng hồi tháng Bảy năm 2013
Quan hệ Việt - Mỹ toàn diện nhưng thiếu 'chiến lược'


Sau hơn hai mươi năm rời bỏ căn cứ hải quân Subic Bay ở Philippines, nay có dấu chỉ là Mỹ sẽ trở lại đây. Còn vịnh Cam Ranh của Việt Nam, liệu Mỹ có muốn trở lại không?
Trở lại Subic Bay đối với người Mỹ là điều dễ. Nhưng trở lại Cam Ranh ở đất nước một thời đã là thù nghịch là điều khó cho cả hai bên vì Việt Nam nay bị Trung Quốc ảnh hưởng nhiều về kinh tế và chính trị. Liệu Hoa Kỳ có muốn tạo căng thẳng, gây sứt mẻ quan hệ với Trung Quốc không?
Vì thế quan hệ Mỹ-Việt cũng ở mức chừng mực, dù gọi đó là “toàn diện” nhưng vẫn thiếu tính “chiến lược”. Chỉ cho đến khi nào lãnh đạo Hà Nội tự mình quyết tâm ra khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc, như Myanmar đang làm, khi đó Tổng thống Obama cũng sẽ muốn đến thăm Việt Nam ngay.
Thực tế cho thấy, trong số các quốc gia khối ASEAN thì Tổng thống Obama đã thăm hết, trừ Việt Nam và Lào. Vùng Đông bắc Á ông cũng đã thăm Nhật và Nam Hàn trong chuyến công du năm 2009.

Tháng Mười Một 2012 tại Myanmar Tổng thống Obama phát biểu với sinh viên Đại học Yangon: “Các bạn đang đi theo hành trình với đầy triển vọng cho nhiều người khác bước theo.”
Ông Obama muốn nhắn với lãnh đạo Hà Nội đấy. Ông không quên lời mời và 85 triệu dân Việt đâu.
Tác giả dạy đại học cộng đồng và là một nhà báo tự do hiện sống tại vùng Vịnh San Francisco, California. Bài viết phản ánh cách nhìn của riêng ông.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/blogs/2013/09/130920_bui_van_phu_obama_quen_viet_nam.shtml
 
 

VĂN HÓA VIỆT NAM


Tại sao trống đồng không được sử Việt cổ đề cập nhiều?

Kính Hòa, phóng viên RFA
2013-09-20
Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
000_Hkg3969213-305.jpg
Những bản sao của trống đồng cổ, một biểu tượng của văn hóa dân tộc của Việt Nam, được trưng bày tại Văn Miếu, Hà Nội vào ngày 31/8/2010 nhân kỷ niệm 1000 năm Thăng Long.
AFP photo


Trống đồng thường được xem là một vật biểu tượng của dân tộc Việt nam. Mới đây Tiến sĩ Lê Minh Khải từ Đại học Hawaii nêu lên vấn đề là tại sao trong sách sử cổ của người Việt rất ít đề cập đến trống đồng. Tiến sĩ khảo cổ học Nguyễn Thị Hậu ở TP HCM trao đổi vấn đề này với Kính Hòa..
Kính Hòa: Thưa bà lâu nay trống đồng được xem như một vật tượng trưng cho dân tộc Việt Nam. Nhưng gần đây có một học giả từ Đại học Hawaii là Tiến sĩ Lê Minh Khải có nêu một vấn đề là các sách sử biên niên của người Việt hầu như không có ghi chép về trống đồng, tức là người Việt xa lạ với trống đồng. Với tư cách một nhà khảo cổ, bà có nhận xét gì về chuyện này?
TS Nguyễn Thị Hậu: Về mặt văn bản học thì nhận xét của anh Lê Minh Khải là rất chính xác. Trong các bộ sử của chúng ta không thấy nhắc tới trống đồng như một biểu tượng của quyền lực hay của quốc gia. Tôi thấy đây là một góc nhìn rất hay, nó không chỉ liên quan đến một cổ vật đẹp nhất của chúng ta là trống đồng, mà nó còn liên quan đến các vấn đề khác như lịch sử, dân tộc, quốc gia.
Về mặt niên đại thì trống đồng có tuổi từ 2000 đến 2500 năm cách này nay. Đây là thời kỳ có nhiều truyền thuyết liên quan đến nước Văn Lang của vua Hùng vương.
Trong các bộ sử của chúng ta không thấy nhắc tới trống đồng như một biểu tượng của quyền lực hay của quốc gia.
- TS Nguyễn Thị Hậu
Theo các nhà ngôn ngữ học thì từ thế kỷ thứ 10 có sự tách ra hai tộc người. Người Mường sống ở vùng cao và họ còn duy trì rất nhiều tập tục liên quan đến trống đồng. Còn tộc người Việt, sau này là người Kinh sống ở vùng đồng bằng và tạo nên các triều đại phong kiến của Việt Nam, thì hầu như không có lễ hội tập tục gì liên quan đến trống đồng, thậm chí nó không phải là 1 loại của cải có giá trị như đối với người Mường và 1 số tộc miền núi khác.
Rồi sang thế kỷ 20 chúng ta tiếp nhận nhiều khái niệm mới như dân tộc, quốc gia, đồng thời nhiều trống đồng được phát hiện ở vùng đồng bằng song Hồng, cho nên có thể là phát sinh 1 nhu cầu có sự biểu trưng cho dân tộc.
Đó là vài suy nghĩ của tôi nhân đọc bài của anh Lê Minh Khải.
Kính Hòa: Có phải là vấn đề được ông Lê Minh Khải nêu lên sẽ đưa đến 1 câu hỏi là liệu chúng ta có phải là con cháu của những người Đông sơn chủ nhân trống đồng hay chúng ta là một bộ tộc từ nơi khác đến?
TS Nguyễn Thị Hậu: Theo những chứng liệu khảo cổ học thì không thấy rằng người Việt chúng ta đến từ một nơi xa lạ nào đó, vấn đề tôi đặt ra là giữa chúng ta và người Đông sơn, hay còn gọi là người Việt cổ khác nhau như thế nào! Vì thời gian biến chuyển 2000 năm chắc chắn là có nhiều sự biến đổi về tộc người, về văn hóa. Và nhất là phải nghiên cứu việc tách ra hai tộc người Mường và Việt. Người Mường còn duy trì rất nhiều nét của văn hóa Đông sơn, về tập tục, trang trí nhà cửa.
Kính Hòa: Trở lại vấn đề văn bản học, có phải là chúng ta nói nhiều về trống đồng từ khi người Pháp khai quật được nhiều trống đồng trên lãnh thổ Việt Nam?

Đúng là từ khi người Pháp phát hiện rất nhiều trống đồng ở nước ta và nhất là chiếc đẹp nhất tên là Ngọc Lũ, thì sách sử của chúng ta mới bắt đầu đề cập nhiều đến trống đồng và thời đại các vua Hùng.
- TS Nguyễn Thị Hậu
TS Nguyễn Thị Hậu: Những bộ sử trước đây như Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim cũng đặt dấu hỏi về thời đại Hùng Vương như là những huyền thoại. Việc đó là đương nhiên vì lúc ấy chúng ta chưa có chứng cứ. Và chúng ta hiểu rằng huyền thoại không phải là lịch sử, nhưng nó có thể chứa dựng một điều gì về lịch sử trong đó mà cần phải làm rõ.
Đúng là từ khi người Pháp phát hiện rất nhiều trống đồng ở nước ta và nhất là chiếc đẹp nhất tên là Ngọc Lũ, thì sách sử của chúng ta mới bắt đầu đề cập nhiều đến trống đồng và thời đại các vua Hùng. Người ta cho trống đồng như là hiện vật tiêu biểu cho thời kỳ Đông sơn đó.
Kính Hòa: Xin hỏi câu cuối cùng là về số lượng thì có rất nhiều trống đồng được tìm thấy ở Việt Nam so với các quốc gia khác?
TS Nguyễn Thị Hậu: Tôi không có số liệu thống kê mới nhất, nhưng theo quyển Khảo cổ học Việt nam thời đại kim khí tập 2 của Viện khảo cổ học thì chúng ta có khoảng 200 trống loại 1 chưa kể các loại gọi là minh khí, tức là loại được làm nhỏ đi để chôn trong các ngôi mộ, cũng không kể đến các loại trống muộn hơn như của người Mường. Về số lượng thì như vậy chỉ đứng hàng thứ hai sau khu vực Quảng Tây của người Choang bên Trung quốc thôi.
Kính Hòa: Xin cảm ơn TS Nguyễn thị Hậu.

NGUYỄN THIÊN THỤ * CÁC CHÙA Ở HUẾ




 CÁC CHÙA Ở HUẾ

1. CHÙA TỪ ĐÀM


Chùa Từ Đàm là một ngôi chùa cổ danh tiếng ở Huế; hiện tọa lạc tại số 1 đường Sư Liễu Quán, thuộc phường Trường An, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên-Huế, Việt Nam.
Chùa do Thiền sư Minh Hoằng - Tử Dung[1] khai sơn vào khoảng năm 1690 [2], và sau đó được đặt tên là chùa Ấn Tôn (hay Tông), với ý nghĩa là "lấy sự truyền tâm làm tông chỉ"[3].
Năm 1702, nhà sư Liễu Quán (về sau cũng là một cao tăng) đến chùa, xin tham học với Thiền sư Minh Hoằng - Tử Dung[4]

 

Năm 1703, Thiền sư Minh Hoằng - Tử Dung cho trùng tu chùa. Cũng trong năm này, chúa Nguyễn Phúc Chu ban cho chùa tấm biển Sắc Tứ Ấn Tôn Tự. Sau khi Sư viên tịch, theo lời phó chúc, học trò của Sư là Thiền sư Thiệt Vinh - Bửu Hạnh làm Trụ trì chùa[5].
Năm 1802, nhà Tây Sơn bị đánh đổ. Khi ấy, vì thời gian và vì chiến tranh, chùa Ấn Tôn bị hư hại nặng như nhiều ngôi chùa khác trong vùng [6]. Tuy nhiên, mãi đến năm Gia Long thứ 12 (1813), Thiền sư Đạo Trung - Trọng Nghĩa mới có thể tổ chức trùng tu chùa[7].
Năm 1841, vua Thiệu Trị đổi tên chùa Ấn Tôn thành Từ Đàm (do kỵ húy tên vua là Miên Tông) [7], với ý nghĩa là "đám mây lành của Phật pháp" [8].

 
Năm Thành Thái thứ 9 (1897), nhà vua cho mở đường lên đàn Nam Giao. Vì đường này đi xuyên qua khuôn viên chùa Từ Đàm, nên vua ban lệnh cho Trụ trì là Thiền sư Thanh Hiệp - Tường Vân dời 5 bảo tháp chứa di cốt của chư Tổ sang khuôn viên chùa Báo Quốc ở gần đó. Có lẽ nhân dịp này, vị Trụ trì ấy lại cho trùng tu chùa [9].



 Từ những năm 1920 trở về sau, phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam được phát triển ở cả ba miền. Trong quãng thời gian ấy, chùa Từ Đàm là trung tâm của phong trào Chấn hưng Phật giáo Trung Kỳ[10].




Ban đầu, chùa Từ Đàm chỉ là tịnh thất nhỏ làm bằng cây lá, sau nhiều lần trùng tu mới có diện mạo như ngày nay.
Cổng tam quan được xây dựng năm 1965 (ảnh 2). Bên phải sân (từ cổng nhìn vào) là cội bồ đề có nguồn từ cây bồ đề ở Bồ Đề Đạo Tràng tại Ấn Độ (tức nơi Phật Thích Ca thành đạo)[15].



Ngôi chính điện chùa cũ gồm ba gian, lợp ngói, rộng 7,4 m, dài 18 m, và mặt tiền ngó về hướng Đông Nam [16]. Đến ngày 4 tháng 7 năm 2006, chùa đã tổ chức tái thiết ngôi chánh điện, và khánh thành vào sáng ngày 30 tháng 3 năm 2010. Công trình mới có chiều dài 42 m, chiều ngang 35,9 m, gồm hai phần (dưới là tầng hầm làm hội trường, trên là ngôi chánh điện), được kiến trúc theo mô hình trùng thiềm điệp ốc, gồm ba gian hai chái, và hai bện có lầu chuông, lầu trống. Đây là kiểu kiến trúc truyền thống của chùa Huế (ảnh 1)[17]. Sau đó, Đại lễ An vị Phật đã được tổ chức trọng thể vào ngày rằm tháng 11 năm Đinh Hợi (24 tháng 12 năm 2007).


 
Chính điện chùa Từ Đàm vừa được trùng tu xong
 
Toàn cảnh các gian thờ Phật bên trong Chính điện

 
 Tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (tượng cũ)

  Nhà thờ Tổ
    

   
Tháp 7 tầng ở sân chùa

 Ngày 6 tháng Giêng năm Mậu Tý (12 tháng 2 năm 2008), tháp Ấn Tôn 7 tầng (mỗi tầng thờ một tượng Phật bằng đồng) cao 27 m (ảnh 3) cũng được khởi công xây dựng ở sân chùa (từ cổng nhìn vào ở phía trái), và khánh thành ngày rằm tháng 2 năm Canh Dần (30 tháng 3 năm 2010) [18].
 Ngoài ra, phía bên phải sân chùa (từ cổng nhìn vào) là Hội quán rộng lớn, gồm 10 gian phòng, cao 2 tầng. Tầng dưới của Hội quán hiện được dùng làm Văn phòng Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Thừa Thiên-Huế.

2. CHÙA BÁO QUỐC

Chùa Báo Quốc tọa lạc ở đường Báo Quốc, thuộc phường Phường Đúc, thành phố Huế, chùa Báo Quốc ban đầu có tên là Hàm Long Thiên Thọ Tự, do Thiền sư Giác Phong dựng vào cuối thế kỷ XVII, đời Chúa Nguyễn Phúc Tần. Đến năm 1747, Chúa Nguyễn Phúc Khoát ban cho chùa tấm biển "Sắc Tứ Báo Quốc Tự" có ghi dòng chữ: "Quốc Vương Từ Tế đạo nhân ngự đề".
Chùa được xây dựng theo kiểu chữ "Khẩu-口” trên đồi Ham Long rộng khoảng 2 hecta. Qua khỏi cổng tam quan cổ kính là một khoản sân đất có hai hàng cổ nhãn uy nghi tiếp đến là khoảng sân trên trồng nhiều cây tùng có lan can bao bọc.

Vào thời Tây Sơn, chùa đã bị chiếm đóng và trưng dụng làm kho chứa diêm tiêu. Sau đó vào năm 1808, Hoàng Hậu Hiếu Khương cho tái thiết ngôi chùa, xây tam quan, đúc đại hồng chung, bảo khánh và đổi tên là chùa Hàm Long Thiên Thọ tự và mời thiền sư Phổ Tịnh làm trụ trì.
Năm 1824, vua Minh Mạng ngự thăm chùa và sắc tứ tên "Báo Quốc Tự". Nhà vua đã tổ chức đại giới đàn tại chùa nhân lễ Vạn thọ tứ tuần đại khánh vào năm 1830. Đến năm 1858, do chùa bị hư hỏng nhiều, vua Tự Đức và Hoàng Thái hậu Từ Dũ đã ban tiền trùng tu ngôi chánh điện và các công trình khác.


Trong phong trào chấn hưng Phật giáo vào những năm 1930, chùa đã có nhiều đóng góp về mặt đào tạo tăng tài cho Phật giáo. Năm 1935, trường Sơ đẳng Phật giáo được mở tại chùa. Đến năm 1940, trường Cao đẳng Phật giáo cũng lại được mở tại đây. Năm 1957, Giáo hội Tăng già Thừa Thiên và Ban Quản trị chùa đã tổ chức đại trùng tu ngôi chùa. Hòa thượng Thích Trí Thủ, vừa là Giám đốc Phật học đường, vừa là trụ trì chùa, đã có những đóng góp to lớn cho Phật giáo nói chung và cho việc tái thiết ngôi tổ đình trang nghiêm với những nét kiến trúc cổ kính nói riêng.
 

Từ năm 1959 đến trước 1975 trường trung tiểu học tư thục Bồ Đề Hàm Long ra đời, đây là một ngôi trường đã lưu dấu nhiều kỷ niệm đẹp của bao thế hệ học trò là Tăng, Ni và Phật tử Huế. Ngày nay, tên trường Hàm Long chỉ còn là một tấm bản rêu phong ngay ngã ba Điện Biên Phủ-Báo Quốc, là dấu tích một thời cũng là kỷ niệm ngọt ngào như nước giếng Hàm Long.
Giếng Hàm Long (tên chữ là Hàm Long Tĩnh), theo bia “Hàm Long Tỉnh” thì Giếng Hàm Long nằm ngay dưới chân đồi Hàm Long xuất hiện cùng thời với Hoà thượng Giác Phong khai sơn (khoảng năm 1674). Giếng  có một mạch nước theo lỗ đá phun ra như vòi rồng, có nước trong, thơm và ngọt. Nước giếng này sau đó được tiến dâng lên các Chúa, còn người dân thì tuyệt đối không được phép dùng, từ đó nó trở thành một giếng thiêng, giếng cấm: cho nên mới có câu ca dao:
Nước Hàm Long đã trong lại ngọt  
Em thương anh rày có bụt chứng tri.

 
3. CHÙA DIỆU ĐẾ
Chùa Diệu Đế toạ lạc bên bờ sông Hộ Thành, người Huế gọi là sông Gia Hội, hoặc sông Đông Ba, nay là số 100B đường Bạch Đằng, gần cầu Gia Hội.
Chùa Diệu Đế có một vị trí quan trọng trong lịch sử Phật Giáo ở Huế. Chùa nguyên là phủ của vua Thiệu Trị trước khi lên ngôi nên đã có cảnh quan rất đẹp, với vườn tược rộng rãi, cây cối xanh tươi. Năm 1844 nhà vua đã tôn tạo và sắc phong làm Quốc tự. Chùa trở thành một danh lam của đất kinh kỳ.
 
Tam quan chùa Diệu Đế

Diệu Ðế là ngôi quốc tự thứ ba, được vua Thiệu Trị coi là một trong hai mươi thắng cảnh của đất kinh đô Huế.Chùa được vua Thiệu Trị truyền lệnh xây dựng với qui mô lớn vào các năm 1842, 1844 khi mới lên ngôi vài năm, trên vùng đất nhà vua đã ra đời.


Khuôn viên chùa nằm gọn giữa bốn con đường: phía trước là đường Bạch Ðằng chạy dọc theo một nhánh sông Hương, phía sau là đường Tô Hiến Thành gần chùa Diệu Hỷ, bên trái là con đường mang tên chùa Diệu Đế và bên phải là đường chùa Ông. Kiến trúc ban đầu của chùa rất qui mô. Tuy không đẹp bằng chùa Thiên Mụ, nhưng chùa Diệu Ðế có vẻ độc đáo riêng, có bốn lầu (hai lầu chuông, một lầu trống và một lầu bia).



Chính điện là đại giác, tả hữu chính điện là Thiền Đường, phía trước điện dựng gác Ðạo Nguyên hai tầng ba gian, sau gác Ðạo Nguyên có hai lầu chuông trống xây cân đối ở hai bên, chính giữa là lầu Hộ Pháp, sân trong có La Thành, sân trước có hai nhà lục giác, nhà bên tả đặt hồng chung, nhà bên hữu dựng bia lớn khắc bài văn do vua Thiệu Trị soạn. Hệ thống La Thành ngoài chùa Diệu Ðế xây dựng kiên cố, bề thế, trước có Phượng Môn ba cửa, hai bên có cổng nhỏ, ngoài bờ sông có xây bến thuyền khoảng mười bậc lên xuống.



Trước đây, chùa Diệu Ðế có nhiều tượng Phật do được chuyển từ chùa Giác Hoàng, sau sự kiện Kinh đô thất thủ (1885). Cuối năm này, chính phủ Nam Triều đặt sở Đúc Tiền ở Cát Tường Từ Thất, phủ đường Thừa Thiên ở Trí Tuệ Tịnh Xá và một tăng phòng làm nhà lao của tỉnh, một tăng phòng làm trụ sở cho Khâm Thiên Giám. Năm 1887 phần lớn các ngôi nhà trong chùa đều bị triệt hạ...về sau, ngoài cổng La Thành xây thêm bốn trụ biểu.

4. CHÙA QUỐC ẤN

Chùa Quốc Ân (寺恩國) là một trong những ngôi tổ đình danh tiếng và lâu đời bậc nhất tại cố đô Huế. Hiện tại chùa Quốc Ân vẫn còn bảo lưu nhiều dấu ấn văn hóa Phật giáo trong các thời kỳ từ Thuận Hóa đến Phú XuânHuế ngày nay.Chùa thuộc hệ phái Bắc Tông, do tổ sư Tạ Nguyên Thiều khai sơn vào khoảng những năm 1682-1684 với tên ban đầu là thảo am Vĩnh Ân.



Tổ sư Nguyên Thiều, pháp tự là Hoán Bích, người ở Triều Châu, Quảng Đông, Trung Quốc sang hoằng hóa ở Việt Nam vào năm 1677 ở tại phủ Quy Ninh (nay là Bình Định) lập chùa Thập Tháp-Di Đà.Vào khoảng năm 1682-1684, dưới thời chúa Hiền (Nguyễn Phúc Tần) sư Nguyên Thiều ra Phú Xuân ở xứ Thuận Hóa, sư chọn chân đồi Hòn Thiên (chân núi Bân), phía trái núi Ngự Bình để dựng chùa Vĩnh Ân và tháp Phổ Đồng. Chúa Nguyễn Phúc Tần đóng góp ngân khoản xây chùa.

 
Quốc Ân Tự


Sư Nguyên Thiều là người được chúa Nguyễn Phúc Thái trọng vọng, năm 1689, chúa cho miễn thuế đất và đổi hiệu chùa là Quốc Ân và ban tấm biển "Sắc tứ Quốc Ân Tự".[2]

 
Toàn cảnh chùa

Khuôn viên chùa rộng khoảng 5.000m2, trong đó diện tích xây dựng khoảng 550m2. Chùa kiến trúc theo kiểu chữ khẩu truyền thống, tam quan quay hướng Tây Nam gồm 4 trụ. Vào cổng, qua khoảng sân rộng là chính điện. Bên phải sân có tấm bia kích thước (1.6 x 0.725 x 0.07)m do chúa Nguyễn Phúc Chu ghi bài minh tựa đề "Sắc tứ Hà Trung Tự Hoán Bích Thiền sư tháp ký minh" dựng vào tháng 4 năm Bảo Thái thứ 10 (năm 1730). Cạnh bia là 2 am thờ Thiên Y A Na và am thờ Ngũ Hành
Tiền đường chánh điện dài 12m, sâu 22m.[4]
 

  Sotaydulich Sotay Dulich Khampha Kham Pha Bui Cau Phu Cam xu Hue
Một góc khuôn viên chùa

Gian bên trái thờ Bồ Tát Quan Thế Âm, hai bên là Hộ pháp, phía trước thờ Bồ Đề Đạt Ma, gian bên phải thờ Quan Vân Trường, các tượng khí này đều do Tổ Nguyên Thiều mang đến từ Trung Hoa. Hậu liêu thờ chân dung Tổ Nguyên Thiều và nhiều long vị của chư tổ và chư vị trú trì kế thế..

 5. CHÙA THIÊN MỤ

Chùa Thiên Mụ (��天姥) hay còn gọi là chùa Linh Mụ là một ngôi chùa cổ nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế (Việt Nam) khoảng 5 km về phía tây. Chùa Thiên Mụ chính thức khởi lập năm Tân Sửu (1601), đời chúa Tiên Nguyễn Hoàng -vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong.

 
Chùa Thiên Mụ

Trước thời điểm khởi lập chùa, trên đồi Hà Khê có ngôi chùa cũng mang tên Thiên Mỗ hoặc Thiên Mẫu, là một ngôi chùa của người Chăm1.
Truyền thuyết kể rằng, khi chúa Nguyễn Hoàng vào làm Trấn thủ xứ Thuận Hóa kiêm trấn thủ Quảng Nam, ông đã đích thân đi xem xét địa thế ở đây nhằm chuẩn bị cho mưu đồ mở mang cơ nghiệp, xây dựng giang sơn cho dòng họ Nguyễn sau này.

 

Người dân địa phương cho Nguyễn Hoàng biết, nơi đây ban đêm thường có một bà lão mặc áo đỏ quần lục xuất hiện trên đồi, nói với mọi người: "Rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến lập chùa để tụ linh khí, làm bền long mạch, cho nước Nam hùng mạnh". Vì thế, nơi đây còn được gọi là Thiên Mụ Sơn 2.

 
Chính điện

 
Tháp Phước Duyên
Trong chùa Thiên Mụ có tháp Phước Duyên,  cao 21 m, gồm 7 tầng, được xây dựng ở phía trước chùa vào năm 1844. Mỗi tầng tháp đều có thờ tượng Phật. Bên trong có cầu thang hình xoắn ốc dẫn lên tầng trên cùng, nơi trước đây có thờ tượng Phật bằng vàng. Phía trước tháp là đình Hương Nguyện, trên nóc đặt Pháp luân (bánh xe Phật pháp, biểu tượng Phật giáo.Pháp luân đặt trên đình Hương Nguyện quay khi gió thổi).

 
Trận bão năm 1904 đã tàn phá chùa nặng nề. Nhiều công trình bị hư hỏng, trong đó đình Hương Nguyện bị sụp đổ hoàn toàn (nay vẫn còn dấu tích). Năm 1907, vua Thành Thái cho xây dựng lại, nhưng chùa không còn được to lớn như trước nữa. Hai bên tháp có hai nhà tứ giác, đặt hai tấm bia đời Thiệu Trị. Sâu vào bên trong là hai nhà lục giác, một nhà để bia và một nhà để quả chuông đúc đời chúa Nguyễn Phúc Chu.

6. CHÙA THUYỀN TÔN 

Chùa Thuyền Tôn là một tổ đình lớn ở Huế, lúc đầu chỉ là một am tu của ngài Liễu Quán được dựng vào khoảng năm 1708 ở núi Thiên Thai, ngày nay thuộc thôn Ngũ Tây, xã Thuỷ An. Tổ Liễu Quán quê ở Phú Yên, ra Thuận Hoá tầm sư học đạo. Ngài đã tham học với ngài Giác Phong, chùa Báo Quốc, ngài Thạch Liêm chùa Thiên Mụ, và ngài Tử Dung, chùa Ấn Tôn (các vị này đều từ Trung Quốc sang), và sau khi đắc pháp với ngài Tử Dung đã khai sinh thiền phái Lâm Tế - Liễu Quán, một dòng thiền có ảnh hưởng sâu rộng nhất ở Huế, cả miền Trung và nhiều vùng trong Nam, với nhiều danh tăng thuộc nhiều thế hệ đắc pháp và một sự nghiệp hoằng pháp độ sanh rất lớn. 

 


Trong thế kỷ 20, ngài Giác Nhiên thuộc đời thứ 8 dòng thiền Liễu Quán, là người có công chấn hưng Phật Giáo, đồng sáng lập An Nam Phật Học Hội, Viên Âm Nguyệt San, lập trường đại học Phật Giáo ở chùa Tây Thiên, góp phần đào tạo các vị cao tăng như Thích Trí Thủ, Thích Đôn Hậu, Thích Mật Nguyệt, Thích Mật Hiển, và hai vị từ trong nam về sau trở thành danh tăng là Thích Thiện Hoa và Thích Thiện Hoà. Ngài Giác Nhiên được cung thỉnh làm Tăng Tống thứ hai của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Ngài viên tịch năm 1979 lúc 102 tuổi. Chùa cũng được trùng tu nhiều lần để thành một ngôi chùa rất lớn với trụ biểu, chánh điện uy nghi. Đợt trùng tu gần đây nhất là do Hoà Thượng Thích Thiện Siêu, trụ trì chùa Thuyền Tôn (kiêm trú trì chùa Từ Đàm) thực hiện.

 
Chùa Thuyền Tôn
 



7. CHÙA TỪ HIẾU 

Chùa Từ Hiếu hay Tổ đình Từ Hiếu là tên một ngôi chùa ở thôn Dương Xuân Thượng III, phường Thủy Xuân, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Chùa là một trong những ngôi cổ tự lớn và là một danh lam có tính văn hoá và lịch sử của cố đô Huế.

Cổng chùa Từ Hiếu

Năm 1843, sau khi từ chức "Tăng Cang Giác Hoàng Quốc Tự" và trao quyền điều hành chùa Bảo Quốc cho pháp đệ là Nhất Niệm, Hoà thượng Nhất Ðịnh đã đến đây khai sơn, dựng "Thảo Am An Dưỡng" để tịnh tu và nuôi dưỡng mẹ già [1].
 

Hoà thượng Nhất Ðịnh nổi tiếng là người con có hiếu, tương truyền có lần mẹ già bị bệnh rất nặng, hàng ngày ông lo thuốc thang nhưng bà vẫn không khỏi. Có người ái ngại khuyên ông nên mua thêm thịt cá để tẩm bổ cho mẹ, có làm được điều đó mới mong bà chóng hồi sức. Nghe xong, mặc thiên hạ đàm tiếu chê bai, thiền sư vẫn chống gậy băng rừng lội bộ xuống chợ cách đó hơn 5 km để mua cá mang về nấu cháo cho mẹ già ăn.



Câu chuyện vang đến tai Tự Đức vốn là vị vua rất hiếu thảo với mẹ, vua rất cảm phục trước tấm lòng của sư Nhất Định nên ban cho "Sắc tứ Từ Hiếu tự". Chùa được mang tên Từ Hiếu từ đó. Trong tấm bia ghi lại quá trình xây dựng chùa giải thích:
  • Từ: là đức lớn của Phật, nếu không từ thì lấy gì tiếp độ tứ sanh cứu giúp vạn loại.
  • Hiếu: là đầu hạnh của Phật, nếu không hiếu thì lấy gì để đạt thông cõi nhiệm bao phủ đất trời.

     
    Chùa Từ Hiếu nằm khuất trong một rừng thông trên một vùng đồi của phường Thủy Xuân. Khuôn viên chùa rộng chừng 8 mẫu, phía trước có khe nước uốn quanh, phong cảnh thơ mộng.

Hồ bán nguyệt
 
Trước cổng chùa có ngôi tháp cao 3 tầng được xây dựng vào năm 1896 dùng làm nơi tàng trữ kinh tượng theo sắc chỉ của nhà vua. Cổng chùa được xây theo kiểu vòm cuốn, hai tầng có mái che và ngay trước con đường lát gạch để vào chánh điện là một hồ bán nguyệt trồng sen và nuôi cá cảnh. Cấu trúc chùa theo kiểu ba căn hai chái, trước là chính điện thờ Phật, sau là Quảng Hiếu Đường. Ở khu nhà hậu có án thờ Tả quân đô thống Lê Văn Duyệt cùng con ngựa gỗ và thanh đại đao của ông.

Hai bên sân chùa có hai lầu bia để ghi lịch sử xây dựng chùa. Chùa được xây theo kiểu chữ khẩu (口), chính điện ba căn, hai chái, phía trước thờ Phật, phía sau thờ Tổ. Nhà hậu là Quảng Hiếu đường, ở giữa thờ đức thánh quan, bên trái thờ hương linh phật tử tại gia, bên phải thờ các vị Thái giám..., bên tả sân hậu là Tả Lạc Thiên (nhà tăng) và bên hữu là Hữu Ái Nhật (nhà khách).
 
Hồ bán nguyệt
Lăng mộ Hoạn quan Nhà Nguyễn"trong khuôn viên chùa

Xung quanh ngôi chùa Từ Hiếu còn có khá nhiều lăng mộ các vị phi tần của các chúa Nguyễn. Do địa thế đẹp, yên tĩnh lại không xa thành phố Huế nên nơi đây trở thành thắng cảnh ở nơi  ngoại ô điền dã của dân thành phố Huế.

Xin đọc
NGUYỄN THIÊN-THỤ * NGHỆ THUẬT PHẬT GIÁO

No comments: