Monday, October 17, 2016

PHẠM THANH NGHIÊN - ỚT - KINH TẾ

Friday, February 1, 2013

PHẠM THANH NGHIÊN * CÂU CHUYỆN NHỎ CỦA TÔI


Câu Chuyn Nh ca Tôi
 Phạm Thanh Nghiên
 
Tôi xin được phép kể vài mẩu chuyện nhỏ về việc nhà cầm quyền Việt Nam thực thi sứ mệnh bảo vệ nhân quyền cho một công dân như tôi:

Kết tội:

Tôi bị bắt với một lý do rất… cười: tọa kháng tại nhà với biểu ngữ (được phía Cơ quan An ninh điều tra kết luận rằng mang nội dung xấu): “Trường Sa - Hoàng Sa là của Việt Nam . Phản đối công hàm bán nước ngày 14/9/1958 của Phạm Văn Đồng”. Hơn 16 tháng sau ra tòa, tôi nhận bản án 4 năm tù giam, thêm 3 năm quản chế về cái gọi là tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” mà không hề dính dáng đến việc “tọa kháng”, hành vi trực tiếp được nhà cầm quyền làm lý cớ bắt bỏ tù.

Hai chứng nhân “quan trọng” được đưa từ Thanh Hóa vào làm công cụ buộc tội bị cáo. Ông Nhiểm, ông Kính trông tội nghiệp với bộ mặt méo mó, khắc khổ ngồi lọt thỏm, bị bao vây giữa vô vàn những mật vụ dưới hàng ghế dự khán, thay vì ở vị trí dành cho người làm chứng theo quy định một phiên tòa. “Nếu thời gian quay trở lại hoặc có cơ hội khác, tôi vẫn sẽ giúp đỡ họ - những ngư dân Thanh Hóa - dù tôi biết trước có thể những con người này sẽ quay lại kết tội tôi. Họ buộc phải làm thế. Và tôi sẵn sàng tha thứ cho họ.” Tôi đã nói những lời này trước tòa dành cho những ngư dân Thanh Hóa tôi đã gặp và giúp đỡ hồi cuối tháng hai năm 2008.

Trong khuôn khổ bài viết ngắn này, tôi sẽ không tường thuật lại chuyến đi Thanh Hóa cùng Ngô Quỳnh. Bạn đọc nào quan tâm và muốn tìm hiểu sự thật, xin tìm đọc bài viết “Uất ức - biển ta ơi!”tôi viết năm 2008. Tôi tin rằng, nếu ai còn là người Việt Nam thì không thể không đau xót trước việc đồng bào mình bị bắt giết ngay trên lãnh hải của Tổ Quốc mình, cũng như không thể phủ nhận Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam . Chỉ vì vạch trần và tố cáo một sự thật bị Đảng và Nhà nước giấu nhẹm, chỉ vì đòi quyền lợi chính đáng cho những nạn nhân, ngư dân Thanh Hóa mà tôi và Ngô Quỳnh đã bị tước mất tự do - dù là một thứ tự do đang hấp hối.
Biệt giam:
Những ngày đầu, tôi bị giam chung với các nữ tù hình sự khác. Trong cuộc vật lộn mưu sinh, trở thành đủ loại tội phạm (họ vẫn thường tự hào rằng phải rất bản lĩnh mới dám thách thức pháp luật) thì sự xuất hiện của một cô gái nhỏ bé bị gán tội “chống Nhà Nước…” là điều ngoài sức tưởng tượng. Từ ngạc nhiên, tò mò rồi thiện cảm, chúng tôi trở nên gần gũi với nhau. Được vài hôm, những ánh mắt thân thiện, cảm mến biến mất. Thay vào đó là thái độ dè dặt, lảng tránh pha chút sợ sệt. Chính sách cô lập bắt đầu có hiệu quả!

Sắp đến giờ cơm chiều. Tiếng ổ khóa vang lên chát chúa. Tiếp đó là giọng nói lạnh tanh của quản giáo: “Phạm Thanh Nghiên chuẩn bị nội vụ!”. Mọi ánh mắt đổ dồn về phía tôi, lo lắng, thương cảm, hoảng hốt: “Chết rồi, bị đi ép cung rồi”, “chị ơi! Biệt giam rồi. ”, “khổ thân, người bé như cái kẹo, chịu sao nổi cháu ơi”. Mỗi người góp một tí, từ chai mắm, gói lạc, ít bột canh, cuộn băng vệ sinh… tất cả được đùm vào một túi ni-lông, ấn vội vào tay tôi. Tôi không đủ thời gian đùn đẩy. Nhận cũng tốt. Đây sẽ là vốn liếng giúp tôi “cầm cự”, chờ đợi đến lúc nhận được quà tiếp tế từ gia đình. Tôi không sợ biệt giam, không sợ bị ép cung. Tôi sợ những ánh mắt thương cảm của họ. Những tình cảm rất con người mà vì một sức ép đáng sợ nào đó, họ đã buộc phải thủ tiêu đi.
Tôi bước ra cửa, không ngoái lại nhìn. Sau lưng, vài giọt nước mắt lặng lẽ rơi. Nhà tù, thì ra vẫn còn chỗ cho tình thương yêu và lòng nhân ái.

Dẫn tôi đi là người cán bộ tên C. Sau này tôi được nghe nhiều chuyện về ông ta, chủ yếu thành tích làm giầu bất chính và đánh tù. Tôi cắp túi quần áo, chân đất đi trên những con hẻm nhếch nhác vì mưa phùn, qua những dãy nhà giam lạnh ngắt và cũ kỹ. Trong những bức tường lặng câm kia là những sự chờ đợi và tuyệt vọng. Chờ đợi để được phán xử không theo cách của con người, rồi hiến mình cho sự khổ ải và hao mòn trong các trại cải tạo.
Khu giam giữ mới có khoảng sân khá rộng. Sau khi làm các thủ tục cần thiết, C giao tôi cho đồng nghiệp. Tôi đi theo K, cảm giác như đang bị nuốt vào một đường hầm. Lần đầu tiên kể từ khi bị bắt, tôi mới thực sự thấy hết cái âm u của chốn ngục tù. Chỉ khi dừng lại, tôi mới biết mình đang đứng trước một cánh cửa. Cửa mở, hai đồng tử của tôi giãn ra: đây là nơi dành cho con người ư?

Cái gọi là buồng giam rộng chừng 6m2. Hai bệ xi-măng đối diện nhau (chừa một lối đi hẹp ở giữa, tù quen gọi là “xa lộ”) dùng làm chỗ nằm. Từ cửa đến chân bệ nằm còn khoảng trống nho nhỏ để đồ ăn. Trong buồng không có nhà vệ sinh nên phải dùng bô. Chỗ để bô cách chỗ để đồ ăn chừng 3 bước chân.

Một trong hai bệ nằm có gắn cố định một cùm sắt, dùng để cùm chân những người tù bị kỷ luật hoặc tử tù chờ ngày thi hành án. Tôi vào sau L vài ngày, đương nhiên phải nằm chung với cái cùm. L thường mắng tôi vì tội hay cho chân vào cùm. Bảo tôi không chịu kiêng kỵ, có ngày bị cùm thật cũng nên. Hàng ngày tôi đi bộ dọc trên “xa lộ”, coi như tập thể dục. Đoạn đường ngắn mấy bước chân, đi vài vòng phải nghỉ một lần để khỏi chóng mặt. Mỗi ngày hai lần: sáng và chiều, công an mở cửa cho tù nhân ra ngoài làm vệ sinh cá nhân và lấy cơm. Mỗi lần chừng 20 đến 30 phút. Hầu như ngày nào tôi cũng phải đi cung nên mọi việc, từ giặt giũ, đổ bô, lấy cơm, rửa bát… L phải kiêm hết. Có hôm, chưa làm vệ sinh xong, điều tra viên đã đứng đợi ngoài cửa. Chắc chỉ có tù nhân lương tâm chúng tôi mới phải trải qua tình trạng ngồi bệ xí trong sự chờ đợi và thúc giục của cả cai tù lẫn điều tra viên mà thôi. Gần 4 tháng biệt giam, tôi phải đi cung hàng chục lần, chưa kể thời gian ở buồng chung hơn một năm. Chuyện này xin được kể trong một dịp khác.

L có tật xấu, đi ngoài vô tội vạ, không theo giờ giấc. Nhiều hôm cứ đóng cửa buồng cô nàng mới đi, mỗi lần như thế lại chữa ngượng: “Em luyện mãi mà không được, cứ nhìn thấy công an là nó lại thụt vào. Hình như c*t sợ công an chị ạ”. Hai cái bô chứa đầy “sản phẩm” của L. Mùi xú uế bốc lên nồng nặc. Đã thế, cô nàng còn lên lớp tôi: “Chị phải uống thật nhiều nước mới tốt cho sức khỏe, người đâu mà gầy đét, trông chán lắm”. Tôi bảo: “Có hai cái ngai vàng, mày ngự cả hai, chị uống nhiều nước thì chứa vào đâu?”. Cô nàng nhe hàm răng ám khói thuốc cười trừ. Nhìn L, tôi thấm thía hai câu thơ (được cho là của ông Hồ): “Cửa tù khi mở không đau bụng, đau bụng thì không mở cửa tù”.

Cánh cửa sắt, may quá có sáu lỗ thông hơi (to bằng quả trứng chim cút) - thứ duy nhất làm chúng tôi tạm quên mình đang ở trong một cái hộp. Hàng ngày được ra ngoài, tôi thường vãi cơm ra sân để dụ lũ chim sẻ đến. Qua sáu cái lỗ thông hơi quý giá đó, tôi và L luân phiên nhau chiêm ngưỡng, ngắm nghía chúng. L ước: “Giá biết bay như chúng, em sẽ bay về ôm hôn thằng Cu cho thật đã”. Rồi như tiếc rẻ “Nhưng làm con chim bay được thì lại không lắc, không phê được. Làm người như em, tuy tù tội nhưng được biết mùi đời. Sướng thân! Như chị thì thiệt, chả biết đếch gì. Chán chết”. Tôi không thích tranh cãi với L những lúc như thế. Lũ chim vô tâm, chúng nhặt nhạnh những hạt cơm cuối cùng rồi bay đi, mặc kệ tôi ngẩn ngơ. Không có cách nào gọi chúng lại. Tôi tủi thân, đâm ra giận chúng, hôm sau không vãi cơm cho chúng nữa. Theo thói quen, lũ chim bay đến ngơ ngác, tìm kiếm rồi bỏ đi. Tôi buồn! Từ đó không dám tự trừng phạt mình nữa.

Một lần đi cung:

Một vật gì giống như con rắn nằm lù lù giữa sân. Vừa nhận ra thứ đó dành cho mình, một luồng hơi lạnh chạy dọc sống lưng. Sau cái rùng mình, mặt tôi nóng ran, hai thái dương giật liên tục. Không thể để cơn phẫn nộ được dịp bung ra. Tôi sẽ luồn chân vào đó. Phải nếm trải hết mọi cay đắng của người tù. Tôi đứng im, ngoan ngoãn cho K xiềng chân mình. Nét ái ngại lộ rõ trên gương mặt anh ta: “Chị Nghiên đi chậm thôi, sẽ đỡ đau”. Tôi hít một hơi thở sâu chờ K mở cửa. Ánh mắt tôi đập vào ánh mắt người điều tra viên. Dù cố tỏ ra tự nhiên, nhưng tôi biết anh ta chứ không phải tôi đang bị chi phối bởi cái xiềng chân. Tôi không đi chậm như lời khuyên của K. Bị thôi thúc bởi lòng kiêu hãnh, tôi bước thật nhanh bất chấp hai vòng xích đập vào mắt cá chân đau điếng. Tôi không cho phép anh ta có cơ hội thấy tôi trong bộ dạng chậm chạp và đáng thương. Chỉ thể hiện ở bước đi thôi chưa đủ, tôi bông phèng:

- Này anh, giúp tôi một việc được không?

- Việc gì chị?
- Nhờ anh đăng ký với kỷ lục ghi-nét (Guinness), công nhận tôi là người phụ nữ có cái lắc chân to và độc nhất thế giới nhé?
Bị bất ngờ, anh ta im lặng. Sau một hồi, tính háo thắng trỗi dậy, anh ta trả đũa:
- Nếu bây giờ tôi bắc thang cho chị trèo tường về, chị có về không?

- Sao nghiệp vụ anh kém thế?
- Gì cơ?
- Tôi bảo nghiệp vụ anh kém vì anh đi điều tra tôi mà không hiểu gì về tôi. Này nhé, tôi vào đây một cách đường hoàng thì cũng đường hoàng rời khỏi đây. Không phải các anh tùy tiện bắt rồi thả vô tội vạ là được.

Có lẽ anh ta thấy tiếc về câu hỏi vừa rồi.

Một cán bộ trực trại và một điều tra viên khác đã chầu sẵn ở buồng hỏi cung. Chờ tôi ngồi xuống, trực trại rướn người qua mặt tôi, kéo thanh sắt vốn được bắt vít cố định nơi tay vịn, khóa lại. Động tác rất dứt khoát với vẻ mặt rất nghiêm trọng. Chắc đấy là thứ công cụ được phát minh ra để bảo vệ các nhân viên điều tra khi hỏi cung những tên tội phạm thuộc diện đặc biệt nguy hiểm. Thế ra, tôi được liệt vào loại “đặc biệt nguy hiểm” cơ đấy. Tôi quan sát việc liên quan đến mình như một kẻ thực sự bị thuần phục. Xong việc, viên trực trại lui về đứng phía sau tôi (chắc sẵn sàng tung đòn cứu đồng đội nếu đối tượng manh động). Hai điều tra viên đặt hồ sơ lên bàn:

- Chúng ta bắt đầu làm việc!
Tôi lơ đễnh nhìn lên trần nhà.
- Chúng ta làm việc thôi chị Nghiên.
- Anh bảo gì cơ?
Vẻ ngoan ngoãn lúc đầu của tôi khiến họ không chuẩn bị tâm lý đối phó cho sự phản công.
- Chúng ta vào việc…


- Làm gì có chuyện ấy. Các anh nghĩ tôi sẽ làm việc với các anh trong tình trạng này sao?
- Đây là quy định của…
- Là quy định của các anh thôi. Nguyên tắc của tôi là không làm việc với các anh trong tình trạng này.

Hai điều tra viên nhìn tôi chằm chằm. Tôi tiếp tục nhìn lên trần nhà, lưng dựa ra sau, các ngón tay gõ gõ vào thanh sắt chắn ngang trước mặt, chân đung đưa khiến cái xiềng cọ xuống nền nhà phát ra thứ âm thanh khô khốc, nghe đến sốt ruột. Cuối cùng, một trong hai người điều tra viên phải ra hiệu cho trực trại mở xiềng chân và thanh sắt chắn ngang ra. Tôi thôi nhìn lên trần nhà:

- Đây sẽ là lần đầu và cũng là lần cuối tôi cho phép các anh làm thế. Nếu việc này còn tái diễn thì các anh sẽ chỉ nhận được một thứ duy nhất từ tôi, đó là sự im lặng. Mong các anh nhớ cho.

Trở về buồng giam, tôi mệt mỏi nằm vật xuống. Nhìn L với đôi mắt đỏ hoe, tôi đâm cáu. Cô nàng mặc cho tôi mắng mỏ, cứ sấn vào xoa xoa bóp bóp chỗ đau cho tôi. Tôi hắt hủi cô nàng để khỏi phải thương hại mình. Tôi nghĩ đến chú Nghĩa, đến Ngô Quỳnh và các anh em khác bị bắt cùng đợt với tôi. Không biết họ bị đối xử ra sao? Nhưng tôi tin, dù ở trong hoàn cảnh nào thì những người anh em ấy (sẽ không cáu gắt bạn tù vô lối như tôi) mà sẽ ngạo nghễ và nở nụ cười nhân ái vì nhà tù là sự lựa chọn “bất khả kháng”, là cánh cửa duy nhất để đến với tự do.
Phạm Thanh Nghiên
viết sau những ngày mới ra tù.


* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *

Ghi chú :
Bà Phạm Thanh Nghiên (36 tuổi) là một nhà báo độc lập và bênh vực Nhân Quyền. Có lòng yêu nước thương đồng bào, bà là tác giả của những bài phóng sự được nhiều người đọc trên Internet, như là ‘’Chuyến Đi Nhạy Cảm’’ và ‘’ Uất Ức - Biển Ta Ơi !’’. Bà bị bắt ngày 18 tháng 9 năm 2008 trong chiến dịch mùa thu công an CS đàn áp và bắt giam nhiều nhà dân chủ đối kháng chế độ CS VN độc tài tham nhũng và tố cáo đế quốc Trung cộng xâm lược*. Mãi đến ngày 29 tháng giêng năm 2010, bà Phạm Thanh Nghiên mới bị tòa CS Hải Phòng kết án 4 năm tù giam và 3 năm tù quản chế về tội ‘’tuyên truyền chống nhà nước CS’’. Bà bị lưu đày tại trại tập trung số 5 Thanh Hóa cho tới hết hạn tù bất công vào ngày 18 tháng 9 năm 2012. Bà Phạm Thanh Nghiên được tổ chức quốc tế Quan Sát Nhân Quyền (Human Rights Watch) trao tặng Giải Tự Do Ngôn Luận và Bày Tỏ Quan Điểm năm 2009 cùng với nhà báo Nguyễn Văn Hải (Điếu Cày), nhà giáo Nguyễn Thượng Long, thượng tọa Thích Thiện Minh, ông Trần Anh Kim và ông Vi Đức Hồi.

*

Genève ngày 28 tháng giêng năm 2013
Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ
Ligue Viêtnamienne des Droits de l’Homme en Suisse
Vietnamese League for Human Rights in Switzerland .

* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *

ỚT DƯỢC THẢO



Ớt cay: dược thảo ưu tiên số 1 khi cấp cứu
cường máu lưu thông và gia tăng hoạt động của tim. Nó có khả năng đặc biệt để nâng cao hoạt động tim mạch trong khi thực sự làm hạ áp huyết. Ớt có tác dụng mạnh mẽ trên toàn bộ hệ thống. Ớt được dùng từ lâu đời để trị mệt mỏi và phục hồi khả năng chịu đựng cũng như sự cường tráng. Ớt là chất kích thích tự nhiên không gây tác dụng phụ nguy hại như tim đập nhanh, hiếu động hay tăng áp huyết.


 
-Nhồi máu cơ tim (Heart Attacks): Trong 35 năm chữa bệnh và dạy học, chữa trị cho các bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim, Dr. Christopher chưa bao giờ để mất một bệnh nhân tim nào khi được gọi đến chữa trị cấp cứu tại nhà. Lý do là, bất cứ khi nào bác sĩ vào nhà bệnh nhân – nếu họ vẫn còn thở – ông cho họ uống trọn một ly trà ớt (một muỗng cà phê ớt bột hay rượu ớt trong một ly nước nóng), và chỉ một lúc sau họ đứng dậy và đi lại được. Đây là một trợ giúp nhanh nhất mà chúng ta có thể đem lại cho tim, vì ớt cung cấp chất dinh dưỡng chính đáng cần thiết cho tim ngay lập tức. Hầu hết tim thiếu chất dinh dưỡng do chúng ta thường ăn các loại thực phẩm chế biến bán sẵn.



 
Để chứng tỏ gía trị của ớt, thấy ớt tuyệt diệu dường nào, và thực phẩm ưu hạng của tim là gì, các bác sĩ ở phương Đông đã làm thực nghiệm sau và đã được đăng trên nhiều tạp chí nơi họ làm thí nghiệm. Các bác sĩ cho vài mô tim sống vào trong một ly thủy tinh ở phòng thí nghiệm được khử trùng có đầy nước chưng cất (distilled water), và nuôi mô tim chỉ với ớt (cayenne pepper), theo định kỳ làm sạch các lớp cặn dưới đáy ly và thêm nước cất. Suốt khoảng thời gian nuôi mô tim, cứ cách vài ngày bác sĩ phải cắt bớt mô tim vì nó phát triển rất nhanh. Không có tuyến yên và tuyến tùng (pituitary and pineal glands) điều khiển, mô cứ tiếp tục tăng trưởng nhanh chóng, vì vậy họ phải theo dõi luôn. Họ nuôi mô tim sống trong 15 năm.
 

Sau khi bác sĩ qua đời, các cộng sự viên tiếp tục nuôi mô tim thêm hai năm trước khi hủy nó đi vì không cần phải làm thêm nghiên cứu này nữa. Điều này chứng tỏ gía trị dinh dưỡng tuyệt hảo của ớt đối với mô tim. Đây cũng là lý do tại sao rất nhiều trường hợp gây kinh ngạc được sáng tỏ khi người ta sử dụng ớt cho cơn tấn công nhồi máu cơ tim. Vì đa số các trường hợp này là do tim suy dinh dưỡng. Tim không được dinh dưỡng đúng trong thời gian lâu dài đến nỗi nó qúa đói mệt, rồi đến một lúc điều người ta âu lo xảy ra: nhồi máu cơ tim.
 
Một ly trà ớt đem đến cho trái tim một lượng dinh dưỡng của thực phẩm nguyên chất mạnh mẽ, đem nhanh chóng và kỳ diệu đủ để vực dậy một người trong cơn nguy cấp của bệnh tim. Đây là điều mà mọi người nên biết, vì cơn nhồi máu cơ tim có thể đến với thân nhân hay bạn bè bất cứ lúc nào, đến ngay cả với chính bạn nữa. Trà nóng có tác dụng nhanh hơn thuốc viên (tablet), viên nang (capsule) hay trà lạnh, vì trà nóng làm cho tế bào mở rộng và tiếp nhận ớt nhanh hơn nhiều, và chất dinh dưỡng hiệu năng đi trực tiếp vào tim, qua các động mạch.
 
http://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/10/post.gifỚt cũng giúp thuyên giảm các chứng bệnh khác như:
- Cục máu đông (blood clots). Ớt rất gía trị trong việc phòng ngừa và làm tan cục máu đông
-Xơ vữa động mạch hay Xơ cứng động mạch (Atheroslerosis or Arteriosclerosis): Ớt làm mềm thành mạch, mở rộng các mạch máu, tăng sức mạnh cho tim, và làm sạch bên trong thành mạch của hệ tuần hoàn.
-Suy tim sung huyết (Congestive heart failure): Ớt giúp tim được thư giãn và khỏe mạnh, mở rộng các mạch máu, dọn sạch những chất bẩn. Về lâu dài căn bệnh tim trầm trọng có thể hồi phục lại gần như bình thường với việc đều đặn dùng ớt. Uống một muỗng ăn phở bột ớt trong một ly nước nóng.
-Triglycerides cao: Ớt giúp giảm lượng triglycerides là chất béo trung tính tổng hợp từ các carbohydrat cơ thể lưu trữ trong các tế bào mỡ.
 
 
 
-Loạn nhịp tim (Heart arrhythmias): Ớt giúp giảm nhịp tim đập nhanh, tăng cường máu đến tim, ngăn ngừa máu đóng calcium.
-Hỗ trợ tim mạch, lọc máu và kích thích toàn bộ hệ thống cơ thể. Giúp thông các tắc nghẽn ở động mạch, tĩnh mạch và hệ bạch huyết.
-Gia tăng chức năng não bộ, một trong những hiệu qủa tốt nhất là gia tăng lưu thông máu đến vùng đầu và não. Hiệu nghiệm trong việc chống lại chứng nhức nửa đầu (migraine headache) và nhức đầu chùm (cluster headache).
 
-Có thể cầm máu rất nhanh bằng cách giội rửa vết thương với 1 đến 5 ống nhỏ giọt đầy (1-5 full droppers), sau đó đắp bột ớt cayenne lên vết thương.
-Tăng cường lưu thông máu và giảm hay cầm máu từ vết loét dạ dầy. Khi uống trà ớt, nó sẽ kích thích lưu thông máu. Dùng để trị chứng khó tiêu (indigestion) và ợ nóng (heartburn).
 
-Giúp tan đờm và nhanh chóng chữa lành các chứng cảm lạnh, cúm. Được dùng như thảo dược làm toát mồ hôi (diaphoretic).
-Giúp hạ cholesterol và ngăn ngừa cục máu đông thành hình bằng cách làm loãng máu và giúp chữa lành trái tim sau cơn nhồi máu cơ tim (heart attack).
-Giúp giảm viêm họng và viêm amidan.
 
http://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/10/post.gifCHỨNG TỪ:
Năm 1979, Dick Quinn đã qua cái chết lâm sàng vì cơn nhồi máu cơ tim tấn công nhưng được cứu tỉnh lại. Với các động mạch tim bị nghẽn hoàn toàn, ông có hai con đường chọn lựa: hoặc là giải phẫu tim hoặc là chết. Thật không may, giải phẫu không thành công; sau vài tuần, tình trạng tệ hơn, bác sĩ đề nghị giải phẫu lần thứ hai. Dick từ chối vì vết mổ trước vẫn chưa lành , còn đau lắm. Ông thấy rằng lập lại cùng một phẫu thuật như trước không cách gì giúp ông khá hơn được.
Vì từ chối giải phẫu và thuốc men không giúp gì được, bác sĩ cho ông về nhà. Ông qúa yếu nhược, gia đình không hy vọng ông sống sót.
 
Một hôm ngồi trong công viên để sưởi nắng, bất ngờ một bà láng giềng lại chỗ ông nói ông dùng ớt để chữa trị. Sau khi lịch sự yêu cầu để ông yên tĩnh một mình, Dick về nhà phớt lờ đề nghị buồn cười đó.
Thêm vài tuần, sức khỏe càng tuột dốc, trong cơn tuyệt vọng ông quyết định thử dùng ớt.
Dick lấy một số thuốc cho tim loại viên bọc, đổ thuốc ra, nhét bột ớt từ ngăn đựng gia vị vào rồi uống rồi đi ngủ. Kết qủa thật kỳ diệu, ngay sáng hôm sau ông đã cảm thấy khỏe hơn rất nhiều và không lâu sau đã trở lại làm việc. Ông viết quyển Left for Dead kể lại câu chuyện của ông, thuyết trình qua radio, và công thức Ớt của ông có mặt trên hàng ngàn cửa tiệm thực phẩm. Dick bị nhồi máu cơ tim năm 42 tuổi, đến tuổi 58 nhiều người trên thế giới đã biết đến ông, thuyết trình 300 ngày một năm, chia sẻ về những ích lợi cứu mạng của Ớt.
 
http://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/10/post.gifTHỰC HÀNH:
Nếu bạn muốn đem theo thứ gì cần thiết trong túi cứu thương để có thể dùng cấp cứu ngay cho người bị nhồi máu cơ tim hay đột qụy, hãy mang theo rượu ớt. Dr. Christopher khám phá rằng một ly trà ớt nóng với một muỗng càphê rượu ớt sẽ làm ngưng cơn tấn công chưa đầy ba phút.
 
- Khi bạn cảm thấy cơn nhồi máu cơ tim sắp xảy ra, hãy uống ly trà ớt nóng cứ 15 phút một lần cho đến lúc các triệu chứng qua đi.
-Nếu bệnh nhân đã bất tỉnh vì nhồi máu cơ tim, bắt đầu cho hai muỗng càphê rượu ớt vào miệng, sau đó tăng thêm khi bệnh nhân bắt đầu có phản ứng. Trong các chứng từ, có nhiều trường hợp bệnh nhân chết lâm sàng, da chuyển sang màu xanh (blue), tim ngừng đập, được cho rượu ớt từ 1 đến 12 muỗng càphê, tim bệnh nhân đập trở lại và được phục hồi. Bác sĩ Anderson là bác sĩ được biết đến về một lần đã chạy vội đến bãi đậu xe và cho rượu ớt vào trong miệng một anh đã tắt thở vì bị nhồi máu cơ tim trong khi anh này đang đậu xe. Chỉ trong vòng vài phút, tim anh bắt đầu đập lại.
 
-Chảy máu, xuất huyết (bên trong hay bên ngoài cơ thể): pha ly trà Ớt nóng (dùng một muỗng càphê ớt bột hay 30 giọt rượu ớt) để nguội bớt rồi uống, uống luôn cả bã bột ớt nếu có thể. Máu sẽ cầm lại trong vòng 10 giây.
-Vết thương: bạn có thể rắc bột ớt lên vết thương, hay rửa vết thương bằng rượu ớt, máu sẽ cầm lại trong vài giây.
-Cầm máu sau khi sinh: bơm 15-20 ống nhỏ giọt (một ống nhỏ giọt chứa 30 giọt) rượu ớt trực tiếp vào âm đạo. Máu sẽ cầm lại ngay trong giây lát.


-Trẻ sơ sinh bị ngạt thở: dùng vài giọt rượu ớt hòa với vài giọt nước (nửa này nửa kia) nhỏ vào lưỡi bé.
http://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/10/post.gifGHI CHÚ: trường hơp cấp cứu, khi có sẵn ớt cay tươi trong nhà, gĩa nhuyễn ớt cay tươi rồi pha với nước nóng để làm trà ớt cho bệnh nhân uống (1 trái ớt cay to dài bằng ngón tay trỏ pha trong 200-250 ml nước nóng).



 
http://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/10/post.gifLIỀU LƯỢNG DUY TRÌ HÀNG NGÀY
*Rượu ớt: bắt đầu bằng 5 giọt trong nước uống hay nước trái cây ngày ba lần. Tăng dần lên đến 1 ống nhỏ giọt đầy (= 30 giọt), ngày 3 lần.
*Bột ớt: Bắt đầu bằng 1/4 muỗng càphê ớt bột ngày 3 lần, và tăng dần lên 1 muỗng càphê ngày 3 lần. Cho ớt (bột ớt hay rượu ớt, giấm ớt) vào ly nước nóng, để 5 phút như pha trà rồi uống. Uống càng nóng càng tốt.
Rượu dược thảo tươi thì mạnh hơn và có hiệu qủa hơn loại mua ở thị trường. Nhiều người không tin thảo dược có kết qủa, vì họ dùng hàng thương mại bán sẵn. Chúng không hữu hiệu vì hai lý do: 1) Bệnh nhân không dùng đủ liều lượng lớn và 2) Sản phẩm thương mại thường nhẹ đến nỗi bạn có thể uống cả chai mà vẫn không kết qủa gì.
Hãy tự làm rượu ớt lấy để đảm bảo chất lượng tươi và tính hiệu qủa của nó.
 
http://tongdomucvusuckhoe.net/wp-content/uploads/2012/10/post.gifCÁCH LÀM RƯỢU ỚT (CAYENNE TINCTURE)
Bạn có thể chiết suất dược thảo bằng cách dùng nước giống như pha trà. Tuy nhiên cách này không để được lâu. Cách tốt nhất là ngâm rượu. Rượu giúp trích ra được một số chất mà nước khó lấy ra. Ngoài ra có thể dùng giấm táo (apple cider vinegar) thay vì dùng rượu. Rượu chọn từ loại 40% alcohol (80 proof) trở lên. Rượu 40% có nghĩa là 40% alcohol ngũ cốc và 60% nước cất. Ở Mỹ hay Tây Phương dùng rượu Vodka 40-50% alcohol, hay dùng rượu Ever Clear 75%, 95% grain alcohol. Nếu dùng 1 lít rượu 95% thì pha thêm 1 lít nước cất.
- Từ ớt tươi: Rượu thuốc nếu có thể bắt đầu ngâm vào ngày đầu tháng ta. Lấy ớt tươi, ớt càng cay càng tốt, có thể dùng nhiều loại ớt cùng lúc, rửa sạch để thật ráo nước, cắt bỏ cuống, cho vào máy xay (blender), đổ rượu cho ngập bên trên mặt ớt. Xay khoảng một phút hay đến khi được hòa đều. Ớt tươi cho hiệu lực mạnh mẽ. Bạn có thể dùng tươi ngay khi vừa xay, và rất tốt. Nhưng bạn nên cho vào chai thủy tinh, đặt nơi tối không có ánh sáng, mỗi ngày lắc đều vài lần. Sau 14 ngày, lọc bỏ bã. Bạn sẽ được chai rượu ớt để được rất nhiều năm.
 
- Từ bột ớt khô: lấy 4 oz (khoảng 120g) – chọn loại có độ H.U (heat unit) cao 70.000 H.U hay 90.000 H.U - ngâm trong một lít rượu 45% alcohol trong 14 ngày. Người mới bắt đầu dùng ớt, dùng loại 35.000 H.U trước.
Thảo dược số một để cấp cứu có sẵn trong tay là ớt (cayenne). Đúng vậy, ớt cay. Ớt càng cay càng chứa nhiều phytochemical, càng tác dụng hơn. Do đó chọn loại ớt cay nhất nếu có thể được.
Hãy luôn có một chai rượu ớt nhỏ sẵn bên mình trong túi, túi xách tay, trong xe, trong tủ thuốc, nơi bàn làm việc. Bạn cũng nên làm sẵn ớt bột khô dự trữ ở nhà bếp phòng khi cần thiết.
 
Khi nào tôi thấy được hiệu qủa?
Ớt có tác dụng rất nhanh, bạn có thể cảm thấy ngay. Ớt gia tăng máu lưu thông ngay tức khắc và bạn cảm thấy năng lực gia tăng ngay lần đầu bạn dùng thử. Tuy nhiên nếu bạn nôn nóng dùng qúa nhiều sớm qúa, bạn có thể đi tiêu chảy hay cảm thấy khó chịu ở bao tử.
Thoạt đầu nếu bạn dùng nhiều qúa, hãy giảm bớt lại hoặc là dùng trong bữa ăn nhiều. Bơ, kem và yao-ua sẽ làm giảm cái nóng của ớt trong bao tử tốt hơn là nước. Bạn cũng có thể rắc ớt bột vào thức ăn. Ớt cay ở miệng thông báo cho cơ thể biết trước cái nóng đang trên đường đi tới”Black diamond (cards)
LM Hoàng Minh Thắng & Đình Tứ & Kim Tuyến
Chuyên viên dược thảo

BICH NGỌC * KINH TẾ VIỆT NAM

CÁCH DÙNG TỪ RẤT ĐA ….NGHĨA !?
’Nền kinh tế Việt Nam đang yếu đi một cách từ từ’
(ĐVO) - Triển vọng kinh tế năm 2013 không có nhiều đột biến so với năm 2012. Lạm phát cao có thể trở lại vào năm 2013 khiến mục tiêu kiềm chế lạm phát dưới 6% của Chính phủ đặt ra trở nên mong manh. Chính sách điều hành kinh tế sẽ phụ thuộc nhiều vào các biện pháp hành chính hơn là thị trường.


Đây là một trong những nhận định của các chuyên gia kinh tế về triển vọng kinh tế năm 2013 tại hội thảo: “Những rủi ro kinh tế vĩ mô và tầm nhìn chính sách 2013” do Trung tâm nghiên cứu kinh tế và chính sách, Trường Đại học kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức sáng 30/1.

Ngay cả vấn đề lạm phát thì cũng chỉ giải quyết phần ngọn

Theo TS Lê Quốc Phương, Phó giám đốc Trung tâm thông tin công nghiệp và thương mại, Bộ Công thương, năm 2012 bức tranh kinh tế thế giới ảm đạm làm ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế Việt Nam.

Thâm hụt ngân sách cả năm lên khoảng 162 nghìn tỉ đồng – tương đương 4,8% GDP. Thâm hụt ngân sách tăng nhanh buộc Chính phủ phải tăng cường vay mượn thông qua trái phiếu bất chấp lãi suất cao và đẩy thêm gánh nặng về phí và thuế sang cho người dân.

Theo chuyên gia Bùi Trinh, thời gian qua các nhà tư vấn kinh tế về các chính sách của Nhà nước tập trung vào vấn đề tiền tệ nhằm ngăn cản sự gia tăng của giá cả mà bỏ qua các yếu tố khác.
 

Năm 2012 bức tranh kinh tế thế giới ảm đạm - TS Lê Quốc Phương
Ngay cả vấn đề lạm phát thì cũng chỉ giải quyết phần ngọn. Nguyên nhân sâu xa của lạm phát lại là do việc sản xuất và đầu tư thiếu hiệu quả và năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) giảm mạnh. Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp vào tăng trưởng GDP khoảng 22% trong giai đoạn 2000-2005 thì đến 2006-2011 là dưới 10%. Bên cạnh đó nếu tính toán từ hệ số giá trị gia tăng trên giá trị sản xuất từ giai đoạn năm 2000 đến nay, tỉ lệ này ngày càng nhỏ đi.

“Năm 2000 sản xuất ra 10 đồng sẽ tạo ra trên 4 đồng giá trị gia tăng, đến giai đoạn hiện nay sản xuất 19 đồng chỉ tạo ra chưa đến 3 đồng giá trị gia tăng. Như vậy một lượng tiền lớn bỏ ra để sản xuất nhưng lại tạo ra một lượng hàng hóa ít hơn sẽ làm phá vỡ quan hệ tiền – hàng và góp phần làm tăng chi phí của hàng hóa sản xuất trong nước”, ông Bùi Trinh nói.

Nhìn ở nhiều góc độ của nền kinh tế, chuyên gia Bùi Trinh cho rằng, triển vọng kinh tế năm 2013 không có điểm nào sáng.

Nghiên cứu của chuyên gia Bùi Trinh và Ths Nguyễn Viết Phong cũng chỉ ra kịch bản tăng trưởng GDP cho năm 2013 có thể đạt được từ 4% đến 5% trong điều kiện tăng trưởng về các yếu tố tổng cầu vẫn được đảm bảo và hiệu quả đầu tư không thay đổi so với năm 2012.

Tuy nhiên, điểm mà các chuyên gia nhấn mạnh là khi đầu tư công của nửa cuối năm 2012 vào (đập phá, xây dựng trụ sở mới của các cơ quan nhà nước, mua sắm xe cộ, đào và lát lại vỉa hè lòng đường…) có thể làm trực tiếp tăng GDP của năm đó, “nhưng cách thực hiện vốn đầu tư kiểu này không hề lan tỏa cho các năm sau. Đầu tư công như vậy là không hiệu quả’, ông Trinh nhấn mạnh.
Khi nền sản xuất bị giảm tốc độ tăng trưởng, các khoản thu ngân sách gặp khó khăn dẫn tới bội chi ngân sách, nợ nần tăng thêm. Nếu đầu tư của khu vực tư nhân cũng gặp khó do tín dụng gần như không tăng sẽ không chỉ gây nên nguy cơ suy giảm kinh tế mà biện pháp khắc phục suy giảm bằng cho vay ồ ạt trong điều kiện giá năng lượng, giá dịch vụ trong nước tăng mạnh và giá cả thế giới cũng tăng sẽ tạo vòng xoáy phức tạp hơn về nguy cơ lạm phát mới.
                                          Ths Nguyễn Viết Phong
Thêm vào đó, hiện nay cả người tiêu dùng và nhà đầu tư đều khá thận trọng trong chi tiêu dẫn tới khả năng mở rộng sản xuất rất khó. Như vậy có thể thấy nền kinh tế hiện đang thực sự khó khăn ở cả phía cung lẫn cầu.

TS Nguyễn Đức Thành, Trung tâm nghiên cứu kinh tế và chính sách cho rằng, kinh tế 2013 không có nhiều đột biến so với năm 2012 do chưa có cuộc cải cách nào lớn thực sự được thực hiện ngoại trừ sự khởi động mạnh mẽ của ngành tài chính ngân hàng.

“Lạm phát cao trong năm 2013 có thể trở lại khiến mục tiêu lạm phát dưới 6% của Chính phủ đặt ra vào cuối năm 2012 trở nên mong manh. Nhiều khả năng Chính phủ không đạt được mục tiêu này. Dự báo của chúng tôi cho rằng làm phát 2013 có thể hướng tới mức 10%”, TS Thành nhận định.

TS Lưu Bích Hồ thì cho rằng, triển vọng kinh tế năm 2013 duy nhất có một điểm sáng là nông nghiệp, nông dân và nông thôn. “Chỉ có nông nghiệp là tạo ra giá trị thật, hạt gạo, hạt thóc và xuất khẩu thật. Hai lần khủng hoảng kinh tế đều do nông nghiệp ‘cứu’. Do vậy không nên nhìn vào con số xuất siêu, thặng dư vì đó chỉ là con số ảo”, TS Bích Hồ khẳng định.

Lợi ích nhóm làm xói mòn uy tín

Theo TS Nguyễn Đức Thành, năm 2012 ngành ngân hàng có những khủng hoảng nhỏ và đỉnh cao là một số lãnh đạo ngân hàng bị bắt và nhiều tin đồn lan truyền. Điều này làm cho lần đầu tiên trong lịch sử hệ thống ngân hàng thương mại với nhau cho vay qua đêm phải có cầm cố thế chấp.

Năm 2012 cũng là năm nhiều ngân hàng không đòi được tiền đã cho vay. Lưu lượng giao dịch ngân hàng giảm dần và lãi suất liên ngân hàng cũng giảm.

“Các chính sách đổ xô vào những cú sốc lớn - như bất động sản – trong khi nền kinh tế của Việt Nam đang yếu đi một cách từ từ thì không ai để ý. Hiện tượng phá sản ngành thủy sản (cá tra, cá ba sa) chính là một ví dụ điển hình cho các tín hiệu về chỉ số vĩ mô, giá không được lưu ý”, TS Thành nói.

Việc điều hành giá thời gian qua như sự can thiệp vào thị trường vàng và dự thảo Nghị định về thanh toán bằng tiền mặt trong đó, các giao dịch mua bán bất động sản, ô tô, xe máy… sẽ phải thực hiện qua tài khoản, theo TS Thành tư tưởng chính sách rất hay và đúng.
“Một nền kinh tế kinh tế vàng không vào quỹ lưu thông và tiền chạy qua tài khoản là rất đúng, nhưng cách làm theo kiểu gò vào như hiện nay thì bản thân tôi và nhiều chuyên gia kinh tế ngờ rằng đó chỉ là cách cứu các ngân hàng trong điều kiện hoàn cảnh khó khăn. Nếu mục tiêu chính sách hay mà công cụ thực hiện áp đặt phục vụ lợi ích nhóm sẽ làm cho chính sách rất khó khả thi và làm sói mòn uy tín của Chính phủ”, TS Thành lo ngại.

Những gợi ý

Giới chuyên môn đưa ra nhiều gợi ý chính sách năm 2013. Theo đó cần phục hồi đà tăng trưởng kinh tế bằng cách nỗ lực giảm lãi suất cho vay ra và tiếp tục cung ứng tín dụng ổn định kinh tế, giúp doanh nghiệp giảm chi phí, tăng xuất khẩu, đẩy mạnh bán hàng, giảm tồn kho, tạo thêm việc làm và khuyến khích đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh dài hạn.

TS Lưu Bích Hồ cho rằng, Chính phủ phải tập trung số 1 vào tái cơ cấu chứ không phải là lạm phát. Cần phải chấn chỉnh lại sự điều hành và nhìn bài học về sự không đồng bộ, sử dụng quá nhiều biện pháp hành chính. Tím ra nguyên nhân nói mà không làm được, hoặc nói nhiều làm ít, làm không hiệu quả.

TS Thành gợi ý, Chính phủ thực hiện các giải pháp giúp doanh nghiệp tái cơ cấu nợ để tiếp tục được cấp vốn nếu có dự án kinh doanh hiệu quả, đặc biệt là các hợp đồng tiêu thụ hoặc đơn hàng xuất khẩu.

Phục hồi thị trường bất động sản bằng biện pháp giữ lãi suất cho vay mua nhà trong khoảng 10-12%/năm, kỳ hạn 15-20 năm và có thể điều chỉnh theo lạm phát được kỳ vọng có thể làm một động lực mạnh để tăng lực cầu các căn hộ tại phân khúc bình dân.

Xử lý nợ xấu bằng cách thành lập công ty mua bán nợ tập trung hoặc trực tiếp bơm vốn cho hệ thống ngân hàng tự xử lý hoặc phối hợp cả hai biện pháp trên. Ngoài ra, xử lý nợ xấu cũng sẽ gắn với việc sắp xếp dứt điểm các ngân hàng thương mại yếu kém đang là nhân tố gây bất ổn thanh khoản của hệ thống.

Bích Ngọc

 
MẤY LƯU Ý KHI ĐỌC BÀI DỰ BÁO NÀY:
1-VASS là “THINK TANK” QUỐC DOANH LỚN NHẤT CỦA VN BAO GỒM TẤT CẢ CÁC CƠ QUAN NGHIÊN CỨU VỀ KINH TẾ,CHÍNH TRỊ,XÃ HỘI LỚN NHẤT VN NHƯ :VIỆN KINH TẾ HỌC;VIỆN KINH TẾ & CHÍNH TRỊ THẾ GIỚI;VIỆN ĐÔNG NAM Á;VIỆN TRUNG ĐÔNG & BẮC PHI;VIỆN TRUNG QUỐC HỌC;ETC…..
2-NĂM 2015 VN SẼ HẾT THỜI HẠN ƯU ĐÃ IDA (TỨC KHÔNG ĐƯỢC VAY VỐN QUỐC TẾ GIÁ RẺ THEO CƠ CHẾ IBRD);
3-NĂM 2018 VN SẼ KHÔNG CÒN ĐƯỢC HƯỞNG QUY CHẾ “NỀN KINH TẾ CHƯA PHẢI LÀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG” THEO CAM KẾT WTO;
4-“ĐÁY” CÓ 3 LOẠI:CHỮ “V”;CHỮ “U” VÀ CHỮ “L”;
Kinh tế Việt Nam được dự báo rơi vào điểm đáy trong 2013
Kinh tế Việt Nam có nguy cơ rơi vào “điểm đáy” trong năm 2013 nếu thiếu các biện pháp điều hành chính sách quyết liệt ngay từ đầu năm.
Cảnh báo này được Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (VASS) đưa ra trong báo cáo chính sách mang tên “Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô và khôi phục cầu nội địa” trong tháng 1/2013.

Cơ sở để VASS đưa ra nhận định trên dựa vào một biểu đồ phân tích chu kỳ tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 1989 - 2012.

Biểu đồ này cho rằng, kinh tế Việt Nam đã biến động theo chu kỳ 5-7-5-7-5, theo đó, các điểm đáy của tăng trưởng kinh tế rơi vào các năm 1989, 1993, 1999, 2003, 2009.

Trên cơ sở đó, Viện này bày tỏ quan ngại nền kinh tế Việt Nam có nguy cơ rơi vào đáy chu kỳ trong năm 2013.

Tuy nhiên, VASS cũng cho rằng có phương án nền kinh tế sẽ dần hồi phục lại trong giai đoạn 2013- 2015.

Mặc dù vậy, VASS cho rằng quá trình điều chỉnh của kinh tế Việt Nam sang một quỹ đạo mới cân bằng và bền vững hơn sẽ cần nhiều thời gian.

“Vì lẽ đó, cần có một tầm nhìn trung hạn đối với quá trình điều chỉnh này, thay vì quá chú ý đến những dao động ngắn hạn của nền kinh tế trong nước và toàn cầu”, báo cáo khuyến nghị.

Báo cáo đề ra ba phương án tăng trưởng của Việt Nam trong năm 2013, song cả ba phương án đều cho thấy triển vọng u ám với tăng trưởng kinh tế chậm lại, lạm phát cao, và thất nghiệp gia tăng.

Trong đó, VASS cho rằng phương án khả quan nhất là tăng trưởng kinh tế năm 2013 là 5,3%, tỷ lệ lạm phát 7,3%, và tỷ lệ thất nghiệp 3,85%.

Liên quan đến khuyến nghị chín

NGƯỜI LÍNH GIA* NHỮNG KẺ BÁN LINH HỒN CHO QUỶ

Xin chuyển đến Qúy Vị bài viết dưới đây: Những Kẻ Bán Linh Hồn Cho Quỷ  của Người Lính Già Oregon / Kim Thanh Nguyễn Kim Quý...

đề cập đến những tên ca, nhạc sĩ trở cờ, trong đó có tên được giới thiệu như sau:

Trong cái đám ca nhạc sĩ bèo nhèo như cái mền rách về chầu chực, quỳ lụy Việt Cộng nói trên, có một anh chàng thuộc Cộng đồng Oregon, cùng thành phố tôi đang cư ngụ. Trong bài "Đền Ơn Đáp Nghĩa" (báo Phương Đông Times, số ngày 7/12/2012, trang 22), Mục sư Huỳnh Quốc Bình, cựu chủ tịch Cộng Đồng Oregon, đã giới thiệu anh ca nhạc sĩ này, như sau:


[...] Tôi biết ít nhất một ca nhạc sĩ rất nổi tiếng. Tại địa phương ông cư ngụ, chưa ai thấy ông đóng góp một xu cho những công tác ích lợi chung trong cộng đồng. Ông cũng không hề một lần đóng góp lời ca tiếng hát của ông cho đồng hương địa phương thưởng thức, nếu có thì phải trả thù lao. Ông chỉ chu du ca hát xứ người. Vậy mà khi cần tiền, ông bèn tổ chức "tạ ơn em" tại địa phương nơi ông không buồn quan tâm trong mấy Thập Niên. Điều buồn cười hay khôi hài, là đã có năm bảy trăm người, mỗi người bỏ ra năm bảy chục Mỹ kim, để mua vé danh dự, hoặc thượng hạng, hầu có thể nghe ông hát "tạ ơn em" và mua CD nhạc của ông mang về nghe ông "tạ ơn em"... Điều phũ phàng hơn hết là khi cộng đồng có những buổi tổ chức có tính cách xã hội, giúp đỡ những ai cần giúp đỡ, hoặc biểu tình lên tiếng tranh đấu cho những người bị VC đàn áp tại Việt Nam, thì ông ca nhạc sĩ này lại biệt tăm và số người tham dự buổi ông tổ chức "tạ ơn em" cũng mất dạng [...]

Tên anh ta là Từ Công Phụng...


Xin mời Quý Vị xem bài viết, để tường và thẩm định..

 
 
 
BMH
Washington, D.C






Bài đăng trong Oregon Thời Báo, thứ năm 31/1/2013, số 561

NHỮNG KẺ BÁN LINH HỒN CHO QUỶ
người lính già oregon


      I. Thời gian gần đây, khi đọc tin một số ca nhạc sĩ hải ngoại kéo nhau về Sài Gòn, Hà Nội trình diễn, tự dưng tôi nghĩ đến Việt Khang, ca nhạc sĩ anh hùng của lòng tôi và của biết bao người Việt Nam trên thế giới và trong nước. Việt Khang sáng tác rất ít, tôi nhớ hình như chỉ đôi ba bài, Việt Nam tôi đâu?Anh là ai?, và đích thân hát bài của chính anh. Nhưng chỉ qua những bài ấy thôi anh đã biểu hiện lòng yêu nước nồng nàn, cao độ, tha thiết hơn bất cứ ca nhạc sĩ nào từ trước đến nay, kể cả thời VNCH. Lời ca thật đơn sơ, bình dị, không có những câu văn vẻ, khuôn sáo, hoặc sắt máu, dữ dằn, đằng đằng sát khí, theo đơn đặt hàng... Không. Tất cả nơi anh nghe như lời than vãn hoặc tình tự thường ngày, âm điệu thật nhẹ nhàng. Dễ dàng đến nỗi các cháu bé hải ngoại năm tuổi cũng có thể trình bày một cách suôn sẻ. Như tiếng thổn thức của mẹ già, em thơ, dâng lên tự đáy lòng. Như tiếng nghẹn ngào, nức nở từ nỗi uất hận bao nhiêu năm đè nén nay òa vỡ, miên man chảy theo sông, theo biển...

      Bản thân Việt Khang, sinh năm 1974, chưa hề biết chiến tranh, chưa hề biết Việt Cộng hay Quốc Gia, chưa hề hưởng một ơn mưa móc dù nhỏ của chế độ VNCH, chưa hề biết những tủi nhục và oan nghiệt đã rơi ập xuống đất nước và gia đình ngày 30/4/1975, chưa hề chạy trốn Việt Cộng trối chết, trước hay sau ngày mất nước, hốt hoảng như chuột, chưa hề khai mình là tỵ nạn Cộng sản, chưa hề tự phong là trí thức tốt nghiệp tại ngoại quốc, là ca sĩ, nhạc sĩ với sự nghiệp âm nhạc 10, 20, 50 năm. Chưa hề… Nhưng, cũng như bao thanh niên cùng thế hệ, anh đã lớn lên và đang sống ngay trong lòng chế độ Việt Cộng, trên một đất nước nay biến thành một trại tù khổng lồ. Cho nên, cũng như tất cả người Việt quốc gia tỵ nạn Cộng sản chân chính trên thế giới, anh đã hiểu thế nào là độc tài, là áp bức, là bất công, biết thế nào là thiếu tự do, nhân quyền, dân chủ, mơ ước như thế nào bóng dáng của hạnh phúc, ấm no, chờ đợi như thế nào ánh sáng bình minh đến xua tan đêm tối vây hãm triền miên cả một dân tộc đọa đày.

      Việt Khang chỉ làm đôi ba bài hát thôi, nhưng đã bị truy tố ra tòa, lãnh ba năm tù ở, bởi lũ lãnh đạo Việt Cộng khôn nhà dại chợ, chuyên hà hiếp dân lành, tay không một tấc sắt, nhưng lại sợ hãi, khúm núm trước quân thù Tàu Cộng. Điều đó cho thấy lũ chúng nó rất sợ anh và ảnh hưởng của hai ca khúc có vẻ nhẹ nhàng, nhưng đâm thẳng vào tim chúng nó, nhức nhối như những nhát kiếm bén nhọn. Chỉ cần hai bài thôi, nhưng trong ấy người nghe bao nhiêu tiếng gọi yêu nước ngút ngàn, bao nhiêu lời tình tự dân tộc thiết tha, bao nhiêu thương yêu và thù hận. Anh không hô hào lật đổ ai, nhưng bọn chúng nó phải nể và sợ.


      Việt Khang, tôi gọi tên em với tất cả lòng cảm thương, và thán phục, và tôn vinh, dù chưa một lần được gặp em, quen em, nhìn em, nghe em hát. Nhưng tôi cần em, ít ra trong bài viết này, cần hình ảnh rạng ngời và gương hy sinh cao quý của em cho chính nghĩa, đại cuộc, để dạy một bài học làm người cho lũ hát xướng hải ngoại đang rủ nhau về nước trình diễn.


      Nói đến Việt Khang, tôi lại nhớ một ca sĩ hải ngoại khác ít nhiều chiếm ngự hồn tôi: Nguyệt Ánh. Nguyệt Ánh với lòng yêu nước vô bờ, thôi thúc như tiếng sóng Thái Bình Dương réo gọi, với những bài hưng ca đấu tranh mạnh mẽ, quyết liệt, làm vỡ tim người.

      Và xa hơn, ca nhạc sĩ tỵ nạn Cuba qua Mỹ từ lúc nhỏ, có cha từng phục vụ trong quân đội Mỹ tại Việt Nam: Gloria Estafan, hiện sống tại Miami. Danh cô vang lừng thế giới, không chỉ vì sự nghiệp ca hát, mà còn và nhất là bởi lập trường của một người tỵ nạn chân chính cương quyết chống chế độ Cộng sản phi nhân Fidel Castro và bè lũ. Một lần được mời trở về Cuba hát nhân dịp Đức Giáo Hoàng viêng thăm, cô đã từ chối. Lần khác, được mời qua Vatican hát trong một đại lễ, cô chấp nhận với một điều kiện duy nhất: Xin Đức Thánh Cha cầu nguyện, và làm mọi cách, cho đất nước Cuba của cô được tìm lại tự do, nhân quyền. Cô đã sáng tác và trình bày một ca khúc mang tên “Go away” bình dị, tương tự “Việt Nam tôi đâu?” của Việt Khang, trong đó cô nhẹ nhàng lên tiếng mắng mỏ và yêu cầu Fidel Castro cuốn gói rời khỏi Cuba:


Go away

Won't you just go away

Don't you come back one day

Take your stuff

Take all of your precious things

Leave right now […]


      II. Trong khi ca nhạc sĩ anh hùngViệt Khang bị giam cầm trong nước, và đồng nghiệp gốc tỵ nạn Cuba Gloria Estafan cương quyết không trở về quê hương khi chế độ độc tài còn ngự trị thì các ca sĩ, nhạc sĩ thuộc diện xướng ca vô loài Việt Nam hải ngoại vô nhân vô sỉ vô luân, đực có, cái có, đẹp có, xấu có, trẻ có, già có, sang có, sến có, khôn có, ngu có, nổi tiếng có, cắc ké có, đủ cả… rủ nhau làm đơn xin trở về hát cho Việt Cộng nghe, mặc nhiên, tự nguyện bán linh hồn cho quỷ. Nếu thực sự bọn họ có một linh hồn. Chuyện kể như sau:


a) Tương truyền, vào thế kỷ XVI, bên Đức, có một người tên Johann Faust, sinh tại Knittlingen. Ông ta là một tiến sĩ, thầy bói, thuật sĩ, có nhiều phù phép, đi nhiều, biết nhiều, biểu diễn tài nghệ của mình, dạy đại học, được vinh danh bởi cả Martin Luther, nhà cải cách Công giáo nổi tiếng. Theo quyển Historia von Dr. Johann Fausten (Frankfurt, 1587), Faust muốn bán linh hồn cho quỷ Mephistopheles với khế ước như sau: trong 24 năm, ông sẽ được thông suốt về ma thuật (magie), được trẻ mãi không già, giàu sang, phú quý, và hưởng tất cả mọi vui thú xác thịt và quyền lực. Sau đó, mãn hạn, linh hồn ông sẽ bị tóm, giao cho quỷ sứ. Faust ký giấy, và trong suốt 24 năm, được chơi bời thỏa thích, và hành nghề ma thuật với trình độ tuyệt luân, muốn gì có nấy. Rồi một ngày đẹp trời Mephistopheles hiện lên bắt linh hồn ông đem xuống địa ngục. Tại đây, Faust hối hận, ăn năn, nhưng lúc ấy quá trễ rồi.                                                                                                                                                                                                   

      Từ thế kỷ XVI đến XIX, nhân vật Johann Faust là nguồn hứng vô tận cho rất nhiều tác phẩm thuộc thơ, văn, nhạc, kịch, họa. Đặc biệt, thi hào Đức Goethe viết ra tuyệt tác Faust, trong đó, cuối cùng, ông cho Faust được cứu rỗi nhờ tình yêu của nàng Gretchen.



b) Còn những Faust thời đại, gồm những tên trí thức khoa bảng, ca nhạc sĩ, và bọn nằm vùng hải ngoại? Dĩ nhiên, sự khác biệt thấy rõ:

Bán linh hồn cho quỷ, Faust thế kỷ XVI của truyền thuyết Đức không phải xóa bỏ căn cước và tước vị của mình. Bán linh hồn cho quỷ, bọn Faust Việt Gian thế kỷ XXI bị buộc phải chối bỏ lý lịch, quay lưng với tổ quốc, tổ tiên anh hùng, quên dĩ vãng, nguồn gốc.

Bán linh hồn cho quỷ, Faust thế kỷ XVI được hưởng 24 năm ăn chơi vung vít, thoải mái. Bán linh hồn cho quỷ, bọn Faust Việt Gian thế kỷ XXI bị lôi cổ tống xuống địa ngục ngay, bị còng tay, khóa mõm, chỉ được phép nói, hát, múa những gì mà quỷ cho phép. 

Bán linh hồn cho quỷ, Faust của Goethe được cứu rỗi nhờ tình yêu chân thật. Bán linh hồn cho quỷ, bọn Faust Việt Gian chỉ có bia ôm, thân xác đĩ điếm và thiếu nữ nghèo khổ. Không có tình yêu cứu rỗi, chúng phải từ chết đến chết, bị khinh chê, nguyn rủa đời đời.



c) Riêng lũ xướng ca vô loài Việt Gian còn phải qua những màn phỏng vấn, điều tra về lập trường, số lượng và nội dung những bài sẽ hát, rồi phải hát thử cho Công an nghe. Một người quen sống tại VN có kể về những ca sĩ hải ngoại hát ở phòng trà đường Cao Thắng, Sài Gòn, từng đứa một, từ Lệ Thu, Ý Lan, Thanh Tuyền, Giao Linh đến Tuấn Vũ, Chế  Linh, Từ Công Phụng v.v... Muốn được phép trình diễn, bọn ca sĩ này phải qua một kỳ thử nghiệm hát cho công an VC nhìn, nghe trước những bài đã được chúng cho phép. Chúng gật đầu, chấm đậu mới được lên sân khấu, dù là phòng trà tư. Điều này làm người ta nhớ hoạt cảnh thê thảm trong đó những cô gái quê muốn lấy “chồng ngoại”, phải sắp hàng cởi áo cởi quần cho những thằng Đài Loan, Đại Hàn, Mã Lai đui què sứt mẻ, nửa khùng nửa điên... tha hồ sờ mó, khám, lựa, tuyển, chi tiền, dắt đi. Than ôi. Còn cái nhục nào hơn!

      Nhưng bọn vô loài vô sỉ ấy đâu biết nhục là gì. Cha ông ta cũng đã dặn dò: “đĩ chín phương còn để một phương lấy chồng”. Đằng này, còn phương nào, mười hay hai mươi, chúng cũng giành nhau làm ráo hết. Không biết nhục, trái lại, chúng lại vênh váo, trơ tráo lên tiếng tự bênh vực cho hành động của mình: đại khái, chúng về, vì:            


muốn đền đáp lại lòng mến mộ của đồng bào trong nước  



1) Đồng bào nào? Ba mươi năm nay, có người dân nào thuộc Miền Nam cũ đang phải sống thoi thóp, ngột ngạt dưới gông cùm Cộng sản, còn nhớ đến bọn ca sĩ, nhạc sĩ hải ngoại trước kia đã bỏ rơi đồng bào chạy có cờ, nay ế khứa, hết tiền, về già trông bèo nhèo như những cái mền rách, còn nhớ đến những bài tình ca một thời rên rỉ, sướt mướt, lảm nhảm, lảng nhách của chúng, để viết thư yêu cầu chúng trở về hát cho họ nghe? Rồi đồng bào lấy tiền đâu mua vé cả trăm đô? Nói chi những người dân của chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa biết chúng là ai, mà mến với mộ, tiếc với nhớ? Ngược lại, thấy chúng lần lượt trở về biểu diễn, ca múa, làm hề, đại đa số nếu không khinh bỉ như những con chó ghẻ thì cũng tỏ ra dửng dưng, thờ ơ, lạnh nhạt.                                                                                                                                                              

2) Đồng bào, hay chỉ là bọn cai thầu văn nghệ cơ hội chủ nghĩa, tham tiền, lợi dụng thị hiếu mới của đám cán bộ, đại gia Việt Cộng no cơm rửng mỡ, trưởng giả học làm sang, hoặc nguy hiểm hơn, bọn tay sai của lũ công an trong biệt đội văn nghệ có nhiệm vụ thực thi điều khoản “giao lưu văn hóa”, “hòa hợp hòa giải” của Nghị quyết 36, bày ra những buổi trình diễn để câu những con mồi nghệ sĩ, ca sĩ Việt kiều vì ham tiền, hám danh, mà gục mặt trở về nhận lãnh những lời tâng bốc dỏm và đồng tiền tanh hôi của Việt Cộng bố thí cho?                                                                                                                    


3) Tại hải ngoại, suốt bao năm trời, bọn xướng ca vô loài này được đồng hương tỵ nạn nâng đỡ, đùm bọc, viết bài lăng xê, ca tụng chúng, nuôi sống chúng bằng cách mua vé tham dự những shows văn nghệ, ra mắt CD... mặc dù theo thời gian tài sắc của chúng đi xuống. Nay chúng trở mặt, trở cờ, trở thành những đứa Việt Gian quay về cung cúc phục vụ kẻ thù, và điều đó càng làm ta hiểu hơn nỗi lòng của cụ Nguyễn Đình Chiểu, một anh hùng kháng Pháp, qua hai câu thơ mộc mạc, thẳng thừng:                                                                                                                

Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm                                                                 

Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà 

                      

nghệ thuật, mà nghệ thuật thì phi chính trị



1) Nghệ thuật vị nghệ thuật ư? Còn lâu. Trên lãnh vực văn chương, hội họa, từ thời Lãng Mạn vs Théophile Gautier và trường phái Parnassiens bên Pháp, người ta đã tốn nhiều giấy mực và nước bọt để thảo luận, tranh cãi về quan niệm này, nhưng cuối cùng không đi đến đâu. Bởi vì không bao giờ có một nghệ thuật vị nghệ thuật. Nghĩa là bất cứ nghệ thuật nào cũng phải phục vụ nhân sinh, tức con người. Đối với Việt Cộng, quan niệm này còn khắt khe hơn, gần như tuyệt đối. Đối với chúng, nghệ thuật phải phục vụ, không phải con người, mà duy nhất Bác và Đảng. Nghệ thuật đồng nghĩa với chính trị, tuyên truyền, nói dối. Tố Hữu khi làm thơ khóc Staline sức mấy mà vì nghệ thuật vị nghệ thuật? Trịnh Công Sơn kêu gào nối vòng tay lớn vì nghệ thuật thuần túy hay vì chủ trương phản chiến, thân Cộng của y? Mới đây, tin tức cho biết những ca sĩ của Trung tâm chống Cộng Asia bị cấm hát ở Việt Nam, tại sao?           



2) Cụ thể hơn, bọn xướng ca vô loài hải ngoại về trình diễn bên ấy làm gì có tự do để hát bất cứ bài nào tùy ý? Kìa, Phạm Duy mà một số bơm sĩ phong là cây “đại thụ của làng nhạc” Việt Nam, mà văn nô Trần Mạnh Hảo một lần bị ma nhập đã gọi là “thượng đế của âm giai”, là  “thần linh của tiết tấu” v.v... có một sự nghiệp âm nhạc đồ sộ, vậy mà khi trở về cũng chỉ được Việt Cộng cho phép hát, phổ biến, trên dưới mươi bài.



3) Chưa nói việc bọn ca sĩ phản bội này cố tình mập mờ, nhập nhằng giữa danh từ “chính trị” và “làm chính trị”. Làm chính trị thường được hiểu là  hoạt động cho các đảng phái, tổ chức này nọ. Nhưng chống Cộng, quyết tâm tiêu diệt Việt Cộng, không phải là “chính trị “ hay “làm chính trị”, mà là một bổn phận của toàn dân Việt, đặc biệt là những người quốc gia tỵ nạn Cộng sản chân chính, đối với tổ quốc.



không theo phe nào



1) Ngày tắp đảo, trước mặt các viên chức di trú ngoại quốc, có ca nhạc sĩ nào không mếu máo khai mình là người quốc gia tỵ nạn, không thể sống nổi dưới ách thống trị, độc tài của Việt Cộng. Nay được phép Việt Cộng cho về, chúng tuyên bố “chúng tôi không theo phe nào”, Quốc gia hay Cộng sản, mà trở về với dân tộc, với quê hương có chùm khế ngọt. Ô hô, nhổ rồi xin liếm lại. Có đứa như tên Chế Linh, để lấy điểm, còn lên án chế độ VNCH chủ trương tiêu diệt dân tộc Chàm, trong khi chính y hoặc đồng chủng được hưởng nhiều quyền lợi: không đi lính (nhưng được phép mặc đồ lính để trình diễn), không thạo tiếng Kinh, nhưng vẫn được đồng bào ưu ái, không có tú tài nhưng vẫn được đặc cách theo các trường đào tạo công chức, cán bộ... Có đứa như Khánh Ly than thở với báo chí Việt Cộng là hát tại hải ngoại vất vả, khó ăn lắm, hát tại quốc nội được nhiều tiền hơn...                                                                                                                 



2) Chiến tranh bằng súng đạn đã chấm dứt, nhưng trận chiến giữa người Quốc gia với Cộng sản vẫn còn, gay go, khó khăn gấp bội, nhất là trong bối cảnh hiện nay khi Việt Cộng, vì cần tiền bạc, tài năng, chất xám, vẫn bám sát gót người Việt hải ngoại, để thi hành nghị quyết 36, dụ dỗ bọn nhẹ dạ và cố xóa cho bằng được lằn ranh Quốc-Cộng rõ rệt. Kẻ nào nói mình không theo phe nào là vô tình hay cố ý tuyên truyền không công cho Việt Cộng.                                                                                                                  

3) Không theo phe nào, tức là đứng giữa, bình dân hơn, là cẳng giữa, sau khi đã có cẳng phải, cẳng trái. NLGO tôi nhớ câu chuyện có thật đã xảy ra: Trong một bữa họp mặt, bạn bè vui chơi, và đến giai đoạn bàn về chuyện những kẻ tự nhận là mình trung lập trong chiến trận Quốc-Cộng hiện nay, hạng người nửa nạc nửa mỡ, ba phải, ba rọi, cẳng giữa, không theo phe nào. Một người tuyên bố: “Tôi đứng ở ngả ba đường”. Người thứ hai lên tiếng: “Tôi là con người đứng giữa”. Một anh bạn, vốn là bác sĩ nổi tiếng chống Cộng, ăn nói bộc trực, bình dân, thấy bực bội, bèn trả lời:Đứng ở ngả ba đường thì xe nào chạy tới cũng đụng mà ngủm củ tỏi.” Và nhìn chòng chọc vào “con người đứng giữa”, anh dằn từng tiếng một: “Còn trong thân thể người ta, tôi biết chỉ có một con đứng giữa, không phải con người, đó là con c…”



      III. Trong cái đám ca nhạc sĩ bèo nhèo như cái mền rách về chầu chực, quỳ lụy Việt Cộng nói trên, có một anh chàng thuộc Cộng đồng Oregon, cùng thành phố tôi đang cư ngụ. Trong bài "Đền Ơn Đáp Nghĩa" (báo Phương Đông Times, số ngày 7/12/2012, trang 22), Mục sư Huỳnh Quốc Bình, cựu chủ tịch Cộng Đồng Oregon, đã giới thiệu anh ca nhạc sĩ này, như sau:

[...] Tôi biết ít nhất một ca nhạc sĩ rất nổi tiếng. Tại địa phương ông cư ngụ, chưa ai thấy ông đóng góp một xu cho những công tác ích lợi chung trong cộng đồng. Ông cũng không hề một lần đóng góp lời ca tiếng hát của ông cho đồng hương địa phương thưởng thức, nếu có thì phải trả thù lao. Ông chỉ chu du ca hát xứ người. Vậy mà khi cần tiền, ông bèn tổ chức "tạ ơn em" tại địa phương nơi ông không buồn quan tâm trong mấy Thập Niên. Điều buồn cười hay khôi hài, là đã có năm bảy trăm người, mỗi người bỏ ra năm bảy chục Mỹ kim, để mua vé danh dự, hoặc thượng hạng, hầu có thể nghe ông hát "tạ ơn em" và mua CD nhạc của ông mang về nghe ông "tạ ơn em"... Điều phũ phàng hơn hết là khi cộng đồng có những buổi tổ chức có tính cách xã hội, giúp đỡ những ai cần giúp đỡ, hoặc biểu tình lên tiếng tranh đấu cho những người bị VC đàn áp tại Việt Nam, thì ông ca nhạc sĩ này lại biệt tăm và số người tham dự buổi ông tổ chức "tạ ơn em" cũng mất dạng [...]

     

      Ngoài ra, nghe tin anh ta về nước lần thứ hai, nhiều đồng hương đã lên tiếng, và tôi xin chuyển tiếp hai bức thư bình phẩm tiêu biểu:


From: Truyen Doan
To:
Sent: Wednesday, January 16, 2013 3:58 PM


Đây là đứa ngu như tên Chế Linh

Nó bị con vợ ham tiền thúc đẩy nó đi qua đó kiếm tiền thiên hạ

Ở đây nó mở ca nhạc cũng có tụi ngu đi nghe

Tụi nó chỉ có tiền thôi

Tẩy chay nó đi

Mấy thằng nghệ sĩ đó có ra gì!!!!


Date: Sat, 19 Jan 2013 19:17:39 -0800
From: kinhkha


Ủa! tôi tưởng nó đã chết rồi mà.

Tên này chắc cuối đời vợ cần tiền, cũng như cần Casino như LệThu… cho nên nó về hát phục vụ cán ngố và dân tham nhũng tư bản đỏ for money chứ có con thằng ca sĩ nào hát nào cho dân nghe,dân nghèo nào có tiền 50,70 đô một vé.. mà láo khoét, nếu nó thực sự hát free xin các tháí thú cho tổ chức ngoài trời hát cho dân nghe như VNCH  thì sẽ có nhiều người tình nguyện kêu goị trả tiền cashier cho nó… thật đáng buồn!!! một cái thằng chẳng bao giờ nghĩ đến quân dân VNCH đã đi trước tầm đạn bảo vệ cho nó sống còn…, nó khá hơn PD là chưa viết Tục Ca.


     Anh ca nhạc sĩ này, ngoài sự nghiệp âm nhạc, còn được cả nước, trong và ngoài, biết đến, một cách ồn ào, vì căn bệnh ung thư gan giai đoạn cuối, sau khi bị ung thư màng óc, cách đây hơn một thập niên, và túi mật –tin do bạn bè trong Cộng Đồng và trên Mạng chuyển, chính xác hay vịt cồ, tôi không biết chắc–  nhưng cả ba lần đều thoát chết. Sau đó, nghe nói anh ta đi lưu diễn “tạ ơn em” và “kỷ niệm 50 năm” tình ca tại Texas, Portland, California, Úc Châu, tôi thật lòng mừng cho anh ta được tai qua nạn khỏi và mừng cho nhân loại từ nay đã có thuốc chữa trị căn bệnh nan y quái ác kia. Tuy nhiên, khi đọc tin anh ta trở về Việt Nam trình diễn lần thứ hai và xem hình vợ chồng anh ta tươi rói, tại phi trường, với “vòng hoa chiến thắng” trên cổ, tôi phải dằn lòng lắm mới không buột miệng chửi thề, merde, nhưng đồng thời cũng không thể nào không nghĩ đến câu nói trứ danh của Julius Caesar trong vở kịch cùng tên viết bởi Shakespeare:

      Cowards die many times before their deaths;

      The valiant never taste of death but once.

đã được Mục sư Huỳnh Quốc Bình, một lần trong một bài viết, dịch ra như sau:

      Những kẻ hèn nhát chết nhiều lần trước khi chết thật;

      Người dũng cảm chỉ chết một lần thôi.


      Anh ta cũng không xa lạ với đa số đồng hương Oregon và cá nhân NLGO tôi. Nhưng có hai lý do, ngoài những điều Mục sư Huỳnh Quốc Bình nêu lên trong bài viết, đã khiến tôi không thể im lặng mãi:


      a) Anh ta coi thường Cộng đồng Oregon và những người hâm mộ tại địa phương mới đây đã đến mua vé tham dự buổi văn nghệ tạ ơn vợ và mừng sự nghiệp 50 năm do anh ta tổ chức, để kiếm tiền. Ai cũng biết, Cộng đồng Oregon không chống Cộng ồn ào, dữ dằn như những Cộng đồng California, Texas, nhưng vẫn chống, luôn luôn chống, và kịch liệt chống. Đa số cư dân là những thuyền nhân từ các đảo tỵ nạn đến, hoặc cựu sĩ quan tù nhân cải tạo sang Mỹ theo diện HO, nên chống Cộng, tiêu diệt Việt Cộng có nghĩa thi hành một bổn phận, trách nhiệm đương nhiên đối với tổ quốc. Cũng như dân bản xứ, người Việt tỵ nạn tại Oregon hiền hòa, lịch sự, dĩ hòa vi quý, nhưng điều đó không có nghĩa họ thờ ơ, thụ động, khờ khạo. Ai chống Cộng, ai Quốc gia, ai Việt gian, ai tay sai, ai phải ai trái, ai ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng sản, họ đều biết, và biết đúng, biết rõ, nhưng không nói ra đấy thôi. Bằng chứng: cho đến bây giờ, sau nhiều năm Nghị quyết 36 được phát động với mưu đồ phá hoại, lủng đoạn các Cộng đồng Quốc gia Tỵ nạn, chưa một thằng tay sai Việt Cộng nào dám xuất đầu lộ diện tại Oregon. Ló ra là bị chặt đuôi, không sống nổi.

      Lần đầu, anh ca nhạc sĩ Portland này về Việt Nam trình diễn, người ta biết được do chính báo chí trong nước (Tuổi TrẻCông An Thành Phố HCM) phổ biến, nhưng đã bỏ qua, vì ai cũng thông cảm cho căn bệnh ung thư gan giai đoạn cuối của anh ta được vợ và báo chí hải ngoại loan truyền ầm ĩ, nghĩ rằng biết đâu có thể đó là chuyến đi sau cùng trong đời. Tuy nhiên, lần này, khỏi bệnh, anh ta chơi cái mửng cũ, lại về nữa, âm thầm, sau khi đã moi gần cạn hầu bao của đồng hương hải ngoại với những màn “tạ ơn em” và “kỷ niệm 50 năm”. Về, để tái biểu diễn cho những thằng, những con đảng viên, công chức, đại gia, cán bộ, công an và gia đình, đồng bọn, có bạc tiền rủng rỉnh, chứ người dân nghèo, lao động vất vả, đầu tắt mặt tối, buôn thúng bán mẹt, làm gì có cơ hội và điều kiện bước chân vào rạp lớn của thành phố để nghe anh ta cám ơn vợ mình hoặc rên rỉ “bây giờ tháng mấy rồi hỡi em”?


      b) Anh ta trở về Việt Nam trình diễn, mặc nhiên thách đố công luận chống Cộng, mặc nhiên chấp nhận trở thành một tên phản bội trắng trợn, vô liêm sỉ trước mắt những đồng hương nạn nhân của bọn Cộng Phỉ trên toàn thế giới và riêng tại Oregon. Trong khi chúng tôi đang giao chiến với Việt Cộng trên mặt trận “võ mồm”, bằng những bài pháo kích ác liệt, và thỉnh thoảng bị phản pháo, trong khi đa số đồng hương tỵ nạn ngày đêm thao thức, lo âu cho vận mệnh đất nước đang có nguy cơ rơi vào tay giặc ngoài Tàu Cộng với sự đồng lõa của lũ lãnh đạo thù trong bất tài, khiếp nhược, tham tàn, trong khi bao nhiêu nhân sĩ, thanh niên tại quốc nội, có cả Việt Khang và một số thiếu nữ liễu yếu đào thơ, Huỳnh Thục Vy, Tạ Phong Tần… biết yêu nước thương nòi, quyết tâm tranh đấu cho tự do, nhân quyền, đang bị bạo quyền bắt bớ, giam cầm, đày đọa ở những nhà tù khắp nước, trong khi các phụ nữ, bé gái bị ép bán ra ngoại quốc làm điếm, và những bài học đạo đức, luân lý cổ truyền tốt đẹp từ hàng ngàn năm qua bị phá sản một cách thê thảm, tại học đường cũng như ngoài xã hội, bởi nền văn hóa bần cố nông hủy diệt trí thức, lương tri và mọi giá trị tinh thần, trong khi những thằng lãnh tụ tự phong tham nhũng, no say, béo tốt đang làm mưa làm gió trên mảnh đất khốn khổ, tội nghiệp, trong khi đó thì anh chàng ca nhạc sĩ mặt trơ mày bóng của chúng ta lại lén lút trở về múa hát, mua vui cho những tên đồ tể bán nước hại dân.


Làm sao tôi có thể im lặng mãi.


Portland, 30/1/2013

Người Lính Già Oregon


        


No comments: