NGUYỄN NGỌC CHÍNH * THỜI ĐỐT SÁCH
Nguyễn Ngọc Chính's Hồi Ức Một Đời Người
Góp nhặt buồn vui thời điêu linh: Đốt sách
“Nơi nào người ta đốt sách thì họ sẽ kết thúc bằng việc đốt sinh mạng con người”.
Theo Sử ký Tư Mã Thiên, sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa, thừa tướng Lý Tư đã đề nghị dẹp bỏ tự do ngôn luận để thống nhất chính kiến và tư tưởng. Lý Tư chỉ trích giới trí thức dùng ‘sự dối trá’ qua sách vở để tạo phản trong quần chúng.
Chủ trương Đốt sách, Chôn nho (Phần thư, Khanh nho) của Tần Thủy Hoàng được thực hiện từ năm 213 trước Công nguyên. Qua đó, tất cả những kinh điển từ thời Chư tử Bách gia (trừ sách Pháp gia, trường phái của Lý Tư) đều bị đốt sạch. Lý Tư còn đề nghị đốt tất cả thi, thư, sách vở, trừ những quyển được viết vào thời nhà Tần. Sách trong lĩnh vực triết lý và thi ca, trừ những sách của Bác sĩ (cố vấn nhà vua) đều bị đốt. Những nho sinh dùng sử sách để chỉ trích chính quyền đều bị hành hình. Những ai dựa vào chế độ cũ để phê phán chế độ mới sẽ bị xử tội chém ngang lưng.
Lý Tư tấu: “Thần xin rằng sử sách không phải do Tần ghi chép đều bị đem đốt. Ngoại trừ quan chức không phải là tiến sĩ thì trong thiên hạ không ai được phép cất giữ Thi, Thư, sách của Bách gia, tất cả đều phải đem đốt. Nếu dám dùng những lời ngụ ngôn trong Thi, Thư thì chém bêu đầu ở chợ. Lấy xưa mà chê nay thì giết cả họ. Quan lại thấy mà không tố cáo sẽ bị coi là đồng phạm. Nay lệnh trong ba mươi ngày mà không đem đốt, sẽ bị xăm mặt và bắt đi xây dựng trường thành”.
Năm 212 TCN, Tần Thuỷ Hoàng phát hiện ở Hàm Dương có một số nho sinh đã từng bình phẩm về mình liền hạ lệnh bắt để thẩm vấn. Các nho sinh không chịu nổi tra khảo, lại khai ra thêm một loạt người khác. Tần Thuỷ Hoàng hạ lệnh đem tất cả trên 460 nho sinh đó chôn sống ngoài thành Hàm Dương. Đốt sách, chôn Nho là hành vi được người đời sau coi là tàn bạo nhất của Tần Thủy Hoàng. Đó cũng là tội danh hàng ngàn năm sau vẫn còn ghi nhớ. Không riêng gì người Hán mà cả nhân loại lên án.
Trong thâm tâm, Tần Thủy Hoàng cũng như Lý Tư đều biết rất rõ, lệnh đốt sách không thể nào xóa sạch những tư tưởng trong đầu óc dân chúng, những cuốn sách ‘khó đốt’ nhất là nằm trong tinh thần con người. Như vậy, việc đốt sách thực tế chỉ là một thủ đoạn chứ không tạo được tác dụng triệt để trong việc xóa sạch vết tích văn hóa-chính trị như mong muốn.
******************************************************************************************
Việt Nam vốn tự hào là quốc gia có hơn 4000 năm văn hiến, nhưng sách vở của người xưa để lại thì rất ít. Nguyên nhân chính là vì quân nhà Minh bên Tàu đã ra lệnh hủy hết sách vở ngay trong những ngày đầu đô hộ nước ta để dễ bề cai trị. Sau này, cuộc Cách mạng Văn hóa tại Trung Hoa từ năm 1953 đến 1966 cũng đã gây nhiều ảnh hưởng đến miền Bắc. Do đó, xét về mặt lịch sử, Việt Nam đã trải qua rất nhiều thời kỳ sách vở bị tiêu hủy cho phù hợp với những thay đổi qua các giai đoạn chính trị.
Trên thực tế, tại miền Bắc, ngay sau khi tiếp quản Hà Nội, việc kiểm duyệt sách báo, bài viết trước khi đem phổ biến ra công chúng đã được thực hiện ngay từ năm 1954. Đối với các loại sách báo đã in ra từ trước 1954 dưới thời Pháp thuộc cũng đã bị đốt. Thế cho nên, việc đốt sách tại miền Nam năm 1975 chỉ là rập khuôn của chính sách cũ năm 1954.
Hồi ký của Một người Hà Nội ghi lại sự kiện đốt sách năm 1954 khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản miền Bắc: “Chơi vơi trong Hà Nội, tôi đi tìm thầy xưa, bạn cũ, hầu hết đã đi Nam. Tôi phải học năm cuối cùng, Tú tài 2, cùng một số ‘lớp Chín hậu phương’, năm sau sẽ sáp nhập thành ‘hệ mười năm’. Số học sinh ‘lớp Chín’ này vào lớp không phải để học, mà là ‘tổ chức Hiệu đoàn’, nhận ‘chỉ thị của Thành đoàn’ rồi ‘phát động phong trào chống văn hóa nô dịch!’. Họ truy lùng… đốt sách!
Tôi đã phải nhồi nhét đầy ba bao tải, Hiệu đoàn ‘kiểm tra’, lục lọi, từ quyển vở chép thơ, nhạc, đến tiểu thuyết và sách quý, mang ‘tập trung’ tại Thư viện phố Tràng Thi, để đốt. Lửa cháy bập bùng mấy ngày, trong niềm ‘phấn khởi’, lời hô khẩu hiệu ‘quyết tâm’, và ‘phát biểu của bí thư Thành đoàn’: Tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn là… ‘cực kỳ phản động!’. Vào lớp học với những ‘phê bình, kiểm thảo… cảnh giác, lập trường”.
*****************************************************************************************
Tại miền Nam, trong thời điêu linh ngay sau ngày 30/4/1975, việc đốt sách được thể hiện qua chiến dịch Bài trừ Văn hóa Đồi trụy-Phản động. Tự bản thân khẩu hiệu trong chiến dịch đã nêu rõ 2 mục đích: (1) về chính trị, bài trừ các luồng tư tưởng phản động chống đối chế độ và (2) về văn hóa, xóa bỏ hình thức được coi là ‘đồi trụy theo hình thức tư bản’.
Một trong những việc làm cấp thiết của chính quyền mới khi miền Nam sụp đổ là niêm phong, tịch thu sách tại các thư viện. Những tác phẩm của nhà in, nhà xuất bản và nhà sách lớn tại Sài Gòn như Khai Trí, Sống Mới, Độc Lập, Đồng Nai, Nam Cường, Trí Đăng… đều bị niêm phong và cấm lưu hành.
Xuống đường Bài trừ Văn hóa Đồi trụy & Phản động trong thời điêu linh
Đội ngũ những người cầm bút miền Nam phải nói là rất đông và bao gồm nhiều lãnh vực. Về triết học phương Tây có Lê Tôn Nghiêm, Trần Văn Toàn, Trần Thái Đỉnh, Nguyễn Văn Trung, Trần Bích Lan… Triết Đông có Nguyễn Đăng Thục, Nghiêm Xuân Hồng, Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Khắc Kham, Nghiêm Toản, Kim Định, Nhất Hạnh…
Phần biên khảo có Nguyễn Hiến Lê, Giản Chi, Lê Ngọc Trụ, Lê Văn Đức, Lê Văn Lý, Trương Văn Chình, Đào Văn Tập, Phạm Thế Ngũ, Vương Hồng Sển, Thanh Lãng, Nguyễn Ngu Í, Nguyễn Văn Xuân, Lê Tuyên, Đoàn Thêm, Hoàng Văn Chí, Nguyễn Bạt Tụy, Phan Khoang, Phạm Văn Sơn, Nguyễn Thế Anh, Nguyễn Khắc Ngữ, Nguyễn Văn Sâm...
Về thi ca có Nguyên Sa, Quách Thoại, Thanh Tâm Tuyền, Cung Trầm Tưởng, Tô Thùy Yên, Đinh Hùng, Bùi Giáng, Viên Linh, Hoàng Trúc Ly, Nhã Ca, Trần Dạ Từ, Phạm Thiên Thư, Nguyễn Đức Sơn, Du Tử Lê.... Phê bình văn học có Tam Ích, Cao Huy Khanh, Lê Huy Oanh, Đỗ Long Vân, Đặng Tiến, Uyên Thao, Huỳnh Phan Anh...
Đông đảo nhất là văn chương với Võ Phiến, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Doãn
Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, Bình Nguyên Lộc, Mặc Thu,
Mặc Đỗ, Thanh Nam, Nhật Tiến, Nguyễn Thị Vinh, Phan Du, Đỗ Tấn, Nguyễn
Mạnh Côn, Sơn Nam, Võ Hồng, Túy Hồng, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn
Thị Thụy Vũ, Minh Đức Hoài Trinh, Nguyễn Đình Toàn, Chu Tử, Viên Linh,
Duyên Anh, Phan Nhật Nam, Nguyên Vũ, Vũ Hạnh, Y Uyên, Cung Tích Biền,
Duy Lam, Thế Uyên, Lê Tất Điều, Hoàng Hải Thủy, Văn Quang, Nguyễn Thụy
Long, Phan Lạc Tiếp, Thế Nguyên, Thế Phong, Diễm Châu, Thảo Trường,
Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Mộng Giác, Ngô Thế Vinh...
Toàn bộ sách ấn hành tại miền Nam của những tác giả nêu trên (còn một số
người nữa mà người viết bài này không thể nhớ hết) đều bị ‘đánh đồng’
là tàn dư Mỹ-Ngụy, văn hóa nô dịch, phản động và đồi trụy. Các cấp chính
quyền từ phường, xã, quận, huyện, thành phố ra chỉ thị tập trung tất cả
các loại sách vở, từ tiểu thuyết, biên khảo cho đến sách giáo khoa để
hỏa thiêu.
Không có con số thống kê chính thức nhưng người ta ước đoán có đến vài trăm ngàn sách báo và băng, đĩa nhạc bị thiêu đốt trong chiến dịch truy quét văn hóa phẩm đồi trụy-phản động tại Sài Gòn. Sách báo trên kệ sách trong nhà của tư nhân bị các thanh niên đeo băng đỏ lôi ra hỏa thiêu không thương tiếc. Tại các cửa hàng kinh doanh, sách báo bị thu gom để thiêu hủy, coi như đốt cháy cả cơ nghiệp lẫn con người những cá nhân có liên quan. Tất nhiên, những người có sách bị đốt cũng có phản ứng quyết liệt. Trong hồi ký Viết trên gác bút, nhà văn Nguyễn Thụy Long ghi lại một diễn biến trong vụ đốt sách năm 1975:
“Một cửa hiệu chuyên cho thuê truyện tại đường Huỳnh Quang Tiên bên cạnh nhà thờ Ba Chuông tại Phú Nhuận phát nổ khi đoàn thu gom sách mang băng đỏ xâm nhâp tiệm. Ông chủ nhà sách mời tất cả vào nhà. Rồi một trái lựu đạn nổ. Chuyện xảy ra không ai ngờ. Đương nhiên là có đổ máu, có kẻ mạng vong. Những chú nhỏ miệng còn hôi sữa, những cô bé chưa ráo máu đầu là nạn nhân vô tội. Trên cánh tay còn đeo tấm băng đỏ, quả thật súng đạn vô tình! Cả chủ tiệm cũng mạng vong”.
Nguyễn Thụy Long là cháu ruột nhà văn Nguyễn Bá Học nổi tiếng với câu “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Những tiểu thuyết của Nguyễn Thụy Long như Loan mắt nhung, Kinh nước đen cũng gian truân không kém cuộc đời của tác giả, chúng được xếp vào loại ‘văn hóa nô dịch’ nên phải lên giàn hỏa.
Năm 1975, Duyên Anh (Vũ Mộng Long) bị chính quyền mới coi như ‘một trong mười nhà văn nguy hiểm nhất của miền Nam’ với hơn 50 tác phẩm văn chương, trong đó nổi bật có Luật hè phố, Dzũng Đakao, Điệu ru nước mắt, Vẻ buồn tỉnh lỵ, Thằng Vũ, Thằng Côn, Con Thúy. Chế độ mới cấm ông viết lách và bắt giam không xét xử suốt sáu năm qua các nhà tù và trại tập trung.
Vượt biển sang Pháp, Duyên Anh tiếp tục viết và cho xuất bản gần hai mươi tác phẩm, trong đó có Un Russe à Saigon và La colline de Fanta do nhà Belfond xuất bản. Báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình Pháp viết nhiều, nói nhiều về ông. Sử gia Piere Chaunu, giáo sư Đại học Sorbonne, coi Duyên Anh là ‘nhà thơ lớn, vinh quang của quốc gia’.
Đầu năm 1997, Duyên Anh từ trần tại Pháp. Dù muốn dù không, nhiều người ngậm ngùi nghĩ đến tác giả của truyện ngắn đọc đến mủi lòng, có tựa đề là Con sáo của em tôi đăng trên Chỉ Đạo năm 1956. Những truyện ngắn, truyện dài thật trong sáng của tuổi ô mai như Dưới dàn hoa thiên lý hoặc du côn du đãng như Dzũng Dakao… Tất cả lần lượt được hóa kiếp bằng ngọn lửa.
Trong cuốn Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hóa – tư tưởng xuất bản sau năm 1975 có đoạn viết:
“… Một số người như Duyên Anh, Nhã Ca… chấp nhận chủ nghĩa chống Cộng với một thái độ hoàn toàn tự nguyện. Nhưng nếu xét gốc rễ thái độ thù địch của họ đối với cách mạng, thái độ đó có nguyên nhân ở sự tác động của chủ nghĩa thực dân mới. Họ vừa là kẻ thù của cách mạng, của nhân dân. Nhưng nếu xét đến cùng họ cũng vừa là một nạn nhân của đường lối xâm lược tinh vi, xảo quyệt của Mỹ.
Dù xét dưới tác động nào, hoạt động chống Cộng bằng văn nghệ của đội ngũ những cây bút này cũng là những hoạt động có ý thức. Ý thức đó biểu hiệu trước hết trong thái độ chấp nhận trật tự xã hội thực dân mới, chống lại một cách điên cuồng chủ nghĩa Cộng Sản...
Họ cho văn nghệ là sự chọn lựa một phạm vi hoạt động, một phương tiện để đạt mục đích và tự nguyện dùng ngòi bút của mình phục vụ cho chế độ. Thái độ tự nguyện của họ cũng đã có nhiều người tự nói ra. Vũ Hoàng Chương tự ví mình là ‘viên gạch để xây bức tường thành ngăn sóng đỏ’, Doãn Quốc Sĩ coi mình như một ‘viên kim cương, răng Cộng Sản không sao nhá được’...”
Trong vụ án được mệnh danh là Nhũng tên Biệt kích Cầm bút năm 1986, một số nhà văn ra tòa tại Sài Gòn với tội ‘gián điệp’. Chính quyền mới muốn dựng một vụ án điển hình để đe dọa các nhà văn miềnNam nhưng bất thành vì áp lực từ bên ngoài. Theo kịch bản được dàn dựng, họ muốn xử Doãn Quốc Sĩ mức án tử hình hay chung thân, Hoàng Hải Thủy (từ chung thân đến 20 năm), Dương Hùng Cường (18 năm), Lý Thụy Ý (15 năm), Nguyễn Thị Nhạn (12 năm), Hiếu Chân Nguyễn Hoạt (10 năm) và Khuất Duy Trác cùng Trần Ngọc Tự (8 năm).
Tính ra Hoàng Hải Thủy (còn có bút danh Công tử Hà Đông, Con trai bà Cả Đọi…) ngồi tù ngót nghét 10 năm sau đó tìm đường vượt biên sang Mỹ. Tác phẩm của ông gồm đủ thể loại: tiểu thuyết đăng nhiều kỳ trên các báo, truyện phóng tác, bình luận, phiếm luận… Bây giờ tuy đã già nhưng vẫn còn viết rất hăng ở Rừng Phong (Virginia) trên blog http://hoanghaithuy.wordpress.com/.
Những nhà văn như Hoàng Hải Thủy, Duyên Anh, Nguyễn Thụy Long thường sinh sống bằng nghề viết báo bên cạnh việc viết văn. Trong lãnh vực báo chí, Sài Gòn vẫn được coi là trung tâm của báo chí với những nhật báo lớn đã xuất hiện từ lâu như tờ Thần Chung (sau đổi thành Tiếng Chuông của Đinh Văn Khai), Sài Gòn Mới của bà Bút Trà… Khi người Bắc di cư vào Nam có thêm tờ Tự Do, tiếp đến là Ngôn Luận. Đó là những nhật báo lớn có ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng. Hoạt động báo chí ở Saigòn càng ngày càng phát triển, theo Vũ Bằng, đến tháng 12/1963, ở Sài Gòn có tới 44 tờ báo ra hàng ngày.
Không có con số thống kê chính thức nhưng người ta ước đoán có đến vài trăm ngàn sách báo và băng, đĩa nhạc bị thiêu đốt trong chiến dịch truy quét văn hóa phẩm đồi trụy-phản động tại Sài Gòn. Sách báo trên kệ sách trong nhà của tư nhân bị các thanh niên đeo băng đỏ lôi ra hỏa thiêu không thương tiếc. Tại các cửa hàng kinh doanh, sách báo bị thu gom để thiêu hủy, coi như đốt cháy cả cơ nghiệp lẫn con người những cá nhân có liên quan. Tất nhiên, những người có sách bị đốt cũng có phản ứng quyết liệt. Trong hồi ký Viết trên gác bút, nhà văn Nguyễn Thụy Long ghi lại một diễn biến trong vụ đốt sách năm 1975:
“Một cửa hiệu chuyên cho thuê truyện tại đường Huỳnh Quang Tiên bên cạnh nhà thờ Ba Chuông tại Phú Nhuận phát nổ khi đoàn thu gom sách mang băng đỏ xâm nhâp tiệm. Ông chủ nhà sách mời tất cả vào nhà. Rồi một trái lựu đạn nổ. Chuyện xảy ra không ai ngờ. Đương nhiên là có đổ máu, có kẻ mạng vong. Những chú nhỏ miệng còn hôi sữa, những cô bé chưa ráo máu đầu là nạn nhân vô tội. Trên cánh tay còn đeo tấm băng đỏ, quả thật súng đạn vô tình! Cả chủ tiệm cũng mạng vong”.
Nguyễn Thụy Long là cháu ruột nhà văn Nguyễn Bá Học nổi tiếng với câu “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Những tiểu thuyết của Nguyễn Thụy Long như Loan mắt nhung, Kinh nước đen cũng gian truân không kém cuộc đời của tác giả, chúng được xếp vào loại ‘văn hóa nô dịch’ nên phải lên giàn hỏa.
Năm 1975, Duyên Anh (Vũ Mộng Long) bị chính quyền mới coi như ‘một trong mười nhà văn nguy hiểm nhất của miền Nam’ với hơn 50 tác phẩm văn chương, trong đó nổi bật có Luật hè phố, Dzũng Đakao, Điệu ru nước mắt, Vẻ buồn tỉnh lỵ, Thằng Vũ, Thằng Côn, Con Thúy. Chế độ mới cấm ông viết lách và bắt giam không xét xử suốt sáu năm qua các nhà tù và trại tập trung.
Vượt biển sang Pháp, Duyên Anh tiếp tục viết và cho xuất bản gần hai mươi tác phẩm, trong đó có Un Russe à Saigon và La colline de Fanta do nhà Belfond xuất bản. Báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình Pháp viết nhiều, nói nhiều về ông. Sử gia Piere Chaunu, giáo sư Đại học Sorbonne, coi Duyên Anh là ‘nhà thơ lớn, vinh quang của quốc gia’.
Đầu năm 1997, Duyên Anh từ trần tại Pháp. Dù muốn dù không, nhiều người ngậm ngùi nghĩ đến tác giả của truyện ngắn đọc đến mủi lòng, có tựa đề là Con sáo của em tôi đăng trên Chỉ Đạo năm 1956. Những truyện ngắn, truyện dài thật trong sáng của tuổi ô mai như Dưới dàn hoa thiên lý hoặc du côn du đãng như Dzũng Dakao… Tất cả lần lượt được hóa kiếp bằng ngọn lửa.
Trong cuốn Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hóa – tư tưởng xuất bản sau năm 1975 có đoạn viết:
“… Một số người như Duyên Anh, Nhã Ca… chấp nhận chủ nghĩa chống Cộng với một thái độ hoàn toàn tự nguyện. Nhưng nếu xét gốc rễ thái độ thù địch của họ đối với cách mạng, thái độ đó có nguyên nhân ở sự tác động của chủ nghĩa thực dân mới. Họ vừa là kẻ thù của cách mạng, của nhân dân. Nhưng nếu xét đến cùng họ cũng vừa là một nạn nhân của đường lối xâm lược tinh vi, xảo quyệt của Mỹ.
Dù xét dưới tác động nào, hoạt động chống Cộng bằng văn nghệ của đội ngũ những cây bút này cũng là những hoạt động có ý thức. Ý thức đó biểu hiệu trước hết trong thái độ chấp nhận trật tự xã hội thực dân mới, chống lại một cách điên cuồng chủ nghĩa Cộng Sản...
Họ cho văn nghệ là sự chọn lựa một phạm vi hoạt động, một phương tiện để đạt mục đích và tự nguyện dùng ngòi bút của mình phục vụ cho chế độ. Thái độ tự nguyện của họ cũng đã có nhiều người tự nói ra. Vũ Hoàng Chương tự ví mình là ‘viên gạch để xây bức tường thành ngăn sóng đỏ’, Doãn Quốc Sĩ coi mình như một ‘viên kim cương, răng Cộng Sản không sao nhá được’...”
Trong vụ án được mệnh danh là Nhũng tên Biệt kích Cầm bút năm 1986, một số nhà văn ra tòa tại Sài Gòn với tội ‘gián điệp’. Chính quyền mới muốn dựng một vụ án điển hình để đe dọa các nhà văn miềnNam nhưng bất thành vì áp lực từ bên ngoài. Theo kịch bản được dàn dựng, họ muốn xử Doãn Quốc Sĩ mức án tử hình hay chung thân, Hoàng Hải Thủy (từ chung thân đến 20 năm), Dương Hùng Cường (18 năm), Lý Thụy Ý (15 năm), Nguyễn Thị Nhạn (12 năm), Hiếu Chân Nguyễn Hoạt (10 năm) và Khuất Duy Trác cùng Trần Ngọc Tự (8 năm).
Tính ra Hoàng Hải Thủy (còn có bút danh Công tử Hà Đông, Con trai bà Cả Đọi…) ngồi tù ngót nghét 10 năm sau đó tìm đường vượt biên sang Mỹ. Tác phẩm của ông gồm đủ thể loại: tiểu thuyết đăng nhiều kỳ trên các báo, truyện phóng tác, bình luận, phiếm luận… Bây giờ tuy đã già nhưng vẫn còn viết rất hăng ở Rừng Phong (Virginia) trên blog http://hoanghaithuy.wordpress.com/.
Những nhà văn như Hoàng Hải Thủy, Duyên Anh, Nguyễn Thụy Long thường sinh sống bằng nghề viết báo bên cạnh việc viết văn. Trong lãnh vực báo chí, Sài Gòn vẫn được coi là trung tâm của báo chí với những nhật báo lớn đã xuất hiện từ lâu như tờ Thần Chung (sau đổi thành Tiếng Chuông của Đinh Văn Khai), Sài Gòn Mới của bà Bút Trà… Khi người Bắc di cư vào Nam có thêm tờ Tự Do, tiếp đến là Ngôn Luận. Đó là những nhật báo lớn có ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng. Hoạt động báo chí ở Saigòn càng ngày càng phát triển, theo Vũ Bằng, đến tháng 12/1963, ở Sài Gòn có tới 44 tờ báo ra hàng ngày.
Nhật báo Tiếng Chuông
Một đặc điểm của văn học miền Nam là việc hình thành các nhóm văn học. Nhóm Quan Điểm do Vũ Khắc Khoan thành lập với Nghiêm Xuân Hồng, Mặc Đỗ. Quan Điểm (cũng là tên nhà xuất bản do Mặc Đỗ điều hành) được người đương thời gọi là nhóm ‘trí thức tiểu tư sản’, bởi tác phẩm của họ, trong những ngày đầu chia cắt đất nước sau hiệp định Genève, thường có những nhân vật mang nỗi hoang mang, trăn trở của người trí thức tiểu tư sản trước ngã ba đường: theo bên này, bên kia, hay đứng ngoài thời cuộc?
Theo Trần Thanh Hiệp, nhóm Sáng Tạo là một nhóm sinh viên hoạt động trong Tổng hội sinh viên Hà Nội, trước 1954, gồm bốn người: Nguyễn Sĩ Tế, Doãn Quốc Sĩ, Thanh Tâm Tuyền và Trần Thanh Hiệp. Di cư vào Sài Gòn, họ tiếp tục hoạt động văn nghệ với tuần báo Dân Chủ (do Trần Thanh Hiệp và Thanh Tâm Tuyền phụ trách), rồi tờ Người Việt (tiền thân của tờ Sáng Tạo). Sau đó Mai Thảo gia nhập nhóm với truyện ngắn Đêm giã từ Hà Nội, rồi đến Lữ Hồ, Ngọc Dũng, Duy Thanh, Quách Thoại.
Trên tạp chí Sáng Tạo, ngoài những tên tuổi kể trên người ta còn thấy Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên, Dương Nghiễm Mậu, họa sĩ Thái Tuấn. Sáng Tạo số đầu ra tháng 10/1956 và tạm ngưng ở số 27 (tháng 12/58). Sáng Tạo bộ mới chỉ đến số 7 (tháng 3/6
Tạp chí Sáng Tạo (1958)
Nhóm Bách Khoa ra đời tháng 1/1957 và sống đến ngày Sài Gòn sụp đổ. Bách Khoa là nguyệt san văn học nghệ thuật có tuổi thọ dài nhất với 426 số. Bách Khoa do Huỳnh Văn Lang điều hành trong những năm đầu. Đến 1963, khi Ngô Đình Diệm đổ, Huỳnh Văn Lang bị bắt, bị tù, nên giao hẳn cho Lê Ngộ Châu.
Bách Khoa quy tụ được nhiều tầng lớp nhà văn khác nhau thuộc mọi lứa tuổi. Những cây bút nổi tiếng cộng tác thường xuyên với Bách Khoa là Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, Nguyễn Ngu Ý, Vũ Hạnh, Võ Hồng, Đoàn Thêm, Nguyễn Văn Xuân, Bình Nguyên Lộc.... Theo Võ Phiến, trong thời kỳ cực thịnh, tức là khoảng 1959-1963, mỗi số Bách Khoa bán được 4500 đến 5000 bản.
Nhóm Bách Khoa ra đời tháng 1/1957 và sống đến ngày Sài Gòn sụp đổ. Bách Khoa là nguyệt san văn học nghệ thuật có tuổi thọ dài nhất với 426 số. Bách Khoa do Huỳnh Văn Lang điều hành trong những năm đầu. Đến 1963, khi Ngô Đình Diệm đổ, Huỳnh Văn Lang bị bắt, bị tù, nên giao hẳn cho Lê Ngộ Châu.
Bách Khoa quy tụ được nhiều tầng lớp nhà văn khác nhau thuộc mọi lứa tuổi. Những cây bút nổi tiếng cộng tác thường xuyên với Bách Khoa là Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, Nguyễn Ngu Ý, Vũ Hạnh, Võ Hồng, Đoàn Thêm, Nguyễn Văn Xuân, Bình Nguyên Lộc.... Theo Võ Phiến, trong thời kỳ cực thịnh, tức là khoảng 1959-1963, mỗi số Bách Khoa bán được 4500 đến 5000 bản.
Tạp chí Bách Khoa (1962)
Đắt khách nhất là tạp chí Văn của Nguyễn Đình Vượng, ra đời ngày 1/1964 và sống đến 1975. Văn do Trần Phong Giao trông nom trong 10 năm đầu, đến 1974 chuyển lại cho Mai Thảo. Văn cũng quy tụ được nhiều nhà văn ở nhiều lứa tuổi thuộc nhiều khuynh hướng, từ Dương Nghiễm Mậu, Thanh Tâm Tuyền đến Thế Uyên, Nguyễn Mạnh Côn, Bình Nguyên Lộc... Văn đặc biệt quan tâm đến việc dịch thuật và giới thiệu văn học nước ngoài. Trần Phong Giao cũng là một dịch giả nổi tiếng, còn có thêm Trần Thiện Đạo, sống ở Paris, dịch và viết về những phong trào văn học đang thịnh hành ở Pháp.
Tạp chí Văn
Tạp chí Văn hoá Ngày nay của Nhất Linh ra đời ngày 17/6/1958, được 11 số thì đình bản. Nguyễn Thị Vinh tiếp tục chủ trương tiếp các tờ Tân Phong, Đông Phương, theo chiều hướng Văn hoá Ngày nay.
Tạp chí Đại học, tờ báo của Viện đại học Huế do Linh mục Cao Văn Luận, viện trưởng, làm chủ nhiệm, ra đời năm 1958 ở Huế, và sống đến năm 1964. Trên Đại học, xuất hiện những bài đầu tiên của Nguyễn Văn Trung, người sau này có ảnh hưởng lớn đến thế hệ sinh viên và trí thức.
Về các nhóm, Viên Linh trong cuốn Chiêu niệm văn chương, cho biết: “Các nhà văn xuất hiện thường xuyên, trên nhật báo, qua các nhà xuất bản, nhất là trên các báo định kỳ, và thành từng nhóm. Lý lịch văn chương và sắc thái địa phương của họ rất tương đồng, tùy theo nhóm tạp chí trên đó họ góp mặt”.
Đa số các nhà văn miền Nam qui tụ trên các tờ tuần báo Đời Mới, Nhân Loại, và nhật báo như Tiếng Chuông, Sàigon Mới (Hồ Hữu Tường, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Kiên Giang, Lưu Nghi, Thẩm Thệ Hà, Trang Thế Hy...). Các nhà văn gốc miền Trung xuất hiện trên tờ Văn Nghệ Mới, Bách Khoa (Võ Thu Tịnh, Nguyễn Văn Xuân, Võ Phiến, Đỗ Tấn, Vũ Hạnh, Bùi Giáng, Võ Hồng, Nguyễn Thị Hoàng); các nhà văn ‘di cư’ có mặt trên các tờ Đất Đứng, Sáng Tạo, và trên các nhật báo như Tự Do, Ngôn Luận (Đỗ Thúc Vịnh, Nguyễn Hoạt, Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Nghiêm Xuân Hồng, Nguyễn Sỹ Tế, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền) hay Văn Nghệ (Lý Hoàng Phong, Dương Nghiễm Mậu, Viên Linh, Nguyễn Đức Sơn), Hiện Đại (Nguyên Sa, Trần Dạ Từ, Nhã Ca). Tờ Chỉ Đạo, Phụng Sự, Tiền Tuyến quy tụ các nhà văn quân đội hay quân nhân đồng hoá như Nguyễn Mạnh Côn, Mặc Thu, Thanh Nam, Phan Nhật Nam, Thảo Trường...
Tạp chí Văn hoá Ngày nay của Nhất Linh ra đời ngày 17/6/1958, được 11 số thì đình bản. Nguyễn Thị Vinh tiếp tục chủ trương tiếp các tờ Tân Phong, Đông Phương, theo chiều hướng Văn hoá Ngày nay.
Tạp chí Đại học, tờ báo của Viện đại học Huế do Linh mục Cao Văn Luận, viện trưởng, làm chủ nhiệm, ra đời năm 1958 ở Huế, và sống đến năm 1964. Trên Đại học, xuất hiện những bài đầu tiên của Nguyễn Văn Trung, người sau này có ảnh hưởng lớn đến thế hệ sinh viên và trí thức.
Về các nhóm, Viên Linh trong cuốn Chiêu niệm văn chương, cho biết: “Các nhà văn xuất hiện thường xuyên, trên nhật báo, qua các nhà xuất bản, nhất là trên các báo định kỳ, và thành từng nhóm. Lý lịch văn chương và sắc thái địa phương của họ rất tương đồng, tùy theo nhóm tạp chí trên đó họ góp mặt”.
Đa số các nhà văn miền Nam qui tụ trên các tờ tuần báo Đời Mới, Nhân Loại, và nhật báo như Tiếng Chuông, Sàigon Mới (Hồ Hữu Tường, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Kiên Giang, Lưu Nghi, Thẩm Thệ Hà, Trang Thế Hy...). Các nhà văn gốc miền Trung xuất hiện trên tờ Văn Nghệ Mới, Bách Khoa (Võ Thu Tịnh, Nguyễn Văn Xuân, Võ Phiến, Đỗ Tấn, Vũ Hạnh, Bùi Giáng, Võ Hồng, Nguyễn Thị Hoàng); các nhà văn ‘di cư’ có mặt trên các tờ Đất Đứng, Sáng Tạo, và trên các nhật báo như Tự Do, Ngôn Luận (Đỗ Thúc Vịnh, Nguyễn Hoạt, Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Nghiêm Xuân Hồng, Nguyễn Sỹ Tế, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền) hay Văn Nghệ (Lý Hoàng Phong, Dương Nghiễm Mậu, Viên Linh, Nguyễn Đức Sơn), Hiện Đại (Nguyên Sa, Trần Dạ Từ, Nhã Ca). Tờ Chỉ Đạo, Phụng Sự, Tiền Tuyến quy tụ các nhà văn quân đội hay quân nhân đồng hoá như Nguyễn Mạnh Côn, Mặc Thu, Thanh Nam, Phan Nhật Nam, Thảo Trường...
Nhật báo Tiền Tuyến
Khuynh hướng Phật giáo có các tờ Tư Tưởng, Vạn Hạnh với Tuệ Sỹ, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Nguyễn Hữu Hiệu; khuynh hướng Thiên chúa giáo La mã có Hành Trình, Đối Diện với Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Diễm Châu, Thế Nguyên. Mặc dù khi đó đảng Cộng Sản bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, song các nhà văn theo Cộng Sản như Nguyễn Ngọc Lương, Minh Quân, Vũ Hạnh vẫn tạo được diễn đàn riêng trên Tin Văn hay hiện diện trong tổ chức Văn Bút dưới thời linh mục Thanh Lãng làm chủ tịch.
Những tờ như Văn, Phổ Thông, Văn Học, qui tụ các nhà văn không có lập trường chính trị rõ rệt, họ thuần túy làm văn thơ cổ điển như Đông Hồ, Mộng Tuyết, Nguyễn Vỹ, Bùi Khánh Đản, hay văn nghệ thời đại, sinh hoạt thành phố như Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Túy Hồng. Những tờ về nghệ thuật hay về phụ nữ quy tụ các nhà văn như Tùng Long, An Khê, Lê Xuyên, Nguyễn Thụy Long, Hoàng Hải Thủy, Văn Quang...
Về giới cầm bút sau 1963, Nguyễn Văn Trung viết: “Giới cầm bút sau 1963, họ là những người hồi 1954 trên dưới mười tuổi theo gia đình vào Nam hoặc sinh trưởng và lớn lên ở miền Nam hầu hết có tú tài và tốt nghiệp đại học. Số lượng giới trẻ cầm bút này càng ngày càng đông đảo theo đà thành lập các đại học ở các tỉnh Huế, Đà Lạt, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ, Long Xuyên, Tây Ninh và các đại học tư ở Sàigòn như Vạn Hạnh, Minh Đức...”
Những nhà văn trẻ đã trưởng thành về tuổi đời và nhận thức sau 1963, trong hoàn cảnh nhiều xáo trộn chính trị-xã hội, chiến tranh mở rộng với sự can thiệp ồ ạt của quân đội nước ngoài. Thời cuộc và chính trị ảnh hưởng trực tiếp đến họ vì bị động viên hay quân dịch... Do đó, họ có lối nhìn thời cuộc đất nước và nghệ thuật văn học khác hẳn với lối nhìn của những đàn anh viết từ trước 1963… Thơ văn giới trẻ viết sau 1963 thường theo một xu hướng chung, phản ánh vũ trụ Kafka, như tên đặt cho một số đặc biệt về thơ văn của Hành Trình, hoặc phản ánh thân phận những nhân vật Việt Nam tương tự những nhân vật trong tiểu thuyết Giờ thứ hai mươi lăm của Gheorghiu.
Nhờ hệ thống báo chí phát triển, quần chúng độc giả bao gồm nhiều thành phần trong khi các nhà văn nổi tiếng như Mai Thảo, Bình Nguyên Lộc, Túy Hồng, Nhã Ca, Duyên Anh, Chu Tử, Thanh Nam... đều sống bằng ngòi bút một cách dư giả. Họ là những người viết chuyên nghiệp, thậm chí nhiều nhà văn có nhà xuất bản riêng.
Nguyễn Hiến Lê trong 30 năm biên khảo và dịch thuật đã viết được 100 quyển sách trước 1975, và 20 cuốn thời gian sau đó. Nguyễn Văn Trung, ngoài lượng sách về triết học, văn học, in trước 1975, trong những công trình sau 1975, có bộ Lục Châu Học, nghiên cứu về văn học miền Lục tỉnh Nam Kỳ. Những nhà văn như Hồ Hữu Tường, Bình Nguyên Lộc, Mai Thảo... cũng đều có những số lượng tiểu thuyết trên dưới 30 cuốn. Về sáng tác, số lượng tỷ lệ nghịch với chất lượng và đó là cái giá mà nhà văn phải trả.
Về đối tượng độc giả, có thể nói, lớp trẻ ‘bụi đời’ thích đọc Duyên Anh, lớp sống vũ bão thích Chu Tử. Phụ nữ thích Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nguyễn Thị Hoàng, Nhã Ca vì họ phản ảnh đời sống người phụ nữ tân tiến. Lớp trí thức thích cách đặt vấn đề của Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Nghiêm Xuân Hồng. Lớp trẻ lãng mạn giao thời thích đọc Mai Thảo. Tuy nhiên, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu là những tác giả đòi hỏi người đọc một trình độ trí thức cao. Quần chúng bình dân thích Lê Xuyên, Tùng Long... Học sinh trường Tây đọc văn chương ngoại quốc qua tiếng Pháp, tiếng Anh. Học sinh trường Việt đọc các tác phẩm ngoại quốc qua bản dịch hoặc phóng tác.
Khuynh hướng Phật giáo có các tờ Tư Tưởng, Vạn Hạnh với Tuệ Sỹ, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Nguyễn Hữu Hiệu; khuynh hướng Thiên chúa giáo La mã có Hành Trình, Đối Diện với Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Diễm Châu, Thế Nguyên. Mặc dù khi đó đảng Cộng Sản bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, song các nhà văn theo Cộng Sản như Nguyễn Ngọc Lương, Minh Quân, Vũ Hạnh vẫn tạo được diễn đàn riêng trên Tin Văn hay hiện diện trong tổ chức Văn Bút dưới thời linh mục Thanh Lãng làm chủ tịch.
Những tờ như Văn, Phổ Thông, Văn Học, qui tụ các nhà văn không có lập trường chính trị rõ rệt, họ thuần túy làm văn thơ cổ điển như Đông Hồ, Mộng Tuyết, Nguyễn Vỹ, Bùi Khánh Đản, hay văn nghệ thời đại, sinh hoạt thành phố như Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Túy Hồng. Những tờ về nghệ thuật hay về phụ nữ quy tụ các nhà văn như Tùng Long, An Khê, Lê Xuyên, Nguyễn Thụy Long, Hoàng Hải Thủy, Văn Quang...
Về giới cầm bút sau 1963, Nguyễn Văn Trung viết: “Giới cầm bút sau 1963, họ là những người hồi 1954 trên dưới mười tuổi theo gia đình vào Nam hoặc sinh trưởng và lớn lên ở miền Nam hầu hết có tú tài và tốt nghiệp đại học. Số lượng giới trẻ cầm bút này càng ngày càng đông đảo theo đà thành lập các đại học ở các tỉnh Huế, Đà Lạt, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ, Long Xuyên, Tây Ninh và các đại học tư ở Sàigòn như Vạn Hạnh, Minh Đức...”
Những nhà văn trẻ đã trưởng thành về tuổi đời và nhận thức sau 1963, trong hoàn cảnh nhiều xáo trộn chính trị-xã hội, chiến tranh mở rộng với sự can thiệp ồ ạt của quân đội nước ngoài. Thời cuộc và chính trị ảnh hưởng trực tiếp đến họ vì bị động viên hay quân dịch... Do đó, họ có lối nhìn thời cuộc đất nước và nghệ thuật văn học khác hẳn với lối nhìn của những đàn anh viết từ trước 1963… Thơ văn giới trẻ viết sau 1963 thường theo một xu hướng chung, phản ánh vũ trụ Kafka, như tên đặt cho một số đặc biệt về thơ văn của Hành Trình, hoặc phản ánh thân phận những nhân vật Việt Nam tương tự những nhân vật trong tiểu thuyết Giờ thứ hai mươi lăm của Gheorghiu.
Nhờ hệ thống báo chí phát triển, quần chúng độc giả bao gồm nhiều thành phần trong khi các nhà văn nổi tiếng như Mai Thảo, Bình Nguyên Lộc, Túy Hồng, Nhã Ca, Duyên Anh, Chu Tử, Thanh Nam... đều sống bằng ngòi bút một cách dư giả. Họ là những người viết chuyên nghiệp, thậm chí nhiều nhà văn có nhà xuất bản riêng.
Nguyễn Hiến Lê trong 30 năm biên khảo và dịch thuật đã viết được 100 quyển sách trước 1975, và 20 cuốn thời gian sau đó. Nguyễn Văn Trung, ngoài lượng sách về triết học, văn học, in trước 1975, trong những công trình sau 1975, có bộ Lục Châu Học, nghiên cứu về văn học miền Lục tỉnh Nam Kỳ. Những nhà văn như Hồ Hữu Tường, Bình Nguyên Lộc, Mai Thảo... cũng đều có những số lượng tiểu thuyết trên dưới 30 cuốn. Về sáng tác, số lượng tỷ lệ nghịch với chất lượng và đó là cái giá mà nhà văn phải trả.
Về đối tượng độc giả, có thể nói, lớp trẻ ‘bụi đời’ thích đọc Duyên Anh, lớp sống vũ bão thích Chu Tử. Phụ nữ thích Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nguyễn Thị Hoàng, Nhã Ca vì họ phản ảnh đời sống người phụ nữ tân tiến. Lớp trí thức thích cách đặt vấn đề của Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Nghiêm Xuân Hồng. Lớp trẻ lãng mạn giao thời thích đọc Mai Thảo. Tuy nhiên, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu là những tác giả đòi hỏi người đọc một trình độ trí thức cao. Quần chúng bình dân thích Lê Xuyên, Tùng Long... Học sinh trường Tây đọc văn chương ngoại quốc qua tiếng Pháp, tiếng Anh. Học sinh trường Việt đọc các tác phẩm ngoại quốc qua bản dịch hoặc phóng tác.
Nhà văn Chu Tử qua Vũ Uyên GiangBộ sách Văn Học Việt Nam Nơi Miền Đất Mới của Nguyễn Q. Thắng xuất bản sau năm 1975 có đề cập tới 53 ‘văn gia’ của VNCH, mỗi người được tác giả gắn cho một nhãn hiệu. Chẳng hạn, Nguyễn Văn Trung là ‘nhà văn nhập cuộc’, Cao Xuân Hạo ‘nhà lập thuyết ngữ học’, Nguyễn Ngọc Lan ‘nhà văn Công giáo, nhà báo dấn thân’, Thanh Việt Thanh (?) ‘nhà văn cần cù’, Thế Uyên ‘nhà văn nhập cuộc’, Viên Linh ‘hoàng đế’, ‘nhà độc tài' văn học’ (!?), Hồ Trường An ‘dược sĩ (?), nhà văn’…
Một điều không ai có thể phủ nhận là miền Nam trước khi có chiến dịch đốt sách năm 1975 rất phong phú về sách báo, từ sáng tác đến dịch thuật, từ chính luận đến phiếm luận. Điều chắc chắn là trong số các tác phẩm đó ‘có vàng’ nhưng cũng ‘có thau’. Người đọc đủ sáng suốt để lọc ra những gì với họ là tinh túy để giữ lại, hoặc dấu nếu cần.
Khi người Bắc di cư vào Nam năm 1954, họ rất ngạc nhiên khi thấy những
người đạp xe xích lô đến buổi trưa, tìm chỗ mát nghỉ ngơi. Họ ngồi gác
chân đọc nhật trình. Người bình dân miền Nam có truyền thống đọc sách
báo mà ở ngoài Bắc không có. Ngay từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20
miền Nam đã là vùng đất của tiểu thuyết và báo chí trong khi ngoài Bắc,
sách vở, báo chí phần lớn chỉ dành cho người có học.
Miền Nam vào những thập niên 60-70 lại có hiện tượng giao thoa giữa hai
nền văn hóa Pháp và Mỹ với sự du nhập ồ ạt của các loại sách Livre de
poche của Pháp và các loại sách soft cover của Mỹ. Giá sách nói chung
tương đối rẻ vì mục đích chính là phổ biến văn hóa, thương mại chỉ là
phụ.
Người đọc có thể tìm loại sách IC (Information & Culture) dưới hình
thức sách bỏ túi (Livre de Poche) của Pháp bày bán tại các nhà sách Sài
Gòn trước 1975 một cách dễ dàng. Nếu có chút vốn liếng về tiếng Pháp,
người ta có thể tìm đọc những tác phẩm cổ điển của Platon, Homère hoặc
các tác phẩm đương đại của Albert Camus, Jean-Paul Sartre, Saint
Exupéry, Francoise Sagan…
Quân đội Mỹ ào ạt đổ bộ vào miền Nam, nhưng văn hoá Mỹ có vai trò áp đảo
hay không? Theo giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, “Thời chiến tranh lạnh, với
thế lưỡng cực trên thế giới, miền Nam nằm trong vùng ảnh hưởng Mỹ, và
như vậy là có thêm tác nhân mới. Tuy nhiên, văn hoá Mỹ, theo gót đoàn
quân viễn chinh, cũng chưa thể gọi là có ảnh hưởng gì sâu đậm. Ở lối
sống, ở những giai tầng thấp thì có thể gọi là có ảnh hưởng một cách xô
bồ, nhưng ở thượng tầng thì chưa”.
Hoa Kỳ thành lập cơ quan thông tin-văn hóa JUSPAO (Joint United States
Public Affairs Office) và tạp chí Thế giới Tự do được phát hành miễn phí
cho mục đích tuyên truyền. Đây là báo ảnh, được in ấn bằng phương tiện
tối tân nên rất hấp dẫn người đọc.
Cũng có một nguồn cung cấp sách tiếng Anh hoàn toàn miễn phí nhưng rất ít người biết để đem về kệ sách riêng của mình. Đó là sách của Asia Foundation (Cơ quan Viện trợ Văn hóa Á Châu) một tổ chức phi mậu dịch, tặng không cho người đọc là quân nhân, công chức với số lượng hạn chế mỗi lần 5 quyển cách nhau 3 tháng.
Tôi là ‘khách hàng’ thường xuyên của Asia Foundation. Sách của Asia
Foundation là loại sách viện trợ thuộc đủ mọi lĩnh vực, trên sách có
đóng dấu bằng 2 thứ tiếng “Not for sale” và “Xin đừng bán”. Nếu gặp may,
bạn có thể gặp những sách thuộc loại ‘quý, hiếm’.
Tôi còn giữ được một bộ 2 cuốn World Masterpieces (dày khoảng 3000 trang in lại những kiệt tác văn chương của thế giới qua các thời kỳ như Iliad của Homer, Don Quixote của Miguel de Cervantes,Hamlet của William Shakespeare, Thoughts (Les Pensées) của Blaise Pascal, Faust của Von Goethe,The Death of Iván Ilyich của Leo Tolstoy, Theseus (Thésée) của Andre Gide, Remembrance of Things Past của Marcel Proust, No Exit của Jean-Paul Sartre…
Tôi còn giữ được một bộ 2 cuốn World Masterpieces (dày khoảng 3000 trang in lại những kiệt tác văn chương của thế giới qua các thời kỳ như Iliad của Homer, Don Quixote của Miguel de Cervantes,Hamlet của William Shakespeare, Thoughts (Les Pensées) của Blaise Pascal, Faust của Von Goethe,The Death of Iván Ilyich của Leo Tolstoy, Theseus (Thésée) của Andre Gide, Remembrance of Things Past của Marcel Proust, No Exit của Jean-Paul Sartre…
Sách do Asia Foundation tặng
Một số sách xuất bản ở miền Nam trước 1975 nay đã được in lại, và càng
ngày càng có một nhu cầu muốn tìm hiểu và phục hồi lại nền văn học đã
mai một này. Hơn nữa, tên tuổi và tác phẩm của những nhà văn nổi tiếng ở
miền Nam đã xuất hiện khá nhiều trên Internet. Sau 1975, Từ điển văn
học bộ mớicũng được phép in một số mục từ về Bình Nguyên Lộc, Nguyên Sa,
Dương Nghiễm Mậu, Cung Trầm Tưởng, Bùi Giáng...Võ Hồng, Nguyễn Thị
Hoàng); các nhà văn ‘di cư’ có mặt trên các tờ Đất Đứng, Sáng Tạo, và
trên các nhật báo như Tự Do, Ngôn Luận (Đỗ Thúc Vịnh, Nguyễn Hoạt, Vũ
Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Nghiêm Xuân Hồng, Nguyễn Sỹ Tế, Mai Thảo, Thanh Tâm
Tuyền) hay Văn Nghệ (Lý Hoàng Phong, Dương Nghiễm Mậu, Viên Linh, Nguyễn
Đức Sơn), Hiện Đại (Nguyên Sa, Trần Dạ Từ, Nhã Ca). Tờ Chỉ Đạo, Phụng
Sự, Tiền Tuyến quy tụ các nhà văn quân đội hay quân nhân đồng hoá như
Nguyễn Mạnh Côn, Mặc Thu, Thanh Nam, Phan Nhật Nam, Thảo Trường...
Một số sách xuất bản ở miền Nam trước 1975 nay đã được in lại, và càng
ngày càng có một nhu cầu muốn tìm hiểu và phục hồi lại nền văn học đã
mai một này. Hơn nữa, tên tuổi và tác phẩm của những nhà văn nổi tiếng ở
miền Nam đã xuất hiện khá nhiều trên Internet. Sau 1975, Từ điển văn
học bộ mới cũng được phép in một số mục từ về Bình Nguyên Lộc, Nguyên
Sa, Dương Nghiễm Mậu, Cung Trầm Tưởng, Bùi Giáng...
Chỉ tiếc một điều là một số sách báo xưa đã biến mất sau đại họa 1975 và
chỉ còn lưu giữ rất hạn chế tại các thư viện tại hải ngoại dưới hình
thức microfilm. Rồi người ta cũng quên đi ‘bữa tiệc BBQ’ nhưng vấn đề là
những thế hệ sau này sẽ mất hẳn sợi dây liên lạc bằng sách báo với quá
khứ.
Kết thúc bài viết này, tác giả xin mượn ý thơ của Vũ Đình Liên than thở
cho thân phận ông đồ trước cảnh tàn lụi của nền nho học:
Năm nay đào lại nở
Không thấy sách báo xưa
Ngọn lửa nào năm cũ
Lạc về đâu bây giờ?
***
(Trích Hồi Ức Một Đời Người, Chương 6 – Thời điêu linh)
Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:
Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác giả còn dự tính viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!
***
16 Comments on Multiply
nguoigiaonline wrote on Jun 17, '11
Hic, NG tui hổng có ở nhà, toàn bộ nhạc tiền chiến sưu tập dạng bìa cứng xếp đôi hơn ba trăm bài, mớ đĩa 33/45 vòng cùng một tủ sách quốc văn, giáo khoa thư và truyện... bị họ vào bắt gia đình mang ra đốt ráo :-((
nguyenngocchinh wrote on Jun 18, '11
nguoigiaonline said “Hic, NG tui hổng có ở nhà, toàn bộ nhạc tiền chiến sưu tập dạng bìa cứng xếp đôi hơn ba trăm bài, mớ đĩa 33/45 vòng cùng một tủ sách quốc văn, giáo khoa thư và truyện... bị họ vào bắt gia đình mang ra đốt ráo :-((
Anh nhắc tôi mới nhớ chuyện âm nhạc. Hồi xưa tôi cũng có một collection những bản nhạc do Tinh Hoa, Mạnh Phát... ấn hành. Còn đĩa 45 và 33 vòng cũng khá nhiều vì vào thời sinh viên-học sinh nhiều lúc phải nhịn ăn để mua!
tangtinhtinh2 wrote on Jun 17, '11
Đau lòng quá bác!
thahuong82 wrote on Jun 18, '11
Ngẩm lại từ ngàn xưa cho đến ngàn sau không có cái NGU nào bằng cái Ngu ĐỐT SÁCH.
songhong wrote on Jun 18, '11
Thật đầy đủ, thật giá trị. Cám ơn anh Chính.
Anh có còn giữ được tờ Hành Trình nào không? Nhất là những ấn bản đầu tiên? Nếu có anh vui lòng chia cho tôi với. Cám ơn anh nhiều.
nguyenngocchinh wrote on Jun 18, '11
songhong said “Anh có còn giữ được tờ Hành Trình nào không? Nhất là những ấn bản đầu tiên? Nếu có anh vui lòng chia cho tôi với. Cám ơn anh nhiều.”
Thật đáng tiếc, tạp chí cũ tôi không còn ấn phẩm nào nên không chia sẻ với anh được. Riêng về sách thì tôi còn giữ lại một số vả lại trên internet cũng còn khá nhiều các trang ebook và thư quán.
andropause wrote on Jun 18, '11
Sau khi đốt bỏ, một thời gian sau em lại ra chợ sách cũ Đặng thị Nhu lùng kiếm lại được vài cuốn hay hay! Dạo ấy em thích Duyên Anh, Nhật Tiến và Hoàng Hải Thủy (truyên phóng tác của ông là khỏi chê). Cám ơn anh Chinh về bài viết rất công phu.
Em có hân hạnh học văn với thấy Thế Uyên, còn Nguyễn Khắc Ngữ là cậu em (đã mất vì cancer khi qua Canada).
nguyenngocchinh wrote on Jun 18, '11
andropause said “Em có hân hạnh học văn với thấy Thế Uyên”
Tôi cũng được học thầy Dũng (Thế Uyên) năm Đệ Nhị trên Ban Mê Thuột!
darbluemx wrote on Jun 18, '11
Doc bai nay lai nho den Ho Huu Tuong, doi 13, trai Xuyen Moc. Hinh nhu ong ta da bo xac trong trai tu va Duyen Anh cung di ra tu trai nay voi long bat man cua anh em dong canh ngo.
huynhhai wrote on Jun 19, '11
Chỉ vài tháng sau 30/4/1975 đã thấy xuất hiện trên tạp chí Cộng Sản bài
của 2 "đặc công" đốt sách là Thạch Phương và Trần Hữu Tá. Bài đó được
viết với một giọng văn của những kẻ vừa thắng trận, cho rằng phần lớn
các ấn phẩm phát hành tại miền Nam là phản động, đồi trụy cả. Đến năm
1985 có thêm ông Trần Trọng Đăng Đàn. Ông nầy viết cả một cuốn sách dày,
giọng văn như thời đấu tố. Về sự kiện đốt sách tại VN sau khi Đảng CS
lên nắm quyền rất nên và cần có một nghiên cứu bài bản. Bài của ông
Nguyễn Ngọc Chính viết công phu, tóm lược về một giai đoạn đầy lo âu của
trí thức, văn nghệ sĩ miền Nam (có một chi tiết cần kiểm tra lại: Ông
Nguyễn Bá Học là nhà giáo, sau đó viết sách. Ông không là nhà cách mạng
theo đúng nghĩa của từ nầy. Có thể tác giả lầm với Nguyễn Thái Học
chăng?).
nguyenngocchinh wrote on Jun 19, '11
huynhhai said “Bài của ông Nguyễn Ngọc Chính viết công phu, tóm lược về một giai đoạn đầy lo âu của trí thức, văn nghệ sĩ miền Nam (có một chi tiết cần kiểm tra lại: Ông Nguyễn Bá Học là nhà giáo, sau đó viết sách. Ông không là nhà cách mạng theo đúng nghĩa của từ nầy. Có thể tác giả lầm với Nguyễn Thái Học chăng?)”
Xin cám ơn huynhhai, tôi đã edit lại phần viết về Nguyễn Thụy Long & Nguyễn Bá Học và đã bỏ cụm từ 'nhà cách mạng'. Đa tạ.
lstochung wrote on Jun 25, '11
Đọc bài của anh làm SK nhớ lại, sau 30/4/1975 nghe các ông phường dọa, sợ quá đốt cả trăm cuốn sách. Sau này tiếc hùi hụi và tự trách mình sao mà nhát quá.
thahuong82 wrote on Jun 25, '11
Tui nhà ở Huế cũng rất nhiều sách, báo, lại có hàng ngàn tờ chương trình
ciné (program) đủ các rạp ở Huế và SG. sưu tầm, đổi chác từ lúc còn bé,
nhưng có muốn giữ cũng không được vì Mạ tui và thằng em trai nghe nói
VC là chạy trối chết về phương Nam cho gần phe ta vì nhớ lại Mậu Thân 68
bô đội cụ Hồ vào "giải phóng" đất Thần kinh 21 ngày đã chôn sống cả hơn
5 ngàn sinh linh kể cả dân thường và trẻ em, bản thân tui và môt số bạn
bè cùng trang lứa dù chỉ là SVSQ của các quân trường ĐL/TĐ/NT cũng đã
bị trói tay dẩn đi nhưng tui may mắn thoát được, mấy thằng bạn sau nầy
tìm thấy xác ở Chín Hầm, bà con tui cũng bị vài mạng. Còn tui thì ở BMT
nơi bị Cọng quân tấn công đầu tiên 13-03-75 nhưng cũng thoát hiểm tuy
vậy tui cũng còn giử được cuốn Kỷ Yếu của khóa4/70 SQ/TD với đầy đủ hình
ảnh và bài viết của anh em chiến hữu cùng khóa. Ai có ở cùng khóa liên
lạc với tôi sẽ scan và gởi cho.
thinhngo wrote on Jun 26, '11
Lại có dịp đọc thêm bài viết giá trị của bạn Nguyễn Ngọc Chính. Phải kể "Đốt Sách" vào cái "Thời điêu linh" ấy là tài liệu mà mỗi lần được nhắc lại không khỏi nghẹn ngào và phẫn hận cho thân phận Dân Tộc ta. Dĩ nhiên đây chỉ là tóm lược nhưng tác dụng rất sâu xa. Xin bổ khuyết nhà văn Nguyễn Vỹ một thời với sự cộng tác của Minh Đức Hoài Trinh. Đặc biệt qua tác phẩm "Tuấn Chàng Trai Đất Việt" và tập san Thế Giới Ngày Nay của nhà văn này.
nguyenngocchinh wrote on Jun 28, '11, edited on Jun 28, '11
thinhngo said “Xin bổ khuyết nhà văn Nguyễn Vỹ một thời với sự cộng tác của Minh Đức Hoài Trinh. Đặc biệt qua tác phẩm "Tuấn Chàng Trai Đất Việt" và tập san Thế Giới Ngày Nay của nhà văn này”
Ngày xưa tôi rất thích tạp chí Phổ Thông của Nguyễn Vỹ (loại tạp chí có khổ như Reader's Digest). Thích nhất là mục "Mình ơi!" dưới hình thức hỏi-đáp về những kiến thức phổ thông của hai vợ chồng, qua đó người đọc mở rộng sự hiểu biết về nhiều vấn đề thời sự.
Hình như anh Thịnh lộn "Thế giới ngày nay" với tạp chí "Kiến thức Ngày nay" xuất bản sau 1975 chăng?
penseedl wrote on Jun 27, '11
Trong chuyện đốt sách của chế độ mới có nhiều người không nghe theo và vẫn còn giữ lại nhiều sách, tài liệu có giá trị mà sau này nhiều cán ngố đi tìm đọc lại để thấy sự đời nhiều khi tưởng vậy mà không phải vậy...
Chỉ tiếc một điều là một số sách báo xưa đã biến mất sau đại họa 1975 và chỉ còn lưu giữ rất hạn chế tại các thư viện tại hải ngoại d
ưới hình thức microfilm. Rồi người ta cũng quên đi ‘bữa tiệc BBQ’ nhưng vấn đề là những thế hệ sau này sẽ mất hẳn sợi dây liên lạc bằng sách báo với quá khứ.
BÁNH TRÁNG VIỆT NAM
Những xôn xao về bánh tráng VN
Sent: Sunday, October 6, 2013 4:15 PM
Subject: Những xôn xao về bánh tráng VN
xôn xao về bánh tráng VN
Quinhon11
Gần đây QN nhận được nhiều tin bàn tán về bánh tráng Việt Nam ,
Nhưng vì bản thân chưa thử nghiệm nên không biết hư thực thế nào ?
Hôm nay lại nhận thêm một số tin mới, nên xin chuyển tiếp để độc giả tỏ tường . Tuy nhiên QN nghĩ, mọi người cũng nên tự thử nghiệm để chính mắt thấy thế nào và sau đó sẽ có quyết định nên tiếp tục mua ăn, hay từ nay coi như giã từ một món ăn có thể gọi là quốc hồn quốc túy của người Việt.
Là dân NẪU, gia đình QN có "đạo" bánh tráng, chắc sẽ buồn lắm nếu phát hiện này là sự thật!
Update: Sáng nay QN tự thử nghiệm kết quả như sau:
- lấy một miếng bánh tráng hiệu bông hồng có sẳn ở nhà, bẻ một miếng bỏ vào microway bấm một phút , bánh nở đều đẹp , không có gì lạ. Nhưng bấm thêm 4 phút nữa, nhìn vô trong quan sát.. bánh vẫn trắnh tinh, chỉ tới phút thứ 4 bánh mới hơi xém vàng chút xíu. ..
- lấy một miếng nhỏ bánh tráng ngâm nước 15 phút , bánh mềm nhão.. cũng không thấy có gì lạ.
Lạ là lạ ở chỗ này, tại sao miếng bánh mỏng dính mà chịu một nhiệt độ cao và lâu như vậy vẫn không cháy ?? trong khi bánh tráng nướng khác chỉ lâu một chút là cháy khét chỉ có cách vứt đi ? Vậy ... không biết có trộn lẫn hóa chất gì mà tạo hiệu ứng như vậy ?? rồi vô bao tử mình có bị gì không? Đây là một câu hỏi chưa có câu trả lời ??
- lấy một miếng bánh tráng hiệu bông hồng có sẳn ở nhà, bẻ một miếng bỏ vào microway bấm một phút , bánh nở đều đẹp , không có gì lạ. Nhưng bấm thêm 4 phút nữa, nhìn vô trong quan sát.. bánh vẫn trắnh tinh, chỉ tới phút thứ 4 bánh mới hơi xém vàng chút xíu. ..
- lấy một miếng nhỏ bánh tráng ngâm nước 15 phút , bánh mềm nhão.. cũng không thấy có gì lạ.
Lạ là lạ ở chỗ này, tại sao miếng bánh mỏng dính mà chịu một nhiệt độ cao và lâu như vậy vẫn không cháy ?? trong khi bánh tráng nướng khác chỉ lâu một chút là cháy khét chỉ có cách vứt đi ? Vậy ... không biết có trộn lẫn hóa chất gì mà tạo hiệu ứng như vậy ?? rồi vô bao tử mình có bị gì không? Đây là một câu hỏi chưa có câu trả lời ??
Đây chỉ là thử nghiệm trên
bánh tráng hiệu bông hồng (có hình đính kèm bên trên).
Hiện tại QN cũng phân
vân ... chưa biết kết luận thế nào ??
Một số quí vị đồng hương đã có thử nghiệm trên những hiệu bánh tráng khác nhau với kết quả rất đáng quan ngại. QN mời bạn đọc theo dõi những đoạn được chuyển tiếp dưới đây .
Một số quí vị đồng hương đã có thử nghiệm trên những hiệu bánh tráng khác nhau với kết quả rất đáng quan ngại. QN mời bạn đọc theo dõi những đoạn được chuyển tiếp dưới đây .
_______________________________________
2012/10/18
Đã thử nghiệm - xác nhận đúng...tin
hay không tùy ý.
WARNING!
WARNING!
VĨNH
BIỆT BÁNH TRÁNG VIỆT NAM ...
Sáng nay, 03-10-2012,
sau khi thử nghiệm như Ông Thach Đo, tôi cũng có kết quả Y CHANG như của Ông
Thach Do với hai loại bánh tráng sau:
1. Bánh tráng MEKONG
với trade mark WHITE ELEPHANT - Product of VIETNAM - Packed for Anhing
corp., L.A. CA 90031;
2. Bánh tráng SUNLEE
với trade mark hình ÔNG ĐỊA - Product of VIETNAM - Imported by Sun Lee,
Inc, Los Angeles, CA, USA.
Thôi thì đành vĩnh
biệt món bánh tráng sản phẩm của Việt Nam vậy.
Riêng Quý vị thì tùy ý
vì "bá nhân bá 'bao tử'".
HkThành
SI VIS PACEM, PARA
BELLUM
_________________________________________________________________
Tôi không nghĩ là hàn the nhiều mà
ra như vậy. Có lẽ có nguyên liệu "lạ" nào đó được trộn chung cho
nên phần nào là bột thì phồng lên và chín như bánh tráng thường trước đây
(trước 75), còn phần nào thuộc chất "lạ" thì trơ trơ!
Tôi đã làm thử nghiệm tại nhà với 3
hiệu bánh tráng khác nhau (3 cô gái, con voi và bông hồng) đều cho kết quả
như nhau.
Xem hình qua link dưới đây:
1/ Nướng bằng microwave (loại công xuất lớn) 3 phút thì chỉ vành ngoài và 1 phần nhỏ ở trong phồng lên và chín mà thôi.
2/ Nướng y như phần 1 nhưng tăng thời gian lên 6 phút. Bánh vẫn cho kết quả như 3 phút.
3/ Bỏ vô lò oven 400 độ F, 5 phút rồi 10 phút thậm chí 15 phút. Bánh chỉ hơi ngả màu vàng chứ không chín và không cháy!
4/ Ngâm nước 60 phút, chỉ hơi nở nhưng không rả. Thấy dai nhưng không giống bánh làm bằng bột.
Vậy
Quý Vị nghĩ bánh tráng này làm bằng gì và CÓ NÊN ĂN HAY KHÔNG ???.
Tôi đã bỏ thùng rác
hết 5 hộp bánh tráng trót mua và sẽ không ăn bánh tráng nữa!!!
Xem hình tôi chụp lúc 8 giờ tối hôm
qua 1/10/12 qua link
______________________________________________________
Đọc thấy tin nầy, tôi chạy vội ra tủ
bếp, lấy xấp bánh tráng bà xã mới mua hiệu
cô gái VN. Bỏ vào lò vi ba, 5 phút, vẫn không cháy, nhưng mang
nhúng vào nước, chỉ vài phút là nó rả ra như bánh tráng bột gạo thông thường.
Có một vài loại khác thì rất dai, khó rách khi nhúng nước (có lẽ được trộn quá nhiều hàn the - chất độc - cho
tăng thêm độ dai ? ). Qúy vị xin có ý kiến ?
bd
bd
________________________________________________________
From: SUTTON
VO
BÁO ĐỘNG ĐỎ !!!
Kính thưa quý đồng hương,
Đọc tin về bánh tráng mỏng (thường
để làm gỏi cuốn, cuốn cá nướng, v.v... ) được phóng lên các diễn đàn, tôi bán
tín bán nghi. Vợ chồng tôi vội vàng dùng ngay cả đống bánh tráng
mỏng mà con dâu tôi mua để trong bếp nhà. Thấy có 3, 4 thứ bánh
tráng mỏng mang nhãn hiệu khác nhau đều "sản xuất tại Việt Nam".
Chúng tôi lấy một cái hiệu "ba
cô gái" (The three ladies) đưa vào microwave nướng1 phút, rồi 2 phút, rồi
3 phút.
Cái bánh phồng dộp lên, xung quanh
chỗ nướng có màu vàng dợt. Bẻ thử bánh thì gãy gọn, ăn thử cũng không có
cảm giác gì khác lạ (?)
Chỉ có một điều khẳng định là bánh không cháy.
Chúng tôi thử luôn bánh hiệu "bông
hồng" thì kết quả cũng giống như cái bánh "ba cô gái" !
Chúng tôi đem đốt thử 2 cái bánh đó
bằng lửa bếp ga xem sao.
Cả 2 loại bánh nầy đều cháy ngon
lành (thôi không tắt !), cháy xèo xèo, cháy rất nhanh và có mùi khét của giấy
?!
Bánh cháy đen đậm (cả 2 loại).
Chà bóp chất cháy đen nầy thì nó dính tay, không giống như tro có màu xám hay
trắng như các chất cellulose thông thường.
Sẵn có bánh tráng dầy có mè đen,
chúng tôi tiện tay cũng đem nướng thử xem sao. Bánh tráng dầy nầy
thì khác. Chỉ nướng có 2 phút thì nó đã phồng lên và cháy khét luôn.
Từ sự thử nghiệm trên, chúng tôi cho
rằng bánh tráng mỏng do Việt Nam sản
xuất không biết làm bằng thứ gì ? Nhưng không chắc là nó được làm bằng bột gạo thuần tuý rồi !!!
Thiển nghĩ, để bảo vệ sức khoẻ
chung, tôi đề nghị quý vị có cách nào đó thử đưa vụ nầy lên cơ quan kiểm soát
an toàn thực phẩm hay bộ Canh Nông Hoa Kỳ để họ xét nghiệm có được không ?
Trong khi chờ đợi kết quả điều tra
của các cơ quan có thẩm quyền về thực phẩm của Hoa Kỳ, tôi khẩn thiết kêu gọi
quý đồng hương hải ngoại không mua, không
ăn tât cả những thực phẩm nào có xuất xứ từ Việt Nam, đặc biệt là bánh tráng
các loại.
Tôi xin thành thật cảm ơn quý vị đã
báo động về bánh tráng mỏng của Việt Nam ... nầy.
Kính chúc quý đồng hương vạn an.
Trân trọng kính chào quý đồng hương.
Võ văn Sĩ
__________________________________________________
From:
Thưa các bạn trên DĐ
Đọc được email về việc phát hiện
loại bánh tráng mỏng có những biểu hiện lạ, tôi cũng vội làm theo chỉ dẫn với
loại bánh tráng hiệu Mékong ̣(CÓ HÌNH CON VOI MÀU XANH) Made in VN . Tôi bỏ vào
microware 5 phút không cháy, nhưng với thử nghiệm loại bánh tráng mỏng vợ tôi
đặt mua tại Modesto (đồng hương tráng tại nhà) chỉ mớ́i 1 phút 30 giây thì
miếng bánh đã cháy đen bốc mùi khét. Đó là kết quả theo đề nghị của một số thân
hữu, xin tường trình đến các bạn suy nghiệm.
Nếu như bánh tráng này đã pha các
thứ độc hại thì đã hơn 20 năm qua chúng ta ăn nhằm nó vào người, trời ơi là
trời, món ăn độc hại hàng ngày mà không biết, vậy thì chống Tàu, chống CS ở chỗ
nào, kẻ thù năm ngay trong tủ, trong tay, trong miệng ta mà không hay biết. Rõ
ràng chết vì không biết
Khi hay tin này, tôi chạy vội về nhà
để làm một vài kiểm chứng. Bỏ vào microwave 2.5 phút, bánh tráng không cháy, có
phình lên một chút; nướng gần hai phút, nó vẫn giữ nguyên trạng thái lúc đầu;
nhúng vào nước (để cuốn ăn như chúng tôi thường làm), nó mềm ra nhưng không
rách, đem vo tròn lại .... thì nó dẻo như cao su; tôi sợ quá bèn đem ngâm vào
nước 30 phút (để xem nếu nó ở trong bụng thì nó tiêu hóa ra sao) thì ôi thôi nó
không rách, vuốt nó thì trơn trơn .... Vậy thì .... bánh tráng này không
làm bằng gạo hay bằng bột ... mà bằng một hóa chất gì .... nguy hại hay không
thì mỗi chúng ta đã có câu trả lời ...
Từ nay nên ngưng ăn bánh tráng hiệu
này, các hiệu khác thế nào chưa biết, quí vị thử xem các loại bún / bánh của
các hãng khác thế nào để cùng nhau báo động.
DNThuy
________________________________________________
Hi all,
Vợ chồng tôi vừa phát hiện về BÁNH TRÁNG ba cô
gái. Chúng tôi chưa biết thật gỉả như thế nào, xin bà
con cứ thử, theo những gì tôi kể sau đây :
-- Tôi đã lấy một cái bánh
tráng mỏng (3 cô gái) bỏ vao
microwave gần 5 phút nhưng vẫn không
cháy. Tôi sợ cháy nên đã chia làm 4 lần như sau: mỗi lần 1 phút,
nhưng không thay vàng hay cháy.
-- Sẵn oven nướng cá, 450 độ, tôi cũng bỏ vào 5 phút cũng tỉnh bơ.
-- Tôi đem đốt thì nó kêu xèo xèo,
và tôi bốp cái tro thấy kỳ lạ lắm.
(Nếu bà con lấy cộng bún đem đốt
xong so sánh thử hai loại tro sẽ thấy)
Như vậy tôi không biet la họ làm
bằng gạo hay nhựa. Nếu bà con không tin, tôi nghĩ
nhà ai cũng có bánh tráng, hãy làm thử.
Xin bà con cuôi tuần này không ăn
bánh tráng.
Chúc mọi người vui vẻ. - Th Vinh
No comments:
Post a Comment