Wednesday, October 19, 2016

BIỂN ĐÔNG - TRẦN VĂN TUYÊN - CON VŨ TRỌNG PHỤNG

SƠN TRUNG * CHÍNH LUẬN 12

Bản đồ Biển Đông (DR)  
CUỘC CỜ ĐÔNG HẢI 


Từ đầu năm 2013, tình hình biển đông có vẻ tạm yên.Các lãnh tụ Trung Quốc và Mỹ không có màn đấu khẩu nào  có lẽ Quốc Hi Trung Quốc chưa bỏ phiếu bầu Tập Cận Bình vào địa vị Chủ Tịch nước, nhưng tàu hải giám Trung Quốc ngày càng lộng hành. Tin đài VOA ngày13.03.2013 cho biết
Hai tàu cá mang cờ hiệu Việt Nam bị Trung Quốc phát hiện sáng ngày 13/3 gần quần đảo Hoàng Sa mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền đã bị hai tàu hải giám Trung Quốc đuổi ra khỏi khu vực vì điều mà Tân Hoa xã gọi là “bị tình nghi đánh bắt cá bất hợp pháp trong lãnh hải Trung Quốc.”

Trung Quốc tăng cường tuần tra Biển Đông từ năm ngoái và lần đầu tiên đã điều động một máy bay trực thăng lên tàu tham gia công tác này.

Đội tàu của Trung Quốc đang tiến hành công tác tuần tra định kỳ ở Hoàng Sa hiện do thành phố Tam Sa của Bắc Kinh quản lý hành chính.

Truyền thông Trung Quốc cho hay chuyến tuần tra 9 ngày khởi sự hôm 10/3 phối hợp giữa trực thăng và 3 tàu hải giám mang số hiệu 83, 262, và 263 hôm nay đã hoàn tất tuần tra quần đảo Vĩnh Lạc thuộc Hoàng Sa.
  http://www.voatiengviet.com/content/trung-quoc-xua-duoi-tau-ca-vietnam-o-hoang-sa/1620778.html   

 Lẽ tất nhiên cộng đảng Việt Nam đối với mẫu quốc phải im lặng vì "im lặng là vàng". Cả thế giới lo lắng nhưng giới chức thẩm quyền Đài Loan bình chân như vại.Đài VOA hôm 11-3- 2013 loan tin rằng Đài Loan nói rằng Hiện tại xung đột quân sự vì tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông và biển Đông Trung Hoa có phần chắc sẽ không xảy ra, nhưng có nguy cơ có thể có các cuộc đụng độ tình cờ. Đó là nhận định của Bộ Quốc phòng Đài Loan đưa ra ngày 9/3 được thông tấn xã trung ương Đài Loan đăng tải. http://www.voatiengviet.com/content/dai-loan-khong-co-kha-nang-xung-dot-quan-su-tai-bien-dong/1619419.html

 Mấy vị sếnh sáng này khôn quá trời , chuyên môn nói nước đôi kiểu thầy bói quê ta:

"Số cô có vợ có chồng,

Sinh con đầu lòng chẳng gái thời trai".

   Tiếc rằng các vị thẩm quyền chẳng cho biết lý do làm sao mà quả quyết chiến tranh Biển Đông 

 "có phần chắc sẽ không xảy ra" .Tàu không dám đánh Mỹ hay Mỹ chẳng dám đánh Tàu? Nếu vậy thì thích quá, hòa bình sẽ mãi mãi vững bền trên biển Thái Bình, và biển Thái Bình quả là cái tên định mệnh! Trong khi các ông Đài Loan rung đùi an tâm hưởng lạc thì các ông Mỹ lo lắng, chạy ngược chạy xuôi. Theo Trọng Nghĩa đài RFI  trong bài nhan đề  "Hoa Kỳ : Hội thảo về nguy cơ Biển Đông biến thành bom nổ chậm" , cho biết

Từ ngày 13/03 đến 15/03/2012, tranh chấp tại Biển Đông sẽ được giới chuyên gia quốc tế mổ xẻ nhân cuộc hội thảo tại Mỹ do Hội châu Á Asia Society - trụ sở tại New York - phối hợp với Trường Chính sách công Lý Quang Diệu tại Singapore đồng tổ chức. Đặt dưới lăng kính "Biển Đông là nhân tố trung tâm cho hòa bình và an ninh khu vực Châu Á – Thái Bình Dương", các chuyên gia tham gia hội thảo sẽ phân tích xem phải chăng tranh chấp trong vùng này đang là một quả bom nổ chậm, đòi hỏi nhanh chóng có giải pháp tháo gỡ.  http://www.viet.rfi.fr/node/79459

 Sau khi Obama đắc cử Tổng Thống, người ta chờ đợi chính sách mới của ông như thế nào, có theo đường lối mạnh mẽ của bộ trưởng Gates và Clinton hay đánh trống bỏ dùi. Nhất là hai ông cựu chiến binh Việt Nam nổi tiếng thân cộng lên làm bộ trưởng Ngoại giao và Quốc Phòng thì tình hình sẽ về đâu? Hai ông có theo đường lối phản chiến nữa hay không?

Minh Anh, đài RFI ngày 13-3-2013 , đã lấy từ nhật báo kinh tế Les Echos hôm nay có bài phân tích đề tựa « Căn nguyên và những cái bẫy trong việc rẽ hướng sang châu Á của Hoa Kỳ ». Tờ báo nhận định rằng, việc Mỹ tăng cường quân đội trong khu vực có nguy cơ khiến cho Trung Quốc thêm hung hăng.


Tờ báo này cho biết Tổng thống Obama đã quyết tâm chuyển hướng về châu Á. Sự chuyển hướng này rất cần thiết để chống lại Trung Quốc bành trướng. Sự chuyển hướng này có hai cái lợi là chiếm lấy kho dầu ở Thái Bình Dương để khỏi lệ thuộc Trung Đông. Sự chuyển hướng xoay trục này cũng có lợi vì Mỹ sẽ  bắt đầu từ việc rút hết quân tại Irak vào năm 2011 và tương tự cho Afghanistan từ đây đến hết năm 2014. Mặt khác, chiến tranh lạnh kết thúc cho phép Mỹ giải ước từ từ khỏi châu Âu. Lầu Năm Góc sẽ cho rút bớt thêm quân tại các khu căn cứ ở Đức.

Tờ báo này nói đến hai điều bất lợi. Đó là làm cho Trung Cộng hung hăng và bang giao Mỹ Trung xấu đi. Tờ báo kể ra hai điểm nhưng hai điều cũng là một. Còn việc làm cho Trung Quốc hung hăng thì Trung Quốc hung hăng từ lâu chứ không phải từ khi Obama xoay trục đổi chiều.

Trong khi đó, tờ Le Monde lại cho rằng căng thẳng Nhật Trung sẽ đưa đến chiến tranh. Lê Phước, đài RFI ngày 12 tháng 3 năm  2013 nhận định rằng Nhật Báo Le Monde hôm nay góp phần giải đáp thắc mắc này với bài phỏng vấn hai chuyên gia về Trung Quốc Jean-Philippe Béja và Valérie Niquet. Bài phỏng vấn chạy dòng tít cảnh báo:« Trung-Nhật, chiến tranh lạnh tại Châu Á ». Hai chuyên gia đi vào phân tích cặn kẽ nhiều vấn đề cốt lõi trong tranh chấp Nhật-Trung, trong đó đại để có mấy vấn đề nổi cộm sau:

- Tập Cận Bình luôn khẳng định bảo vệ chủ quyền quốc gia.

-Thủ tướng Shinzo Abe từ khi nhậm chức đã tỏ ra cứng rắn với Trung Quốc. 

Trong khi hai vị lãnh đạo tỏ ra hăng hái chiến đấu, thì dân Trung quốc và Trung Cộng thấy họ đủ mạnh để thay Mỹ làm bá chủ hoàn cầu. Tham vọng của Trung Cộng làm cho cả châu Á đứng về phía Mỹ, và hoan hô Mỹ trở lại vùng này. Trung Cộng muốn chia hai Thái Bình Dương với Mỹ nhưng Mỹ không chấp nhận. Trung cộng ra sức ve vuốt , hăm dọa, chia rẽ khối Asian nhưng Trung Cộng không hoàn toàn mãn nguyện. Có thể Việt Nam, Lào, Cambodia theo Trung Cộng nhưng cả khối lớn Nhật Bản, Ấn Đô, Philuật tân, Úc châu sẽ theo Mỹ, cán cân lực lượng rõ là nghiêng về Mỹ. Các chuyên gia cũng nói rằng thực lực quân sự Trung Cộng chỉ dọa trẻ con chứ so với Mỹ thì chẳng ăn thua gì mà hung hăng bọ xít!



Đi xa hơn nữa, tờ Phương Đông của Trung Cộng đã loan tin là họ thấy trước Nhật Mỹ đánh hàng không mẫu hạm của họ.

Trong tình hình đảo Senkaku vô cùng căng thẳng, báo chí Hồng Kông cho rằng, một khi Trung-Nhật giao chiến, Nhật-Mỹ sẽ coi tàu chiến cỡ lớn của Quân đội Trung Quốc là mục tiêu tấn công đợt đầu, thậm chí dự định một lần là bắn chìm tàu sân bay Trung Quốc.

Cách đây không lâu, tờ Sankei Shimbun Nhật Bản đã công bố kế hoạch tác chiến chủ yếu nhất hiện nay của Bộ Quốc phòng Nhật Bản, tổng cộng có 5 phương án tác chiến, trong đó có 3 phương án liên quan tới Quân đội Trung Quốc. Ba phương án chiến tranh ở cấp độ cao nhất này đều liên quan đến cuộc khủng hoảng xảy ra ở biển Hoa Đông.

Phương án thứ nhất là Trung-Nhật xảy ra chiến tranh do tranh đoạt chủ quyền đảo Senkaku; phương án thứ hai là Trung-Nhật xảy ra va chạm ở xung quanh đảo Senkaku, tình hình leo thang mở rộng, Quân đội Trung Quốc can thiệp, Trung Quốc muốn kiểm soát đảo Ishigaki và đảo Miyako ở phía tây bắc Đài Loan; phương án tác chiến thứ ba thậm chí đặt ra tình huống Quân đội Trung Quốc tấn công Đài Loan.

Trong các phương án tác chiến này, đều phỏng đoán Quân đội Trung Quốc điều động tàu sân bay, tàu tấn công đổ bộ, lực lượng đặc nhiệm, tên lửa đạn đạo và máy bay chiến đấu, Mỹ-Nhật liên kết chống lại Quân đội Trung Quốc.

Đặc biệt là trong phương án thứ ba, Bộ Quốc phòng Nhật Bản cho rằng, Quân đội Trung Quốc sẽ xảy ra cuộc đối đầu trực tiếp với quân Mỹ và quân Nhật lấy Okinawa làm căn cứ.


Nếu quân Mỹ toàn lực tham gia, Trung Quốc sẽ sử dụng tên lửa đạn đạo chống hạm DF-21D đe dọa tàu sân bay của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương, đồng thời sử dụng tên lửa đạn đạo tầm xa DF-31 đe dọa lãnh thổ Mỹ.

 Theo tờ “Liên hợp Buổi sáng” Singapore, nếu Trung-Nhật xảy ra xung đột quân sự, một khi quy mô xung đột mở rộng, rất có khả năng hải quân và không quân đều sẽ tham gia.

Bình luận viên quân sự Trần Quang Văn của tờ “Thế giới báo” cho rằng, trong chiến tranh trên biển-trên không hiện đại, do sức mạnh không quân ngày càng mạnh, có khả năng răn đe đối không, đối hải tương đối mạnh, cho nên ngoài sức chiến đấu của hải quân, không quân của hai bên mới là then chốt của thắng bại. Không có sự yểm trợ của không quân, các tàu chiến mặt nước của hải quân đều sẽ trở thành “bia ngắm”, đặc biệt là những tàu chiến mặt nước cỡ lớn như tàu sân bay, tàu tấn công đổ bộ.


Truyền hình vệ tinh Phượng Hoàng Hồng Kông cho rằng, trong thời điểm hai bên “say sưa” giao chiến quyết liệt, quân Mỹ ra tay để viện trợ cho quân Nhật, cuộc chiến tranh trên biển sẽ kết thúc với thắng lợi nghiêng về Nhật-Mỹ.


Trong tình hình tàu chiến của Nhật-Mỹ cơ bản chưa bị tổn thất, nhiều tàu khu trục, tàu ngầm của Trung Quốc bị bắn chìm.

Đặc biệt, tàu sân bay Liêu Ninh cũng bị bắn trúng chỗ hiểm và bốc cháy, để nước tràn vào và nghiêng ngả, không thể tự chủ hoạt động. Sau 30 phút, Nhật Bản hạ lệnh cho tàu ngầm phóng ngư lôi bắn chìm tàu sân bay Liêu Ninh. Cuối cùng, Nhật-Mỹ liên kết đánh bại Hải quân Trung Quốc.

Nguồn: Đông Bình - GDVN


Đài RFI và đài VOA cùng loan tin rằng Obama quyết tâm ủng hộ các nước Asian trong cuộc tranh chấp chủ quyền biển đảo. Trọng Nghĩa đài RFI loan tin Vào tháng Mười tới đây, Tổng thống Mỹ Barack Obama sẽ đến Brunei tham gia hai hội nghị thượng đỉnh Đông Á EAS và Mỹ-ASEAN. Phát biểu vào hôm qua, 12/03/2013 sau cuộc hội đàm song phương với Quốc vương Brunei Hassanal Bolkiah tại Nhà Trắng ở Washington, ông Obama xác nhận rằng ông sẽ đề cập đến các « vấn đề hàng hải » với lãnh đạo các nước sẽ đến Bandar Seri Badawan, thủ đô Brunei, để tham gia hai hội nghị thượng đỉnh thường niên kể trên.

 Tổng thống Mỹ nhấn mạnh : « Chúng tôi sẽ thảo luận về vấn đề hàng hải. Rõ ràng là đang có rất nhiều căng thẳng trong khu vực liên quan đến các vấn đề trên biển. »Theo Tổng thống Mỹ, người đứng đầu xứ Brunei đã chứng tỏ tài lãnh đạo trong việc « đoàn kết các nước lại với nhau để đảm bảo sao cho tất cả mọi người đều tuân thủ các quy tắc cơ bản của luật pháp và các chuẩn mực quốc tế. »

Trong thời gian gần đây, và nhất là từ khi chính thức nhậm chức chủ tịch luân phiên khối ASEAN, Brunei luôn khẳng định rằng họ sẽ thúc đẩy trong nhiệm kỳ của mình, việc đúc kết một bộ quy tắc ứng xử tại Biển Đông mang tính chất ràng buộc giữa Trung Quốc và ASEAN.


Tổng thống Obama nói các cuộc họp sắp tới sẽ là kênh hữu ích để thảo luận các vấn đề thương mại, kinh tế, và ngoại giao có ảnh hưởng tới khu vực mà Hoa Kỳ đang chuyển trọng tâm hướng tới.

Tổng thống Mỹ cũng cho biết rằng Hoa Kỳ sẽ tham gia vào cuộc diễn tập đầu tiên phối hợp giữa Mỹ, Trung Quốc, và các nước ASEAN vào tháng sáu năm nay để trắc nghiệm xem các cường quốc quân sự Thái Bình Dương có thể hợp tác thế nào trong công tác cứu trợ thảm họa.

Brunei đã tuyên bố sẽ theo đuổi một bộ quy tắc ứng xử mang tính ràng buộc pháp lý giữa các nước có tranh chấp ở Biển Đông trong lúc giữ ghế Chủ tịch ASEAN trong năm nay.

Trong khi đó, Trung Quốc vẫn nhất mực đòi giải quyết tay đôi với từng nước một có tranh chấp.

Nguồn: AFP, Washington Post.


 

LUẬT SƯ TRẦN VĂN TUYÊN II


 
Trang tri thức VN
LUẬT SƯ TRẦN VĂN TUYÊN

Trần Văn Tuyên

Luật sư
Quê quán
huyện Thanh Trì - thành phố Hà Nội (huyện Thanh Trì - tỉnh Hà Đông)
Năm sinh
Quý Sửu - 1913
Năm mất
Bính Thìn - 1976
1 Tiểu sử

2 Tác phẩm


Tiểu sử
Luật sư Trần Văn Tuyên là một trong các sáng lập viên Hướng đạo Việt Nam, nhà hoạt động, sinh ngày 1-9 năm Quý Sửu (1913) tại tỉnh Tuyên Quang, nguyên quán huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay là huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội).
Thuở nhỏ học ở Hà Nội, tốt nghiệp cử nhân Đại học Luật Hà Nội.
Từ năm 1931, ông tham gia giảng dạy tại Trường Trung học Thăng Long, tham gia hoạt động chống Pháp từ những năm 1930-1931.
Năm 1934, ông cùng Đặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp... thành lập Liên minh Dân chủ và Phong trào Đông Dương Đại hội. Năm 1942, ông bị Pháp bắt giam một thời gian vì “tội thành lập Đảng Thanh niên Hưng quốc”. Sau khi được tự do và trắng án, ông thi đỗ ngạch tri huyện tư pháp, được bổ làm tri huyện huyện Thanh Miện tỉnh Hải Dương đến năm 1944 thì từ chức.
Sau Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945, ông tham chính, giữ chức Đổng lí văn phòng Bộ Ngoại giao Chính phủ “liên hiệp kháng chiến”.
Năm 1946, ông tham gia Hội nghị Trù bị Đà Lạt phụ trách Lễ nghi của phái đoàn Việt Nam cùng với các ông: Nguyễn Tường Tam, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Xuân Hãn...
Đầu năm 1947, ông lưu vong sang Trung Hoa, năm 1950 về Sài Gòn có lúc làm Bộ trưởng Bộ Thông tin, năm 1950-1951 giữ chức Bộ trưởng Phủ thủ tướng trong chính phủ Trần Văn Hữu.
Năm 1954, ông làm cố vấn đặc biệt phái đoàn Việt Nam (chính quyền Bảo Đại) tại Hội nghị Genève nhằm chấm dứt chiến tranh Đông Dương.
Năm 1959-1960, ông cùng 17 nhân vật khác (báo chí nước ngoài gọi là Nhóm 18 Caravelle) tuyên cáo đòi chính quyền Ngô Đình Diệm thay đổi chính sách. Thế cho nên, sau đảo chính hụt ngày 11-11-1960, ông bị mật vụ Ngô Đình Nhu bắt giam, đến sau ngày 1-11-1963 mới được giải thoát.
Năm 1965, ông giữ chức Phó thủ tướng đặc trách kế hoạch.
Năm 1971, ông là Dân biểu Quốc hội, Trưởng Khối Dân tộc - Xã hội tại Hạ Nghị viện Sài Gòn, Cố vấn phong trào đấu tranh cải thiện chế độ lao tù, Thủ lãnh Luật sư đoàn Sài Gòn.
Ngày 26-10-1976, ông mất tại Hoà Bình, thọ 63 tuổi.


Tác phẩm
Hiu quạnh (1944)
Tỉnh mộng (1953)
Hội nghị Genève (1954)
Chính đảng (1968)
Người khách lạ (1969)
Việt Nam dưới thời Pháp thuộc (1958)
Con đường Cách mạng Việt Nam (1969)


Tòa nhà Lạc Việt, 23 Nguyễn Thị Huỳnh, Phường 8, Quận Phú Nhuận, TP Hồ Chí Minh
Điện thoại: 84-08-3842 3333 - Hotline: 84-08-3845 3333 - Email: vietgle@lacviet.com.vn


©2008 Công ty Cổ phần Tin học Lạc Việt
Giấy phép số 1131/2008/QTG, cấp ngày 06-05-2008
Cục bản quyền tác giả Bộ văn hóa, Thể thao và Du lịch
 

 Thư Ngỏ Của Gia Đình Cố LS Trần Văn Tuyên
                      Ngày: Saturday, 01, March



                                                 Ông Trần Tử Thanh - thứ nam  cố LS Trần Văn Tuyên



Chúng tôi nhận được lá thư gởi các cơ quan báo chì của gia đinh cố LS Trần Văn Tuyên lên tiếng về vụ phỏng vấn giữa Tường Thắng và ông Vũ Trọng Khanh. Trong thư, gia đình cố luật sư Trần Văn Tuyên phủ nhận có các liên hệ họ hàng với ông Vũ Trọng Khanh. Ngoài ra chúng tôi cũng đồng ý có một cuộc phỏng vấn với ông Trần Tử Thanh - thứ nam của cố LS Trần Văn Tuyên để phản biện những gì mà ông Vũ Trọng Khanh đã nói. Khi nào thực hiện xong cuộc phỏng vấn, chúng tôi sẽ mời quý bạn đọc theo dõi. Chúng tôi đăng nguyên văn lá thư của cố gia đình LS Trần Văn Tuyên để quý bạn đọc tham khảo.


 Thư Ngỏ Của Gia đình Cố Phó Thủ tướng, Luật sư Trần Văn Tuyên

Đồng kính gửi:

- Các cơ quan truyền thông, truyền hình, báo chí, các mạng internet.

- Qúy vị :

Lãnh đạo tinh thần các tôn giáo
Chủ tịch các Đảng pháiquốc gia
Chủ tịch Cộng Đồng

- CácTổ chức, Hội đoàn người Việt quốc gia tại hải ngoại.

- Bà con Thân Thuộc và Bằng Hữu của Gia Dình Cố Luật Sư Trần
Văn Tuyên trong và ngoài nước

Mới đây trong một cuộc phỏng vấn kéo dài 4 phần trên đài truyền hình
SBTN ở quận Cam và được báo Việt Nam Exodus đưa lên mạng, có một
người xưng là Vũ Trọng Khanh, tự Vũ Lăng, cựu Đại Tá QLVNCH tốt
nghiệp khóa 4 trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt (?) , con của nhà văn Vũ
Trọng Phụng (?) - không hiểu vì ly do gì, đã mạo nhận là cháu của Luật
Sư Trần Văn Tuyên.

Vì sự việc có liên quan đến thân phụ và giòng tộc chúng tôi, chúng tôi xin
minh xác:

1. Họ và tên người này nêu ra trong cuộc phỏng vấn để chứng minh
liên hệ với gia đình Luật Sư Trần Văn Tuyên là hoàn toàn xa lạ đối
với gia đình chúng tôi và không có trong gia phả của giòng họ
Trần.

2. Những sự kiện liên quan đến thân phụ chúng tôi là những sự kiện
hoàn toàn bịa đặt một cách trắng trợn.

Tất nhiên khi tạo dựng những sự kiện nêu trên, người được phỏng vấn
hẳn đã có mưu đồ đen tối nào đó.

Vì vậy chúng tôi xin gởi bức thư ngỏ này thông báo tới toàn thể bà con
trong gia tộc, các bằng hữu quen biết gia đình chúng tôi, cùng mọi giới,
để cảnh giác đề phòng và tránh mọi ngộ nhận trong tương lai.

Thay mặt gia đình cố Luật Sư Trần Văn Tuyên

Luật Sư Trần Tử Huyền, Trưởng Nam
California, ngày 17 tháng Hai năm 2008


Bài này o+? Vietnam Exodus
http://www.vietnamexodus.info/vne

URL cu?a bài này là:
http://www.vietnamexodus.info/vne/modules.php?name=News&file=article&sid=3516

NHÀ TÙ CHÓT của PHÓ THỦ TƯỚNG TRẦN VĂN TUYÊN


Nhà tù chót của Trần Văn Tuyên
VIÊN LINH sao lục
Wednesday, October 27, 2010
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=122321&z=257

Hơn một năm sau khi ở tù cộng sản, nhà văn hóa, người lo việc nước Trần Văn Tuyên (sinh ngày 1 tháng 9, 1913), gục ngã trên mặt bàn trong trại tù tập trung Hà Sơn Bình, hai ngày sau thì từ trần.
Cố luật sư, Phó Thủ Tướng Trần Văn Tuyên, chụp trước Quốc Hội VNCH. (Hình do Tạp chí Khởi Hành cung cấp.)
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/articlefiles/122321-TRVTUYEN-1-300.jpg

Theo tin tức do Việt Cộng đưa ra, đó là ngày 28 tháng 10, 1976. Như thế cho tới hôm nay, nhà lãnh tụ tên tuổi nhất của Việt Nam Quốc Dân Ðảng của miền Nam đã khuất bóng vừa đúng 34 năm; và ở đời được 63 năm. Cuộc đời ông vào tù ra khám nhiều lần, song cứ theo một bài thơ ông để lại, hình như ông không “lấy đó làm điều:”
Thân già tuổi tác trời cho sống
Ta vẫn yêu đời thỏa chí trai
Cùm xích nung sôi hồn cách mạng
Giao thừa chóng đến đợi sao mai.
(Trần Văn Tuyên, Giao Thừa Trong Ngục, Khởi Hành 10, 1998)

Thế hệ ’40, ’50 (những người trưởng thành vào những năm 1940, những năm 1950) lưu tâm tới tình hình đất nước của một Việt Nam tranh đấu, hầu như không ai là không nghe nói đến Trần Văn Tuyên. Nhưng sau đó, và nhất là sau khi đất nước thu vào một mối (“một mối u sầu một mối tang thương” như thơ Tiếng Vọng Từ Ðáy Vực), ít người còn biết rõ con người ấy là ai. Cho nên bài viết này chỉ là một ghi chép thu gọn, nhằm giúp trí nhớ bạn đọc, nhất là các bạn đọc trẻ, về chân-thân người yêu nước Trần Văn Tuyên qua mô tả của nhiều nhân vật chứng nhân của một thời kỳ quốc cộng phân tranh.

1. “Trong số những người thân thuộc này, tôi nghĩ tới chiến sĩ Trần Văn Tuyên, mà trong 40 năm qua tôi vẫn xem là một huynh trưởng, một người bạn vong niên, một nhà văn hóa, một nhà văn học, một nhà ái quốc, một nhà cách mạng chân chính đã nêu cao truyền thống dân tộc và giữ vững tinh thần bất khuất của giống nòi Lạc Việt.
Ngày 6 tháng 12, 1947: Hội đàm Bollaert-Bảo Ðại tại Vịnh Hạ Long.
Sau cuộc hội đàm Vịnh Hạ Long, cựu hoàng Bảo Ðại cử hai vị cộng sự viên thân tín từ HongKong về nước tiếp xúc với các nhân sĩ quốc nội, nhằm thành lập chính phủ quốc gia đầu tiên. Hai cộng sự viên than tín đó là ông Lưu Ðức Trung và ông Trần Văn Tuyên. Năm 1951 Thủ Tướng Trần Văn Hữu ký nghị định cử ông Trần Văn Tuyên và chúng tôi (Thái Văn Kiểm) đi Pháp tham dự lễ kỷ niệm 2000 năm thành lập Paris (Paris tên cũ là Lutetie-Lutece được thành lập năm 51 trước C.N.).
Trong các hoạt động hiệp hội, đoàn thể, LS Tuyên là sáng lập viên phong trào Hướng Ðạo Việt Nam, phong trào Truyền Bá Quốc Ngữ, Hội Bảo Vệ Nhân Quyền và Công Quyền, cố vấn Tổng Công Ðoàn Tự Do. Ông có dạy học ở trường Thăng Long Hà Nội.”
(Thái Văn Kiểm, Liệt sĩ Trần Văn Tuyên)
2. “Sau hơn nửa thế kỷ qua, tôi vẫn còn nhớ rõ hình ảnh người huynh trưởng Trần Văn Tuyên bên đống lửa trại Chùa Láng (gần Hà Nội) năm xưa. Anh cũng mặc đồng phục Hướng Ðạo như chúng tôi. Cũng quần soọc tím, áo sơ mi nâu bạc màu, cũng thắt khăn quàng nơi cổ như mọi HÐ khác. Lúc ấy hướng đạo sinh của các đoàn đã ngồi thành vòng tròn khá lớn quanh đống lửa trại. Anh Tuyên vừa bước qua vòng tròn, mọi tiếng rì rào nổi lên khắp dẫy, như một dòng điện truyền lan: ‘Anh Tuyên! Anh Tuyên đấy!’ Anh là hình ảnh một trong những thần tượng Hướng Ðạo của chúng tôi.”
(Mặc Thu, Nhớ về Trần Văn Tuyên)
3. “Tầm thước, nhanh nhẹn, tóc húi cao, mắt sáng tinh anh sau cặp kính cận dầy cộm, luôn tươi cười cởi mở, anh Trần Văn Tuyên là mẫu người trí thức thông minh, rõ rệt là một hiền nhân. Rất uyên bác, đọc nhiều sách khảo cứu, có cả một thư viện trong nhà, anh thông thạo Pháp, Anh và Hán tự Anh viết báo, làm luật sư, lưu vong sang Tầu, ở tù nhiều lần, làm bộ trưởng Thông Tin, làm phó thủ tướng Ðặc Trách Kế Hoạch, dân biểu, trưởng khối đối lập, thủ lãnh luật sư đoàn.”
(Nguyễn Tường Bá, vài kỷ niệm về anh Trần Văn Tuyên. Vẫn theo LS Nguyễn Tường Bá, báo New York Times gọi Trần Văn Tuyên trong tù là “một Solzhenitsyn của nhà tù Gulag Việt Nam)
4. Khởi Hành phỏng vấn ông Trần Tử Miễn, con trai út của LS Tuyên. Lời ông Miễn:
“Ông theo gương chí sĩ Nguyễn Thái Học, gia nhập Quốc Dân Ðảng năm 16 tuổi. Ông cảm phục Abraham Lincoln, Thomas Jefferson (người nói báo chí là Ðệ Tứ Quyền), và Tôn Dật Tiên, cha đẻ của thuyết Tam Dân của Trung Hoa Quốc Dân Ðảng: Dân tộc độc lập – Dân quyền tự do – Dân sinh hạnh phúc. Ba tiêu đề này, Việt Cộng trộm mấy chữ sau: Ðộc lập Tự do Hạnh phúc để lừa phỉnh. Cũng chính vì ba chữ này mà một số anh em Việt quốc đi theo hàng ngũ Việt Cộng (trước cuộc di cư 1954). Về tình bằng hữu, cha tôi thân thiết với cố Dân Biểu Trần Văn Văn (thân phụ anh Trần Văn Bá) cả hai cha con đều bị Việt Cộng sát hại trước và sau 1975.
Cha tôi không bao giờ chấp nhận chính phủ ba thành phần. Trước 30 tháng 4 độ hai tháng, Tòa Ðại Sứ Mỹ có liên lạc nói họ dành 50 chỗ cho gia đình cha tôi và thân hũu trên máy bay để di tản. Nhưng ông không có ý định ra đi. Vì các lý do: Mình sinh ra ở đây, thà chết ở đây. Tất cả anh em VNQDÐ đều quyết định ở lại, vậy mình càng không bỏ rơi anh em.”
(Thụy Khanh phỏng vấn, Saint Germain les Corbeit, 21 tháng 9, 1998)
5. Lời Trần Văn Tuyên: “Xét quá trình hoạt động, tôi không thấy có tội gì với nhân dân Việt Nam. Nếu tôi có tội thì đó là cái nhìn của đảng Cộng Sản Việt Nam.” (Trần Văn Tuyên, Bản khai lý lịch tại trại tù Long Thành, 16 tháng 5, 1975)
“Một ánh sáng chói lòa. Tôi giật mình ngẩng đầu nhìn, tưởng lựu đạn hay plát-tích nổ. Bên cạnh tôi, một đám khói trắng bùng lên. Tôi nhìn khách, không thấy khách. Cũng không phải là lựu đạn hay plát-tích. Cũng không phải là pháo bông ăn mừng cách mạng thành công. Ngẩn ngơ, tôi thủng thẳng bước đi. Mình cảm thấy lòng mình cũng bơ vơ, cơ khổ: không còn nơi dung thân, không có nơi gieo ý, không có nơi xây dựng!
Như khách, tôi cũng nhận thấy con người mới chỉ thấy hoang tàn, tang tóc của cách mạng mà chưa thấy phần xây dựng của cách mạng. Và ngày ngày, mỗi buổi chiều, tôi tới vườn Diên Hồng ngồi đợi khách. Nhưng cách mạng! Anh còn đây hay đã đi đâu?”
(Trần Văn Tuyên, Người Khách Lạ, tập truyện ngắn, 30 tháng 10, 1965)
Chú thích: Các trích dẫn trên đây chỉ là phần ngắn gọn cho hợp khuôn khổ Trang Thời Sự Nhân Văn, từ những bài dài in trong Khởi Hành chủ đề Trần Văn Tuyên, số 24, xuất bản tháng 10, 1998.
.

Đại Tá Vũ Lăng Vũ Trọng Khanh

vulang.jpgTháng 2, tháng 3 năm 1976/ Tháng 2, tháng 3 năm 2008.. Thấm thoắt dzậy mà thời gian đã qua 33 mùa lá rụng.. Những năm 1975, 1976 tôi sống những ngày buồn thảm, u tối, tuyệt vọng giữa lòng Sài Gòn, thành phố thủ đô đau thương của tôi.
Biết dzồi.. Khổ lắm.. Kể mãi..! Vâng, không tả oán nữa, xin nói ngay vào chuyện. Một tối Phù Hư, người bạn văn nghệ của tôi, ghé nhà tôi, anh nói:
- Tôi mới gặp anh con trai của ông Vũ Trọng Phụng. Anh ta mới ở Hà Nội vào. Tôi hẹn gặp lại anh ta sáng mai.
Anh hỏi tôi:
- Anh có muốn gặp con trai ông Vũ Trọng Phụng không? Muốn gặp thì sáng mai đi với tôi.
Từ lâu tôi biết Nhà Văn Vũ Trọng Phụng không có con trai, ông chỉ có một người con gái. Gần như tất cả những người đọc những tiểu thuyết Giông Tố, Số Đỏ, Cơm Thầy Cơm Cô của Nhà văn Vũ Trọng Phụng đều biết ông chỉ có một người con gái. Nay ở đâu ra anh con này của Nhà Văn? Mạo nhận ư? Nhưng mạo nhận là con Nhà Văn để làm gì? Tôi không tin người nào đó là con trai của Nhà Văn nhưng vì buồn quá đỗi, buồn đến có thể chết được, phần vì không có việc gì làm, tôi theo Phù Hư đi gặp anh ta.
Những tháng đầu tiên bọn Bắc Cộng rước hình Chủ Tịt Hồ chí Minh của chúng vào Sài Gòn, dzân Sài Gòn — thất nghiệp không phải chăm phần chăm mà là năm chăm phần chăm — toàn dzân không ai có việc gì làm, người ta đổ ra đường kiếm ăn Chợ Trời, Chợ Đất, nhiều người Sài Gòn ra Chợ Trời cho đỡ buồn, nhiều người mở hàng cà phe vỉa hè. Hàng họ thật giản dzị, vài cái bàn, vài cái ghế thấp tè đóng bằng gỗ ván thùng, vài phin cà phe, một ấm cà phe bí tất, nửa ký cà phe, nửa ký đường, bán gần hết chạy đi mua, 1 phích nước, dăm cái ly, cái muỗng, thế là thành một tiệm cà phe vỉa hè Sài Gòn Thất Thủ Lủ Khủ Lù Khù. Sáng hôm ấy tôi theo Phù Hư đến một tiệm cà phe như thế trên vỉa hè đường Gia Long. Đúng giờ hẹn người tự nhận là con trai của Nhà Văn Vũ Trọng Phụng đến.
Người thanh niên trắng trẻo, đẹp trai, mặt mũi sáng sủa, bận bộ đồ bà ba đen mới may. Tôi không có khả năng nhận xét sắc xảo gì nhưng nhìn anh tôi biết chắc anh không phải là dân Sài Gòn, anh là người miền Bắc mới vào Sài Gòn nhưng anh không có cái vẻ cù lần của bọn thanh niên Hà Nội Bắc Kỳ Xã Hội Chủ Nghĩa, những kẻ được dân Sài Gòn tả trong câu dzân dzao 1975:
Trai Sài Gòn như chim anh vũ,
Trai Hà Nội như củ khoai lang.
Phù Hư đãi anh ly cà phê đen giá 1 đồng, 1 đồng tiền Hồ là 500 đồng bạc Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa.
Tôi nói với anh thanh niên :
- Tôi tưởng ông Vũ Trọng Phụng không có con trai ?
Rất lễ phép, và có vẻ đầy đủ thẩm quyền, coi như chuyện người thiên hạ không biết Nhà Văn Vũ Trọng Phụng có con trai là chuyện thường, là những người không biết đáng thương hại, anh ta nói :
- Thưa bác.. Bố cháu có cháu và em gái cháu. Tên cháu là Vũ Trọng Khanh.
Lần thứ nhất tôi nghe cái tên Vũ Trọng Khanh là trong một buổi sáng cuối năm 1975, hay đầu năm 1976, trên vỉa hè đường Gia Long, Sài Gòn.
Sau ly cà phe, vài điếu thuốc lá, Phù Hư và tôi chia tay với Vũ Trọng Khanh. Ngoài việc xưng là con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, người nói tên mình là Vũ Trọng Khanh không ba hoa chích chòe khoe khoang, không nói lời gì với ý định lừa gạt hay lợi dụng Phù Hư và tôi. Anh cũng không hỏi nhà chúng tôi, không nói chỗ anh ở, công tác anh làm, không hẹn gặp lại. Từ đấy tôi không gặp lại anh, tôi cũng không nghe ai nói đến anh.
Năm 1975, 1976 tôi 40 tuổi, người tự nhận là Vũ Trọng Khanh, con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, trạc 30 tuổi. Nếu anh là con ông Vũ, anh phải ra đời trước năm 1939 là năm ông Vũ từ trần, ít nhất anh phải ra đời trong những năm 1934, 1935, năm 1975 anh phải gần 40 tuổi, anh phải già, phải via tông-keng bằng tôi, anh không thể trẻ đến như thế. Tôi không tin anh là con Nhà Văn Vũ Trọng Phụng nhưng tôi chẳng bắt bẻ anh làm gì. Tại sao lại cố ý moi móc để chứng tỏ người ta nhận vơ ? Mà người ta nhận vơ người ta là con ông Nhà Văn sì đã nàm thao? Hại gì ai ? Nhà văn Vũ Trọng Phụng có nổi tiếng, có được người đời trọng mến, mới có người nhận là con. Ở đời thiếu gì anh con từ bố, chối bố hay xấu hổ khi có ai nói anh là con của ông bố anh.


Những năm 2000, 2001, ở Kỳ Hoa Đất Trích, tôi nghe nói :
- Ở San José có người nhận là con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, tên là Vũ Trọng Khanh.
Tôi nghe qua rồi bỏ. Tự nhiên tôi không tin nhân vật Vũ Trọng Khanh San José 2000 là nhân vật Vũ Trọng Khanh tôi gặp năm 1975, 1976 trên vỉa hè đường Gia Long, Sài Gòn. Lại một người nhận vơ.. ! Mà người ta nhận vơ sì đã nàm thao? Người ta nhận vợ kệ người ta, mình không nhận vơ, mình không tin chuyện người ta nhận vơ thì thôi. Có gì quan trọng mà cứ phải vạch ra là người ta nhận vơ.
Ngày tháng qua đi..

Tháng 2 năm 2008, liêu lạc ở Rừng Phong, Xứ Tình Nhân, Kỳ Hoa Đất Trích, sau hơn 30 mùa lá rụng vật đổi, sao dời, người tù rạc, người đi, người ở, người về, người ra nghĩa địa, người vào lò thiêu, tôi gặp lại cái tên Vũ Trọng Khanh, tôi lại nghe nói đến ông Vũ Trọng Khanh. Ông Vũ Trọng Khanh tôi thấy ở Kỳ Hoa Đất Trích trên màn ảnh truyền hình SBTN năm 2008 không phải là anh thanh niên Bắc Kỳ đẹp trai Vũ Trọng Khanh tôi gặp ở Sài Gòn cuối năm 1975 hay đầu năm 1976.


Như vậy : trước sau, trong vòng 40 năm, tôi thấy cuộc đời này có hai ông Vũ Trọng Khanh. Ông Vũ Trọng Khanh thứ nhất tôi được gặp, được nói chuyện ở Sài Gòn năm 1975 không có chức vụ, không cấp bậc gì cả, ông Vũ Trọng Khanh thứ hai tôi chỉ được nhìn thấy dung nhan trên màn hình Internet trong cuộc phỏng vấn của Hệ Thống Truyền Thông SBTN. Ông Vũ Trọng Khanh San José 2008 được Đài SBTN giới thiệu bằng cái tên có cấp bậc quân đội là Đại Tá Vũ Lăng.


Ông Vũ Trọng Khanh Đại Tá Vũ Lăng San José 2008 trạc Sáu Bó tuổi đời, bận quân phục, tôi nhìn không rõ đó là quân phục Quân Đội Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa hay quân phục Quân Đội Hoa Kỳ. Ông có vẻ đau yếu, dường như ông ngồi không vững, ông nói khó khăn, ông có bà vợ trẻ ngồi bên đỡ lời, nói dùm. Trong cuộc phỏng vấn ông nói ba, bà nói bẩy. Chuyện kỳ lạ là, như tôi đã viết trên đây, gần như tất cả những người Việt Nam từng đọc tiểu thuyết của Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, từng biết, dù biết ít, biết lơ mơ, về đời tư của Nhà Văn, đều biết Nhà Văn không có con trai, nhưng ký giả SBTN — không lẽ không biết — không đặt câu hỏi :
- Có gì chứng minh ông là con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng ?


Ký giả phỏng vấn, dường như tên là ông Tường Thắng, phăng phăng la tuy-líp coi người được phỏng vấn đúng là ông con của Nhà Văn. Ông ký giả cũng phoong phoong gọi người được phỏng vấn là Đại tá.
Ông Vũ Trọng Khanh Đại Tá Vũ Lăng San Jose, và bà vợ, kể nhiều chuyện kỳ cục quá đỗi là kỳ cục. Không những chỉ kỳ cục, đó còn là những chuyện dựng đứng. Không chỉ chuyện dựng đứng thường mà là chuyện dựng đứng năm chăm phầm chăm. Tôi nghe chuyện ông bà kể mà chịu hổng có nổi. Tôi kể lại những lời ông bà nói như sau, tất nhiên tôi chỉ kể đại khái thôi, tôi không thể kể hết hay kể thật đúng từng tiếng trong những lời ông bà nói, nhưng tôi kể không sai.
Ông Đại Tá Vũ Lăng kể ông bị bọn Bắc Cộng bắt sống năm 1961, ông bị tù giam 22 năm ở Bắc Việt, năm 1982 ông trở về Sài Gòn, năm 1985, 1986 ông vượt biên bằng đường bộ sang Thái Lan, người ta đón ông sang Hoa Kỳ. Trong thời gian chịu tù đày ở Bắc Việt, ông bị bọn Cai Tù Bắc Cộng tra tấn, chúng đánh ông thủng ba lỗ ở đầu, rút hết 10 móng tay ông.
Ông kể :
Lúc đầu Bộ Trưởng Công An Bùi Thiện Ngộ và Thiếu Tướng Công An Dương Thông hỏi cung tôi, rồi đến ông Đại Tá Bùi Tín. Khi nghe tôi nói tôi là con Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, Đại Tá Bùi Tín đập bàn, quát :

- Mày nói láo. Nhà Văn Vũ Trọng Phụng làm gì có thằng con phản động như mày !
Tôi nói :
- Ông Bùi Bằng Đoàn cũng làm gì có thằng con mất dậy như Bùi Tín.

Ông ấy móc súng Côn ra dọa bắn nát đầu tôi nhưng rồi ông ấy không dám bắn.
Khi ông Thầy Châm Cứu Bùi Duy Tâm ở San Francisco tổ chức chào đón Đại Tá Việt Cộng Bùi Tín đến San José, tôi đến nơi gặp ông. Thấy tôi, ông Bùi Tín mặt xanh rờn, tôi vỗ vai ông ta, nói :
- Đại Tá đừng sợ, đây là đất tự do, ông và tôi cùng là người đi tìm tự do.

Ông xin tôi tha lỗi, tôi nói :
- Đại tá yên tâm, tôi không trả thù ông đâu.
Đại Tá Vũ Lăng kể Vũ Trọng Phụng không phải là tên thật của Nhà Văn, tên thật của Nhà Văn là Vũ Văn Tý. Tên của bà mẹ ông, bà vợ Nhà Văn, là Phụng, ông Vũ Văn Tý ghép tên bà thành bút hiệu Vũ Trọng Phụng. Ông kể bà vợ Nhà Văn, bà mẹ ông, là em gái Luật Sư Trần Văn Tuyên, em cùng cha, khác mẹ. Ông kể năm ông 9 tuổi, Luật Sư Trần Văn Tuyên nói với bà mẹ ông là đưa ông sang Pháp, nhưng ông TV Tuyên lại đưa ông sang Vân Nam bên Tầu. Ông sống ở đất Tầu mấy năm cho đến khi ông gặp ông Nguyễn Mạnh Côn, ông nói rõ :
- Người về sau là Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn.
Ông kể ông Nguyễn Mạnh Côn đưa ông từ Vân Nam về Hong Kong rồi đưa ông xuống tầu biển về Singapore. Không thấy ông nói rõ ông Nguyễn Mạnh Côn có cùng về Singapore rồi Sài Gòn với ông hay không. Chỉ biết ông kể tới đây là mất tích ông Nguyễn Mạnh Côn. Chính quyền Singapore giúp phương tiện cho ông về Sài Gòn. Từ Sài Gòn ông lên Tòa Thánh Tây Ninh.
Ông kể :
Ở Tây Ninh tôi gặp lại ông Trần Văn Tuyên. Ông ấy đang là Cố vấn Pháp Luật của Đức Hộ Pháp Pham Công Tắc. Ông ấy bảo tôi: “Mày đừng nói với ai mày là cháu tao. Ở đây chúng nó kỳ thị, chúng nó thù ghét Bắc Kỳ. Đừng nhận họ để khi nếu nó giết tao thì nó không giết mày, nó giết mày thì nó không giết tao.”
Tôi được Tướng Trịnh Minh Thế nhận là em nuôi, cho tôi đi học Khóa 4 Trường Sĩ Quan Đà Lạt. Năm ấy (1952) tôi nhớ Thiếu Tá Lefort là Hiệu Trưởng. Mỗi khóa Trường Võ Bị Đà Lạt cho các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo được cử 10 người theo học. Những năm 1960, 1961 có một số cán bộ, binh sĩ Việt Cộng gài lại trong Nam sau Hiệp Định Geneve được đưa ra Bắc chỉnh huấn, Tình Báo tổ chức cho tôi nhập vào những toán đó để ra Bắc hoạt động. Tôi ra Bắc năm 1961, bị bắt, bị tù đến năm 1982 mới trở về Sài Gòn.
Ngưng lời kể của Đại Tá Vũ Lăng.
***
Ai thì tôi không dzám quả quyết chứ Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn thì tôi tự cho tôi có thể nói chắc là cả đời ông — Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn — không một lần đi ra khỏi nước Việt Nam. Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn, tác giả những văn phẩm nổi tiếng một thời của Văn Chương Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử, Mối Tình Mầu Hoa Đào, Ba Người Lính Nhẩy Dù Lâm Nạn, Kỳ Hoa Tử..vv.. bị bọn Bắc Cộng bắt Tháng Ba 1976, năm 1979 ở Trại Tù Khổ Sai Xuyên Mộc, Nhà Văn đòi bọn CS phải trả tự do cho ông, chúng không chịu trả, ông tuyệt thực. Bắt chước cách đàn áp tù nhân của bọn Nga Cộng, Tầu Cộng, bọn Cai Tù Xuyên Mộc không cho ông uống nước đến chết. Nhà Văn chết ở Trại Tù Xuyên Mộc

.
Cố Luật Sư Trần Văn Tuyên có ông con là Trần Tử Thanh. Năm 1988 Trần Tử Thanh nằm phơi rốn trong Phòng 10 Khu ED Nhà Tù Chí Hòa cùng Tu sĩ Trí Siêu Lê Mạnh Thát và người anh em cùng vợ với tôi là Hoàng Hải Thủy. Năm ấy ông Trần Tử Thanh, cùng ông em là Trần Vọng Quốc, bị Phản Gián P 25 nó tó vì tội làm tình báo, tình bổ chi đó. Hai anh em ông cùng nằm phơi rốn trong Nhà Tù Chí Hòa. Tôi, qua điện thoại, hỏi ông Trần Tử Thanh về chuyện ông Đại Tá Vũ Lăng San José nói bà mẹ ông ta là em gái Cố Luật sư Trần Văn Tuyên, tức bà là bà cô ruột của ông, và như dzậy Đại Tá Vũ Lăng Vũ Trọng Khanh San José là anh em con cô, con cậu với ông, ông Trần Tử Thanh cũng đã biết về cuộc phỏng vấn của Đài SBTN, ông kêu :
- Làm gì có chuyện đó. Bà vợ ông Vũ Trọng Phụng đâu phải là em ông cụ tôi. Ông cụ tôi có bao giờ đến Tòa Thánh Tây Ninh đâu. Hoàn toàn bịa đặt. Anh em chúng tôi sẽ phải lên tiếng về vụ này.
Ông Trần Tử Thanh gửi cho tôi bức thư ngỏ :
THƯ NGỎ
Đồng kính gửi :
- Các cơ quan truyền thông, truyền hình, báo chí, các mạng Internet.
- Quí vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo, quí vị chủ tịch các đảng phái quốc gia, quí vị Chủ Tịch Công Đồng, các Tổ Chức, Hội Đoàn người Việt Quốc Gia tại hải ngoại.
- Bà con thân thuộc và Bằng Hữu của Gia Đình Cố Luật Sư Trần Văn Tuyên.
Mới đây trong cuộc phỏng vấn kéo dài 4 phần trên Đài Truyền Hình SBTN ở Quận Cam và được báo Việt Nam Exodus đưa lên mạng, có một người xưng là Vũ Trọng Khanh, tự Vũ Lăng, Cựu Đại Tá QLVNCH, tốt nghiệp Khóa 4 Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt ( ? ), con của Nhà Văn Vũ Trọng Phụng ( ? ) — không hiểu vì lý do gì, đã mạo nhận là cháu của Luật Sư Trần Văn Tuyên.
Vì sự việc có liên quan đến thân phụ và giòng tộc chúng tôi, chúng tôi xin minh xác :
1 — Họ và tên người này nêu ra trong cuộc phỏng vấn để chứng minh liên hệ với gia đình Luật Sư Trần Văn Tuyên là hoàn toàn xa lạ với gia đình chúng tôi và không có trong gia phả của giòng họ Trần.
2 — Những sự kiện liên quan đến thân phụ chúng tôi là những sự kiện hoàn toàn bịa đặt một cách trắng trợn.
Tất nhiên khi tạo dựng những sự kiện nêu trên, người được phỏng vấn hẳn có mưu đồ đen tối nào đó.
Vì vậy, chúng tôi xin gửi bức thư ngỏ này thông báo tới toàn thể bà con trong gia tộc, các bằng hữu quen biết gia đình chúng tôi, cùng mọi giới để cảnh giác đề phòng và tránh mọi ngộ nhận trong tương lai.
Thay mặt gia đình Cố Luật Sư Trần Văn Tuyên.
Luật Sư Trần Tử Huyền, Trưởng Nam.
California, ngày 17 Tháng Hai năm 2008.
***
Trước năm 1975 giới ca-ve Sài Gòn có cô Lan, biệt hiệu Lan Khùng, nói cô là con ông Nhà Văn Lê Văn Trương. Năm 1980 ở Sài Gòn có ông Lê Khiêm nhận là con Nhà Văn Lê Văn Trương.
Năm 1990 ở Hà Nội có ông Mạc Can, ông này viết tiểu thuyết, nghe nói là con Nhà Văn Lê Văn Trương.
Năm 1976 ở Sài Gòn Cờ Đỏ tôi gặp người xưng tên là Vũ Trọng Khanh, nhận mình là con trai ông Nhà Văn Vũ Trọng Phụng.
Năm 2008 ở Kỳ Hoa, tôi thấy ông Vũ Trọng Khanh thứ hai tự nhận mình là con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng. Ông Vũ Trọng Khanh San José còn tự nhận ông là Đại Tá và là cháu ruột Cố Luật Sư Trần Văn Tuyên.

Tôi đã kể những gì tôi biết về nhân vật Vũ Trọng Khanh. Xin để quí vị có ý kiến về vụ này. Chỉ xin viết vài chuyện cho đỡ ngứa ngáy:
- Ông Vũ Trọng Khanh nói ông là “bạn vong niên của Nhà Thơ Nguyễn Bính.” Ông kể năm ông 9 tuổi, khoảng những năm 1940, 1941 ông Trần Văn Tuyên đưa ông từ Hà Nội sang Vân Nam, khoảng những năm 1949, 1950 ông Nguyễn Mạnh Côn đưa ông từ Vân Nam đến Hong Kong rồi về Singapore, ông đến Tòa Thánh Cao Đài ở Tây Ninh, ông đi học Khóa Sĩ Quan Đà Lạt, năm 1961 ông ra Bắc, ông bị tù trên đất Bắc 22 năm. Thời gian nào ông là “bạn vong niên” của Nhà Thơ Nguyễn Bính. Ít nhất khi Nhà Thơ 40 tuổi, ông phải 20 tuổi, khi Nhà Thơ 60 tuổi, ông 30, ông mới có thể là “bạn vong niên” của Nhà Thơ. Năm Nhà Thơ 30 tuổi, ông 9 tuổi, nàm thao ông có thể là “bạn vong niên” của Nhà Thơ? Nhờ ông tí!

- Ông kể ông bị bọn Bắc Cộng giam tù 22 năm. Khi giả làm Việt Cộng miền Nam ra Bắc năm 1961 cứ cho cấp bậc của ông là Trung Úy đi, trong 22 năm tù ông “ô-tô-măng-tít”, tức ông tự động thăng cấp? Trở về Sài Gòn năm 1982 ông là Đại Tá? Năm 1982 các ông Tướng của quân đội tôi ông thì ngồi tù, ông thì ở nước ngoài, ông về ai phong cấp Tá cho ông? Sôi sì ông tự phong cấp Tá cho ông cũng được đi, kỳ cục là chuyện mấy ông TV SBTN phây phây giới thiệu ông là Đại Tá.
Những năm 1961, 1962 ông bị bọn Cai Tù Bắc Cộng tra tấn, hỏi cung, bọn Bắc Cộng đã làm gì có Bộ Trưởng Công An Bùi Thiện Ngộ với Đại Tá Bùi Tín!

Ở Sài Gòn tôi có người bạn văn nghệ trẻ có bút hiệu lạ là Phù Hư. Hôm nay kể chuyện xưa nhắc đến Phù Hư, tôi nhớ ở Kỳ Hoa tôi có người bạn văn nghệ trẻ bút hiệu là Hư Vô.
Hai cái tên Phù Hư, Hư Vô giống nhau quá đi mất. Hai người cùng Hư, một người Hư Phù, người kia Hư Vô. Hư Phù hay Hư Vô cũng là Hư. Xong Hư Phù đỡ Hư hơn Hư Vô, Hư Phù còn tí ti hư để mà phù, Hư Vô thì vô luôn, không còn tí hư nào để mà vô cả.

Ở quê hương tôi hôm nay là Ngày Hai Mươi Tết, Tết Nguyên Đán vừa qua được hai mươi ngày. Ông bà tôi thường nói là: “Ra Giêng..”, tức sang Tháng Giêng. Chiều nay ở Kỳ Hoa đã là cuối Tháng Hai Tây. Mưa tuyết trên Rừng Phong. Tuyết này là Tuyết Hoa — Tuyết nhẹ, mỏng, khô, tan ngay — trong bài viết này tôi nhắc đến Phù Hư, viết xong tôi nhớ anh, nhớ hình ảnh anh năm xưa. Anh đưa tôi đi gặp Vũ Trọng Khanh một buổi sáng ở Sài Gòn năm 1976. Cà phê vỉa hè đường Gia Long. Sài Gòn buồn ơi là buồn. Năm ấy Phù Hư ba mươi, tôi bốn mươi.
Tôi mong Phù Hư, hiện sống ở Sài Gòn, sẽ đọc bài viết này của tôi.

Tôi gửi bài này tặng Hư Vô ở Kỳ Hoa.
Tôi đố quí vị biết Hư Vô là nam hay nữ?
Lại viết thêm vài dòng nữa: Ối.. ông Đại Tá Vũ Lăng ơi.. Lộng giả thành chân có thế thôi..! I can You. I xin You. Ông định làm trò lộng giả thành chân nhưng không được đâu, nhiều khi lộng giả không thành chân, thành cẳng mà là thành dzởm! Ông dựng đứng lên những chuyện không thật, chúng tôi biết những chuyện ông nói không thật, chúng tôi bắt buộc phải lên tiếng.
Chúng tôi không ai nói gì, mấy ông Nhà TiVi SBTN có thể bảo nhau:
- Bọn “sì-péc-ta-tưa” của mình chúng nó ngu lắm. Mình cho người kể chuyện dzởm năm chăm phần chăm về Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn, Luật Sư Trần Văn Tuyên mà chúng nó im re, không thằng nào, con nào nói gì cả!
Tội chúng tôi quá, mấy ông ơi!
 http://hoanghaithuy.wordpress.com/2008/03/05/dai-ta-vu-lang-vu-trong-khanh/
About these ads
 

THƯ NGỎ GỬI ÔNG VŨ TRỌNG KHANH
Nghiêm Xuân Sơn


Để trả lời bài báo nói về Tiểu sử và thân  thế gia đình nhà văn Vũ Trọng Phụng của ông Vũ Trọng Khanh
Tôi tên là Nghiêm Xuân Sơn sinh năm 1936 (Bính Tý) là chồng của Vũ Mỵ Hằng - con gái độc nhất của nhà văn Vũ Trọng Phụng và là người đang quản lý, trông nom nhà thờ, phần mộ của nhà văn và gia đình ông gồm mẹ đẻ, vợ và con gái ông tại địa chỉ nhà số 5, tổ 2, Cụm Giáp Nhất, phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. Điện thoại: 0438583147 - xin có lời nói với ông như sau:

Tôi có được đọc bài báo Tiểu sử và thân thế gia đình nhà văn Vũ Trọng Phụng do ông viết đăng trên nét trong Bloogle đề ngày 25/6/2009. Tôi thật sự bất bình, không bằng lòng về bài viết đó. Vì nó đã viết sai sự thật 100%, bịa đặt và vô nghĩa lý một cách tệ hại.

Bài báo đó do ông viết đã xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của nhà văn và gia đình ông. Ông đã đưa những thông tin không chính xác, xâm phạm vào quyền bí mật đời tư của gia đình nhà văn mà Nhà nước và Pháp luật bảo vệ. Theo tôi, nếu ông có đầy đủ bằng chững, có chứng cứ hợp pháp mà ông là con trai đích thực của nhà văn thì ông có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước Việt Nam có thẩm quyền xác định cho mình là con. Tôi không hiểu ông đưa những thông tin lên báo để nhằm mục đích gì? Ông cứ nói ra luôn đi như cái thời những năm 1960 - 1970 ở Sài Gòn, nhà văn Vũ Bằng - bạn thân của Vũ Trọng Phụng đã gặp ông người con trai của Phụng bây giờ đi cốc mà nhà văn phải mất công vạch trần đăng trên tạp chí Văn học, số 114 ra ngày 15/10/1970 ở Sài Gòn.

Dưới đây, tôi xin đi vào một số việc mà ông bịa đặt nói trên báo như sau:

1. Ông nói Bố tôi tên thật là Vũ Văn Tý, còn tên Vũ Trọng Phụng chỉ là bút danh mà bút danh này do ông Phụng quá yêu mẹ ông tên là Phụng mà đặt ra. Ông cho biết gia đình ông đang giữ những 02 giấy khai sinh nhưng 02 giấy khai sinh đó lại khác nhau năm sinh và nơi sinh (Ông nói: 01 cái có ghi ngày sinh là 20/10/1919 nơi sinh là làng Hảo, 01 cái có ghi ngày sinh là 20/10/1912 nơi sinh  là Hanoi)
Ông còn cho biết ông Phụng phải sinh ra ngày 20/10/1919 mới đúng và cho báo chí hồi đó nói sai, rồi ông đưa ra nhân chứng ông Trưởng Tạo, ông Triệu Luật, ông Vũ Nhân Phong… Tôi nói đây là nhân chứng ông nguỵ tạo mà tôi sẽ giải thích sau.

Tôi xin nói để ông biết:
Về giấy khai sinh và ngày sinh của Vũ Trọng Phụng:

Hiện nay, gia đình  tôi có lưu giữ 01 cái giấy Thay cái sổ sinh ra (thay giấy khai sinh in bằng ba thứ chữ (Tiếng Pháp, Tiếng Hoa, Tiếng Việt). Giấy này tôi đã cho in trong Tuyển tập Vũ Trọng Phụng do nhà xuất bản Văn học Hà Nội phát hành năm 2006 để mọi người cùng biết. Giấy khai sinh này trong đó ghi rõ: Tên khai sinh là Vũ Trọng Phụng. Nơi sinh là: Số nhà 23, phố Hàng Vôi, Hanoi. Ngày sinh là ngày 20 tháng 10 năm 1913, có đầy đủ chữ ký của ông Phụng, của người đứng khai: Vũ Văn Ba, chữ ký của các người làm chứng, của Lý tưởng và trưởng khu là ông Nhã ký, đóng dấu ngày 12 tháng 5 năm 1920. Tờ khai sinh này là bản sai nên có đóng dáu sao y bản chính của Toà thị chính ngày 9/8/1972…

Ông Khanh cho biết gia đình ông đang có 02 bản khai sinh khác nhau như trên đã nói thì xin ông trưng nó ra cho mọi người được biết. Còn riêng tôi, người đang trông coi nhà thờ, nhà lưu niệm của nhà văn sẵn sàng xin mua ại với giá cao 02 giấy khai sinh dó, kể cả các kỷ vật nào đó của nhà văn. Tôi sẽ cử người hoặc tôi đến tận nơi cần mua bán các kỷ vật đó nếu cho biết địa chỉ rõ ràng…

Còn bây giờ, tôi xin nói với ông về việc ông có 02 giấy khai sinh đó là ông bịa, đặt chuyện, nói không thành có. Vì tôi ở rể, sống trông nom hơn 10 năm trời với bà cụ cho đến khi cô qua đời (1954 - 1963). Mẹ đẻ của nhà văn Vũ Trọng Phụng, lúc cụ còn minh mẫn, vợ chồng chúng tôi có hỏi nhiều lần về việc này thì cụ cho biết: Sở dĩ ở nhà mọi người thường gọi tên ông Phụng là Tý là vì ông ấy sinh năm Tý (Nhâm Tý - 1912). Lúc đẻ ông, có nhiều lý do chưa làm giấy khai sinh cho ông, nhưng lúc cần phải có nó để ông được đi học nên mới nhờ mọi người làm giúp tờ khai sinh đó và khai khác đi (1913 - Quý Sửu) cho phù hợp với tuổi được đi học. Cụ còn cho biết thêm, ở quê chồng (bố đẻ ông Vũ Trọng Phụng - là ông Hảo) không còn gì kể cả người thân ruột thịt cũng không còn ai thân thích. (Bố đẻ ông mất khi nhà văn mới 7 tháng tuổi).

Như vậy đã rõ, không như ông Khanh nói: cụ ông sinh ông ở làng Hảo là không đúng, là không có. Còn để chứng minh thêm lời ông nói là đúng thì xin ông đưa ra cái giấy khai sinh của bản thân ông (Vũ Trọng Khanh) cho mọi người biết xem trong đó sẽ rõ nơi sinh ra ông, bố đẻ ông là ai thì chúng  ta mới luận bàn rõ được.

2. Việc ông nói ông Vũ Trọng Phụng vì quá yêu mẹ của ông nên ông Tý tự đổi tên thật từ Tý sang là Phụng là không đúng. Tên Vũ Trọng Phụng là tên ghi rõ trong giấy khai sinh của ông và do mẹ ông đặt tên cho. Ông Phụng còn lấy bút danh là Thiên hư khi làm báo. Còn chyện ông kể về việc mẹ ông bỏ nhà, bỏ bố mẹ ở tận Tuyên Quang, vì yêu ông Phụng, về ở hẳn Hà Nội sống với ông Phụng năm ông ấy mới 16 tuổi (1928) không cưới xin gì hết thì theo ông năm ấy mẹ ông bao nhiêu tuổi. Và sao nhà ở Tuyên Quang lại nói sống ở Hanoi, ở với ai? Năm 1928, ông Phụng mới 16 tuổi, ông Phụng chỉ là ông Phụng nhà nghèo, không có việc làm và chưa phải là nhà văn Vũ Trọng Phụng? Thật là vô lý hết sức. Sao ông nói mẹ ông sống với mẹ ông sống với mẹ con ông Phụng ở HaNoi lại phải về quê làng Hảo để đẻ ông !!! Tôi nói để ông biết, khi bà mẹ ông Phụng còn sống với gia đình tôi mười mấy năm trời không thấy cụ nói gì về mẹ con ông, nhất là cụ có cháu đích tôn, có người nối dõi tông đường như ông sao cụ lại bỏ qua? Như vậy, những năm tháng còn bé đến tuổi trưởng thành ông sống ở đâu, ai nuôi ông? Tại sao suốt cả những năm  tháng đó, từ lúc ông Vũ Trọng Phụng qua đời năm 1939 cho đến năm 1954 coi như là năm đó ông di cư vào Sài Gòn thì không một lần nào ông xuất hiện với gia đình nhà văn. Đặc biệt, bà cụ không hề biết có ông, có đứa cháu đích tôn. Bây giờ nói như vậy, ông phải có chứng cứ chứng minh cho mọi người biết ông là ai. Còn bịa đặt, dựng chuyện như ông thì lấy gì để tin.

3. Ông còn đặt chuyện nói năm 1937 vì thương ông, bà nội thương cháu đích tôn nên yêu cầu ông Phụng phải lấy vợ khác (!). Ông Phụng lấy bà Vũ Mỵ Lương vì sót thương hoàn cảnh gia đình bà (sợ bị  tội nên phải đổi họ Đặng sang họ Vũ) nên mới lấy bà để có người trông nom ông. Còn bà Mỵ Lương, theo ông cho biết bà ấy xấu người, răng đen, nhà quê, lại có tật bẩm sinh 2 chân khập khiễng…
Thật tội nghiệp cho ông, ông bịa chuyện quá đáng. Tôi yêu cầu ông nên đọc bài báo có đăng trên Blog Con rể nhà văn Vũ Trọng Phụng kính xin ba chữ của nhà văn Hoàng Tường viết trong đó có đưa ảnh bà Vũ Mỵ Lương (1939). Chắc ông nghĩ, mọi người biết rõ chuyện về nhà văn Vũ Trọng Phụng đều đã chết cả nên ông bịa chuyện, nói cho ông, đến lúc này, ngay ở làng Giáp Nhất hiện nay, các cháu ruột thịt của bà Vũ Mỵ Lương còn sống và nhới rất rõ lúc ông Vũ Trọng Phụng qua đời. Đặc biệt có cụ Nguyễn Bá Đạm năm nay 90 tuổi là nhà sưu tầm tiền cổ nổi tiếng của Việt Nam và là người rất mê văn chương Vũ Trọng Phụng. Cụ là người tặng các kỷ vật vô giá như một số thẻ nhà báo, giấy khai sinh của nhà văn cho vợ chồng tôi. Cụ cũng đã có bài báo viết về đám cưới của nhà văn Vũ Trọng Phụng với bà Vũ Mỵ Lương mà cụ được chứng kiến. Như vậy, ông Vũ Trọng Phụng đã yêu người con gái làng Mọc Giáp Nhất này mấy năm liền và các từ Biết rồi, khổ lắm, nói mãi vì sao xuất hiện, xin ông Khanh nghĩ lại và đọc kỹ bài báo của ông Đồ Nam với nhan đề Năm cái bí mật của Vũ Trọng Phụng đăng trong tập san Văn học số 114 ở Sài Gòn ngày 15/10/1970, ông sẽ thấy xấu hổ vì tội nói xấu, tội bịa chuyện. (Trong trường hợp Internet cho đăng bài này, tôi xin phục vụ ngay).

Ông nói bố ông vì mắc bệnh lao phổi ốm chết vào lúc 2 giờ sáng ngày 13 mà vì mắc bệnh lao bắt buộc phải chôn cất ngay trong ngày nên 10 giờ trưa cùng ngày bà nội và kế mẫu ông phải vội vã đem xác bố đi chôn tại nghĩa trang Quảng Thiện thuộc huyện Ngã Tư Sở, tỉnh Hà Đông. Thật tệ hại và ghê tởm thay cái tội dựng chuyện nói xấu ngay cả cái chết của nhà văn Vũ Trọng Phụng ông cũng không tha. Ông đã nói sai sự thật 100% cụ thể là: Ông Vũ Trọng Phụng chết ngày 13 và là ngày thứ sáu nhưng đến ngày 15 là ngày chủ nhật mới đưa tang, có đông đủ họ hàng và các nhà văn, bạn đọc yêu văn chương ông cũng có những 2 người đọc điếu văn bên mộ ông: Lưu Trọng Lư và Nguyễn Vỹ. Xin ông đọc ngay tạp chí Tao đàn số đặc biệt thngs 12/1939 nói về Vũ Trọng Phụng thì ông sẽ thấy chân dung và việc nói xấu của  ông. Ông nói ông sống với bố thì khi bố ông chết không thấy một ai dù chỉ một câu nói, một chữ nói về người con trai độc nhất này. Theo sau xe tang không thấy ông đâu, không thấy ông đeo khăn tang mặc áo xô, chống gậy. Đi sau xe tang chỉ thấy nhắc đến người con gái bé nhỏ của ông Vũ Trọng Phụng. Sau khi nhà văn qua đời, ông ở đâu, với ai? Sao ông không ở lại với bà nội ông, kế mẫu ông và với Mỵ Hằng. Đoạn đời này ông bỏ hẳn đi, không kể một cách lạ kì. Tại sao gần 70 năm ngày mất của nhà văn, không thấy ông một lần xuất hiện trước bàn thờ, mộ phần ông Vũ Trọng Phụng để giãi bày phân  tỏ mà bây giờ năm 2009, sắp đến 70 năm ngày mất của nhà văn thì lại thấy ông xuất hiện. (Cũng như những năm 1970, 1973 mọi người bạn đọc yêu văn ông, nhà văn Vũ Trọng Phụng cũng lại thấy ông tự xưng là con trai duy nhất của nhà văn để làm gì - có đi cốc nữa hay không, chúng ta chờ xem nhưng lần này ở mãi bên Mỹ quốc).

4. Trong bài báo này của ông còn nhiều chyện phải nói, tôi chỉ xin tóm tắt như sau:

a) Vì ông xa quê hương lâu ngày lại có dụng ý khác nên một phần quên và một phần cần phải nói khác đi sao cho phù hợp với ý đồ của ông nên rất sơ hở. Tên các làng mạc ở ngoài Bắc ông nói sai hết. Ví dụ như làng Vẽ vẫn còn đấy, còn làng Mọc Chánh kinh vẫn còn đấy, không phải hai làng là một…

b) Bà Vũ Mỵ Lương là người làng Giáp Nhất là một làng trong 5 làng thuộc Tổng Mọc (Giáp nhất, Quan Nhân, Chính Kinh, Hoà Mục, Phùng Khoang). Làng Giáp Nhất không có họ Đặng, không có chuyện họ Đặng sợ chuyện liên quan đến Đặng Trần Nghiệp phải đổi sang họ Vũ (ông Ký con Đoàn Trần Nghiệp cũng bị ông đổi từ họ Đoàn sang họ Đặng) thật tức cười.

Việc ông bôi nhọ và nói không đúng về gia đình bà Vũ Mỵ Lương, tôi sẽ để họ Vũ lên tiếng nói chuyện với ông sau. Còn gia đình bà Vũ Mỵ Lương, ông kể cũng sai hết. Không có ai là bà Giảng, ông Nhân Phong, bà Thị Hào và còn bịa chuyện về tướng Song Hào… Chỗ này tôi nói qua để ông biết: Mẹ vợ tôi là con út của cụ Cửu Tích, người anh cả là Vũ Cự Chân không phải là con gái, mở cửa hàng thuốc cam  ở phố hàng Bạc, ông Hai Kỳ ròi đến ông thứ ba tên là Vũ Kim Bằng có cửa hàng chữa mắt ở gần Ngã Tư Sở. Ông Vũ Thanh Quy và ông Vũ Bội Chinh mở cửa hàng bánh ở Hải Phòng lấy thương hiệu là Nhân Phong và sau năm 1954 di cư vào Sài Gòn mở cửa hàng vừa bán bánh vừa bán thuốc cam hàng Bạc nhưng vẫn để thương hiệu là Nhân Phong ở phố Hai Bà Trưng, gần chợ Tân Định.

c. Vì ông muốn gắn ông vào gia đình ông Vũ Trọng Phụng nên ông rất lúng túng trong việc ông kể về nơi ông sinh, về quan hệ của mẹ con ông với mẹ con ông Phụng. Còn về thời gian, năm tháng và nơi ở, sinh sống nhiều chỗ kể rất sơ xuất, sơ hở nói không đúng lại mâu thuẫn với nhau. Ông nên xem xét lại.

Cuối cùng tôi muốn nói với ông Khanh như thế này:

Ông Vũ Trọng Phụng là nhà văn tả chân, thuộc phái hiện thực phê phán và ong đã qua đời từ lâu, đến nay chết đã gần 70 năm, không nên gắn nhà văn Vũ Trọng Phụng với chính trị rồi nói khác đi, không có lợi ích gì cho nhà văn, để ông yên nghỉ vĩnh hằng. Nhờ có đất nước đổi mới đã nhận chân ra tài năng của ông và ông đã được phong thần. Tôi xin ông và các ông không vì lý do nào đó lại đặt vấn đề lại để làm khổ nhà văn Vũ Trọng Phụng ở dưới suối vàng.

Tôi xin nhà báo Mặc Lâm, phóng viên đài RFA - người đã viết bào báo Vũ Trọng Phụng nhà văn của người nghèo cùng với chúng tôi giúp tôi làm rõ chân dung Vũ Trọng Khanh có phải là con trai duy nhất của nhà văn Vũ Trọng Phụng hay không? Yêu cầu ông Khanh đưa các chứng cứ ra công khai và nhờ pháp luật chứng minh đen trắng rõ ràng. Trong trường hợp ông Vũ Trọng Khanh không thấy việc làm sai trái của mình, buộc lòng chúng tôi thấy cần sẽ nhờ công lý và pháp luật hai nước giải quyết sao cho thật thấu tình đạt lý.

Còn riêng tôi là người con rể duy nhất, là người chồng duy nhất của người con gái độc nhất của nhà văn, người đang trông nom nhà thờ và mộ phần của ông có lời mời ông Vũ Trọng Khanh và những người có liên quan bớt chút thời gian trở về quê hương để nhận họ cho rõ ràng. Trường hợp không về Việt Nam được vì lý do nào đó cũng báo cho chúng tôi được biết để chúng tôi sang Mỹ hầu chuyện (trước mắt cho chúng tôi biết địa chỉ cụ thể rõ ràng, cả số điện thoại nữa). Ở bên Mỹ chúng tôi cũng có đủ anh em ruột họ Nghiêm Xuân của tôi, có đủ người ruột thịt họ Vũ của bà Vũ Mỵ Lương đến hầu chuyện cùng ông, nếu ông thấy cần.

Xin kính chào và chúc ông mọi sự may mắn và sức khoẻ tốt.
Hà Nội, ngày 20 tháng 8 năm 2009
Ký tên

Nghiêm Xuân Sơn
  Nguồn: Trannhuong.com



Bà Hằng

Câu chuyện ông Vũ Lăng nào đó “nhận vơ” là con trai của Vũ Trọng Phụng thật chẳng có gì quan trọng. Vì thiên hạ ai cũng đều biết đó là chuyện “bá vơ”.
Nhưng từ chuyện nhận vơ này nhảy sang chuyện “nhận vơ” là thư ký riêng của ông Vũ Hồng Khanh VNQDĐ trong khi đương sự chỉ mới 15 tuổi (sic) thì “bụt trên tòa cũng phải nhảy xuống”. Ở hải ngoại hiện nay những cái tên của các chính đảng như VNQDĐ thường bị kẻ xấu mạo nhận, thậm chí tổ chức lễ lạ, xử dụng đảng kỳ nhằm tạo hư danh nhưng láo lếu đến xúc phạm đảng thể như Vũ Lăng và Dương Thị Phương Hằng thì thật mới có một (đôi sất). Đọc bà Hằng viết mấy chữ tiền bối với hậu bối thấy nó trơ trẽn, ngu ngơ làm sao. Tiền bối là chữ dùng để chỉ lớp người đi trước chung một con đường, chung lý tưởng, chung chí hướng, có nhân cách. Người có học hành, đủ chữ nghĩa, có tư cách chẳng ai dám tự nhận mình là tiển bối người khác. Mấy lời nhắc nhở này ông bà nên ghi nhớ.
Lãnh tụ Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Hải Thần, nhà văn lập thuyết Nguyễn Mạnh Côn đã đi vào lịch sử. Nhà văn Vũ Trọng Phụng đã đi vào văn học sử.
Thân thế của họ đã được soi rọi kỹ lưỡng vì họ là người của công chúng.
Tất nhiên xã hội có nhiề kẻ muốn lợi dụng tên tuổi của họ để phục vụ mưu đồ cá nhân vào mục đíc nào đó. Nhưng những kẻ xạo láo hay có nhiều sơ hở, viết bừa, nói càn và sau đó khốn nạn thay chúng lại quên hết. Bà Hằng có tật già mồm, chầy cối nhưng những sai lệch, bất hợp lý về không gian, thời gian, và nhân vật được nhắc tới trở thành những bằng chứng khó biện giải. Ông bà có thể đã quên nhiều điều huênh hoang, láo xạo trước đây (chẳng ai chấp vì vô  hại) nhưng Công Tử Hà Đông vì ở Rừng Phong gần gũi, quen biết với gia đình ông Trần văn Tuyên biết chuyện nên có một bài; nếu ông bà không lưu giữ, chúng tôi gửi lại để bạn đọc trên diễn đàn cùng thưởng lãm.

Kim Âu
NOV23
                                                                  

ĐẠI TÁ VŨ LĂNG??!!, CON TRAI VŨ TRỌNG PHỤNG?

CÔNG TỬ HÀ ĐÔNG


Tháng 2, tháng 3 năm 1976/ Tháng 2, tháng 3 năm 2008..Thấm thoắt dzây mà thời gian đã qua 33 mùa lá rụng..Những năm 1975, 1976 tôi sống những ngày buồn thảm, u tối, tuyệt vọng giữa lòng Sài Gòn, thành phố thủ đô đau thương của tôi.

Biết dzồi..Khổ lắm..Kể mãi..! Vâng, không tả oán nữa, xin nói ngay vào chuyện. Một tối Phù Hư, người bạn văn nghệ của tôi, ghé nhà tôi, anh nói:
- Tôi mới gặp con trai của ông Vũ Trọng Phụng. Anh ta mới ở Hà Nội vào. Tôi hẹn gặp lại anh ta sáng mai.
Anh hỏi tôi:
- Anh có muốn gặp con trai ông Vũ Trọng Phụng không?

Từ lâu tôi biết Nhà Văn Vũ Trọng Phụng không có con trai, ông chỉ có một người con gái. Gần như tất cả những người đọc những tiểu thuyết Giông Tố, Số Đỏ, Cơm Thầy Cơm Cô của Nhà văn Vũ Trọng Phụng đều biết ông chỉ có một người con gái. Nay ở đâu ra anh con này của Nhà Văn? Mạo nhận ư? Nhưng mạo nhận là con Nhà Văn để làm gì? Tôi không tin người nào đó là con trai của Nhà Văn nhưng vì buồn quá đỗi, buồn đến có thể chết được, phần vì không có việc gì làm, tôi theo Phù Hư đi gặp anh ta.

Những tháng đầu tiên bọn Bắc Cộng rước hình Chủ Tịt Hồ chí Minh của chúng vào Sài Gòn, dzân Sài Gòn – thất nghiệp không phải chăm phần chăm mà là năm chăm phần chăm – toàn dzân không có việc gì làm, đổ ra đường kiếm ăn Chợ Trời, Chợ Đất, mở hàng cà phe vỉa hè. Hàng họ thật giản dzị, vài cái bàn, vài cái ghế thấp tè đóng bằng gỗ ván thùng, vài phin cà phe hay một ấm ninh cà phe, nửa ký cà phe, nửa ký đường, bán gần hết chạy đi mua, 1 phích nước, dăm cái ly, cái muỗng, thế là thành một tiệm cà phe vỉa hè Sài Gòn Thất Thủ Lủ Khủ Lù Khu. Sáng hôm ấy tôi theo Phù Hư đến một tiệm cà phe như thế trên vỉa hè đường Gia Long. Đúng giờ hẹn người tự nhận là con trai của Nhà Văn Vũ Trọng Phụng đến.

Người thanh niên trắng trẻo, đẹp trai, mặt mũi sáng sủa, bận bộ đồ bà ba đen mới may. Không có khả năng nhận xét sắc xảo gì nhưng nhìn anh tôi biết chắc anh không phải là dân Sài Gòn, anh là người miền Bắc mới vào Sài Gòn nhưng anh không có cái vẻ cù lần của bọn thanh niên Hà Nội Bắc Kỳ Xã Hội Chủ Nghĩa, những kẻ được dân Sài Gòn tả trong câu dzân dzao 1975:

Trai Sài Gòn như chim anh vũ,
Trai Hà Nội như củ khoai lang.

Phù Hư đãi anh ly cà phê đen giá 1 đồng, 1 đồng tiền Hồ là 500 đồng bạc Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa.

Tôi nói với anh thanh niên :
- Tôi tưởng ông Vũ Trọng Phụng không có con trai ?
Rất lễ phép, và có vẻ đầy đủ thẩm quyền, coi như chuyện người thiên hạ không biết Nhà Văn Vũ Trọng Phụng có con trai là chuyện thường, anh ta nói :
- Thưa bác..Bố cháu có cháu và em gái cháu. Tên cháu là Vũ Trọng Khanh.

Lần thứ nhất tôi nghe cái tên Vũ Trọng Khanh là trong một sáng cuối năm 1975, hay đầu năm 1976, trên vỉa hè đường Gia Long, Sài Gòn.
Sau ly cà phe, vài điếu thuốc lá, tôi chia tay với Vũ Trọng Khanh. Ngoài việc xưng là con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, người nói tên mình là Vũ Trọng Khanh không ba hoa chích chòe khoe khoang, không nói lời gì với ý định lừa gạt hay lợi dụng Phù Hư và tôi. Anh cũng không hỏi nhà chúng tôi, không nói chỗ anh ở, công tác anh làm, không hẹn gặp lại. Từ đấy tôi không gặp lại anh, tôi cũng không nghe ai nói đến anh.

Năm 1975, 1976 tôi 40 tuổi, người tự nhận là Vũ Trọng Khanh, con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, trạc 30 tuổi. Nếu anh là con ông Vũ, anh phải ra đời trước năm 1939 là năm ông Vũ từ trần, ít nhất anh phải ra đời trong những năm 1934, 1935, năm 1975 anh phải gần 40 tuổi, phải già, phải via tông-keng bằng tôi, anh không thể trẻ đến như thế.

Lần gặp Vũ Trọng Khanh ở Sài Gòn, tôi không tin anh là con Nhà Văn Vũ Trọng Phụng nhưng tôi chẳng bắt bẻ anh làm gì. Tại sao lại cố ý moi móc để chứng tỏ người ta nhận vơ ? Mà người ta nhận vơ người ta là con ông Nhà Văn sì đã nàm thao? Hại gì ai ? Nhà văn Vũ Trọng Phụng có nổi tiếng, có được người đời trọng mến, mới có người nhận là con. Ở đời thiếu gì anh con từ bố, chối bố hay xấu hổ khi có ai nói anh là con của ông bố anh.

Những năm 2000, 2001, ở Kỳ Hoa Đất Trích, tôi nghe nói :
- Ở San José có người nhận là con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, tên là Vũ Trọng Khanh.

Tôi nghe qua rồi bỏ. Tự nhiên tôi không tin nhân vật Vũ Trọng Khanh San José 2000 là nhân vật Vũ Trọng Khanh tôi gặp năm 1975, 1976 trên vỉa hè đường Gia Long, Sài Gòn. Lại một vụ nhận vơ.. ! Mà người ta nhận vơ sì đã nàm thao?

Ngày tháng qua đi..Tháng 2 năm 2008, liêu lạc ở Rừng Phong, Xứ Tình Nhân, Kỳ Hoa Đất Trích, tôi gặp lại cái tên Vũ Trọng Khanh. Ông Vũ Trọng Khanh tôi thấy ở Kỳ Hoa năm 2008 không phải là anh thanh niên Bắc Kỳ đẹp trai Vũ Trọng Khanh tôi gặp ở Sài Gòn cuối năm 1975 hay đầu năm 1976. Như vậy : trước sau, trong vòng 40 năm, tôi thấy cuộc đời này có hai ông Vũ Trọng Khanh. Ông Vũ Trọng Khanh thứ nhất tôi được gặp, được nói chuyện ở Sài Gòn năm 1975 không có chức vụ, không cấp bậc gì cả, ông Vũ Trọng Khanh thứ hai tôi chỉ được nhìn thấy dung nhan trên màn hình Internet trong cuộc phỏng vấn của Hệ Thống Truyền Thông SBTN. Ông Vũ Trọng Khanh San José 2008 được SBTN giới thiệu bằng cái tên có chức vị quân đội là Đại Tá Vũ Lăng.

Ông Vũ Trọng Khanh Đại Tá Vũ Lăng San José 2008 trạc Sáu Bó tuổi đời, bận quân phục, tôi nhìn không rõ đó là quân phục Quân Đội Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa hay quân phục Quân Đội Hoa Kỳ. Ông có vẻ đau yếu, dường như ông ngồi không vững, ông nói khó khăn, ông có bà vợ trẻ ngồi bên đỡ lời, nói dùm. Trong cuộc phỏng vấn ông nói ba, bà nói bẩy. Chuyện kỳ lạ là, như tôi đã viết trên đây, gần như tất cả những người Việt Nam từng đọc tiểu thuyết của Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, từng biết, dù biết ít, biết lơ mơ, về đời tư của Nhà Văn, đều biết Nhà Văn không có con trai, nhưng ký giả SBTN – không lẽ không biết – không đặt câu hỏi :
- Có gì chứng minh ông là con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng ?

Ký giả phỏng vấn, dường như tên là ông Tường Thắng, phăng phăng la tuy-líp coi người được phỏng vấn đúng là ông con của Nhà Văn.

Ông Vũ Trọng Khanh Đại Tá Vũ Lăng San Jose, và bà vợ, kể nhiều chuyện kỳ cục quá đỗi là kỳ cục. Không những chỉ kỳ cục, đó còn là những chuyện dựng đứng. Không chỉ chuyện dựng đứng thường mà là chuyện dựng đứng năm chăm phầm chăm. Tôi nghe chuyện ông bà kể mà chịu hổng có nổi. Tôi kể lại những lời ông bà nói như sau, tất nhiên tôi chỉ kể đại khái thôi, tôi không thể kể hết hay kể thật đúng những lời ông bà nói, nhưng tôi kể không sai.

Ông Đại Tá Vũ Lăng kể ông bị bọn Bắc Cộng bắt sống, giam tù 22 năm ở Bắc Việt, năm 1982 ông trở về Sài Gòn, năm 1985, 1986 ông vượt biên bằng đường bộ sang Thái Lan, người ta đón ông sang Hoa Kỳ. Trong thời gian chịu tù đày ở Bắc Việt, ông bị bọn Cai Tù Bắc Cộng tra tấn, chúng đánh ông thủng hai lỗ ở đầu, rút hết 10 móng tay ông.

Ông kể :
- Lúc đầu Bộ Trưởng Công An Bùi Thiện Ngộ và Thiếu Tướng Công An Dương Thông hỏi cung tôi, rồi đến ông Đại Tá Bùi Tín. Khi nghe tôi nói tôi là con Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, Đại Tá Bùi Tín đập bàn, quát :
- Mày nói láo. Nhà Văn Vũ Trọng Phụng làm gì có thằng con phản động như mày !
Tôi nói :
- Ông Bùi Bằng Đoàn cũng làm gì có thằng con mất dậy như Bùi Tín.
Ông ấy móc súng Côn ra dọa bắn tôi nhưng rồi ông ấy không dám bắn.
Khi ông Thầy Châm Cứu Bùi Duy Tâm ở San Francisco tổ chức chào đón Đại Tá Việt Cộng Bùi Tín đến San José, tôi đến nơi gặp. Thấy tôi, ông Bùi Tín mặt xanh rờn, tôi vỗ vai ông ta, nói :
- Đại Tá đừng sợ, đây là đất tự do, ông và tôi cùng là người đi tìm tự do.

Đại Tá Vũ Lăng kể Vũ Trọng Phụng không phải là tên thật của Nhà Văn, tên thật của Nhà Văn là Vũ Văn Tý. Tên của bà mẹ ông, bà vợ Nhà Văn, là Phụng, ông Vũ Văn Tý ghép tên bà thành bút hiệu Vũ Trọng Phụng. Ông kể bà vợ Nhà Văn, bà mẹ ông, là em gái Luật Sư Trần Văn Tuyên, em cùng cha, khác mẹ. Ông kể năm ông 9 tuổi, Luật Sư Trần Văn Tuyên nói với bà mẹ ông là đưa ông đi chơi , nhưng ông TV Tuyên lại đưa ông sang Vân Nam bên Tầu. Ông sống ở đất Tầu mấy năm cho đến khi ông gặp ông Nguyễn Mạnh Côn, ông nói rõ :
- Người về sau là Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn.

Ông kể ông Nguyễn Mạnh Côn đưa ông từ Vân Nam về Hong Kong rồi đưa ông xuống tầu biển về Singapore . Không thấy ông nói rõ ông Nguyễn Mạnh Côn có cùng về Singapore với ông hay không. Chỉ biết ông kể tới đây là mất tích ông Nguyễn Mạnh Côn. Chính quyền Singapore giúp phương tiện cho ông về Sài Gòn. Từ Sài Gòn ông lên Tòa Thánh Tây Ninh.

Ông kể :
- Ở Tây Ninh tôi gặp lại ông Trần Văn Tuyên. Ông ấy đang là Cố vấn Pháp Luật của Đức Hộ Pháp Pham Công Tắc. Ông ấy bảo tôi : « Mày đừng nói với ai mày là cháu tao. Ở đây chúng nó kỳ thị, chúng nó thù ghét Bắc Kỳ. Đừng nhận họ để khi nếu nó giết tao thì nó không giết mày, nó giết mày thì nó không giết tao. »

Tôi được Tướng Trịnh Minh Thế nhận là em nuôi, cho tôi đi học Khóa 4 Trường Sĩ Quan Đà Lạt. Năm ấy ( 1952 ) tôi nhớ Thiếu Tá Lefort là Hiệu Trưởng. Mỗi khóa Trường Võ Bị Đà Lạt cho các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo được cử 10 người theo học. Những năm 1960, 1961 có một số cán bộ, binh sĩ Việt Cộng gài lại trong Nam sau Hiệp Định Geneve được đưa ra Bắc chỉnh huấn, Tình Báo tổ chức cho tôi nhập vào những toán đó để ra Bắc hoạt động. Tôi ra Bắc năm 1961, bị bắt, bị tù đến năm 1982 mới trở về Sài Gòn.
Ngưng lời kể của Đại Tá Vũ Lăng.

*

Ai thì tôi không dzám quả quyết chứ Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn thì tôi tự cho tôi có thể nói chắc là cả đời ông – Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn – không một lần đi ra khỏi nước Việt Nam. Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn nổi tiếng một thời của Văn Chương Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử, Mối Tình Mầu Hoa Đào, Ba Người Lính Nhẩy Dù Lâm Nạn, Kỳ Hoa Tử..vv..bị bọn Bắc Công bắt Tháng Ba 1976, năm 1979 ở Trại Tù Khổ Sai Xuyên Mộc, Nhà Văn đòi bọn CS phải trả tự do cho ông, chúng không chịu trả, ông tuyệt thực. Bắt chước cách đàn áp tù nhân của bọn Nga Cộng, Tầu Cộng, bọn Cai Tù Xuyên Mộc không cho ông uống nước dến chết. Nhà Văn chết ở Trại Tù Xuyên Mộc.

Cố Luật Sư Trần Văn Tuyên có ông con là Trần Tử Thanh. Năm 1988 Trần Tử Thanh nằm phơi rốn trong Phòng 10 Khu ED Nhà Tù Chí Hòa cùng Tu sĩ Trí Siêu Lê Mạnh Thát và người anh em cùng bà vợ, với tôi là Hoàng Hải Thủy. Năm ấy ông Trần Tử Thanh, cùng ông em là Trần Vọng Quốc, bị Phản Gián P 25 nó tó vì tội « âm mưu cưa ghế chính quyền nhân rân » . Hai anh em ông cùng nằm phơi rốn trong Nhà Tù Chí Hòa. Tôi, qua điện thoại, hỏi ông Trần Tử Thanh về chuyện ông Đại Tá Vũ Lăng San José nói bà mẹ ông ta là em gái Cố Luật sư Trần Văn Tuyên, tức là bà cô ruột của ông, và như dzậy Đại Tá Vũ Lăng Vũ Trọng Khanh San José là anh em con cô, con cậu với ông, ông Trần Tử Thanh cũng đã biết về cuộc phỏng vấn của SBTN, ông kêu :
- Làm gì có chuyện đó. Bà vợ ông Vũ Trọng Phụng đâu phải là em ông cụ tôi. Gia phả giòng tộc nhà tôi không có ai tên như vậy cả. Hoàn toàn bịa đặt ! Anh em chúng tôi sẽ phải lên tiếng về vụ này.
Ông Trần Tử Thanh gửi cho tôi bức thư ngỏ :


THƯ NGỎ


Đồng kính gửi :
- Các cơ quan truyền thông, truyền hình, báo chí, các mạng Internet.
- Quí vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo, quí vị chủ tịch các đảng phái quốc gia, quí vị Chủ Tịch Công Đồng, các Tổ Chức, Hội Đoàn người Việt Quốc Gia tại hải ngoại.
- Bà con thân thuộc và Bằng Hữu của Gia Đình Cố Luật Sư Trần Văn Tuyên.
Mới đây trong cuộc phỏng vấn kéo dài 4 phần trên Đài Truyền Hình SBTN ở Quận Cam và được báo Việt Nam Exodus đưa lên mạng, có một người xưng là Vũ Trọng Khanh, tự Vũ Lăng, Cựu Đại Tá QLVNCH, tốt nghiệp Khóa 4 Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt ( ? ), con của Nhà Văn Vũ Trọng Phụng ( ? ) – không hiểu vì lý do gì - đã mạo nhận là cháu của Luật Sư Trần Văn Tuyên.
Vì sự việc có liên quan đến thân phụ và giòng tộc chúng tôi, chúng tôi xin minh xác :
1 – Họ và tên người này nêu ra trong cuộc phỏng vấn để chứng minh liên hệ với gia đình Luật Sư Trần Văn Tuyên là hoàn toàn xa lạ với gia đình chúng tôi và không có trong gia phả của giòng họ Trần.
2 – Những sự kiện liên quan đến thân phụ chúng tôi là những sự kiện hoàn toàn bịa đặt một cách trắng trợn.
Tất nhiên khi tạo dựng những sự kiện nêu trên, người được phỏng vấn hẳn có mưu đồ đen tối nào đó.
Vì vậy, chúng tôi xin gửi bức thư ngỏ này thông báo tới toàn thể bà con trong gia tộc, các bằng hữu quen biết gia đình chúng tôi, cùng mọi giới để cảnh giác đề phòng và tránh mọi ngộ nhận trong tương lai.
Thay mặt gia đình Cố Luật Sư Trần Văn Tuyên.
Luật Sư Trần Tử Huyền, Trưởng Nam.
California, ngày 17 Tháng Hai năm 2008.

*

Trước năm 1975 giới ca-ve Sài Gòn có cô Lan, biệt hiệu Lan Khùng, nói cô là con ông Nhà Văn Lê Văn Trương. Năm 1980 ở Sài Gòn có ông Lê Khiêm nhận là con Nhà Văn Lê Văn Trương.
Năm 1990 ở Hà Nội có ông Mạc Can, ông này viết tiểu thuyết, nghe nói là con Nhà Văn Lê Văn Trương.
Năm 1976 ở Sài Gòn Cờ Đỏ tôi gặp người xưng tên là Vũ Trọng Khanh, nhận mình là con trai ông Nhà Văn Vũ Trọng Phụng.
Năm 2008 ở Kỳ Hoa, tôi thấy ông Vũ Trọng Khanh thứ hai tự nhận mình là con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng. Ông Vũ Trọng Khanh San José còn tự nhận ông là Đại Tá và là cháu ruột Cố Luật Sư Trần Văn Tuyên.
Tôi đã kể những gì tôi biết về nhân vật Vũ Trọng Khanh. Xin để quí vị nhận định về vụ này.

CÔNG TỬ HÀ ĐÔNG

----- Forwarded Message -----
Ngày 22 Tháng 11 Năm 2012

Chúng tôi trả lời ông Kim Âu về những vấn đề liên quan đến thân phụ của chúng tôi là cố văn hào Vũ Trọng Phụng và bác của chúng tôi là ông Vũ Hồng Khanh và VNQDĐ. Chúng tôi cũng đính kém hai bài viết : Lên Tiếng của Gia Đình Vũ Trọng Phụng về bài viết Nhìn Lại Vũ Trọng Phụng của Hội Nhà Văn của chế độ Cộng Sản Việt Gian bán nước. Máy của chúng tôi sử dụng pages nên sẽ bị corrupted với PC cho nên chúng tôi phải chuyển đổi thành PDF.

    Bà Vũ Mỹ Lương không có tên gọi là bà Gái và cũng không hề là con  gái của ông Cữu Tích ( do người vợ thứ tư sinh hạ ). Như vậy, thông tin mà ông Kim Âu có được hoàn toàn không đúng sự thật.
    Bà Vũ Mỹ Lương có thuộc về một gia đình chỉ chuyên nghề bán thuốc cam tích tán ở tại căn nhà riêng của bà Cả Giảng là chị của bà Vũ Mỹ Lương tại phố Hàng Bạc chứ không thuộc một gia đình tư sản có cửa hàng thuốc ở phố Hàng Bạc. Nếu là một nhà tư sản có cửa hàng thuốc thì phải mở tại phố thuốc Bắc có tên Lãn Ông.
    Bố Vũ Trọng Phụng của chúng tôi chỉ chính thức cưới vợ  một lần vào năm 1929 khi bố chúng tôi cưới bà Trần Thị Kim Phụng và sinh hạ anh Vũ Trọng Khanh còn được gọi là Vũ Thiếu Lăng vào ngay 1 tháng 1 năm 1930.
    Khi bố của chúng tôi chớm mắc bệnh lao vào năm 1934 ông bà ngoại của anh Vũ Trọng Khanh buộc bà Trần Thị Kim Phụng mang anh Vũ Trọng Khanh về Tuyên Quang để tránh bị lây bệnh. Mẹ đẻ của anh Vũ Trọng Khanh là bà Trần Thi Kim Phụng  không chịu nhưng với sức ép của gia đình, bà Trần thị Kim Phụng đã quyết lên chùa Bò quy y cửa Phật để ông bà ngoại của anh Vũ Trọng Khanh không làm cho vấn đề trở nên phức tạp và đau lòng hơn. Từ năm 1935 anh Vũ Trọng Khanh trở thành một đứa trẻ thiếu vắng người mẹ và côi cút. Đến năm 1936 chứ không phải là năm 1938 ( như những gì chế độ cộng sản rêu rao) thì cố văn hào Vũ Trọng Phụng mới chịu nghe lời bà Phạm Thị Khách lấy người vợ lẽ để chăm sóc cho anh Vũ Trọng Khanh và bà Vũ Mỹ Lương đã nhận lời về làm vợ lẽ bố chúng tôi và làm mẹ kế của anh Vũ Trọng Khanh. Chúng tôi không sống ở phố Hàng Bạc vì căn nhà đó là của bà Cả Giảng, chị ruột của bà Vũ Mỹ Lương. Chúng tôi sống ở phố Cầu mới quận Ngã tư Sở thuộc tỉnh Hà Đông. Thông tin của ông Kim Âu hoàn toàn không đúng sự thật.
    Gia đình cố văn hào Vũ Trọng Phụng chỉ còn lại một mẹ già là bà Phạm Thị Khách, tức là bà nội của anh Vũ Trọng Khanh. Khi ông Kim Âu viết: Ông ( Vũ Trọng Phụng )mất ngày 13 tháng 10 năm 1939, khi mới 27 tuổi, để lại gia đình còn bà nội, mẹ đẻ, vợ và người con gái chưa đầy 1 tuổi tên là Vũ Mỹ Hằng. Thông tin này hoàn toàn không đúng sự thật bởi vì ông nội và bà nội của bố anh Vũ Trọng Khanh đã chết 20 năm trước khi bố của anh Vũ Trọng Khanh cưới bà Phạm Thị Khách. Những người trong dòng họ của bà Phạm Thị Khách tức bà nội của anh Vũ Trọng Khanh đều là những đảng viên của VNQDĐ.
    Khi cuộc khởi nghĩa thất bại, Nguyễn Thái Học lên đoạn đầu đài còn ông Vũ Hồng Khanh đào thoát sang Trung Hoa móc nối với các đồng chí tiếp tục hoạt động cũng vào năm 1930 và vẫn là lãnh đạo của Việt Nam Quốc dân đảng chứ không hề trở thành lãnh đạo mới của VNQDĐ. Ông Vũ Hồng Khanh ( tên thật là Vũ Văn Giản) là cháu ruột của ông Nguyễn Hải Thần ( tên thật là Vũ Hải Thu ). Chúng tôi thiết nghĩ chỉ những người trong gia tộc mới biết rõ những điều này và ông Vũ Hồng Khanh đã sống với ông Nguyễn Hải Thần, ông Hồ Học Lãm, ông Nguyễn Thượng Hiền, Vũ Quang Tài, Vũ Bá Phẩm, Phạm Hồng Thái, Lê Tán Anh từ năm 1930.
    Việt Nam Cách mạng Đồng Minh Hội là do ông Nguyễn Hải Thần và ông Trương Bội Công thành lập từ những năm 1917 sau khi mặt trận của ông Đội Cấn bị Pháp triệt hạ. Ông Nguyễn Hải Thần là bạn đồng chí với ông Phan Bội Châu và đã lưu vong sang Trung Hoa từ những năm 1900 và trở thành anh em kết nghĩa với ông Tôn Dật Tiên. Ông Nguyễn Hải Thần cũng là bạn học với ông Tưởng Giới Thạch ở bên Nhật tại Trường Chấn Võ Sĩ Quan Quan Quân Học Hiệu.  Ông Trương Bội Công lúc bấy giờ đã là Trung tướng trong quân đội của Nhật hoàng. Giây mơ rể má là do Kỳ Ngoại hầu Cường Để được một công chúa Nhật thương yêu và được làm phò mã của Nhật Hoàng cho nên Phong trào Đông du mới thành hình được. Ông Trương Bội Công là chú ruột của ông Trương Bội Hoàng và ông Trương Bội Hoàng là bố đẻ của ông Trương Tử Anh. Với giây mơ rễ má này mà ông Vũ Hồng Khanh đã chấp thuận để VNQDĐ và Đại Việt thống nhất làm một. Sở dĩ có tên Việt nam Cách mạng Đồng minh Hội là bởi vì những đồng minh của ông Nguyễn Hải Thần là người Trung Hoa và người Nhật trong đó có ông Tôn Dật Tiên, ông Tưởng Giởi Thạch, Khuyển Dưỡng Nghị, Trương bội Công ( Tướng Nhật  )Như vậy ông Vũ Hồng Khanh không hề thành lập Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội vào năm 1942 tại Liễu châu. Thông tin mà ông kim Âu có hoàn toàn không đúng sự thật.
    Đến cuối năm 1941 ông Trần văn Tuyên bị Pháp truy bức( một đảng viên của VNQDĐ) đến đường cùng đã phải giả dạng làm một bà nhà buôn và ông đã xin với mẹ của tôi (Vũ Trong Khanh ) đang tu tại chùa Bò cho phép ông đưa tôi đi trốn cùng ông để tránh sự nghi ngờ của mật vụ Pháp bởi vì không ai nghi ngờ một mụ đàn bà đi buôn dắt theo một đứa trẻ con để phụ giúp(Vũ Trọng Khanh  11 tuổi gần 12 tuổi ). Thế là tự nhiên tôi ( Vũ Trọng Khanh ) trở thành một giá trị lợi dụng cho những nhà cách mạng mà những người này có máu mủ ruột thịt với tôi.
    Sau khi đảng trưởng Nguyễn Thái Học bị Pháp giết ông Vũ Hồng Khanh luôn giữ chức vụ Bí Thư Trưởng và không hề có sự thay đổi. Không hề có mặt trận QDĐ mà chỉ có những đảng viên QDĐ. Ông Nguyễn Tường Tam có tham vọng riêng và đã lợi dụng Việt Nam Cách mạng Đồng Minh Hội nhưng ông Nguyễn Tường Tam chưa bao giờ được tuyên thệ làm một đảng viên của VNQDĐ. Do đó mà ông Nguyễn Tường mới bị lão Ba Vương Nguyễn Tất Thành lợi dụng và cả hai đã bị quân đội của Tưởng giới Thạch là Tướng Trương Phát Khuê  bắt giải về Liễu châu. Và, ông Vũ Hồng Khanh là người đã cứu hai kẻ phản bội này.
    Ông Vũ Hồng Khanh không hề có mặt tại phố Ôn Như Hầu vào năm 1945. Lúc đó ông Vũ Hồng Khanh đang ở tại số 80 Phố Quan Thánh và tôi, Nguyễn Hữu Thanh và Tô Trọng Khoa  cũng có mặt tại đó. Năm 1945 tôi ( Vũ Trọng Khanh) được 15 tuổi. Do bị mật thám Pháp truy lùng tất cả các đảng viên VNQDĐ đều không thể ra mặt hoạt động cho nên phải sử dụng những đứa trẻ bằng tuổi tôi hoặc lớn hơn vài tuổi trong đó có anh Tô Trọng Khoa, Nguyễn Hữu Thanh, Bằng Xồm, Phạm Xuân Chiểu, Tôn Nữ Lệ Hà, Phạm Văn Liễu và còn nhiều nữa.
    Nếu muốn biết thêm nhiều chi tiết thật về nguyên nhân thành lập chính phủ Hiên Hiệp và tại sao có vụ án Ôn Như Hầu, xin quý vị chờ đón đọc toàn bộ sách: Truyện của Đời Tôi của tác giả Vũ Trọng Khanh tức Đại tá Vũ Lăng.
    Chúng tôi không trách cứ thái độ vô lễ của những hậu bối khi viết “ Vậy thì ông Vũ Lăng con nhà văn Vũ Trọng Phụng và cứ cho là cháu ông Vũ Hồng Khanh làm thư ký và liên lạc viên cho ông Vũ Hồng Khanh lúc mấy tuổi vậy? 12, hay 13? Không lẽ VNQDĐ hết nhân sự rồi hay sao mà phải dùng trẻ con làm thư ký riêng, cán bộ giao liên cho Bí thư trưởng. “ Tại sao quý vị không đặt ngược lại vấn đề để thương cảm cho những đứa trẻ như chúng tôi thời đó? Làm thư ký riêng và làm cán bộ giao liên cho những nhà cách mạn thời đó là làm cái gì?
    Chúng tôi thiết nghĩ không có những anh hùng tí hon này qua mặt bọn mật thám Pháp để thông tin cho nhau bằng những ngày dài chạy bộ hàng chục cây số với cái bụng đói meo thì VNQDĐ đã bị tận diệt từ năm 1930 rồi không còn có cơ hội để cho quý vị tỏ thái độ như thế, phải không?
    Chúng tôi chỉ buồn là đến thế hệ của quý vị rồi mà cũng không biết sử dụng cái đầu độc lập của mình để suy xét vấn đề mà cứ tiếp tục tin theo những dối láo của những bài viết trong quá khứ hay trong hiện tại. Tôi, Vũ Trọng Khanh là cháu của ông Vũ Hồng Khanh thế thì tại sao cứ phải cho là cháu của Vũ Hồng Khanh cũng như tôi, Vũ Trọng Khanh là con trai duy nhất của cố văn hào Vũ Trọng Phụng, tại sao tôi phải tự nhận là con trai của một người nghèo kiết xác vfa chết vị bệnh ho lao không có tiền để chữa bệnh?


Dương Thị Phương Hằng & Đại Tá Vũ Lăng
Kính chị Hằng

Tôi cũng có liên quan chút chút với VNQDĐ nên có một vài thắc mắc nhờ chị cho biết .
Nhà văn Vũ Trọng Phụng sinh ngày 20 tháng 10 năm 1912, quê ở làng Hảo, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên nhưng ông sinh ra, lớn lên và mất tại Hà Nội. chết năm 1939. Vợ ông, bà Vũ Mỹ Lương, tên thường gọi là bà Gái, là con người vợ thứ tư của cụ Cửu Tích, một nhà tư sản có cửa hàng thuốc ở phố Hàng Bạc. Sau khi làm đám cưới vào ngày 23 tháng 1 năm 1938, hai vợ chồng đã cùng thuê nhà ở phố Hàng Bạc.
Ông mất ngày 13 tháng 10 năm 1939, khi mới 27 tuổi, để lại gia đình còn bà nội, mẹ đẻ, vợ và người con gái chưa đầy 1 tuổi tên là Vũ Mỹ Hằng.
Ngày 13 tháng 2 năm 1930, ông Vũ Hồng Khanh là một trong những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc dân đảng ở Kiến An (Hải Phòng) [1]. Khi cuộc khởi nghĩa thất bại, Nguyễn Thái Học lên đoạn đầu đài còn ông đào thoát sang Trung Hoa móc nối với các đồng chí tiếp tục hoạt động và trở thành lãnh đạo mới của Việt Nam Quốc dân đảng.
Năm 1942 tại Liễu Châu (Trung Hoa), Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ (Quốc dân đảng), Nguyễn Tường Tam (Đại Việt Dân chính đảng), Nguyễn Hải Thần thành lập Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội, thường được gọi tắt là Việt Cách.
Ngày 1 tháng 9 năm 1945, ông từ Côn Minh về nước qua ngả Mường Khương, vào Lào Cai.
Do cần phải hợp tác để đối phó với Việt Minh ngày 15 tháng 12 năm 1945 các đảng phái chống Việt Minh đã thống nhất thành lập một lực lượng gọi là Mặt trận Quốc dân Đảng. Vũ Hồng Khanh giữ chức Bí thư trưởng tổ chức này.
Ngày 2 tháng 3 năm 1946 ông tham gia Chính phủ liên hiệp kháng chiến và đảm nhận chức vụ Phó Chủ tịch Kháng chiến Ủy viên hội (sau đổi là Ủy ban Kháng chiến). Ông cùng Hồ Chí Minh đã ký với Jean Sainteny Hiệp định sơ bộ 1946.
Tháng 7 năm 1946, xảy ra vụ án phố Ôn Như Hầu ở Hà Nội, lực lượng công an khám xét các trụ sở của Việt Nam Quốc dân đảng, phát giác nhiều vũ khí, truyền đơn hiệu triệu chống chính phủ (do Việt Minh dàn dựng). Tuy nhiên theo Việt Nam Quốc dân Đảng, trụ sở ở phố Ôn Như Hầu chỉ là một chỗ làm việc bình thường của Việt Nam Quốc dân Đảng bị tấn công trong lúc không nghĩ là mình sẽ bị tấn công và các đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng không có vũ khí nặng nào. Vũ Hồng Khanh và các lãnh đạo các đảng phái chống Việt Minh như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam phải trốn sang Trung Hoa.
Vậy thì ông Vũ Lăng con nhà văn Vũ Trọng Phụng và cứ cho là cháu ông Vũ Hồng Khanh làm thư ký và liên lạc viên cho ông Vũ Hồng Khanh lúc mấy tuổi vậy? 12, hay 13? Không lẽ VNQDĐ hết nhân sự rồi hay sao mà phải dùng trẻ con làm thư ký riêng, cán bộ giao liên cho Bí thư trưởng.
Chị có thể viết rõ thêm về đoạn này được không?

Trân trọng
Kim Âu


Kính chị Hằng

Tôi cũng có liên quan chút chút với VNQDĐ nên có một vài thắc mắc nhờ chị cho biết .
Nhà văn Vũ Trọng Phụng sinh ngày 20 tháng 10 năm 1912, quê ở làng Hảo, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên nhưng ông sinh ra, lớn lên và mất tại Hà Nội. chết năm 1939. Vợ ông, bà Vũ Mỹ Lương, tên thường gọi là bà Gái, là con người vợ thứ tư của cụ Cửu Tích, một nhà tư sản có cửa hàng thuốc ở phố Hàng Bạc. Sau khi làm đám cưới vào ngày 23 tháng 1 năm 1938, hai vợ chồng đã cùng thuê nhà ở phố Hàng Bạc.
Ông mất ngày 13 tháng 10 năm 1939, khi mới 27 tuổi, để lại gia đình còn bà nội, mẹ đẻ, vợ và người con gái chưa đầy 1 tuổi tên là Vũ Mỹ Hằng.


Ngày 13 tháng 2 năm 1930, ông Vũ Hồng Khanh là một trong những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc dân đảng ở Kiến An (Hải Phòng) [1]. Khi cuộc khởi nghĩa thất bại, Nguyễn Thái Học lên đoạn đầu đài còn ông đào thoát sang Trung Hoa móc nối với các đồng chí tiếp tục hoạt động và trở thành lãnh đạo mới của Việt Nam Quốc dân đảng.
Năm 1942 tại Liễu Châu (Trung Hoa), Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ (Quốc dân đảng), Nguyễn Tường Tam (Đại Việt Dân chính đảng), Nguyễn Hải Thần thành lập Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội, thường được gọi tắt là Việt Cách.
Ngày 1 tháng 9 năm 1945, ông từ Côn Minh về nước qua ngả Mường Khương, vào Lào Cai.
Do cần phải hợp tác để đối phó với Việt Minh ngày 15 tháng 12 năm 1945 các đảng phái chống Việt Minh đã thống nhất thành lập một lực lượng gọi là Mặt trận Quốc dân Đảng. Vũ Hồng Khanh giữ chức Bí thư trưởng tổ chức này.
Ngày 2 tháng 3 năm 1946 ông tham gia Chính phủ liên hiệp kháng chiến và đảm nhận chức vụ Phó Chủ tịch Kháng chiến Ủy viên hội (sau đổi là Ủy ban Kháng chiến). Ông cùng Hồ Chí Minh đã ký với Jean Sainteny Hiệp định sơ bộ 1946.
Tháng 7 năm 1946, xảy ra vụ án phố Ôn Như Hầu ở Hà Nội, lực lượng công an khám xét các trụ sở của Việt Nam Quốc dân đảng, phát giác nhiều vũ khí, truyền đơn hiệu triệu chống chính phủ (do Việt Minh dàn dựng). Tuy nhiên theo Việt Nam Quốc dân Đảng, trụ sở ở phố Ôn Như Hầu chỉ là một chỗ làm việc bình thường của Việt Nam Quốc dân Đảng bị tấn công trong lúc không nghĩ là mình sẽ bị tấn công và các đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng không có vũ khí nặng nào. Vũ Hồng Khanh và các lãnh đạo các đảng phái chống Việt Minh như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam phải trốn sang Trung Hoa.
Vậy thì ông Vũ Lăng con nhà văn Vũ Trọng Phụng và cứ cho là cháu ông Vũ Hồng Khanh làm thư ký và liên lạc viên cho ông Vũ Hồng Khanh lúc mấy tuổi vậy? 12, hay 13? Không lẽ VNQDĐ hết nhân sự rồi hay sao mà phải dùng trẻ con làm thư ký riêng, cán bộ giao liên cho Bí thư trưởng.
Chị có thể viết rõ thêm về đoạn này được không?

Trân trọng
Kim Âu

----- Forwarded Message -----
From: Michelle Duong
Wednesday, November 21, 2012 10:53 PM
Subject: [ChinhNghiaViet] DTPH góp ý về VNQDĐ và Đại Việt QDĐ:: (CHÍNH NGHĨA): TNHH: CÓ MA KHÔNG? [1 Attachment]


Chào chị TNHH,

1) Chúng tôi là những đảng viên kỳ cựu của VNQDĐ cùng lưu vong sang Trung hoa với ông Vũ Hồng Khanh sau khi đảng trưởng Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí bị lên đoạn đầu đài tại Yên Báy. Chúng tôi xin khẳng định về hai đảng lớn duy nhất còn lại tại miền Nam Việt Nam sau năm 1954: VNQDĐ và Đại Việt. Đại Việt do ông Trương Tử Anh thành lập nhưng vào năm 1942 ông Trương tử Anh đã sang Trung Hoa xin gặp ông Vũ Hồng Khanh tại Vân Nam và xin được sát nhập Đại Việt với VNQDĐ và đã được ông Vũ Hồng Khanh chuẩn thuận để thống nhất làm một. Tại hải ngoại lúc bấy giờ vẫn giữ tên Việt Nam QDĐ, và ở trong quốc nội vẫn giữ tên Đại Việt bởi vì Đại Việt là danh xưng của tổ quốc Việt Nam lúc đó, Hoàng đế Bảo Đại vẫn xưng là Hoàng đế của Đại Việt. Anh Vũ Trọng Khanh tức  Đại tá Vũ Lăng là cháu ruột của ông Vũ Hồng Khanh lúc bấy giờ đang sống lưu vong bên Trung Hoa vừa làm thơ ký riêng và vừa làm cán bộ giao liên cho cho ông Vũ Hồng Khanh và ông Nguyễn Hải Thần. Chính anh Vũ Trọng Khanh đã chứng kiến và ghi chép buổi họp giữa ông Vũ Hồng Khanh và ông Trương Tử Anh. Kể từ ngày đó VNQDĐ và ĐẠI VIỆT đã trở thành một.

2) Đến năm 1945 Trương Tử Anh bị Việt Minh giết và người kế nhiệm ông Trương Tử Anh là anh Lê Ninh nhưng không bao lâu sau anh Lê Ninh bị thủ tiêu và Đại Việt đã rẻ sang một lối khác với những người đảng viên thích quyền lực cho tới bây giờ.

3) VNQDĐ từ khởi thủy không hề có phân hóa cho nên không có những hệ phái như chị TNHH nêu ra trong bài viết dưới đây: Có MA không? VNQDĐ chỉ có một danh xưng là VNQDĐ thống nhất bởi vì sau khi tổ quốc Việt Nam bị Hồ Chí Minh bắt tay với Pháp để dành quyền cai trị và Hồ Chí Minh đã chấp nhân chia đôi đất nước ra làm hai quốc gia khác biệt về thể chế chinh trị cũng như hình thức cai trị nhân dân. Ở tại miền Bắc VN số đảng viên QDĐ vẫn còn những cơ sở hạ tầng chưa chạy được vào miền Nam từ năm 1945-1954.

4) Sau năm 1954 ông Vũ Hồng Khanh đã thống nhất  Kỳ bộ miền Bắc do ông Vũ Hồng Khanh lãnh đạo với Xứ bộ miền Nam do ông Nguyễn Hòa Hiệp lãnh đạo. Sau khi thống nhất kỳ bộ miền Bắc với Xứ bộ miền Nam ông Vũ Hồng Khanh được bầu giữ chức vụ  Bí thư trưởng của VNQDĐ thống nhất và ông Nguyễn Hòa Hiệp giữ chức vụ Bí thư Thường vụ và LS Trần Văn Tuyên giữ chức vụ Tổng Thư Ký. Sau khi đảng trưởng Nguyễn Thái Học bị Pháp giết tất cả các đảng viên của VNQDĐ cùng thời với ông Nguyễn Thái Học đã thề quyết không bầu ai vào chức vụ đảng trưởng nữa nhằm mục đích giữ vững lòng trung kiên với lý tưởng và ngọn cờ mà đảng trưởng  Nguyễn Thái Học đã phất lên.

4) Ông Nguyễn Tường Tam có tham vọng riêng và chưa bao giờ là đảng viên của VNQDĐ. Chỉ có ông Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long là đảng viên trung kiên của VNQDĐ.

5) Khi ra tới Hải ngoại chúng tôi đã biết có những kẻ tự xưng là VNQDĐ và đã làm những điều xấu xa chỉ vì những tham vọng hảo huyền. Những người này không hề biết đến những hy sinh lớn lao của những bậc tiền bối. Chúng tôi tin rằng một viên ngọc dù cho có vỡ nát thì giát ngọc vẫn trong. Một cục đất sét dù cho có vo ve thành viên ngọc thì đất sét vẫn hoàn đất sét. Vài hàng thân kính gởi đến chị TNHH, một người phụ nữ có nhiều tâm huyết với chiều dài và bề dày của Lịch sử đầy máu và nước mắt của tiền nhân. Chúng tôi rất trân trọng và quý mến chị.

DuongThiPhuongHang 1476 & Đại tá Vũ Lăng




    --- On Wed, 11/21/12, TonNuHoangHoa wrote:




        Date: Wednesday, November 21, 2012, 5:12 PM

       
        Dạ xin cảm ơn chị DTPH đã bổ khuyết Khi có người đặt câu hỏi có ma không ? thì có người nói có, cũng có người nói không. Nhưng câu hỏi được chuyễn đến mọi người có cùng một hơi thở trên hai tầng không khí khác nhau. Một của cuộc sống bên ngoài và một của cõi riêng mình thì câu trả lời lại thấp thoáng vào con đường giáo lý của tôn giáo về hai phần thể xác và linh hồn.
               
                Trong phần thể xác còn có khuôn dạng của bóng dáng con người cùng với cuộc sống trôi nỗi dập dồn và với cái lý của nhân quả đó là một cuộc vay trả nợ đời.
               
                Chuyện của tôi không nằm trong sự chết có linh hồn mà trong cái nghiệt ngã không có sự luân chuyễn di động của một người quen vừa mới chết
               
                Hai hay ba năm trước Đại tá T. ở Oregon có gọi cho tôi và yêu cầu tôi gọi cho bác Đoàn Thái vì bác Thái muốn nói chuyện với tôi.
               
                Tôi gọi bác Thái. Trong khoảng thời gian này tình trạng sức khỏe của bác Thái cũng không khả quan lắm. Bác nói với tôi về Đảng Đại Việt của Bác và chê trách ông Hà Thúc Ký tại sao lại giao Đại Việt cho ông Bùi Diễm mà theo bác Thái Bùi Diễm là một tên Việt gian
               
                Bác Thái bảo với tôi là bác đã theo dõi bài viết của tôi từ ngày chúng tôi chủ trương Tạp Chí Gọi Nhau (1989). Bác khích lệ tôi đã chịu khó học hỏi nên đã tiến tời nhiều trong việc viết văn. Tôi cảm ơn lời khích lệ của bác và cũng không quên nói cho bác Thái biết là tôi không thích tham gia và tham dự vào chuyện của các đảng phái. Trong ý nghĩ đơn giãn của tôi từ khi hiểu biết chuyện nước non thì hình thức 2 chữ Đảng phái đồng nghĩa với 2 chữ phân hóa
               
                Bác Thái không cần biết tôi thích nghe hay không, bác vẫn nói và còn bảo tôi là : Tôi nói cho cô biết để sau này tôi chết đi cô viết cho tôi một bài
               
                Tôi nghe lời bác Thái nói mà bỗng tức cười cho tôi là đã trở thành Công Ty Viết hồi nào mà lại đang nhận phiếu đặt hàng. Bác Thái bên kia dòng điện thoại nhắc tôi có nghe không mà sao im lìm quá vậy? Dạ cháu đang nghe xin bác nói tiếp
               
                Bác Thái lại nói tiếp trong khi đó tôi nghe lời bác Thái gái bên cạnh nhắc nhở bác từ từ kẽo ngột thở.
               
                Mô Phật ! tôi lạnh toát cả người cho nên tôi để bác Thái nói hết mà không dám xen vào
               
                Bác chê trách ông Hà Thúc Ký bởi cái lý do là ông Ký đã đưa Đảng Đại Việt cho VG Bùi Diễm. Bác bảo Đại Việt cách Mạng Đảng  là do ông Trương Tử Anh sáng lập với Cương Lĩnh Dân Tộc Sinh tồn gồm có 3 sứ bộ Bắc Kỳ Trung kỳ và Nam Kỳ. Trung Kỳ do ông Bửu Hiệp nắm, Nam Kỳ là do ông Nguyễn Hòa Hiệp Khi ông Bửu Hiệp chết thì ông Hà Thúc Ký tự động lên thay thế .
               
                Còn ông Bùi Diễm lúc bấy giờ tự xưng là Đại Việt Quan Lại. Bác Thái bảo là ông HTK xách ông Bùi Diễm về làm chủ tịch là từ nguyên nhân buôn bán Computer của ông Hoàng Tuấn. Ông Tuấn mách mối cho ông Ký và ông Ký mời gọi ông Bùi Diễm hùn với ông Tuấn mỗi người $50,000 đô la. Bác Thái còn nói lúc đó có mời cố TT Thiệu nhưng ông Thiệu từ chối. Sau này ông Tuấn cho ông Ký và ông Bùi Diễm cả triệu đô la chia nhau. Đó là lý do ông Bùi Diễm nhảy vào làm chủ tịch. Trong khi đó người mà bác Thái quí mến nhất là BS Hồ Văn Châm. Bác nói tại sao ông Ký không đưa cho ông Châm mà lại đưa cho tên VG Bùi Diễm ?
               
                Bác Thái còn nói đến chuyện chiến khu Ba Lòng cùng chuyện Đại Tá Huỳnh Văn Tồn cứu ông Hà Thúc Ký
               
                Tôi nghe xong rồi cũng quên. Nhất là khi Bác Thái nói về ông Hà Thúc Ký mà không biết bác Thái có biết là anh Hà Thúc Ký là anh em cô cậu ruột với tôi không?
               
                Đôi khi, tôi nghĩ con người thường hay làm tù nhân của chính mình đi từ dòng suy nghĩ tương phản nín nhịn  trên sự suy tư qua nhiều dòng diễn tiến để đi đến một số định lý qua một lối thẳng, nhiều giai đoạn rồi từ đó tự giãi đáp cái ẩn số của phương trình
                Từ đó tôi cũng ít gọi bác Thái. Cho đến một hôm cách đây vài tuần, tự nhiên trong sự suy nghĩ của tôi có Bác Thái. Tôi định sẽ gọi thăm bác nhưng trước khi gọi bác tôi lại gọi cho Đại tá T ở Oregon muốn hỏi xem bác Thái dạo này ra sao ?
               
                Tiếng ĐT T. bên kia rõ mồm một : Ổng chết rồi chị ơi ! chết gần hai năm rồi . Nếu tôi nhớ không lầm thì ngày giỗ của ông ấy hôm nay hay vài ngày qua tôi không rõ
               
                Mô Phật. Tôi sợ gần chết. Mới đó mà gần hai năm. Tôi lật đật vào Cell phone để delete tên của Bác trong contact list nhưng không biết tại sao tên và phone của Bác  vẫn còn trong contact list cho đến bây giờ
               
                Tôi nhớ lại lời bác Thái bảo tôi viết về lời bác nói. Tôi đã hoàn thành hôm nay để không còn mắc nợ ngừơi chết Tuy nhiên đối với tôi chuyện Đảng phái tôi chưa bao giờ cảm thấy hãnh diện để nghe, chỉ trừ khoảng thời gian hào hùng khí phách của 2 đảng Việt Nam QDĐ và Đại Việt Quốc dân đảng từ 1945-1955.
               
                Sau này tìm hiểu thêm về thực trạng và nhu cầu kết hợp của các đảng phái tôi lại buồn hơn. Như đã có lần chúng tôi đã thưa cùng quí vị là sự ổn định của chính trị rất cần thiết để phát triễn xã hội hay nói rõ ra sự ổn định chính trị rất cần thiết cho sự giữ vững thành trì chống Cộng của Tập Thể Ngừơi Việt QG tại hải ngoại
               
                Từ năm 1964- 1967 theo một thống kê cho biết Chính thể Đệ Nhị VNCH có đến 33 đảng phái trong 33 danh xưng có Phong Trào , Lực Lượng, Mặt Trận, Đảng , Khối Đoàn.
               
                Hiện tượng đa đảng này trên chính trường lúc bấy giờ không thấy có những việc làm gì ích quốc lợi dân mà tệ trạng phân hóa càng ngày càng lên cao trên mục tiêu để "dành ghế" trong chính quyền.
               
                Thậm chí có những nhà gọi là chính trị đảng phái cũng mom men đến cửa Chùa hay cổng nhà thờ nhờ oai lực của các vị lãnh đạo tôn giáo để có được những “cái ghế” này. Từ Khối Chùa Xá Lợi với Hội Phật Học Nam Việt rồi Việt Nam Quốc Tự, Ấn Quang miền Vĩnh Nghiêm đến Khối Công Giáo Chính trị cũng chia ra Lực Lượng Đại Đoàn Kết , Công Giáo Tiến Hành, Mặt Trận Công Dân Công Giáo vân vân và vân vân
               
                Trong khi đó hai đảng kỳ cựu là Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt Quốc Dân Đảng thì tình trạng phân hóa càng ngày càng tăng như Việt Nam Quốc Dân Đảng(VNQDĐ) trong thời kỳ này lại chia ra làm 10 hệ phái(*) như:
                - VNQDD Trung Ương cả Tiến
                - VNQDD Trung Ương Lâm Thời
                - VNQDD Thống Nhất
                - VNQDD Chủ Lực
                - VNQDD Tân Chính
                -VNQDĐ Xứ Bộ Miền Bắc
                -VNQDĐ Xứ Bộ Miền Trung
                -VNQDĐ Xứ Bộ Miền Nam
                -VNQDĐ Biệt Bộ Nguyễn Tường Tam
                -VNQDĐ Liên Tỉnh Miền Trung
               
                Về phía Đại Việt đảng này cũng phân hóa thành 5 phe:
                -Tân Đại Việt (Nguyễn Tôn Hoàn, Phan Thông Thảo, Nguyễn Ngọc Huy)
                -Đại Việt Cách Mạng Đảng (Hà Thúc Ký, Hoàng Xuân Tửu)
                -Đại Việt Nguyên Thủy(Trần Văn Xuân)
                -Đại Việt Quan Lại (Phan Huy Quát, Đặng Văn Sung)
                -Đại Việt Thống Nhất (Nguyễn Đình Luyện)
               
                Ngoài ra, ở miền Nam có Đảng Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng gọi tắt là Dân Xã Đảng cũng chia thành 3 nhánh cùng tên đảng nhưng khác tên của lãnh tụ:
                -Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng(Trình Quốc Khánh)
                -Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng( Phạm Bá Cần)
                -Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng( Trịnh Kim Cù)
               
                Theo tài liệu chúng tôi đọc được của một tác giả xuất thân từ Trường Quốc Gia Hành Chánh VNCH thì ngoài 54 tên của đảng có khai báo còn có rất nhiều tổ chức đảng phái chính trị khác
               
                Ra tới hải ngoại thì sự phân hóa này lại càng trầm trọng hơn. Một số thành viên chân chính của các đảng phái này tự cho mình là "kẽ dại" đã lặng lẽ đi vào nơi yên tĩnh để cho những người “khôn“đang tìm chủ nghĩa cơ hội vẫn ở chốn "lao xao". Có một lần tôi hỏi một vị sĩ quan của Quân Lực VNCH về đảng Đại Việt mà ông là đảng viên thì ông lắc đầu ngao ngán bảo tôi là đừng có hỏi nữa.
                Bây giờ nói chuyện đảng phái giống như nồi cháo heo. Tự nhiên tôi cảm thấy vô cùng tiếc nuối như vừa vụt mất một bảo vật
               
                Trong khi đó một số tự xưng là “con dòng cháu giống của VNQDĐ”, là lãnh tụ hải ngoại thì lại đi bắt tay với đảng Việt Tân là hậu thân của MTQGTNGPVN (Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam ( gọi nôm na mặt Trận Hoàng Cơ Minh) đã được thành lập tại cái nôi xôi đậu Bá Linh. Một đảng phái mà theo sự suy nghĩ của phần đông Người Tỵ nạn cs tại hải ngoại cho là ngoại vi của đảng csVN.
               
                Chính sự suy nghĩ này mà người tỵ nạn cs tại hải ngoại đã nhìn những khuôn mặt tổ chức đảng phái như một hóa thân kỳ diệu của một dáng dấp liêu trai mờ mờ ảo ảo không có tượng hình.
               
                Thật ra , người Việt tỵ nạn cs cũng có thể nhìn ra khuôn mặt của đảng phái nhưng ngoài sự phân hóa ra họ đã trở thành những con thuyền có bến nhưng đã quên con suối cội nguồn ,quên đi những dòng lịch sử oai hùng chuyễn tải những tinh thần đề kháng chống VGCS để biến hình thành dạng yêu ma theo phù thủy VGCS đọc bùa chú úm bà la úm bà la bán nước hại dân . Vì ẩn hiện mập mập mờ mờ qua những cương lĩnh đấu tranh đầu voi đuôi chuột đã làm người dân mất hết niềm tin
               
                Trong khi người dân chỉ có một ước mơ thầm lặng duy nhất là được nhìn thấy một kết hợp giữa những cảm nhận, những cảm thấy của những trái tim VN tỵ nạn cs và không phải bị "ràng buột bên những biên cương thống khổ của đảng phái này hay đảng phái nọ"
               
                Những ước mơ đó rất bình thường, rất giản dị nhưng lại vô cùng khó khăn khi cả tập thể người Việt tỵ nạn cs không đảng phái lại phải đối đầu với những con Ma đảng đang chập chờn ẩn hiện gây phân hóa trên sự ổn định của người dân mỗi ngày một trầm trọng.
               
                Đó chính là những con Ma chưa chôn còn vật vờ trên dương thế nhưng đã chết tự lâu rồi trong lòng người Việt TỴ NẠN cs Tại Hải Ngoại.
               
                Chúng tôi hy vọng rằng nếu những vị đảng viên chân chính của các chính đảng nên tìm một giãi pháp để ổn định lại sự sinh hoạt cho các đảng phái của mình trước hiễm họa của đảng csVN đang dọn đường để đưa dân tộc VN vào con đường diệt vong (có nghĩa là Dân Tộc hết sinh tồn). Còn hơn là tự chọn con đường tiêu cực để làm mai một tinh hoa của những nhà cách mạng đã lao tâm gầy dựng nên các chính đảng một thời.
               
                Tôn Nữ Hoàng Hoa
                20 tháng 11 năm 2012









Kính chị Hằng

Tôi cũng có liên quan chút chút với VNQDĐ nên có một vài thắc mắc nhờ chị cho biết .
Nhà văn Vũ Trọng Phụng sinh ngày 20 tháng 10 năm 1912, quê ở làng Hảo, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên nhưng ông sinh ra, lớn lên và mất tại Hà Nội. chết năm 1939. Vợ ông, bà Vũ Mỹ Lương, tên thường gọi là bà Gái, là con người vợ thứ tư của cụ Cửu Tích, một nhà tư sản có cửa hàng thuốc ở phố Hàng Bạc. Sau khi làm đám cưới vào ngày 23 tháng 1 năm 1938, hai vợ chồng đã cùng thuê nhà ở phố Hàng Bạc.
Ông mất ngày 13 tháng 10 năm 1939, khi mới 27 tuổi, để lại gia đình còn bà nội, mẹ đẻ, vợ và người con gái chưa đầy 1 tuổi tên là Vũ Mỹ Hằng.
Ngày 13 tháng 2 năm 1930, ông Vũ Hồng Khanh là một trong những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc dân đảng ở Kiến An (Hải Phòng) [1]. Khi cuộc khởi nghĩa thất bại, Nguyễn Thái Học lên đoạn đầu đài còn ông đào thoát sang Trung Hoa móc nối với các đồng chí tiếp tục hoạt động và trở thành lãnh đạo mới của Việt Nam Quốc dân đảng.
Năm 1942 tại Liễu Châu (Trung Hoa), Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ (Quốc dân đảng), Nguyễn Tường Tam (Đại Việt Dân chính đảng), Nguyễn Hải Thần thành lập Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội, thường được gọi tắt là Việt Cách.
Ngày 1 tháng 9 năm 1945, ông từ Côn Minh về nước qua ngả Mường Khương, vào Lào Cai.
Do cần phải hợp tác để đối phó với Việt Minh ngày 15 tháng 12 năm 1945 các đảng phái chống Việt Minh đã thống nhất thành lập một lực lượng gọi là Mặt trận Quốc dân Đảng. Vũ Hồng Khanh giữ chức Bí thư trưởng tổ chức này.
Ngày 2 tháng 3 năm 1946 ông tham gia Chính phủ liên hiệp kháng chiến và đảm nhận chức vụ Phó Chủ tịch Kháng chiến Ủy viên hội (sau đổi là Ủy ban Kháng chiến). Ông cùng Hồ Chí Minh đã ký với Jean Sainteny Hiệp định sơ bộ 1946.
Tháng 7 năm 1946, xảy ra vụ án phố Ôn Như Hầu ở Hà Nội, lực lượng công an khám xét các trụ sở của Việt Nam Quốc dân đảng, phát giác nhiều vũ khí, truyền đơn hiệu triệu chống chính phủ (do Việt Minh dàn dựng). Tuy nhiên theo Việt Nam Quốc dân Đảng, trụ sở ở phố Ôn Như Hầu chỉ là một chỗ làm việc bình thường của Việt Nam Quốc dân Đảng bị tấn công trong lúc không nghĩ là mình sẽ bị tấn công và các đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng không có vũ khí nặng nào. Vũ Hồng Khanh và các lãnh đạo các đảng phái chống Việt Minh như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam phải trốn sang Trung Hoa.
Vậy thì ông Vũ Lăng con nhà văn Vũ Trọng Phụng và cứ cho là cháu ông Vũ Hồng Khanh làm thư ký và liên lạc viên cho ông Vũ Hồng Khanh lúc mấy tuổi vậy? 12, hay 13? Không lẽ VNQDĐ hết nhân sự rồi hay sao mà phải dùng trẻ con làm thư ký riêng, cán bộ giao liên cho Bí thư trưởng.
Chị có thể viết rõ thêm về đoạn này được không?

Trân trọng
Kim Âu

-

Chào chị TNHH,

1) Chúng tôi là những đảng viên kỳ cựu của VNQDĐ cùng lưu vong sang Trung hoa với ông Vũ Hồng Khanh sau khi đảng trưởng Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí bị lên đoạn đầu đài tại Yên Báy. Chúng tôi xin khẳng định về hai đảng lớn duy nhất còn lại tại miền Nam Việt Nam sau năm 1954: VNQDĐ và Đại Việt. Đại Việt do ông Trương Tử Anh thành lập nhưng vào năm 1942 ông Trương tử Anh đã sang Trung Hoa xin gặp ông Vũ Hồng Khanh tại Vân Nam và xin được sát nhập Đại Việt với VNQDĐ và đã được ông Vũ Hồng Khanh chuẩn thuận để thống nhất làm một. Tại hải ngoại lúc bấy giờ vẫn giữ tên Việt Nam QDĐ, và ở trong quốc nội vẫn giữ tên Đại Việt bởi vì Đại Việt là danh xưng của tổ quốc Việt Nam lúc đó, Hoàng đế Bảo Đại vẫn xưng là Hoàng đế của Đại Việt. Anh Vũ Trọng Khanh tức  Đại tá Vũ Lăng là cháu ruột của ông Vũ Hồng Khanh lúc bấy giờ đang sống lưu vong bên Trung Hoa vừa làm thơ ký riêng và vừa làm cán bộ giao liên cho cho ông Vũ Hồng Khanh và ông Nguyễn Hải Thần. Chính anh Vũ Trọng Khanh đã chứng kiến và ghi chép buổi họp giữa ông Vũ Hồng Khanh và ông Trương Tử Anh. Kể từ ngày đó VNQDĐ và ĐẠI VIỆT đã trở thành một.

2) Đến năm 1945 Trương Tử Anh bị Việt Minh giết và người kế nhiệm ông Trương Tử Anh là anh Lê Ninh nhưng không bao lâu sau anh Lê Ninh bị thủ tiêu và Đại Việt đã rẻ sang một lối khác với những người đảng viên thích quyền lực cho tới bây giờ.

3) VNQDĐ từ khởi thủy không hề có phân hóa cho nên không có những hệ phái như chị TNHH nêu ra trong bài viết dưới đây: Có MA không? VNQDĐ chỉ có một danh xưng là VNQDĐ thống nhất bởi vì sau khi tổ quốc Việt Nam bị Hồ Chí Minh bắt tay với Pháp để dành quyền cai trị và Hồ Chí Minh đã chấp nhân chia đôi đất nước ra làm hai quốc gia khác biệt về thể chế chinh trị cũng như hình thức cai trị nhân dân. Ở tại miền Bắc VN số đảng viên QDĐ vẫn còn những cơ sở hạ tầng chưa chạy được vào miền Nam từ năm 1945-1954.

4) Sau năm 1954 ông Vũ Hồng Khanh đã thống nhất  Kỳ bộ miền Bắc do ông Vũ Hồng Khanh lãnh đạo với Xứ bộ miền Nam do ông Nguyễn Hòa Hiệp lãnh đạo. Sau khi thống nhất kỳ bộ miền Bắc với Xứ bộ miền Nam ông Vũ Hồng Khanh được bầu giữ chức vụ  Bí thư trưởng của VNQDĐ thống nhất và ông Nguyễn Hòa Hiệp giữ chức vụ Bí thư Thường vụ và LS Trần Văn Tuyên giữ chức vụ Tổng Thư Ký. Sau khi đảng trưởng Nguyễn Thái Học bị Pháp giết tất cả các đảng viên của VNQDĐ cùng thời với ông Nguyễn Thái Học đã thề quyết không bầu ai vào chức vụ đảng trưởng nữa nhằm mục đích giữ vững lòng trung kiên với lý tưởng và ngọn cờ mà đảng trưởng  Nguyễn Thái Học đã phất lên.

4) Ông Nguyễn Tường Tam có tham vọng riêng và chưa bao giờ là đảng viên của VNQDĐ. Chỉ có ông Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long là đảng viên trung kiên của VNQDĐ.

5) Khi ra tới Hải ngoại chúng tôi đã biết có những kẻ tự xưng là VNQDĐ và đã làm những điều xấu xa chỉ vì những tham vọng hảo huyền. Những người này không hề biết đến những hy sinh lớn lao của những bậc tiền bối. Chúng tôi tin rằng một viên ngọc dù cho có vỡ nát thì giát ngọc vẫn trong. Một cục đất sét dù cho có vo ve thành viên ngọc thì đất sét vẫn hoàn đất sét. Vài hàng thân kính gởi đến chị TNHH, một người phụ nữ có nhiều tâm huyết với chiều dài và bề dày của Lịch sử đầy máu và nước mắt của tiền nhân. Chúng tôi rất trân trọng và quý mến chị.

DuongThiPhuongHang 1476 & Đại tá Vũ Lăng

        
        Dạ xin cảm ơn chị DTPH đã bổ khuyết
        Kính
        TNHH

               
            Chào chị TNHH,

            Một trong 3 lãnh tụ của Việt Nam Dân Chủ Xã Hội đảng là Trương Kim Cù chứ không phải Trịnh Kim Cù.

            DuongThiPhuongHang 1476

               
                Nhưng có một cái gì đó từ trong mộng hay thoáng trong thực đánh thức mình dậy trong một giấc ngủ dài hoặc một chút lành lạnh chạy từ ót đến cuối đừơng xương sống thì cho dù cả trong mộng hay trong thực cũng gờn gợn lên hình ảnh của Ma. Vì cái ý nghỉ mênh mông vượt lên trên mọi thứ tiếng nói không hạn chế, vụt chốc thóang lên cao, bay bổng ra ngoài mọi toan tính cân đo của con người cùng bao nhiêu màu sắc biến hiện phát ra từ lân tinh gọi hồn xương cốt mà con người có thể gọi đó là Ma
               
                Chuyện của tôi không nằm trong sự chết có linh hồn mà trong cái nghiệt ngã không có sự luân chuyễn di động của một người quen vừa mới chết
               
                Hai hay ba năm trước Đại tá T. ở Oregon có gọi cho tôi và yêu cầu tôi gọi cho bác Đoàn Thái vì bác Thái muốn nói chuyện với tôi.
               
                Tôi gọi bác Thái. Trong khoảng thời gian này tình trạng sức khỏe của bác Thái cũng không khả quan lắm. Bác nói với tôi về Đảng Đại Việt của Bác và chê trách ông Hà Thúc Ký tại sao lại giao Đại Việt cho ông Bùi Diễm mà theo bác Thái Bùi Diễm là một tên Việt gian
               
                Bác Thái bảo với tôi là bác đã theo dõi bài viết của tôi từ ngày chúng tôi chủ trương Tạp Chí Gọi Nhau (1989). Bác khích lệ tôi đã chịu khó học hỏi nên đã tiến tời nhiều trong việc viết văn. Tôi cảm ơn lời khích lệ của bác và cũng không quên nói cho bác Thái biết là tôi không thích tham gia và tham dự vào chuyện của các đảng phái. Trong ý nghĩ đơn giãn của tôi từ khi hiểu biết chuyện nước non thì hình thức 2 chữ Đảng phái đồng nghĩa với 2 chữ phân hóa
               
                Bác Thái không cần biết tôi thích nghe hay không, bác vẫn nói và còn bảo tôi là : Tôi nói cho cô biết để sau này tôi chết đi cô viết cho tôi một bài
               
                Tôi nghe lời bác Thái nói mà bỗng tức cười cho tôi là đã trở thành Công Ty Viết hồi nào mà lại đang nhận phiếu đặt hàng. Bác Thái bên kia dòng điện thoại nhắc tôi có nghe không mà sao im lìm quá vậy? Dạ cháu đang nghe xin bác nói tiếp
               
                Bác Thái lại nói tiếp trong khi đó tôi nghe lời bác Thái gái bên cạnh nhắc nhở bác từ từ kẽo ngột thở.
               
                Mô Phật ! tôi lạnh toát cả người cho nên tôi để bác Thái nói hết mà không dám xen vào
               
                Bác chê trách ông Hà Thúc Ký bởi cái lý do là ông Ký đã đưa Đảng Đại Việt cho VG Bùi Diễm. Bác bảo Đại Việt cách Mạng Đảng  là do ông Trương Tử Anh sáng lập với Cương Lĩnh Dân Tộc Sinh tồn gồm có 3 sứ bộ Bắc Kỳ Trung kỳ và Nam Kỳ. Trung Kỳ do ông Bửu Hiệp nắm, Nam Kỳ là do ông Nguyễn Hòa Hiệp Khi ông Bửu Hiệp chết thì ông Hà Thúc Ký tự động lên thay thế .
               
                Còn ông Bùi Diễm lúc bấy giờ tự xưng là Đại Việt Quan Lại. Bác Thái bảo là ông HTK xách ông Bùi Diễm về làm chủ tịch là từ nguyên nhân buôn bán Computer của ông Hoàng Tuấn. Ông Tuấn mách mối cho ông Ký và ông Ký mời gọi ông Bùi Diễm hùn với ông Tuấn mỗi người $50,000 đô la. Bác Thái còn nói lúc đó có mời cố TT Thiệu nhưng ông Thiệu từ chối. Sau này ông Tuấn cho ông Ký và ông Bùi Diễm cả triệu đô la chia nhau. Đó là lý do ông Bùi Diễm nhảy vào làm chủ tịch. Trong khi đó người mà bác Thái quí mến nhất là BS Hồ Văn Châm. Bác nói tại sao ông Ký không đưa cho ông Châm mà lại đưa cho tên VG Bùi Diễm ?
               
                Bác Thái còn nói đến chuyện chiến khu Ba Lòng cùng chuyện Đại Tá Huỳnh Văn Tồn cứu ông Hà Thúc Ký
               
                Tôi nghe xong rồi cũng quên. Nhất là khi Bác Thái nói về ông Hà Thúc Ký mà không biết bác Thái có biết là anh Hà Thúc Ký là anh em cô cậu ruột với tôi không?
               
                Đôi khi, tôi nghĩ con người thường hay làm tù nhân của chính mình đi từ dòng suy nghĩ tương phản nín nhịn  trên sự suy tư qua nhiều dòng diễn tiến để đi đến một số định lý qua một lối thẳng, nhiều giai đoạn rồi từ đó tự giãi đáp cái ẩn số của phương trình
                Từ đó tôi cũng ít gọi bác Thái. Cho đến một hôm cách đây vài tuần, tự nhiên trong sự suy nghĩ của tôi có Bác Thái. Tôi định sẽ gọi thăm bác nhưng trước khi gọi bác tôi lại gọi cho Đại tá T ở Oregon muốn hỏi xem bác Thái dạo này ra sao ?
               
                Tiếng ĐT T. bên kia rõ mồm một : Ổng chết rồi chị ơi ! chết gần hai năm rồi . Nếu tôi nhớ không lầm thì ngày giỗ của ông ấy hôm nay hay vài ngày qua tôi không rõ
               
                Mô Phật. Tôi sợ gần chết. Mới đó mà gần hai năm. Tôi lật đật vào Cell phone để delete tên của Bác trong contact list nhưng không biết tại sao tên và phone của Bác  vẫn còn trong contact list cho đến bây giờ
               
                Tôi nhớ lại lời bác Thái bảo tôi viết về lời bác nói. Tôi đã hoàn thành hôm nay để không còn mắc nợ ngừơi chết Tuy nhiên đối với tôi chuyện Đảng phái tôi chưa bao giờ cảm thấy hãnh diện để nghe, chỉ trừ khoảng thời gian hào hùng khí phách của 2 đảng Việt Nam QDĐ và Đại Việt Quốc dân đảng từ 1945-1955.
               
                Sau này tìm hiểu thêm về thực trạng và nhu cầu kết hợp của các đảng phái tôi lại buồn hơn. Như đã có lần chúng tôi đã thưa cùng quí vị là sự ổn định của chính trị rất cần thiết để phát triễn xã hội hay nói rõ ra sự ổn định chính trị rất cần thiết cho sự giữ vững thành trì chống Cộng của Tập Thể Ngừơi Việt QG tại hải ngoại
               
                Từ năm 1964- 1967 theo một thống kê cho biết Chính thể Đệ Nhị VNCH có đến 33 đảng phái trong 33 danh xưng có Phong Trào , Lực Lượng, Mặt Trận, Đảng , Khối Đoàn.
               
                Hiện tượng đa đảng này trên chính trường lúc bấy giờ không thấy có những việc làm gì ích quốc lợi dân mà tệ trạng phân hóa càng ngày càng lên cao trên mục tiêu để "dành ghế" trong chính quyền.
               
                Thậm chí có những nhà gọi là chính trị đảng phái cũng mom men đến cửa Chùa hay cổng nhà thờ nhờ oai lực của các vị lãnh đạo tôn giáo để có được những “cái ghế” này. Từ Khối Chùa Xá Lợi với Hội Phật Học Nam Việt rồi Việt Nam Quốc Tự, Ấn Quang miền Vĩnh Nghiêm đến Khối Công Giáo Chính trị cũng chia ra Lực Lượng Đại Đoàn Kết , Công Giáo Tiến Hành, Mặt Trận Công Dân Công Giáo vân vân và vân vân
               
                Trong khi đó hai đảng kỳ cựu là Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt Quốc Dân Đảng thì tình trạng phân hóa càng ngày càng tăng như Việt Nam Quốc Dân Đảng(VNQDĐ) trong thời kỳ này lại chia ra làm 10 hệ phái(*) như:
                - VNQDD Trung Ương cả Tiến
                - VNQDD Trung Ương Lâm Thời
                - VNQDD Thống Nhất
                - VNQDD Chủ Lực
                - VNQDD Tân Chính
                -VNQDĐ Xứ Bộ Miền Bắc
                -VNQDĐ Xứ Bộ Miền Trung
                -VNQDĐ Xứ Bộ Miền Nam
                -VNQDĐ Biệt Bộ Nguyễn Tường Tam
                -VNQDĐ Liên Tỉnh Miền Trung
               
                Về phía Đại Việt đảng này cũng phân hóa thành 5 phe:
                -Tân Đại Việt (Nguyễn Tôn Hoàn, Phan Thông Thảo, Nguyễn Ngọc Huy)
                -Đại Việt Cách Mạng Đảng (Hà Thúc Ký, Hoàng Xuân Tửu)
                -Đại Việt Nguyên Thủy(Trần Văn Xuân)
                -Đại Việt Quan Lại (Phan Huy Quát, Đặng Văn Sung)
                -Đại Việt Thống Nhất (Nguyễn Đình Luyện)
               
                Ngoài ra, ở miền Nam có Đảng Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng gọi tắt là Dân Xã Đảng cũng chia thành 3 nhánh cùng tên đảng nhưng khác tên của lãnh tụ:
                -Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng(Trình Quốc Khánh)
                -Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng( Phạm Bá Cần)
                -Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng( Trịnh Kim Cù)
               
                Theo tài liệu chúng tôi đọc được của một tác giả xuất thân từ Trường Quốc Gia Hành Chánh VNCH thì ngoài 54 tên của đảng có khai báo còn có rất nhiều tổ chức đảng phái chính trị khác
               
                Ra tới hải ngoại thì sự phân hóa này lại càng trầm trọng hơn. Một số thành viên chân chính của các đảng phái này tự cho mình là "kẽ dại" đã lặng lẽ đi vào nơi yên tĩnh để cho những người “khôn“đang tìm chủ nghĩa cơ hội vẫn ở chốn "lao xao". Có một lần tôi hỏi một vị sĩ quan của Quân Lực VNCH về đảng Đại Việt mà ông là đảng viên thì ông lắc đầu ngao ngán bảo tôi là đừng có hỏi nữa.
                Bây giờ nói chuyện đảng phái giống như nồi cháo heo. Tự nhiên tôi cảm thấy vô cùng tiếc nuối như vừa vụt mất một bảo vật
               
                Trong khi đó một số tự xưng là “con dòng cháu giống của VNQDĐ”, là lãnh tụ hải ngoại thì lại đi bắt tay với đảng Việt Tân là hậu thân của MTQGTNGPVN (Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam ( gọi nôm na mặt Trận Hoàng Cơ Minh) đã được thành lập tại cái nôi xôi đậu Bá Linh. Một đảng phái mà theo sự suy nghĩ của phần đông Người Tỵ nạn cs tại hải ngoại cho là ngoại vi của đảng csVN.
               
                Chính sự suy nghĩ này mà người tỵ nạn cs tại hải ngoại đã nhìn những khuôn mặt tổ chức đảng phái như một hóa thân kỳ diệu của một dáng dấp liêu trai mờ mờ ảo ảo không có tượng hình.
               
                Thật ra , người Việt tỵ nạn cs cũng có thể nhìn ra khuôn mặt của đảng phái nhưng ngoài sự phân hóa ra họ đã trở thành những con thuyền có bến nhưng đã quên con suối cội nguồn ,quên đi những dòng lịch sử oai hùng chuyễn tải những tinh thần đề kháng chống VGCS để biến hình thành dạng yêu ma theo phù thủy VGCS đọc bùa chú úm bà la úm bà la bán nước hại dân . Vì ẩn hiện mập mập mờ mờ qua những cương lĩnh đấu tranh đầu voi đuôi chuột đã làm người dân mất hết niềm tin
               
                Trong khi người dân chỉ có một ước mơ thầm lặng duy nhất là được nhìn thấy một kết hợp giữa những cảm nhận, những cảm thấy của những trái tim VN tỵ nạn cs và không phải bị "ràng buột bên những biên cương thống khổ của đảng phái này hay đảng phái nọ"
               
                Những ước mơ đó rất bình thường, rất giản dị nhưng lại vô cùng khó khăn khi cả tập thể người Việt tỵ nạn cs không đảng phái lại phải đối đầu với những con Ma đảng đang chập chờn ẩn hiện gây phân hóa trên sự ổn định của người dân mỗi ngày một trầm trọng.
               
                Đó chính là những con Ma chưa chôn còn vật vờ trên dương thế nhưng đã chết tự lâu rồi trong lòng người Việt TỴ NẠN cs Tại Hải Ngoại.
               
                Chúng tôi hy vọng rằng nếu những vị đảng viên chân chính của các chính đảng nên tìm một giãi pháp để ổn định lại sự sinh hoạt cho các đảng phái của mình trước hiễm họa của đảng csVN đang dọn đường để đưa dân tộc VN vào con đường diệt vong (có nghĩa là Dân Tộc hết sinh tồn). Còn hơn là tự chọn con đường tiêu cực để làm mai một tinh hoa của những nhà cách mạng đã lao tâm gầy dựng nên các chính đảng một thời.
               
                Tôn Nữ Hoàng Hoa
gần 40 tuổi, phải già, phải via tông-keng bằng tôi, anh không thể trẻ đến như thế.
Lần gặp Vũ Trọng Khanh ở Sài Gòn, tôi không tin anh là con Nhà Văn Vũ Trọng Phụng nhưng tôi chẳng bắt bẻ anh làm gì. Tại sao lại cố ý moi móc để chứng tỏ người ta nhận vơ ? Mà người ta nhận vơ người ta là con ông Nhà Văn sì đã nàm thao? Hại gì ai ? Nhà văn Vũ Trọng Phụng có nổi tiếng, có được người đời trọng mến, mới có người nhận là con. Ở đời thiếu gì anh con từ bố, chối bố hay xấu hổ khi có ai nói anh là con của ông bố anh.
Những năm 2000, 2001, ở Kỳ Hoa Đất Trích, tôi nghe nói :
- Ở San José có người nhận là con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, tên là Vũ Trọng Khanh.
Tôi nghe qua rồi bỏ. Tự nhiên tôi không tin nhân vật Vũ Trọng Khanh San José 2000 là nhân vật Vũ Trọng Khanh tôi gặp năm 1975, 1976 trên vỉa hè đường Gia Long, Sài Gòn. Lại một vụ nhận vơ.. ! Mà người ta nhận vơ sì đã nàm thao?
Ngày tháng qua đi..Tháng 2 năm 2008, liêu lạc ở Rừng Phong, Xứ Tình Nhân, Kỳ Hoa Đất Trích, tôi gặp lại cái tên Vũ Trọng Khanh. Ông Vũ Trọng Khanh tôi thấy ở Kỳ Hoa năm 2008 không phải là anh thanh niên Bắc Kỳ đẹp trai Vũ Trọng Khanh tôi gặp ở Sài Gòn cuối năm 1975 hay đầu năm 1976. Như vậy : trước sau, trong vòng 40 năm, tôi thấy cuộc đời này có hai ông Vũ Trọng Khanh. Ông Vũ Trọng Khanh thứ nhất tôi được gặp, được nói chuyện ở Sài Gòn năm 1975 không có chức vụ, không cấp bậc gì cả, ông Vũ Trọng Khanh thứ hai tôi chỉ được nhìn thấy dung nhan trên màn hình Internet trong cuộc phỏng vấn của Hệ Thống Truyền Thông SBTN. Ông Vũ Trọng Khanh San José 2008 được SBTN giới thiệu bằng cái tên có chức vị quân đội là Đại Tá Vũ Lăng.
Ông Vũ Trọng Khanh Đại Tá Vũ Lăng San José 2008 trạc Sáu Bó tuổi đời, bận quân phục, tôi nhìn không rõ đó là quân phục Quân Đội Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa hay quân phục Quân Đội Hoa Kỳ. Ông có vẻ đau yếu, dường như ông ngồi không vững, ông nói khó khăn, ông có bà vợ trẻ ngồi bên đỡ lời, nói dùm. Trong cuộc phỏng vấn ông nói ba, bà nói bẩy. Chuyện kỳ lạ là, như tôi đã viết trên đây, gần như tất cả những người Việt Nam từng đọc tiểu thuyết của Nhà Văn Vũ Trọng Phụng, từng biết, dù biết ít, biết lơ mơ, về đời tư của Nhà Văn, đều biết Nhà Văn không có con trai, nhưng ký giả SBTN – không lẽ không biết – không đặt câu hỏi :
- Có gì chứng minh ông là con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng ?
Ký giả phỏng vấn, dường như tên là ông Tường Thắng, phăng phăng la tuy-líp coi người được phỏng vấn đúng là ông con của Nhà Văn.
Ông Vũ Trọng Khanh Đại Tá Vũ Lăng San Jose, và bà vợ, kể nhiều chuyện kỳ cục quá đỗi là kỳ cục. Không những chỉ kỳ cục, đó còn là những chuyện dựng đứng. Không chỉ chuyện dựng đứng thường mà là chuyện dựng đứng năm chăm phầm chăm. Tôi nghe chuyện ông bà kể mà chịu hổng có nổi. Tôi kể lại những lời ông bà nói như sau, tất nhiên tôi chỉ kể đại khái thôi, tôi không thể kể hết hay kể thật đúng những lời ông bà nói, nhưng tôi kể không sai.
Ông Đại Tá Vũ Lăng kể ông bị bọn Bắc Cộng bắt sống, giam tù 22 năm ở Bắc Việt, năm 1982 ông trở về Sài Gòn, năm 1985, 1986 ông vượt biên bằng đường bộ sang Thái Lan, người ta đón ông sang Hoa Kỳ. Trong thời gian chịu tù đày ở Bắc Việt, ông bị bọn Cai Tù Bắc Cộng tra tấn, chúng đánh ông thủng hai lỗ ở đầu, rút hết 10 móng tay ông.
Ông kể :
- Lúc đầu Bộ Trưởng Công An Bùi Thiện Ngộ và Thiếu Tướng Công An Dương Thông hỏi cung tôi, rồi đến ông Đại Tá Bùi ... [tiếp theo]

bị Phản Gián P 25 nó tó vì tội « âm mưu cưa ghế chính quyền nhân rân » . Hai anh em ông cùng nằm phơi rốn trong Nhà Tù Chí Hòa. Tôi, qua điện thoại, hỏi ông Trần Tử Thanh về chuyện ông Đại Tá Vũ Lăng San José nói bà mẹ ông ta là em gái Cố Luật sư Trần Văn Tuyên, tức là bà cô ruột của ông, và như dzậy Đại Tá Vũ Lăng Vũ Trọng Khanh San José là anh em con cô, con cậu với ông, ông Trần Tử Thanh cũng đã biết về cuộc phỏng vấn của SBTN, ông kêu :
- Làm gì có chuyện đó. Bà vợ ông Vũ Trọng Phụng đâu phải là em ông cụ tôi. Gia phả giòng tộc nhà tôi không có ai tên như vậy cả. Hoàn toàn bịa đặt ! Anh em chúng tôi sẽ phải lên tiếng về vụ này.
Ông Trần Tử Thanh gửi cho tôi bức thư ngỏ :
THƯ NGỎ
Đồng kính gửi :
- Các cơ quan truyền thông, truyền hình, báo chí, các mạng Internet.
- Quí vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo, quí vị chủ tịch các đảng phái quốc gia, quí vị Chủ Tịch Công Đồng, các Tổ Chức, Hội Đoàn người Việt Quốc Gia tại hải ngoại.
- Bà con thân thuộc và Bằng Hữu của Gia Đình Cố Luật Sư Trần Văn Tuyên.
Mới đây trong cuộc phỏng vấn kéo dài 4 phần trên Đài Truyền Hình SBTN ở Quận Cam và được báo Việt Nam Exodus đưa lên mạng, có một người xưng là Vũ Trọng Khanh, tự Vũ Lăng, Cựu Đại Tá QLVNCH, tốt nghiệp Khóa 4 Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt ( ? ), con của Nhà Văn Vũ Trọng Phụng ( ? ) – không hiểu vì lý do gì - đã mạo nhận là cháu của Luật Sư Trần Văn Tuyên.
Vì sự việc có liên quan đến thân phụ và giòng tộc chúng tôi, chúng tôi xin minh xác :
1 – Họ và tên người này nêu ra trong cuộc phỏng vấn để chứng minh liên hệ với gia đình Luật Sư Trần Văn Tuyên là hoàn toàn xa lạ với gia đình chúng tôi và không có trong gia phả của giòng họ Trần.
2 – Những sự kiện liên quan đến thân phụ chúng tôi là những sự kiện hoàn toàn bịa đặt một cách trắng trợn.
Tất nhiên khi tạo dựng những sự kiện nêu trên, người được phỏng vấn hẳn có mưu đồ đen tối nào đó.
Vì vậy, chúng tôi xin gửi bức thư ngỏ này thông báo tới toàn thể bà con trong gia tộc, các bằng hữu quen biết gia đình chúng tôi, cùng mọi giới để cảnh giác đề phòng và tránh mọi ngộ nhận trong tương lai.
Thay mặt gia đình Cố Luật Sư Trần Văn Tuyên.
Luật Sư Trần Tử Huyền, Trưởng Nam.
California, ngày 17 Tháng Hai năm 2008.
*
Trước năm 1975 giới ca-ve Sài Gòn có cô Lan, biệt hiệu Lan Khùng, nói cô là con ông Nhà Văn Lê Văn Trương. Năm 1980 ở Sài Gòn có ông Lê Khiêm nhận là con Nhà Văn Lê Văn Trương.
Năm 1990 ở Hà Nội có ông Mạc Can, ông này viết tiểu thuyết, nghe nói là con Nhà Văn Lê Văn Trương.
Năm 1976 ở Sài Gòn Cờ Đỏ tôi gặp người xưng tên là Vũ Trọng Khanh, nhận mình là con trai ông Nhà Văn Vũ Trọng Phụng.
Năm 2008 ở Kỳ Hoa, tôi thấy ông Vũ Trọng Khanh thứ hai tự nhận mình là con trai Nhà Văn Vũ Trọng Phụng. Ông Vũ Trọng Khanh San José còn tự nhận ông là Đại Tá và là cháu ruột Cố Luật Sư Trần Văn Tuyên.
Tôi đã kể những gì tôi biết về nhân vật Vũ Trọng Khanh. Xin để quí vị nhận định về vụ này.
CÔNG TỬ HÀ ĐÔNG

No comments: