Wednesday, October 19, 2016

CHUYỆN CƯỜI - CHÂN TÍN - KÝ TIỂU TỬ

Sunday, April 14, 2013

CHUYỆN CƯỜI XHCN

TÔN GIÁO

Một giáo viên Bắc than phiền :
_Miền Nam sùng đạo, lấy tên thánh đặt cho cả trường học.Như cái trường Marie Curie ấỵ
Giáo viên Nam giải thích:
_Marie Curie là tên bà bác học người Balan chứ có phải tên đạo giáo nào đâụ
_Thế chả còn những đạo công chúa ,đạo cao lành là gì?
_Không phải đạo công chúa mà là đạo công giáo thờ Chúa,đạo Cao Lành có lẽ là Cao Đài
và Tin Lành.Chắc các anh hay nói tắt cho gọn đấy! Cũng như điều tra và nghiên cứu cá anh
nói là điều nghiên,thương thuyết thảo luận là thương thảọThật là giản tiện. Giá muôn vàn
kính yêu nói rút đi làm "muôn yêu" có phải tuyệt vời không nào ?

Lắm khi lại cao hứng dùng ngoại ngữ: thay vì nói luân lý, họ nói logic, quốc gia cực đoan
gọi là xô-vanh. Nhà chính trị đọc Genève la Giơ-ne-vờ, Vence là Ven-xờ, cô tiếp viên hàng
không gọi bagage là ba-ga-giờ, anh bộ đội mua đồ ở chợ trời hay đòi đồ origine mà anh nói
là a-la-din .

Trong một phiên họp, anh phường trưởng nói chuyện chính trị, đề cập đến tình hình Iran, Irak
nhân thể đề cao Illych Leninẹ Mà anh gọi là xứ Một-răng, Một-rắc và ông Một-lít Lê-nin. Thì
ra chữ I hoa ở đầu tên anh tưởng là số 1 La mã. Bảo Mỹ là sen đầm quốc tế anh đọc là con đầm
quốc tế .

DELUX - Anh cán nào đi mua radio hay máy ảnh, tủ lạnh cũng đòi cho được thứ phải có nhãn
hiệu mà anh đọc là gie-lu-xẹ

CHEQUE - Anh cán coi kế toán trong một xí nghiệp nói với khách hàng :
_Hóa đơn này tôi sẽ thanh toán bằng chè-koe .
Thấy khách hàng ra vẻ ngớ ngẩn, anh giải thích:
_Chè-koe là giấy lĩnh tiền ở ngân hàng .
Khách mỉm cười :
_À thì ra là cái xéc .
_Phải rồi, miền Bắc quen gọi là chè-koe, mình dùng tiếng mình mà! Hay gì cái thói dùng
ngoại ngữ!

CƠM KHÁCH SẠN -Một cầu thủ được nhà nước ưu đãi cho ăn cơm khách sạn. Anh ta khoe :
_Chúng tôi ăn uống đúng quy-lắt lắm (ý chừng muốn nói đúng quy tắc).
_Thế anh thường ăn món gì?
_Tôi thích ăn nhất món trứng bít-tết (nghe giải thích mới hiểu đó là món ốp lết, omelette).
Biết anh này cũng thộc loại "phó tiến sĩ hữu nghị" bèn chỉ cái nĩa (fourchette) hỏi :
_Thế cái này anh gọi là cái gì ?
_À đấy là cái dùi ...

PHÓ TIẾN SĨ -Nghe nói các sinh viên du học ở Nga, Đông Đức hay Ba Lan đều học qua
thông dịch viên, không cần học ngoại ngữ nên tiếng Anh, Pháp, hay Đức, cả tiếng Nga nữa
cũng mù tịt, anh nào chịu khó học thì thi đỗ phó-tiến-sĩ, anh nào cán mai, học không vô cũng
được phát cho một cấp bằng phó-tiến-sĩ-hữu-nghị (những phó tiến sĩ này lại bở hơn thứ thiệt,
vì mỗi năm về thăm nhà lại được mua kính, hồ, đài, đạp về bán chợ đen).

Một chuyến xe buýt không biết tài xế lái thế nào mà bị anh cảnh sát công lộ huýt còi phải
dừng lại, trình giấy tờ. Cảnh sát xem giấy tờ lâu, lấy bút ra biên phạt loay hoay mãi không xong,
chị phát vé sốt ruột, nói to cho mọi người nghe:
_Anh cảnh sát này chắc là đỗ phó tiến sĩ bình dân học vụ.
Cử tọa đều cười, chỉ có hàng ghế bộ đội là lặng im, mắt nhìn xuống sàn xe ...


 Không thể xây dựng được chủ nghĩa cộng sản
Có lần Leonid Brezhnev dạo chơi trên Quảng trường Đỏ, một bà người Zigan tiến lại gần và xin bói cho ông một quẻ. Breznhev chìa bàn tay. Xem xong bà phán: “Ông ném xuống biển Đen 3 đồng Lenin (Đồng tiền xu mệnh giá 1 ruble có hình Lenin-Kichbu). Có quý nhân sẽ mách bảo ông”.
Breznhev ném đồng Lenin thứ nhất. Nga hoàng Pyotr Đại Đế từ dưới biển hiện lên và nói : “Xưa ta đã tiến hành cải cách mạnh mẻ đất nước, mà vẫn chưa xây dựng được đất nước Nga vĩ đại thì nay nhà người cũng không thể làm gì được”.
Breznhev ném đồng xu thứ hai. Ekaterina II xuất hiện. Bà phán: “Ta đã từng thâu tóm hết mọi quyền bính trong tay mà không xây dựng được nước Nga hùng cường thì nay mi cũng không làm gì được”.
Breznhev ném đồng thứ ba. Vladimir Ilyich Lenin hiện hình và nói: “Trước đây ta biến những phú nông (culak) thành những người cộng sản, còn bây giờ ngươi lại biến những người cộng sản thành những hào phú, ông sẽ không thể xây dựng được chủ nghĩa cộng sản”.

BÀI LUẬN HỌC SINH XHCN

Đề: Em hãy phân tích câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn”.
Câu tục ngữ uống nước nhớ nguồn cho ta thấy nước ta có nguồn nước rất dồi dào.
Nước rất quan trọng trong đời sống chúng ta: cây cối cũng cần nước, ví dụ: đậu bắp, động vật cũng cần nước, ví dụ: trâu, bò, gà, vịt… Không có nước thì con người sẽ chết. Câu tục ngữ uống nước nhớ nguồn làm em liên tưởng đến câu tục ngữ “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” nghĩa là ăn quả rồi phải nhớ giữ lại hạt để trồng cây mới.
Đề: Bình luận câu tục ngữ “Uống nước nhớ nguồn”.
Uống nước nhớ nguồn là khuyên chúng ta phải nên tiết kiệm nước,
khi tắm phải từ từ, không được xối ào ào…
Đề: Hãy đặt câu có từ “đỡ đần”.
Vì em chăm học nên em đỡ đần.
Đề: Tả một loại cây mà em biết.
Hàng ngày chúng em vui đùa dưới bóng cây khoai lang.
Đề: Em hãy kể lại câu truyện “Thánh Gióng”.
Ngày xửa ngày xưa, đất nước ta sinh ra được một cậu bé Thánh Gióng trông rất là quái nhân vì đã 3 tuổi mà vẫn không biết nói biết cười. Đột nhiên một hôm giặc tới, Thánh Gióng nhảy tót lên mình ngựa, sau  khi đã ăn một bữa cơm khủng khiếp với hàng thúng cà muối mặn mà vẫn không khát nước. Thánh Gióng đánh giặc xong không biết đường về nhà vì chưa ra khỏi nhà lần nào. Thánh Gióng không biết đi đâu về đâu nên đành phải bay lên trời.
Đề: Tả mái đình.
Hôm nay cô giáo cho chúng em về làng quê chơi, đầu làng có cái mái đình cong cong, khi chúng em đến mái đình rung rinh chào đón chúng em.
Đề: Tả vườn rau muống.
Nhà em có một vườn rau muống. Chiều chiều mẹ em lại bắc thang lên hái lá về nấu canh.
Đề: Tả chú bộ đội.
Cạnh nhà em có một chú là bộ đội. Năm nay chú đã 20 tuổi đời. Chú luôn đeo súng ngắn bên mình, mỗi khi ngồi xuống, khẩu súng của chú lại chìa ra trông rất oai hùng.
Đề: Em hãy giải thích câu tục ngữ “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”.
Câu tục ngữ nói lên sự dã man của bọn giặc cướp, khi đã tràn vào làng mạc, nhà cửa thì không cứ đàn ông, mà cả đàn bà, trẻ em chúng cũng đánh đập, hành hạ. Câu tục ngữ trên nhằm kêu gọi nhân dân đánh đuổi quân giặc xâm lược.
Đề: Hãy phân tích bài ca dao: “Trên đồng cạn, dưới đồng sâu. Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”.
Đây là cảnh làm nông của một gia đình khá giả. Họ có ít nhất ba thửa ruộng.
Một thửa ruộng do chồng cày, một thửa thì vợ đang cấy và một thửa ruộng đang bừa.
Họ có ít nhất hai con trâu. Một con đi cày, một con đi bừa.
Đề: Tả chú thương binh.
Gần nhà em có một chú thương binh, chú đã bị thương 2 lần. Một lần ở Buôn Mê Thuột và một lần ở đùi.
Đề: Tả cây hoa hướng dương.
Hôm nay em đi học về nhặt được một hạt hướng dương. Em cho nó vào chậu, sau nó mọc một cây như chiếc đũa. Em chăm bón nó và nó nở một bông hoa như cái nắp ấm.
Sau đó hoa rụng hết cánh, em lấy hạt vào rang ăn.
Đề: Tả cây đàn bầu.
Đàn bầu là đàn có một dây. Dây bầu nằm trong ruột bầu, ruột bầu để mẹ em nấu canh chua.
Đề: Tả con đường làng.
Xa xa con đường có bác nông dân tay dắt cày, vai vác trâu đang từ từ tiến về đầu làng.
Đề: Tả ông nội.
Nhà em có nuôi một ông nội. Năm nay ông 70 tuổi. Ông nội em ăn rất khoẻ, lại còn biết trông nhà.
Đề: Tả bác hàng xóm.
Bên cạnh nhà em có bác tên là Sẵn, ngày ngày bác ra đồng đi cày ruộng, con trâu đi trước bác đi theo sau.
Mỗi lần bác kêu tắc tắc là con trâu lại đi qua bên phải qua bên trái trông thật vui mắt. Khi bác đưa cây roi lên đánh vào mông chú trâu thì ếch nhái hai bên bờ ruộng kêu inh ỏi.
Đề: Tả công viên.
Gần nhà em có một cái công viên. Buổi sáng hay có các cụ già đi bộ tập thể dục.
Buổi trưa hay có các bác xe ôm đỗ xe ngủ. Buổi tối hay có các cô chú ngồi ôm nhau.
Đề: Tả một loại cây mà em biết.
Nhà bà ngoại em có trồng một cây dưa hấu. Lá cây xanh thẫm diệu kỳ. Thân cây rất to, 5 người ôm không xuể.
Đề: Tả chú gà trống.
Nhà em có nuôi một chú gà trống. Chú khoác trên mình bộ váy sặc sỡ. Sáng nào chú cũng dậy sớm chạy ra sân và kêu cục ta cục tác để dụ đám gà mái. Em rất yêu quý chú vì hàng ngày chú đều đẻ trứng cho mẹ em đi chợ bán.
BaoMai (blogspot)

CHÂN TÍN * ỦY BAN ĐOÀN KẾT

Ủy ban Đoàn kết Công giáo: Tập đoàn của âm mưu và tội ác

Submitted by on March 28, 2013 – 10:52 amNo Comment
timthumb.php
LTS:
Thời gian qua, Nữ Vương Công Lý đã có một số thông tin về cái gọi là Ủy Ban đoàn kết Công giáo.
Nhiều bài viết, tư liệu và chứng cứ đã vạch rõ Ủy ban này ra đời, được nuôi nấng với nhiệm vụ tiêu diệt bằng được Giáo hội Công giáo qua hình thức tinh vi là thiết lập một Giáo hội Công giáo tự trị – tam tự – kiểu Trung Quốc.
Nhiều tác giả, nhân chứng đã nói lên bản chất của cái gọi là Ủy ban này, hoàn toàn nhằm chống lại Công giáo, như lời Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt đã xác nhận: “Đó là công giáo nhãn hiệu”. Tiếc thay, đến hiện nay nhiều Giáo phận, nhiều nơi vẫn còn dung túng cho các linh mục, giáo sĩ, giáo dân tham gia tổ chức này.
Để quý vị độc giả hiểu rõ hơn những tội ác, những âm mưu và những hành động mà cái Ủy ban này gây ra cho Giáo hội, từ nay, Nữ Vương Công Lý xin giới thiệu loạt bài của Linh mục Chân Tín, một linh mục đã trọng tuổi, một con người đứng vững, hiên ngang trước mọi thế lực đe dọa, sẵn sàng lấy cả mạng sống mình chứng minh cho sự thật.
Qua loạt bài này, chúng ta sẽ thấy hiện rõ nét bộ mặt của cái Ủy ban mang tên mỹ miều “Đoàn kết Công giáo” hiện nay.
Nữ Vương Công Lý đồng thời cũng xin các độc giả, các tác giả có những hiểu biết, chứng cứ và tài liệu của Ủy ban này lên tiếng để mọi người dân hiểu được bản chất của tổ chức này, không thể để trò lập lờ đánh lận con đen trong thời đại thông tin hiện nay.
Phần 1:
Các lãnh tụ tương lai của Ủy ban Đoàn kết: Hô hào trục xuất Đức Khâm sứ Tòa thánh và Đức cha Thuận
Ít ngày sau 30/4/1975, các lãnh tụ tương lai của Ủy ban Đoàn kết, gồm có linh mục Trương Bá Cần, Huỳnh Công Minh, Vương Đình Bích, Phan Khắc Từ đã hô hào trục xuất Đức Khâm sứ Tòa thánh Henri Lemaitre và phản đối việc Tòa thánh bổ nhiệm Đức cha Nguyễn Văn Thuận làm Tổng giám mục phó Tổng giáo phận Sài Gòn.
Các linh mục Huỳnh Công Minh, Trương Bá Cần, Phan Khắc Từ, Vương Đình Bích – Những kẻ đã hô hào trục xuất Đức Khâm sứ Tòa thánh Henri Lemaitre. (Lm Trương Bá Cần đã về chầu…?)
Nguyễn Antôn (Công giáo Miền nam sau 1975) đã viết về các vị ấy: “Nhảy qua tường, đột nhập vào Tòa Khâm sứ, dùng búa đập phá ổ khóa ngoài cổng, trèo lên mái nhà căng biểu ngữ và hạ lá cờ Tòa thánh. Bọn chúng hò hét: Đả đảo! Đả đả! Henri Lemaitre về nước, cút cút đi, cút đi. Họ xô đẩy đức Khâm sứ, linh mục phụ tá người Balan và linh mục Bí thư người Việt từ trong khuôn viên Tòa Khâm sứ ra đường Hai Bà Trưng, rồi đóng sập cửa lại” (trang 219). Các vị ấy tấn công Tòa Khâm sứ Tòa thánh vào ngày 14/5/1975 – tức là chỉ hai tuần sau khi cộng sản cướp chính quyền.
Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận, TGM Phó TGP Sài Gòn bị bắt bỏ tù CS
Cũng chính các vị lãnh tụ tương lai của Ủy ban Đoàn kết này đã hô hào loại trừ Đức cha Fx. Nguyễn Văn Thuận, Tổng Giám mục phó Tổng Giáo phận Sài Gòn. Ngày 25/4/1975, 5 ngày trước khi tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, Đức cha Fx. Nguyễn Văn Thuận – Giám mục Nha Trang, được Đức Giáo hoàng Phaolo VI bổ nhiệm làm Tổng Giám mục phó Tổng Giáo phận Sài Gòn với quyền kế vị. Ngày 12/5/1975, Đức Tổng giám mục Phaolo Nguyễn Văn Bình cho phổ biến thông cáo về việc bổ nhiệm trên. Nhóm  các linh mục lãnh tụ tương lai của Ủy ban Đoàn kết đã bao vây Đức Tổng Giám mục Phaolo Nguyễn Văn Bình và Đức cha Fx. Nguyễn Văn Thuận. Họ yêu cầu Đức cha Thuận rút lui khỏi chức vụ.
Trong vấn đề này, Đức cha Phaolo Nguyễn Văn Bình đã tỏ ra khá cứng rắn. Ngày 7/6/1975, Đức cha Nguyễn Văn Bình đã viết một lá thơ xác nhận: “Việc Tòa thánh bổ nhiệm Đức cha Fx. Nguyễn Văn Thuận làm Giám mục phó Tổng Giáo phận Sài Gòn với quyền kế vị là một việc hợp với nhu cầu mục vụ của địa phận Sài Gòn. Đây không phải là một việc áp đặt như một số người đã hiểu lầm. Nhiều Giám mục đã được tham khảo ý kiến, dĩ nhiên trong đó có tôi. Chính tôi đã đồng ý hoàn toàn việc bổ niệm này. Kêu gọi quý cha, quý tu sĩ nam nữ và giáo dân sẵn sàng tuân phục hoàn toàn quyết định của Tòa thánh La mã“.
Đức Cố Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình
Qua ngày 8/6/1975, đức cha Nguyễn Văn Bình còn gửi cho chính quyền Cộng sản một kháng thư: “Mấy tổ chức mệnh danh Công giáo chỉ là một thiểu số không đáng kể trong hàng ngũ Công giáo, không thể nào đại diện cho đông đảo giáo dân Công giáo. Những tội danh gán buộc cho Đức Khâm sứ Henri Lemaitre và Đức tổng Giám mục Fx. Nguyễn Văn Thuận hoàn toàn thất thiệt”.
Tiếp đó, Đức Tổng Phaolo Nguyễn Văn Bình, “khẩn thiết yêu cầu” chính phủ cách mạng cho nghiêm lệnh:
  1. 1. Triệt để thi hành Sắc lệnh Tự do Tín ngưỡng mà Chủ tịch HCM đã ban bố tại Hà Nội ngày 14/5/1955 cũng như chính sách 10 điểm mà Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền nam Việt Nam đã tuyên bố ngày 14-5-1969, hầu gây tin tưởng và phấn khởi của toàn dân đối với Chính phủ.
  2. 2. Chấm dứt các chiến dịch tuyên truyền, bôi nhọ các chức sắc Giáo hội Công giáo Việt Nam.
  3. 3. Chặn đứng ngay chiến dịch vận động phi pháp, đòi trục xuất Đức Tổng Giám mục Nguyễn Văn Thuận, vì việc trục xuất phi pháp này vi phạm trầm trọng Sắc lệnh Tự do Tín ngưỡng và chính sách 10 điểm của Chính phủ, sẽ gây nguy hại cực kỳ lớn lao không lường được về đối nội cũng như đối ngoại cho quốc gia và dân tộc.
Ta thấy Đức Tổng giám mục Phaolo Nguyễn Văn Bình lúc này rất cứng cáp và can đảm, nhưng kể từ khi có 4 ông cố vấn của Ủy ban Đoàn kết, ngài đã yếu đi, không cứng rắn và can đảm như trước. Vào cuối đời, Đức cha Nguyễn Văn Bình đã tâm sự: “Ngài sợ” và khi gần chết vẫn còn sợ cộng sản.
Hai tháng sau, ngày 15/8/1975, bất chấp kháng thư của Đức cha Bình, cộng sản đã bắt Đức cha Nguyễn Văn Thuận, câu lưu ngài tại Cây Vông, thuộc tỉnh Khánh Hòa và sau cùng đày ngài ra Bắc cầm tù 13 năm, trong đó có 9 năm biệt giam.
Các linh mục kia đã lập công, nên đã được chọn làm lãnh tụ cho Ủy ban Đoàn kết, tay sai của Đảng cộng sản Việt Nam.
Ủy ban Đoàn kết xuyên tạc Thư chung 1980 của HĐGM Việt Nam
Ngày 1/5/1980, Hội đồng Giám mục Việt Nam có gửi một Thư chung cho toàn thể linh mục, tu sĩ và giáo dân Việt Nam.
Đây là Đại hội đầu tiên của toàn thể các Giám mục Việt Nam thống nhất. Sau khi Hội đồng Giám mục Việt Nam cho dân Chúa biết về một tuần làm việc của Hội đồng Giám mục tại Hà Nội, ý nghĩa của việc viếng mộ hai thánh Tông đồ ở Roma và việc tham dự Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã đưa ra một đường hướng mục vụ với chủ đề: “Giáo hội đồng hành với Dân tộc”, và kêu gọi người Công giáo: “Sống Phúc âm giữa lòng Dân tộc”. Dân tộc mà Hội đồng Giám mục và toàn thể nhân dân Việt Nam đang bị đảng Cộng sản đầy đọa, áp bức, bóc lột, mất hết tự do. Người Công giáo phải đồng hành với nhân dân Việt Nam, chia sẻ nỗi đau khổ, mất mát về tinh thần cũng như vật chất, quyết đấu tranh cho con người, chống lại một chế độ vô nhân đạo, chống lại thiểu số đảng viên cộng sản phè phỡn sống trên xương máu của người dân.
Về giá trị của Thư chung năm 1980, cha Nguyễn Ngọc Tỉnh, OFM, viết: “Chỉ cần nhìn các trích dẫn, chúng ta dễ dàng nhận ra nền tảng của Văn kiện, đó là Lời Chúa, là Giáo huấn của Công đồng Vaticano II, Giáo huấn của hai vị Giáo hoàng Phaolo VI và Gioan Phaolo II. Điều cần lưu ý là Văn kiện đã được sự đóng góp của nhiều chuyên viên trong các lãnh vực: Thần học, Kinh thánh, Xã hội…Nhưng điều hiển nhiên hơn cả, là khi đọc thư mục vụ 1980, ta có cảm tưởng đang hít thở không khí trong lành, lạc quan như của Hiến chế “Vui mừng và Hy vọng” của Công đồng Vatican II. Thư chung 1980 của Hội đồng Giám mục Việt Nam chính là cẩm nang, là văn kiện định hướng cho các tín hữu Công giáo Việt Nam đầu thập niêm 80 của thế kỷ trước. Và như đã nói trên, chính vì Văn kiện dựa trên Lời Chúa cũng như Giáo huấn của Công đồng Vaticano II và các Giáo hoàng, nên không có lý do gì để hoài nghi về nội dung. Và cũng chính vì vậy, mà ta cũng có thể nói: Thư chung 1980 không chỉ có giá trị vào thời điểm được viết ra và công bố, nhưng còn có giá trị cho bất cứ giai đoạn nào, bất cứ hoàn cảnh nào” (Nguyễn Ngọc Tỉnh, Thắp một Ngọn nến cho Thái Hà, 2010, trg. 146-147).
Lm Võ Thành Trinh đã chết, song người đời còn nhắc mãi đến ông vì những gì ông đã làm

Thế nhưng, Ủy ban Đoàn kết đã xuyên tạc ý nghĩa tốt đẹp của Thư chung 1980 của hàng Giáo phẩm Việt Nam. Linh mục Võ Thành Trinh, chủ tịch Ủy ban Đoàn kết và các linh mục khác của Ủy ban, mà dân chúng gọi là “quốc doanh” đã lợi dụng lời kêu gọi đó để vận động, tuyên truyền cho nhà nước cộng sản.

Linh mục Võ Thành Trinh nói: “Yêu nước phải gắn liền với Chủ nghĩa Xã hội” Ông còn kêu gọi Ủy ban Đoàn kết phải cấp bách hoạt động cho Chủ nghĩa Xã hội, Chủ nghĩa cộng sản: “Chúng ta càng ngày càng làm cho đông đảo đồng bào Công giáo thấy rõ: yêu nước là vinh quang, yêu nước bây giờ là xây dựng Chủ nghĩa Xã hội, không còn con đường nào khác”.

Kể từ đó, Thư chung 1980 bị Ủy ban Đoàn kết khai thác theo hướng tuyên truyền có lợi cho cộng sản.

Trong bài Báo cáo Tổng kết của Ủy ban Đoàn kết tại Đại hội “những người Công giáo Việt Nam yêu Tổ quốc yêu đồng bào” năm 2003, linh mục Phan Khắc Từ đã nói: “Đường hướng sống phúc âm giữa lòng dân tộc được Hội đồng Giám mục Việt Nam đề ra từ năm 1980, đã tác động thức đẩy phong trào yêu nước trong đồng bào công giáo phát triển mạnh mẽ. Lời dạy của các vị chủ chăn Công giáo Việt Nam cũng chính là sự nhìn nhận những hoạt động thường xuyên của phong trào và Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam”.

Cùng với Ủy ban Đoàn kết, đảng cộng sản cũng khai thác Thư chung 1980. Ông Phạm Thế Duyệt, Chủ tịch UBMT Tổ quốc Việt Nam, trong bài phát biểu tại đại hội nói trên, sau khi ca ngợi hàng loạt “thánh tích” của Ủy ban Đoàn kết, đã nói: “Thành tích đó khẳng định tính đúng đắn của đường hướng mà Hội đồng Giám mục Việt Nam đã lựa chọn, thể hiện trong Thư chung 1980 là sống Phúc âm giữa lòng dân tộc”.
Thành tích của Ủy ban Đoàn kết trong việc xuyên tạc ý nghĩa của Thư chung 1980 đã có những kết quả bi đát. Cha Nguyễn Ngọc Tỉnh đã từng đặt vấn đề về câu khẩu hiệu này và ngài cũng đã trả lời: “Trong suốt năm 2007, khi phong trào dân oan đi đòi công lý rộ lên từ Bắc chí Nam, từ nông thôn tới thành thị, Giáo hội Công giáo làm thinh. Khi nổi lên vụ khai thác boxit, các nhà trí thức công khai bày tỏ ý kiến, yêu cầu nhà nước ngưng triển khai dự án, Giáo hội Công giáo làm thinh. Khi những người mạnh dạn tố cáo tham nhũng, khi các nhà đấu tranh cho tự do dân chủ lần lượt theo nhau vào tù, Giáo hội Công giáo làm thinh. Khi người dân bày tỏ lòng yêu nước cùng xuống đường tuần hành biểu tình chống Trung quốc chiếm hai đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhiều học sinh, sinh viên và dân thường bị bắt, bị bỏ tù, Giáo hội Công giáo làm thinh. Thế thì câu hỏi đặt ra là, trong những hoàn cảnh bức thiết đến như vậy, trong khi những cá nhân bất chấp bao phiền toái cho bản thân, bất chấp hiểm nguy cho tính mạng, dám can đảm đi đòi công lý, dám hiên ngang tỏ bày lập trường, mạnh mẽ nói lên lòng yêu nước, một niềm gắn bó với tiền đồ dân tộc, thì những người Công giáo, bắt đầu từ những vị lãnh đạo xem như chẳng có chi liên quan tới mình, để mình pahir bận tâm. Trong hoàn cảnh đó, làm sao có thể chứng minh cho mọi người rằng Giáo hội Công giáo Việt Nam chúng ta đang sống Phúc âm giữa lòng dân tộc, đang đồng hành với dân tộc hôm nay? “(Id trg. 152-153)
Tình trạng bi đát này là thành tích của Ủy ban Đoàn kết đáng được đảng ca ngợi.

Linh mục Chân Tín

TIỂU TỬ * CÁI MIỆNG

Cái « Miệng ... Trên »
                                                                      Tiểu Tử
alt
   

Cái miệng có hai chức năng chánh : ăn và nói . Xưa nay ít có ai để ý đến những chức năng phụ của cái miệng – tiếng là phụ nhưng cũng không kém phần quan trọng – như : ngáp , ợ , ho , khạc , thở khi nào bị nghẹt mũi ... Có lẽ tại vì nó ... hạ cấp quá nên bị coi thường ! Và cũng tại vì có sự coi thường đó mà người ta chỉ chú trọng dạy trẻ con học ăn học nói thôi . Thành ra , lớn lên , phần đông ngáp ơi ới không che miệng , ợ ồng ộc nghe chỏi lỗ tai , ho thẳng vào mặt người đối diện , còn khạc nhổ thì tùm lum bất cứ chỗ nào ... Trong chuyện phiếm này , tôi cũng theo « truyền thống" để chỉ viết về hai chức năng « ăn và nói » của cái miệng .

Ăn ... Từ hồi còn nằm trong bụng Mẹ , con người đã biết ăn ( Ông Trời sanh ra như vậy ! ) . Mới lọt lòng , không ai dạy , kề vú vào miệng là đã biết ... đớp ( Về sau , khi đã thành nhơn , có đòi đớp như hồi bê bê là một ... cái gì khác chớ không phải là ăn ! ) . Thành ra « ăn » là một bản năng . Hễ đói là tự nhiên phải kiếm cái gì ăn , chưa biết rằng không ăn lần hồi rồi sẽ chết ( Ăn ... hối lộ không nằm trong « diện » tự nhiên trời sanh này ! ) . Khái niệm « chết vì không có gì ăn hay có mà ăn không được » chỉ đến với con người khi con người có đủ trí khôn . Khỗ nỗi , khi có đủ trí khôn , con người lại đòi « ăn ngon » , biết chê biết khen , biết chế biến món này món nọ để ăn cho « khoái khẩu » . Cái « ăn » , vì vậy , đã chiếm ... đỉnh cao của trí tuệ loài người , đến nỗi có câu « dĩ thực vi tiên » ( ăn trước đã ! ) và ở Việt Nam miền nào cũng quảng cáo rầm rộ « món ăn đặc sản » để làm ... chảy nước miếng du khách ( Ở Hà Nội bây giờ « chảy nước miếng hay chảy nước dãi » được gọi là « toát mồ hôi lưỡi » ! Từ ngữ cách mạng vốn ... trừu tượng ! ) . Trên thế giới , ngành du lịch xứ nào cũng giới thiệu thật nhiều về « cái ăn » ngay sau khi cho xem phong cảnh hùng vĩ hữu tình . Để thấy cái miệng tuy nhỏ xíu như vậy mà đã ... đẻ ra chữ « ăn » thật to tổ chảng !

Trong từ ngữ thông thường , chữ « ăn » lúc nào cũng thấy như người lãnh đạo , nghĩa là đứng trên đứng trước nhiều chữ diễn tả một hành động một sự kiện – không biết để làm gì nhưng vẫn phải ... đứng trên đứng trước ! – Ví dụ như « ăn quịt , ăn gian , ăn trộm , ăn cướp » ... Tiếng « ăn » ... ăn nhậu gì với những chuyện « quịt , gian , trộm , cướp » , vậy mà phải có lãnh đạo « ăn » vào đó nghe nó mới ... xuôi lỗ tai ! Rồi thì ... ăn tùm lum , lúc nào ở đâu cũng thấy ăn : ăn giỗ , ăn cưới ( Hồi xưa còn nói « ăn đám ma » nữa ! ) ăn khánh thành , ăn lên lon , ăn Tết , ăn đầy tháng , ăn thôi nôi , ăn ... hối lộ ... Chỉ có « ăn » thôi , vậy mà cái miệng sao mà « lắm chuyện » !

Bây giờ , xin nói đến « nói » .
Con người nếu sống một mình chắc không cần phải biết nói ! Thật vậy , biết nói để nói với ai ? Rồi , bởi vì con người cần sống với con người nên mới phải « nói » để hiểu nhau . Mới đầu nói bằng ... tay chân ( bây giờ gọi là « ra dấu » ) Lần hồi , chắc ra dấu ... mỏi tay nên mới bày đặt tiếng nói ( Dầu sao , mỏi miệng vẫn ... dễ chịu hơn mỏi tay ; cái trí khôn của con người bắt đầu ... ló dạng ! ) Cái miệng , ngoài chức năng « ăn » của Trời cho , bây giờ có thêm chức năng « nói » do con người đẻ ra vì muốn người khác hiểu mình nghĩ gì muốn gì .


Con người mới sanh ra chưa biết nói , chỉ biết khóc ! Các nhà văn gọi đó là « tiếng khóc chào đời » . Hay quá ! Thật vậy , nếu không có tiếng khóc thì làm gì có tiếng nói ? Rồi từ chỗ « oa oa » đó ọ ẹ riết rồi cũng ra chữ ra câu . Người ta dạy trẻ con học nói cho đúng cách , học nói cho có lễ độ , học nói cho thanh tao . Có một điều lạ là những tiếng ... chửi thề chẳng thấy ai dạy mà sao ai ai cũng biết và biết sử dụng đúng nơi đúng lúc một cách « tài tình » ! Ngoài những từ ngữ thông dụng – không kể chửi thề , dĩ nhiên – Nhà Nước Việt Nam còn dạy trẻ con hô khẩu hiệu , nói những lời « dao to búa lớn » theo ... phong cách xã hội chủ nghĩa , nghĩa là nói để cho có nói chớ không phải nói để cho người khác hiểu mình nghĩ gì muốn gì . Cái « nói » – một chức năng của cái miệng – cũng bị làm ... cách mạng ! Than ôi !


Nói về « nói » , con người nói thôi ... đủ thứ . Nào là « nói thánh nói tướng » , « nói láo nói phét » , « nói hành nói tỏi » , « nói trăng nói cuội » ... Rồi « nói phang ngang bửa củi » , « nói dộng trong họng người ta » , « nói trên trời dưới đất » , « nói mà cái miệng không kịp kéo da non » , « nói như con két » ... Cái miệng nói nhiều hơn ăn , bởi vì ăn no rồi là không ăn được nữa chớ còn nói thì có bao giờ bị ... no nói đâu để mà phải ngừng ?


Tóm lại , cái miệng là để ăn và để nói . Vậy mà chính cái miệng nó « hành » con người . Ông bà mình hay nói :» Bịnh từ miệng mà vào , Vạ từ miệng mà ra » . Đúng quá ! Tại vì mình ăn mới đem mầm bịnh vào người và tại vì mình nói mới đụng chạm sanh chuyện . Biết như vậy nhưng làm sao con người sống mà không ăn không nói ?


Ở Việt Nam , Nhà Nước ta đã thấu triệt cái « chân lý » vừa kể cho nên đã ... phân loại cái miệng : miệng của nhân dân và miệng của Nhà Nước . Cái miệng của nhân dân là cái miệng « ăn » còn cái miệng của Nhà Nước là cái miệng « nói » . Nhà Nước « quản lý » cái miệng ăn nên chỉ cho ăn vừa phải , đúng tiêu chuẩn , để nhân dân đừng ... bị bịnh ! ( Bệnh từ mồm mà vào , đúng thế đấy ... Ta đã học tập và triển khai cái chân lý ấy từ thời ... không có gì để ăn cơ ! ) .


Còn « nói » thì nhân dân không nên nói , bởi vì « nói » là mang vạ vào thân đấy thôi . Để Nhà Nước nói , bởi vì Nhà Nước , đã là đỉnh cao trí tuệ của loài người , biết nói thế nào để không bao giờ phải ... mang vạ vào thân . Và bởi vì cái miệng của Nhà Nước là loại miệng nói không sợ ... mòn , không phải tốn tiền mua và dự trữ đồ phụ tùng thay thế . Cho nên đừng ngạc nhiên sao ở Việt Nam chỉ nghe có Nhà Nước nói và nói không bao giờ ... ngừng ! Ngoài ra , Nhà Nước vì thương dân nên khi thấy dân há miệng định nói là đưa tay bịt miệng ngay kẻo dân mang vạ vào thân , tội nghiệp ! Một cử chỉ ... đẹp như vậy mà thiên hạ cứ ... vo tròn bóp méo !

Nếu « ăn » là để sống thì « nói » là để cảm nhận rằng mình đang sống . Vậy mà người dân Việt Nam chỉ được phép dùng cái miệng để ăn thôi ...

Tiểu Tử

NGUYỄN HƯNG QUỐC * TRÍ TUỆ DỈNH CAO


Blog / Nguyễn Hưng Quốc

Đỉnh cao trí tuệ

Đỉnh cao trí tuệ
Đỉnh cao trí tuệ
CỠ CHỮ
Không cần giải thích, ai cũng biết mấy chữ “đỉnh cao trí tuệ” ấy ám chỉ ai. Mà cũng không phải là ám chỉ nữa. Người ta tự nhận như thế. Một cách công khai, rõ ràng và đầy tự hào từ cả mấy chục năm nay.
Có ai hoài nghi về những điều ấy không?
Có. Từ phía dân chúng và những người đối lập.
Điều đặc biệt thú vị là, gần đây, những sự hoài nghi ấy được phát biểu ngay từ nội bộ đảng, từ các đảng viên, thậm chí, đảng viên kỳ cựu.
Điều đó có thể thấy rõ trong cuộc hội thảo để góp ý với đại hội đảng lần thứ 11 được tổ chức tại Hà Nội vào ngày 7 tháng 11 năm 2010 với sự tham dự của mấy chục trí thức và cán bộ từng giữ những chức vụ cao cấp trong guồng máy đảng và chính quyền tại Việt Nam.
Trong cuộc hội thảo, họ bàn đến rất nhiều chuyện. Thú nhất là cách họ đánh giá giới lãnh đạo.
Hình như không có ai khen hay có chút gì khâm phục cả.
Ví dụ lời phát biểu của tiến sĩ Lưu Bích Hồ, cựu Viện trưởng Viện Chiến lược chính sách, Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Liên quan đến vấn đề trình độ của giới lãnh đạo Việt Nam, bà tỏ ra dè dặt: “câu hỏi này hơi khó trả lời.” Nhưng rồi bà cũng nói: “tôi xin phép nói thế này. Trong cái Trung ương mà tôi được ngồi chầu rìa và trong Bộ Chính trị thì không phải không có nhiều đồng chí có trình độ trí tuệ khá cao.”
Hình như nghĩ là chưa đủ rõ ràng, ngay sau đó, Lưu Bích Hồ lặp lại: “hiện nay, tôi cảm giác thấy là trình độ của các đồng chí kể cả trong Bộ Chính trị cũng có những đồng chí có những trình độ, trí tuệ khá cao chứ không phải thấp lắm đâu. Nhưng mà nói chung thì chưa bằng bên ngoài (có nhiều tiếng cười). Tôi xin phép…nói chung là trình độ lãnh đạo hay trí tuệ lãnh đạo chưa bằng ở bên ngoài.”
Tiến sĩ Lưu Bích Hồ nêu một ví dụ: Khi có người đề nghị cho xây dựng một thứ xã hội dân sự ở Việt Nam thì có một vị lãnh đạo gạt đi, bảo: “nói xã hội dân sự là vớ vẩn, rơi vào cái ‘Câu lạc bộ Petophi’ của Đông Âu ngày xưa, nó là đối chọi với Đảng Cộng sản, nó lật đổ đấy.”
Nghe đến đó, Trần Phương, cựu Phó Thủ tướng, cựu Ủy viên Ban chấp hành Trung ương đảng, chủ tịch Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam, người điều khiển cuộc hội thảo, vọt miệng nói chen vào bài phát biểu của Tiến sĩ Lưu Bích Hồ:
“Nếu thế thì Mác cũng là ‘Petophi’ à? …Chính Mác là nói về xã hội dân sự rất nhiều. Thế thì các ông ý chẳng học chó gì cả!”
Biên bản cuộc hội thảo ghi nhận, nghe Trần Phương nói thế, “tiếng cười phá lên” trong hội trường.
Đọc những lời phát biểu của Tiến sĩ Lưu Bích Hồ và giáo sư Trần Phương, tôi chợt nhớ đâu khoảng những năm 1986 hay 1987 gì đó, khi chính sách cởi trói vừa mới khởi động, báo chí nhao nhao tố cáo và lên án những tệ nạn xã hội tại Việt Nam, tôi đọc được một bài báo của ai đó nói về những sự tự mãn vô bờ bến của giới lãnh đạo Việt Nam. Chuyện kể: một hôm, một nhà khoa học đề nghị một vị lãnh đạo cho gửi sinh viên ra nước ngoài du học về ngành xã hội học vốn là một ngành học vô cùng cần thiết trong việc tìm hiểu xã hội và hoạch định chính sách nhưng lại hoàn toàn vắng mặt tại Việt Nam thời ấy. Nghe lời đề nghị, vị lãnh đạo lớn tiếng nạt, đại khái: Cần gì phải ra nước ngoài học? Cứ xách cặp theo tôi, quan sát, ghi chép những gì tôi nói rồi học hỏi là được rồi!
Tôi đọc bài báo ấy lúc còn ở Paris, cảm thấy rất thích thú, bèn cắt giữ làm tài liệu. Nhưng sau bao nhiêu lần dọn nhà, gần đây, cố tìm, vẫn chưa thấy. Tôi hy vọng những người quan tâm đến Việt Nam có thể lục lại tài liệu này hoặc những tài liệu tương tự.
Trong khi chưa tìm ra tài liệu vừa kể, tôi vui mừng bắt gặp chi tiết này trong bài viết “Hoàng Ngọc Hiến, như tôi đã biết...” của Phan Hồng Giang:
“Mùa hè 1964, hàng trăm lưu học sinh Việt Nam ở Liên Xô được triệu hồi về nước để tham dự khóa chỉnh huấn tập trung 1 tháng tại Trường Đại học kinh tế Quốc dân ở Ngã tư Vọng - Đại La. [...] Cho đến giờ chúng tôi vẫn chưa quên những "lời có cánh" từ miệng các vị giảng viên cao cấp: "với ông anh cả Liên Xô, ta vẫn có thể ôm hôn, nhưng tuyệt đối không được hít (!?); "ta cương quyết đánh Mỹ, đồng nghĩa ta là trung tâm cách mạng, ta là người nắm chân lý, thiên hạ có cắp sách đến ta mà học thì đến, chứ việc gì ta phải đi học đâu! Cần có bằng tiến sĩ à? Thì ta cứ ngồi mà phong cho nhau cũng được, có sao đâu!"… (Kết quả của những lời này là hầu hết các học viên khóa chỉnh huấn nọ đều ở lại Việt Nam, mặc dù đồ đạc tư trang của họ vẫn để ở Liên Xô.)”
Hai câu chuyện trên đều xảy ra từ nhiều thập niên về trước.
Hiện nay giới lãnh đạo Việt Nam đã bớt tự mãn chút nào chưa?
Tôi có cảm tưởng là chưa.
Đọc các bài diễn văn, kể cả báo cáo hay dự án chiến lược phát triển của họ nhân kỳ đại hội đảng lần thứ 11 đang diễn ra tại Hà Nội vào giữa tháng 1 này, tôi có cảm tưởng họ vẫn rất tự tin vào trí tuệ của họ và bất chấp những khám phá hay thậm chí hiểu biết của cả thế giới.
Khắp nơi đều biết chủ nghĩa xã hội là một thất bại và đã bị sụp đổ rồi ư? Họ bất chấp, cứ khẳng định: đó là xu thế tất yếu của lịch sử.
Khắp nơi đều biết trong hơn nửa thế kỷ, các nước xã hội chủ nghĩa, từ Liên Xô đến Trung Quốc, từ Đông Âu đến Cuba và Bắc Hàn... đều là những nơi dân chúng bị chà đạp, thậm chí, tàn sát nhiều nhất, họ vẫn bất chấp và khẳng định: chỉ có chủ nghĩa xã hội mới mang lại tự do và dân chủ cho mọi người.
Khắp nơi đều biết nơi nào có chủ nghĩa xã hội, nơi đó đều bị chìm ngập trong lạc hậu và nghèo đói: trong khi Tây Đức phát triển vượt bậc, Đông Đức cứ lê lết khốn khổ; Nam Triều Tiên trở thành siêu cường ở Á châu trong khi Bắc Triều Tiên thì thiếu thốn từ chén cơm manh áo, thế mà họ vẫn cứ bất chấp và khẳng định: chỉ có chủ nghĩa xã hội mới làm Việt Nam phát triển và thịnh vượng.
Khắp nơi đều biết muốn dân chủ thì phải đa đảng, họ vẫn bất chấp và khẳng định: Việt Nam không cần và không bao giờ cần đa nguyên, đa đảng.
Vân vân.
Bài viết này xin phép không có câu kết luận.
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Nguyễn Hưng Quốc

Nhà phê bình văn học, nguyên chủ bút tạp chí Việt (1998-2001) và đồng chủ bút tờ báo mạng Tiền Vệ (http://tienve.org). Hiện là chủ nhiệm Ban Việt Học tại trường Đại Học Victoria, Úc. Đã xuất bản trên mười cuốn sách về văn học Việt Nam.

VĂN QUANG * ĐỔI VỢ

Một chòi lá trong khu du lịch ở Tây Ninh là nơi gặp nhau của nhóm swing. 
Chuyện về những nghị định, quyết định ở VN không giống ai đã công bố hay còn là dự thảo đang gây nhiều tranh cãi dẫn đến bất bình của người dân còn khá nhiều. Nào là làm lại Chứng minh nhân dân 12 số, chuyện ông Ngân hàng nhà nước “ngồi nhầm chỗ” nhảy ra làm “ông buôn bán vàng chuyên nghiệp”, đề nghị cho bắn người chống cán bộ thi hành công vụ và những quy định lẩm cẩm khác như bàn tay sáu ngón không được lái xe, việc Giám đốc Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng mang 11 sổ đỏ của Vườn đi thế chấp hoặc cầm cố…
Nhưng bàn mãi về những chuyện đó khiến quý bạn đọc đau đầu, nên kỳ này xin bàn đến một chuyện vui buồn lẫn lộn trong lãnh vực tình cảm, thứ chuyện muôn đời nói hoài không bao giờ hết. VN mới có Dự thảo Nghị định xử phạt những người ngoại tình và quấy rối tình dục tại nơi làm việc có thể bị phạt tiền từ 50 đến 75 triệu đồng. Kỳ sau xin bàn với bạn về lợi hai của cái nghị định đó.

Nhân bàn về chuyện này, kỳ này xin mời bạn đọc thưởng thức một chuyện tưởng như không bao giờ có thật ở VN. Tôi cứ băn khoăn mãi, không biết chuyện này có làm cho đời sống nông thôn VN vốn hiền hòa chất phác có bị “nhiễm độc” vì những thứ văn hóa đồi trụy từ ngày “mở cửa” không? Bạn cứ đọc đi rồi cười cũng được, khóc cũng được

Chuyện không thể tin, vẫn có thật

Thưa bạn, chuyện này khi nghe một anh bạn nói lại, tôi cũng không tin. Buổi sáng ngày 9-4 vừa qua, ngồi ở cà phê sân vườn dưới Phú Nhuận, một anh bạn trẻ là phóng viên một tờ báo, phây phây hỏi tôi:

- Bác có biết tin mấy ông nông dân thứ thiệt nhà ta “chịu chơi” hơn bọn trẻ chưa. Họ dám đổi vợ cho nhau đấy.

Tôi không tin nên chỉ lắc đầu cười dài:

- Cậu chơi trò cá tháng tư với đấy hả?

Anh ta bèn lên giọng đứng đắn nói đó là chuyện hoàn toàn có thật, có tên tuổi đàng hoàng, có cả viên chức chính quyền địa phương làm chứng. Chuyện xảy ra từ lâu nhưng đến nay mới được “khui” ra. Anh kể lại sơ lược câu chuyên ly kỳ này. Anh ta cũng lấy tin trong một tờ báo khác nhưng không nhớ là báo nào. Sau khi về nhà, anh PV “meo” cho tôi luôn tin đó. Tôi đọc và tìm hiểu thêm, xin tóm tắt:

Thật ra chuyện đổi vợ đã từng xảy ra ở một vài nơi trên thế giới. Năm 1960, tại Anh, kể từ khi thuốc tránh thai được phát minh, phong trào buông thả tình dục trong giới trẻ bùng phát mạnh. Các nhà sử học gọi giai đoạn này là "Cuộc cách mạng tình dục ở châu Âu". Hình thức sinh hoạt câu lạc bộ phi công của Mỹ lan sang Anh gặp môi trường "cách mạng tình dục" đã biến nhanh thành phong trào swing. Hội viên hội swing gọi là swinger. Được một thời gian, phong trào swing dần thoái hóa vì sự kỳ thị của xã hội. Một số tín đồ swing vẫn ngấm ngầm hoạt động trong vòng bí mật để tránh ánh mắt dè bỉu, kỳ thị của xã hội. Giống như các loại hình giải trí khác, swing cũng len lỏi vào xã hội Việt một cách ngấm ngầm ở vài nơi.
Cụ thể như ở TP Sài Gòn, mới năm 2012, một cái hội cũng được gọi là Swing ở khu Bàu Cát - TP Sài Gòn. Có nhiều cặp mang vợ đến đổi cho nhau, có khi lên đến 8 cặp, thay đổi bất cứ khi nào cho có “người mới”. Nhưng đó là dân thành phố, gồm mấy anh chị hầu hết là vợ hờ chồng tạm, thích tập tành làm “dân văn minh quốc tế”. Ấy thế mà cũng có luật lệ đàng hoàng. Phải có giấy “đăng ký kết hôn” và giấy xét nghiệm máu mới được cho vào hội để tránh bị AIDS. Nhưng thật ra những giấy tờ đó đều là giả, chỉ cần bỏ ra hai trăm ngàn là có ngay giấy khống chỉ, có mộc đỏ đàng hoàng, chỉ việc điền tên vào là xong ngay. Ở VN cái gì cũng làm giả được hết từ bằng tiến sĩ đến cái giấy chứng nhận vớ vẩn nào bạn cần. Một chị chơi lâu năm chán chường rồi tiết lộ: “chị và ông chồng kỹ sư của chị chẳng phải vợ chồng gì cả. Chỉ là rổ rá cáp lại. Chị và lão kỹ sư cũng không phải cử nhân, trí thức. Anh ta chạy xe ôm, còn chị bán hột vịt lộn vỉa hè tại một khu công nghiệp ở Bình Dương!” Nay cái hội “Swing văn minh ngã tư quốc tế” đó có lẽ đã tan rã từ lâu không nghe nhắc tới nữa.

Một swinger vừa đi từ phòng ngủ ra.

Hai bác nông dân chân đất đổi vợ cho nhau
Còn đây là chuyện khác hẳn. Chuyện của hai cặp vợ chồng “quê một cục, trăm phần trăm”. Có lẽ cả hai cặp chưa từng lên internet bao giờ và hồi đó ở tỉnh cũng chưa có internet, các bác này cũng chẳng đọc báo chí lam nham để biết đến những hoạt động tình ái ba lăng nhăng của thiên hạ. Tất cả “kịch bản” này được chính các vị nông dân chân đất này trong một lúc cao hứng đã “sáng tạo” ra.
Chuyện xảy ra tại xã Sơn Phú, huyện Hương Sơn (Hà Tĩnh). Hai cặp vợ chồng ấy một thời đã từng là bốn người bạn thân thiết. Thế rồi, chỉ sau chuyện trên bàn rượu, họ đã quyết định chẳng thể ai ngờ tới: tráo đổi vợ chồng cho nhau!
Theo một số người dân ở xã Sơn Phú thì sự việc "đổi vợ đổi chồng" diễn ra đã khá lâu nhưng một trong số những nhân vật chính hiện vẫn sống tại địa phương và được một giới chức tại xã này xác nhận. Ông Nguyễn Như Tùng, nguyên xóm trưởng thôn Công Đẳng, xã Sơn Phú - người đã biết rõ nhất vì đã từng phải đứng ra giải quyết chuyện trần gian có một này. Ông kể rành rọt:
“Đó là sự việc khiến tôi phải nhớ mãi trong thời gian làm trưởng xóm ở ngôi làng này. Nó bắt đầu xảy ra từ năm 1995 nhưng giờ đến xã này, hỏi bà Trinh, hiện còn ở trong xã, một mình nuôi đàn con ai mà chả biết việc đổi chồng năm xưa của bà".
Từ vợ bạn thành vợ mình, vợ anh thành vợ tôi
Ông Nguyễn Đình Tình (SN 1959) và bà Nguyễn Thị Trinh (SN 1966) là vợ chồng cùng trú tại xã Sơn Phú. Đến khi xảy ra sự việc (vào năm 1995), ông bà đã có với nhau bốn đứa con, đứa lớn 11 tuổi và đứa nhỏ nhất mới 5 tuổi. Tại ngôi làng nhỏ bé này, vợ chồng ông Tình chơi rất thân với gia đình ông Nguyễn Hồng Gia (SN 1962) và bà Nguyễn Thị Lắm (SN 1960). Nếu như vợ chồng ông bà Tình-Trinh có bốn đứa con ngoan ngoãn, thì vợ chồng ông bà Gia-Lắm cũng đã có với nhau hai cô con gái nết na, xinh đẹp.
Vì là hàng xóm thân tình, “tối lửa tắt đèn” có nhau, nên hai cặp vợ chồng này như người một nhà. Hễ gia đình nào gặp chuyện khó khăn thì gia đình kia không ngần ngại đến giúp đỡ. Họ thân thiết đến mức từng bát cơm, con cá, bó rau cũng sẻ nửa, san đôi. Không những thế, do cùng hùn hạp vốn làm ăn chung, họ càng trở nên thân thiết hơn. Cứ mỗi dịp đi làm chung về, hai cặp vợ chồng thường tụ tập ở nhà của ai đó để nghỉ ngơi, ăn uống. Gia đình này thậm chí có thể ăn ở cùng gia đình kia cả tháng trời mà ai cũng cảm thấy vui vẻ.
Nhưng chính trong cái không khí đầm ấm bề ngoài ấy, người ta chẳng thể ngờ "cơn sóng ngầm" đã âm ỉ bộc phát từ lâu, khi bà Trinh và ông bạn láng giềng Gia đã nảy sinh tình cảm "khác thường" trên quan hệ hàng xóm, bạn bè. Tuy vậy ông bà này đã khéo giữ nên chỉ hai người biết với nhau.
Chồng gật, vợ cũng gật theo mới là chuyện lạ
Có lẽ đây là một trong những lý do chính dẫn đến “bi hài kịch” không ai ngờ tới. Buổi chiều cuối năm 1995, sau một ngày làm việc mệt nhọc, bốn người bạn đã làm một bữa tiệc, vừa để nghỉ ngơi, vừa để vun đắp tình cảm của hai gia đình. Khi rượu đã ngà ngà, hai gã đàn ông bỗng dưng nghĩ ra trò quái đản. Khi ông Tình đề nghị: “Mi đổi gái (vợ - PV) cho tao, tao sẽ đổi gái cho mi”. Không hiểu sao ông Gia cũng gật đầu đồng ý.
Và điều đáng nói hơn là khi nghe hai ông chồng bày tỏ ý tưởng điên rồ đó, không hiểu vì lẽ gì lại được cả hai người đàn bà quê mùa kia chấp thuận.
Thế là ngay trong đêm đó, hai cặp vợ chồng từng là bạn nối khố của nhau quyết định thực hiện chuyện tráo đổi vợ chồng một cách điên rồ. Rồi chẳng hiểu vì uống phải bùa mê thuốc lú hay vì “cái lạ bằng tạ cái quen” mà những ngày sau, cả bốn con người đó vẫn tiếp tục trò chơi ký quái này.

Vợ người này ngồi trong tay người khác.
Đổi luôn cho tiện việc… đốt nhà

Nhưng được một thời gian, rồi cũng có người tỉnh trí nhận biết mình đang chơi trò chơi nguy hiểm, trái luân thường đạo lý. Đầu tiên, bà Lắm vợ ông Nguyễn Hồng Gia, nhất quyết không chịu ăn ở nhà ông Tình, bạn của chồng nữa mà đòi về nhà mình. Tiếp theo, ông Tình cũng tỉnh ngộ, sang nhà ông bạn để đòi vợ là bà Trinh về. Tuy nhiên, vì đã có tình cảm với nhau từ trước nên ông Gia và bà Trinh… không đồng ý và muốn đổi vợ đổi chồng luôn… cho đỡ lôi thôi và đã “quen hơi bén tiếng, hòa hợp” rồi nên cứ để thế cho yên.
Đòi vợ không được, ông Tình nổi cơn điên, châm lửa đốt nhà của ông bạn "vàng" đã cuỗm mất vợ mình, không chịu trả. Rất may, dân làng phát hiện kịp thời nên ngọn lửa nhanh chóng được dập tắt. Tuy nhiên, “đám cháy đổi tình” của hai cặp vợ chồng này thì không thể dập được nữa. Hai bên nhất định không bên nào chịu nhượng bộ bên nào. Vợ mình vẫn cứ ở nhà bạn.
Hai gia đình cùng tan nát
Sau hành động ngang nhiên đốt nhà của người khác, ông Nguyễn Đình Tình bị bắt và bị xử án tù gần một năm. Ngày mãn hạn tù về nhà, ông Tình đành cắn răng chấp nhận sự thật vợ mình đã thuộc về kẻ khác. Ông Gia và bà Tình vẫn tiếp tục sống với nhau.
Còn về phần chị Lắm vợ ông Gia, khi thấy chồng đưa người phụ nữ khác về nhà ở, phần vì quá đau lòng, phần vì không chịu nổi miệng lưỡi đàm tiếu của người đời, đã nuốt nước mắt ôm hai con gái vào miền Nam sinh sống. Từ đó đến nay, những người dân ở đây cũng không biết ba mẹ con trôi dạt đến phương nào, bây giờ ra sao. Còn đối với ông Tình, sau khi ra mãn hạn tù một thời gian, được người quen mai mối đã đi bước nữa. Ông Tình và người vợ mới có thêm một cậu con trai hiện đang học lớp 10. Còn ông Gia và bà Trinh sau khi về ở với nhau đã có thêm ba người con nữa.
Gần hai mươi năm đã trôi qua, nhưng câu chuyện “tráo đổi vợ chồng” đầy oan nghiệt ấy vẫn chưa thể quên trong ký ức những người dân xã Sơn Phú.
Hậu quả vô cùng bi thảm
Hành động "đổi chồng, đổi vợ" khiến con trẻ phải gánh kết cục quá oan nghiệt chẳng ai ngờ tới.
Ông Trinh và bà Tình có hai cô con gái tên là N và L. Sau khi mẹ chúng sang ở với ông hàng xóm, bố thì bị đi tù về đói rách, hai đứa quá buồn rầu nên rơi vào cuộc sống đầy oán hận và buồn tủi. Đến trường thì bị bạn bè trêu trọc, về nhà lại bị người ta xét nét, chúng càng tỏ ra bất mãn với cuộc sống. Ví quá xấu hổ nên học đến lớp 9, N đã bỏ học, bỏ nhà đi “bụi đời”, sau đó lôi kéo em gái mình cùng đi theo.
Sau một thời gian bỏ nhà, sống buông thả vất vưởng ở Sài Gòn, hai em đã bị dính căn bệnh thế kỷ AIDS. Năm 2003, dù vào Sài Gòn sau chị gái, nhưng L. lại nhiễm bệnh và mất trước chị gái khi đang ở tuổi 17 trăng tròn, phải chôn thân nơi đất khách quê người. Không lâu sau khi em gái mất, N. cũng trở về quê rồi nhắm mắt xuôi tay trong lặng lẽ cũng vì căn bệnh thế kỷ này!
Những nhân vật chính hiện nay ra sao?
Còn đối với những nhân vật chính trong câu chuyện này cũng có cuộc sống không như mong đợi. Ông Tình chung sống với vợ ông Gia được 6 năm thì mất. Ông ra đi để lại vợ con thơ dại và bố mẹ già yếu. Còn bà Trinh, qua hai đời chồng đã sinh được 7 đứa con (nhưng nuôi 5 đứa) nên cuộc sống không thể khá giả lên được, hiện bà đang ở xóm cũ.
Còn ông Gia, sau khi quyết chí sống với vợ của bạn sau màn "tráo đổi vợ chồng" vô tiền khoáng hậu chỉ được một thời gian cũng không may gặp tai nạn qua đời, để lại cho bà Trinh 5 đứa con nheo nhóc. Chính vì vậy, những người dân nơi đây cho biết, gia đình của cả hai người phụ nữ này hiện được liệt vào danh sách gia đình nghèo của xã Sơn Phú. Ông trưởng xóm Hồ Văn Đông cho biết:
“Chúng tôi đều biết rất rõ và chán ghét vì câu chuyện năm xưa liên quan đến bà Trinh. Nhưng giờ chứng kiến cuộc sống mẹ con bà ấy quá khó khăn, nhiều người cũng chạnh lòng. Với cương vị là trưởng xóm, tôi cũng chỉ biết an ủi, thăm hỏi tặng quà mỗi khi có dịp thôi”.

Ông Hồ Văn Đông xác nhận câu chuyện với PV.

Hai cặp vợ chồng đã li dị rồi mới tái hôn
Kể về câu chuyện hy hữu có một không hai này, ông Nguyễn Anh Huân, viên chức tư pháp - hộ tịch xã Sơn Phú cho biết: “Thực tế về mặt pháp luật, hai cặp vợ chồng đã được tòa án giải quyết cho ly hôn và sau đó tái hôn nên không có gì sai. Tuy nhiên, trong thời gian trước đó thì đúng là có chuyện “đổi vợ” nên mới nảy sinh mâu thuẫn. Sau khi sự việc đó diễn ra thì hai cặp vợ chồng đó mới chính thức ra tòa ly dị”.
Như thế là nếu cái nghị định “ngoại tình” kia được áp dụng, hai cặp đổi vợ này có sống lại cũng không thể bị phạt.
Đây là chuyện từ cổ chí kim tôi mới nghe một lần. Chẳng biết hai bác nông dân có bị tiêm nhiễm ảnh hưởng “thác loạn” của xã hội thời đó không. Nếu sống ở thành phố, bây giờ học theo lối sống của các “showbiz” và những cô cậu chỉ thích xài sang, ăn trắng mặc trơn không muốn làm việc, không biết hai bác nông dân này sẽ còn thác loạn tới đâu nữa? Tôi nghĩ ở miền quê nghèo mà “chơi tới bến” như thế cũng là cùng cực của sư suy thoái đạo đức rồi, không thể hơn được nữa. Nếu chúng ta tin vào thuyết nhân quả, “ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác” thì đây là một minh chứng rõ ràng nhất. Mong rằng xã hội VN không còn những bi kịch như thế này nữa.
Một lời “nhắc” chân thành các đấng mày râu
Xin nhắc các vị độc giả, căn bệnh thế kỷ ở VN bây giờ nhiều như ruồi, không ai có thể kiểm kê hết được và nhìn bề ngoài cũng không thể nào đoán biết được. Có người còn nói rằng càng là “hàng nhà quê” hoặc hàng được gọi là “rau sạch” càng dễ “chết”. Càng tóc xanh môi đỏ, chân dài… càng nhiều nguy cơ tiềm ẩn sau những bộ “vó” choáng lộn. May mắn lắm mới gặp được “hàng thật”. Còn phần nhiều những cô gái trẻ đóng vai sinh viên, nghệ sĩ đều chỉ là để lừa khách bởi lẽ cái mác "sinh viên" “nghệ sĩ” khiến nhiều đàn ông mê đắm, như thể họ là dân chơi “có đẳng cấp” quen toàn “hàng sạch”.
Hoặc có ông khoe lấy toàn vợ còn trinh, không còn “din” ông không lấy. Nhưng ông quên khuấy đi một điều là ở VN bây giờ, vá cái “din” dễ dàng như đi… siêu thị.
Bạn không tin ư? Mời bạn vào net xem trang thông tin của Bệnh Viện Chuyên Khoa Giải Phẩu Thẩm Mỹ Sài Gòn (97B Nguyễn Du, Phường Bến Thành, Quận 1, TP Sài Gòn, Việt Nam). BV này cho biết hàng ngày không có biết bao nhiêu cô gái đến hỏi vá màng trinh qua điện thoại, qua email… tại Bệnh viện thẩm mỹ Sài Gòn. BV này còn có thể “sửa chữa” nhiều thứ “nhạy cảm” nữa, tôi không tiện kể ở đây. Đây cũng là cái điểm tựa vững chắc để các cô gái VN cứ “văng mạng” rồi tính sau, xã hội đã loạn càng loạn!
Tôi chỉ muốn lưu ý để các bạn không bị “quả lừa” to tướng khi phải về VN vì một lý do nào đó thôi.
Văn Quang 12-4-2013

Add comment

Quý vị có thể đưa ý kiến của mình vào khung phía dưới. Những ý kiến sẽ không được đăng như: phỉ báng, mạ lị; vu khống; dùng lời lẽ thiếu văn hóa trong tranh luận; lạc đề. Ưu tiên đăng các lời phê bình, góp ý xây dựng. Ý kiến của quý vị sẽ được BBT đăng trong thời gian sớm nhất. Các bài viết được đăng tải trên www.vietvungvinh.com không phản ánh quan điểm hay lập trường của chúng tôi Mỹ Lợi đồng thời không chịu trách nhiệm về nội dung các ý kiến.
HƯỚNG DẪN CÁCH VIẾT TRONG MỤC ADD COMMENT:
- Trong ô Name: Ghi tên của quý vị (có thể ghi tên tượng trưng (tên giả), tên thật, biệt hiệu, bút hiệu, v.v...)
- Trong ô Email: Ghi địa chỉ email của quý vị (ghi địa chỉ email thật nếu quý vị muốn có sự liên lạc với tác giả bài viết, bạn đọc v.v..., nếu quý vị muốn ghi địa chỉ email giả vẫn được)
- Trong khung nội dung góp ý: Quý vị đánh máy phần nội dung có dấu tiếng Việt, hoặc không dấu tối đa 1000 chữ cái.
- Check hoặc không check vào ô nhỏ trước cụm chữ: Notify me of follow-up comments: Nếu check vào ô này, chúng tôi sẽ gởi email đến quý vị khi góp ý của quý vị đã đăng.
- Ô CAPTCHA: Có 5 ký tự, quý vị gõ đúng 5 ký tự này vào ô ở dưới chữ Refresh. Nhớ gõ cho đúng chữ hoa hoặc không hoa đang hiện trong ô Captcha. Nếu quý vị nhìn không rõ 5 ký tự này, hãy bấm vào chữ Refresh nhiều lần, cho đến khi nào thấy rõ 5 ký tự thì ngưng, rồi gõ vào ô ở dưới .
- Cuối cùng bấm Send là xong. Nhưng nếu trường hợp bấm Send mà vẫn không "đi", nguyên do là quý vị gõ 5 ký tự không đúng, thì quý vị bấm Refresh nhiều lần cho đến khi nào thấy 5 ký tự khác rõ ràng thì ngưng lại và gõ đúng 5 chữ này vào ô phía dưới, rồi bấm send.
Tại sao lại làm phiền người góp ý phải gõ CAPTCHA (5 ký tự) "rắc rối" này? Xin thưa, phần nhập mã này là chương trình dùng để ngăn chặn việc gửi các truy vấn hàng loạt của các bot (chương trình tự động được lập trình để gửi spam) gửi đến các máy chủ của website có thể làm nghẽn mạng, đánh sập các server, nếu như không có chốt chặn CAPTCHA.

STENDAL ET MES MAISONS ENFER COMMUNISTE

Stendhal et mes saisons
en enfer communiste
STENDHAL và NHỮNG MÙA.... DƯỚI HOẢ NGỤC CỘNG SẢN
Bài thuyết trình của cựu Đại úy Nguyễn Kim Quý
họa sĩ Lê Khánh Thọ (Châteauroux, Pháp) giới thiệu và dịch

Hè 1991, sáu năm sau ngày đến Mỹ, cựu đại úy Nguyễn Kim Quý, cựu tù nhân cải tạo, cựu thuyền nhân, tiến sĩ và giáo sư Pháp văn và Latin tại Đại Học Eastern Washington University, đã được Phù Luân Hội (Rotary Club) Antony, mời đến Paris thuyết trình về đề tài “Việt Nam sau 1975″. Ông đã chọn nói về những năm ông bị giam trong các trại cải tạo Việt Cộng. Sau đây là nguyên văn bài nói chuyện bằng tiếng Pháp trong đó ông mô tả các trại tù và sự độc ác của Việt Cộng và cho biết nhờ ơn Thượng Đế và tiểu thuyết của Stendhal ông đã được sống còn như thế nào, sau tám năm đày ải.
Bài thuyết trình của Tiến sĩ Nguyễn Kim Quý (tựa đề lấy theo từ một bài thơ nổi tiếng của thi sĩ Rimbaud, “Une saison en enfer”) là một phối hợp độc đáo, lý thú, giữa văn chương huyễn mộng qua Stendhal và thực tế ghê tởm qua những tù ngục Việt Cộng.

Stendhal, tên thật Henri Beyle, là văn sĩ Pháp, thế kỷ XIX, tác giả những tiểu thuyết nổi tiếng, Le Rouge et le Noir, La Chartreuse de Parme… mà những nữ nhân vật đều tuyệt đẹp, và những nam nhân vật đều bị vào tù, thực tế hoặc theo nghĩa bóng. Thế giới trong tiểu thuyết của Stendhal, kể cả những truyện về tù ngục, vì thế, ngạt ngào phấn hương nhờ tình yêu, hạnh phúc và hình bóng mỹ nhân. Lúc Stendhal còn sống, không ai đọc sách của ông. Mãi 50 năm sau khi chết, ông mới được nổi tiếng và trở thành một hiện tượng trong văn học sử Pháp. Hiện tại, ông là một trong những văn sĩ hiếm hoi được nghiên cứu, phê bình, ái mộ nhiều nhất. Có cả một Hội gọi là Stendhal Club, tại Paris và Grenoble.


Ngoài ra, luận án tiến sĩ (1990) của giáo sư Nguyễn Kim Quý có tựa đề: “ La prison dans l’œuvre romanesque de Stendhal” (Tù ngục trong tiểu thuyết của Stendhal). Tháng 3, 1992, cùng với một số giáo sư đại học trên thế giới, ông được mời thuyết trình về Stendhal nhân ngày mất lần thứ 150 của văn sĩ được tổ chức tại Paris, dưới sự chủ tọa của Tổng thống Pháp François Mitterrand. Bài của các thuyết trình viên đều được in thành sách bán tại Paris.


STENDHAL VÀ NHỮNG MÙA DƯỚI HỎA NGỤC CỘNG SẢN


Nguyễn Kim Quý

1. Tôi không bao giờ biết tại sao tôi yêu thích Stendhal và tiểu thuyết của ông nhiều đến thế. Và điều đó, ngay từ thời trung học khi mà tôi thích thú đọc đi đọc lại những trang đầy hương của Đỏ và Đen và Tu Viện thành Parme, mặc dù cha tôi, một giáo dân Công giáo mộ đạo gần như cực đoan, rất ghét. Về chuyện này, tôi sực nhớ câu mà ông Victor del Litto, Hội trưởng Stendhal Club, đã bất thình lình hỏi tôi nhân dịp tôi đến Grenoble lần chót, cách đây bốn năm: “Tại sao anh thích Stendhal?” Tôi bối rối, không biết trả lời sao. Trong những lần phỏng vấn xin dạy học ở Mỹ, tôi cũng nghe lặp lại câu hỏi tương tự. Nói thực, tôi thú nhận hoàn toàn không biết những lý do nào khiến tôi ái mộ văn sĩ ngoại biên lỗi lạc này –nhưng được ít người biết, và có lẽ ít người thích trong đám độc giả cùng thời với ông.


Quả vậy, đối với tôi, yêu thích Stendhal cũng giống như yêu một người đàn bà, hay một người đàn ông. Yêu hay không yêu, thế thôi. Nhất là với Stendhal, khởi đầu như một tiếng sét ái tình rất êm ái. Sự kết tinh, để dùng chữ của ông trong De l’amour, chỉ đến chậm và rất lâu sau đó. Và một tiếng sét ái tình, “nạn nhân” nào cũng biết, là không cắt nghĩa được.


Năm tháng trôi qua. Và bây giờ tôi lại ngồi trước tờ giấy trắng tìm lại một câu cắt nghĩa mới có thể –hoặc đúng hơn không có thể. Tôi yêu thích Stendhal, có lẽ bởi những tiểu thuyết của ông, và trong tiểu thuyết của ông, bởi các nhân vật nữ bất tử, tuyệt đẹp, dịu dàng quá đỗi, đã mê hoặc không chỉ những nam nhân vật, tình nhân của các nàng, và những độc giả như tôi có tâm hồn đa cảm, mà còn những phê bình gia hiện đại nghiêm khắc nhất nữa trong số có Paul Valéry, Jean-Paul Sartre và Julien Gracq chẳng hạn, giữa nhiều người khác.
 
 Tôi yêu, hơn nữa, trong tác phẩm của Stendhal, mùi hương thần tiên, ngất ngây, trường cửu như trong Proust, không gian diễm ảo, phi thời gian, cấu thành bởi thực và hư trộn lẫn, biến hình, đã vỗ về lòng tôi trước bao nhiêu “sự thật thô bạo”, như chính Stendhal đã viết, của cuộc đời, và làm tôi mơ đến những khoảng trời xanh hơn, những âm thanh tinh tuyền hơn cho những ca khúc vĩnh cửu tôi dâng cho ái tình và nhan sắc.


2. Trong thời chiến tranh Việt Nam, lúc ấy là sĩ quan của quân lực Miền Nam, tôi luôn mang theo trong túi quần áo trận tuyệt phẩm trữ tình Truyện Kiều của thi hào dân tộc Nguyễn Du, tập Les Fleurs du Mal của Baudelaire và một quyển tiểu thuyết của Stendhal mà tôi đọc giữa hai trận đánh, dưới giao thông hào, trong trại binh hay quán rượu… Nguyễn Du, Baudelaire, và nhất là Stendhal, như thế ấy, đã giúp tôi thoát khỏi cái thực tế trĩu nặng mà, theo Nerval nói, “không luôn luôn là em gái của mộng mơ”. Tôi thường để hồn ru theo nỗi êm đềm của một cuộc đời tưởng tượng trong tất cả vẻ rạng ngời của nó, tràn ngập những mây hồng, những tình yêu thắm xanh, những nụ hôn vô tận, một cuộc đời không có tên ở trần gian này. Cái chết rình rập chúng tôi mỗi giờ, nhưng văn xuôi Stendhal, còn hơn là rượu và mỹ nhân, hay ma túy trong thơ Baudelaire, đã cho tôi sự can đảm phi thường để đương đầu với nó, trực diện: tôi đã quên nó, chưa đủ, tôi đã khinh bỉ nó, một cách rõ ràng, dứt khoát. Như những nhân vật của Stendhal: Julien, Fabrice, Octave, Lucien v.v…


Giai đoạn hậu chiến sắp cho quý vị thấy tiểu thuyết, và đặc biệt của Stendhal, đã làm tôi mê đắm một cách vừa chuyên chế vừa lợi ích như thế nào






3. Chúng ta đang ở vào năm 1975. Nền hòa bình nhục nhã, áp đặt bởi những siêu cường lực trên đất nước chúng tôi ngày 30 tháng 4, chấm dứt một cuộc chiến cũng không kém nhục nhã và khai tử quốc gia VNCH từ nay bị trao vào tay bọn bạo tàn Miền Bắc, kẻ chiến thắng không ngờ. Ngày đó, bỗng nhiên tôi trở thành “tù binh” và “kẻ thù của nhân dân” mà không biết chính xác tại sao. Chế độ mới, tự gọi là “cách mạng”, đỏ từ đầu đến chân, nhanh chóng tự gắn cho mình một nhiệm vụ “vĩ đại”: lùa tất cả sĩ quan và cán bộ Miền Nam vào tù. Tại đó bắt đầu mọi bất hạnh của chúng tôi. Nhưng rồi, lòng tin vào Thượng Đế bỗng nhiên thức dậy trong tôi và sự mê say không phai nhạt đối với Stendhal và những tiểu thuyết của ông thực sự đã cứu vớt tôi, không chỉ thoát khỏi những xấu xí của đời sống mà còn sự tàn nhẫn của cái chết –cái chết mà bây giờ tỏ ra ngàn lần đe dọa hơn trong lúc chiến tranh. Như thế, nhờ ơn Chúa và nhờ Stendhal, tôi đã có thể sống sót sau tám năm giam hãm, đói khát, đau khổ, thiếu thốn, trong những trại tù khác nhau và cuộc đọa đày khủng khiếp xuống dưới hỏa ngục.


Hỏa ngục Cộng sản, dĩ nhiên. Nhưng không có ngôn ngữ nào có thể mô tả đủ sự tàn ác của một trại tù do bọn Cộng sản Việt Nam –tức là Việt Cộng– thiết lập. Đó là bọn cai ngục bẩm sinh, quý vị hãy tin tôi đi, phô diễn một khả năng và kinh nghiệm canh phòng vô địch. Không một nơi giam giữ nào, hư cấu hay có thực, mà tôi được biết, kể cả Quần đảo Goulag của Soljenitsyne, hay Hồi ức về căn nhà tử tội của Dostoïevski, có thể so bằng những trại Việt Nam trong cái mà tôi gọi là “độc ác tinh vi”: ở đây người ta giết tù nhân một cách khoa học, tiệm tiến, nhẹ nhàng một cách khủng khiếp, bằng cái đói triền miên. Để chế ngự chúng tôi hiệu quả hơn, bọn khốn nạn đã khai thác khéo léo cái bản năng thấp nhất, tệ nhất của con người: nhu cầu ăn. Ít ra trong tù, những nhân vật của Stendhal có thể ăn và uống đầy đủ: Fabrice lại còn có sô-cô-la của Clélia và Julien có sâm banh và xì-gà của Mathilde gửi cho. Còn chúng tôi, còn tôi, mỗi ngày, bắt buộc phải tự nhìn thấy mình chết lần chết mòn như con vật bị vây hãm, sống một cái chết hoàn toàn đúng nghĩa tồi tệ, nhục nhã, hèn hạ, cố tình bày ra bởi lũ Cộng sản –đồng hương của chúng tôi. Một cái chết đến chậm, kéo dài, kéo dài, với trong hồn mỗi người tù sự phẫn nộ bất lực, sự xấu hổ bị dồn vào thế buộc phải thường trực, mỗi ngày, nghĩ đến cái dạ dày trống không và cách nào để làm đầy nó.


Bọn họ đã ra lệnh cho các sĩ quan phải trình diện những “ủy ban cách mạng nhân dân”, chuẩn bị một khóa học cải tạo mà theo thông cáo chính thức với lối hành văn mơ hồ và bịp bợm sẽ kéo dài chỉ mười ngày hoặc một tháng tùy theo cấp bậc. Lúc ấy vào tháng sáu 1975. Tuy nhiên, không ai ngờ rằng đối với tất cả, đó sẽ là một “cuộc hành trình cuối đêm” xứng đáng với Céline, kéo dài từ tám, mười, cho tới mười bốn năm, và đối với nhiều người, một vé đi không về, một lần vĩnh biệt cuộc đời và thế gian, trong hai nghĩa đen và bóng. Đầu tiên chúng tôi bị giam giữ trong những trại ở Miền Nam. Rồi một ngày đẹp trời, bọn họ quyết định chuyển ra Miến Bắc khoảng một trăm ngàn “phần tử” bị xét là “phản động” nhất, nghĩa là nguy hiểm nhất, trong đó có Tổng giám mục Sài Gòn Nguyễn Văn Thuận và một số tướng lãnh. Trên biển. Trong vài chiếc tàu chở than cũ kỹ tịch thu của “ngụy quyền”. Chúng tôi bị còng tay, bị nhốt hàng ngàn người trong các hầm tàu, và như thể súc vật. Chuyến đi kéo dài ba ngày. Ba thế kỷ. Không khí thiếu. Nước cũng thiếu. Thức ăn cho cả ngày là một ảo tưởng: mỗi tù nhân được phát hai phong bánh bích qui mốc của lính made in China, lớn bằng hai hộp diêm, chỉ vừa đủ để khỏi chết đói. Phía trên, không có gì ngoài một vòm tối đen. Chung quanh, những thân xác bất động chất đống cạ vào nhau và mình mẩy dính đầy bụi than. Cái nóng kinh hồn hành hạ tù nhân. Ngay những giờ đầu, bốc lên một mùi hôi thối, làm ngộp thở, đầu độc căn hầm đầy người. Khắp nơi, im lặng như chết.


Từ cảng Hải Phòng, nơi mà cuối cùng chúng tôi được cập xuống, đến những trại tập trung khác nhau, còn một chuyến đi nữa không kém kinh hoàng, kéo dài khoảng hai hoặc ba ngày, bằng tàu lửa hay xe cam nhông. Vì biện pháp an ninh, cửa lớn và cửa sổ xe lửa phải đóng kín mít, dưới cái nắng nung người. Trong những hỏa lò lưu động ấy, sự ngộp thở kinh khủng đến nỗi một số tù nhân già yếu và kiệt lực sau chuyến vượt biển đã chết trước khi đến nơi chỉ định.


Những trại tù ở Miền Bắc, tôi nghĩ khoảng ba mươi, dành cho chúng tôi, đều nằm trong vùng núi –nơi sinh sống của những sắc dân thiểu số lạc hậu nhất hay gia đình của những người bị đi đày biệt xứ vì lý do chính trị từ thời Pháp thuộc và sau Điện Biên Phủ– gần biên giới Tàu và Lào, ở đó những con muỗi to bằng những con ruồi hoặc gần như thế. Trên đường, những trẻ em và bà già, bị thúc đẩy bởi mối hận thù từ lâu nuôi dưỡng và luôn kích thích do sự tuyên truyền thô bỉ, đã ném thẳng tay vào chúng tôi đất đá, đồ dơ và hét lên những tràng chửi bới thậm tệ. Cũng như các bạn đồng cảnh khổ, tôi cố gắng nuốt những giọt nước mắt. Tủi nhục, đắng cay, uất giận.


Cuộc sống tại các trại Miền Bắc còn hơn là hỏa ngục. Không cách nào đào thoát được. Chúng tôi bị bao vây một cách tuyệt vọng bởi những rặng núi trùng điệp làm thành những tường lũy thiên nhiên kiên cố. Nhưng rồi, ngay cả nếu thoát được, làm sao, ở trên núi, có thể sống sót với cái lạnh, đói khát và sức kiệt? Chúng tôi bị giam trong những túp nhà cũ thấp mái rạ, nằm ngủ trên một thứ giường tập thể làm bằng những tấm gỗ thô, không chiếu, không gối, không đệm, để rồi sáng mai thức dậy mặt mày, mình mẩy rải đầy những vết rệp và muỗi cắn. Ngoài ra, cái lạnh tột độ, làm buốt xương. Về quần áo, người ta chỉ phát cho chúng tôi một bộ đồng phục màu xanh da trời bằng vải thô dùng trong kỳ hạn hai năm và một tấm chăn cũ nát nhỏ xíu bằng len xấu. Không săng đan, không tất vớ, không mũ nón. Những thứ này, chúng tôi phải tự xoay xở lấy, người ta bảo chúng tôi, hoặc là mặc kệ! Vào mùa đông hay mùa mưa, không tài nào ngủ được, vì cái lạnh và ẩm ướt khắc nghiệt, không thể chịu nổi nữa và chúng tôi bị cấm đốt lửa trong nhà.


Tuy nhiên, tất cả những thứ ấy không là gì so với cái đói, cực hình tồi tệ nhất. Phần ăn hằng ngày của chúng tôi, quả vậy, là một chén sắn (khoai mì) cho một trong hai bữa. Không có ăn sáng. Không cơm. Không sữa không đường. Không thịt không rau. Khoai mì mà người ta cho chúng tôi đã được phơi khô và được dành những khi mất mùa cho heo –mà heo, tôi đoán, cũng từ chối không ăn. Vì nó có màu đen đen, vị chua chua, mùi thum thủm. Nhưng cái đói chiến thắng mọi ghê tởm và chọn lựa. Với món ăn kinh khiếp này, những anh chàng to con nhất, sau vài tháng, có màu da xanh mét, vẻ hốc hác, mặt teo lại. Sau một năm, trở thành những bộ xương biết đi. Óc đặc lại, người ta không thể suy nghĩ hay phản ứng gì nữa. Quên đi phẩm cách, một số người chỉ còn nghĩ đến cái ăn, và đó cũng tự nhiên thôi. Tệ hơn, người ta đánh mất ý chí chống đối, phản kháng, tự trọng, và tất cả điều đó hoàn toàn phù hợp với kế hoạch dự trù của Việt Cộng. Sự thiếu dinh dưỡng và thiếu thuốc men sinh ra nhiều căn bệnh hiểm nghèo, không tránh khỏi, ví dụ bệnh thiếu sinh tố và phù thũng –mỗi ngày, cùng với bệnh sốt rét, chóng vánh đua về bên kia thế giới, một cách nhẹ nhàng, một hay hai tù nhân khốn khổ.


Những người còn sống sót cứ tiếp tục nhai sắn khô bằng thích, tiếp tục đói, tiếp tục đau, và nhất là tiếp tục lao động khổ sai. Cai tù không ngớt lặp đi lặp lại rằng lao động là nguồn gốc mọi vinh quang, rằng khởi thủy, con người đầu tiên, nghĩa là ông tổ của chúng ta, là một con khỉ, rằng con khỉ ấy vì phải trèo lên cây hái trái, xuống ruộng trồng lúa, vào rừng săn thỏ, vắn tắt, lao động vất vả, đã dần dần mất bộ lông dài để trở thành đẹp đẽ, trơn tru như chúng ta hôm nay. Vì thế, người ta hét vào tai chúng tôi, hãy tống cổ những kẻ chây lười lao động, ăn bám, mình còn đầy lông lá, ra khỏi thiên đàng Cộng sản!


Về lao động hằng ngày, chúng tôi được chia thành nhiều đội và tổ, và phải ra hiện trường làm việc tám tiếng mỗi ngày và sáu ngày mỗi tuần, ngày Chúa Nhật dành cho học tập chính trị và những công việc vặt vãnh khác nhau. Chúng tôi làm tất cả mọi thứ, thay đổi việc làm, tổ đội, đồng đội cứ mỗi sáu tháng, đại khái: trồng rau cải, xà-lách, lúa, bắp –những sản phẩm mà chúng tôi không được quyền ăn. Hoặc sáng sớm vào rừng chặt gỗ, đốn tre. Xây hay sửa nhà, cầu, đường với dụng cụ thô sơ từ thời Thượng cổ. Hoặc thay bò kéo cày trong ruộng, giữ trâu, nuôi heo, còn gì nữa? Nói ngắn gọn, làm tất cả những công việc đối với chúng tôi –đại úy, đại tá, và tướng lãnh– cho đến lúc ấy hoàn toàn xa lạ, chưa hề biết, kỳ quặc, vì thế rất mệt. Thêm vào đó là cái đói, cái lạnh, sự tàn tạ thể xác và suy nhược tinh thần, và quý vị hiểu tại sao mức độ tử vong trong các trại tù lên cao như vậy.


Nhất là sự suy nhược tinh thần. Nó giết người cũng tàn nhẫn như cái đói và bệnh hoạn. Trong cảnh khổ, người ta không thể bỏ qua sức mạnh của tinh thần và chịu đựng của tâm hồn. Không có sự can thiệp cứu rỗi của tinh thần, án tử hình sẽ không được bãi bỏ, không hoãn lại. Có nhiều người trải qua suốt tháng, kể cả suốt năm, ngồi than vãn số phận, tiếc hão một hạnh phúc, một vinh quang, hay một tình yêu vĩnh viễn bay mất, hay bám víu một cách tuyệt vọng vào thực tại ghê tởm. Những người ấy, cái chết không bao giờ bắt hụt.


Nhưng đó cũng chính là điều tôi đã làm thời gian đầu. Tôi cũng đã khóc như mọi người trong đêm Giáng sinh đầu tiên tại trại. Và như mọi người, tôi thấy đói kinh khủng, không cử động nổi, thường té vì mệt. Sức mạnh thể xác và tinh thần suy sụp chầm chậm, nhưng chắc chắn. Rồi một ngày, được nhìn thấy, bất lực, một người bạn thân thiết chết trong hoàn cảnh hãi hùng và bất xứng của một con vật người ta đem đi thọc huyết, tôi giật mình sợ hãi. Tôi không muốn chết như vậy, tôi lặp lại cho chính mình trong cơn giận dữ đè nén. Chuyện kể trong Terre des hommes của Saint-Exupéry về chàng Guillaumet mệt nhoài, nhưng cứ lầm lũi bước đi trong tuyết ngày này qua ngày khác, để khỏi gục ngã, bỗng trở về trong ký ức, rất đúng lúc. Và rồi, phục hồi sinh khí tôi không biết nhờ sức mạnh thần linh nào, tôi bắt đầu buông lại lời thách đố năm xưa cho cái chết hỗn láo, cái chết xanh xao trong một bài thơ của Horace, cái chết mà tôi đã vất vả vật lộn với, từ thời chiến tranh, nhưng nó không bao giờ chụp bắt được tôi, nhờ ơn Chúa. Nhất là, tôi la lớn, không bao giờ bỏ cuộc.


Bấy giờ, tôi bắt đầu cầu nguyện trở lại, ban đêm, và đọc lại với sự say mê của một người tình cũ những tiểu thuyết Stendhal, nhưng bằng trí nhớ, dĩ nhiên. Từ đó, tôi sống một thực tế khác, tự xem mình đã chết đối với cuộc đời, như Octave trong Armance. Tôi quên, cố gắng quên, bọn cai ngục và trại tù, đói và bệnh, quần áo tả tơi và thân xác khô héo –tất cả những điều nhắc tôi không ngừng vẻ xấu xí của địa ngục. Tôi chiến thắng nỗi bất hạnh của tôi bằng cách thôi tưởng nhớ những người đàn bà đẹp mà tôi đã quen biết và có khi yêu thương trong cuộc đời và bây giờ đã trở thành một thực tế còn khó với nắm, còn xa xôi hơn cả chính mộng mơ. Trái lại, tôi chỉ nghĩ đến những nữ nhân vật của Stendhal –Mathilde, Mme de Rênal, Clélia, la Sanseverina, Armance, Mme de Chasteller, giữa những nàng khác– mà hình bóng trác tuyệt, vĩnh viễn trẻ và đẹp, đã đưa tôi rất nhẹ nhàng ra khỏi thực tế phũ phàng và tầm thường, cái thực tế mà tôi nghĩ tôi không phải sinh ra để ôm lấy, ngay cả thời trước khi vào tù. Ngày tháng của tôi trôi qua như thế, êm đềm, như nước trôi qua cầu, và tôi dám nói thêm, hạnh phúc, dưới bóng những tình nhân đẹp như hoa, ít nhiều như trong Proust, ít nhiều lạ thường, nhưng sẽ chung thủy, tôi hy vọng, với tôi cho đến phút lìa trần –những người yêu dấu duy nhất đã đến thăm tôi trong tù, đem lại bình an và ánh sáng. Nhờ các nàng và sự hiện diện thường trực, vỗ về, tù ngục của tôi, tuy không bao giờ có thể trở thành thiên đường như của Julien Sorel hay Fabrice del Dongo, cũng đã mất đi vẻ thê thảm để cho tôi kéo lê, trong nghĩa cụ thể, cuộc sống của tôi, hay đúng hơn cái chết của tôi, một cách xứng đáng nhất, cho đến ngày 18 tháng ba 1983, thời điểm tôi được thả. Sau tám năm trời!


Sau hơn một năm thất bại ê chề trong những mưu toan vượt trốn quê hương và nỗi khổ bị bắt lại –lần này như một thuyền nhân kém may mắn– tôi và cô em gái, một đêm đen, được lên trên một chiếc thuyền đánh cá nhỏ một hôm đã thả chúng tôi xuống căn cứ hải quân Subic Bay của Mỹ tại Manila sau tám ngày, tám đêm trôi dạt trên Thái Bình Dương, giữa cơn bão lớn. Nhưng đó là chuyện khác. Tôi trải qua một năm rưỡi tại hai trại tỵ nạn ở Philippines trước khi đến Mỹ định cư ngày 25 tháng giêng 1985. Tôi hứa với lòng một ngày nào sẽ đến viếng Đúc Mẹ Lộ Đức và viết điều gì đó về Stendhal. Trong năm năm, tôi đã thực hiện hai lời hứa ấy. Luận án tiến sĩ của tôi –được chấp nhận với lời khen của các giáo sư trường Đại Học Oregon, và được ông del Litto nhận in trong thư mục Stendhal qua nhà xuất bản Droz, Genève– có chính cái tựa đề Tù ngục trong tiểu thuyết Stendhal. Tôi không bao giờ có thể cảm tạ đủ Thượng Đế đã cứu vớt tôi như thế bằng cách cho tôi một tâm hồn rất lãng mạn, rất mơ mộng và cho tôi niềm si mê về văn chương và, mâu thuẫn thay, về Stendhal, người ta còn nhớ, không luôn luôn dễ thương đối với Ngài.

4. Tôi đã quá tuổi tiếc thương hư ảo rồi, nhưng mỗi tiểu thuyết của Stendhal rực rỡ trong tôi như ánh sáng thiên đường tìm thấy lại. Một mảnh đời tan vỡ. Tôi không thể sống mà không mộng mơ. Cũng giống như những ngày trước, trong địa ngục Cộng sản. Thật là chán nản vô cùng khi phải luôn bám vào thực tế, khi mỗi ngày không đọc một trong những trang sách Stendhal đầy ắp yêu thương, mừng vui, và mùi hương phấn. Dầu sao, để bắt chước Pascal trong cuộc cá độ hy hữu của ông, quý vị sẽ mất gì khi đọc một tiểu thuyết của Stendhal? Không mất gì hết. Nhưng nếu thắng, quý vị sẽ được cả một trời mơ, trước mặt, cùng với, và chung quanh quý vị.


Và để kết thúc, tôi mạn phép được trích những dòng cuối từ quyển sách của tôi về tù ngục trong Stendhal mà từ nay “là một cõi niết bàn, thực ra, không tưởng (có tù nhân nào hưởng được số phận của Julien và Fabrice?), nhưng vô cùng quý hóa cho tất cả chúng ta bị ném vào cuộc khiêu vũ giả trang được gọi là đời sống, ở thế giới của giờ thứ hai mươi lăm này trong đó con người, sau những chấn song và kém may mắn hơn những nhân vật Stendhal, phải luôn đi tìm kiếm, như Henri Beyle trong suốt cả đời, một hạnh phúc hão huyền, một dòng sông Léthé không còn chảy nữa, một giọt lệ không bao giờ được khóc.”

…………………………………………………………………………………………………………………………………….

STENDHAL ET MES SAISONS EN ENFER COMMUNISTE

nguyên tác Pháp ngữ:


Mesdames et Messieurs,

1. Je ne sais jamais pourquoi j’ai tant aimé Stendhal et ses romans. Et ça depuis le lycée où je me plaisais à lire et relire les pages odoriférantes du Rouge et le Noir, de La Chartreuse de Parme, malgré l’aversion de mon père, catholique fervent, voire extrémiste. A propos, je me souviens de cette question que me posa à brûle-pourpoint M. Victor del Litto, président du Stendhal Club, lors de mon dernier séjour à Grenoble, voilà quatre ans: “Pourquoi aimez-vous Stendhal?” Je demeurai perplexe, ne sachant que répondre. Au cours des interviews pour mon poste de professeur, aux États-Unis, j’entendais se reposer la même question. A vrai dire, j’avoue que j’ignorais tout à fait les raisons de ma prédilection pour cet écrivain marginal, génial –pourtant très mal connu, et peut-être, très mal aimé des lecteurs de son époque. Pour moi, en effet, aimer Stendhal, c’est comme aimer une femme, ou un homme. On aime, ou on n’aime pas, c’est tout. Surtout avec lui, il y eut au début une sorte de coup de foudre très doux. La cristallisation, pour reprendre son propre mot dans De l’amour, ne vient que lentement et très longtemps après. Et un coup de foudre, aucune “victime” ne l’ignore, ça ne s’explique pas.


Des années ont passé. Et me voici, pourtant, devant la page blanche à la recherche d’une nouvelle explication possible –ou plutôt impossible. J’aime Stendhal, peut-être à cause de ses romans, et dans ses romans, à cause de ses héroïnes immortelles, si belles, si tendres, qui ont exercé une séduction irrésistible non seulement sur les héros, leurs amants, et les lecteurs comme moi à l’âme sensible, mais encore sur les critiques contemporains les plus sévères dont Paul Valéry, Jean-Paul Sartre et Julien Gracq, par exemple, entre beaucoup d’autres. J’aime, en plus, dans ses œuvres ce parfum féerique si enivrant, impérissable comme chez Proust, cette atmosphère si enchanteresse, a-temporelle, faite de fiction et de réel entremêlés, transfigurés –qui me consolent de bien des “âpres vérités”, selon le mot de Stendhal lui-même, de la vie, et me font rêver des cieux plus bleus, des sons plus purs pour mes éternels hymnes à l’amour et à la beauté.


2. Pendant la guerre du Viêtnam, comme officier des Forces Armées du Sud, j’avais toujours dans les poches de mon treillis le chef-d’œuvre lyrique Truyen Kieu de notre grand poète national Nguyen Du, Les Fleurs du Mal de Baudelaire et un roman de Stendhal que je lisais entre deux batailles, dans les tranchées, aux casernes ou aux snacks… Nguyen Du, Baudelaire et surtout Stendhal m’aidaient ainsi à m’évader hors de la lourde réalité qui, comme dit Nerval, n’est pas toujours la sœur du rêve. Je me laissais souvent charmer par les douceurs d’une vie imaginée dans toute sa splendeur et remplie de nuages roses, d’amours vertes, de baisers infinis, d’une vie qui n’a pas de nom ici-bas. La mort nous guettait à chaque instant, mais la prose de Stendhal, mieux que le vin et la femme, ou le haschisch dans la poésie baudelairienne, me donnait le courage inoui de la défier, bien en face: je l’oubliais, c’est peu dire, je la dédaignais carrément. Tout comme les héros stendhaliens, Julien, Fabrice, Octave, Lucien, etc…


L’épisode de l’après-guerre va mieux montrer comment les romans, et spécialement ceux de Stendhal, m’ont tenu sous leur charme à la fois tyrannique et bénéfique.





3. Nous sommes en 1975. La paix honteuse, imposée par les super-puissances internationales à notre pauvre pays le 30 Avril, met fin à une guerre non moins honteuse et sonne le glas pour le Sud du Viêtnam désormais livré aux mains des bourreaux du Nord, vainqueurs malgré eux. Ce jour-là, je devins tout d’un coup “prisonnier de guerre” et “ennemi du peuple”, sans savoir exactement pourquoi. Le nouveau régime, qui se fit appeler “révolutionnaire”, rouge jusqu’au bout des ongles, s’est vite donné une “grandiose” tâche: envoyer en prison tous les officiers et cadres Sudistes. Là commencèrent tous nos malheurs. Mais ma foi soudain réveillée en Dieu et mon inaltérable passion pour Stendhal et ses romans me sauvèrent non plus seulement des laideurs de la vie, mais encore des brutalités de la mort qui se révéla maintenant mille fois plus menaçante, plus moche qu’en temps de guerre. Grâce à Dieu et à Stendhal donc, je pus survivre à mes huit ans d’incarcération, de faim, de souffrances, de privations, dans de multiples camps de labeur, et à mon horrible descente en enfer.


Enfer communiste, bien sûr. Mais aucun langage ne peut assez décrire les atrocités d’une prison tenue par les Viêtnamiens Communistes –alias Viet Cong. Ce sont des geôliers nés, croyez-moi, faisant preuve d’une vigilance et d’une expérience hors de pair. Aucun lieu de détention, fictif ou réel, que je sache, pas même L’Archipel du Goulag de Soljenitsyne ou Souvenirs de la maison des morts de Dostoïevski, n’arrive à égaler les camps Viêtnamiens en ce que j’appelle “raffinement de cruauté”: ici, on tue d’une manière scientifique, progressive, affreusement douce, par l’obligation à une faim permanente. Pour mieux nous maîtriser, ces salauds exploitaient habilement l’instinct le plus bas, le plus dégradant de l’homme: besoin de manger. Au moins, dans leurs prisons, les héros stendhaliens peuvent manger et boire à loisir: en plus, Fabrice a le chocolat de Clélia, et Julien, le champagne et les cigares envoyés par Mathilde. Quant à nous, quant à moi, chaque jour, nous étions forcés de nous voir mourir lentement en bêtes traquées, de vivre pratiquement une mort ignoble, humiliante, avilissante, inventée exprès par les Viet Cong –nos compatriotes. Une mort à retardement qui traînait, traînait, avec dans l’âme de chaque prisonnier la rage impuissante, la honte d’en être réduit à songer constamment, chaque jour, à l’estomac creux et au moyen de le remplir.


On avait ordonné aux officiers de se présenter aux “comités révolutionnaires du peuple”, faire les préparatifs d’un stage de rééducation qui, d’après le communiqué officiel utilisant une phraséologie vague et trompeuse, ne devrait durer que dix ou trente jours, selon les grades. C’était en Juin 1975. Nul ne s’est jamais douté, cependant, que ce serait pour tous un long voyage au bout de la nuit digne de Céline, qui durait huit, ou dix, ou même quatorze ans, et pour plusieurs un aller simple, un adieu à la vie et au monde, littéralement. D’abord nous avions été détenus dans les camps du Sud. Puis, un beau jour, on décida de transférer au Nord environ cent mille “éléments” jugés les plus “réactionnaires”, c’est-à-dire les plus dangereux, dont l’archevêque de Saigon Nguyen Van Thuan et un bon nombre de généraux. Sur mer. Dans quelques vieux charbonniers confisqués au “gouvernement fantoche”. On nous passe les menottes, on nous enferme par milliers dans les cales, on nous réduit ainsi à l’état de bétail. La traversée dure trois jours. Trois siècles. L’air nous manque. L’eau aussi. La nourriture est une chimère: pour toute la journée, chaque détenu reçoit deux biscuits moisis, sorte de ration militaire made in China, grands comme deux boîtes d’allumettes, juste assez pour ne pas crever. Au-dessus, rien qu’un plafond noir. Autour, des corps inertes empilés les uns contre les autres et tout couverts de résidus de charbon. La canicule exerce son pouvoir néfaste. Dès les premières heures, une exhalaison méphitique et asphyxiante empoisonne les cales bondées. Partout, un silence de mort.


Du port de Haiphong, où nous débarquâmes enfin, aux différents camps de concentration, il nous restait à effectuer un autre voyage non moins affreux, qui durait à peu près deux ou trois jours, par le train et en camion. Par mesure de sécurité, nous dit-on, les portières et les fenêtres devaient être complètement fermées, et cela, sous un soleil brûlant. Dans ces fourneaux roulants, la suffocation était telle que plusieurs prisonniers, âgés et déjà bien affaiblis par l’épreuve de la mer, succombèrent avant d’arriver à destination.


Les prisons du Nord Viêtnam, au nombre d’une trentaine, je crois, à nous destinées, étaient toutes sises dans des régions montagneuses où vivaient les peuplades minoritaires les plus arriérées ou les familles des déportés et exilés politiques depuis l’occupation française et après Dien Bien Phu, près des frontières chinoise et laotienne et où les moustiques avaient la grosseur des mouches, ou presque. Sur le chemin, des gamins et des vieilles femmes, pressés par la haine contre nous longtemps nourrie et sans cesse attisée par une grossière propagande, nous lancèrent à pleine main des cailloux, des ordures et hurlèrent des bordées d’injures. J’essayai, comme mes confrères dans le malheur, d’avaler mes larmes. De honte, d’amertume, de fureur.


La vie dans les camps nordistes était plus qu’infernale. Aucune possibilité d’évasion. Nous étions désespérément encerclés par d’interminables chaînes de montagne formant des murailles naturelles solides. Et puis, même si on réussissait à les atteindre, comment survivre, là-haut, au froid, à la faim, à la soif, à l’épuisement physique? Nous étions casés dans de vieilles baraques basses en toit de chaume, couchions sur une espèce de lit collectif fait de rugueuses planchettes de bois, sans nattes, sans oreillers, sans paillassons, pour nous réveiller au matin, le visage et le corps criblés de piqûres de punaises et de moustiques. Par ailleurs, le froid était à son comble. Pour tout habillement, on nous donnait à chacun un uniforme bleu en tissu grossier à utiliser pour deux ans, et une minuscule couverture râpée de mauvaise laine. Pas de sandales, ni chausettes, ni chapeaux. A nous de nous démerder, nous dit-on, ou tant pis! En hiver et en saison des pluies, c’était impossible de dormir, tant le froid et l’humidité devenaient intolérables, impitoyables, et on nous interdisait de faire du feu dans la baraque.


Tout ça, cependant, n’était rien à côté de la faim, le pire des tourments. Notre ration alimentaire, en effet, se limitait à un bol de racine de manioc pour l’un des deux repas quotidiens. Pas de petit déjeuner. Pas de riz. Ni lait ni sucre. Ni viande ni légumes. Le manioc qu’on nous donnait avait été séché au soleil et, ainsi, servait de nourriture en cas de mauvaise récolte aux cochons qui, je devine, l’auraient même refusé, car il avait une couleur noirâtre, un goût douteux, sinon aigre, une odeur fétide. Mais la faim avait raison du dégoût et du choix. Avec cette horrible boustifaille, les plus costauds gars, au bout de quelques mois, avaient le teint pâle, l’air hagard, la figure décharnée. Après un an, ça devenait des squelettes ambulantes. La cervelle devenue pâteuse, on ne pouvait plus réfléchir, ni réagir. Oubliant leur dignité, plusieurs ne pensaient plus qu’à la bouffe, et c’était tout à fait normal. Pire, on perdait ainsi toute velléité de résister, de se révolter, de se respecter, et tout ça se conformait parfaitement au plan prévu par les geôliers. La malnutrition et le manque de vitamines et de médicaments engendraient de nombreuses inévitables maladies graves, l’avitaminose et le béribéri par exemple, qui, avec le paludisme, ne tardaient pas à envoyer, tout doucement, chaque jour, dans l’autre monde un ou deux pauvres diables.


Les survivants, eux, continuaient de plus belle à mâcher du manioc sec, à avoir faim, à être malades, et surtout à travailler dur. Les gardiens ne cessaient de répéter que le travail est source de toute gloire, et qu’au commencement, le premier homme, à savoir notre ancêtre, avait été un singe, que ce singe à force de grimper sur l’arbre pour cueillir les fruits, descendre dans le champ pour semer les grains, courir dans la forêt pour chasser les lièvres, bref, de travailler dur, avait, peu à peu, perdu ses longs poils pour devenir beau, lisse comme nous le sommes aujourd’hui. Que les paresseux, les parasites, les gens velus, nous hurlait-on à l’oreille, soient donc éliminés du paradis communiste!


Pour le labeur quotidien, nous étions divisés en plusieurs compagnies et sections, et sortions travailler aux champs huit heures par jour, six jours par semaine, le dimanche étant réservé à l’éducation politique et aux diverses menues besognes. Nous faisions tout et devions changer de job, de compagnie, de compagnons tous les six mois,grosso modo: planter des choux, des salades, du riz, du maïs –que nous n’avions d’ailleurs pas le droit de manger. Ou aller de grand matin dans la forêt ou la montagne couper du bois, du bambou. Construire ou réparer des maisons, des ponts, des routes avec les outils rudimentaires datant de l’Antiquité. Ou labourer la terre en tirant la charrue à la place des bœufs, garder les buffles, élever les porcs, que dirais-je encore ? Bref, faire tout ce qui pour nous –capitaines, colonels, et généraux– était jusque-là tout à fait inconnu, étranger, bizarre et partant très épuisant. Ajoutez à cela la faim, le froid, l’affaiblissement physique et la dépression morale, et vous comprenez que le taux de mortalité dans les camps soit si élevé.


Surtout la dépression morale. Elle tue avec la même cruauté que la faim et la maladie. Dans le malheur, on ne peut pas se passer de la force morale et de la résistance spirituelle. Sans l’intervention rédemptrice de l’esprit, la peine de mort est irrévocable et n’admet point de sursis. Or, nombreux étaient ceux qui passaient des mois, voire des années, à se lamenter sur leur sort, à nourrir le vain regret d’un bonheur, d’une gloire, ou d’un amour perdus pour toujours, ou à s’agripper désespérément à la réalité répugnante. Ceux-là, la mort ne les ratait pas.


Mais voilà exactement ce que j’avais fait, au début. J’avais pleuré à chaudes larmes comme tout le monde au premier Noël. Et comme tout le monde, j’avais horriblement faim, bougeais à peine, tombais souvent de fatigue. La force du corps et de l’esprit périclitait lentement, mais sûrement. Puis un jour, en regardant, impuissant, un de mes chers amis mourir dans les conditions affreuses et indignes d’un animal qu’on allait égorger, je tressaillis de peur. Je ne veux pas mourir de cette manière, me suis-je répété avec une colère sourde. Le souvenir de Guillaumet dansTerre des hommes de Saint-Exupéry, qui, fourbu, s’obstine à marcher dans la neige pendant des jours, pour éviter de succomber, me revint soudain à l’esprit, très à propos. Et alors, animé de je ne sais quel souffle divin, je me mis à relancer le grand défi d’autrefois à l’insolente Mort, cette pallida Mors dans un poème d’Horace, avec laquelle je m’étais colleté tant bien que mal, depuis la guerre, et qui m’a toujours loupé, grâce à Dieu. Surtout, ai-je crié, il ne faut jamais capituler.


Alors, je recommençai à réciter mes prières, la nuit, et à relire avec l’ardeur d’ancien amoureux les romans de Stendhal, mais mentalement, bien sûr. Dès lors, je vivais une autre réalité, me voyant déjà mort au monde, à l’instar d’Octave dans Armance. J’oubliais, j’essayais d’oublier, les geôliers et les camps, la faim et la maladie, mes guenilles et mon corps désséché –tout ce qui devait me rappeler sans cesse la hideur de l’enfer. Je triomphais de ma misère en ne pensant plus à ces belles femmes que j’avais connues ou même aimées dans la vie, et qui sont maintenant devenues un réel plus inaccessible, plus lointain que le rêve lui-même. Par contre, je ne songeais qu’à ces héroïnes stendhaliennes –Mathilde, Mme de Rênal, Clélia, la Sanseverina, Armance, Mme de Chasteller, entre autres– dont l’image sublime, éternellement jeune et belle, me délivrait bien doucement de cette réalité cruelle et banale pour laquelle je ne me croyais jamais être fait, même à l’époque anté-carcérale. Mes journées coulaient ainsi, tranquilles comme l’eau sous le pont, et même, je dirais plus, heureuses, à l’ombre des ces amantes en fleurs, plus ou moins proustiennes, plus ou moins singulières, mais fidèles, j’espérais, jusqu’à mon dernier souffle –les seules femmes qui fussent jamais venues me consoler dans mes prisons, me rendre la paix et le soleil. Grâce à elles et leur présence permanente et réconfortante, ma prison, sans jamais pouvoir être paradisiaque comme celle de Julien Sorel et de Fabrice del Dongo, perdit quand même son aspect lugubre pour me permettre de traîner, au sens propre, ma vie, ou plutôt ma mort, d’une manière aussi digne que possible, jusqu’au 18 Mars 1983, date de ma délivrance. Huit ans déjà!


Un an plus tard. Après d’infructueuses tentatives d’évasion hors du pays, d’échecs, de déboires et un nouvel emprisonnement –cette fois comme un boat-people malchanceux– j’ai pu, dans une nuit sombre, avec ma jeune sœur, m’embarquer dans un petit bateau de pêche qui nous a déposés un jour à la base navale américaine de Subic Bay à Manille après avoir flotté à la dérive pendant huit jours et huit nuits sur le Pacifique, en pleine tempête. Mais là, c’est une autre histoire. J’ai passé un an et demi dans deux camps de réfugiés aux Philippines avant d’arriver aux États-Unis le 25 Janvier 1985. Je me suis promis d’aller un jour à Lourdes et d’écrire quelque chose sur Stendhal. Pendant cinq ans, j’ai réussi à remplir ces deux promesses. Ma thèse de doctorat, reçue avec les félicitations des professeurs de l’Université d’Oregon, que M. del Litto a accepté de faire publier par Droz, à Genève, dans sa collection stendhalienne, s’intitule justement La prison dans l’œuvre romanesque de Stendhal. Je ne puis jamais assez remercier Dieu de m’avoir ainsi sauvé en m’accordant une âme très romantique, très rêveuse, et m’inspirant cette passion folle pour la littérature et, paradoxalement, pour Stendhal qui, on s’en souvient, n’est pas toujours gentil envers Lui.

4. J’ai déjà dépassé l’âge des vaines nostalgies, mais chaque roman de Stendhal brille toujours en moi comme l’éclat d’un paradis retrouvé. Un morceau de ma vie brisée. Je ne peux plus vivre sans rêver. Comme autrefois au fond de l’enfer communiste. Quel irrémédiable ennui de ne s’accrocher toujours qu’au réel, de ne pas lire chaque jour une de ces pages stendhaliennes palpitantes d’amour, de joie, de parfum ! Après tout, pour imiter Pascal dans son fameux pari, qu’allez-vous perdre en lisant un roman de Stendhal? Rien, dirais-je! Mais si vous gagnez, vous auriez tout un ciel du rêve, devant, avec et autour de vous. Et pour finir, je me permets de vous citer les dernières lignes de mon livre sur la prison stendhalienne, qui devient désormais “tout un nirvana, utopique certes (quel prisonnier a connu le sort de Julien et de Fabrice ?), mais infiniment précieux pour nous tous jetés dans ce bal masqué appelé la vie, dans ce monde de la vingt-cinquième heure où l’homme, derrière ses barreaux et moins chanceux que les héros stendhaliens, est en quête perpétuelle, comme Henri Beyle sa vie durant, d’un bonheur impossible, d’un Léthé qui ne s’écoule plus, d’une larme qui n’est point pleurée.”

Cựu Đại úy Nguyễn Kim Quý

Antony, France, Juillet 1991

No comments: