HẢI HUỲNH * ĐẶNG CHÍ HÙNG
Vụ Đặng Chí Hùng bị bắt và tình hình thực tế trong tù IDC của Thái Lan
Hải Huỳnh (Danlambao) -
Tin Đặng Chí Hùng và Trương Quốc Huy, Lê Văn Quang bị cảnh sát Thái Lan
bắt gây rúng động trong và ngoài nước. Bàn tay tội ác của cộng sản dính
sâu vào vụ truy bắt này. Mục tiêu của các điệp viên cộng sản là truy
bắt cho được Đặng Chí Hùng. Nếu không bắt sống thì thủ tiêu. Trong cái
xui xẻo này thì cũng có cái may mắn là nhóm anh em dân chủ đang tỵ nạn
tại Thái Lan rơi vào tay của cảnh sát Thái. Cảnh sát Thái thì không có
tàn độc như các điệp viên của cộng sản.
Tin từ Thái Lan cho hay là nhóm anh em dân chủ này đã bị đưa ra tòa.
Trong vòng 48 tiếng đồng hồ phải ra tòa theo luật của Thái. Một nguồn
tin từ Thái Lan cho hay là anh Đặng Chí Hùng và Trương Quốc Huy thì bị
đưa về IDC, còn Lê Văn Quang thì bị đưa đi cưỡng bức lao động 45 ngày
trả tiền phạt nhập cư bất hợp pháp. Mỗi ngày làm được trả công 200 THB
(hơn 7 USD). Cuối cùng cũng sẽ bị đưa về nhà tù IDC.
Nhà tù IDC này ở trên đường Suan Phlu, ngay chỗ cây xăng gần tòa đại sứ
của Úc đi vào khoảng 1,5 km. Chỗ này thường là nơi gia hạn Visa cho công
dân 3 nước: Miến Điện - Lào - Cambodia và cũng là nhà tù giam giữ những
người nhập cư bất hợp pháp vào Thái Lan.
Chúng tôi liên lạc với một nguồn tin trong nhà tù IDC này thì cho biết 2
anh em Trương Quốc Huy và Đặng Chí Hùng chưa bị đưa vào đây.
Hiện nhà tù này giam giữ hơn 100 người Việt Nam, đa phần là người Hà
Tĩnh, Quảng Bình, Thanh Hóa, Nghệ An qua đây ăn trộm ăn cắp, đâm chém bị
bắt giam giữ ở đây. Riêng phòng 5 là nơi giam giữ khoảng 10 người chạy
trốn cộng sản bị bắt giữ. Phòng 5 này được chăm sóc kỹ càng hơn. Trong
nhà tù này cũng có nhiều người dân tộc Ede, Ja'rai, H'mong họ có vẻ được
các nhà thờ ở nước ngoài và tại Bangkok quan tâm nhiều hơn.
Chúng tôi đã nhiều lần vào đây thăm những người Việt Nam bị giam giữ. Đây là kinh nghiệm đi thăm tù ở nhà tù IDC của Bangkok.
1. Thời gian thăm nuôi từ 8 giờ sáng đến 11 giờ 30 các ngày từ thứ Hai đến tứ Sáu trong tuần.
2. Người đi thăm nuôi phải có cho được tên tuổi và số tù của người mà
mình muốn thăm nuôi. Ví dụ là ông Nguyễn Văn A, có số tù là IDC 12345. 5
con số đứng sau chữ IDC là quan trọng nhất Đương nhiên là 2 người đi
thăm nuôi phải có hộ chiếu và Visa hợp pháp ở Thái Lan.
3. Cách thức tiến hành: chúng ta đi vào trình bày với cảnh sát giữ tù là
muốn thăm ai. Họ cho người đi thăm nuôi 1 tờ giấy để chúng ta điền tên
tuổi của người đi thăm nuôi và người tù để họ biết mà trích xuất tù cho
gặp. Sau khi nộp tờ giấy rồi thì ngồi chờ đến 10 giờ sáng cửa mở cho tất
cả vào thăm nuôi chung 1 lượt. Khi vào thăm thì phải qua 1 cái máy dò
kim loại. Không được đem theo máy chụp hình hay điện thoại di động qua
cái cửa dò này. Túi xách đồ đạc gởi vào cái tủ của cảnh sát coi tù. Cảnh
sát Thái rất thân thiện có thể giúp chuyển thư hay tiền qua lại giữa
người đi thăm và người bị ở tù. Họ nói chuyện qua 1 vách rào khoảng cách
nhau khoảng 0,8m, có cảnh sát đi qua đi lại ở giữa coi chừng. Đặc biệt
khi đi thăm nuôi có thể gởi bao nhiêu quà cũng được chứ không hạn chế
như ở Việt Nam. Nhớ lưu ý là đồ thăm nuôi không có kim loại như đồ hộp
thì bị cấm. Hộp giấy thì được chấp nhận. Thậm chí không cần vào gặp mặt
chỉ đi gởi đồ thăm nuôi không cũng được. 1 tuần đi thăm hết 5 ngày cũng
được chấp nhận.
Trường hợp những người đã có quy chế tỵ nạn của UNHCR thì có thể đóng
tiền bảo lãnh tại ngoại với số tiền là 50000 THB, gần 2000 USD. Trong
vòng 2 năm phải đi khỏi Thái Lan nếu không thì cũng quay về đây ở tiếp.
Nếu người tù không muốn chấp nhận hồi hương thì nhà tù cũng chấp nhận
nhưng phải có lý do chính đáng. Như vậy thì khả năng Đặng Chí Hùng bị
trả về Việt Nam rất ít, nếu Hùng từ chối thì nhà tù IDC cũng có thể chấp
nhận yêu cầu của Hùng.
Những người tù thì có thể gọi điện thoại ra bên ngoài bằng điện thoại
công cộng chung ở trong tù. Mỗi phòng giam có 1 trưởng phòng thì người
trưởng phòng này có quyền sử dụng điện thoại di động để liên lạc với
cảnh sát nhà tù. Các tù nhân có thể nhờ người trưởng phòng liên lạc dùm
ra bên ngoài. Có một trưởng phòng giam là người Việt Nam hiện nay. Anh
ta trước đây thuộc nhóm của ông Nguyễn Hữu Chánh nhưng bị bỏ rơi gần 20
năm trong nhà tù IDC. Ngoài ra còn có chị Diệu Tâm là người hay giúp anh
Lý Tống trước đây, chị Diệu Tâm cũng giúp cho các tù nhân Việt Nam rất
nhiều vì chị có thể nói Tiếng Việt
Tình hình của Đặng Chí Hùng, Trương Quốc Huy, Lê Văn Quang đang được dư
luận trong và ngoài nước quan tâm. Chúng tôi đang tiếp tục theo dõi mọi
diễn biến tại đây.
Thursday, December 12, 2013
HIẾU LAM * HỌC SINH VIỆT NAM GIỎI
New York (Dec 12, 2013).
Theo thống kê của Viện Giáo Dục Quốc Tế (IEE) tại New York vừa công bố vào ngày 12 tháng 11, 2013, số học sinh & sinh viên quốc tế năm 2012-2013 tăng 7,2%, con số hiện tại là 819,644 trong đó Trung Quốc chiếm 29%, Ấn Ðộ chiếm 12%, Hàn Quốc chiếm 9% đứng đầu trong danh sách học sinh & sinh viên quốc tế tại Hoa Kỳ.
Số học sinh & sinh viên VN tại Hoa Kỳ trong năm 2012-2013 là 16,100 đứng hàng thứ 8 trong danh sách.
Mến,
Thang Tran
President
The Institute for Vietnamese Culture & Education (IVCE).
------------------------
http://www.ivce.org
Theo thống kê của Viện Giáo Dục Quốc Tế (IEE) tại New York vừa công bố vào ngày 12 tháng 11, 2013, số học sinh & sinh viên quốc tế năm 2012-2013 tăng 7,2%, con số hiện tại là 819,644 trong đó Trung Quốc chiếm 29%, Ấn Ðộ chiếm 12%, Hàn Quốc chiếm 9% đứng đầu trong danh sách học sinh & sinh viên quốc tế tại Hoa Kỳ.
Số học sinh & sinh viên VN tại Hoa Kỳ trong năm 2012-2013 là 16,100 đứng hàng thứ 8 trong danh sách.
Mến,
Thang Tran
President
The Institute for Vietnamese Culture & Education (IVCE).
------------------------
http://www.ivce.org
Giỏi hơn Anh, Mỹ sao Intel
vẫn khó chọn nhân viên VN?
(Giáo dục)
- Ông Trần Thắng - Chủ tịch Viện Văn hóa Việt Nam & Giáo dục (IVCE), cho rằng
kết quả PISA về khả năng giỏi toán và khả năng khoa học của học sinh Việt Nam
không giúp ích cho học sinh Việt Nam khi học đại học và sau khi ra trường, làm
việc.
PV:-
Bộ GD-ĐT rất tự hào khi chia sẻ kết quả đánh giá “mỹ mãn” của PISA về khả năng
toán học của học sinh Việt Nam. Vị trí 17/65 nước, cao hơn cả Anh, Mỹ, ông có
chia sẻ với niềm tự hào của Bộ GD-ĐT không, tại sao?
Ông Trần Thắng: Khi
chúng ta nói về phẩm chất của một học sinh là chúng ta đánh giá toàn diện về
các mặt như: kiến thức khoa học, kiến thức nhân văn học, kiến thức nghệ thuật,
kỹ năng cá nhân, kỹ năng đọc sách, kỹ năng viết, thể dục thể thao.
PISA 2012 thẩm định về toán và
khoa học thì chúng ta được hiểu là kết quả này không đại diện cho toàn bộ phẩm
chất của một học sinh.
Học sinh Việt Nam giỏi toán không có gì ngạc nhiên
|
Các nước châu Á dạy toán và các
môn khoa học nhiều hơn so với Mỹ hay các nước Tây phương. Ví dụ như chương
trình PTTH tại Mỹ từ lớp 9 đến lớp 12, học sinh được học môn Toán tại mỗi năm. Nội
dung môn Toán của mỗi năm thấp hơn nhiều so với chương trình Việt Nam.
Chương trình Toán lớp 9-10 tại Mỹ
tương đương với lớp 8-9 tại Việt Nam, chương trình Toán lớp 11-12 tại Mỹ tương
đương với lớp 10-11 và một phần lớp 12 tại Việt Nam. Toán lớp 12 tại Việt Nam
tương đương Toán của năm thứ nhất đại học Mỹ ngành Kỹ Sư & Tin Học, là loại
Toán cao cấp chỉ giành cho các ngành này.
Về các môn khoa học Sinh, Hóa, Lý
cũng vậy. Lượng thời gian học các môn khoa học của học sinh Việt Nam gấp 4 lần
so với học sinh Mỹ. Học sinh Việt Nam học nhiều về toán và khoa học nên nhạy
bén hơn học sinh Mỹ.
Ngoài ra chúng ta xem thái độ thi
cử của học sinh thế nào? Việt Nam rất nặng về các kỳ thi cử, mỗi kỳ thư cử
là cả nước phải rúng động, phụ huynh, học sinh đều căng thẳng, mệt mỏi. Ngay từ
nhỏ, học sinh Việt Nam có thái độ thi nghiêm túc, chuẩn bị tốt về tâm lý và kiến
thức học. Ðây là điểm tốt của học sinh Việt Nam.
Ðối với học sinh Mỹ lại khác, họ
xem nhẹ thi cử. Như môn thi SAT, là môn thi bắt buộc cho học sinh vào đại học,
một năm tổ chức 7 kỳ thi, nhưng rất nhiều phụ huynh Mỹ không biết khi nào con
mình thi SAT.
Theo tôi, với 2 yếu tố trên, PISA
2012 cho thấy các nước châu Á dẫn đầu về toán và khoa học là không có chút gì
ngạc nhiên.
Ngoài ra, kết quả thẩm định về
giáo dục phụ thuộc nhiều về địa lý kinh tế. Theo nghiên cứu của Viện Brookings
(US), học sinh ở Thượng Hải đạt 84% vào đại học. PISA 2012 cho thấy kết quả của
thành phố Thượng Hải (China) là cao nhất.
Nếu như Việt Nam lấy kết quả của
học sinh trường chuyên Amsterdam hay các trường chuyên top đầu thì Việt
Nam đạt hạng cao nhất trong bảng của PISA 2012.
Tại Mỹ, nếu lấy kết quả của các
trường tại tiểu bang Connecticut như Choate Rosemary Hall, The Loomis Chaffee
School, Darien High School, Conard High Scholl, Weston High School, Hall High
School; hoặc các trường thuộc tiểu bang Massachusetts như Phillips Andover
Academy, Deerfield Academy, Sturgis Charter Public School, Advanced Math &
Science Academy Charter School, Salem Academy Charter School, là 2 tiểu bang có
nền giáo dục tốt nhất và GDP cao tại Mỹ, thì chúng ta chưa biết học sinh nào giỏi
hơn học sinh nào về toán và khoa học.
Nhưng phải nhìn lại, Việt Nam dạy
nhiều về toán và khoa học như vậy là do nhu cầu của môi trường đại học hay là
môi trường làm việc? Thử đặt câu hỏi tại sao Việt Nam dạy nhiều về kiến thức
toán & khoa học so với Mỹ và các nước Tây phương trong khi học sinh Mỹ và
Tây phương lại thành công khi vào môi trường đại học hoặc ra trường làm việc tốt.
PISA 2012 là dịp để Bộ GD-ÐT xem
lại chương trình giáo dục của PTTH Việt Nam so với các nước trên thế giới để từ
đó có hoạch định chính sách cho phù hợp với nhu cầu hơn là tự hào về PISA 2012.
PV:-
Cùng với kết quả PISA "mỹ mãn" theo niềm tự hào của Bộ GD-ĐT, Sách Trắng
2014 của Phòng Thương mại châu Âu tại VN (EuroCham) đã chỉ ra một nghịch lý: có
tới 50% sinh viên tốt nghiệp đi làm đều phải đào tạo lại. Phải lý giải những
con số mâu thuẫn này như thế nào, thưa ông?
Ông Trần Thắng: -
Mỹ hay các nước Tây phương thiết kế chương trình giáo dục có tính liên tục, có
nghĩa là chương trình PTTH làm nền tảng cho chương trình ÐH, chương trình ÐH
làm nền tảng cho chương trình sau ÐH và nghiên cứu khoa học, chương trình ÐH
làm nền tảng cho sinh viên ra trường làm việc.
PISA 2012 chỉ ra kết quả cao của
Việt Nam hay các nước châu Á, nhưng nếu đặt trong một tổng thể về giáo dục thì
kết quả này có giá trị gì? Tại Mỹ, học sinh PTTH được học căn bản và các kỹ
năng khác, khi vào ÐH sinh viên sẽ được học rộng về chuyên ngành và các kỹ năng
khác phục vụ cho việc đi làm sau này.
Học sinh Việt Nam hay các nước
châu Á học nhiều kiến thức toán và khoa học tại PTTH, nhưng học nhiều có giúp
ích gì cho sinh viên khi vào môi trường làm việc? Câu trả lời là KHÔNG!
EuroCham đánh giá như thế, công ty Intel của Mỹ khi tuyển nhân viên trong 2.000
sinh viên chỉ chọn ra được 90 ứng cử viên, tương đương 5% đạt yêu cầu.
Không có gì mâu thuẫn về PISA
2012 và sách Trắng của EuroCham, tại vì chúng ta hiểu sai vấn đề khi so sánh.
Hai vấn đề này hoàn toàn không liên quan gì với nhau.
. PISA 2012 thẩm định về toán và
khoa học của học sinh PTTH lứa tuổi 15. Toán và khoa học là 2 trong tổng số các
phẩm chất của học sinh.
. Nhận định của EuroCham, Intel
đi sâu vào vấn đề về chất lượng ra trường của sinh viên Việt Nam. Chất lượng ra
trường của sinh viên Viêt Nam là kết quả của nền giáo dục Việt Nam.
PV:-
Bộ GD-ĐT đã đưa ra 'đề án đổi mới toàn diện giáo dục', được coi là đề án tốt nhất
của Bộ từ trước tới nay. Nhưng nhìn vào thực trạng của nền giáo dục Việt Nam hiện
nay, ông có đề xuất gì cho đề án này?
Ông Trần Thắng:
- Tôi chưa đọc về đề án này. Từ khi quan tâm và làm việc về lãnh vực giáo dục,
tôi nghe và đọc nhiều đề án, đề án nào cũng nói thay đổi mạnh mẽ. Nhưng thực tế
thì chất lượng học sinh và sinh viên vẫn không khá.
Tôi nghĩ việc thay đổi giáo dục
đơn giản, nó không như cái gì người ta gọi “cuộc cách mạng giáo dục”, “triết lý
giáo dục Việt Nam”, “thay đổi toàn diện”… Có nhiều việc cơ bản chúng ta không
làm hoặc làm kiểu nửa chừng. Chương trình thay đổi giáo dục Việt Nam muốn
có kết quả cần phải có suy nghĩ thực tế, nên bỏ hết các giáo điều ra bên ngoài,
như việc làm cho một bài toán đơn giản 1 + 1 = 2.
Để trả lời cho câu hỏi chất lượng
đầu ra, theo tôi ngành giáo dục cần phải thay đổi những điểm chính cụ thể như
sau:
Về chương trình học: PTCS cấp I,
II: giảm 30% lượng thời gian học, tăng chất lượng dạy và học, tăng thời gian giải
trí, tăng thời gian đọc sách, tăng kỹ năng viết, tăng kỹ năng cá nhân. Bỏ kỳ
thi chuyển cấp từ lớp 9 lên lớp 10.
PTTH cấp III: giảm 30% lượng thời
gian học, tăng chất lượng dạy và học, tăng thời gian giải trí, tăng thời gian đọc
sách, tăng kỹ năng viết, tăng kỹ năng nghiên cứu, tăng kỹ năng cá nhân, tăng kỹ
năng ngoại ngữ tiếng Anh.
Bỏ kỳ thi Ðại Học, dùng điểm thi
tốt nghiệp PTTH và điểm học tại 3 năm PTTH làm kết quả xét tuyển vào Ðại Học. Kỳ
thi PTTH nên tổ chức thi 4 môn như trước năm 2000.
Cần lưu ý, học sinh VN đang học
13 môn trong năm học, trong khi học sinh Mỹ tại lớp 9-10 học 5-6 môn và lớp
11-12 học 6-8 môn.
Ðại học: tăng chất lượng dạy và học,
điều chỉnh lại chương trình chuyên ngành năm thứ 2, 3, 4 cho phù hợp với nhu cầu
thực tế nơi làm việc. Tăng kỹ năng đặc thù cho một số ngành riêng biệt, ví dụ
như Kỹ sư Cơ khí cần có kỹ năng về viết kỹ thuật (technical writing), kỹ năng
nghiên cứu, kỹ năng sử dụng các phần mền vẽ trên máy tính như UG, CATIA, ProE.
Tăng kỹ năng ngoại ngữ tiếng Anh. Tăng chất lượng thời gian thực tập của sinh
viên. Tăng quan hệ hợp tác quốc tế.
Về chính sách: Sở giáo dục toàn
quyền xây dựng hệ thống PTCS và PTTH.
Hệ thống đại học chia làm 3 loại:
A, B, C. Trường Ðại học loại A được toàn quyền xây dựng mô hình đại học và
không phụ thuộc vào Bộ GD-ÐT như cách quản lý của Ðại học Quốc gia VN hiện nay.
Trường Ðại học loại B có một số mặt thuộc thẩm quyền của Bộ GD-ÐT và một số mặt
toàn quyền quản lý. Trường Ðại học loại C thuộc thẩm quyền của Bộ GD-ÐT. Khi
các trường loại B, C phát triển thành loại A thì trường hoàn toàn tự quản lý.
Về ngân sách: Quốc hội tăng ngân
sách cho ngành giáo dục 10% GDP.
Trường Ðại học Việt Nam được phép
thành lập Endowment (Quỹ tiền riêng). Endowment là tiền từ các nguồn như tài trợ
của chính phủ, tài trợ của quốc tế, tài trợ của công ty, tiền học phí, tiền lợi
nhuận từ đầu tư, tiền đóng góp từ cựu sinh viên và nhà hảo tâm, v,v.
Nhà trường toàn quyền sử dụng nguồn
tiền này. Ðây là nguồn tiền riêng của trường kéo dài từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Hệ thống ÐH công lập và tư thục Hoa Kỳ đều sống vào nguồn Endowment.
Xin chúc đề án thành công.
PV: -
Xin cảm ơn ông!
Hiếu Lam
TÚ ANH * STALIN
Stalin, bạo chúa khát máu hay anh hùng dân tộc?
Monday, March 4, 2013 4:48:12 AM
Tú Anh ( RFI )
- Liên Xô thời Stalin ngự trị là một chế độ khủng bố bắt giết lưu đày
tùy tiện. Hàng chục triệu người Nga, người Trung Á chết trong các quần
đảo ngục tù hoặc bị hành quyết. 60 năm sau ngày nhà lãnh tụ Liên Xô
Stalin qua đời 05/03/1953, công luận Nga vẫn có thái độ mù mờ nhất là từ
khi Putin lên nắm quyền.
(Xem thêm: Một mẩu chuyện khó tin về Stalin - Báo cáo mật về tội ác Stalin: Tệ sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó - Năm ngày hấp hối của Stalin (1)&(2) - Nga kỷ niệm 60 năm ngày Stalin từ trần)
(Xem thêm: Một mẩu chuyện khó tin về Stalin - Báo cáo mật về tội ác Stalin: Tệ sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó - Năm ngày hấp hối của Stalin (1)&(2) - Nga kỷ niệm 60 năm ngày Stalin từ trần)
Một chiếc xe mini-bus dán chân dung Josef Stalin trên đường phố St.Petersbourg.
Ảnh chụp ngày 2/2/2013-REUTERS/Alexander Demianchuk
Vào cuối thập niên 1980, nhờ chính sách perestroika của Michail Gorbachev và tiếp theo đó là sự sụp đổ của Liên Xô, các tội ác của Stalin mới được phơi bày. Nhưng kể từ giữa thập niên 1990 thì hình ảnh bạo chúa bắt đầu được chăm sóc. Theo nhận định của nhà xã hội học Nga Lev Gudkov thuộc viện nghiên cứu Lavada thì hệ quả khó khăn của chính sách tự do hóa kinh tế của cố tổng thống Boris Yelsin tạo ra tâm lý hoài niệm trong một bộ phận dân chúng.
Đến khi Putin lên cầm quyền thì một số người đã công khai bảo vệ nhà độc tài Stalin và tiến trình phục hồi uy tín một cách âm thầm cho nhà độc tài này đã lên đến điểm cao vào những năm 2004-2005 với lễ kỷ niệm 60 năm chiến thắng Đức Quốc xã.
Thái độ của cặp bài trùng Putin và Medvedev cũng đã góp phần tái tạo hình ảnh Stalin : không làm gì để giúp cho hậu thế biết rõ tội ác của bạo chúa, gây nhiều kho khăn cho các sử gia muốn nghiên cứu tài liệu lịch sử thời Stalin. Tuy cả hai nhà lãnh đạo đương thời lên án tội ác Stalin nhưng mộ ông ta vẫn chễm chệ trước điện Kremli. Putin và Medvedev đều tránh phân tích nguyên nhân cội nguồn các tội ác này vì chế độ hiện nay cai trị theo nền tảng cũ : tập trung quyền lực dựa vào mật vụ và một bộ phận nhân dân không dám ngẩng đầu.
Một thăm dò ý kiến do viện Levada thực hiện vào năm 2012 cho thấy 37% người Nga hoàn toàn không biết hay biết rất ít về chính sách đàn áp của Stalin. 47% còn nghĩ rằng Stalin là một nhà lãnh đạo sáng suốt đưa Liên bang Sô viết thành một đại cường phồn thịnh.
Theo chuyên gia chính trị Maria Lipman thì một chế độ cai trị theo đường lối độc đoán như Putin hiện nay thì không có lý do gì họ phơi bày tội ác của Stalin.
Một mẩu chuyện khó tin về Stalin
NguyễnVănTuấn - Xin giới thiệu các bạn một bài viết về nhân vật Stalin. Hồi còn ở VN, khoảng 1976, tôi hay đọc sách báo tìm hiểu về ông này, và ấn tượng của tôi lúc đó thì ông là một vị tướng đại tài của Hồng quân Liên Xô. Đọc những bài ca tụng ông tôi kính phục ông lắm. Hình như Tố Hữu còn có bài thơ ca ngợi ông rằng "Mắt ông hiền hậu miệng ông mỉm cười / yêu biết mấy nghe con tập nói / tiếng đầu lòng con gọi Stalin" (*). Nhưng sau này, có dịp đọc sách báo tôi mới biết ông này là một hung thần máu lạnh, một tên giết người hàng loạt, giết người không gớm tay. Chẳng phải sách báo của bọn "phản động" nào cả, mà chính sử và sách báo của Nga viết như thế. Bài sau đây trên báo Nhịp cầu Thế giới cho chúng ta một cái nhìn khác về Stalin: ông ta chẳng những ác ôn mà còn ... nhát nữa. Xin giới thiệu cùng các bạn.
Trần Lê giới thiệu, chuyễn ngữ và chú giải.
(NCTG) 65 năm trước, vào một ngày giữa hè 1941, phát-xít Đức đã ồ ạt tấn công Liên Xô, đẩy cuộc Thế chiến khởi đầu từ năm 1939 vào một giai đoạn quyết liệt chưa từng có.
Nhà độc tài Stalin, người từng được xưng tụng là "đại nguyên soái",
"thiên tài quân sự", "người cha của các dân tộc"...
Cho đến nay, thái độ "bình chân như vại" của Stalin trước cuộc chiến của Đức vẫn là một bài toán khó hiểu đối với mọi sử gia. Ngay từ đầu năm 1941, đã có vô số dấu hiệu cho thấy phát-xít Đức sẽ tấn công Liên Xô vào giữa mùa hè. Các nước Anh, Pháp... cũng từng cảnh báo Liên Xô về điều đó. Vài tuần trước ngày 21-6, siêu điệp viên Richard Sorge đã thông báo trước ngày giờ chính xác của cuộc tấn công Liên Xô. Vậy mà nhà độc tài Stalin vẫn bình thản tuyên bố "chớ có mắc mưu khiêu khích của địch, gây mất hòa khí!" Cuối tháng 6-1941, đến khi Đức đồng loạt thả bom nhiều thành phố Liên Xô, vị tổng bí thư còn hạ lệnh cho quân đội Xô-viết "chỉ được cử trinh thám đột nhập vào đất địch 60 km" thôi, ngoài ra vẫn phải "án binh bất động". Thái độ "điếc không sợ súng" đó của Stalin đã khiến quân và dân Liên Xô phải trả một giá rất đắt trong thời gian đầu của cuộc chiến.
Trái với những quan niệm cho rằng Stalin bị bất ngờ trước cuộc tấn công của Đức, hoặc Stalin đã biết trước, nhưng vẫn làm ra vẻ không biết để kéo dài thời gian chuẩn bị, để đánh lạc hướng đối phương..., hồi ký của các tướng lĩnh, các lãnh tụ Liên Xô, kể cả của con gái Stalin, đều viết rằng "thiên tài quân sự" Stalin đã bị chấn động thực sự trước cuộc chiến: ông hoảng hốt đến mức trốn bặt về nhà nghỉ tại Kuntsevo (ngoại ô Moscow) trong hơn một tuần. Theo lời kể sau này của tổng bí thư Khrushchev, Stalin còn bi quan đến mức trót buột miệng: "Chúng ta đã dìm đảng của Lenin vào hố phân!"
Mãi đến ngày 30-6, sau khi các thành viên Bộ Chính trị đến Kuntsevo van vỉ (thoạt đầu, nhà độc tài tưởng họ đến để bắt ông!), Stalin mới chịu về lại thủ đô. Trong bài phát biểu trên làn sóng điện ngày 3-7-1941, ông cất giọng cầu khẩn "Các anh, các chị của tôi..." (trước và sau đó, không lần nào Stalin dùng giọng điệu "lễ phép" như thế với các "thần dân"!), báo tin quân Đức đã tiến sâu vào lãnh thổ Liên Xô. Trước đó, vào ngày 22-6-1941, Stalin đã khôn khéo nhường cho Molotov - lúc đó là ngoại trưởng kiêm phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng - tuyên bố trên đài phát thanh tin nước Đức tấn công Liên bang Xô-viết (có lẽ Stalin tính toán như sau: đứng về mặt danh chính ngôn thuận thì Molotov là người ký hiệp định hòa bình với Đức, vậy để ông ta lộ mặt hứng sự bất bình của dân chúng là "đắc sách" nhất).
Tuy nhiên, những sự kiện trên không hề được đưa vào sử sách chính thống của Liên Xô. Trong các thước phim tài liệu cũng như trong "Tiểu sử giản yếu" của Stalin, chúng ta chỉ thấy hình ảnh một vị thủ lĩnh quả cảm, anh minh, không rời nhân dân một bước. Đặc biệt, nhiều người nhớ đến hình ảnh Stalin đứng trên bục của lăng Lenin, dùng những lời lẽ bất hủ để cổ vũ tinh thần binh sĩ trong cuộc diễu binh độc nhất vô nhị, được tổ chức vào ngày 7-11-1941 tại Hồng trường; sau buổi lễ, các đơn vị quân đội đã đi thẳng từ đó ra chiến trận với tiếng thét trên cửa miệng "Vì Tổ quốc, vì Stalin"!
Dưới thời XHCN, có lẽ không mấy ai ở Liên Xô và các nước trong khối cộng sản không biết đến buổi diễu binh lừng danh đó. Khi ấy, quân Đức đã tiến đến gần thủ đô Moscow, thậm chí đã có thể nhìn qua ống nhòm rõ mồn một những đỉnh tháp điện Kremlin. Hồng quân Liên Xô, hoàn toàn bị động trước sức mạnh quân sự khủng khiếp của phát-xít Đức, đã thua hết trận này đến trận khác và phải trải qua những giờ phút kinh hoàng nhất, khi quân Đức có thể chiếm được Moscow vào bất cứ lúc nào.
Mẩu chuyện sau đây, dĩ nhiên cũng không được đưa vào chính sử, rút từ bộ sưu tầm của Yulian Semyonov, một nhà văn nổi tiếng với thể loại "tiểu thuyết tư liệu" ở Nga. Dựa vào hồi tưởng của một đồng nghiệp - nhà văn Aleksandr Voynov -, Semyonov đã thuật lại một câu chuyện khó tưởng tượng liên quan đến Stalin và buổi diễu binh lừng danh kể trên.
Xem tiếp theo link trên: HƠI THỞ CỦA LÃNH TỤ BIẾN ĐÂU?
Ông Medvedev nói về 'tội ác của Stalin' - Kỷ niệm 65 năm chiến thắng chống phát xít, Tổng thống Nga nói ‘tội ác của Stalin là không thể biện minh được' và cho rằng thắng lợi là nhờ hy sinh to lớn của nhân dân.
BÁO CÁO MẬT CỦA KHRUSHỐP VỀ STALIN
BÁO CÁO MẬT CỦA KHRUSHỐP VỀ STALIN
của Ðại hội lần thứ XX đảng
cộng sản Liên Xô
1956 ! Ba năm sau khi Stalin chết, đảng cộng sản Liên Xô tổ chức Ðại hội
lần thứ XX, nhằm mục đích thay đổi chính sách, sửa đổi sai lầm, cải tổ
đảng và cải tổ chế độ. Ngày bế mạc Ðại hội, giữa lúc các đại biểu lục
tục kéo nhau ra về, Khrushốp - tổng bí thư đảng - triệu tập một cuộc họp
bất thường gồm riêng các đại biểu Liên Xô, không có mặt các đại biểu
các đảng anh em. Trước cuộc họp, Khrushốp đã đọc một bản báo cáo, đúng
hơn là một bản án, vạch trần những sai lầm và những tội ác của Stalin.
Bản báo cáo này đã đi vào lịch sử với cái tên Báo cáo mật của Khrushốp
về Stalin.
Gọi là "mật", nhưng chỉ trong vòng hai ba ngày, bản báo cáo của Khrushốp đã được dịch ra khắp các thứ tiếng, lưu hành khắp các nước không nằm dưới quyền kiểm soát của các đảng cộng sản. Ðây là một sự kiện quan trọng có một không hai trong lịch sử. Nó mở đầu một thời kỳ chuyển biến của hầu hết các đảng cộng sản trên thế giới. Nó đánh dấu một bước ngoặt quyết định dẫn tới sự băng hoại của chủ nghĩa Stalin cùng sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Ðông Âu như ta đã thấy.
Ngay sau khi bản báo cáo này được công bố trên các báo chí, tờ Tiếng thợ - cơ quan tuyên truyền của Nhóm trốt-kít Việt Nam ở Pháp - đã trích dịch nhiều đoạn và viết bài bình luận. Tới tháng 10-1982, tờ tạp chí Nghiên cứu - cơ quan lý luận của Nhóm trốt-kít Việt Nam tại Pháp - đã dịch toàn bộ từ bản tiếng Pháp và cho xuất bản. Ðầu năm 1994, cuốn sách này đã được Tủ Sách Nghiên Cứu tái bản với ý muốn cống hiến cho các đảng viên chân chính của đảng cộng sản Việt Nam một bằng chứng về Stalin và chủ nghĩa Stalin, để họ có điều kiện suy ngẫm và tìm hiểu : vì đâu Liên Xô và các nước Ðông Âu đã sụp đổ như ngày nay ?
Liên Minh Việt Nam Tự Do cám ơn Ban Biên Tập của Tủ Sách Nghiên Cứu đã cung cấp tài liệu này và cho phép quảng bá một cách rộng rãi đến người Việt Nam ở trong cũng như ngoài nước.
Ðỗ Tịnh dịch theo bản tiếng Pháp
Ấn Hành : Tủ sách Nghiên cứu, B.P. 246 75224 Paris Cedex 11, France
Gọi là "mật", nhưng chỉ trong vòng hai ba ngày, bản báo cáo của Khrushốp đã được dịch ra khắp các thứ tiếng, lưu hành khắp các nước không nằm dưới quyền kiểm soát của các đảng cộng sản. Ðây là một sự kiện quan trọng có một không hai trong lịch sử. Nó mở đầu một thời kỳ chuyển biến của hầu hết các đảng cộng sản trên thế giới. Nó đánh dấu một bước ngoặt quyết định dẫn tới sự băng hoại của chủ nghĩa Stalin cùng sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Ðông Âu như ta đã thấy.
Ngay sau khi bản báo cáo này được công bố trên các báo chí, tờ Tiếng thợ - cơ quan tuyên truyền của Nhóm trốt-kít Việt Nam ở Pháp - đã trích dịch nhiều đoạn và viết bài bình luận. Tới tháng 10-1982, tờ tạp chí Nghiên cứu - cơ quan lý luận của Nhóm trốt-kít Việt Nam tại Pháp - đã dịch toàn bộ từ bản tiếng Pháp và cho xuất bản. Ðầu năm 1994, cuốn sách này đã được Tủ Sách Nghiên Cứu tái bản với ý muốn cống hiến cho các đảng viên chân chính của đảng cộng sản Việt Nam một bằng chứng về Stalin và chủ nghĩa Stalin, để họ có điều kiện suy ngẫm và tìm hiểu : vì đâu Liên Xô và các nước Ðông Âu đã sụp đổ như ngày nay ?
Liên Minh Việt Nam Tự Do cám ơn Ban Biên Tập của Tủ Sách Nghiên Cứu đã cung cấp tài liệu này và cho phép quảng bá một cách rộng rãi đến người Việt Nam ở trong cũng như ngoài nước.
Ðỗ Tịnh dịch theo bản tiếng Pháp
Ấn Hành : Tủ sách Nghiên cứu, B.P. 246 75224 Paris Cedex 11, France
Ðoạn
1 : Sùng bái cá nhân và các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác
(LÊN MẠNG THỨ SÁU 15 THÁNG SÁU 2001) |
Thưa các đồng chí,
Trong bản báo cáo của Ban
chấp hành trung ương đảng đọc
trước Ðại hội thứ XX, trong lời phát
biểu của nhiều đại biểu Ðại hội
và trong các khóa họp trước kia của Ban chấp hành
trung ương, chúng ta đã đề cập nhiều
đến tệ sùng bái cá nhân và những hậu quả tai
hại của nó.
Sau khi Stalin mất, Ban
chấp hành trung ương đảng ta đã cố
gắng giải thích từng bước, nhưng kiên trì,
rằng việc đề cao vai trò một cá nhân, biến
cá nhân đó thành kẻ siêu phàm với những đức
tính như thần linh là điều xa lạ và không thể
chấp nhận được đối với tinh
thần học thuyết Mác-Lênin. Người ta giả
thiết một người như thế thông hiểu
mọi sự, suy nghĩ thay cho mọi người, có
thể làm bất cứ việc gì và không hề sai lầm
trong hành động.
Trong nhiều năm dài,
sự xác tín rằng có thể tồn tại một cá nhân
như thế - và cá nhân ấy chính là Stalin - đã
được bồi dưỡng trong chúng ta.
Bản báo cáo này không có
mục đích đánh giá kỹ lưỡng thân thế và
sự nghiệp của Stalin. Công lao của Stalin đã
được trình bày trong nhiều sách vở, báo chí và các
công trình khác, ngay từ khi Stalin còn sống. Vai trò của
Stalin trong việc chuẩn bị và hoàn thành cuộc Ðại
cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười, trong
nội chiến cũng như trong giai đoạn
đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô đã được cả thế giới biết
đến. Ðây là điều mọi người
đều biết.
Hôm nay, chúng ta cần
đề cập đến một vấn đề có
tầm quan trọng hết sức lớn lao đối
với đảng, chẳng những trong hiện tại
mà cả trong tương lai. Ấy là việc tại sao
tệ sùng bái cá nhân Stalin đã bành trướng ngày càng
mạnh, và trong một giai đoạn phát triển nhất
định, đã dẫn đến một loạt
những vi phạm trầm trọng các nguyên tắc, pháp
luật và nền dân chủ của đảng.
Vì đến nay, không phải
ai cũng thấy rõ những hậu quả tiêu cực trong
thực tiễn của tệ sùng bái cá nhân, những tai
hại trầm trọng do việc vi phạm nguyên tắc
lãnh đạo tập thể của đảng và sự
tập trung quyền hành lớn lao, vô giới hạn trong
tay một người độc nhất, nên Ban chấp
hành trung ương đảng nhận thấy nhất
thiết phải trình bày trước Ðại hội
những tư liệu đã có trong tay về vấn
đề này.
Trước hết, xin phép
nhắc các đồng chí là các nhà kinh điển của
học thuyết Mác-Lênin đã từng nghiêm khắc tố
cáo mọi biểu hiện của tệ sùng bái cá nhân. Trong
bức thư gửi chính trị gia người Ðức
Vinhem Blốtxơ (Wilhem Bloss), Mác viết :
Trong thời kỳ hoạt
động của Quốc tế, ác cảm với mọi
thứ sùng bái cá nhân đã khiến tôi không bao giờ cho
đăng tải vô số thư từ nhiều
nước gửi đến ca tụng tôi, chúng chỉ
khiến tôi bực mình. Tôi không bao giờ trả lời,
trừ những quở trách đây, đó. Khi lần
đầu tiên Ăngghen và tôi gia nhập "Hội
những người cộng sản bí mật", chúng tôi
đặt điều kiện phải xóa bỏ hết
thảy trong Ðiều lệ những gì có thể thúc
đẩy lòng tin mê muội vào uy quyền. (Sau này, Látsan
đã hành động hoàn toàn ngược lại).
Ít lâu sau, Ăngghen
viết :
Cả Mác, cả tôi
đều luôn luôn chống lại mọi sự biểu
dương công khai liên quan đến một số cá nhân, trừ
trường hợp có mục đích cao hơn ; và
nhất là chúng tôi chống lại những lời biểu
dương đối với cá nhân chúng tôi, ngay khi chúng tôi
còn sống.
Ai nấy đều biết
đến tính khiêm tốn vô bờ bến, vốn là nét
đặc trưng của Lênin, thiên tài cách mạng của
chúng ta. Lênin bao giờ cũng nhấn mạnh vai trò của
quần chúng với tư cách người làm ra lịch
sử, nhấn mạnh vai trò lãnh đạo và tổ chức
của đảng như một cơ cấu sống
động và mang tính xây dựng, cũng như nhấn
mạnh vai trò của Ban chấp hành trung ương
đảng.
Chủ nghĩa Mác không
phủ nhận vai trò của những lãnh tụ giai cấp
công nhân trong việc lãnh đạo phong trào cách mạng.
Mặc dầu đánh giá cao
vai trò những người lãnh đạo và tổ chức
quần chúng, Lênin phê phán không khoan nhượng mọi
biểu hiện sùng bái cá nhân, đồng chí đã
đấu tranh kịch liệt chống mọi học
thuyết phi mác-xít về vai trò "người anh hùng"
và "quần chúng", bác bỏ mọi ý đồ
đưa "người anh hùng" đối lập
với quần chúng, với nhân dân.
Lênin dạy rằng sức
mạnh của đảng tiềm ẩn trong mối quan
hệ không gì lay chuyển nổi với quần chúng,
rằng đằng sau đảng là nhân dân : công nhân,
nông dân và trí thức.
Lênin nói :
Chỉ có kẻ nào tin
tưởng ở nhân dân, chỉ có kẻ nào đắm
mình trong nguồn sáng tạo sinh động vĩnh cửu
của nhân dân, kẻ ấy mới có thể chiến
thắng và duy trì được chính quyền.
Lênin tự hào nói về
đảng cộng sản của những người
bônsêvích, coi đảng là người lãnh đạo và
dạy dỗ quần chúng ; lúc nào đồng chí cũng
yêu cầu mọi vấn đề quan trọng phải
được mang ra bàn luận trước những công
nhân giác ngộ và đảng của họ. Lênin nói :
Chúng ta tin tưởng vào
đảng, coi nó là bộ óc, là danh dự và lương tâm
của thời đại chúng ta.
Lênin cương quyết
chống lại mọi mưu mô coi thường hoặc
làm giảm vai trò lãnh đạo của đảng trong
cấu trúc nhà nước xô-viết. Thiết lập
những nguyên tắc bônsêvích cho sự lãnh đạo
của đảng và những chuẩn mực của sinh
hoạt đảng, đồng chí nhấn mạnh :
lãnh đạo tập thể là nguyên tắc căn bản
của sự lãnh đạo của đảng. Ngay trong
những năm trước cách mạng, Lênin vẫn
gọi Ban chấp hành trung ương đảng là một
tập thể lãnh đạo, là người bảo vệ
và diễn giải những nguyên tắc của
đảng. Lênin nói :
Trong khoảng thời giai
giữa hai kỳ Ðại hội, Ban chấp hành trung
ương bảo vệ và diễn giải những nguyên
tắc của đảng.
Nhấn mạnh vai trò và
tầm quan trọng của Ban chấp hành trung ương,
Vlađimia Ilích nhận định :
Ban chấp hành trung
ương của chúng ta đã trở thành một nhóm
tập trung nghiêm ngặt và có uy tín lớn.
Hồi sinh thời Lênin, Ban
chấp hành trung ương đảng quả thực là
hiện thân cho nguyên tắc lãnh đạo tập thể
của đảng và đất nước. Là một
chiến sĩ cách mạng mác-xít, dù luôn luôn cứng rắn
trong những vấn đề mang tính nguyên tắc, song
Lênin không bao giờ ép buộc các đồng sự phục
tùng quan niệm của mình. Lênin luôn tìm cách thuyết
phục các đồng chí của mình, kiên nhẫn giảng
giải cho họ biết tại sao đồng chí lại
có ý kiến này hay ý kiến khác.
Lênin luôn chú trọng
đến việc duy trì những quy tắc sinh hoạt
đảng, áp dụng điều lệ tổ chức
đảng trong thực tiễn, đồng chí chú ý triệu
tập Ðại hội đảng và các hội nghị Ban
chấp hành trung ương vào những thời điểm
cần thiết.
Ðoạn
2 : Lênin nói về Stalin
(LÊN MẠNG THỨ SÁU 15 THÁNG SÁU 2001) |
Bên cạnh những công lao to
lớn cống hiến cho thắng lợi của giai
cấp công nhân, của quần chúng lao động, của
đảng và sự áp dụng tư tưởng của
chủ nghĩa cộng sản khoa học trong thực
tiễn, trí tuệ sáng suốt của Lênin còn thể
hiện ở chỗ đồng chí đã để ý
kịp thời nhiều đặc điểm tiêu cực
của Stalin, là cái sau này đã mang lại những hậu
quả rất tồi tệ.
Lo ngại cho tương lai
của đảng và nhà nước xô-viết, Vlađimia
Ilích Lênin đã phân tích hoàn toàn đúng đắn về nhân
cách của Stalin. Ðồng thời, đồng chí nhắc
nhở cần loại bỏ Stalin khỏi chức
vụ tổng bí thư. Theo nhận định của
Lênin, Stalin là con người quá thô lỗ, đối
xử không thỏa đáng với các đồng chí, có tính
nết thất thường và lạm dụng quyền
hành.
Tháng 12-1922, Vlađimia Ilích
viết trong bức thư gửi Ðại hội
đảng, :
Ðồng chí Stalin, từ khi
trở thành tổng bí thư đảng, đã thâu tóm vào
tay mình một quyền hành vô hạn mà tôi không dám chắc
đồng chí ấy sẽ luôn biết sử dụng
một cách có chừng mực.
Bức thư đó - một
tài liệu chính trị hết sức quan trọng,
được biết đến trong lịch sử
đảng dưới cái tên Di chúc chính trị của
Lênin [1]-
đã được phát cho các đại biểu của
Ðại hội lần thứ XX này. Chắc chắn các
đồng chí đã đọc nó nhiều lần và sẽ
còn đọc đi đọc lại nhiều lần
nữa. Ðề nghị các đồng chí hãy chú ý đến
những lo âu của Vlađimia Ilích về tương lai
của đảng, của nhân dân, của nhà nước và
của sự lãnh đạo đảng sau này.
Vlađimia Ilích nói :
Stalin là người có tính thô
lỗ thái quá và nhược điểm này - hoàn toàn có
thể chịu đựng được giữa chúng ta
với nhau và trong quan hệ giữa những người
cộng sản - không thể chấp nhận
được trong cương vị tổng bí thư
đảng. Vì thế, tôi đề nghị các
đồng chí hãy suy nghĩ về việc thuyên chuyển
Stalin ra khỏi trọng trách ấy. Hãy đề cử vào
vị trí của Stalin một đồng chí khác, có tính
nết tốt hơn so với Stalin : kiên nhẫn
hơn, trung thực hơn, lịch sự hơn và chu
đáo hơn đối với các đồng chí, ít
thất thường hơn v.v...
Các đại biểu Ðại
hội lần thứ XIII đã được biết tài
liệu do Lênin để lại trên đây [2] và khi
đó, họ đã thảo luận về vấn
đề truất Stalin khỏi chức vụ tổng bí
thư. Tuy nhiên, các đại biểu đã quyết
định duy trì Stalin ở cương vị ấy, hy
vọng Stalin sẽ chú trọng đến những
nhận xét mang tính phê bình của Vlađimia Ilích và sẽ
biết sửa đổi những tính xấu đã
khiến Lênin lo ngại.
Thưa các đồng chí,
Ðại hội cần
biết hai tài liệu mới, chứng tỏ bản tính
của Stalin mà Lênin đã vạch rõ trong Di chúc chính
trị của đồng chí. Ðó là bức thư của
Krúpskaia gửi cho Kamênép [3] - lúc
ấy đứng đầu Bộ Chính trị - và thư
riêng của Lênin gửi Stalin.
Bây giờ, tôi xin đọc
cho các đồng chí nghe các tài liệu nói trên.
Thư của Krúpskaia :
Lép Bôrisôvích,
Vì một lá thư
ngắn [4]
mà bác sĩ đã cho phép Vlađimia Ilích đọc cho tôi
chép, ngày hôm qua Stalin đã nổi cơn thịnh nộ thô
bạo nhất đối với tôi. Ðã khá lâu rồi tôi là
thành viên của đảng. Nhưng trong suốt ba
mươi năm ấy, tôi chưa hề nghe một
đồng chí nào nói một câu thô lỗ với tôi. Tôi mang
trong tim mình những lợi ích của đảng và của
Ilích, ít nhất cũng như Stalin. Lúc này, tôi cần tự
chủ cực độ. Ðiều gì cần phải làm,
điều gì có thể hay không thể đưa ra bàn
luận với Lênin, tôi là người hiểu rõ hơn
mọi bác sĩ. Bởi tôi biết điều gì có thể
hay không thể gây ra sự bực dọc cho Lênin. Chí ít, tôi
cũng biết điều đó hơn Stalin.
Tôi viết thư này cho
đồng chí và đồng chí Grêgôri (Dinôviép) [5] - là
những bạn hữu gần gũi nhất của Ilích -
và tôi yêu cầu hai đồng chí bảo vệ tôi chống
lại sự can thiệp thô bạo vào đời tư của
tôi, chống lại những cuộc cãi cọ không đáng
có và những lời hăm dọa hèn hạ. Tôi không nghi
ngờ chút nào về việc Ủy ban Kiểm tra - mà Stalin
đã mang nó ra để dọa tôi - sẽ đưa ra
quyết định thống nhất để bảo
vệ tôi. Nhưng tôi không đủ sức và cũng không
đủ thì giờ cho những trò kiện cáo ngu xuẩn
này. Tôi cũng là người và thần kinh của tôi đã
căng thẳng đến tột độ.
N. Krúpskaia
Krúpskaia viết bức thư
này ngày 23-12-1922. Hai tháng rưỡi sau, ngày 5-3-1923, Lênin
viết cho Stalin bức thư sau, và sao lục hai bản
gửi Dinôviép và Kamênép :
Ðồng chí Stalin thân mến,
Ðồng chí đã tự cho
phép mình gọi dây nói cho vợ tôi và mắng mỏ vợ
tôi một cách thô bỉ. Mặc dầu vợ tôi đã nói
với đồng chí là sẽ bỏ qua những
điều đồng chí nói, tuy nhiên, qua vợ tôi, hai
đồng chí Dinôviép và Kamênép đã biết chuyện này.
Tôi không thể dễ dàng quên được việc đó
và chẳng cần nói, đồng chí cũng hiểu
rằng những gì chống lại vợ tôi, tôi cũng coi
như chống lại tôi. Vì thế, tôi yêu cầu
đồng chí suy nghĩ kỹ xem đồng chí có sẵn
sàng rút lại những lời đã nói và xin lỗi vợ
tôi, hay là chúng ta đoạn tuyệt mọi quan hệ.
Thân ái Lênin [6]
(Cả phòng họp kinh
ngạc)
Thưa các đồng chí,
Bây giờ, tôi xin miễn bình
luận những tài liệu nói trên. Tự nó nói lên tất
cả. Nếu từ lúc sinh thời Lênin, Stalin đã có
thể cư xử như thế, nhất là cư xử
như thế đối với Krúpskaia - người mà
đảng ta ai cũng biết và kính trọng như
người vợ chung thủy của Lênin, người
chiến sĩ tích cực đấu tranh cho sự
nghiệp từ ngày đảng thành lập -, có thể
hình dung Stalin cư xử ra sao với những người
khác. Ðặc tính tiêu cực ấy của Stalin ngày càng
mạnh lên và tới độ không thể dung thứ
nổi trong những năm cuối đời đồng
chí ấy.
Những biến cố sau này
đã chứng tỏ những lo ngại của Lênin là có
cơ sở. Trong giai đoạn đầu sau khi Lênin qua
đời, Stalin còn chú trọng đến những lời
khuyên bảo của Lênin, nhưng về sau, đồng chí
ấy ngày càng không đếm xỉa tới những
cảnh cáo của Lênin.
Khi chúng ta phân tích hoạt
động của Stalin trong việc lãnh đạo
đảng và đất nước, khi chúng ta suy nghẫm
về những việc Stalin đã vi phạm, bất giác
chúng ta nhận thấy những lo ngại của Lênin là
đúng đắn. Các nét tiêu cực của Stalin - chỉ
mới chớm nở hồi sinh thời Lênin - vào những
năm về sau đã trở thành sự lạm dụng
nghiêm trọng quyền hành tập trung trong tay Stalin và gây tác
hại khôn lường cho đảng ta.
Chúng ta cần xem xét nghiêm
chỉnh và phân tích kỹ lưỡng vấn đề này,
hầu ngăn cản việc tái diễn những việc
đã xảy ra như dưới thời Stalin,
dưới bất kể hình thức nào. Stalin tuyệt
đối không chấp nhận tính tập thể trong lãnh
đạo và công việc, và đã dùng bạo lực không
những đối với mọi thứ trái ý mình mà - do
tính thất thường và độc đoán của
đồng chí ấy - còn đối với tất cả
những gì bị đồng chí ấy coi là không hợp
với quan niệm của mình.
Ðối với mọi
người, Stalin không dùng phương pháp thuyết
phục bằng lý luận và sự hợp tác kiên nhẫn.
Stalin bắt buộc kẻ khác phải theo ý định
của mình và đòi họ phải phục tùng mình một
cách vô điều kiện. Ai dám cưỡng lại và tìm
cách chứng tỏ rằng mình đúng, kẻ đó
phải rời hàng ngũ lãnh đạo và sau đó sẽ
bị tiêu diệt về tinh thần và thể xác. Ðiều
này đã xảy ra sau Ðại hội thứ XVII của
đảng, khi rất nhiều lãnh tụ xuất sắc
của đảng và các đảng viên nòng cốt -
biết bao chiến sĩ trung thực và ngay thẳng
của sự nghiệp cộng sản - đã là nạn
nhân của sự bạo ngược của Stalin.
Chúng ta đều biết
đảng đã phải đấu tranh quyết liệt
chống bọn trốt-kít, bọn hữu khuynh và bọn
quốc gia tư sản và bằng cuộc đấu tranh
đó, đảng đã đánh bại về mặt tư
tưởng mọi kẻ thù của chủ nghĩa Lênin.
Cuộc tranh đấu tư tưởng này đã thành
công, nhờ đó đảng được củng
cố và vững vàng thêm. Trong cuộc tranh đấu
ấy, Stalin đã có một vai trò tích cực.
Ðảng đã tiến hành
cuộc tranh đấu chính trị lớn lao chống
lại những đảng viên tuyên truyền các tư
tưởng phi lê-nin-nít, và theo đường lối
chống lại đảng và phản lại chủ
nghĩa xã hội trong nội bộ đảng. Thật là
một cuộc tranh đấu bền bỉ và khó khăn,
nhưng cần thiết, bởi lập trường chính
trị của bọn Trốtsky [7] - Dinôviép
cũng như bọn Bukharin [8], về
cơ bản là con đường đi tới chỗ tái
lập chủ nghĩa tư bản và đầu hàng tư
bản quốc tế [9]. Chúng ta
thử tưởng tượng hồi 1928-1929, nếu
chính sách của bọn hữu khuynh - chủ trương
thuyết "chủ nghĩa xã hội tiến nhịp
bước con rùa", hướng về bọn phú nông
(cu-lắc) [10], v.v... -
mà thắng thế thì kết quả sẽ ra sao ? Ngày
nay, chúng ta làm gì có được nền công nghiệp
nặng đồ sộ, làm gì có được các hợp
tác xã, chúng ta sẽ yếu thế và bị giải giáp giữa
môi trường tư bản chủ nghĩa.
Vì thế, đảng đã
vận động một cuộc đấu tranh tư
tưởng quyết liệt, vì thế, đảng đã
cố gắng giải thích cho mọi đảng viên và
quần chúng ngoài đảng biết tầm nguy hại của
những tàn dư phi lê-nin-nít của phe đối lập
trốt-kít và bọn cơ hội hữu khuynh. Và công
cuộc to lớn làm sáng tỏ đường lối
của đảng đã đem lại thành quả tốt
đẹp : cả bọn trốt-kít, cả lũ
cơ hội hữu khuynh bị cô lập về chính
trị ; đại đa số đảng viên ủng
hộ lập trường lê-nin-nít, và đảng đã
thành công trong việc thúc đẩy và tổ chức
quần chúng lao động thực hiện
đường lối lê-nin-nít của đảng và xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Nhưng chúng ta không
được phép quên rằng ngay trong thời kỳ
đảng mở cuộc đấu tranh tư tưởng
mãnh liệt chống bọn Trốtsky, bọn Dinôviép,
bọn Bukharin và bè phái, đảng không áp dụng biện
pháp đàn áp đối với họ. Cuộc đấu
tranh diễn ra trên địa hạt tư tưởng.
Nhưng vài năm sau, khi chủ nghĩa xã hội đã
được xây dựng căn bản trong nước,
khi các giai cấp bóc lột đã bị thủ tiêu về
cơ bản, khi cơ cấu xã hội Liên Xô đã thay
đổi tận gốc rễ, khi không còn cơ sở xã
hội cho sự ra đời của những đảng,
những phong trào chính trị phản động, khi
những kẻ thù tư tưởng của đảng
đã bị đánh bại về chính trị từ
nhiều năm về trước - khi ấy, những
cuộc khủng bố lại khởi đầu chống
họ.
Chính trong giai đoạn này
(1936-1937-1938), sự đàn áp hàng loạt đã nảy sinh
với sự giúp đỡ của bộ máy nhà
nước. Thoạt tiên, người ta dùng biện pháp
ấy để chống kẻ thù của chủ nghĩa
Lênin : bọn Trốtsky, bọn Dinôviép, bọn Bukharin,
những kẻ đã bị đảng đánh bại
về mặt chính trị từ lâu ; sau là để
đàn áp nhiều chiến sĩ cộng sản chân chính,
những cán bộ đảng từng mang trên vai gánh
nặng của cuộc nội chiến, của những
năm đầu khó khăn nhất trong thời kỳ công
nghiệp hóa, công hữu hóa. Ðây là những người
đã tranh đấu tích cực chống bọn Trốtsky
và bọn hữu khuynh để bảo vệ đường
lối lê-nin-nít của đảng.
[1] Sau khi đọc cho thư ký viết bức thư này, Lênin cho hủy bản chính và trao hai bản sao đã niêm phong (với dấu "Tối mật") cho Krúpskaia và Ban Bí thư, ông dặn chỉ được mở và đọc trong Ðại hội đảng sau khi ông qua đời. Vì thế, bức thư trên còn mang tên Thư gửi Ðại hội.
[2] Thư gửi Ðại hội được đọc trong hội nghị ngày 22-5-1924 của Ban chấp hành Trung ương. Một quyết định được thông qua : không thảo luận bản Di chúc chính trị của Lênin trong Ðại hội lần thứ XIII và không công bố trước dân chúng. Bản Di chúc này được Mắc Istman (Max Eastman) - một đảng viên cộng sản Mỹ - đăng tải công khai lần đầu tiên trên tờ New York Times ngày 18-10-1926.
[3] Lép B. Kamênép (1883-1936) : đảng viên từ năm 1901, chủ tịch xô-viết Moskva, phó chủ tịch Hội đồng Dân ủy và ủy viên Bộ Chính trị thời kỳ 1919-1926. Bị bắt sau vụ ám sát Kirốp, bị tù đày và tử hình với lời buộc tội "hoạt động khủng bố".
[4] Lá thư Lênin gửi Trốtsky ngày 21-12-1922, chúc mừng Trốtsky đã đấu tranh thắng lợi khiến Ban chấp hành Trung ương thông qua quyết định nhà nước phải nắm trong tay độc quyền ngoại thương : Dường như đồng chí chiếm được các cứ điểm mà không tốn một phát súng nào. Ðề nghị đồng chí đừng dừng lại, chúng ta hãy tiếp tục tấn công.
[5] Grêgôri I. Dinôviép (1883-1936) : vào đảng năm 1901, đảng viên bônsêvích năm 1903, là học trò và cộng sự gần gũi nhất của Lênin. Chủ tịch xô-viết Pêtrôgrát sau cách mạng tháng Mười, ủy viên Bộ Chính trị, chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Quốc tế cộng sản (Ðệ tam). Bị bắt và tử hình cùng Kamênép trong "vụ án Moskva" năm 1936.
[6] Bức thư này đã được Lép Trốtsky đăng trong cuốn hồi ký Ðời tôi. Ðảng cộng sản Liên Xô và tất cả các đảng cộng sản trên thế giới vẫn giấu giếm trước dư luận. Ðây là lần đầu tiên đảng cộng sản Liên Xô công bố trước Ðại hội đảng. Ngày 7-3-1923, Stalin trả lời Lênin với giọng điệu khá ngang bướng ; lá thư này mới được công bố cách đây ít lâu. Cũng trong ngày hôm đó, Lênin bị chảy máu não lần thứ hai, ông bị cấm khẩu và liệt toàn thân.
[7] Lép D. (Brônstên) Trốtsky (1879-1940) : vào đảng Xã hội Dân chủ Nga năm 1897, bị tù và đày ải nhiều lần dưới thời Nga hoàng, chủ tịch xô-viết Pêtrôgrát trong cách mạng 1905 và cách mạng tháng Mười 1917, đóng vai trò quyết định trong việc tổ chức và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa tháng Mười. Sau năm 1917, giữa các trọng trách Dân ủy Ngoại vụ, Dân ủy Quốc phòng và Hải quân, chủ tịch Hội đồng Quân sự Cách mạng, ủy viên Bộ Chính trị ; sáng lập và lãnh đạo Hồng quân trong cuộc nội chiến. Sau khi Lênin mất, Trốtsky là người đứng đầu các nhóm đối lập ở Liên Xô, bị Stalin khai trừ khỏi đảng năm 1926, đày đi Anma-Ata năm 1928 và trục xuất khỏi Liên Xô năm 1929. Trốtsky thành lập Ðệ tứ Quốc tế vào nửa cuối thập niên 30, bị Stalin phái người tới tận Mêhicô để ám sát ông vào năm 1940.
[8] Nikôlai I. Bukharin (1888-1938) : ủy viên thành ủy Mạc Tư Khoa từ năm 1908, thành viên Ban chấp hành Trung ương từ hè năm 1917, ủy viên Bộ Chính trị đến năm 1929, chủ tịch Quốc tế cộng sản (Ðệ tam) thời kỳ 1926-1929. Bị bắt năm 1937 và tử hình vì tội "gián điệp" trong vụ án Bukharin năm 1938.
[9] Ðây là một sự vu khống theo kiểu xta-lin-nít. Các sử gia đứng đắn, tôn trọng sự thật đều biết sau khi cách mạng tháng Mười thành công, Lép Trốtsky là người đầu tiên trong đảng đề ra khẩu hiệu Công nghiệp hóa và Công hữu hóa. Thoạt đầu, Stalin và Bukharin chống lại chủ trương ấy. Sau này, khi đã loại bỏ Bukharin, Stalin đem những khẩu hiệu của Trốtsky ra áp dụng, nhưng vẫn tiếp tục vu khống Trốtsky.
[10] Tầng lớp phú nông có ruộng đất ở Nga.
Ðoạn
3 : "Kẻ thù của nhân dân"
(LÊN MẠNG THỨ SÁU 15 THÁNG SÁU 2001) |
Stalin là người
đề xướng quan niệm "kẻ thù của
nhân dân". Thuật ngữ này tự nó loại trừ
sự cần thiết phải chứng tỏ những sai
lầm về tư tưởng của từng cá nhân hay
đoàn thể. Nó tạo điều kiện cho việc vi
phạm mọi chuẩn mực của pháp luật cách
mạng, áp dụng những biện pháp khủng bố tàn
bạo nhất với bất kỳ ai không đồng tình
với Stalin trong bất kỳ một vấn đề
nào, đối với những người mới chỉ
bị nghi vấn là đang chuẩn bị hoạt
động chống phá cũng như với những
kẻ vô tăm tiếng.
Tự bản thân, quan
niệm "kẻ thù của nhân dân", trong thực
tế, đã loại bỏ khả năng mở ra bất
kỳ một cuộc đấu tranh tư tưởng
nào, hoặc ngăn cản người khác không
được phát biểu ý kiến về một vấn
đề nhất định, ngay cả khi vấn
đề ấy là thực tiễn, chứ không mang tính lý
luận. Trái hẳn với mọi nguyên tắc pháp lý,
người ta chỉ dựa vào lời "thú tội"
của bị cáo để buộc tội, coi đó là
bằng chứng chính yếu và duy nhất trong thực
tế. Các cuộc thẩm tra sau này đã chứng
tỏ : bằng nhục hình, người ta đã
cưỡng bức các bị cáo phải tuôn ra những
lời "thú tội".
Ðiều này dẫn đến
chỗ pháp lý cách mạng bị vi phạm trầm trọng,
và nhiều người hoàn toàn vô tội - trong quá khứ
từng bảo vệ đường lối của
đảng - đã trở thành nạn nhân.
Phải nhớ rằng ngay
cả đối với những người trước
kia đã chống lại đường lối của
đảng, lắm lúc, dù chẳng có lý do gì chính đáng,
họ cũng bị giết hại. Quan niệm
"kẻ thù của nhân dân" được áp dụng
nhiều nhất chính là để sát hại thể xác
những người như thế.
Một thực tế nữa
là trong số những người bị thanh trừng
như "kẻ thù của đảng và nhân dân",
có nhiều người trước đây từng cộng
tác với Lênin. Trong số đó, hồi sinh thời Lênin có
vài người đã từng phạm những sai lầm,
nhưng Lênin - thường thường hài lòng với công
việc của họ - đã cố gắng giúp họ
sửa chữa những sai lầm ấy và tìm mọi cách
giữ họ lại trong hàng ngũ đảng ;
đồng chí bao giờ cũng cố gắng thuyết phục
họ theo lẽ phải của đồng chí.
Về điểm này, các
đại biểu Ðại hội đảng cần
được biết nội dung một bức thư -
chưa bao giờ được công bố - mà đồng
chí V.I. Lênin gửi đến Bộ Chính trị Ban chấp
hành trung ương tháng 10-1920. Nhấn mạnh về
nhiệm vụ của Ủy ban Kiểm tra, Lênin nói
rằng ủy ban này phải trở nên một "cơ
quan thực thụ của lương tri đảng và
lương tri vô sản" :
Nhân danh nhiệm vụ
đặc biệt của mình, Ủy ban Kiểm tra cần
quan tâm chu đáo đến từng cá nhân, thậm chí
phải coi mình như một liều thuốc chữa
bệnh đối với các đại diện phe
đối lập, những người bị khủng
hoảng tinh thần sau những thất bại của
họ trong chính quyền xô-viết hay trong đảng.
Cần phải cố gắng an ủi họ, giải thích
cho họ hiểu vấn đề trên tình đồng chí,
tìm cho họ (nên tránh lối ra lệnh) một công tác phù
hợp với đặc tính tâm lý của họ, phải
đưa những hướng dẫn và chỉ thị
về vấn đề này cho Ban Tổ chức trung
ương, v.v...
Mỗi người chúng ta
đều biết Lênin rất nghiêm khắc đối
với những kẻ thù tư tưởng của chủ
nghĩa Mác, với những ai đi sai đường
lối đúng dắn của đảng. Nhưng
đồng thời, cũng như tài liệu
được trích dẫn nói trên chứng tỏ, trong quá
trình lãnh đạo đảng, Lênin đòi hỏi
đảng phải cư xử thật sâu sắc với
những ai tỏ ra do dự hoặc chưa đồng
tình với đường lối của đảng trong
một giai đoạn tạm thời, nhưng sau này có
thể trở về với đảng. Lênin khuyên nhủ
chúng ta phải kiên nhẫn cải tạo những
người này và đừng áp dụng những biện
pháp cực đoan đối với họ.
Sự sáng suốt của
Lênin trong quan hệ với con người đã bộc
lộ rất rõ trong hành động đối với các
cán bộ đảng.
Nhưng trong mối quan
hệ với mọi người, Stalin lại cư
xử hoàn toàn trái ngược. Những phương pháp
của Lênin hoàn toàn xa lạ đối với Stalin. Kiên
nhẫn đối với con người, chú trọng
việc thường xuyên cải tạo họ, tìm cách
thuyết phục họ về với mình, không
cưỡng chế mà chỉ dùng tác động tư
tưởng thông qua tập thể đảng - đây là
những điều Stalin không hề biết đến.
Stalin đã bác bỏ
phương pháp thuyết phục và giáo dục lê-nin-nít,
vứt bỏ phương pháp đấu tranh tư
tưởng và chỉ sử dụng phương pháp
bạo lực hành chính, đàn áp và khủng bố hàng
loạt. Dựa vào các cơ quan hình sự, Stalin đã áp
dụng những phương pháp ấy, ngày càng trên
diện rộng và ngày càng dai dẳng, giữa chừng,
đồng chí ấy thường xuyên chà đạp lên
mọi chuẩn mực đạo lý và pháp lý xô-viết.
Sự độc đoán
của một cá nhân đã thúc đẩy và động viên
hành vi độc đoán cho những kẻ khác. Những
vụ bắt bớ đồng loạt hàng ngàn
người, những vụ hành quyết không đem ra xét
xử tại tòa án và không qua thẩm xét thông thường
đã tạo nên trạng thái "bất an", tràn
đầy nỗi lo âu, thậm chí khiếp đảm.
Tất nhiên, điều này
không củng cố sự đoàn kết giữa các cán
bộ đảng và mọi tầng lớp quần chúng lao
động. Trái lại, nó dẫn đến việc khai
trừ khỏi đảng và thủ tiêu nhiều chiến
sĩ trung thành với đảng, chỉ vì họ không làm
vừa ý Stalin.
Ðảng ta đã đấu
tranh nhằm thực hiện những kế hoạch xây
dựng chủ nghĩa xã hội của Lênin. Ðây là cuộc
đấu tranh về ý thức hệ. Nếu trong cuộc
đấu tranh này, những nguyên tắc lê-nin-nít
được thực hiện và nếu sự tôn
trọng nguyên tắc được hòa hợp đúng
đắn với sự quan tâm, chăm sóc con người,
nếu con người không bị gạt bỏ mà
được đối xử phải lẽ, hiển
nhiên là chúng ta đã không gặp phải sự vi phạm
luật pháp cách mạng một cách thô bạo như thế,
và hàng vạn người đã không trở thành nạn nhân
của những phương pháp khủng bố. Lẽ ra,
chỉ được dùng các biện pháp bất
thường chống lại những kẻ quả
thực có hành động phá hoại hệ thống
xô-viết.
Ðoạn
4 : Lênin và tổ chức đảng
(LÊN MẠNG THỨ BẢY 16 THÁNG SÁU 2001) |
Chúng ta hãy nhớ lại vài
sự kiện lịch sử.
Trong những ngày trước
cách mạng tháng Mười, hai ủy viên Ban chấp hành
trung ương đảng bônsêvích, Kamênép và Dinôviép đã
chống lại kế hoạch khởi nghĩa vũ trang
của Lênin(1). Hơn thế nữa, ngày 18-10, họ
lại đăng trên tờ Nôvaia Giưdin(2) của
phái mensêvích một lời tuyên bố, trong đó họ
đề cập đến việc đảng bônsêvích
đang chuẩn bị cuộc khởi nghĩa vũ trang
mà họ (Kamênép và Dinôviép) coi là một hành động phiêu
lưu mạo hiểm. Như thế, Kamênép và Dinôviép đã
tiết lộ cho kẻ thù biết nghị quyết
của Ban chấp hành trung ương về cuộc
khởi nghĩa, nhất là họ công bố cuộc
khởi nghĩa sẽ xảy ra trong vòng vài ngày.
Ðó là một hành động
phản bội đối với đảng và đối
với sự nghiệp cách mạng. Về vấn
đề này, Lênin đã viết :
Kamênép và Dinôviép đã tiết
lộ nghị quyết của Ban chấp hành trung
ương đảng về cuộc khởi nghĩa
vũ trang cho Rốtdiankô và Kêrensky(3)...
Và Lênin đã đề
nghị Ban chấp hành trung ương khai trừ Kamênép và
Dinôviép khỏi đảng(4).
Nhưng sau khi cuộc đại
cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười thành
công, ai cũng biết Dinôviép và Kamênép đã giữ các
chức vụ lãnh đạo. Lênin đã đưa họ
vào những cương vị mà tại đó, họ đã
chỉ đạo việc thực hiện những
nghị quyết rất quan trọng của đảng.
Họ cũng tham gia tích cực vào công tác lãnh đạo các
tổ chức đảng và xô-viết.
Chúng ta cũng biết Dinôviép
và Kamênép còn phạm hàng loạt sai lầm khác - không kém
phần nghiêm trọng - trong lúc sinh thời Lênin. Trong Di
chúc chính trị của mình, Lênin đã nhắc
nhở : "Biến cố tháng Mười của
Dinôviép và Kamênép tất nhiên không tình cờ."
Dù vậy, Lênin không
đặt vấn đề bắt bớ họ và dĩ
nhiên, càng không có chuyện xử tử họ.
Hoặc, hãy xem thí dụ
của phái trốt-kít. Ngày nay, sau một giai đoạn
lịch sử tương đối dài, chúng ta có thể
hoàn toàn bình tĩnh nói về cuộc đấu tranh
chống phái trốt-kít và có thể phân tích vấn
đề này với độ khách quan cần thiết.
Trước tiên, những
người đứng xung quanh Trốtsky, xét về thành
phần xã hội, không thể liệt vào thành phần
tư sản. Trong số họ, một số là trí
thức và một số khác là những đảng viên có
gốc rễ lao động. Chúng ta có thể nhắc
đến tên nhiều người, thời xưa từng
ủng hộ Trốtsky. Nhưng những người
ấy - trước cách mạng và trong cuộc cách mạng
tháng Mười - đã tham gia tích cực vào phong trào công
nhân, sau đó, họ đã đấu tranh củng cố
thắng lợi của cuộc cách mạng vĩ
đại đó(5).
Nhiều người trong
số họ đã đoạn tuyệt phái trốt-kít và
quay về lập trường lê-nin-nít. Thử hỏi có
cần thiết phải tàn sát họ hay không ? Chúng ta
tin chắc nếu Lênin còn sống, không bao giờ những
biện pháp cực đoan lại được mang ra áp
dụng đối với họ.
Ðây chỉ là một vài sự
kiện lịch sử. Nhưng phải chăng có thể
nói Lênin đã không dùng những biện pháp nghiêm khắc
đối với kẻ thù của cách mạng, khi quả
thực điều đó là cần thiết ?
Không, chúng ta không thể nói
như thế. Vlađimia Ilích không chấp nhận bất
cứ một thỏa hiệp nào đối với
những kẻ thù của cách mạng và của giai cấp
công nhân, và khi cần thiết, đồng chí không ngần
ngại sử dụng những phương pháp
cương quyết nhất.
Chúng ta hãy nhớ lại Lênin đã chiến đấu như thế nào để chống lại các tổ chức của bọn xã hội cách mạng(6) khi lũ này nổi dậy chống chính quyền xô-viết, chống lại phong trào phản cách mạng năm 1918 của bọn phú nông (cu-lắc) v.v... Trong những trường hợp đó, Lênin không ngần ngại dùng những phương pháp cứng rắn nhất.
Chúng ta hãy nhớ lại Lênin đã chiến đấu như thế nào để chống lại các tổ chức của bọn xã hội cách mạng(6) khi lũ này nổi dậy chống chính quyền xô-viết, chống lại phong trào phản cách mạng năm 1918 của bọn phú nông (cu-lắc) v.v... Trong những trường hợp đó, Lênin không ngần ngại dùng những phương pháp cứng rắn nhất.
Nhưng Lênin chỉ dùng các
biện pháp này để chống lại kẻ thù giai
cấp thực thụ. Ðồng chí không áp dụng nó với
những cán bộ chỉ mắc sai lầm, có thể
sửa chữa được bằng giáo dục tư
tưởng, thậm chí sau đó còn có thể đặt
họ và các cương vị lãnh đạo.
Lênin chỉ sử dụng
những biện pháp nghiêm khắc trong trường hợp
cần thiết thực sự : khi giai cấp bóc
lột còn tồn tại và chống đối cách mạng
quyết liệt, khi cuộc đấu tranh cho sự sống
còn được biểu lộ dưới những hình
thức gay go nhất, kể cả hình thức nội
chiến.
Ngược lại, Stalin
đã áp dụng những biện pháp đặc biệt và
khủng bố hàng loạt khi cuộc cách mạng đã
toàn thắng, khi nhà nước xô-viết đã được
củng cố, khi giai cấp bóc lột đã hoàn toàn
bị dẹp tan, khi nền móng vững chãi của
những quan hệ xã hội chủ nghĩa đã cắm
rẽ ở khắp các ngành của nền kinh tế
quốc gia, khi đảng đã vững mạnh về
phương diện chính trị và ngày càng được
củng cố về mặt nhân sự cũng như
về ý thức hệ.
Hoàn toàn rõ ràng, trong nhiều
trường hợp, Stalin đã bộc lộ rõ rệt
cách cư xử không thể dung thứ, bản tính lỗ
mãng và lạm dụng chức quyền. Ðáng lẽ phải
chứng tỏ đường lối chính trị đúng
đắn, đáng lẽ phải động viên quần
chúng, đằng này Stalin lại chọn con
đường đàn áp và thủ tiêu thể xác, không
chỉ với kẻ thù thực sự mà còn đối
với những người không mảy may chống
lại đảng hay chính phủ Liên Xô. Không thể coi
đó là hành động sáng suốt, đây chỉ là
biểu hiện của bản tính thô lỗ mà trước
đây Lênin đã tiên đoán và đã lo ngại.
Sau này, nhất là sau khi bè
lũ Bêrya bị vạch mặt, Ban chấp hành trung
ương đã nghiên cứu nhiều vụ việc mà
bọn này đã ngụy tạo ra(7). Kết quả
cho thấy một bức tranh kinh hoàng của toàn bộ
thể chế độc đoán, có liên quan mật
thiết đến thái độ sai trái của Stalin.
Thực tế đã chứng
tỏ, Stalin - trong khi sử dụng quyền hành vô giới
hạn của mình - đã nhân danh Ban chấp hành trung
ương mà không hỏi ý kiến các ủy viên Trung
ương, thậm chí, đồng chí ấy cũng không
xin ý kiến các ủy viên Bộ Chính trị. Nhiều khi,
Stalin chẳng hề báo cáo cho các ủy viên Trung ương
biết những quyết định cá nhân trong các vấn
đề hệ trọng của đảng và của chính
phủ.
Nghiên cứu vấn
đề sùng bái cá nhân, trước hết chúng ta cần
chỉ ra : thứ sùng bái cá nhân này đã gây những tai
hại đến mức nào cho đảng chúng ta.
Lênin luôn luôn nhấn mạnh
vai trò và tầm quan trọng của đảng trong
việc lãnh đạo chính phủ xã hội chủ
nghĩa của công nhân và nông dân ; đồng chí coi đó
là điều kiện hàng đầu cho sự thành công
của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Nhấn mạnh trọng trách của
đảng bônsêvích - trên vai trò một chính đảng lãnh
đạo nhà nước xô-viết -, đồng
thời Lênin đòi hỏi chúng ta phải nghiêm chỉnh tôn
trọng những chuẩn mực trong sinh hoạt
đảng, đòi hỏi chúng ta thực hiện nguyên
tắc tập thể trong việc lãnh đạo
đảng và nhà nước.
(1) Trong hội nghị lịch
sử quyết định khởi nghĩa của Ban
chấp hành Trung ương bônsêvích (ngày 10-10-1917), Dinôviép và
Kamênép đã bỏ phiếu chống lại cuộc
khởi nghĩa tháng Mười.
(2) Tờ báo của Mắcxim
Gorky.
(3) Mikhain Rốtdiankô : chủ
tịch Viện Ðuma trong cách mạng tháng Hai.
Alếchsanđrơ Kêrensky (1881-1970) : lãnh tụ
đảng Lao động (gần khuynh hướng
với đảng Xã hội Cách mạng), nghị sĩ
Viện Ðuma, bộ trưởng Tư pháp và Quốc phòng,
chủ tịch Chính phủ Lâm thời tháng 7 đến tháng
10-1917. Bị lật đổ và chạy trốn trong cách
mạng tháng Mười.
(4) Cuối cùng, hai người này
chỉ bị khai trừ khỏi Ban chấp hành Trung
ương.
(5) Trái với Stalin và những
sự vu khống của các đảng cộng sản trên
thế giới, Khrushốp công nhận Trốtsky và
những người trốt-kít "không thể liệt
vào thành phần tư sản". Nói cách khác, trốt-kít là
những người trong giai cấp công nhân. Nhưng
cũng như Stalin, Khrushốp không công nhận việc
Trốtsky có quyền có khuynh hướng chính trị khác
với ban lãnh đạo đảng. Những tấn thảm
kịch - trong đó hàng triệu đảng viên cộng
sản Liên Xô bị sát hại - là do quan niệm ngăn
cấm sự tự do dân chủ vô sản. Ðó là quan
niệm "độc đảng" và "đảng
một khối" thịnh hành ở Liên Xô và các
nước xã hội chủ nghĩa cũ thời xưa.
(6) Ðảng Xã hội Cách mạng
thành lập năm 1901 từ những nhóm dân túy, gồm
tiểu tư sản, nông dân, giáo học, bác sĩ v.v..., có
nhiều ảnh hưởng trong nông dân. Không công nhận
cách mạng tháng Mười, các thành viên đảng này
đã tổ chức những cuộc đề kháng quân
sự và khủng bố vũ trang, nhất là trong thời
kỳ nội chiến 1918-1920.
(7) Trước khi Bêrya bị
bắt, đảng đã mở cuộc điều tra
về các vụ khủng bố dưới thời Stalin.
Ngày 4-4-1953, "bọn áo choàng trắng" - do Stalin hạ
lệnh bắt - đã được trả tự do.
Ðoạn
5 : Lãnh đạo tập thể
(LÊN MẠNG THỨ BẢY 16 THÁNG SÁU 2001) |
Sự lãnh đạo tập
thể tất yếu xuất phát từ bản chất
của đảng ta, xây dựng trên nguyên tắc tập
trung dân chủ. Lênin viết :
Ðiều này có nghĩa tất
cả mọi vấn đề của đảng -
trực tiếp hoặc thông qua những người
đại diện - phải do mọi đảng viên
thực hiện, không trừ một ai, trên cơ sở bình
đẳng về các quyền lợi ; lại nữa,
tất cả những nhân viên hành chính, tất cả các
cơ quan lãnh đạo, tất cả những cơ
sở đảng đều được bầu
cử, họ có trách nhiệm phúc trình những sinh hoạt
của họ và có thể bị bãi bỏ bất kể lúc
nào.
Chúng ta biết rõ bản thân
Lênin luôn nêu tấm gương tôn trọng triệt
để những nguyên tắc nói trên. Lênin không tự mình
quyết định trong bất kỳ một vấn
đề quan trọng nào, đồng chí luôn hỏi ý
kiến đa số các ủy viên Ban chấp hành trung
ương hay Bộ Chính trị và nhận được
sự chấp thuận của họ.
Trong thời kỳ khó khăn
nhất của đảng và của đất
nước ta, Lênin không bao giờ quên triệu tập
đều đặn những cuộc hội nghị, hội
đàm của đảng và những hội nghị toàn
thể của Ban chấp hành trung ương, nơi
những vấn đề hệ trọng được
đem ra thảo luận và những nghị quyết
của toàn bộ Ban chấp hành trung ương được
thông qua.
Chẳng hạn, chúng ta hãy
nhớ lại năm 1918, khi đất nước ta
bị hiểm họa tư bản nước ngoài can
thiệp. Trong tình hình ấy, Ðại hội lần thứ
VII được triệu tập để thảo
luận một vấn đề sống còn, không thể
trì hoãn : vấn đề hòa bình. Năm 1919, khi nội
chiến đang ở độ ác liệt, Ðại hội
lần thứ VIII thông qua cương lĩnh mới
của đảng, trong đó đề cập đến
nhiều vấn đề quan trọng như mối quan
hệ giữa đảng và quần chúng nông dân, tổ
chức Hồng quân, sự lãnh đạo của
đảng trong các xô-viết, việc cải tổ thành
phần xã hội của đảng v.v...
Năm 1920, đảng
họp Ðại hội lần thứ IX để thiết
lập nền tảng vai trò lãnh đạo của
đảng trong lĩnh vực phát triển kinh tế.
Năm 1921, Ðại hội lần thứ X đã đưa
ra quyết định về chính sách Tân kinh tế
(N.E.P.)(1) và thông qua quyết nghị có tầm quan
trọng lịch sử mang tựa đề Về
sự thống nhất của đảng do Lênin
khởi thảo.
Hồi sinh thời Lênin, các
đại hội của đảng đã được
triệu tập thường xuyên, mỗi lần lại
đưa ra một thay đổi cấp tiến trong quá
trình phát triển của đảng và đất
nước. Lênin nhận thấy sự cần thiết
tuyệt đối của việc đảng phải
thảo luận tỉ mỉ về tất cả mọi
vấn đề quan trọng dính líu đến
đường lối đối nội và chính sách
ngoại giao cùng những vấn đề liên quan
đến cơ cấu của đảng và chính phủ.
Một điều rất
đặc trưng là trong những bài nói chuyện,
những thư từ và chỉ dẫn cuối cùng, Lênin
hướng về đại hội đảng như
cơ quan tối cao của đảng. Trong thời gian
giữa hai đại hội, Ban chấp hành trung
ương là cơ quan lãnh đạo có uy tín nhất, theo
sát những nguyên tắc và thực hiện đường
lối chính trị của đảng.
Ðảng đã hoạt
động như thế trong thời kỳ Lênin còn
sống.
Nhưng phải chăng sau
khi Lênin mất, những nguyên tắc thiêng liêng của
đảng vẫn được duy trì ?
Trong những năm
đầu sau khi Lênin mất, các cuộc đại hội
và các khóa họp Ban chấp hành trung ương còn
được triệu tập tương đối
đều đặn, nhưng sau này, khi Stalin bắt
đầu và ngày càng lạm dụng quyền hành, những
nguyên tắc đó bị vi phạm trắng trợn.
Ðiều này đặc
biệt rõ rệt trong 15 năm cuối đời của
Stalin. Có thể coi là một sự bình thường
được không khi giữa Ðại hội XVIII và XIX là
13 năm, trong 13 năm ấy đảng và dân tộc ta
đã trải qua biết bao biến cố quan
trọng ? Những sự kiện đó đòi hỏi
đảng phải thông qua những quyết định
về phòng thủ trong chiến tranh vệ quốc và xây
dựng đất nước sau khi hòa bình lập lại.
Vậy mà, ngay cả khi
chiến tranh đã kết thúc rồi, cũng phải
chờ đến hơn bảy năm nữa mới có
một đại hội đảng được
triệu tập.
Hầu như không có những
khóa họp Ban chấp hành trung ương. Chỉ cần
nhắc lại : trong những năm của cuộc
chiến tranh vệ quốc, Ban chấp hành trung ương
không họp một lần nào.
Ðúng hơn, vào tháng 10-1941,
người ta định triệu tập một hội
nghị Ban chấp hành trung ương. Các ủy viên
của Ban đã về Moskva từ mọi miền của
đất nước. Trong hai ngày, họ chờ
đợi hội nghị khai mạc, nhưng vô ích. Stalin
không muốn gặp và cũng không muốn trao đổi ý
kiến với họ. Thực tế này chứng tỏ
trong những tháng đầu của chiến tranh, Stalin
đã có tâm trạng nao núng. Nó cũng chứng tỏ Stalin
coi thường và khinh miệt các thành viên Ban chấp hành
trung ương đến mức nào.
Trong thực tiễn, Stalin
không đếm xỉa đến quy luật sinh hoạt
của đảng và chà đạp những nguyên tắc
lê-nin-nít trong sự lãnh đạo tập thể của
đảng.
Thái độ bất
thường của Stalin đối với đảng và
Ban chấp hành trung ương đã biểu lộ hoàn toàn
rõ rệt sau Ðại hội lần thứ XVII của
đảng vào năm 1934.
(1) Chính sách do Lênin đề xướng cho
phép kinh tế cá thể và đầu tư nước ngoài
được hoạt động, xóa bỏ hệ
thống phiếu và chế độ cưỡng bức
giao nộp sản phẩm, nhờ đó mà nền kinh
tế Liên Xô được chấn hưng.
Ðoạn
6 : Những vụ việc ngụy tạo
(LÊN MẠNG THỨ BẢY 16 THÁNG SÁU 2001) |
Thu thập được
nhiều số liệu chứng tỏ sự độc
đoán trắng trợn đối với các cán bộ
đảng, Ban chấp hành trung ương đã lập ra
một ủy ban - hoạt động dưới sự
kiểm soát của Ðoàn Chủ tịch Ban chấp hành trung
ương đảng - nhằm nghiên cứu những nguyên
nhân đã gây nên các vụ đàn áp hàng loạt đối
với đa số thành viên chính thức và dự khuyết
của Ban chấp hành trung ương do Ðại hội
nghị lần thứ XVII bầu ra.
Ủy ban này, trong quá trình tìm
hiểu một số lớn tài liệu lưu trữ
của Bộ Dân ủy Nội vụ (N.K.V.D.)(1) và các tư
liệu khác, đã đi đến nhận định
sau : trong nhiều trường hợp, các vụ án
ngụy tạo được bày đặt để
đàn áp các đảng viên cộng sản, những
lời buộc tội giả trá được
đặt ra, luật pháp xã hội chủ nghĩa bị
xâm phạm trắng trợn, dẫn đến việc nhiều
người vô tội bị sát hại. Rõ ràng là nhiều
chiến sĩ của đảng, của xô-viết,
của các ngành kinh tế - bị lên án là "kẻ thù"
trong những năm 1937- 38(2) - thực ra họ chưa bao giờ
là kẻ thù, là gián điệp, là kẻ phá hoại v.v... mà
luôn luôn là những người cộng sản chân chính.
Nhưng họ đã bị vu khống và thường
thường, vì không chịu nổi những đòn tra
tấn dã man, họ đã tự gán cho mình (theo lệnh
của lũ nhân viên điều tra man trá) những tội
tày đình và vô lý nhất.
Ủy ban đã đệ
trình lên chủ tịch đoàn Ban chấp hành trung
ương một tư liệu đồ sộ và có
cơ sở về các vụ đàn áp đại quy mô
đối với các đại biểu Ðại hội
lần thứ XVII và các thành viên Ban chấp hành trung
ương do đại hội đó bầu ra. Ðoàn chủ
tịch Ban chấp hành trung ương đã nghiên cứu
cặn kẽ tư liệu trên.
Cuộc điều tra đã
cho thấy 98 người trong số 139 ủy viên chính
thức và dự khuyết của Ban chấp hành trung
ương do Ðại hội thứ XVII bầu ra, nghĩa
là 70 %, đã bị bắt bớ và bị xử bắn
(phần đông vào những năm 1937-38). (Cả phòng
họp xôn xao công phẫn)
Thử xem thành phần các
đại biểu ở Ðại hội lần thứ XVII
ra sao ? Ta được biết 80% đại biểu
có quyền biểu quyết ở Ðại hội thứ
XVII đã gia nhập đảng trong những năm đảng
còn ở trong vòng bí mật, trước cuộc cách
mạng hoặc trong cuộc nội chiến, nghĩa là
trước năm 1921. Về thành phần xã hội, đa
số các đại biểu ở Ðại hội (60%
số đại biểu có quyền bỏ phiếu) là công
nhân.
Chúng ta không thể
tưởng tượng được một đại
hội với thành phần như trên đã bầu ra
một Ban chấp hành trung ương mà đa số thành viên
là kẻ thù của đảng. Lý do độc nhất làm
70% ủy viên chính thức và dự khuyết của Ban
chấp hành trung ương bị tố cáo là kẻ thù
của đảng và nhân dân là ở chỗ các chiến
sĩ cộng sản trung thực đã bị vu khống
dựa trên những lời buộc tội bịa
đặt, khiến pháp lý cách mạng bị vi phạm
trầm trọng.
Bên cạnh những ủy
viên Ban chấp hành trung ương, đa số đại
biểu Ðại hội lần thứ XVII của
đảng cũng chịu số phận ấy. Trong
số 1956 đại biểu đại biểu chính
thức và dự thính, 1108 người (nghĩa là
đại đa số đại biểu Ðại hội)
bị bắt và bị kết án phản cách mạng. Ngay
bản thân sự kiện này chứng tỏ tính phi lý,
ngược đời, trái với lương tri của
những lời buộc tội "phản cách
mạng" gán cho đa số đại biểu Ðại
hội lần thứ XVII. (Cả phòng nhôn nhao phẫn
nộ)
Chớ quên rằng Ðại
hội lần thứ XVII được biết
đến trong lịch sử như "đại
hội của những người chiến thắng".
Các đại biểu trong Ðại hội này đã từng
tham gia tích cực vào công cuộc xây dựng nhà nước
xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Số đông
đã chịu đựng gian khổ và đã đấu
tranh cho lợi ích của đảng trong những năm
tiền cách mạng, trong vòng bí mật và trên các mặt
trận thời cuộc nội chiến. Họ đã anh
dũng chống lại kẻ thù và thường xuyên
trực diện với cái chết. Làm sao chúng ta có thể
tin được những người như thế
lại là những kẻ giả dối và gia nhập phe thù
địch của chủ nghĩa xã hội, ở thời
kỳ mà bè phái Dinôviép, Trốtsky và bọn hữu khuynh
đã bị thủ tiêu về mặt chính trị và ở
thời kỳ mà nhiều công trình xây dựng xã hội
chủ nghĩa đã được thực hiện.
Ðó là hậu quả của
việc Stalin lạm dụng quyền hành, dùng khủng
bố hàng loạt đối với các cán bộ
đảng.
Thử hỏi vì sao những
cuộc đàn áp đại quy mô đối với cán
bộ đảng tích cực lại càng ngày càng trở nên
trầm trọng hơn sau Ðại hội đảng lần
thứ XVII ?
Bởi vì vào thời kỳ
đó, Stalin đã tự đặt mình lên địa
vị tối cao, trên đảng và nhà nước, và không
đếm xỉa gì đến Ban chấp hành trung
ương hay đảng nữa. Vào thời kỳ
trước Ðại hội thứ XVII, Stalin phần nào còn
tôn trọng dư luận của tập thể. Nhưng khi
các bè phái Dinôviép, Trốtsky và Bukharin đã bị thủ tiêu
hoàn toàn về mặt chính trị, khi cuộc đấu
tranh đã mang lại những thắng lợi xã hội
chủ nghĩa, đảng đã xây dựng
được sự thống nhất, thì Stalin lại càng
không đếm xỉa gì đến các thành viên Ban chấp
hành trung ương đảng và ngay cả các ủy viên
Bộ Chính trị. Khi đó, Stalin cho rằng từ nay
tự mình có thể định đoạt được
tất cả mọi việc và chỉ cần đến
một số bù nhìn mà thôi. Trong sự đối xử
với mọi người, Stalin chỉ coi họ có vai trò
vâng lệnh và tán dương mình.
Sau vụ ám sát Kirốp(3),
những cuộc đàn áp hàng loạt và những hành
động vi phạm một cách thô bạo luật pháp xã
hội chủ nghĩa bắt đầu diễn ra.
Tối mùng 1-12-1934, theo đề xuất của Stalin (không
có sự đồng ý của Bộ Chính trị - Bộ
Chính trị chỉ thông qua sau đó hai ngày), bí thư Ban
Chấp hành Trung ương Ênukítdê đã ký một chỉ
thị như sau :
1. Các cơ quan điều tra
phải xúc tiến việc thực hiện thủ tục
hình sự đối với những kẻ bị kết
tội chuẩn bị hoặc tiến hành các hành
động khủng bố.
2. Các cơ quan tư pháp không
được làm chậm trễ việc thi hành các án
tử hình vì cớ muốn xét lại để ân xá
đối với những bị can thuộc loại này.
Ðoàn Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Liên Xô
không chấp nhận việc xét lại để ân xá
như thế.
3. Các cơ quan của Bộ
Dân ủy Nội vụ phải thi hành tức khắc các
bản án tử hình đối với lũ can phạm
thuộc loại đã nói trên.
Chỉ thị này, trong vô
số trường hợp, là cơ sở của những
hành động vi phạm pháp chế xã hội chủ
nghĩa.
Trong nhiều vụ án
ngụy tạo, các bị cáo bị buộc tội
"chuẩn bị" những cuộc bạo
động. Bản thân chỉ thị nói trên đã
khiến trường hợp của họ không thể
được thẩm tra lại, cho dù họ đã tuyên
bố trước tòa án rằng những lời "thú
tội" của họ là do họ bị tra tấn, và
mặc dầu họ đã chứng tỏ một cách xác
đáng rằng những lời buộc tội họ là
bịa đặt.
Phải nhấn mạnh
rằng tới nay, nhiều điều khó hiểu và bí
ẩn trong hoàn cảnh xảy ra vụ ám sát Kirốp và
cần phải được điều tra thật
kỹ càng. Có nhiều lý do để nói Nikôlaiép(4) - kẻ
đã hạ sát Kirốp - đã được một
kẻ trong số những người có nhiệm vụ
bảo vệ cho Kirốp tiếp tay. Một tháng
rưỡi trước ngày xảy ra vụ ám sát, Nikôlaiép
bị bắt vì bị "tình nghi", nhưng rồi
được thả ra, thậm chí cũng không bị
thẩm tra gì cả. Ðáng nghi ngờ hơn nữa là
chuyện một trinh sát viên Chêka(5) - thuộc đội
bảo vệ Kirốp - "bị tai nạn" xe hơi
chết giữa đường đi lấy khẩu cung
ngày 1-12-1934, trong lúc những người cùng ngồi xe
hơi với hắn không hề bị thương tổn
gì(6). Sau vụ án Kirốp, những người
đứng đầu N.K.V.D. vùng Lêningrát bị kết án
rất nhẹ, nhưng đến năm 1937, họ
đều bị tử hình. Có thể giả thiết
bằng việc bị xử bắn họ, người ta
muốn xóa hết các dấu vết của những kẻ
thực thụ đã tổ chức vụ ám sát
Kirốp.(7) (Phòng họp xôn xao)
Từ cuối năm 1936,
những cuộc đàn áp hàng loạt ngày càng gia tăng(8)
ở quy mô khủng khiếp. Ngày 25-9-1936, Stalin và
Giơđanốp gửi điện tín từ Sôchi cho Kaganôvích(9),
Môlôtốp(10) và những ủy viên khác của Bộ Chính
trị. Nội dung bức điện ấy như
sau :
Chúng tôi nhận thấy
việc cất nhắc đồng chí Êgiốp vào
cương vị Dân ủy Nội vụ là cần
thiết và cấp bách. Yagôđa(11) đã tỏ ra hoàn toàn bất
lực trong việc vạch mặt khối Trốtsky -
Dinôviép. Cục Chính trị Thống nhất Quốc gia
(O.G.P.U.)(12) đã để vấn đề này trậm
trễ bốn năm. Tất cả mọi đảng viên
và số đông các đại diện Bộ Nội vụ
(N.K.V.D.) đều nhận thấy điều này.
Phải nhấn mạnh
rằng sự thật là Stalin chẳng bao giờ tiếp
xúc với các đảng viên, như thế làm sao
đồng chí ấy biết được ý kiến của
họ.
Nhận xét của Stalin -
"O.G.P.U. đã trậm trễ bốn năm" trong
việc thi hành đàn áp trên quy mô lớn, và "phải bù
đắp" những thiếu sót - đã đẩy
N.K.V.D. vào con đường bắt bớ và giết
hại hàng loạt.
Ðáng lưu ý là cách diễn
đạt nói trên cũng đã được áp đặt
trong hội nghị Ban chấp hành trung ương
đảng vào tháng Hai, tháng Ba năm 1937. Dựa trên căn
bản báo cáo tổng kết "những bài học rút ra
từ các hoạt động phá hoại, xuyên tạc và do
thám của bọn gián điệp Nhật - Ðức -
trốt-kít" của Êgiốp, Ban chấp hành trung
ương đã thông qua quyết định sau :
Hội nghị Ban chấp
hành trung ương đảng cộng sản (bônsêvích) Liên
Xô nhận thấy cuộc điều tra về trung tâm
trốt-kít chống lại nhà nước xô-viết và
những hoạt động của bè lũ tay chân ở
các tỉnh chứng tỏ N.K.V.D. đã có sự trậm
trễ, ít nhất là bốn năm, trong việc lột
mặt nạ những kẻ thù nguy hiểm nhất
của nhân dân(13).
Từ thời kỳ này,
những cuộc đàn áp hàng loạt đã diễn ra
dưới khẩu hiệu chống những người
trốt-kít. Nhưng thử hỏi hồi đó phái
trốt-kít có thực sự nguy hiểm đến thế
đối với đảng và nhà nước xô-viết
không ? Chúng ta cần nhớ rằng vào năm 1927,
trước Ðại hội lần thứ XV của
đảng, phe đối lập Trốtsky - Dinôviép
chỉ có 4.000 phiếu trong khi 724.000 phiếu thông qua
cương lĩnh của đảng.
Trong khoảng thời gian
mười năm giữa Ðại hội lần thứ XV
và khóa họp tháng Hai, tháng Ba của Ban chấp hành trung
ương, chủ nghĩa trốt-kít đã hoàn toàn bó giáo
quy hàng, nhiều người trốt-kít đã đoạn
tuyệt những quan niệm trước kia của họ
và đã lao động trong mọi lãnh vực xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Rõ ràng, trong khung cảnh chủ
nghĩa xã hội thắng lợi, không có lý do gì buộc ta
phải dùng đến khủng bố đại quy mô trong
cả nước.
Báo cáo của Stalin trong khóa
họp của Ban chấp hành trung ương tháng Hai, tháng
Ba năm 1937 về Những thiếu sót trong công tác
đảng và những phương pháp thủ tiêu bọn
trốt-kít và những bọn giả dối khác là một
thử nghiệm đặt nền móng lý thuyết cho chính
sách khủng bố hàng loạt. Viện cớ càng tiến
lên chủ nghĩa xã hội, cuộc đấu tranh giai
cấp nhất thiết càng gia tăng, Stalin cố
chứng tỏ đó là điều lịch sử và Lênin
đã dạy.
Thật ra, Lênin chỉ
rằng việc sử dụng bạo lực cách mạng
là do nhu cầu quyết định, khi các giai cấp bóc
lột ra mặt chống đối ; hơn nữa,
điều này liên quan đến thời kỳ mà các giai
cấp bóc lột còn tồn tại và còn mạnh. Nhưng
một khi tình hình chính trị của đất
nước đã tiến triển tốt, khi mà tháng Giêng
năm 1920 Hồng quân đã chiếm được
Rôstốp và đạt được thắng lợi quan
trọng nhất - chiến thắng Ðênikin(14) -, Lênin ra
lệnh cho Giécginsky(15) đình chỉ khủng bố hàng
loạt và hủy bỏ án tử hình. Trong bản báo cáo
tại hội nghị Ban Chấp hành Trung ương ngày
2-2-1920, Lênin đã giải thích biện pháp chính trị quan
trọng ấy của nhà nước xô-viết như
sau :
Chúng ta đã buộc phải
dùng tới biện pháp khủng bố để chống
lại chủ nghĩa khủng bố của bọn
đế quốc liên minh, khi các cường quốc - không
ngần ngại bất kỳ một phương tiện
gì - tấn công chúng ta. Chúng ta không thể cầm cự
nổi trong hai ngày nếu chúng ta không đáp trả một
cách quyết liệt những mưu đồ của
bọn sĩ quan và lũ Bạch vệ, và đây là
khủng bố, nhưng sự khủng bố ấy do
những phương pháp khủng bố của bọn
đế quốc liên minh bắt buộc chúng ta.
Nhưng một khi chúng ta
đạt được những chiến thắng
quyết định, ngay trước khi kết thúc nội
chiến, sau khi chúng ta vừa chiếm được thành
phố Rôstốp, chúng ta đã hủy bỏ án tử hình và
bằng hành động này, chúng ta chứng tỏ chúng ta thực
hiện chương trình như lời đã hứa. Chúng
ta nói việc áp dụng bạo lực là để dẹp
tan các giai cấp bóc lột, dẹp tan bọn đại
điền chủ và bọn tư bản. Khi công việc
này xong xuôi, chúng ta dẹp bỏ hết thảy mọi
biện pháp có tính chất đặc biệt. Chúng ta đã
chứng tỏ điều này bằng hành động
cụ thể.
Stalin đã bỏ qua những
lời chỉ giáo sáng suốt và rõ ràng ấy của Lênin.
Stalin buộc đảng và Bộ Nội vụ (N.K.V.D.)
dùng những biện pháp khủng bố hàng loạt, khi
ở trong nước, giai cấp bóc lột không còn chút
dấu vết gì và không có bất cứ một lý do chính
đáng nào để áp dụng tràn lan những biện pháp
bất thường.
Sự thật, khủng
bố không nhắm mục đích loại trừ những
tàn tích của giai cấp bóc lột đã thất bại,
nó chỉ chống lại những viên chức trung thực
của đảng và nhà nước xô-viết. Ðối
với họ, người ta đã ngụy tạo ra
những lời buộc tội vu khống và phi lý như
bảo họ là "giả dối", "gián
điệp","phá hoại","chuẩn bị
những cuộc mưu sát" giả định với
những phương tiện bất hợp pháp v.v...
Trong khóa họp Ban chấp
hành trung ương tháng Hai, tháng Ba năm 1937, nhiều
ủy viên Ban chấp hành trung ương đã thực
sự tỏ ý ngờ vực tính chất đúng đắn
của đường lối khủng bố, dưới
cái chiêu bài "chống bọn giả dối". Ðồng
chí Pôstưshép(16) đã phát biểu sự ngờ vực này
một cách chí lý như sau :
Tôi nghĩ rằng những
năm đấu tranh khó khăn đã đi qua, những
đảng viên xa rời đường lối của
đảng và chạy theo kẻ thù đã bị chúng ta
đánh gục ; những phần tử lành mạnh
đang tranh đấu cho đảng. Ðó là những năm
xây dựng công nghiệp hóa và công cộng hóa. Tôi không bao
giờ nghĩ rằng sau thời kỳ khó khăn đó,
Kácpốp và những người như anh lại ngả
theo kẻ thù (Kácpốp là thành viên Ban chấp hành trung
ương đảng cộng sản (bônsêvích) Ukraina,
bạn của Pôstưshép). Và vừa đây, theo những
bằng chứng, Kácpốp đã gia nhập bọn
trốt-kít từ năm 1934.
Về phần mình, tôi không tin
một đảng viên trung thực như Kácpốp, đã
từng đi trọn con đường dài của cuộc
tranh đấu liên tục chống kẻ thù, phụng
sự đảng và chủ nghĩa xã hội, năm 1934
lại có thể đứng về phía kẻ thù. Tôi không
tin như thế... Tôi không tưởng tượng
nổi, làm sao một người có thể theo đảng
trong những năm khó khăn để rồi đến
1934 lại gia nhập bọn trốt-kít. Ðó là một
điều kỳ lạ. (Cả phòng họp xôn xao)
Áp dụng định
đề của Stalin - cho rằng càng tiến gần
đến chủ nghĩa xã hội, chúng ta càng có nhiều
kẻ thù - và lợi dụng nghị quyết của khóa
họp Ban chấp hành trung ương tháng Hai, tháng Ba,
về cơ bản được thông qua dựa trên
bản báo cáo của Êgiốp, những tên khiêu khích cùng
với những tên háo danh bất lương trà trộn vào
các cơ quan an ninh quốc gia, nhân danh đảng, chúng
khủng bố các cán bộ đảng, cán bộ nhà
nước xô-viết và thường dân trong nước.
Chỉ cần biết số những người bị
bắt bớ vì tội "phản cách mạng" đã
tăng lên gấp mười từ năm 1936 tới
năm 1937.
Chúng ta được
biết những cán bộ lãnh đạo đảng đã
bị đối xử oan uổng và tàn nhẫn như
thế nào. Ðiều lệ đảng - được
Ðại hội đảng lần thứ XVII thông qua,
dựa trên những nguyên tắc lê-nin-nít của Ðại
hội lần thứ X - khẳng định : muốn
áp dụng biện pháp kỷ luật tối đa
đối với một ủy viên chính thức hoặc
dự khuyết, hay một thành viên Ủy ban Kiểm tra của
đảng - như khai trừ họ khỏi
đảng -, phải triệu tập hội nghị
toàn thể của Ban chấp hành trung ương, phải
mời mọi ủy viên dự khuyết của Ban
chấp hành trung ương và mọi thành viên của Ủy
ban Kiểm tra đến họp ; chỉ có diễn
đàn tối cao này của các cán bộ đảng có
trọng trách - trong trường hợp hai phần ba đa
số phiếu - mới có quyền quyết định
việc khai trừ một ủy viên Trung ương ra
khỏi đảng. Ða số ủy viên chính thức và
dự khuyết Ban chấp hành trung ương
được bầu trong Ðại hội lần thứ
XVII và bị bắt năm 1937-1938, đã bị khai trừ
khỏi đảng một cách bất hợp pháp do sự
vi phạm thô bạo Ðiều lệ đảng, bởi
vấn đề trục xuất họ chưa bao giờ
được đưa ra xem xét ở một khóa họp
nào của Ban chấp hành trung ương.
Giờ đây, sau khi khảo
sát vài trường hợp của những người
bị dán nhãn "gián điệp" và "phá
hoại", ta có thể thấy rõ những trường
hợp nọ đều là những vụ ngụy tạo.
Trong số những người bị bắt giữ vì
tội "hoạt động phản cách mạng",
nhiều người phải "thú nhận" vì bị
hành hạ tàn nhẫn và vô nhân đạo.
Ngoài ra, như các thành viên
Bộ Chính trị hồi đó cho biết, Stalin không cho
họ xem đơn từ của nhiều đảng viên
cốt cán, cụ thể là những đơn trong đó
các bị cáo rút lại những "lời thú tội"
của họ trước Tòa án Quân sự và đòi hỏi
thẩm xét khách quan trường hợp của họ. Có
nhiều đơn đề nghị như thế và và
chắc chắn là Stalin đã biết đến chúng.
Ban chấp hành trung
ương nhận thấy cần thiết phải thông báo
cho Ðại hội về nhiều vụ án ngụy tạo
chống lại những ủy viên Ban chấp hành trung
ương do Ðại hội lần thứ XVII bầu ra.
Một thí dụ của sự
khiêu khích đê hèn, sự man trá bỉ ổi và sự vi
phạm tội lỗi luật pháp cách mạng là
trường hợp của đồng chí Âykhê(17),
chiến sĩ của đảng từ năm 1905, cựu
ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, một cán
bộ xuất sắc của đảng và chính phủ Liên
Xô. (Trong phòng, mọi người ngạc nhiên)
Ðồng chí Âykhê bị bắt
ngày 29-4-1938 trên cơ sở những tài liệu vu khống,
không có lệnh bắt của công tố viên Liên Xô (lệnh
bắt này chỉ có 15 tháng sau khi Âykhê bị bắt).
Phiên tòa xét xử đồng
chí Âykhê đã diễn ra với sự vi phạm trắng
trợn nhất pháp chế xô-viết, kèm theo những
bịa đặt có chủ mưu.
Bị tra tấn, Âykhê bắt
buộc phải ký nhận một biên bản điều
tra "thú tội" được chuẩn bị
từ trước, trong đó Âykhê và vài cán bộ
đảng có uy tín khác bị buộc tội "hoạt
động chống lại chính thể xô-viết".
Ngày 1-10-1939, Âykhê gửi cho
Stalin lá đơn trong đó đồng chí ấy kiên
quyết phủ nhận lời buộc tội và yêu
cầu thẩm xét lại trường hợp của mình.
Trong lá đơn, đồng chí Âykhê viết :
Ðối với tôi, không gì
đau đớn hơn là bị giam cầm trong ngục tù
của nhà nước mà tôi đã luôn luôn đấu tranh
để xây dựng nó.
Lá đơn thứ hai
của Âykhê gửi cho Stalin ngày 27-10-1939 cũng
được lưu trữ, trong đó Âykhê đưa ra
những bằng chứng và phủ nhận một cách
rất xác đáng những lời buộc tội vu
khống đồng chí. Âykhê chứng tỏ lời buộc
tội mang tính khiêu khích này một phần là sản
phẩm của bọn trốt-kít thực thụ vì bọn
ấy đã bị đồng chí bắt giam trên
cương vị Bí thư thứ nhất thành ủy vùng
Tây Sibia và do đó, chúng âm mưu báo thù đồng chí ;
phần kia do kết quả việc man trá tài liệu điều
tra.
Âykhê viết như sau trong lá
đơn này :
Ngày 25-10 năm nay, vụ
điều tra về trường hợp của tôi đã
kết thúc. Tôi được biết nội dung những
tài liệu điều tra. Nếu tôi chỉ làm một
phần trăm những hành vi phạm pháp mà người ta
buộc cho tôi, không bao giờ tôi dám gửi đến
đồng chí lá đơn trước khi tôi chết.
Nhưng tôi không hề phạm một tội gì trong tất
cả những tội mà người ta gán cho tôi.
Lương tâm tôi trong sạch, không hề gợn một
vết nhơ. Trong đời tôi, chưa bao giờ tôi nói
dối đồng chí, và ngay cả bây giờ, khi tôi
sắp sửa bước xuống mồ, tôi cũng không
giấu giếm đồng chí một điều gì.
Trường hợp của tôi là thí dụ điển hình
của một cuộc khiêu khích, vu khống và vi phạm
những điều căn bản nhất của pháp
chế cách mạng.
Những lời thú tội
đã được ghi lại và làm nên "vụ"
của tôi chẳng những phi lý mà nó chứa đựng
những điều vu khống đối với Ban
chấp hành trung ương đảng cộng sản
(bônsêvích) Liên Xô, với Hội đồng Dân ủy,
bởi những nghị quyết thực thụ của Ban
chấp hành trung ương và của Hội đồng Dân
ủy - vốn không phải do tôi đề xướng,
tôi không tham dự gì vào quá trình thảo luận - đã
được trình bày như hành động thù
địch của các tổ chức phản cách mạng mà
tôi là kẻ khởi xướng.
Bây giờ tôi xin đề
cập đến giai đoạn nhục nhã nhất
của đời tôi : một tội lỗi nặng
nề đối với đảng và đối với
đồng chí mà quả thực tôi đã thực hiện.
Ấy là lời thú tội của tôi về hoạt
động phản cách mạng... Nhưng sự thật là
như thế này : vì không chịu đựng nổi
những sự hành hạ của Ushakốp và Nikôlaiép,
nhất là Ushakốp biết tôi gãy xương sườn
và chưa lành hẳn, hắn lợi dụng điều này
trong quá trình thẩm cung, gây cho tôi những đau
đớn khủng khiếp và cưỡng bức tôi
phải tự lừa dối mình và tố cáo những
kẻ khác (bằng lời thú tội của tôi).
Phần lớn những
lời thú tội của tôi là do Ushakốp "đề
nghị" hoặc trắng trợn đọc cho tôi
viết, phần kia là do tôi nhớ lại tập hồ
sơ do Bộ Nội vụ (N.K.V.D.) vùng Tây Sibia thu thập
và tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về chúng. Mỗi
lần trong truyền thuyết do Ushakốp bịa
đặt và buộc tôi phải ký nhận, có những
điều gì không khớp với nhau, thì người ta
lại bắt tôi ký nhận một dị bản hoang
đường khác và cứ thế tiếp diễn.
Người ta cũng làm như thế đối với
Rukhimôvích : thoạt tiên đồng chí ấy bị coi
là thành viên của một mạng lưới trù bị, sau
đó người ta gạch tên đồng chí ấy đi
nhưng lại không hề nói cho tôi biết. Củng như
trường hợp một người bị coi là
người lãnh đạo mạng lưới trù bị,
tuồng như do Bukharin thành lập năm 1935. Buổi
đầu tôi phải ký nhận, tự xưng là
người lãnh đạo nọ ; sau đó
người ta ra lệnh thay tên tôi bằng Mêgiơlaúc. Còn
nhiều những thí dụ tương tự như
vậy.
Tôi yêu cầu đồng chí,
tôi van xin đồng chí hãy xét lại trường hợp
của tôi, không phải tôi mong muốn được tha
thứ, mà để vạch mặt âm mưu khiêu khích hèn
hạ này, nó như con rắn cuốn lấy nhiều
người do sự yếu hèn của tôi và sự vu
khống đầy tội lỗi của tôi. Tôi thề
không bao giờ phản bội đồng chí. Tôi không bao
giờ phản bội đảng. Tôi biết tôi sắp ra
đi vì những vu cáo xảo quyệt, đê tiện
chống tôi, do kẻ thù của đảng và nhân dân bày
đặt ra.
Một lá đơn quan
trọng như thế thiết tưởng phải
được Ban chấp hành trung ương biết
đến và thế nào cũng phải được bàn
bạc. Nhưng điều đó đã không xảy ra. Lá
đơn được chuyển đến tay Bêrya và
đồng chí Âykhê - ủy viên dự khuyết Bộ Chính
trị - vẫn bị tiếp tục tra tấn tàn nhẫn.
Phiên tòa xử đồng chí
Âykhê diễn ra ngày 2-2-1940. Trước tòa, Âykhê không nhận
một tội lỗi nào. Ðồng chí tuyên bố như
sau :
Trong tất cả cái gọi
là "lời thú tội" của tôi, không một từ
nào là sự thật, không một chữ nào tự tay tôi
viết ra, ngoại trừ chữ ký của tôi ở
dưới tờ biên bản mà người ta đã dùng
nhục hình để cưỡng bức tôi. Tên công an
điều tra, là tên đã hành hạ tôi từ ngày tôi
bị bắt, đã buộc tôi phải "thú
nhận". Sau những lần bị tra tấn, tôi đã
ký nhận tất cả những điều thô thiển
này... Ðiều quan trọng là tôi phải tuyên bố
trước tòa án, trước đảng và trước
Stalin : tôi vô tội. Tôi không bao giờ chủ
trương một âm mưu nào cả. Tôi sẽ chết với
lòng tin tưởng ở chính sách đúng đắn của
đảng, cũng như tôi đã tin tưởng trong
suốt cuộc đời tôi.
Âykhê bị hành quyết ngày
4-2. (Phẫn nộ trong phòng)
Hiện nay, chúng ta biết
chính xác : vụ án Âykhê hoàn toàn bịa đặt,
ngụy tạo. Ðồng chí đã được phục
hồi sau khi mất.
Ðồng chí Rútdutác, ủy viên
dự khuyết Bộ Chính trị, đảng viên từ
năm 1905 và là người đã từng bị
mười năm tù khổ sai dưới chế
độ Nga hoàng, đứng trước toà án cũng
cương quyết rút lại những lời thú tội
bị ép buộc của mình. Biên bản khóa họp Tòa án
Quân sự Tối cao đã ghi chép lời tuyên bố sau
đây của Rútdutác :
... Ðề nghị duy nhất
của y với tòa án : Tòa hãy thông báo cho Ban chấp hành
trung ương đảng cộng sản (bônsêvích) Liên Xô
biết ở Bộ Nội vụ (N.K.V.D.), có một trung
tâm chưa được thủ tiêu. Trung tâm này vẫn
bịa đặt, chế tạo một cách tinh vi các
vụ án, buộc những kẻ vô tội phải thú
nhận những tội không bao giờ họ vi
phạm ; các bị cáo không hề có một phương
tiện nào để chứng minh họ không tham gia
những hành vi phạm pháp được nhắc
đến trong lời thú nhận do bị tra tấn mà khai
ra của nhiều người khác nhau.
Những phương pháp
điều tra đã đi tới chỗ cưỡng ép
người ta phải dối trá và vu khống cho những
người hoàn toàn vô tội ; chưa kể chuyện
vu khống những người đã bị buộc
tội.
Y yêu cầu Tòa cho phép y
viết thư thông báo điều này cho Ban chấp hành trung
ương đảng. Y cam đoan với Tòa rằng
bản thân y không bao giờ có ý đồ thù địch
đối với chính sách của đảng, vì y luôn
đồng tình với đường lối của
đảng trên mọi lĩnh vực của công cuộc
xây dựng kinh tế và văn hóa.
Không ai để ý đến
lời tuyên bố nói trên của Rútdutác, mặc dầu
thời kỳ đó Rútdutác là chủ tịch Ủy ban
Kiểm tra Trung ương, được thành lập theo
ý Lênin để đấu tranh cho sự thống nhất
của đảng. Người đứng đầu
một cơ quan cao cấp, đầy uy tín của
đảng đã bị triệt hạ như thế
đấy ; trở thành nạn nhân của sự
độc đoán, Rútdutác còn không được mời
đến dự hội nghị Bộ Chính trị bởi
Stalin không muốn nói chuyện với đồng chí
ấy. Bản án tử hình được đưa ra
trong vòng 20 phút và Rútdutác bị xử bắn. (Cả phòng
họp xôn xao phẫn nộ)
Năm 1955, sau khi thẩm tra
kỹ trường hợp này, chúng ta được
biết những lời buộc tội đồng chí
Rútdutác là gian dối và dựa trên những tài liệu có tính
cách vu khống. Ðồng chí Rútdutác đã được
phục hồi danh dự sau khi mất.
Phương pháp khiêu khích do
những cựu nhân viên Bộ Nội vụ (N.K.V.D.) sử
dụng để bày đặt ra "những trung tâm
chống lại nhà nước xô-viết" và những
"khối" giả mạo đã được
vạch rõ qua lời "thú tội" của đồng
chí Rôdenblum, đảng viên từ năm 1906, bị N.K.V.D.
bắt vào năm 1937 ở Lêningrát.
Năm 1955, trong phiên tòa phúc
thẩm trường hợp của đồng chí
Kômarốp(18), Rôdenblum đã tiết lộ sự thật
sau đây : khi bị bắt vào năm 1937, đồng
chí đã phải chịu đựng những cuộc tra
tấn khủng khiếp và buộc phải xác nhận
những điều bịa đặt về đồng
chí cũng như về một số người khác.
Rôdenblum bị gọi vào văn phòng của Dakốpsky(19) và
được tên này hứa sẽ trả tự do nếu
trước tòa án, đồng chí chịu thú nhận
những "hoạt động phá hoại, gián
điệp và gây rối" do "trung tâm khủng bố
ở Lêningrát" tổ chức. Cả vụ việc này
do Bộ Nội vụ (N.K.V.D.) bày đặt ra năm 1937.
(Cả phòng họp xôn xao)
Bằng một cách trơ tráo
không thể tưởng tượng nổi, Dakốpsky
đã giảng giải "bộ máy" ghê tởm mà
người ta dùng để dựng nên những "âm
mưu chống Liên Xô".
Ðồng chí Rôdenblum kể
lại :
Ðể tôi có thể hình dung
được cơ chế đó, Dakốpsky đã
đưa ra vài giả thuyết khả dĩ về cách
tổ chức "trung tâm" này và các chi nhánh của nó.
Sau khi mô tả chi tiết,
Dakốpsky nói Bộ Nội vụ (N.K.V.D.) đang sửa
soạn vụ án trung tâm này và y nói thêm : vụ án sẽ
được xử công khai.
Trước tòa án,
người ta đưa tới bốn hay năm thành viên
của trung tâm giả mạo này : Chuđốp,
Ugarốp, Smôrôđin, Pôdécnơ, Shapôgiơnikôva (vợ
Chuđốp)(20) và những người khác, cùng hai ba thành
viên những chi nhánh của trung tâm...
Hồ sơ vụ án trung tâm
Lêningrát phải được biên soạn một cách
kỹ càng và vì vậy, cần thiết lời khai của
các nhân chứng. Nguồn gốc xã hội (trong quá khứ,
cố nhiên) và chức vụ trong đảng của
những chứng nhân đóng một vai trò không nhỏ.
Bản thân anh - Dakốpsky nói
- không cần phải đặt chuyện gì cả. N.K.V.D.
sẽ sửa soạn sẵn cho anh một sơ đồ
về mọi chi nhánh của trung tâm. Anh phải nghiên
cứu kỹ càng và phải nhớ rõ mọi câu hỏi và
trả lời mà tòa án sẽ đặt ra cho anh. Hồ
sơ vụ này sẽ được xếp đặt
trong vòng bốn, năm hoặc sáu tháng. Anh phải tận
dụng mọi thời gian để chuẩn bị,
đừng để liên lụy đến người
điều tra và bản thân anh. Số phận sắp
tới của anh phụ thuộc vào tiến trình và kết
quả của phiên tòa. Nếu anh nhầm lẫn và khai báo
sai, anh sẽ thiệt mạng. Nếu anh vượt qua
thử thách, anh cứu được mạng mình, chúng tôi
sẽ chu cấp cho anh đến cuối đời.
Thế đấy, những
việc ghê tởm như thế xảy ra vào hồi đó.
(Cả phòng họp xôn xao)
Ở tỉnh lỵ, việc
giả mạo còn thô bạo hơn nữa. Phòng N.K.V.D.
tỉnh Svéclốpsk đã "phát hiện" một nhóm
người gọi là "bộ tham mưu của phong trào
khởi nghĩa vùng Uran", tổ chức của khối
trốt-kít, hữu khuynh, xã hội cách mạng và tăng
lữ. Kabakốp(21) - bí thư đảng bộ tỉnh
Svéclốpsk, ủy viên Ban chấp hành trung ương
đảng cộng sản Liên Xô, gia nhập đảng
từ năm 1914 - bị coi là người lãnh đạo
giả tưởng của tổ chức này. Những
hồ sơ điều tra thời ấy cho ta thấy
trong hầu hết các vùng biên ải, các huyện, các
nước cộng hòa đều có những tổ
chức và trung tâm gián điệp, khủng bố, biệt
kích và phá hoại (giả tưởng) của bọn
trốt-kít và bọn hữu khuynh. Thường
thường, đứng đầu những tổ
chức này, không biết vì lý do gì, đều là các bí thư
thứ nhất đảng ủy các vùng, các địa
hạt biên ải hoặc các nước cộng hòa.
(Cả phòng họp xôn xao)
Hàng ngàn chiến sĩ
cộng sản trung thực và vô tội đã bị
giết hại do những "vụ án" ngụy
tạo khủng khiếp như thế, do người ta
dùng đến những lời buộc tội mang tính vu
khống và do việc áp dụng các biện pháp điều
tra để cưỡng bức các bị can phải
đưa ra những lời "thú nhận" buộc
tội chính mình và những người khác. Bằng cách
đó, người ta bày đặt các vụ án xử các lãnh
tụ uy tín của đảng và nhà nước như
Kốtsiô(22), Chuba(23), Pôstưshép, Kốtsarép(24) và nhiều
người khác.
Trong những năm đó,
những cuộc đàn áp khủng bố trên quy mô lớn
đã xảy ra, không dựa trên một bằng chứng
cụ thể nào, gây ra tổn thất rất nặng
nề trong hàng ngũ cán bộ đảng.
Một cách đáng lên án,
Bộ Nội vụ (N.K.V.D.) đã sửa soạn các danh
sách về những người sau đó trở thành bị
cáo dưới thẩm quyền của Tòa án Quân sự.
Hơn nữa, những bản án cũng được
định đoạt trước khi xử. Êgiốp
thường xuyên đệ trình những danh sách này lên
Stalin và nói chung, Stalin chuẩn y những hình phạt
được đề nghị. Năm 1937-1938, có 383 danh
sách - mang tên hàng ngàn thành viên của đảng, của các
xô-viết, của Ðoàn Thanh niên cộng sản Lênin (Komsomol),
của quân đội và các cơ quan kinh tế - như
thế đã được gửi đến tay Stalin.
Số lớn những vụ
án nói trên hiện đang được thẩm xét lại,
và đa số đã bị bác bỏ vì chúng được
dựng nên trên cơ sở những điều bịa
đặt và không có bất cứ một sở cứ nào.
Chỉ cần nói rằng từ năm 1954 đến nay,
Ủy ban Quân sự của Tòa án Tối cao đã phục
hồi cho 7.679 người, trong đó nhiều
người đã thiệt mạng.
Việc bắt bớ hàng
loạt những cán bộ của đảng, của
xô-viết, của nền kinh tế và quân sự đã gây
nên thiệt hại vô cùng to lớn cho đất nước
ta và cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
Những vụ khủng
bố đại quy mô đã ảnh hưởng lớn
đến tình hình đạo đức-chính trị
của đảng, tạo ra bầu không khí hoang mang, góp
phần làm tăng hoài nghi không tốt, reo rắc sự
ngờ vực lẫn nhau giữa những người
cộng sản. Ðiều này có lợi cho việc thăng
tiến của lũ người vu khống và mưu
lợi thuộc đủ mọi hạng.
Nghị quyết của khóa
họp Ban chấp hành trung ương đảng cộng
sản Liên Xô tháng 1-1938 phần nào đã sửa đổi
hiện trạng nội bộ của các cấp bộ
đảng. Nhưng những vụ đàn áp hàng loạt
vẫn tiếp diễn trong năm 1938.
Chỉ nhờ sức
mạnh đạo đức-chính trị to lớn,
Ðảng ta mới vượt nổi những thử thách
nặng nề của những năm 1937-1938 và đã huấn
luyện được nhiều cán bộ mới. Tuy
vậy, một điều chắc chắn : đà
tiến của chúng ta đến chủ nghĩa xã hội
và công cuộc phòng bị quốc gia còn thành công hơn
nhiều, nếu đội ngũ cán bộ của ta không
bị những tổn thương lớn bởi các
cuộc thanh trừng hoàn toàn vô nghĩa thời kỳ
1937-1938.
(1) Bộ Dân
ủy Nội vụ, cơ quan trung ương phụ trách
nội vụ và an ninh quốc gia ở Liên Xô, hậu duệ
của O.G.P.U., thành lập năm 1934, hoạt động
như Bộ Nội vụ trong thời gian 1946-1953.
(2) Khrushốp nói
tới nhiều "vụ án" do Stalin bày đặt
trong những năm 1937-1938. Nhưng ông vẫn giấu
giếm, không đả động tới những "vụ
án" Mạc Tư Khoa từ 1935 đến 1936, trong
đó đại đa số cựu đồng chí của
Lênin bị triệt ha :
Tháng Giêng 1935 : "vụ án" một số người bị buộc tội "tả khuynh" và "chịu trách nhiệm tinh thần về vụ ám sát Kirốp".
Tháng Tám 1936 : "vụ án" Dinôviép và Kamênép và 14 đồng phạm (đều là ủy viên Ban chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị). Tất cả các bị cáo, do bị tra tấn tàn bạo, đã thú nhận họ là "gián điệp cho cơ quan tình báo Gestapo Ðức" và đều bị tử hình.
Tháng Giêng 1937 : "vụ án" Rađếch, Piatakốp và đồng phạm (các ủy viên Ban chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị). Họ bị buộc tội "tổ chức những trung tâm trốt-kít phản cách mạng". Tất cả đều thú nhận những "tội lỗi" mà họ không làm. 13 (trên tổng số 17) bị cáo bị tử hình.
Tháng Sáu 1937 : "vụ án" Tổng tư lệnh Hồng quân - nguyên soái Tukhachépsky - và bảy đại tướng. Bị buộc tội "làm gián điệp cho ngoại bang", tất cả đều bị xử bắn.
Tháng Ba 1938 : "vụ án" Bukharin, Rưkốp và 19 đồng phạm, bị buộc tội "hữu khuynh và trốt-kít". 18 người bị xử bắn. Còn nhiều vụ án nữa tiếp theo, mục đích tảy trừ "tả", "hữu". Nhưng mục đích chính là nhằm chống lại Trốtsky (bị lưu đày ở nước ngoài). Tất cả các "vụ án" nói trên, tuy là vu khống, bịa đặt, nhưng đã được mọi đảng cộng sản trên thế giới (kể cả đảng cộng sản Việt Nam) và một số đông nhân sĩ năm châu ủng hộ. Sau những "vụ án" ấy, ba phần tư số đồng chí kỳ cựu của Lênin đã bị sát hại.
Tháng Giêng 1935 : "vụ án" một số người bị buộc tội "tả khuynh" và "chịu trách nhiệm tinh thần về vụ ám sát Kirốp".
Tháng Tám 1936 : "vụ án" Dinôviép và Kamênép và 14 đồng phạm (đều là ủy viên Ban chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị). Tất cả các bị cáo, do bị tra tấn tàn bạo, đã thú nhận họ là "gián điệp cho cơ quan tình báo Gestapo Ðức" và đều bị tử hình.
Tháng Giêng 1937 : "vụ án" Rađếch, Piatakốp và đồng phạm (các ủy viên Ban chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị). Họ bị buộc tội "tổ chức những trung tâm trốt-kít phản cách mạng". Tất cả đều thú nhận những "tội lỗi" mà họ không làm. 13 (trên tổng số 17) bị cáo bị tử hình.
Tháng Sáu 1937 : "vụ án" Tổng tư lệnh Hồng quân - nguyên soái Tukhachépsky - và bảy đại tướng. Bị buộc tội "làm gián điệp cho ngoại bang", tất cả đều bị xử bắn.
Tháng Ba 1938 : "vụ án" Bukharin, Rưkốp và 19 đồng phạm, bị buộc tội "hữu khuynh và trốt-kít". 18 người bị xử bắn. Còn nhiều vụ án nữa tiếp theo, mục đích tảy trừ "tả", "hữu". Nhưng mục đích chính là nhằm chống lại Trốtsky (bị lưu đày ở nước ngoài). Tất cả các "vụ án" nói trên, tuy là vu khống, bịa đặt, nhưng đã được mọi đảng cộng sản trên thế giới (kể cả đảng cộng sản Việt Nam) và một số đông nhân sĩ năm châu ủng hộ. Sau những "vụ án" ấy, ba phần tư số đồng chí kỳ cựu của Lênin đã bị sát hại.
(3) Sécgây
M. Kirốp (1886-1934) : đảng viên từ năm
1904, thành viên Ban chấp hành Trung ương năm 1923, bí
thư thành ủy Lêningrát năm 1926, ủy viên Bộ Chính
trị từ năm 1930, bí thư Ban chấp hành Trung
ương đảng Cộng sản (bônsêvích) Nga, bị
ám sát ngày 1-12-1934.
(4) "Hung
thủ" Nikôlaiép là một đảng viên cộng
sản trẻ. Y đã hai lần bị các vệ sĩ
Kirốp bắt vì có hành động khả nghi. Khi bị
bắt, người ta tìm thấy trong chiếc túi da
của y một khẩu súng lục đã lên đạn và
tấm sơ đồ những con đường
Kirốp hay đi. Sau khi hỏi cung Nikôlaiép, Dapôrôgiétxơ -
phó phòng N.K.V.D. vùng Lêningrát - gọi điện lên Mạc
Tư Khoa và báo cáo tình hình cho Yagôđa. Nhưng vài giờ
sau, Yagôđa hạ lệnh trả tự do cho Nikôlaiép.
(5) Theo truyền
thống, người ta vẫn gọi các nhân viên những
cơ quan an ninh quốc gia Liên Xô là "trinh sát viên
Chêka", dù Chêka đã được thay thế bởi
(O). G.P.U., N.K.V.D., K.G.B., ... "Trinh sát viên Chêka" này -
vốn là một nhân viên N.K.V.D., chỉ huy đám vệ
sĩ của Kirốp - tên là Bôrisốp. Nghi ngờ vì
sự "dễ dãi" của N.K.V.D. trong việc thả
tự do hai lần cho Nikôlaiép, Bôrisốp đã kể
mọi chuyện cho Kirốp biết. Ðó là lý do khiến
Bôrisốp bị sát hại về sau này. (Xin xem bài Vụ ám
sát Kirốp của R. Métvêđép)
(6) Theo sử gia
Liên Xô R. Métvêđép, tên này bị đánh chết bằng
gậy sắt, nhưng các bác sĩ đưa ra ý kiến
giám định ngụy tạo, như thể y chết trong
tai nạn xe hơi ngày 2-12-1934, trên đường về
Lêningrát để lấy khẩu cung. (Xin xem bài Vụ ám sát
Kirốp của R. Métvêđép)
(7) Khrushốp có
ý nói vụ ám sát Kirốp là do N.K.V.D. tổ chức và do
Stalin gián tiếp hay trực tiếp điếu khiển.
Stalin đã lợi dụng vụ Kirốp để mở
cuộc thanh trừng các địch thủ khác, quan
trọng hơn, như Dinôviép, Kamênép, Bukharin, Rađếch,
Tômsky, Rưkốp, Piatakốp, v.v... Ngày 20-1-1935, Tòa án Quân
sự Tối cao buộc tội các nhân viên trách nhiệm
Bộ Nội vụ (N.K.V.D.) vùng Lêningrát (Métvêđép và
đồng sự) "không đề phòng cẩn mật,
để xảy ra vụ ám sát Kirốp". Các bị cáo
bị tù từ hai đến ba năm, trừ Banxêvích
bị mười năm. Tới năm 1937, tất cả
những người này - trừ Dapôrôgiétxơ - đều
bị giải về Lêningrát rồi bị xử bắn.
(8) Những
cuộc "đàn áp hàng loạt" chia làm hai thời
kỳ :
Thời kỳ thứ nhất : bắt đầu từ vụ ám sát Kirốp tới mùa thu năm 1936. Dân ủy Nội vụ lúc ấy là Yagôđa, kiêm phụ trách Bộ Nội vụ (N.K.V.D.)
Thời kỳ thứ hai : Êgiốp được cử thay thế Yagôđa, tới năm 1938 cũng bị cách chức và bị xử bắn. Người thay thế là Bêrya.
Thời kỳ thứ nhất : bắt đầu từ vụ ám sát Kirốp tới mùa thu năm 1936. Dân ủy Nội vụ lúc ấy là Yagôđa, kiêm phụ trách Bộ Nội vụ (N.K.V.D.)
Thời kỳ thứ hai : Êgiốp được cử thay thế Yagôđa, tới năm 1938 cũng bị cách chức và bị xử bắn. Người thay thế là Bêrya.
(9) Lada L. Kaganôvích
(1893-1991) : gia nhập đảng năm 1911, ủy viên
Ban chấp hành Trung ương từ năm 1923, bí thư
Ban chấp hành Trung ương năm 1924, bí thư thành
ủy Mạc Tư Khoa năm 1930, phó chủ tịch
Hội đồng Dân ủy từ năm 1944, cộng
sự trung thành của Stalin.
(10) Viachesláp
M. Môlôtốp (1890-1986) : chủ tịch Hội
đồng Dân ủy từ năm 1930, Dân ủy Ngoại
vụ thời kỳ 1939-1940, bộ trưởng Bộ
Ngoại giao 1953-1956, một trong những cộng sự
thân tín của Stalin.
(11) Ghenrích
Yagôđa (1891-1938) : lãnh đạo G.P.U. trong thập niên
30, tổ chức vụ án ngụy tạo Mạc Tư Khoa
năm 1936, bị cách chức ngày 29-9-1936 rồi bị
tử hình trong vụ án Bukharin.
(12) Cơ quan an
ninh quốc gia Liên Xô, thành lập năm 1922, hậu duệ
của Chêka.
(13) Hội
nghị này chính thức bắt đầu ngày 23-2 và kéo dài
đến ngày 5-3-1937. Nhưng thực ra nó bắt
đầu từ ngày 10-2. Công khai chỉ có một nghị
quyết được chuẩn y, dựa theo báo cáo
của Giơđanốp về "nhiệm vụ
của các tổ chức đảng trong cuộc bầu
cử theo Hiến pháp mới". Sự thật, hội
nghị có mục đích thông qua hai báo cáo chính : một
của Êgiốp (Dân ủy Nội vụ) về
"việc tổ chức O.G.P.U." và một của Stalin
về "thiếu sót trong công tác thủ tiêu bọn
trốt-kít". Chính trong giai đoạn này, Óocgiônikítdê,
bạn thân của Stalin đã "tự vẫn"
hoặc bị ám sát.
(14) A.I. Ðênikin
(1872-1947) : tướng Bạch vệ, tổ chức và
chỉ huy Ðạo quân Tự nguyện vùng sông Ðông chống chính
quyền bônsêvích, thua trận và trốn ra nước ngoài
năm 1920.
(15) Phêlích E.
Giécginsky (1877-1926) : gốc Ba Lan, đảng viên
đảng Xã hội Dân chủ Ba Lan, bị Nga hoàng đày
đi Sibérie năm 1897. Sau đó bị giam ở Mạc
Tư Khoa, được cách mạng tháng Hai giải phóng
năm 1917. Tham gia cách mạng tháng Mười, ủy viên
Ban chấp hành Trung ương từ năm 1917,
được Lênin giao trách nhiệm lãnh đạo Chêka và
G.P.U., giữ chức Dân ủy Giao thông và chủ tịch
Hội đồng Kinh tế Nhân dân.
(16) Paven P.
Pôstưshép (1888-1938) : xuất thân công nhân, gia nhập
đảng năm 1904, ủy viên dự khuyết Bộ
Chính trị sau Ðại hội lần thứ XVII. Bị
bắt rồi bị xử tử năm 1938.
(17) Rôbe J.
Âykhê(1890-1940) : đảng viên bônsêvích năm 1905,
nhiều lần bị tù tội và đày ải biệt
xứ dưới thời Nga hoàng. Ủy viên Ban chấp
hành Trung ương năm 1930, ủy viên dự khuyết
Bộ Chính trị năm 1935.
(18) Nikôlai
P.Kômarốp (1886-1937) : đảng viên năm 1909, ủy
viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương sau
Ðại hội lần thứ XII (1923). Bạn thân của
Kirốp. Bị bắt năm 1937.
(19) Lêpít
Dakốpsky : chủ tịch N.K.V.D. ở Lêningrát
(1934-1938) rồi ở Mạc Tư Khoa, là một tên sát nhân
không gờm tay. Bị bắt và mất tích sau khi Bêrya lên
chức Dân ủy Nội vụ.
(20) Mikhain
S.Chuđốp (1893-1937) : đảng viên từ năm
1913, ủy viên Ban chấp hành Trung ương.
Phiôđô Y. Ugarốp (1887-1937) : đảng viên từ năm 1905, bí thư Thành ủy Lêningrát.
Piốt P. Smôrôđin (1897-1937) : đảng viên từ năm 1917, ủy viên Thành ủy Lêningrát, ủy viên Ban chấp hành Trung ương.
Bôrít P.Pôdécnơ (1881-1937) : đảng viên từ năm 1903, có nhiều công lao trong cuộc nội chiến, bí thư Thành ủy Lêningrát, ủy viên Ban chấp hành Trung ương từ năm 1934.
Lútmila K. Shapôgiơnikôva (1895-1937) ; đảng viên từ năm 1917, bí thư Công đoàn Lêningrát, thành viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương đảng. Tất cả các "thành viên" kể trên của "trung tâm chống Liên Xô" ở Lêningrát đều là người thân cận Kirốp, bị bắt và tử hình năm 1937.
Phiôđô Y. Ugarốp (1887-1937) : đảng viên từ năm 1905, bí thư Thành ủy Lêningrát.
Piốt P. Smôrôđin (1897-1937) : đảng viên từ năm 1917, ủy viên Thành ủy Lêningrát, ủy viên Ban chấp hành Trung ương.
Bôrít P.Pôdécnơ (1881-1937) : đảng viên từ năm 1903, có nhiều công lao trong cuộc nội chiến, bí thư Thành ủy Lêningrát, ủy viên Ban chấp hành Trung ương từ năm 1934.
Lútmila K. Shapôgiơnikôva (1895-1937) ; đảng viên từ năm 1917, bí thư Công đoàn Lêningrát, thành viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương đảng. Tất cả các "thành viên" kể trên của "trung tâm chống Liên Xô" ở Lêningrát đều là người thân cận Kirốp, bị bắt và tử hình năm 1937.
(21) Ivan
D.Kabakốp (1891-1938) : bí thư đảng ủy
miền Uran, ủy viên Ban chấp hành Trung ương
từ năm 1925, bị bắt năm 1937.
(22) Stanisláp
V.Kôssiô (1891-1938) : nhập đảng từ năm 1907,
ủy viên Bộ Chính trị từ năm 1924, bí thư Ban
chấp hành Trung ương trong thời gian 1925-1928,
tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Ukraina
từ năm 1928. Bị bắt năm 1938.
(23) Vlát Y. Chuba
(1892-1938) : đảng viên từ năm 1907, bí thư
Hội đồng Dân ủy Ukraina thời gian 1923-1932,
ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị từ năm
1932. Bị bắt năm 1938.
(24)
Alếchsanđrơ V. Kốtsarép (1903-1939) :
đảng viên từ năm 1919, ủy viên Ban chấp hành
Trung ương Ðoàn Thanh niên cộng sản Lênin, bị
tử hình năm 1939.
Ðoạn
7 : Ai phải chịu trách nhiệm về khủng
bố ?
(LÊN MẠNG CHỦ NHẬT 17 THÁNG SÁU 2001) |
Chúng ta hoàn toàn đúng
đắn khi lên án Êgiốp đã sử dụng những
phương pháp khốn nạn trong năm 1937. Nhưng
chúng ta còn phải trả lời một câu hỏi :
thử hỏi Êgiốp có thể ra lệnh bắt
Kốtsiô chẳng hạn, mà Stalin không biết ? Thử
hỏi đã có sự trao đổi ý kiến hay quyết
định trong Bộ Chính trị về vụ này hay
không ? Không, không có như thế và cũng không có trong
những trường hợp tương tự như
thế. Thử hỏi Êgiốp có thể tự mình
định đoạt vận mệnh của những cán
bộ kiệt xuất của đảng hay không ?
Không, nếu cho rằng Êgiốp có thể một mình làm
điều đó thì thật ngây thơ. Rõ ràng mọi
việc đều do Stalin quyết định, và nếu
không có lệnh và sự chấp thuận của Stalin,
Êgiốp không thể hành động như thế.
Chúng ta đã thẩm xét
lại trường hợp các đồng chí Kốtsiô,
Rútdutác, Kốtsarép và nhiều đồng chí khác và đã
phục hồi danh dự cho họ. Họ đã bị
bắt và bị kết án tử hình dựa trên những lý
do gì ? Các tài liệu được khảo sát cho
thấy không hề có lý do gì cả. Họ cũng như
nhiều người khác, bị bắt mà không có lệnh
của Viện Kiểm sát. Trong hoàn cảnh như thế,
thực ra cũng không cần một thứ phê chuẩn
nào. Nhưng nói làm chi đến chuyện phê chuẩn, khi
trong mọi chuyện, Stalin là người có toàn quyền
định đoạt ! Chính Stalin nắm vai trò ủy
viên kiểm sát tối cao. Chẳng những đã góp
phần bắt bớ các đồng chí nói trên, tự thân
Stalin cũng đề xướng, cũng hạ lệnh
bắt bớ. Chúng ta phải nói rõ sự việc này
để các đại biểu Ðại hội thấu
triệt tình hình và tự rút ra những kết luận thích
hợp.
Những sự kiện
chứng tỏ nhiều vụ đàn áp độc đoán
được thực hiện theo lệnh của
Stalin ; người ta đã hoàn toàn bỏ qua các chuẩn
mực pháp lý, trong đảng và cả trong nhà nước
xô-viết. Stalin rất hay ngờ vực và đa nghi
đến mức bệnh hoạn ; chúng tôi biết rõ
điều đó qua công việc chung. Có khi đồng chí
ấy nhìn thẳng vào mặt người khác rồi
hỏi : "Tại sao cái nhìn của anh hôm nay lại
bối rối thế ?", hoặc "Tại sao hôm
nay anh cứ lánh mặt tôi và không nhìn thẳng vào mắt
tôi ?" Căn bệnh đa nghi ấy làm cho Stalin nghi
ngờ hết thảy mọi người, kể cả
các thành viên xuất sắc của đảng mà
đồng chí ấy quen biết từ lâu. Ở mọi
nơi, Stalin đều thấy những "kẻ
thù", những tên "dối trá" và những "gián
điệp".
Với quyền hạn vô biên
trong tay, Stalin trở nên độc đoán đến
cực điểm trong việc triệt hạ kẻ khác
về tinh thần cũng như thể xác. Tình trạng
không ai dám phát biểu ý kiến riêng của mình đã
diễn ra.
Khi Stalin bảo phải
bắt người này hay kẻ nọ, và ai nấy
đều phải công nhận người đó là
"kẻ thù của nhân dân", bởi vì không thể
phản đối. Trong lúc ấy, bè lũ Bêrya - cầm
đầu cơ quan an ninh của nhà nước - tự
vượt mình trong việc chứng minh tội trạng
những người bị bắt và tính xác thực
của các tài liệu giả mạo.
Và người ta đã kèm thêm
những bằng cớ như thế nào ? Ðó là những
lời "thú tội" của bị cáo. Và quan tòa
chấp nhận những lời "thú tội" đó.
Những làm sao con người lại thú nhận những
tội lỗi mà họ hoàn toàn không phạm phải ?
Chỉ có một cách duy nhất : áp dụng những
phương pháp nhục hình, khiến các bị cáo mất
hết tri giác, mất hết khả năng phán đoán,
quên đi phẩm giá con người. Người ta đã
tạo ra những lời "thú tội" như thế
đó.
Vào năm 1939, khi làn sóng
bắt bớ hàng loạt đã dịu xuống và khi lãnh
đạo các tổ chức đảng các địa
phương tố cáo những nhân viên Bộ Nội vụ
(N.K.V.D.) đã dùng những biện pháp tra tấn
đối với những người bị bắt, ngày
20-1-1939, Stalin đã gửi một bức điện
mật cho đảng ủy các tỉnh hạt và vùng biên
ải, cho bí thư Ban chấp hành trung ương
đảng cộng sản các nước cộng hòa
xô-viết, cho các Dân ủy Nội vụ và lãnh đạo
các tổ chức N.K.V.D.
Bức điện ấy có
nội dung như sau :
Ban chấp hành trung
ương đảng cộng sản (bônsêvích) Liên Xô thông
báo việc áp dụng các phương pháp nhục hình trong
khi hành sự của Bộ Nội vụ (N.K.V.D.) đã
được Ban chấp hành trung ương đảng
cộng sản (bônsêvích) Liên Xô cho phép từ năm 1937...
Ai cũng biết tất
cả các tổ chức tình báo tư sản đều dùng
những phương pháp nhục hình đối với
đại diện giai cấp vô sản xã hội chủ
nghĩa, hơn thế nữa, bọn chúng đã dùng nó
dưới những hình thức ghê tởm nhất. Vấn
đề được đặt ra là thử hỏi
tại sao các cơ quan an ninh quốc gia xã hội chủ
nghĩa lại phải nhân đạo hơn với lũ
tay sai hung hãn của giai cấp tư sản, với
những kẻ thù nguy hiểm của giai cấp công nhân và
nông dân tập thể ?
Ban chấp hành trung
ương đảng cộng sản (bônsêvích) Liên Xô cho
rằng các phương pháp dùng áp lực thể xác - trong
tình thế đặc biệt - cần được sử
dụng để chống lại những kẻ thù công
khai nhân dân và trong trường hợp này, nó là một
phương pháp được cho phép và đúng
đắn.
Bằng việc này, nhân danh
Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản
(bônsêvích) Liên Xô, Stalin đã thông qua sự vi phạm pháp lý xã
hội chủ nghĩa một cách thô bạo nhất và
chấp nhận sự tra tấn và dùng vũ lực,
điều này - như chúng ta đã thấy - khiến
những người vô tội phải tự buộc
tội cho mình và vu cáo kẻ khác.
Gần đây - vài ngày
trước Ðại hội này - chúng tôi đã gọi
tới trước hội nghị Ban chấp hành trung
ương và truy hỏi tên nhân viên điều tra
Rôđôxơ, người đã thẩm tra và lấy
khẩu cung Kốtsiô, Chuba, Pôstưshép, Kốtsarép. Ðây là
một con người vô giá trị, óc chim sẻ, tư cách
hoàn toàn đồi bại, và chính một kẻ như
thế đã định đoạt số phận
những cán bộ xuất chúng của đảng ! Y
còn xét xử đường lối chính trị của
họ, bởi chứng thực những "tội
trạng" của các bị cáo, y đã cung cấp
bản hồ sơ mà qua đó, có thể rút ra những
kết luận mang tính chính trị.
Một câu hỏi
được đặt ra : một kẻ như
thế có thể đơn phương tiến hành
điều tra với những biện pháp kể trên
để buộc tội những người như
Kốtsiô và nhiều người khác được
không ? Không, y không thể làm được việc
đó nếu không có những mệnh lệnh đặc
biệt. Trong khóa họp của Ban chấp hành trung
ương, Rôđôxơ đã nói với chúng tôi :
"Người ta bảo tôi Kốtsiô và Chuba là "kẻ
thù của nhân dân". Bởi thế, trên tư cách nhân viên
điều tra, tôi có bổn phận bắt họ phải
thú nhận tội lỗi." (Cả phòng họp công phẫn)
Ðể có được
những lời thú nhận như thế, Rôđôxơ
phải dùng biện pháp tra tấn thường xuyên, và y
cũng đã làm điều đó theo chỉ thị chi
tiết từ Bêrya. Tôi cũng phải nhắc lại là
trong hội nghị Ban chấp hành trung ương, y đã
trơ tráo tuyên bố : "Tôi tưởng tôi đã
thực hiện mệnh lệnh của đảng".
Mệnh lệnh của Stalin
về việc áp dụng nhục hình đối với
những người bị bắt giữ đã
được thi hành trong thực tiễn như thế
đó.
Cùng nhiều thực tế
khác, những sự việc này cho thấy chuẩn mực
của đảng - nhằm giải quyết vấn
đề một cách đúng đắn - đã bị vi
phạm ; tất cả đều tùy thuộc ở
sự chuyên quyền của một con người.
Ðoạn 8 : Stalin và cuộc chiến tranh (LÊN MẠNG CHỦ NHẬT 17 THÁNG SÁU 2001) |
Việc quyền lực
bị thâu tóm trong tay một người duy nhất - Stalin
- đã tạo nên những hậu quả năng nề
trong thời kỳ chiến tranh vệ quốc vĩ
đại.
Khi xem các tiểu thuyết,
phim ảnh và những công trình "khoa học" về
lịch sử của chúng ta, ta thấy Stalin có vai trò
hầu như không thể tưởng tượng nổi
trong cuộc chiến tranh vệ quốc. Theo đó, Stalin
đã tiên đoán tất cả. Quân đội Liên Xô theo
kế hoạch chiến lược do Stalin định
sẵn từ lâu, đã sử dụng chiến thuật
"phòng ngự tác chiến" (nghĩa là chiến
thuật cho phép lính Ðức tràn vào tận Moskva và Stalingrát).
Áp dụng chiến thuật này, hình như chỉ nhờ
thiên tài của Stalin, quân đội Liên Xô đã chuyển
thế thủ thành thế công và đánh bại quân thù. Chiến
thắng mang tầm quan trọng lịch sử do các
lực lượng vũ trang xô-viết và do nhân dân Liên Xô
anh dũng đạt được, đã bị coi là
kết quả thiên tài quân sự của Stalin(1) trong
những thứ sách vở, phim ảnh và các "công trình
khoa học" như thế.
Chúng ta cần phân tích kỹ
vấn đề này vì nó có tầm quan trọng vô cùng
lớn lao, chẳng những về phương diện
lịch sử, mà cả về góc độ đào tạo
chính trị và thực tiễn.
Về điểm này sự
thật ra sao ?
Trước chiến tranh, báo
chí trong nước và tất cả công tác đào tạo
chính trị đều hướng theo một giọng
ngạo mạn : nếu kẻ thù dám xâm phạm lãnh
thổ thiêng liêng của Liên Xô, khi chúng đánh ta một
đòn, ta sẽ trả lại gấp ba và sẽ cho chúng
đại bại ngay trên lãnh thổ của chúng, ta sẽ
chiến thắng mà không tổn hại gì mấy. Nhưng
những lời tuyên bố ấy không dựa trên sự
thật nào, khả dĩ có thể đảm bảo
sự bất khả xâm phạm của biên cương
chúng ta trong thực tế.
Trong và sau cuộc chiến
tranh, Stalin đã đưa ra ý kiến cho rằng thảm
trạng mà nhân dân ta phải trải qua trong giai đoạn
đầu của cuộc chiến tranh là hậu quả
cuộc tấn công "bất thình lình" của quân
đội Ðức chống Liên Xô. Nhưng thưa các
đồng chí, điều này hoàn toàn không đúng sự
thật. Ngay khi Hítle nắm quyền chính ở Ðức, y
đã tự đặt cho mình sứ mệnh thủ tiêu
chủ nghĩa cộng sản. Bọn phát-xít đã tuyên
bố một cách thẳng thừng về điều
đó, không hề giấu giếm những ý đồ
của chúng.
Ðể đạt
được mục đích xâm lăng, chúng đã
thiết lập đủ các loại hiệp ước và
khối trục. Thí dụ : "trục" Berlin - Rôma
- Tôkiô khét tiếng. Nhiều sự kiện xảy ra ở
thời kỳ trước chiến tranh chứng tỏ
Hítle chuẩn bị ráo riết cuộc tấn công chống
nhà nước xô-viết và y đã tập trung những
lực lượng quân sự lớn (trong đó có các quân
đoàn thiết giáp) ở dọc biên giới Liên Xô.
Nhiều tài liệu mới
công bố hiện nay cho thấy từ ngày 3-4-1941,
Sớcsin - thông qua ông Cripps, đại sứ Anh ở Liên
Xô - đã nhắc Stalin việc nước Ðức Quốc
xã bắt đầu tổ chức lại quân lực
nhằm mở cuộc tấn công Liên Xô. Dĩ nhiên,
Sớcsin hành động như thế không phải vì ông ta
có thiện cảm với nhân dân xô-viết. Những
mục tiêu đế quốc của cá nhân Sớcsin đã
dẫn dắt ông trong việc này : xô đẩy
nước Ðức Quốc xã và Liên Xô vào cuộc chiến
đẫm máu, từ đó củng cố cho địa
vị đế quốc Anh.
Tuy vậy, Sớcsin kể
lại trong hồi ký của mình là ông cố gắng "yêu
cầu Stalin chú ý đến hiểm họa đang đe
dọa"(2). Sớcsin nhấn mạnh
điểm này trong các điện tín gửi ngày 18-4 và
những ngày sau đó. Nhưng Stalin không hề để ý,
thậm chí còn hạ lệnh cho mọi người
đừng tin vào những thông tin kiểu ấy để
tránh "gây ra những cuộc hành quân".
Chúng ta cần nhận
định rằng những thông tin về việc
nước Ðức đang chuẩn bị một cuộc
tấn công vũ trang vào lãnh thổ Liên Xô, cũng đã được
các nguồn tin quân sự và ngoại giao của chúng ta
đưa ra. Nhưng như chúng ta thấy, ban lãnh
đạo đã nhận được lệnh không
được tin vào những tin đó. Cho nên, với
một nỗi lo âu nhất định, các tin này chỉ
được gửi đi cùng những nhận
định rất dè dặt về tình thế lúc bấy
giờ.
Chẳng hạn, trong báo cáo
gửi từ Berlin ngày 6-5-1941, tùy viên quân sự Liên Xô,
đại úy Vôrônxốp viết :
Một công dân Liên Xô tên là
Bôde đã báo cho phó tùy viên phụ trách hải quân :
như một sĩ quan Ðức - làm việc ở Tổng
Hành dinh của Hítle - được biết, nước Ðức
chuẩn bị tấn công Liên Xô vào ngày 14-5 từ
hướng Phần Lan, các nước Bantơ và
nước Lítva. Cùng một lúc, không quân Ðức sẽ
tấn công ồ ạt Moskva và Lêningrát, và quân nhảy dù
sẽ chiếm cứ các thành phố dọc biên giới...
Trong báo cáo ngày 22-5-1941, phó tùy
viên quân sự ở Berlin, Khlôpốp thông báo :
Cuộc tấn công của
quân đội Ðức đã được ấn
định vào ngày 15-6, nhưng cũng có thể sẽ
diễn ra trong những ngày đầu tháng Sáu.
Bức điện tín từ
tòa đại sứ của ta ở Lônđơn gửi
về ngày 18-6-1941, viết :
Cripps tin chắc rằng
đụng độ vũ trang giữa Ðức và Liên Xô là
không thể tránh khỏi, và cuộc chiến tranh này sẽ
xảy ra chậm nhất là vào khoảng giữa tháng Sáu.
Theo Cripps, quân Ðức hiện đang tập trung 147 sư
đoàn (kể cả không quân và các lực lượng
trợ ứng) dọc biên giới Liên Xô...
Phó mặc những lời
nhắc nhở nghiêm trọng như thế, không có một
biện pháp thiết yếu nào được đưa ra
để nước ta có thể chuẩn bị một
cách thích đáng công cuộc tự vệ và chống trả
cuộc tấn công bất ngờ(3).
Chúng ta có đủ thì giờ
và khả năng thực hiện công cuộc chuẩn
bị này không ? Tất nhiên, có ! Chúng ta có thì giờ
và đủ khả năng. Nền công nghiệp của
chúng ta đã phát triển đến mức có thể cung
cấp mọi nhu cầu cho quân lực Liên Xô. Ðiều này
được chứng minh bởi thực tế sau :
trong những năm đầu thời chiến tranh,
mặc dầu chúng ta bị mất phân nửa nền công
nghiệp cùng những vùng công nghiệp và nông nghiệp quan
trọng ở Ukraina và phía Bắc Kápkadơ và những vùng
miền Tây đất nước do sự chiếm đóng
của quân thù, nhà nước xô-viết vẫn tổ
chức được việc sản xuất quân nhu
ở các vùng nông thôn phía Ðông, vẫn đưa vào hoạt
động những thiết bị được
chuyển từ các khu công nghiệp miền Tây và đã cung
cấp cho quân đội mọi nhu cầu thiết yếu
để tiêu diệt kẻ địch.
Nếu nền công nghiệp
chúng ta được vận động kịp thời và
đúng mức để cung cấp quân đội ta
những khí cụ cần thiết thì các tổn thất
của ta trong thời chiến hẳn đã giảm
bớt rất nhiều. Nhưng cuộc vận
động này không được thi hành đúng lúc. Ngay
trong những ngày đầu chiến tranh, rõ ràng là quân
lực ta được vũ trang tồi tệ, không
đủ đại bác, chiến xa và phi cơ để
đẩy lùi quân địch.
Ngay từ thời kỳ
trước chiến tranh, nền khoa học và kỹ
thuật Liên Xô đã phát triển các loại chiến xa và
đạc bác tuyệt diệu. Có điều việc sản
xuất hàng loạt những loại vũ khí này đã không
được tổ chức kịp thời và trong
thực tế, ta chỉ bắt đầu hiện
đại hóa vũ khí trước ngày chiến tranh bùng
nổ mà thôi. Thành thử, khi quân thù tấn công lãnh thổ
xô-viết, chúng ta chẳng có những thiết bị cũ
- không còn được sử dụng trong công nghiệp
quân sự -, và cũng chưa có những thiết
bị mới, khi ấy mới bắt đầu
được chế tạo trong các xưởng khí
cụ. Ðặc biệt, pháo binh của ta rất
yếu ; ta cũng chưa tổ chức sản
xuất đạn dược chống xe bọc thép.
Nhiều vùng chiến lược được phòng
thủ kiên cố, nhưng rút cục không đương
đầu nổi sức tấn công của quân thù vì
những loại vũ khí cũ đã bị loại
bỏ, nhưng vũ khí loại mới chưa
được sản xuất.
Sự kiện này, đáng
tiếc, không chỉ xảy ra với chiến xa, pháo binh và
phi cơ. Ðầu cuộc chiến, ta còn không đủ
cả súng trường để cung cấp cho số binh
lính mới được điều động. Tôi còn
nhớ trong những ngày đó, tôi đã gọi điện
thoại từ Kiép cho đồng chí Malenkốp(4) và
nói : "Nhiều chiến sĩ tình nguyện xin
nhập ngũ và họ đòi cấp súng đạn. Yêu
cầu gửi vũ khí cho chúng tôi."
Ðồng chí Malenkốp trả
lời : "Chúng tôi không thể gửi vũ khí cho
đồng chí được. Chúng tôi đã gửi tất
cả súng trường cho Lêningrát. Các đồng chí
phải tự vũ trang lấy." (Cả phòng
họp xôn xao)
Tình trạng về vũ khí
là như thế.
Liên quan đến vấn
đề này, chúng ta không nên quên sự kiện sau đây. Ít
lâu trước khi quân Hítle mở cuộc tấn công
chống Liên Xô, đồng chí Kóocpônốp - thời ấy
là Tư lệnh Quân sự Ðặc biệt Quân khu Kiép (sau này
hy sinh ở trận tuyến) - báo cáo cho Stalin biết quân
Ðức đang dừng chân ở bờ sông Bugơ và
đang chuẩn bị lực lượng, chắc
chắn chúng sẽ mở cuộc tấn công trong những
ngày gần tới. Do đó, đồng chí đề
nghị phải thiết lập một hệ thống
phòng thủ lớn, di tản khoảng 800 ngàn dân sự
khỏi các vùng giáp biên giới và xây dựng hàng loạt
những đầu mối phòng ngự bằng cách
thiết lập những công sự chống chiến xa,
những chiến hào, v. v...
Moskva trả lời rằng
những biện pháp như thế là một hành
động khiêu khích, không nên khởi sự bất kỳ
hành động phòng thủ gì dọc biên giới để
quân Ðức mượn cớ mở cuộc hành quân
chống lại ta. Do đó, các vùng biên giới của ta
không được chuẩn bị đầy đủ
để đẩy lùi cuộc tấn công của quân
địch
Khi quân đội phát-xít
thực sự xâm lấn lãnh thổ xô-viết và những
cuộc hành quân của chúng đã khởi đầu, Moskva
vẫn ra lệnh không được bắn trả
những cuộc pháo kích của quân đội Ðức.
Thử hỏi tại sao ? Vì Stalin, mặc dầu
sự việc đã rành rành, vẫn cứ tưởng
chiến tranh chưa xảy ra, tất cả những
điều này chỉ là hành động khiêu khích của vài
đơn vị binh lính vô kỷ luật trong quân
đội Ðức, đòn giáng trả của chúng ta sẽ
là cái cớ cho người Ðức làm bùng nổ cuộc
chiến.
Sự thật sau đây
cũng được nhiều người biết
đến. Ngay trước khi quân Ðức xâm chiếm
lãnh thổ Liên Xô, một công dân Ðức đã vượt
biên giới và cho biết quân Ðức được
lệnh tấn công Liên Xô vào lúc 3 giờ sáng ngày 22-6. Tin này
được thông báo ngay cho Stalin nhưng Stalin vẫn hoàn
toàn bỏ qua.
Chúng ta có thể thấy Stalin
đã khinh thường những lời nhắc nhở
của một số lãnh đạo quân sự, những
thông báo của lính Ðức đào ngũ và ngay cả
những hành động thù địch lộ liễu.
Thử hỏi đó có phải là tinh thần cảnh giác
gương mẫu của một lãnh tụ đảng và
nhà nước trong một khoảng khắc lịch sử
nghiêm trọng như thế ?
Thái độ thản nhiên,
khinh thường những sự kiện rành rành ấy
đã đem lại hậu quả ra sao ? Kết
quả là ngay trong những ngày giờ đầu cuộc
chiến, ở các vùng biên giới, kẻ thù đã phá
hủy phần lớn không quân, pháo binh và các trang bị quân
sự khác của chúng ta. Chúng đã sát hại một
phần đáng kể các cán bộ quân sự và phá hoại
Bộ Tham mưu Quân sự của ta. Tất cả
những điều này dẫn đến hậu quả là
chúng ta không ngăn nổi quân thù tiến sâu vào nội
địa đất nước.(5)
Những hậu quả
rất đáng buồn, nhất là trong giai đoạn
đầu của cuộc chiến, xảy ra do việc
Stalin - do bản tính đa nghi và dựa trên những lời
buộc tội bịa đặt - đã thủ tiêu
nhiều người trong đội ngũ cán bộ lãnh
đạo quân sự và chính trị vào thời kỳ 1937-1941.
Trong những năm đó, các cuộc đàn áp đã
triệt hạ những tầng lớp cán bộ quân
sự nhất định : hầu như từ
đại đội trưởng, tiểu đoàn
trưởng đến những lãnh đạo quân sự
cấp cao nhất. Trong thời kỳ đó, các nhà lãnh
đạo quân đội - từng kinh qua chiến trận
ở Tây Ban Nha và Viễn Ðông - đã bị thủ tiêu
gần hết.(6)
Những cuộc khủng
bố trên diện rộng lớn đối với các cán
bộ quân sự đã phá hủy kỷ luật quân sự,
vì trong mấy năm liền, người ta đã gợi ý
sĩ quan các cấp, thậm chí cả binh lính trong
đảng và trong đoàn Thanh niên cộng sản (Komsomol),
phải "vạch mặt" chỉ huy của họ
như kẻ thù giấu mặt. (Phòng họp náo
động).
Tất nhiên, chính sách này đã
làm tan vỡ kỷ luật quân đội trong giai
đoạn đầu của chiến tranh.
Và, cũng như các
đồng chí đã biết, trước chiến tranh
chúng ta có nhiều cán bộ quân sự lỗi lạc,
họ là những người trung thành tận tụy
với đảng và với Tổ quốc. Chỉ cần
nói : những người sống sót qua những vụ
tra tấn tàn bạo trong ngục tù đã tỏ ra là
những người yêu nước chân chính và đã anh
dũng chiến đấu cho vinh quang của tổ
quốc, từ những ngày đầu của chiến
tranh. Tôi muốn nói đến đồng chí Rôkôsốpsky(7)
(như các đồng chí biết, đã bị giam cầm
trong tù), đồng chí Gôrơbatốp, Marétskốp (là
đại biểu ở Ðại hội này), đồng chí
Pốtlát (một tư lệnh tuyệt vời đã
bỏ mình nơi trận tuyến) và nhiều, rất
nhiều đồng chí khác. Tuy nhiên, nhiều tướng
lĩnh chỉ huy đã bị thiệt mạng trong các
trại lao động khổ sai hoặc trong nhà tù, và quân
đội ta không bao giờ gặp lại họ nữa.
Tình trạng ấy đã
diễn ra vào đầu cuộc chiến và tạo nên
mối hiểm họa lớn cho tổ quốc chúng ta.
Chúng ta không nên quên rằng sau
những thất bại và những tổn thất khốc
hại đầu tiên ở chiến trường, Stalin
đã mất lòng tin và tưởng rằng nước ta
đã lâm vào đường cùng.(8) Trong một bài diễn
văn hồi đó, Stalin tuyên bố : "Chúng ta đã
đánh mất vĩnh viễn tất cả những gì
Lênin tạo ra".
Sau đó, trong một thời
gian dài, trong thực tế Stalin không điều khiển
các cuộc hành quân, nói chung đồng chí ấy không làm gì
cả. Stalin chỉ nắm lại quyền chỉ huy quân
sự sau khi một số ủy viên Bộ Chính trị
tới gặp đồng chí ấy yêu cầu thi hành
cấp tốc một số biện pháp để cải
thiện tình hình ngoài trận tuyến. Như thế,
mối nguy hiểm khôn lường đe dọa tổ
quốc chúng ta trong thời kỳ đầu chiến tranh,
phần lớn bởi Stalin đã thực hiện những
phương pháp sai lầm trong việc lãnh đạo
đảng và nhà nước.
Cố nhiên, chúng ta không
thể chỉ nói đến những hoàn cảnh khi
cuộc chiến tranh mới nổ ra, đã phá hủy
trầm trọng quân đội và gây ra nhiều thiệt hại
nặng nề cho chúng ta. Về sau này, sự mất bình
tĩnh và chuyện Stalin can thiệp loạn xạ vào công
việc chỉ đạo quân sự cũng làm quân
đội ta bị thiệt hại nhiều.
Stalin hoàn toàn không hiểu
những sự kiện diễn ra ở trận tuyến.
Và cũng không thể ngạc nhiên về điều này,
nếu chúng ta để ý là trong suốt thời kỳ
chiến tranh vệ quốc, Stalin không hề đi kinh lý
một trận tuyến nào, hay một thành phố nào
vừa được giải phóng, ngoại trừ
một cuộc thăm viếng đoạn
đường ngắn trên quốc lộ Môgiaisk, khi tình
thế đã ổn định trên trận tuyến.
Nhiều tác phẩm văn học đã đề cập
kỹ lưỡng về chuyến đi này, thêm thắt
mọi thứ chuyện bịa đặt ; đây
cũng là đề tài cho lắm tác phẩm nghệ
thuật tạo hình.
Cùng lúc đó, Stalin can
thiệp vào việc thực hiện những cuộc hành
quân, đưa ra các mệnh lệnh không căn cứ vào
tình hình thực tế của trận tuyến, đem
lại rất nhiều tổn thất có thể tránh
khỏi cho quân đội ta.
Liên quan đến vấn
đề này, tôi xin kể một trường hợp
điển hình, chứng tỏ Stalin đã điều
khiển những cuộc hành quân ngoài trận tuyến
như thế nào. Tham dự Ðại hội hôm nay có nguyên
soái Bagramian(9), chỉ huy các cuộc hành quân ở
Tổng hành dinh mặt trận phía Tây Nam, và đồng chí
có thể chứng thực những điều tôi sẽ
nói sau đây.
Năm 1942, khi tình hình trở
nên đặc biệt nghiêm trọng cho quân đội ta
ở vùng Kháckốp, chúng tôi đã có quyết định
đúng đắn : ngừng cuộc hành quân nhằm bao
vây Kháckốp, tình thế thực tế hồi đó cho
thấy tiếp tục chiến sự có thể gây tai
hại thảm khốc cho quân đội ta. Chúng tôi
đề xuất ý kiến này với Stalin, lập
luận rằng tình hình hiện tại đòi hỏi
phải xét lại kế hoạch hành quân, chớ
để quân thù có khả năng phá hoại các cứ
điểm quân đội của ta.
Trái với lý trí thông
thường, Stalin bác bỏ đề nghị của chúng
tôi và ra lệnh tiếp tục cuộc hành quân bao vây
Kháckốp, mặc dầu lúc đó nhiều nơi tập
trung quân đội ta đang bị đe dọa bao vây và
tiêu diệt.
Tôi gọi điện
thoại và đề nghị với đồng chí
Vassilépsky(10) như sau : "Alếchsanđrơ
Mikhailôvích (đồng chí Vassilépsky có mặt trong phòng
họp này), đồng chí hãy cầm lấy bản
đồ và chỉ cho đồng chí Stalin biết thực
trạng tình hình."
Tôi lưu ý là Stalin bày kế
hoạch hành binh trên bề mặt một quả
địa cầu dùng cho học trò. (Phòng họp xôn xao)
Ðúng như vậy các
đồng chí ạ, Stalin kiếm một quả
địa cầu dùng cho học trò thông thường và theo
dõi tình hình các mặt trận trên đó. Tôi nói với
đồng chí Vassilépsky : "Ðồng chí hãy chỉ
tình hình cho đồng chí Stalin trên một chiếc bản
đồ ; trong điều kiện hiện nay chúng ta
không thể tiếp tục cuộc hành quân như dự
định. Phải thay đổi quyết định
cũ cho hợp với thời cuộc."
Vassilépsky trả lời
vấn đề này đã được Stalin nghiên
cứu và đồng chí không muốn thảo luận
với Stalin nữa vì Stalin không muốn bàn cãi thêm nữa.
Sau khi nói chuyện với
Vassilépsky, tôi gọi điện về nhà nghỉ Stalin.
Nhưng Stalin không trả lời. Malenkốp đến
nhấc điện thoại. Tôi nói với đồng chí
Malenkốp là tôi gọi điện từ mặt trận
và muốn nói chuyện trực tiếp với Stalin. Qua
Malenkốp, Stalin bảo tôi hãy bàn bạc với với
đồng chí Malenkốp. Lần thứ hai, tôi nhấn
mạnh là tôi muốn báo cáo trực tiếp với Stalin
về tình hình nguy cấp của chúng tôi ở mặt
trận. Nhưng Stalin cho rằng không cần cầm
lấy ống nghe và một lần nữa, Stalin cho
biết tôi phải nói chuyện với đồng chí
ấy thông qua Malenkốp, mặc dầu lúc đó Stalin
chỉ đứng cách điện thoại có vài
bước.
Sau khi đã "lắng
nghe" đề nghị của tôi bằng cách ấy,
Stalin trả lời : "Cứ để nguyên
mọi thứ như cũ".
Và kết quả ra sao ?
Ðúng như chúng tôi dự tính. Quân Ðức đã bao vây các khu
tập trung quân đội ta và chúng ta đã bị thiệt
hại hàng trăm hàng ngàn quân lính. Thế đấy,
một thí dụ về "thiên tài" quân sự của
Stalin và nó đã mang lại hậu quả cho chúng ta như
thế nào ! (Cả phòng họp xôn xao)
Sau chiến tranh, một
bận Stalin gặp gỡ các ủy viên Bộ Chính trị,
Anastasi Ivanôvích Mikôian(11) có nhắc đến chuyện
Khrushốp đã có lý khi đồng chí ấy gọi
điện báo cáo về vấn đề hành quân vùng
Kháckốp, và thật đáng tiếc ý kiến của
Khrushốp đã không được chấp thuận.
Các đồng chí hãy
tưởng tượng Stalin nổi khùng như thế
nào ! Làm sao có thể giả thiết là Stalin không có
lý ? Bởi Stalin là một "thiên tài", mà một
"thiên tài" luôn luôn phải có lý ! Bất kỳ ai
đều có thể sai lầm, nhưng Stalin tự cho mình
không bao giờ sai lầm, đồng chí ấy luôn luôn có
lý. Stalin không bao giờ nhận mình sai, sai lớn hoặc
sai nhỏ, mặc dầu đồng chí ấy đã
mắc nhiều sai lầm cả trong những vấn
đề lý thuyết cũng như về mặt thực
hành. Sau khi Ðại hội bế mạc, chắc chắn
chúng ta cần khảo sát lại nhiều cuộc hành quân và
trình bày nó dưới ánh sáng thích hợp.
Các sách lược dính líu
đến Stalin, người vốn không hề để
tâm đến những điều căn bản của
nghệ thuật lãnh đạo quân sự, đã làm chúng ta
hao tổn nhiều xương máu, cho đến lúc chúng ta
ngăn chặn được quân thù và chuyển sang
phản công.
Các nhà quân sự đều
biết ngay từ cuối năm 1941, đáng lý phải
đẩy mạnh cuộc tổng hành quân đánh chặn
ngang quân địch để tiến vào hậu tuyến
của chúng, Stalin lại ra lệnh đánh trực diện
để chiếm từ vùng này sang vùng nọ. Chiến
thuật này gây cho chúng ta nhiều tổn hại nặng
nề, cho đến khi các đại tướng của
ta - hai vai mang mọi gánh nặng của chiến tranh -
đã biến đổi tình hình và chuyển sang những
cuộc hành quân mềm dẻo hơn, mang lại những
thay đổi lớn tức thì, có lợi cho chúng ta.
Bởi vậy, thật là
nhục nhã khi sau những chiến thắng lớn,
phải trả bằng giá rất đắt, Stalin lại đặt
dấu hỏi về công trạng của nhiều nhà
chỉ huy quân sự, những người đã có công
đánh bại quân thù ; đồng chí ấy không
thể nào coi những công lao ở mặt trận lại
lại có thể do người khác làm nên.
Stalin rất muốn biết
sự đánh giá của mọi người về
đồng chí Giukốp(12), nhà lãnh đạo quân
sự của ta. Nhiều lần đồng chí ấy
hỏi ý kiến tôi về đồng chí Giukốp. Khi
ấy tôi đáp : "Tôi biết Giukốp từ lâu.
Ðồng chí là một vị tướng có tài năng và
một lãnh đạo quân sự giỏi."
Sau chiến tranh, Stalin bắt
đầu gieo rắc nhiều tiếng xấu về
Giukốp, chẳng hạn : "Ðồng chí đã khen
ngợi Giukốp, nhưng đồng chí ấy có gì
đáng được khen ngợi đâu. Người ta
kể, trước mỗi cuộc hành quân, đồng chí
ấy vớ một nắm đất, đưa lên
mũi ngửi rồi nói : "Chúng ta có thể tấn
công" hoặc ngược lại : "Chưa thể
thực hiện kế hoạch dự định !"
Hồi đó, tôi đã
trả lời Stalin như sau : "Thưa
đồng chí Stalin, tôi không biết ai đã bịa
đặt điều đó, nhưng không phải là như
thế."
Có thể chính Stalin đã
bịa đặt ra những chuyện kiểu ấy
để hạ thấp vai trò và tài năng quân sự
của nguyên soái Giukốp.
Cùng lúc đó, Stalin rất
sốt sắng tự tỏ ra mình là một tướng
lĩnh giỏi ; bằng những phương cách khác
nhau, Stalin đã gieo rắc trong đầu óc quần chúng ý
nghĩ rằng mọi chiến thắng của đất
nước Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc
vĩ đại đều do lòng quả cảm, sự can
đảm và thiên tài lỗi lạc của Stalin. Chẳng
khác anh chàng Kryuchkốp(13) huyền thoại, chém
một nhát kiếm chết bảy kẻ địch. (Phòng
họp xôn xao)
Cũng trong phạm vi vấn
đề này, chúng ta thử xem các phim ảnh lịch
sử và quân sự và một vài tác phẩm văn học
của chúng ta. Thật là chán ngấy : mục đích
thực sự của chúng là tụng ca thiên tài quân sự
của Stalin. Chúng ta hãy thử nhớ lại cuốn phim Berlin
thất thủ(14). Trong đó, Stalin là nhân vật duy
nhất hành động ; đồng chí ấy ra lệnh
trong một gian phòng có nhiều ghế bỏ trống,
chỉ có một người đến gần Stalin và báo
cáo gì đó. Người đó là Pôskrêbưshép(15),
kẻ hầu cận trung thành của Stalin. (Tiếng
cười trong phòng họp)
Còn ban chỉ đạo quân
sự ở đâu ? Bộ Chính trị ở
đâu ? Chính phủ ở đâu ? Họ làm gì và
đang bận việc gì ? Cuốn phim không đả
động tới. Stalin đã hành động thay tất
cả mọi người, chẳng quan tâm đến ai,
chẳng hỏi ý kiến ai. Trong cuốn phim này, mọi
việc đã bị bịa đặt trước mắt
nhân dân. Vì sao ư ? Bởi, không thèm để tâm
đến thực tế và sự thật lịch sử,
người ta muốn trình bày Stalin trong vầng hào quang.
Một câu hỏi
được đặt ra : những người lính
vác trên hai vai mọi gánh nặng chiến tranh ở
đâu ? Họ hoàn toàn vắng mặt trong cuốn phim ;
Stalin không chừa cho họ một chỗ đứng nào.
Trong cuộc chiến tranh
cứu nước vĩ đại, chiến thắng không
phải là sản phẩm của Stalin, nó thuộc về
toàn đảng, toàn chính phủ Liên Xô, thuộc về quân
đội anh hùng, những tướng lĩnh tài ba và
những người lính quả cảm, thuộc về
toàn thể nhân dân Liên Xô. (Vỗ tay kéo dài)
Các ủy viên Ban chấp hành
trung ương, các Dân ủy, các nhà lãnh đạo kinh
tế, các đại diện xuất sắc của
nền văn hóa xô-viết, những người đứng
đầu tổ chức đảng và xô-viết
địa phương, các kỹ sư và các chuyên viên -
mỗi người trên cương vị của mình,
đã mang hết sức lực và khả năng của
mình để làm nên chiến thắng.
Hạt nhân của xã hội
chúng ta đã tỏ ra anh dũng khác thường : giai
cấp công nhân vinh quang, nông dân tập thể, giới trí
thức Liên Xô - dưới sự lãnh đạo các tổ
chức của đảng - đã vượt qua những
khó khăn khôn lường của thời chiến và đã
mang hết sức bình sinh bảo vệ tổ quốc.
Những phụ nữ
xô-viết - nhận về mình gánh nặng của công tác
sản xuất trong các nhà máy, các nông trang và các ngành kinh
tế và văn hóa - cũng đã làm nên những chiến
công hiển hách và vẻ vang. Nhiều phụ nữ đã
tham gia trực tiếp vào cuộc chiến đấu
ở tiền tuyến. Giới thanh niên chúng ta cũng đóng
góp vô biên ngoài mặt trận cũng như ở hậu
phương, trong công cuộc bảo vệ đất
nước xô-viết và dẹp tan quân thù.
Những người lính
xô-viết, những tướng lãnh và các chiến sĩ
chính trị ở mọi cấp đã có những công lao
bất diệt. Sau các thiệt hại đáng kể
của quân đội ta trong những tháng đầu
của cuộc chiến, họ vẫn bình tĩnh chỉnh
đốn hàng ngũ trong quá trình chiến đấu,
họ đã tạo ra và củng cố trong thời
chiến một đạo quân hùng mạnh và chiến
đấu anh dũng, chẳng những đã đẩy
lùi kẻ thù hùng mạnh và xảo quyệt mà còn đập
tan bọn chúng.
Những chiến tích
tuyệt vời của hàng trăm triệu dân chúng ở
miền Ðông và miền Tây trong cuộc đấu tranh
chống họa nô lệ phát-xít sẽ còn sống mãi trong ký
ức của nhân loại biết ơn, hàng thế kỷ,
hàng thiên niên kỷ sau này. (Vỗ tay kéo dài)
Vai trò và công trạng chính
của chiến thắng vĩ đại này thuộc
về đảng cộng sản ta, thuộc về các
lực lượng vũ trang xô-viết, thuộc về
hàng chục triệu nhân dân Liên Xô do đảng đào
tạo.
(1) Sau Thế chiến thứ hai,
tất cả những văn kiện của đảng
cộng sản Liên Xô (và các đảng cộng sản khác
trên thế giới) đều đề cao "thiên tài
quân sự lỗi lạc" của Stalin và coi Stalin là người
độc nhất đã sáng lập ra Hồng quân
xô-viết trong cuộc cách mạng tháng Mười năm
1917. (Sự thật, người sáng lập Hồng quân là
Lép Trốtsky)
Nguyên soái Bunganin
viết trong cuốn sách Stalin và lực lượng
vũ trang xô-viết :
Stalin là
người sáng lập quân đội Liên Xô và đồng
chí là một nhà quân sự đại tài của thời
đại này. Tất cả những cuộc hành quân trong
cuộc chiến tranh vệ quốc đều do
đồng chí Stalin định đoạt và đều
được thực hiện dưới sự chỉ
huy của đồng chí.
Malenkốp
viết trong tờ Prápđa số ra ngày 21-12-1949 :
Trong cuộc
Ðại chiến thế giới thứ hai, khi quân
đội phát-xít tràn ngập và bao trùm các nước trong
vòng đen tối, đe dọa nền văn minh nhân
loại, đồng chí Stalin, đứng đầu Liên Xô,
đã đứng ra chỉ huy sự nghiệp dẹp tan
bọn Hítle hung hãn. Ðồng chí đã đem lại thắng
lợi cho các dân tộc yêu chuộng hòa bình. Ðồng chí là
một đại tướng tài giỏi, đã cứu
thoát nhân loại khỏi gông cùm phát-xít.
Những tuyên
truyền bịa đặt khổng lồ này, chẳng
những gây ấn tượng trong đầu óc những
người cộng sản mà còn gieo rắc ảnh
hưởng ngay trong giới trí thức thật tâm và
nhiều sử gia đứng đắn trên thế
giới. Ai ai cũng tin Stalin là một "nhà quân sự
đại tài". Riêng có Lép Trốtsky đã vạch rõ
sự thật trong những cuốn Stalin hay Ðời
tôi.
(2) Nội dung bức thư
của Sớcsin như sau :
Tôi nhận
được tin chắc chắn quân đội Ðức
sẽ xâm chiếm Nam Tư sau ngày 20-3 và sau đó, họ
vận dụng ba trong năm sư đoàn chiến xa
từ Roumanie tiến qua miền Nam Ba Lan. Khi
được tin cuộc cách mạng Nam Tư bùng nổ,
họ tạm hoãn và cho lùi thời điểm nói trên. Tôi
mong ngải sẽ nhận thức rõ ý nghĩa của
sự kiện này.
(3) Stalin tin ở Hiệp
ước không xâm phạm lẫn nhau đã ký năm 1939
với Hítle. Vì vậy, Stalin đã chia Ba Lan với Hítle và
để Hítle rảnh tay về phương Tây. Dân ủy
Ngoại giao Liên Xô Môlôtốp từng công khai chào mừng
những chiến thắng của Hítle ở Pháp. Dựa vào
Hiệp ước kể trên, Stalin đem quân tràn vào
Phần Lan, chiếm cứ ba nước Bantơ và
chiếm miền Bétsarabi của Rumani. Ông ta không ngờ
nước Ðức lại trở mặt và cũng không tính
chuyện có thể hợp tác với các nước
phương Tây để chống lại Hítle. (Xin xem
cuốn Chủ nghĩa Stalin của sử gia Liên Xô R.
Métvêđép do Nhà xuất bản Le Seuil ở Paris
dịch và phát hành năm 1972)
(4) G.M. Malenkốp
(1902-1988) : bí thư Ban chấp hành Trung ương
năm 1937, chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng Liên Xô thời kỳ 1953-1955, ủy viên Bộ
Chính trị đến năm 1957, cộng sự thân tín
của Stalin.
(5) Khrushốp cải chính
huyền thoại cho rằng Stalin đã dùng chiến
thuật chống Napôlêông của nguyên soái Kutudốp
thời trước : nhử quân thù tiến sâu vào
nội địa rồi để chúng bị sa lầy
trên trận địa. Sự thật, vì Liên Xô không
chuẩn bị mà quân đội Ðức đã tiến sâu
vào lãnh thổ xô-viết một cách dễ dàng, gây nhiều
tổn thất (không cần thiết và lẽ ra có thể
tránh khỏi) cho nhân dân và Hồng quân.
(6) Khrushốp công nhận
những cuộc khủng bố xta-lin-nít không đem
lại sự củng cố chế độ như
nhiều người lầm tưởng. Sự thật, nó
đã dẫn tới kết quả tệ hại là gây hoang
mang và làm mất lòng tin trong quân đội. Nhưng
Khrushốp không nói hết tên những sĩ quan cao cấp
đã bị triệt hạ : các nguyên soái Tukhachépsky,
Bliukhe, Êgôrốp ; các đại tướng Ansơnít,
Biêlốp, Kachirin, Korơkơ, Ubôrêvích, Âydêman, Phenman,
Primakốp, Pútna ; các thủy sư đô đốc
Ôrơlốp, Víchtôrốp, Sípkốp, v.v... Trong năm 1938,
những cuộc thanh trừng đã thủ tiêu tất
cả 80 thành viên Hội đồng Quân sự (thành lập
năm 1934) và nhiều tướng tá khác. Người ta
ước tính có tới 30.000 thượng và hạ sĩ
quan bị xử bắn.
(7) Nguyên soái Kônstantin K.
Rôkôsốpsky bị bắt năm 1937 ở Lêningrát, bị
tra tấn và cầm tù tới năm 1941 mới
được thả. Năm 1956 được cử làm
bộ trưởng Bộ Quốc phòng ở Ba Lan. Trong giai
đoạn "tẩy trừ", nhiều đại
tướng khác như Alếchsanđrơ V. Góocbatốp
nhiều nguyên soái khác như Cyrin A. Mêrétskốp cũng
ở trường hợp như Rôkôsốpsky.
(8) Khrushốp cải chính
huyền thoại cho rằng Stalin cũng quyết tâm
đấu tranh đến cùng và do đó, đã củng
cố được tinh thần quân đội và nhân dân.
Huyền thoại này cũng đã được chính con
gái Stalin cải chính. Sau này, để không ai biết
đến việc mình mất lòng tin, Stalin đã tìm cách thủ
tiêu tất cả những nhân chứng từng chứng
kiến sự thật ngày đó.
(9) Ivan K. Bagramian : đảng
viên từ năm 1938, nguyên soái Hồng quân năm 1955,
thứ trưởng Bộ Quốc phòng năm 1956.
(10) Alếchsanđrơ
Vassilépsky : đảng viên từ năm 1938, nguyên soái
Hồng quân năm 1943, ủy viên Ban chấp hành Trung
ương năm 1952.
(11) Anastasi I. Mikôian (1895-1978) :
nhập đảng năm 1915, thành viên Ban chấp hành Trung
ương từ năm 1923, ủy viên Bộ Chính trị
thời kỳ 1935-1966, phó chủ tịch thứ nhất
Hội đồng Bộ trưởng từ năm 1955,
chủ tịch nước thời kỳ 1964-1965. Bạn
thân của Khrushốp.
(12) Ghêorghi Giukốp (1896-1974) :
nguyên soái Hồng quân năm 1943, thứ trưởng Bộ
Quốc phòng năm 1955, ủy viên Bộ Chính trị tháng
6-1957. Bị truất bỏ hết mọi chức vụ
tháng 10-1957.
(13) Kudơma Ktiútchkốp :
kỵ binh ở vùng sông Ðông, tham gia du kích chống Ðức
trong Thế chiến thứ nhất (1914). Ðược báo
chí đề cao như một vị anh hùng cứu nước.
Sau này, tên tuổi Ktiútchkốp tượng trưng cho
chủ nghĩa sô-vanh.
(14) Bộ phim Berlin thất
thủ của đạo diễn Mikhain Chiaureli, quay
năm 1949. Nguyên soái Giukốp - người lãnh đạo
Hồng quân chinh phục Berlin - chỉ xuất hiện vài
phút để nhận mệnh lệnh của Stalin. Sau Ðại
hội lần thứ XX, cuốn phim này bị thu hồi.
(15) Alếchsanđrơ N.
Pốtskrêbưshép : đảng viên từ năm 1917,
ủy viên Ban chấp hành Trung ương, bí thư
đặc biệt của Stalin.
Ðoạn
9 : Diệt chủng và khủng bố
(LÊN MẠNG THỨ HAI 18 THÁNG SÁU 2001) |
Thưa các đồng chí,
Bây giờ tôi xin
được đề cập đến vài sự
việc khác. Liên bang xô-viết đã được đánh
giá là tấm gương một quốc gia gồm nhiều
dân tộc vì trong thực tế, chúng ta đã đảm
bảo quyền bình đẳng và tình đoàn kết
giữa tất cả các dân tộc sống chung trên tổ
quốc rộng lớn của chúng ta.
Như thế, ta càng thấy
những hành động do Stalin đề xướng -
đã vi phạm trắng trợn những nguyên tắc
lê-nin-nít căn bản về chính sách cùng chung sống
giữa các dân tộc của nhà nước Liên Xô - mới
kinh khủng biết nhường nào ! Chúng tôi muốn
nói đến việc đày ải hàng loạt các dân
tộc khỏi mảnh đất quê hương của
họ, trong số đó có cả những người
cộng sản, những đoàn viên Komsomol, không loại
trừ một ai ; không một quan điểm quân
sự nào có thể biện minh cho sự đày ải đó.
Chẳng hạn, cuối
năm 1943, khi những cuộc tấn công liên tục trên
các trận tuyến của cuộc chiến tranh vệ
quốc vĩ đại đã quyết định kết
thúc cuộc chiến, một nghị quyết
được đưa ra nhằm đày ải dân
tộc Karachai(1) khỏi những mảnh đất họ
đang cư trú. Quyết định này đã
được thực hiện.
Cũng vào thời kỳ
đó, khoảng cuối tháng 12-1943, tất cả dân chúng
nước Cộng hòa Tự trị Kanmức(2) cũng
chịu chung một số phận. Tháng 3-1944, tất
cả dân tộc Chêchen và Ingushơ(3) bị xua đuổi,
còn nước Cộng hòa Tự trị Chêchen-Ingushơ
bị giải tán.
Tháng 4-1944, tất cả dân
Bankarơ bị đuổi khỏi lãnh thổ nước
Cộng hòa Tự trị Kabácđô-Bankarơ đến các
vùng khác, bản thân nước cộng hòa này bị
đổi tên thành Cộng hòa Tự trị Kabácđô.
Dân tộc Ukraina chỉ thoát
được số phận trên bởi họ quá đông
và không biết đưa họ đi đâu. Nếu không
thì họ cũng bị đày ải rồi. (Tiếng
cười và náo động trong phòng)
Không chỉ người mác-xít
- lê-nin-nít mà ai ai có chút suy nghĩ cũng không hiểu
nổi tại sao có thể buộc tội phản bội
cho cả một dân tộc, kể cả phụ nữ,
trẻ nhỏ, người già, người cộng
sản, đoàn viên Komsomol, v.v... ; làm sao có thể áp
dụng các biện pháp khủng bố trả đũa
đối với cả một dân tộc - khiến
họ phải đau khổ và chịu đựng - vì
những hành vi của một số người hay một
số tập đoàn chống lại ta.(4)
Sau cuộc chiến tranh
cứu quốc, đất nước ta đã tự hào
nhớ lại những chiến thắng vẻ vang,
đạt được nhờ sự hy sinh vô bờ
bến và những cố gắng vĩ đại của
toàn dân. Cả nước như sống trong một cơn
sảng khoái chính trị. Ðảng ta sau chiến tranh lại
càng gắn bó hơn trước. Trong lửa đạn
chiến tranh, đội ngũ cán bộ đảng đã
được tôi luyện và vững mạnh. Trong
những điều kiện đó, không ai trong đảng
có thể nghĩ tới khả năng một âm mưu gì.
Và chính trong thời kỳ này,
cái gọi là "vụ án Lêningrát" đã nảy ra. Ngày
nay chúng ta đã chứng tỏ được đây
chỉ là một vụ ngụy tạo. Trong số các
đồng chí bị sát hại hoàn toàn oan uổng, có
Vôdơnêsensky, Kudơnétsốp, Rôđiônốp,
Pốpkốp(5) và nhiều người khác.
Như chúng ta đã biết,
đồng chí Vôdơnêsensky và Kudơnétsốp là những
lãnh đạo tài ba và xuất sắc. Họ đã có lúc
rất gần gũi Stalin. Chỉ cần nhắc
đến việc Stalin đã giao phó trọng trách Phó
chủ tịch thứ nhất Hội đồng Chính
phủ cho đồng chí Vôdơnêsensky và đồng chí
Kudơnétsốp đã được bầu làm bí thư
Ban chấp hành trung ương đảng. Ngay việc
Stalin ủy nhiệm Kudơnétsốp lãnh đạo các
tổ chức an ninh nhà nước(6) cũng chứng
tỏ Kudơnétsốp được tin cẩn
đến mức nào.
Làm sao có thể xảy ra
chuyện những người này bị tố cáo là
"kẻ thù của nhân dân" và bị thủ tiêu ?
Những sự kiện xảy ra đã chứng minh "vụ
án Lêningrát" là một biểu hiện của sự
độc đoán sta-lin-nít đối với các cán bộ
đảng.
Nếu hồi đó, trong Ban
chấp hành trung ương và Bộ Chính trị tình hình
diễn ra bình thường thì những việc như
thế đã được bàn bạc theo cách làm thực
tiễn của đảng và những sự việc liên
quan đến nó đã được cân nhắc. Như
thế, vụ việc này - cũng như các vụ
tương tự - đã không thể nào xảy ra
được.
Tôi cần phải nói rằng
sau chiến tranh, tình hình ngày càng phức tạp. Stalin ngày
càng thất thường hơn, nóng nảy hơn và hung hãn
hơn ; đặc biệt là tính đa nghi ngày càng
tăng lên. Căn bệnh săn đuổi cuồng
bạo của đồng chí ấy đã đạt
tới mức độ không thể tưởng
tượng được. Trước mắt Stalin,
nhiều cộng sự đã trở thành kẻ thù. Sau
chiến tranh, Stalin ngày càng tách rời tập thể. Stalin
một mình định đoạt mọi việc, không
để ý đến một ai hoặc một sự
kiện nào cả.
Tính đa nghi không thể
tưởng tượng nổi này của Stalin
được một tên khiêu khích hạ đẳng và
đê tiện là Bêrya lạm dụng một cách rất khôn
khéo. Y đã sát hại hàng ngàn người cộng sản
và thường dân xô-viết trung thành. Sự thăng
chức nhanh chóng của Vôdơnêsensky và Kudơnétsốp
khiến Bêrya lo ngại. Cũng như hiện nay, ta đã
có bằng chứng Bêrya là người đã "xung
phong" phục vụ Stalin về việc y và các
đồng sự đã bày đặt một tài liệu
dưới hình thức những lời tuyên bố,
những thư nặc danh cùng mọi thứ đồn
đại và đơm đặt khác.(7)
Ban chấp hành trung
ương đảng đã xem xét lại vụ án giả
mạo mà người ta gọi là "vụ án
Lêningrát" ; những người vô tội bị hành
hạ đã được minh oan và danh dự vẻ vang
của tổ chức đảng vùng Lêningrát
được phục hồi. Những kẻ bày
đặt vụ án này như Abakumốp(8) và bè lũ
bị đưa ra tòa án ; chúng bị xét xử ở
Lêningrát và đã đền tội một cách đích
đáng.
Có người đặt câu
hỏi : tại sao đến giờ chúng ta mới
thấy rõ cốt lõi của vụ này, tại sao
trước kia - lúc sanh thời Stalin - chúng ta không làm gì để
ngăn cản việc những người vô tội
bị giết hại ? Bởi Stalin đã đích thân
để tâm đến "vụ án Lêningrát" và đa
số ủy viên Bộ Chính trị hồi đó đã không
biết mọi chi tiết của vụ này, vì vậy
họ không thể can thiệp.
Khi Stalin nhận
được những tài liệu do Bêrya và Abakumốp
chuyển đến, đồng chí ấy không hề xem
xét những lời vu khống mà lập tức hạ
lệnh chấm dứt mọi điều tra về
"vụ việc" của Vôdơnêsensky và
Kudơnétsốp. Ðiều này định đoạt số
phận của họ.
Trên phương diện này,
vụ án tổ chức quốc gia Mingrêlia - dường
như hoạt động ở vùng Grudya - cũng rất
có tính tiêu biểu. Như chúng ta biết, những nghị
quyết về vụ này đã được Ban chấp
hành trung ương đảng cộng sản Liên Xô thông
qua hồi tháng 11-1951 và tháng 3-1952, nhưng không hề
được thảo luận trước ở Bộ
Chính trị. Stalin đã đích thân đọc chúng cho
người ta viết, và những nghị quyết ấy
đã kết án rất nặng nề nhiều người
cộng sản nhiệt huyết. Theo những tài liệu
được đưa ra, người ta bảo rằng
ở Grudya có một tổ chức quốc gia đặt
mục đích thủ tiêu chính quyền xô-viết với
sự viện trợ của các siêu cường đế
quốc.
Dựa vào đó, hàng loạt
cán bộ lãnh đạo đảng và xô-viết đã
bị bắt giam. Sau này, chúng ta có những bằng cớ
chứng tỏ đây chỉ là chuyện vu khống
nhằm chống lại tổ chức đảng ở
Grudya.
Chúng ta biết ở Grudya
cũng như tại nhiều vùng khác, thỉnh thoảng
chủ nghĩa quốc gia tư sản mang tính địa
phương lại bùng lên. Một câu hỏi
được đề ra : thử hỏi ở vào
thời kỳ những nghị quyết nói trên
được thông qua, những xu hướng quốc gia
có đến mức khiến việc Grudya tách rời
khỏi Liên bang Xô Viết và sát nhập với Thổ
Nhĩ Kỳ trở thành một mối họa thực sự
hay không ? (Tiếng ồn ào và tiếng cười trong
phòng họp )
Dĩ nhiên, tất cả
những điều ấy chỉ là nhảm nhí. Hoàn toàn
loại trừ khả năng có người nào đó
nghĩ đến một chuyện như thế. Ai cũng
biết vùng Grudya đã phát triển như thế nào trên
địa hạt kinh tế và văn hóa dưới sự
chế độ xô-viết. Sản lượng công
nghiệp của Cộng hòa Grudya đã tăng gấp 27
lần so với thời kỳ trước cách mạng.
Nhiều ngành công nghiệp mới - trước đây không
có ở Grudya - đã xuất hiện : công nghiệp gang
thép, công nghiệp dầu lửa, chế tạo cơ khí,
v.v... Nạn mù chữ, trước cách mạng chiếm
tỷ lệ 78% dân chúng Grudya, đã được thanh toán
từ lâu.
Khó có thể tưởng
tượng được dân Grudya lại đi phấn
đấu để sát nhập với Thổ Nhĩ
Kỳ, trong khi so sánh hoàn cảnh của họ với tình
cảnh nặng nề của quần chúng lao động
Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 1955, tính theo đầu
người, Grudya sản xuất thép gấp 18 lần
Thổ Nhĩ Kỳ. Về điện lực, Grudya
sản xuất gấp chín lần Thổ Nhĩ Kỳ,
cũng tính theo đầu người. Theo kê khai dân số
năm 1950, 65% dân số Thổ Nhĩ Kỳ mù chữ ;
tỉ lệ này lên đến 80% ở phụ nữ.
Nước Grudya có 19 trường đại học và cao
đẳng với 39 ngàn sinh viên, nghĩa là nhiều
gấp tám lần Thổ Nhĩ Kỳ (tính theo một ngàn
nhân khẩu). Ðời sống sung túc của công nhân
nước Grudya được nâng cao chưa từng thấy
dưới chế độ xô-viết.
Hiển nhiên là khi nền kinh
tế và văn hóa - cũng như nhận thức chủ
nghĩa xã hội của quần chúng lao động - phát
triển ở nước Grudya, nguồn suối nuôi
dưỡng động lực của chủ nghĩa
quốc gia tư sản càng bị cạn kiệt.
Những biến cố
xảy ra sau đó chứng tỏ không có một tổ
chức quốc gia nào ở Grudya cả. Hàng ngàn
người vô tội đã trở thành nạn nhân của
chính sách độc đoán và vô luật pháp. Và tất
cả những điều này đã xảy ra dưới
sự lãnh đạo "thiên tài" của Stalin,
"người con vĩ đại của dân tộc
Grudya", như dân chúng Grudya vẫn thích gọi Stalin
như thế. (Phòng họp náo động)
(1) Người
Karachai xuất xứ từ một dân tộc thiểu
số Thổ Nhĩ Kỳ ở miền Tây Kápkadơ,
bị Nga chiếm vào thế kỷ 19. Dân tộc này có
chừng 75.000 người. Phần lớn đất
đai của họ bị sát nhập vào nước Grudya.
(2) Dân tộc
Kanmức sống ở vùng thảo nguyên phía Tây cửa sông
Vônga, tiếng nói của họ thuộc hệ Mông Cổ.
(3) Chêchen và
Ingushơ là hai dân tộc sống ở phía Bắc
sườn núi Kápkadơ, có tiếng nói thuộc hệ ngôn
ngữ Kápkadơ.
(4) Người
phụ trách việc đày ải các dân tộc này là Bêrya.
Sau khi chiếm được vùng Kápkadơ, phát-xít Ðức
hứa sẽ mang lại nền độc lập cho
người Chêchen,Ingushơ, Banka và Kanmức ; vì
vậy, một số người thuộc các dân tộc
này theo quân Ðức. Dựa vào cớ đó, Stalin đã
thực hiện những vụ đày ải đại quy
mô và đẫm máu đối với các dân tộc nói trên.
(5) Nikôlai
Vôdơnêsensky (1903-1950) : viện sĩ, ủy viên Ban
chấp hành Trung ương năm 1939, chủ tịch
Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, ủy viên Bộ
Chính trị năm 1947, phó chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng.
Alếchxây Kudơnétxốp : bí thư thành ủy Lêningrát năm 1945, bí thư Ban chấp hành Trung ương và ủy viên phụ trách Ban tổ chức Trung ương năm 1946.
Mikhain Rôđinốp : thủ tướng Cộng hòa Liên Xô, ủy viên phụ trách Ban tổ chức Trung ương năm 1946.
Piốt Pốpkốp : ủy viên Ban chấp hành Trung ương năm 1939, bí thư thứ nhất thành ủy Lêningrát năm 1949.
(6)
Kudơnétxốp lãnh đạo hai cơ quan an ninh :
Bộ An ninh Quốc gia và Bộ Nội vụ.
(7) Ðổ cho Bêrya
và Abakumốp mọi tội lỗi trong "vụ án
Lêningrát" là một quan điểm thường thấy
ở Liên Xô ngày xưa. Kỳ thực, Stalin chỉ
đạo trực tiếp vụ này, vì ông ta lo ngại
Vôdơnêsensky và Kudơnétxốp, hai nhà lãnh đạotrẻ
xuất sắc và có tầm nhìn độc lập sẽ có
thể trở nên một đe dọa cho quyền uy
của mình.
(8) Victor S.
Abakumốp : bộ trưởng Bộ An ninh Quốc
gia thời kỳ 1947-1951, bị xử tử năm 1954.
Ðoạn 10 :Xung đột với Nam Tư (LÊN MẠNG THỨ HAI 18 THÁNG SÁU 2001) |
Bản tính độc đoán
của Stalin không những đã bộc lộ trong các
quyết định liên quan đến sinh hoạt nội
bộ của đất nước, mà còn cả trong
những mối quan hệ quốc tế của Liên Xô.
Hội nghị toàn thể Ban
chấp hành trung ương hồi tháng Bảy đã xem xét
cặn kẽ những lý do gây ra cuộc xung đột
với Nam Tư(1). Ở đây, Stalin đã đóng
một vai trò vô lý. Những vấn đề đặt ra
trong "vụ Nam Tư" đều có thể giải
quyết bằng sự tranh luận mang tính đảng
giữa các đồng chí với nhau. Không có một nguyên
cớ đáng kể nào khiến "vụ" này phát
triển : hoàn toàn có thể tránh sự đoạn
tuyệt với Nam Tư hồi đó. Tuy nhiên, điều
này không có nghĩa là các lãnh tụ Nam Tư không phạm
phải sai lầm và thiếu sót. Nhưng những sai
lầm và thiếu sót đó đã được Stalin
thổi phồng lên một cách ghê gớm, và việc này
đã dẫn tới sự đoạn tuyệt với
một nước anh em.
Tôi còn nhớ những ngày
đầu khi cuộc xung đột giữa Liên Xô và Nam
Tư bắt đầu được thổi phồng
một cách giả tạo. Một bận từ Kiép về
Moskva, tôi được Stalin mời đến hội
kiến. Cho tôi xem bản sao bức thư gửi Titô
mới nhận được, Stalin hỏi tôi : "Ðồng
chí đã đọc thư này chưa ?" Rồi
không đợi tôi trả lời, đồng chí ấy
nói : "Tôi chỉ cần vẩy ngón tay út là Titô không
còn nữa. Hắn sẽ đổ !"
Chúng ta đã trả một
giá đắt cho việc "vẩy ngón tay út" của
Stalin. Lời tuyên bố này phản ảnh bệnh vĩ
nhân cuồng của Stalin, nhưng đồng chí ấy
vẫn luôn làm như thế : "Tôi chỉ cần
vẩy ngón tay út là Kốtsiô sẽ biến mất" ;
"Tôi chỉ cần vẩy ngón tay út một lần
nữa - là Vôdơnêsensky, Kudơnétsốp và nhiều
đứa khác sẽ tiêu".
Nhưng điều này đã
không xảy ra với Titô. Mặc dầu Stalin ra sức
vẩy - chẳng những ngón út mà mọi thứ có thể
lay chuyển khác -, Titô vẫn không đổ. Vì sao ?
Bởi lẽ ở trường hợp xung đột
xảy ra với các đồng chí Nam Tư, sau lưng Titô
có cả một nhà nước và một dân tộc đã
trải qua trường học gian khổ của cuộc
chiến đấu cho tự do và độc lập,
một dân tộc ủng hộ những lãnh tụ của
họ.(2)
Các đồng chí có thể
thấy tính huyênh hoang tự đại điên cuồng
của Stalin đã đưa chúng ta đến đâu :
đồng chí ấy đã mất hẳn cảm giác
thực tế. Stalin bộc lộ tính kiêu căng và đa
nghi của mình không những đối với một
số cá nhân ở Liên Xô, mà còn đối với các
đảng và các nhà nước khác nữa.
Chúng tôi đã nghiên cứu
kỹ càng trường hợp Nam Tư và chúng tôi đã tìm
được một giải pháp đúng đắn
được các dân tộc Liên Xô và Nam Tư ủng
hộ, được quần chúng lao động các
nước Dân chủ Nhân dân và cả nhân loại tiến
bộ chấp nhận. Việc xóa bỏ những mối
quan hệ bất thường với Nam Tư đã
phục vụ các quyền lợi của phe xã hội
chủ nghĩa và những lợi ích của hòa bình thế
giới.
(1) Sau cuộc xung đột chính
trị giữa Liên Xô và Nam Tư, năm 1950, Nhóm trốt-kít
Việt Nam ở Pháp - cơ quan điều khiển Hiệp
đoàn thợ Việt Nam ở Pháp - đã tổ
chức một nhóm Việt kiều vùng Paris lấy tên Ðoàn
tháng Mười (gồm hơn ba mươi
người) qua Nam Tư "tìm sự thật". Sau
một tháng khảo sát ở Nam Tư, Ðoàn tháng
Mười tuyên bố một bản Quyết nghị
phản đối việc vu cáo Nam Tư là nước
phát-xít, nhận định nước Nam Tư
đồng tính chất như Liên Xô, Trung Hoa và các
nước dân chủ nhân dân khác.
Trong thời
kỳ này, nhiều tờ báo Việt ngữ ở Pháp
như Công nhân (của Công nhân Tương trợ),
Văn hóa Liên hiệp v.v... - dưới ảnh
hưởng của đảng cộng sản - đã
tố cáo Nhóm trốt-kít Việt Nam ở Pháp theo
"phát-xít Titô". Họ tuyên truyền khẩu hiệu Hiệp
đoàn trốt-kít phát-xít Titô.
(2) Sự đoạn tuyệt
giữa Stalin và Titô không phải là sự tuyệt giao
giữa hai cá nhân. Nó có ý nghĩa lịch sử quan trọng
do sự mâu thuẫn nội bộ của phong trào xta-lin-nít
trên thế giới. Vào thời ấy, Nhóm trốt-kít
Việt Nam tại Pháp đã xuất bản nhiều tài
liệu nghiên cứu ý nghĩa sâu xa của vụ xung
đột này và tiên đoán sẽ có những cuộc xung
đột khác giữa các đảng cộng sản (và các
nước do đảng cộng sản điều
khiển). Khrushốp chỉ buộc tội Stalin nhưng
ông ta quên rằng hầu hết các đảng và các lãnh
tụ cộng sản trên thế giới đều đua
nhau thóa mạ Titô và nước Nam Tư một cách vu cáo,
hèn hạ. Thí dụ nguyên soái quân đội Liên Xô Bunganin
đã tuyên bố trong bài diễn văn ngày 9-9-1949 :
Tên Giuđa Titô
và bọn đồng lõa là những tên phản bội
đê hèn đã bỏ hàng ngũ các nước xã hội
chủ nghĩa chạy qua hàng ngũ các nước
đế quốc và phát-xít. Chúng đã biến nước
Nam Tư thành nhà ngục của bọn Gestapo. Tất
cả nhân loại tiến bộ nhìn bộ mặt hèn
hạ và xấu xa của bọn đồng lõa đế
quốc đều không khỏi ghê tởm. Bọn chúng
sẽ không tránh khỏi sự hỏi tội của nhân dân
nước này. Chúng sẽ bị xử án về những
tội ác đẫm máu, về sự phản bội
của chúng đối với dân tộc Nam Tư và nhân dân
các nước Mặt trận Dân chủ.
Ðoạn
11 : Khủng bố
(LÊN MẠNG THỨ BA 19 THÁNG SÁU 2001) |
Bây giờ, chúng ta hãy xét
lại "vụ các bác sĩ khủng bố". (Phòng
họp náo động)
Thật ra, hoàn toàn không có
"vụ" gì ở đây, ngoài lời tố giác
của nữ bác sĩ Timashuk, tức lá thư bà ta viết
cho Stalin - hẳn do ai đó xúi bẩy hoặc ra lệnh
(tuy Timashuk chính là cộng tác viên không chính thức của các
cơ quan an ninh quốc gia) -, trong đó bà ta viện
đến những phương pháp không thể dung thứ
(giả định) của các bác sĩ.(1)
Chỉ một bức thư
như thế cũng đủ để Stalin rút ra
kết luận tức khắc : ở Liên Xô có những
bác sĩ chủ trương khủng bố... đồng
chí ấy ra lệnh bắt giam một nhóm chuyên gia y tế
có uy tín và đích thân ra chỉ thị về cách thức
điều tra cũng như phương pháp dùng trong quá
trình khảo cung những người bị bắt. Stalin
nói rằng phải cùm Viện sĩ Hàn lâm
Vinôgrađốp(2) bằng xích sắt và đánh đập
những người khác. Ðồng chí Igơnatiép(3) - cựu
bộ trưởng Bộ An ninh Quốc gia - hôm nay tham
dự Ðại hội nghị này với tư cách
đại biểu. Stalin đã cao giọng với
đồng chí : "Chúng tôi sẽ chặt đầu
anh nếu anh không lấy được lời nhận
tội của bọn bác sĩ !" (Phòng họp xôn
xao).
Stalin đã đích thân gọi
cán bộ điều tra vụ này đến gặp mình
để truyền lệnh và chỉ bảo phương
pháp điều tra. Những phương pháp ấy rất
đơn giản : đánh, đánh và đánh thêm
nữa.
Ít lâu sau khi các bác sĩ bị
bắt, chúng tôi - những thành viên Bộ Chính trị -
nhận được những biên bản chứa
những lời thú tội của các bác sĩ. Sau khi phát cho
chúng tôi những biên bản đó, Stalin nói : "Các anh
mù như lũ mèo con chưa mở mắt. Nếu không có
tôi thì sự việc sẽ ra sao ? Ðất nước
sẽ bị tiêu vong chỉ vì các anh không nhận biết
được kẻ thù."
Vụ này được
bố trí để không ai có thể kiểm tra những
bằng chứng mà qua đó, quá trình điều tra đã
được xây dựng. Chúng tôi cũng không thể tìm
cách kiểm tra những sự kiện bằng cách liên lạc
với những người đã thú nhận tội
lỗi của họ.
Nhưng dầu sao chúng tôi
cũng đã cảm thấy vụ bắt bớ các bác
sĩ thật đáng ngờ. Chúng tôi có quen biết cá nhân
một số người trong số đó vì thời
trước họ đã chữa bệnh cho chúng tôi. Sau khi
Stalin chết, chúng tôi điều tra lại "vụ
án" này, và rút ra kết luận : đây là một
vụ ngụy tạo từ đầu chí cuối.
Stalin đã bịa đặt
ra "vụ án" nhục nhã này. Nhưng Stalin không có
đủ thì giờ để đi tới đích (như
đồng chí ấy hằng mong muốn), và do đó các bác
sĩ mới còn sống sót. Hiện nay chúng tôi đã minh oan
cho tất cả các bác sĩ ấy ; họ vẫn
tiếp tục làm việc ở cơ quan cũ. Các bác
sĩ vẫn chữa bệnh cho những cán bộ cao
cấp, kể cả những thành viên chính phủ ;
được chúng tôi hoàn toàn tin tưởng, họ
thực hiện bổn phận của mình một cách
lương thiện, cũng như họ đã làm trong quá
khứ.(4)
(1) Liđya
Timashúk là một bác sĩ thuộc điện Kremli. Lá
thư của bà ta tố cáo các bác sĩ đã không tận
tình chạy chữa cho Giơđanốp. Sau này, Timashúk
được thưởng Huân chương Lênin vì công
trạng vu khống các đồng sự của mình.
(2) Giáo sư
Vinôgrađốp chính là bác sĩ điều trị riêng
của Stalin.
(3)
Igơnatiép : bộ trưởng Bộ An ninh Quốc
gia (thế chân Abakumốp), ủy viên thường vụ
Ban chấp hành Trung ương, bí thư Ban chấp hành Trung
ương năm 1953. Hai ngày sau khi vụ "bọn áo
choàng trắng" được rửa án, Igơnatiép
bị hạ xuống chức bí thư Cộng hoà Tự
trị Bashơkiri.
(4) Thông qua vụ
"bọn áo choàng trắng", Stalin nhằm thủ tiêu
một số người thân cận mình trong số các
ủy viên Bộ Chính trị và Ban chấp hành Trung
ương. Phương pháp này cũng giống thủ
đoạn Stalin đã lợi dụng vụ "ám sát
Kirốp" để thanh trừng các cựu đồng
chí của Lênin.
Ðoạn
12 : Bêrya
(LÊN MẠNG THỨ TƯ 20 THÁNG SÁU 2001) |
Bêrya(1), tay sai của các
tổ chức gián điệp ngoại bang, kẻ thù
độc ác của đảng ta, đã đóng vai trò
đê tiện nhất trong việc tổ chức các vụ
việc nhơ bẩn và nhục nhã này. Y đã chiếm
được lòng tin cẩn của Stalin. Tên khiêu khích
ấy làm thế nào đoạt được địa
vị trong đảng và nhà nước, để rồi
trở thành Phó chủ tịch thứ nhất Hội
đồng Chính phủ Liên Xô và ủy viên Bộ Chính
trị Ban chấp hành trung ương đảng ?
Hiện nay chúng ta được biết là tên đốn
mạt này đã dẫm lên không biết bao nhiêu xác chết
để leo ngày một cao lên các bậc thang chính
quyền.(2)
Có những bằng chứng
nào cho ta thấy Bêrya là kẻ thù của đảng ?
Có, có những bằng chứng như thế ! Ngay
từ năm 1937, trong một hội nghị toàn thể
của Ban chấp hành trung ương, đồng chí
Kaminsky(3) - cựu Dân ủy Bộ Y tế - tuyên bố Bêrya
làm việc cho tổ chức gián điệp Mussavát(4). Có
điều, ngay khi cuộc họp Ban chấp hành trung
ương vừa chấm dứt, đồng chí Kaminsky
đã bị bắt và xử bắn.
Stalin có xem xét lời tuyên
bố của Kaminsky không ? Không, vì Stalin tin cậy Bêrya
và đối với Stalin, thế là đủ. Và khi Stalin
tin một người hay một điều gì đó, không
ai có thể đưa ra ý kiến khác với đồng
chí ấy, dù chỉ một câu : ai dám bày tỏ sự bất
đồng, kẻ ấy cũng chịu chung một
số phận như đồng chí Kaminsky.
Ngoài ra, còn nhiều dấu
hiệu khác nữa. Ðáng để ý đến lời báo
cáo của đồng chí Snegốp(5) ở Ban chấp hành
trung ương đảng (nên nhắc lại là Snegốp
đã được phục hồi trong thời gian
gần đây, sau khi bị tù 17 năm ở các trại lao
động trừng giới). Trong lá đơn này,
đồng chí Snegốp viết như sau :
Về dự định
phục hồi cho đồng chí Cácvelichơvili-Lavrentiev(6),
cựu ủy viên Ban chấp hành trung ương, tôi đã
trao cho đại diện Ủy ban An ninh Quốc gia
một bản khai kỹ lưỡng về vai trò của
Bêrya trong quá trình quyết định vụ án
Cácvelichơvili và những nguyên ủy tội lỗi đã
dẫn dắt Bêrya trong việc này.
Theo ý tôi, không thể
để trôi vào quên lãng một sự kiện quan trọng
dính líu đến vụ này và cần thông báo cho Ban chấp
hành trung ương được biết, vì tôi thấy
việc kèm tài liệu này với những hồ sơ
điều tra là không nên.
Ngày 30-10-1931, trong cuộc
họp của Ủy ban Tổ chức của Ban chấp
hành trung ương đảng cộng sản (bônsêvích) Liên
Xô, đồng chí Cácvelichơvili - bí thư Ủy ban Liên
tỉnh miền Trans-Kápkadơ - đọc bản
tường trình. Tất cả thành viên Ban Chấp hành liên
tỉnh đều có mặt hôm đó, trong số đó chỉ
mình tôi còn sống sót. Trong khóa họp này, sau khi chấm
dứt bài diễn văn, Stalin đề nghị tổ
chức lại Ban Bí thư của Ủy ban Liên tỉnh
miền Trans-Kápkadơ như sau : bí thư thú nhất -
Cácvelichơvili ; bí thư thứ hai - Bêrya (đây là
lần đầu tiên trong lịch sử đảng, cái
tên Bêrya được đưa ra ứng cử giữ
một chức vụ trong đảng). Cácvelichơvili
trả lời : đồng chí đã biết nhiều
về Bêrya và vì thế, đồng chí dứt khoát từ
chối làm việc với Bêrya. Khi đó, Stalin đề
nghị hãy để vấn đề này lại
đấy đã, sẽ quyết định sau trong quá
trình công tác. Hai ngày sau, chúng tôi nhận được
quyết định cử Bêrya giữ chức vụ trong
đảng, còn Cácvelichơvili bị trục xuất
khỏi miền Trans-Kápkadơ.
Hai đồng chí Mikôian và
Kaganôvích có mặt trong khóa họp đó có thể chứng
thực điều này.
Ai cũng biết là giữa
Cácvelichơvili và Bêrya đã có bất hòa từ lâu ;
điều này nảy sinh từ thời đồng chí
Sécgô (biệt hiệu bình dân của Óocgiônikítdê) còn làm
việc ở vùng Trans-Kápkadơ : Cácvelichơvili là
cộng sự gần gũi nhất của đồng chí
Sécgô. Quan hệ thù nghịch với Cácvelichơvili đã
thúc đẩy Bêrya tạo ra "vụ án
Cácvelichơvili".
Một điều
đặc trưng là trong "vụ án" này, Cácvelichơvili
bị buộc tội có hành động khủng bố
nhằm ám hại Bêrya.
Bản cáo trạng trong
vụ án Bêrya chứa đựng toàn bộ danh sách
những tội ác của y. Tuy nhiên, cần nhắc riêng vài
sự việc vì các đại biểu dự Ðại hội
có lẽ chưa có cơ hội đọc tài liệu này.
Tôi muốn nói đến những quyết định
nhẫn tâm của Bêrya trong "vụ án" xử các
đồng chí Kêđrốp(7), Gôlubiép và bà Baturina, mẹ
nuôi của Gôlubiép ; họ muốn thông báo cho Ban chấp
hành trung ương biết hoạt động phản
bội của Bêrya. Họ đều bị xử bắn
không qua xét xử, bản án chỉ được
đưa ra sau khi họ đã bị hành quyết.
Ðồng chí Kêđrốp,
một chiến sĩ cộng sản lão thành đã viết
những dòng sau đây cho Ban chấp hành trung ương,
thông qua đồng chí Anđrêép(8) (đồng chí Anđrêép
lúc đó là bí thư Ban chấp hành trung ương ) :
Từ xà-lim tối tăm
của nhà tù Lêphôrơtôvô, tôi gửi lời cầu cứu
các đồng chí. Hi vọng rằng tiếng kêu tuyệt
vọng của tôi lọt đến tai các đồng chí
và các đồng chí sẽ không bịt tai trước
lời kêu ấy ; hãy che chở cho tôi. Xin các
đồng chí giúp tôi chấm dứt cơn ác mộng
của các vụ lấy cung và chỉ ra rằng tất
cả những điều này đều sai lầm.
Tôi hoàn toàn vô tội. Xin các
đồng chí hãy tin ở tôi. Thời gian sẽ minh
chứng cho tôi. Tôi không phải là một kẻ khiêu khích
thuộc tổ chức Okhrana(9) của Nga hoàng ; không
phải gián điệp ; không phải là thành viên của
một tổ chức chống lại nhà nước
xô-viết nào cả, như người ta buộc tội
tôi qua những lời tố cáo. Tôi là một người
bônsêvích cựu trào và trong sạch. Suốt gần bốn
chục năm liên tục, tôi đã tranh đấu trung
thành trong hàng ngũ đảng cho sự phồn vinh và
thịnh vượng của đất nước.
Hôm nay, tôi - một ông già 62
tuổi - đang bị các nhân viên điều tra đe
dọa bằng những phương pháp nhục hình ngày
càng tàn ác hơn, tàn nhẫn hơn và nhục nhã hơn.
Họ - tức là những nhân viên điều tra - không
đủ khả năng nhìn nhận sai lầm của mình
và công nhận những hành động trái pháp luật và không
được phép mà họ đã áp dụng trung
trường hợp tôi. Họ cố biện minh những
việc làm của mình bằng cách coi tôi như một
kẻ thù ngoan cố và tàn bạo, và đòi hỏi những
biện pháp tra tấn mới - ác liệt hơn -
đối với tôi. Nhưng đảng cần biết
tôi là người vô tội và không thế lực nào có
thể biến một đứa con trung thực thành
kẻ thù của đảng, dầu nó đang thở
những hơi cuối cùng. Ðối với tôi, không còn
đường ra. Tôi không thể chống cự
được những đòn - mới và mạnh hơn -
đang đe dọa tôi.
Nhưng mọi thứ
đều có giới hạn của nó. Tôi đã bị tra
tấn tột độ. Sức khỏe tôi đã suy
sụp. Sức lực và nhiệt huyết của tôi đang
kiệt quệ, đời tôi sắp tàn.
Chết trong nhà ngục
của Liên Xô, bị mang theo cái nhãn hiệu "kẻ
phản bội tổ quốc" - thử hỏi còn gì
kinh khủng hơn đối với một con người
trung thực ? Mọi điều này mới đáng
sợ làm sao ! Nỗi đau và niềm cay đắng vô
bờ bến ngập tràn trái tim tôi. Không ! Không !
Không thể như thế được ! Không thể
được ! - tôi phải thét lên. Ðảng, chính
phủ Liên Xô và đồng chí Dân ủy Bêrya không thể để
xảy ra một sự bất công ác độc và không
thể bù đắp như thế này được !
Và tôi tin tưởng sắt đá rằng nếu
trường hợp của tôi được xem xét từ
tốn, khách quan, minh bạch và nếu không có những
lời xỉ vả thô bạo, những tràng gào rống
cuồng nộ và những vụ tra tấn ghê sợ, có
thể chứng minh một cách dễ dàng tính vô căn
cứ trong những lời buộc tội tôi. Tôi tin
tưởng sâu sắc là công lý và bộ máy tư pháp sẽ
chiến thắng. Tôi tin tưởng như thế. Tôi tin
tưởng như thế.
Chiến sĩ bônsêvích lão
thành, đồng chí Kêđrốp, đã được Tòa
án Quân sự công nhận là vô tội. Dầu vậy,
đồng chí vẫn bị hành quyết theo lệnh
của Bêrya. (Phòng họp công phẫn).
Bêrya còn thanh trừng tàn
nhẫn với gia đình đồng chí Óocgiônikítdê. Vì
sao ? Vì đồng chí Óocgiônikítdê đã muốn ngăn
cản, không cho Bêrya thi hành những ý đồ đê tiện
của hắn, Bêrya đã gạt bỏ tất cả
những ai có thể là trở ngại trên con
đường của hắn. Ðồng chí Óocgiônikítdê luôn
luôn là địch thủ của Bêrya và đồng chí
cũng nói thẳng điều ấy với Stalin.
Nhưng, đáng lý phải khảo sát vụ này và thực
hiện những biện pháp cần thiết thì Stalin
lại để cho người em của đồng chí
Óocgiônikítdê bị thủ tiêu và đưa đồng chí
Óocgiônikítdê vào một trạng thái khiến đồng chí
đành phải tự vẫn.(10) (Cả phòng họp
phẫn nộ)
Bêrya là con người như
thế đó.
Bêrya đã bị Trung
ương đảng vạch mặt sau khi Stalin chết.
Sau khi thẩm xét kỹ lưỡng mọi hành vi của
Bêrya, tòa án nhận định hắn đã phạm
nhiều tội ác tàn bạo. Do đó, Bêrya đã bị
xử bắn.
Vấn đề đặt
ra là làm sao trong lúc sinh thời Stalin, Bêrya không bị vạch
mặt dù khi ấy, y đã thủ tiêu hàng vạn cán bộ
cao cấp của đảng và xô-viết ? Sở
dĩ Bêrya không bị lột mặt nạ sớm vì
hắn đã biết lợi dụng rất khéo léo
những nhược điểm của Stalin : khêu
gợi sự ngờ vực, tính đa nghi của Stalin,
Bêrya đã phục vụ Stalin trong mọi việc và đã
hành động với sự ủng hộ của
Stalin.(11)
(1) Lavrenti P. Bêrya
(1899-1953) : tay chân đắc lực của Stalin trong các
vụ thanh trừng thập niên 30. Giữa lúc lên án
những phương pháp tố cáo bịa đặt
của Stalin, Khrushốp cũng dùng những biện pháp này
đối với Bêrya : tố giác Bêrya là "tay sai
của các tổ chức gián điệp ngoại bang".
Sự thật, Bêrya là một tên quan liêu, xuất thân từ
giai cấp công nhân như Khrushốp. Là đảng viên
từ năm 1920, thành viên (O.) G.P.U. năm 1922, ủy viên Ban
chấp hành Trung ương năm 1934 cùng một
lượt với Khrushốp và Bunganin, Dân ủy Nội
vụ từ cuối năm 1938, ủy viên Bộ Chính
trị từ năm 1939, nguyên soái công an Liên Xô, phó chủ
tịch thứ nhất Hội đồng Chính phủ.
Bêrya là một trong ba ủy viên Bộ Chính trị được
đọc điếu văn trong đám tang Stalin. Bị
bắt và tử hình sau khi Stalin chết.
(2) Chẳng
những Bêrya đã "dẫm lên không biết bao nhiêu xác
chết để leo ngày một cao lên các bậc thang chính
quyền", những kẻ khác cũng có hành vi
tương tự, chẳng hạn Kaganôvích và Mikôian đã
"dẫm lên xác chết" của Dinôviép và Kamênép ở
Bộ Chính trị. Và chính nhờ việc Stalin thủ tiêu
các cựu đồng chí của Lênin mà Khrushốp
được đề cử làm bí thư Ban chấp hành
Trung ương đảng bộ Ukraina, thay thế
Kốtsiô bị xử bắn.
(3) G.N. Kaminsky
(1895-1938) : gia nhập đảng năm 1913, ủy viên
Ban chấp hành Trung ương năm 1930, Dân ủy Bộ Y
tế. Bị bắt và bị tử hình năm 1938.
(4) Phong trào
quốc gia thân Thổ Nhĩ Kỳ ở vùng Aderbaigian.
Chống lại cách mạng tháng Mười năm 1917,
bị đè bẹp năm 1920.
(5)
Alếchsanđrơ Snegốp : đảng viên từ
năm 1917, chủ tịch Ban Tổ chức đảng
miền Trans-Kápkadơ năm 1931.
(6) Lavrentiép
Cácvelichơvili (1891-1938) : gia nhập đảng từ
năm 1910, ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Trung
ương năm 1930, chủ tịch Hội đồng
Dân ủy vùng Grudya thời kỳ 1927-1929, bí thư thứ
nhất đảng ủy vùng Trans-Kápkadơ..
(7) Mikhain S.
Kêđrốp (1878-1940) : gia nhập đảng từ
năm 1901. Ðược Lênin giao nhiệm vụ xuất
bản cuốn Trong mười hai năm, thâu tóm các văn
kiện của Lênin. Thành viên cao cấp của cơ quan
Chêka thời kỳ 1918-1924. Biệt tích trong một thời
gian dài. Sau khi Bêrya bị xử án, người ta mới
được biết Kêđrốp đã bị hành
quyết năm 1940.
(8) Anđrây
Anđrêiép (1895-1971) : ủy viên Ban chấp hành Trung
ương từ năm 1920, ủy viên Bộ Chính trị
từ năm 1932.
(9) Bộ
phận do thám chính trị của cơ quan mật vụ
Nga hoàng trong thời kỳ 1880-1917.
(10) Grêgôri
Óocgiônikítdê (1886-1937) : biệt hiệu là Sécgô, cùng quê
(miền Grudya) và là bạn thân của Stalin, từng
cộng tác với Stalin trong việc thanh trừng tàn
nhẫn đảng bộ Grudya, khiến Lênin phải lên
tiếng phê phán nghiêm khắc. Trong thư viết cho Ban
chấp hành Trung ương ngày 31-12-1922, Lênin nói :
Phải trừng
phạt đồng chí Óocgiônikítdê để làm
gương.... Về mặt chính trị, dĩ nhiên
phải coi Stalin và Gierginsky là những người chịu
trách nhiệm trong chiến dịch tuyên truyền chủ
nghĩa quốc gia - Ðại Nga.
Óocgiônikítdê đã
tiếp tay cho Stalin trong việc thủ tiêu các cựu
đồng chí của Lênin. Ðược cử vào Bộ
Chính trị cùng lượt với Kaganôvích và Mikôian.
Óocgiônikítdê "tự vẫn" sau khi người bạn
thân - Piatakốp - bị bắt. Nhiều sử gia cho là
bị ám sát.
(11) Ở đây,
Khrushốp có phần biện hộ cho Stalin, đổ
tội lỗi cho Bêrya. Kỳ thực, Bêrya - cũng như
Yagôđa và Êgiốp - chỉ là thủ hạ trung thành
của Stalin và thực hiện mọi nhiệm vụ do
Stalin giao phó. Thành thử, không thể có chuyện
"vạch mặt" Bêrya lúc "sinh thời Stalin",
trừ phi Stalin muốn điều đó.
Ðoạn
13 : Tóm lược tiểu sử
(LÊN MẠNG THỨ SÁU 22 THÁNG SÁU 2001) |
Thưa các đồng chí,
Tệ sùng bái cá nhân sở
dĩ đạt đến mức độ khốc
hại là vì chính bản thân Stalin đã dùng mọi phương
pháp để thúc đẩy sự tán dương cá nhân
mình. Ðiều này đã được vô số sự
kiện chứng minh. Một trong những thí dụ tiêu
biểu nhất của sự tôn thờ bản thân và
sự thiếu khiêm tốn ở mức cơ bản
của Stalin là cuốn Tóm lược tiểu sử
Stalin ấn hành vào năm 1948.(1)
Cuốn sách này là thứ xu
nịnh ghê tởm nhất, là điển hình cho việc làm
thế nào để biến một người - Stalin -
thành một vị thánh sống, một hiền nhân không
thể sai lầm, một "lãnh tụ vĩ đại
nhất", một "chiến lược gia
đại tài của mọi thời đại và mọi
dân tộc". Cuối cùng, người ta không tìm nổi
từ ngữ để tâng bốc Stalin lên tận mây xanh.
Chẳng cần nói dài dòng
về sự tôn sùng thần tượng ghê tởm
đầy rẫy trong cuốn sách. Chỉ cần nói
rằng tất cả những thứ nói trên đã được
Stalin chấp thuận và biên tập, thậm chí chính
đồng chí ấy còn tự tay bổ sung vào bản in
thử của cuốn sách.
Trong cuốn sách ấy, Stalin
coi điều gì là mấu chốt ? Ðồng chí ấy
có muốn giảm bớt nhiệt tình của những
kẻ xu nịnh biên soạn cuốn Tóm lược
tiểu sử ấy không ? Hoàn toàn không ! Stalin
đã có những nhận xét ở chính các đoạn, mà
theo đồng chí ấy, người ta khen ngợi
chưa đầy đủ công trạng của mình.
Vài thí dụ sau đây có
thể cho ta thấy tính chất của những phần
"bổ khuyết" do Stalin tự tay viết :
Sau khi Lênin rời chiến
trường, trong cuộc đấu tranh chống bọn
nhu nhược và bọn đầu hàng, bọn trốt-kít
và bè lũ Dinôviép, bọn Bukharin và bọn Kamênép, đã hình
thành vĩnh viễn nhóm hạt nhân lãnh đạo đảng.
Bảo vệ ngọn cờ vinh quang của Lênin, nhóm này
đã đoàn kết đảng quanh di chúc của Lênin và
dẫn dắt nhân dân Liên Xô trên con đường rộng
mở của công nghiệp hóa và hợp tác hóa nông
nghiệp. Ðồng chí Stalin là người lãnh đạo
nhóm hạt nhân ấy, là động lực lãnh đạo
đảng và nhà nước.
Chính Stalin đã tự mình
viết ra những câu trên ! Rồi đồng chí
ấy còn chua thêm :
Stalin thực hiện
một cách tài tình những nhiệm vụ của
người lãnh đạo đảng và dân tộc và
được sự ủng hộ toàn diện của nhân
dân Liên Xô, tuy thế, đồng chí không hề cho phép mình
kiêu ngạo, khoe khoang hay tán tụng cá nhân.
Ðã ở đâu và khi nào,
người ta thấy một lãnh tụ tự tán tụng
mình như thế chưa ? Thử hỏi điều
ấy có xứng đáng với một người lãnh
đạo mác-xít - lê-nin-nít hay không ? Không ! Chính Mác và
Ăngghen đã cương quyết chống lại
việc đó. Lênin cũng luôn luôn lên án nghiêm khắc
những hành động như thế.
Trong bản thảo cuốn Tóm
lược tiểu sử nói trên, có một câu như
sau : "Stalin là Lênin của thời đại ngày
nay." Có điều Stalin thấy nhận định
ấy còn quá nhẹ, vì vậy đồng chí ấy đã
tự tay sửa lại : "Stalin là người
kế tục xứng đáng sự nghiệp của Lênin,
hoặc - như người ta thường nói trong
đảng -, Stalin là Lênin của thời đại
ngày nay." Câu nói thật hay, nhưng không phải
từ nhân dân mà tự Stalin đã nói ra.
Ta có thể đưa ra
nhiều thí dụ do chính tay Stalin viết - nhằm tán
dương mình - trong bản thảo cuốn Tóm
lược tiểu sử đó. Stalin đặc
biệt hào phóng khi tự tặng cho mình những lời
khen ngợi về thiên tài quân sự, về tài năng
cầm quân, v.v...
Tôi xin kể thêm một
đoạn bổ sung do Stalin tự tay chêm vào về thiên tài
quân sự của mình :
Ðồng chí Stalin tiếp
tục phát triển khoa học quân sự xô-viết,
vốn đứng hàng đầu. Ðồng chí Stalin đã
thảo ra luận đề về những yếu tố
thường xuyên quyết định vận mệnh
chiến tranh và hàng loạt học thuyết khác :
về sự phòng thủ tích cực và các quy luật
của phản công và tấn công, về sự cộng tác
giữa các binh chủng quân đội và kỹ thuật
quân sự cạnh những điều kiện của chiến
tranh đương đại, về vai trò của
những đoàn chiến xa và phi cơ trong chiến tranh
hiện đại, về vai trò của pháo binh - binh
chủng hùng mạnh nhất của quân đội. Trong
mỗi giai đoạn khác nhau của cuộc chiến,
thiên tài Stalin luôn tìm ra những giải pháp đúng
đắn, hoàn toàn căn cứ vào các đặc
điểm của tình hình.
(Phòng họp xôn xao)
Rồi Stalin tiếp
tục :
Nghệ thuật cầm
quân của Stalin đã được thể hiện trong
phòng thủ cũng như tấn công... Bằng sự sáng
suốt anh tài, đồng chí Stalin đã nhận biết và
làm thất bại những kế hoạch của
địch. Những trận giáp chiến - khi đồng
chí Stalin điều khiển quân đội Liên Xô - là
những bài học xuất chúng của nghệ thuật
quân sự.
Stalin tự tâng bốc
bản thân như một lãnh tụ quân sự. Và ai đã
làm tất cả những việc này ? Chính Stalin, không
phải trên địa vị một thống soái mà như
một tác giả kiêm chủ biên, như tác giả chính
của cuốn tiểu sử đầy rẫy những lời
ca tụng bản thân.
Thưa các đồng chí,
những sự thật là như thế. Và tôi phải nói
một cách chắc chắn rằng đó là những sự
thật đáng hổ thẹn.
Và còn thêm một sự
kiện nữa từ cuốn Tóm lược tiểu
sử này. Như mọi người đều
biết, cuốn Tóm tắt lịch sử đảng
cộng sản (bônsêvích) Liên Xô đã được
một ủy ban của Ban chấp hành trung ương
thảo ra.(2)
Một nhóm tác giả đã
được lựa chọn để viết cuốn
sách này, họ cũng bị tác động của tệ
sùng bái cá nhân. Sự kiện này được thể
hiện trong đoạn sau đây của bản in thử
của cuốn Tóm lược tiểu sử :
Một ủy ban của Ban
chấp hành trung ương đảng cộng sản
(bônsêvích) Liên Xô - dưới sự lãnh đạo và tham gia
tích cực nhất của cá nhân đồng chí Stalin -
đã soạn thảo cuốn "Tóm tắt lịch
sử đảng cộng sản (bônsêvích) Liên Xô".
Tuy vậy, nhận định
trên vẫn không làm Stalin thỏa mãn. Nó được Stalin
bổ sung như sau trong bản in cuối cùng của
cuốn sách :
Năm 1938, cuốn "Tóm
tắt lịch sử đảng cộng sản (bônsêvích)
Liên Xô" được phát hành. Cuốn sách do
đồng chí Stalin viết(3) và được ủy ban
đặc biệt của Ban chấp hành trung ương
đảng cộng sản (bônsêvích) Liên Xô thông qua.
Thử hỏi ta còn có thể
nói thêm được điều gì nữa ? (Phòng
họp ồn ào)
Như các đồng chí có
thể thấy, một sự sửa đổi lạ lùng
đã biến một công trình tập thể thành cuốn
sách do Stalin viết. Thiết tưởng không cần
phải nói là sự sửa đổi này đã diễn ra
như thế nào và tại sao.
Muốn hay không, một câu
hỏi được đặt ra : nếu quả
thực Stalin là tác giả cuốn sách, tại sao phải
tán tụng cá nhân Stalin đến thế, tại sao
phải biến đổi toàn bộ giai đoạn
lịch sử sau cách mạng tháng Mười của
đảng cộng sản vinh quang của chúng ta thành
sự nghiệp của riêng "thiên tài Stalin" ?
Thử hỏi cuốn sách này
có phản ánh một cách đúng đắn những cố
gắng của đảng ta trong công cuộc biến
đổi xã hội, xây dựng xã hội xã hội chủ
nghĩa, công nhiệp hóa và công cộng hóa đất
nước, cũng như những biện pháp khác do
đảng chủ trương theo đúng con
đường Lênin đã vạch ra ? Cuốn sách này
chủ yếu chỉ nói về Stalin, về những bài
diễn văn, những bản báo cáo của đồng
chí ấy. Không hề có một ngoại lệ, dù nhỏ
mọn nhất : mọi sự việc đều
gắn liền với tên tuổi Stalin.
Và khi bản thân Stalin tuyên
bố chính mình đã viết cuốn Tóm tắt lịch
sử đảng cộng sản (bônsêvích) Liên Xô,
người ta không khỏi ngạc nhiên. Một
người mác-xít - lê-nin-nít có thể đề cao cá nhân
mình lên tận mây xanh như thế được
không ?
Hoặc chúng ta hãy xem xét
những Giải thưởng Stalin. (Phòng họp xôn
xao)
Ngay cả các Nga hoàng cũng
chưa bao giờ lấy tên mình để đặt cho các
giải thưởng như thế.
Stalin đã chọn, coi như
hay nhất, một bản quốc thiều cho nhà
nước Liên Xô, trong /1 không có một câu nào nói đến
đảng cộng sản, ngược lại, có một
đoạn vô song về Stalin như sau :
Và Stalin dạy dỗ chúng
ta trung thành với nhân dân. Ðể trong công việc cũng
như trong chiến trận, chúng ta thành người anh
hùng.(4)
Trong những vần thơ
này của bản quốc thiều, toàn thể sự
nghiệp của đảng lê-nin-nít trên các lĩnh vực
giáo dục, chỉ đạo và động viên đều
thuộc về Stalin. Cố nhiên, điều này sai lạc
hẳn với học thuyết Mác-Lênin, là sự coi
thường và hạ thấp rõ rệt vai trò của
đảng. Tôi xin thông báo với các đồng chí là Ðoàn
Chủ tịch Ban chấp hành trung ương đã thông qua
một nghị quyết về việc viết lời
mới cho bản quốc thiều, phản ánh vai trò
của nhân dân và của đảng. (Vỗ tay rầm
rộ và kéo dài)
Phải chăng Stalin không
hề biết gì về việc người ta đã
lấy tên đồng chí ấy đặt cho nhiều nhà
máy và thành phố lớn ? Phải chăng Stalin không hề
biết gì về việc người ta đã xây
đắp trong toàn quốc những tượng đài
Stalin - những đài kỷ niệm cho một
người còn sống ? Một điều ai cũng
biết là chính Stalin - ngày 2-7-1951 - đã ký quyết
định của Hội đồng Bộ trưởng
Liên Xô về việc xây dựng bức tượng Stalin
đồ sộ bên bờ kênh đào Vônga-Ðôn ; ngày 4-9
cũng năm ấy, Stalin hạ lệnh nấu chảy 33
tấn đồng để xây dựng bức
tượng kỳ vĩ đó. Ai có dịp đến
thăm vùng Stalingrát, chắc chắn đều thấy pho
tượng khổng lồ, dù nó được xây
đắp ở một nơi không mấy ai qua lại.
Những khoản tiền khổng lồ bị tiêu phí trong
việc xây dựng đài kỷ niệm này trong khi dân chúng
vùng đó - từ hồi chiến tranh - còn sống trong
lều tranh vách đất(5). Các đồng chí hãy
nghĩ xem, Stalin nói thật hay không khi đồng chí ấy
viết trong cuốn tiểu sử của mình :
Ðồng chí không hề cho
phép mình kiêu ngạo, khoe khoang hay tán tụng cá nhân mình.(6)
Thêm vào đó, Stalin đã tỏ
ra thiếu kính trọng đối với kỷ niệm
về Lênin. Không phải tình cờ, mặc dầu quyết
nghị về việc xây dựng Cung xô-viết để
kỷ niệm đồng chí Vlađimia Ilích đã
được thông qua trước đây 30 năm, công
trình ấy vẫn không được xây dựng, công
việc ngày càng bị trì hoãn và kế hoạch này bị
chìm dần vào quên lãng.
Chúng ta không thể không
nhắc lại nghị quyết ngày 14-8-1925 của chính
phủ Liên Xô về việc thành lập Giải
thưởng Lênin cho công tác giáo dục. Quyết
định ấy được đăng tải trong
báo chí, nhưng đến nay vẫn chưa hề có Giải
thưởng Lênin. Việc này cũng cần phải
sửa chữa. (Vỗ tay rầm rộ và kéo dài)
Lúc Stalin còn sống, nhờ
những phương pháp mà tôi từng nhắc đến -
chẳng hạn các sự kiện trích từ cuốn Tóm
lược tiểu sử Stalin -, ta thấy hết
thảy mọi biến cố đều được
trình bày như thể Lênin chỉ đóng vai trò thứ
yếu, ngay cả trong thời kỳ cách mạng xã hội
chủ nghĩa tháng Mười. Trong nhiều phim ảnh và
sách vở, Lênin được miêu tả một cách sai
lạc sự thật và bị hạ thấp một cách
không thể chấp nhận được.(7)
Stalin thích coi bộ phim Năm
1919 bất diệt, trong đó ta thấy Stalin
đứng trên bậc chiếc tàu bọc thép(8) và
đánh tan quân thù với thanh đoản kiếm của
mình. Tốt biết mấy nếu bạn thân của chúng
ta, đồng chí Klimen Êphrêmôvích Vôrôshilốp(9) hãy
lấy hết can đảm và viết sự thật
về Stalin ; dầu sao đồng chí cũng biết
thực ra Stalin đã chiến đấu như thế
nào ! Ðối với đồng chí, làm việc ấy
hơi khó nhưng tốt biết mấy nếu
đồng chí vẫn làm. Mọi người - kể
cả nhân dân và đảng - sẽ tán thành đồng chí. Cháu
chắt đồng chí cũng sẽ biết ơn
đồng chí. (Vỗ tay kéo dài)
Nói đến những sự
kiện của cuộc cách mạng tháng Mười và
thời nội chiến, người ta tạo ra cảm
tưởng dường như Stalin đóng vai trò chính
yếu, dường như bất kể lúc nào và ở
đâu, Stalin cũng luôn luôn nhắc Lênin phải làm gì và làm
bằng cách nào. Thật là một sự mạ lị Lênin.
(Vỗ tay kéo dài)
Không xa sự thật là bao
nếu tôi nói là các đồng chí có mặt ở đây, ít
ai nghe và biết đến Stalin trước năm 1924(10),
nhưng mọi người đều biết Lênin. Toàn đảng, toàn dân, từ trẻ em
đến các cụ già tóc bạc răng long đều
biết Lênin. (Vỗ tay rầm rộ và kéo dài)
Cần duyệt lại
kỹ càng tất cả những điều này để
lịch sử, văn học và nghệ thuật phản
ánh đúng đắn vai trò của Lênin và những công trình
vĩ đại do đảng cộng sản của chúng
ta và nhân dân xô-viết đã thực hiện, với tinh
thần sáng tạo. (Vỗ tay)
(1) Sự tôn sùng Stalin thực ra
khởi đầu từ năm 1929, nhân sinh nhật
lần thứ 50 của Stalin. Tất cả các cơ quan
ngôn luận, báo chí của đảng thi nhau ca tụng công
trạng và thiên tài của Stalin. Trong tờ Prápđa,
Óocgiônikítdê (nạn nhân sau này của Stalin) viết :
Ngày hôm nay, toàn
thể thế giới nói về Stalin. Sau khi Lênin mất,
Stalin sừng sững, cao vời lồng lộng
trước chúng ta. Dưới sự lãnh đạo
của Người, chúng ta diệt trừ được
bọn trốt-kít và bọn tả khuynh.
Bútnốp -
một nạn nhân khác sau này của Stalin - cũng
viết :
Những
văn kiện của Stalin có tác động trau giồi cho
học thuyết Mác-Lênin. Nó làm căn bản cho
đường lối chính trị của đảng
để đi tới thắng lợi.
Trong Ðại
hội lần thứ XVII năm 1934, Kirốp tuyên
bố :
Stalin là
người lãnh đạo ngày nay của hết thảy
các dân tộc.
Khrushốp đã
không nói tới sự việc rằng cũng chính năm
ấy, ông ta đã dùng hai chữ "thiên tài"
để ca ngợi bài diễn văn của Stalin.
(2) Cũng như cuốn Tóm
lược tiểu sử Stalin, Tóm tắt lịch
sử đảng cộng sản (bônsêvích) Liên Xô đã
được dịch ngay và ấn hành với số
lượng lớn trong đa số đảng cộng
sản trên thế giới. Ðây là một cuốn sách
chứa đầy rẫy những sai lầm hay xuyên
tạc lịch sử. Trong Ðại hội lần thứ
XX, Mikôian yêu cầu phải viết lại. Nữ sử
gia Pankdôtava tố cáo đó là một cuốn sách "ngụy
tạo lịch sử". Trước năm 1945,
cuốn sách này đã được dịch ra tiếng
Việt và đã trở thành cuốn sách gối đầu
giường của các đảng viên đảng cộng
sản Việt Nam. (Xin xem cuốn Những chặng
đường lịch sử của Võ Nguyên Giáp). Sau
Ðại hội lần thứ XX, một tiểu ban gồm
11 nhân viên được cử ra để viết
lại cuốn sách. Cuốn sách mới đã sửa lại
nhiều điều xuyên tạc. Tuy nhiên, nó vẫn còn
nhiều điều sai lầm và bịa đặt. (Xin xem
tạp chí Nghiên cứu số 6, tháng 6-1981, bài Ba
mươi câu trả lời về cuốn "Lịch
sử đảng cộng sản Nga Xô")
(3) Khrushốp quên không nói, không
những Stalin đã "biến công trình tập thể
thành công trình riêng của mình", mà ông ta còn biến
công trình của Lép Trốtsky thành công trình của mình.
Trong cuốn Tóm
tắt lịch sử đảng cộng sản (bônsêvích)
Liên Xô Stalin được coi là người lãnh
đạo binh bị bên cạnh Lênin đoạt chính
quyền trong cách mạng tháng Mười ! Kỳ
thực, đó là Trốtsky.
Về vấn
đề biến "công trình tập thể thành công
trình riêng của mình" trong phong trào cộng sản
xta-lin-nít, có vô số bằng chứng. Thí dụ :
cuốn Người Con Của Nhân Dân của Môrixơ
Tôrê không phải do Tôrê mà do Giăng Phrêvin viết thay,
nhưng ký tên Tôrê. Một nguyên lý thường được
áp dụng trong các đảng cộng sản xta-lin-nít là
đảng "tạo ra lịch sử", "tạo
ra vĩ nhân", mỗi lần đảng nhận
thấy lịch sử cần phải viết như
thế nào thì "vĩ nhân" cần phải
được trình bày sao cho hợp với
đường lối của đảng.
(4) Ở đây, Khrushốp vô tình
chỉ trích một thói tục của hầu hết các
đảng cộng sản khi họ đã lên nắm
quyền ở một nước. Ấy là thói tục ca
ngợi lãnh tụ tối cao của đảng một cách
vô lối bằng những bài hát, thơ ca...
(5) Ở đây, Khrushốp vô tình
chống lại hành động của nhiều
đảng cộng sản, trong lúc nhân dân đói khổ
"ở trong những lều lá", đảng
đã xây dắp tượng đồng hoặc những
lăng tẩm đồ sộ, tốn kém để sùng
bái các lãnh tụ.
(6) Stalin đã khai trương
trong phong trào cộng sản một thứ nghệ
thuật lừa dối trong việc tuyên truyền. Ðặc
biệt hơn nữa là về phương diện chính
trị : phong trào cộng sản xta-lin-nít thường
nói một đàng là một nẻo. Sau đó, họ phô bày
như một nghệ thuật để chứng tỏ
đường lối của họ lúc nào cũng đúng.
(7) Khrushốp quên không nói việc
Stalin đã trá mạo các tranh ảnh thời kỳ cách
mạng tháng Mười bằng cách đặt mình ngồi
hoặc đứng cạnh Lênin, thay chỗ những
đồng chí khác.
(8) Thực ra, chiếc tàu hỏa
bọc thép lừng danh này là của Trốtsky : thời
nội chiến, ông đi khắp chiến trường,
tổ chức và lãnh đạo Hồng quân (do ông thành
lập) trên chiếc xe lửa đó !
(9) Klimen Ê. Vôrôshilốp
(1881-1969) : ủy viên Ban chấp hành Trung ương
năm 1921, ủy viên Bộ Chính trị năm 1926, Dân
ủy Quốc phòng từ năm 1925, nguyên soái Hồng quân năm
1935, chủ tịch xô-viết tối cao thời kỳ
1933-1960. Một trong những người tán dương
Stalin nhiều nhất. Trong cuốn Stalin và quân
đội xô-viết, Vôrôshilốp đã đề cao
Stalin đến nỗi coi ông ta là người duy nhất
lãnh đạo Hồng quân trong cách mạng 1917 (một
điều hoàn toàn sai sự thật) cho tới năm 1945.
Vôrôshilốp kết luận :
Chúng ta có
thể nói khoa học quân sự ngày nay là khoa học quân
sự Stalin.
(10) Trong cuốn Stalin, Lép
Trốtsky đã đề cập tới vấn đề
này và bác bỏ mọi tuyên truyền dối trá về vai trò
Stalin trong cuộc cách mạng tháng Mười.
Ðoạn 14
(hết) : Sùng bái cá nhân và những tổn thất do nó
gây ra
(LÊN MẠNG THỨ HAI 25 THÁNG SÁU 2001) |
Thưa các đồng chí,
Sự sùng bái cá nhân đã
dẫn đến việc sử dụng những nguyên
tắc sai lầm trong công tác đảng và sinh hoạt kinh
tế. Nó đã đem lại những hậu quả
như xâm phạm nặng nề dân chủ trong nội
bộ đảng và xô-viết, tạo ra tổ chức
hành chính tê liệt, dẫn đến những
đường lối lệch lạc đủ
thứ : che giấu thiếu sót, tô son điểm
phấn sự thật. Trong dân chúng, có đầy rẫy
những kẻ nịnh hót, bợ đỡ, chuyên nghề
lừa phỉnh và đánh lạc hướng.
Nhưng cũng không nên quên là
vì vô số cán bộ lãnh đạo đảng, nhà
nước và lãnh đạo kinh tế bị bắt,
nhiều đảng viên dè dặt trong công việc, trở
nên quá thận trọng trong lời nói và việc làm, sợ
mọi thứ đổi mới. Họ sợ ngay cả
cái bóng của mình và kém hẳn sáng kiến trong công tác.
Chẳng hạn, hãy xem xét
những nghị quyết của đảng và của
xô-viết. Chúng được thảo ra theo khuôn mẫu
nhất định, nhiều khi hoàn toàn không đếm
xỉa gì đến tình hình cụ thể. Và mọi sự
đến nỗi là ngay cả trong những cuộc
hội thảo nhỏ, các cán bộ đảng cũng
đọc những bài diễn văn viết sẵn.
Tất cả những điều này đem lại
hiểm họa : công tác đảng và xô-viết trở
nên hình thức, toàn thể bộ máy tổ chức bị
quan chế hóa.
Cách thức lãnh đạo
nông nghiệp của Stalin chứng tỏ đồng chí
ấy không có ý quan sát thực tế và thiếu hiểu
biết hoàn cảnh thực tại của đất
nước đến mực nào.
Những ai đã chú ý -
dầu chỉ một chút - những điều diễn ra
trên đất nước, đều thấy hiện
trạng rất khó khăn của nền nông nghiệp chúng
ta. Nhưng Stalin chẳng bao giờ để tâm
đến chuyện này. Chúng tôi có nói với Stalin về
vấn đề này không ? Có, nhưng không
được đáp ứng. Vì sao ? Bởi Stalin
chẳng bao giờ chịu đi thăm các nơi, chẳng
bao giờ gặp gỡ công nhân và nông dân nông trang tập
thể. Stalin chẳng hiểu gì về thực trạng
ở nông thôn.
Stalin chỉ biết
đất nước và nền nông nghiệp qua phim
ảnh. Nhưng những bộ phim này đã tô điểm
sự thật trong địa hạt nông nghiệp. Thậm
chí, nhiều bộ phim còn miêu tả đời sống các
nông trang tập thể dường như thịt gà
thịt ngỗng đầy rẫy trên các bàn ăn sắp
làm chân bàn đổ sụp. Hẳn Stalin tin là điều
này cũng diễn ra trong thực tế.
Lênin quan sát thực tế
đời sống một cách hoàn toàn khác : đồng
chí luôn gần gũi nhân dân, đón tiếp các phái đoàn
nông dân và thường xuyên phát biểu ở các buổi
họp trong các nhà máy, xí nghiệp. Lênin cũng đích thân
đi thăm các làng mạc và chuyện trò với nông dân.
Ngược lại, Stalin xa
rời nhân dân và chẳng đi thăm viếng nơi nào
cả. Sự kiện này kéo dài hàng mấy chục năm.
Stalin đi thăm nông thôn lần cuối cùng vào tháng 1-1928,
nhân dịp đồng chí ấy đến Sibia giải
quyết vấn đề ngũ cốc. Như thế, làm
sao Stalin có thể hiểu biết hiện trạng ở
các tỉnh ?
Trong một cuộc thảo
luận, chúng tôi báo cáo với Stalin về tình hình khó khăn
ở các làng mạc, đặc biệt là việc chăn
nuôi gia súc và sản xuất thịt rất tồi. Một
ủy ban được thành lập với nhiệm
vụ thảo ra dự án nghị quyết Những
biện pháp cần được áp dụng để phát
triển mức chăn nuôi gia súc ở các nông trang tập
thể(1) và nông trường quốc doanh(2). Chúng tôi
đã thảo ra dự án đó.
Tất nhiên, những
đề nghị của chúng tôi thời ấy không
đề cập đến tất cả mọi khả
năng, nhưng chúng tôi cũng đã vạch ra những
phương hướng nhằm nâng cao mức chăn nuôi
gia súc trong các nông trang tập thể và nông trường
quốc doanh. Chúng tôi đề nghị tăng giá các
sản phẩm chế biến từ thịt và như
thế, khiến những nông trang viên, những công nhân các
trạm máy cày và những người lao động trong
nông trường quốc doanh có liên quan về mặt vật
chất với công việc. Nhưng dự án của chúng
tôi không được chấp thuận và bị bác bỏ
hoàn toàn vào hồi tháng 2-1953.
Thậm chí, trong khi bàn bạc
dự án của chúng tôi, Stalin còn đề nghị tăng
thuế của các nông trang tập thể và của các nông
trang viên lên 40 tỉ rúp ; đồng chí ấy cho
rằng tầng lớp nông dân sống quá thoải mái và
một nông trang viên chỉ cần bán một con gà là
đủ trả số tiền thuế của anh ta.
Chúng ta thử nghĩ như
thế là sao ? Bốn mươi tỉ rúp, số
tiền lớn như thế, các nông trang viên - dù bán tất
cả sản phẩm của mình cho nhà nước -
cũng chẳng đào đâu ra được. Vào năm
1952 chẳng hạn, các nông trang tập thể và
người lao động ở đây chỉ thu
được 26 tỉ 280 triệu rúp sau khi đã cung
cấp hoặc bán hết thảy sản phẩm của
mình cho nhà nước.
Thử hỏi khi đưa
ra ý kiến này, Stalin có dựa trên những số liệu
cụ thể nào không ? Dĩ nhiên là không.
Trong những trường
hợp như thế, Stalin không cần chú trọng
đến những sự kiện và con số. Một khi
Stalin đã nói một điều gì, điều đó
phải là như thế, bởi lẽ Stalin là bậc
"thiên tài" và một thiên tài
không cần tính toán,
chỉ liếc mắt nhìn qua là đã có thể luận ra
cách giải quyết mọi việc. Khi Stalin đưa ra
một ý kiến, ai nấy đều phải lặp
lại và tâng bốc sự sáng suốt của đồng
chí ấy. Nhưng thử hỏi Stalin có sáng suốt
chút nào
khi đề xuất việc tăng thuế nông nghiệp
lên 40 tỉ rúp ? Không, hoàn toàn
không có chút sáng suốt nào,
bởi đề nghị ấy không căn cứ ở
sự đánh giá và cân nhắc hiện trạng thực
tế mà chỉ là ý định hão huyền của một
kẻ xa rời thực tế.
Hiện nay, chúng ta đang
dần dần thoát khỏi tình trạng khó khăn trong nông
nghiệp. Diễn văn của các đại biểu trong
Ðại hội lần thứ XX này làm tất cả chúng ta
lạc quan ; chúng ta vui mừng khi thấy nhiều có
đại biểu phát biểu, chúng ta vui mừng vì
thấy đã có các điều kiện để chỉ
trong vòng hai hay ba năm hoàn thành kế hoạch năm
năm lần thứ sáu của ngành chăn nuôi gia súc. Chúng
tôi tin chắc những nhiệm vụ của kế
hoạch năm năm mới sẽ được
thực hiện với kết quả tốt. (Vỗ tay
kéo dài)
Thưa các đồng chí,
Nếu hôm nay chúng ta phê phán
nghiêm khắc tệ sùng bái cá nhân đã lan tràn mọi nơi
khi Stalin còn sống, nếu hôm nay chúng ta vạch ra nhiều
hiện tượng tiêu cực xuất phát từ tệ
sùng bái cá nhân - vốn xa lạ với tinh thần học
thuyết Mác-Lênin -, một vài người có thể
đặt câu hỏi : vì sao điều này có thể
xảy ra ?
Stalin đứng đầu
đảng và đất nước trong suốt ba
mươi năm và đã đạt được
nhiều thắng lợi trong đời. Chúng ta có thể
phủ nhận được điều đó không ?
Tôi tin rằng chỉ
những người bị tệ sùng bái cá nhân làm mù quáng và
chi phối đến mức vô vọng, chỉ những
người không hiểu bản chất cuộc cách
mạng và nhà nước xô-viết, không biết nắm
bắt vai trò của đảng và nhân dân theo quan niệm
lê-nin-nít trong quá trình phát triển của xã hội, mới
đặt câu hỏi như thế.
Cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa do giai cấp công nhân và nông dân nghèo thực
hiện, với sự ủng hộ của một bộ
phận trung nông. Chiến thắng này do nhân dân giành
được dưới sự lãnh đạo của
đảng bônsêvích. Công lao của Lênin nằm ở chỗ
đồng chí đã thành lập một đảng
chiến đấu của giai cấp công nhân ; Lênin
đã nắm vững các quy luật phát triển xã hội
theo quan điểm mác-xít và khoa học dẫn dắt giai
cấp vô sản đến thắng lợi trong cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản ;
đồng chí đã tôi luyện đảng trong lò lửa
chiến đấu cách mạng của quần chúng nhân dân.
Trong cuộc đấu tranh này, đảng đã luôn luôn
bảo vệ các quyền lợi của nhân dân, đã
trở thành người lãnh đạo giàu kinh nghiệm
của nhân dân và đã đưa quần chúng lao
động lên chính quyền, dẫn dắt họ thiết
lập nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu
tiên.
Các đồng chí chắc
hẳn còn nhớ nhận định sáng suốt của
Lênin. Lênin nói :
Sức mạnh của nhà
nước xô-viết tiềm ẩn trong sự giác ngộ
của quần chúng nhân dân, rằng lịch sử là do hàng
triệu, hàng chục triệu con người làm ra.
Chúng ta đã đạt
được những chiến thắng lịch sử
nhờ công tác tổ chức của đảng, của
những tổ chức địa phương và sự hy
sinh quên mình của nhân dân vĩ đại. Những chiến
thắng ấy là kết quả sự cố gắng vô
biên và công tác của toàn thể nhân dân và đảng, và
tuyệt nhiên không phải thành quả lãnh đạo
của Stalin như người ta từng khẳng
định trong thời kỳ sùng bái cá nhân.
Nếu chúng ta nghiên cứu
vấn đề này như những người mác-xít -
lê-nin-nít, phải tuyên bố một cách không úp mở :
hệ thống lãnh đạo được áp dụng
trong những năm cuối đời Stalin đã thành
một trở ngại nghiêm trọng trên con
đường phát triển của xã hội Liên Xô.
Nhiều khi, Stalin
thường trì hoãn trong nhiều tháng những vấn
đề rất quan trọng - đáng ra phải giải
quyết cấp thời - liên quan đến sinh hoạt
của đảng và nhà nước. Trong thời kỳ Stalin
lãnh đạo, những mối quan hệ hòa bình giữa
nước ta và các dân tộc khác lắm lúc bị đe
dọa bởi quyết định của một cá nhân
độc nhất có thể gây ra (và đã hay gây ra)
nhiều phiền phức lớn.
Trong những năm gần
đây, khi chúng ta thoát khỏi những thực tế tai
hại của tệ sùng bái cá nhân và khi chúng ta áp dụng
nhiều biện pháp thích ứng trên lĩnh vực
đối nội và đối ngoại, mọi
người đều có thể thấy : sự tích
cực và các sáng kiến của đông đảo quần
chúng lao động tăng tiến và phát triển như
thế nào ở mọi nơi. Tất cả những
điều này đã có ảnh hưởng tốt
đến sự phát triển kinh tế và văn hóa.
(Vỗ tay)
Một vài đồng chí có thể
đặt câu hỏi : "Thử hỏi các ủy viên
Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương lúc đó
ở đâu ? Sao không thấy các đồng chí ấy
lên tiếng kịp thời chống tệ sùng bái cá
nhân ? Tại sao điều này đến giờ
mới diễn ra ?"
Trước hết, cần
phải chú ý tới một hoàn cảnh : các ủy viên
Bộ Chính trị nhìn nhận những vấn đề
này một cách khác nhau trong các thời kỳ khác nhau.
Thoạt đầu, nhiều người trong số
họ ủng hộ tích cực Stalin vì đồng chí
ấy là một trong những nhà mác-xít đáng kể
nhất và lý luận, sức mạnh và nghị lực
của Stalin có ảnh hưởng lớn đến các cán
bộ đảng và công tác đảng.
Ai cũng biết sau khi Lênin
mất, đặc biệt vào thời kỳ đầu,
Stalin đã đấu tranh tích cực bảo vệ học
thuyết lê-nin-nít, chống lại kẻ thù và những
người rời bỏ học thuyết này. Xuất phát
từ chủ nghĩa Lênin, đảng ta - đứng
đầu là Ban chấp hành trung ương - đã
triển khai sự nghiệp vĩ đại nhằm công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa đất
nước, tập thể hóa nền nông nghiệp và
thực hiện cuộc cách mạng văn hóa. Hồi
đó, Stalin rất được lòng dân, được
quần chúng cảm tình và ủng hộ. Ðảng đã
phải đấu tranh chống những kẻ muốn
đưa xứ sở chúng ta khỏi đường
lối lê-nin-nít ; đảng đã phải đấu
tranh chống bè lũ trốt-kít, Dinôviép, bọn hữu
khuynh và lũ quốc gia tư sản. Cuộc đấu
tranh này là cần thiết. Nhưng về sau Stalin ngày càng
ỷ vào quyền hành của mình, mở cuộc tấn công
những lãnh tụ uy tín của đảng, chính phủ và
sử dụng những phương pháp khủng bố
chống lại những công dân xô-viết trung thực.
Như chúng ta đã thấy, Stalin đã áp dụng những
biện pháp như thế với những lãnh đạo xuất
sắc của đảng và chính phủ, như các
đồng chí Kốtsiô, Rútdutác, Âykhê, Pôstưshép và
nhiều người khác.(3)
Nếu ai đó thử
phản đối những nghi hoặc và buộc tội
hoàn toàn vô cơ sở, người ấy sẽ là nạn
nhân của những cuộc đàn áp khủng bố.
Trường hợp của đồng chí Pôstưshép
rất đặc trưng về phương diện
đó.
Trong một bài phát biểu,
Stalin lên tiếng chỉ trích Pôstưshép - vì đồng chí
này tỏ vẻ bất bình - và đặt câu hỏi cho
đồng chí Pôstưshép : "Anh thử nói xem,
thật ra anh là ai ?" Ðồng chí Pôstưshép
cứng rắn đáp : "Là người bônsêvích,
thưa đồng chí Stalin, tôi là người bônsêvích".
Lời nói quả quyết
này, thoạt đầu được coi là thiếu
lễ độ đối với Stalin ; sau đó
trở thành hành động phá hoại và cuối cùng dẫn
đến kết quả Pôstưshép bị xử tử.
Ðồng chí bị buộc tội một cách vô cớ là "kẻ
thù của nhân dân".
Hồi ấy, tôi
thường đàm luận về hiện trạng
thực tế với Nikôlai Alếchsanđrôvích
Bunganin ; một bận, khi hai chúng tôi cùng đi đâu
đó bằng xe hơi, đồng chí Bunganin bảo
tôi : "Ðôi khi, ai đó được Stalin mời
đến gặp mặt như một người
bạn. Nhưng lúc đối diện với Stalin, anh ta
không biết sau đó mình sẽ đi đâu : về nhà
mình hay vào nhà tù."
Dễ hiểu là trong
những hoàn cảnh như thế, các ủy viên Bộ
Chính trị ở trong tình thế rất khó khăn. Và
nếu chúng ta xét đến chuyện trong những năm
gần đây, những khóa họp toàn thể Ban chấp
hành trung ương không hề được triệu
tập và Bộ Chính trị cũng chỉ thỉnh
thoảng mới họp, chúng ta có thể hiểu :
rất khó cho một thành viên Bộ Chính trị nếu
đồng chí ấy lên tiếng chỉ trích một
biện pháp bất công hay sai trái nào đó, hoặc chống
lại những sai lầm và thiếu sót nghiêm trọng trong
công tác lãnh đạo.
Cũng như chúng tôi đã
nhắc đến, nhiều quyết nghị chỉ do
một cá nhân định đoạt, hoặc chỉ
được định đoạt gián tiếp, không
thông qua thảo luận tập thể. Mọi người
đều biết số phận thảm thương
của đồng chí Vôdơnêsensky, ủy viên Bộ Chính
trị, nạn nhân của nạn khủng bố sta-lin-nít.
Việc khai trừ đồng chí Vôdơnêsensky khỏi
Bộ Chính trị đã được quyết
định gián tiếp, không hề có một cuộc
thảo luận nào cả. Quyết định khai trừ
các đồng chí Kudơnétsốp và Rôđiônốp cũng
được định đoạt theo lối ấy.
Vai trò quan trọng của
Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương bị thu
hẹp và công việc của cơ quan này bị xáo trộn
vì ngay trong Bộ Chính trị, người ta đã tạo
lập nên đủ thứ ủy ban hẹp hơn với
những nhãn hiệu như "Ủy ban năm
người", "Ủy ban sáu người",
"Ủy ban bảy người" và "Ủy
ban chín người". Chẳng hạn, chúng ta thử
coi nghị quyết của Bộ Chính trị ngày
3-10-1946 :
Ðề nghị của
đồng chí Stalin :
1. Trong thời gian
tới, Ban đối ngoại thuộc Bộ Chính trị
("Ủy ban sáu người") - ngoài vấn đề
ngoại giao - sẽ trách nhiệm thêm về những vấn
đề dính líu đến xây dựng nội bộ và
đối nội.
2. Chỉ định thêm
đồng chí Vôdơnêsensky - chủ tịch Ủy ban Kinh
tế Kế hoạch Nhà nước - vào "Ủy ban sáu
người". Ủy ban này sẽ trở thành
"Ủy ban bảy người".
Ký tên : Bí thư Ban
chấp hành trung ương. J. Stalin
Thật là thứ ngôn ngữ
cờ bạc ! (Tiếng cười trong phòng họp)
Dĩ nhiên, việc tạo
lập trong Bộ Chính trị những ủy ban hẹp
hơn theo cách đó ("Ủy ban năm người",
"Ủy ban sáu người", "Ủy ban
bảy người", "Ủy ban chín
người") trái với nguyên tắc lãnh đạo
tập thể. Hậu quả của việc này là vài
ủy viên Bộ Chính trị bị loại khỏi các
cuộc thảo luận về những vấn đề
quan trọng nhất của đất nước.
Một trong những thành viên
kỳ cựu nhất của đảng, đồng chí
Vôrôshilốp đã từng rơi vào hoàn cảnh không
thể chịu nổi. Trong nhiều năm ròng, đồng
chí thực sự mất quyền tham dự các buổi
họp của Bộ Chính trị. Stalin đã cấm
đồng chí dự các buổi họp và xem xét các tài
liệu. Cứ mỗi lần biết Bộ Chính trị
sửa soạn hội họp, đồng chí Vôrôshilốp
lại gọi điện thoại cho Stalin hỏi xem mình
có được phép tham dự hội nghị hay không. Ðôi
khi Stalin cho phép, nhưng luôn luôn từ chối.
Do bản tính nghi ngờ quá
đỗi, Stalin còn có ý nghĩ phi lý và nực cười
rằng đồng chí Vôrôshilốp là gián điệp Anh.
(Tiếng cười trong phòng họp)
Thật thế, điệp
viên Anh quốc ! Người ta đã đặt ở
nhà đồng chí Vôrôshilốp một dụng cụ
đặc biệt, có thể ghi âm tất cả các
cuộc nói chuyện. (Phẫn nộ trong phòng họp)
Với một quyết
định độc đoán, Stalin còn loại thải
một đồng chí khác ra ngoài Bộ Chính trị. Ðó là
đồng chí Anđrêêvích Anđrêép. Ðây là một trong
những biểu hiện độc đoán nhất của
sự chuyên quyền.
Tôi còn nhớ hội nghị
toàn thể đầu tiên sau Ðại hội lần thứ
XIX của Ban chấp hành trung ương. Trong bài phát
biểu của mình, Stalin phân tích về Môlôtốp và Mikôian
và tỏ ý rằng hai cán bộ kỳ cựu này của
đảng ta đã phạm những sai lầm nào đó
chưa được chứng tỏ. Không loại trừ
khả năng nếu Stalin còn nắm chính quyền thêm vài
tháng nữa, có lẽ các đồng chí Môlôtốp và Mikôian
không thể đọc tham luận ở Ðại hội hôm
nay.
Rõ ràng Stalin đã muốn
"thanh toán" tất cả các thành viên cũ của
Bộ Chính trị. Stalin thường tuyên bố cần
thay thế các ủy viên kỳ cựu của Bộ Chính
trị bằng những người mới.
Ðề nghị của Stalin
sau Ðại hội lần thứ XIX - về vấn
đề Ban chấp hành trung ương lựa chọn
một Ðoàn Chủ tịch gồm 25 người - nhằm
loại bỏ mọi ủy viên cũ của Bộ Chính
trị và thâu nhập vào đó những kẻ kém kinh
nghiệm, nhưng sẵn sàng tâng bốc Stalin ở mức
độ cao nhất.(4)
Cũng có thể giả
thiết rằng Stalin còn chủ định thanh toán các
thành viên cũ của Bộ Chính trị và như thế,
cố giấu diếm những hành vi đáng hổ
thẹn mà hôm nay, chúng ta đang phân tích ở đây.
Thưa các đồng chí,
Ðể những sai lầm
của quá khứ khỏi lặp lại, Ban chấp hành
trung ương cương quyết tuyên bố chống
tệ sùng bái cá nhân. Chúng ta nhận thấy Stalin đã được
tán dương một cách quá đáng. Nhưng, trong quá
khứ, không thể chối cãi được là Stalin
đã có những công trạng lớn đối với
đảng, với giai cấp công nhân và phong trào lao
động quốc tế.
Vấn đề trở nên
phức tạp ở chỗ tất cả những
điều chúng ta vừa thảo luận đã xảy ra
lúc sinh thời Stalin, dưới sự lãnh đạo và
ủng hộ của Stalin ; Stalin tin chắc
điều đó là cần thiết cho việc bảo
vệ những quyền lợi của giai cấp công nhân
trước những mưu mô của kẻ thù và những
đợt tấn công đe dọa từ phe đế
quốc.
Trong mọi hành động, Stalin
tuân thủ lợi ích của giai cấp công nhân, lợi ích
của người lao động và của thắng
lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản. Chúng ta không thể nói những hành
động của Stalin là hành động của một
kẻ chuyên quyền điên rồ. Stalin tin chắc đó
là việc làm cần thiết cho quyền lợi của
đảng, của quần chúng cần lao, để
bảo vệ những thành quả của cách mạng.
Thảm trạng chính là ở chỗ đó !
Thưa các đồng chí,
Lênin đã nhiều lần
nhấn mạnh : sự khiêm nhường là đức
tính không thể thiếu được của một
người bônsêvích chân chính. Bản thân Lênin là hiện thân
của sự khiêm tốn ở mức cao nhất. Không
thể nói là trong mọi phương diện, chúng ta đã
noi theo tấm gương này của Lênin. Nhiều thành
phố, nhà máy, cơ sở công nghiệp, nông trang tập
thể, nông trường quốc doanh, các cơ quan
xô-viết và các tổ chức văn hóa dường như
- nếu tôi có thể so sánh như thế - là sở hữu
cá nhân ; chúng mang tên các lãnh tụ đảng và thành viên
chính phủ, mặc dầu những người này vẫn
hoàn toàn khỏe mạnh và công tác tích cực. Nhiều
người trong số chúng ta đã để người
ta lấy tên mình đặt cho các thành phố, các quận
huyện, các xí nghiệp và nông trang tập thể. Cần
chấn chỉnh lại điều này. (Vỗ tay)
Nhưng chúng ta phải làm
việc đó một cách bình tĩnh và từng bước
một. Ban chấp hành trung ương sẽ điều
tra và thảo luận kỹ càng về vấn đề này
để tránh những sai lầm và tổn thất. Tôi còn
nhớ ở Ukraina hồi xưa, chúng tôi đã biết tin
Kốtsiô bị bắt bằng cách nào. Ðài phát thanh tỉnh
Kiép thường mở đầu chương trình
bằng những lời như sau : "Ðây là
tiếng nói của Kốtsiô". Một bận,
chương trình bắt đầu nhưng cái tên Kốtsiô
không được nhắc tới, lập tức ai
nấy đều hiểu hẳn có chuyện gì đã
xảy ra với Kốtsiô, chắc là đồng chí ấy
đã bị bắt giam và có lẽ đã bị bắn.
Chính vì thế, nếu hôm nay
chúng ta quyết định đổi tên ở mọi
nơi, thiên hạ sẽ tưởng những đồng
chí - có tên đặt cho các thành phố, xí nghiệp, nông
trang tập thể - cũng chịu số phận hiểm
nghèo và có lẽ đã bị bắt giữ. (Phòng họp xáo
động)
Hiện nay, chúng ta
thường đánh giá quyền hành và tầm quan trọng
của một người trên cơ sở gí ? Tùy theo
số lượng các thành phố, các nhà máy, các nông trang
tập thể và nông trang quốc doanh mang tên người
đó. Phải chăng đã đến lúc cần loại
bỏ những thứ "sở hữu cá nhân" đó
và "quốc hữu hóa" lại các nhà máy, các nông trang
tập thể và nông trường quốc doanh. (Tiếng
cười, tiếng vỗ tay, tiếng hô "Ðúng
lắm !")
Ðiều này chỉ có lợi
cho sự nghiệp của chúng ta. Bởi tệ sùng bái cá
nhân cũng biểu hiện ở đây.
Chúng ta cần phải nghiên
cứu thật cẩn trọng vấn đề sùng bái cá
nhân. Chúng ta không thể để vấn đề này
lọt ra ngoài phạm vi đảng ; nhất là chớ
để giới báo chí biết tin này. Vì thế chúng ta bàn
bạc ở đây, trong khóa họp kín của Ðại
hội. Việc gì cũng có giới hạn của nó. Chúng
ta phải biết có thể đi xa tới đâu, không
được nối giáo cho giặc, không được
giặt áo bẩn trước mắt kẻ thù. Tôi tin
rằng các đại biểu Ðại hội sẽ diễn
giải và thấu hiểu đúng đắn những
đề nghị này của tôi. (Vỗ tay dữ dội)
Thưa các đồng chí,
Chúng ta cần chấm dứt
tệ sùng bái cá nhân một cách cương quyết
nhất, thật dứt khoát ; chúng ta cần rút ra
những kết luận đúng đắn trên phương
diện tư tưởng - lý thuyết cũng như công
tác thực tiễn.
Nhắm mục tiêu đó,
chúng ta cần :
1. Phải bàn bạc và
loại trừ tệ sùng bái cá nhân như một hiện
tượng xa lạ với học thuyết Mác-Lênin và
không thích hợp với những nguyên tắc lãnh đạo
đảng và những chuẩn mực của sinh hoạt
đảng. Phải nhất quyết đấu tranh
chống lại các mưu toan hòng khôi phục thói tục
đó dưới hình thức này khác.
Phải lập lại và
đưa ra thực hiện - trong toàn bộ công tác tư
tưởng - những nguyên lý quan trọng nhất của
khoa học mác-xít - lê-nin-nít : coi nhân dân là người
sáng tạo ra lịch sử, sáng tạo ra mọi cơ
sở vật chất và tinh thần cho nhân loại, coi
đảng mác-xít đóng vai trò quyết định trong cuộc
đấu tranh cách mạng nhằm biến đổi xã
hội, tiến tới thắng lợi của chủ
nghĩa cộng sản.
Trong tinh thần đó, chúng
ta bắt buộc phải thực hiện một công
việc đồ sộ - dưới ánh sáng học
thuyết Mác-Lênin - nhằm khảo sát chi tiết và sửa
chữa những tư tưởng sai lệch về
vấn đề sùng bái cá nhân, rất thịnh hành trong
lĩnh vực lịch sử, triết học, kinh tế
và các ngành khoa học khác, cũng như trong văn học
và nghệ thuật thuật.
Ðặc biệt quan trọng,
trong giai đoạn sắp tới, chúng ta phải xuất
bản một cuốn sách giáo khoa đứng đắn
về lịch sử đảng ta, theo tính khách quan của
chủ nghĩa Mác khoa học ; cũng như phải
xuất bản một cuốn sách về lịch sử xã
hội Liên Xô và một cuốn về những sự
kiện thời nội chiến và chiến tranh vệ
quốc.
2. Phải tiếp tục công
việc do Ban chấp hành trung ương tiến hành trong
những năm gần đây một cách thường xuyên
và hợp lý. Những đặc điểm của công tác
này là :
Áp dụng nghiêm ngặt
những nguyên tắc lê-nin-nít về việc lãnh đạo
đảng trong mọi cơ sở đảng, từ
gốc tới ngọn, nhất là nguyên tắc lãnh
đạo tập thể ; áp dụng nghiêm ngặt
những quy tắc sinh hoạt đảng (được
ghi trong điều lệ tổ chức đảng) và sau
cùng, áp dụng hình thức phê và tự phê.
3. Phải lập lại
tức khắc những nguyên tắc lê-nin-nít của
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa xô-viết,
được ghi nhận trong Hiến pháp Liên Xô ; phải
tranh đấu chống lại sự độc đoán
của một số cá nhân lạm dụng quyền hành.
Phải chấn chỉnh ngay những tai họa, xuất
phát từ các hành động vi phạm pháp chế xã
hội chủ nghĩa trong nhiều năm trời do
tệ sùng bái cá nhân gây ra.
Thưa các đồng chí,
Ðại hội lần thứ
XX của đảng cộng sản Liên Xô, với một
sinh lực mới, đã biểu lộ sự thống
nhất không gì phá vỡ nổi của đảng, sự
gắn bó quanh Ban chấp hành trung ương, đã
chứng tỏ quyết tâm thực hiện sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
Bản thân việc chúng ta
khảo sát trên mọi phương diện những vấn
đề chính của quá trình khắc phục tệ sùng bái
cá nhân, vốn xa lạ với học thuyết Mác-Lênin,
cũng như vấn đề thanh toán các hậu quả
trầm trọng của quan niệm đó, đã chứng
tỏ sức mạnh đạo lý và chính trị phi
thường của đảng ta. (Vỗ tay kéo dài)
Chúng ta tin chắc rằng
đảng ta, dưới ánh sáng những nghị quyết
lịch sử của Ðại hội lần thứ XX,
sẽ đưa nhân dân Liên Xô đến những thành công
mới, đến những thắng lợi mới trên con
đường Lênin đã vạch ra cho chúng ta. (Vỗ tay
rầm rộ và kéo dài)
Chủ nghĩa Lênin - ngọn
cờ bách chiến bách thắng của đảng ta - muôn
năm ! (Vỗ tay dồn dập và kéo dài, mỗi lúc
một rầm rộ. Mọi người đứng lên
hoan hô)
(1) Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp,
xuất hiện cuối thập niên 20 trong quá trình tập
thể hoá ở Liên Xô.
(2) Trang trại sản xuất nông nghiệp
thuộc sở hữu và quản lý của nhà nước,
xuất hiện trong quá trình tập thể hóa nông nghiệp
ở Liên Xô.
(3) Ðoạn này, Khrushốp muốn chứng
tỏ sau khi đã thủ tiêu các cựu đồng chí
của Lênin, Stalin quay ra tìm cách thanh trừng các bộ
hạ của mình. Một "vụ án" đang
được xếp đặt để loại
trừ những ủy viên Ban chấp hành Trung ương và
Bộ Chính trị, trong đó có Khrushốp, Malenkốp,
Mikôian, Môlôtốp, v.v... Ðây cũng là một trong những lý
do khiến Khrushốp lên tiếng tố cáo Stalin.
(4) Stalin mở rộng Bộ Chính trị thành
một thứ Ðoàn Chủ tịch và thành lập trong Ðoàn
Chủ tịch đó một Văn phòng thu hẹp, có
chức năng như Bộ Chính trị cũ. Môlôtốp
và Mikôian bị loại khỏi Văn phòng này.
No comments:
Post a Comment