Wednesday, October 19, 2016

HÀ THỊ CẦU - GS NGHIÊM THẨM -NGUYỄN MẠNH TƯỜNG

Friday, March 15, 2013

RFI * NGHỆ SĨ HÀ THỊ CẦU

Thứ sáu 15 Tháng Ba 2013
Hà Thị Cầu – Truyền nhân cuối cùng của nghệ thuật Hát xẩm?
Nghệ nhân Hà Thị Cầu
Nghệ nhân Hà Thị Cầu
DR
Trọng Thành
 
 
Nghệ nhân Hà Thị Cầu vừa ra đi ở tuổi ngoài 90. Giới những người yêu quí nghệ thuật cổ truyền Việt Nam thương và tiếc một đỉnh cao. Nhiều tiếng nói khẳng định : « Người hát xẩm cuối cùng đã về trời ». Sự ra đi của Hà Thị Cầu liệu có phải là dấu chấm cáo chung Hát xẩm, môn nghệ thuật một thời là món ăn tinh thần quen thuộc của đông đảo người bình dân Việt Nam ? 
Hát xẩm, môn nghệ thuật từng đặc biệt nở rộ tại miền bắc Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ XX, đã không có đất sống trong chế độ mới. Nhưng những gì thấm sâu vào máu thịt của người nghệ sĩ đích thực không thể nào biến mất. Trong cuộc đời gần một thế kỷ của mình, nhất là hai mươi năm cuối đời, Hà Thị Cầu đã liên tục truyền đến cho các thế hệ đi sau những gì tinh túy nhất trong môn nghệ thuật của đầu thế kỷ trước. 
Tạp chí Văn hóa của RFI tuần này xin chuyển tới quý thính giả tiếng nói của một số nhà nghiên cứu, nghệ sĩ, từng gắn bó với nghệ nhân Hà Thị Cầu hay đặc biệt quan tâm đến di sản của bà.
Khách mời của tạp chí là nhà dân tộc nhạc học Trần Quang Hải (Paris), nghệ sĩ Mai Tuyết Hoa, nhạc sĩ Đặng Hoành Loan và nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền từ Hà Nội.

Vượt lên đau khổ : Thần lực của một giọng hát
Mở đầu tạp chí là tiếng nói của nhà nghiên cứu Trần Quang Hải :
Nhà nghiên cứu Trần Quang Hải
 
15/03/2013
 
 
RFI : Xin ông cho biết cảm nhận và suy nghĩ của ông trước sự ra đi của nghệ nhân Hà Thị Cầu.
Trần Quang Hải : Bà ấy mất đi là xứ Việt Nam mất đi một gia tài rất lớn, về văn chương, văn học dân gian, là cái văn học dính liền với những người « dân gian », những người nghèo nhất. trong xã hội. Tôi thấy rằng, muốn hát xẩm cho thật hay, phải sống rất nhiều, phải lăn lộn vào trong cuộc đời, phải có nhiều kinh nghiệm, phải có nhiều đau khổ và chính là cái đau khổ đó mới tạo ra một cái thần lực ở trong giọng hát của mình.
RFI : Ông có thể cho biết, vì sao ông lại biết đến môn nghệ thuật hát xẩm và những kỷ niệm của ông với nghệ nhân Hà Thị Cầu.
Trần Quang Hải : Khi tôi đi về Việt Nam lần đầu tiên, thì tôi có nghe nói ở Hà Nội có một điệu hát xẩm, thì tôi có đi gặp anh Thao Giang, phó giám đốc Trung tâm về nhạc dân gian Việt Nam. Anh ấy nói với tôi là đương muốn trùng tu hát xẩm trở lại, sau khi bị mất đi trên 50 năm. Khi đó, Thao Giang mới cho tôi nghe một số làn điệu đặc biệt, trong đó có một vài bài do bà Hà Thị Cầu hát. Tôi hỏi, ai mà có giọng quá đặc biệt như vậy.
Tôi gặp một bà cụ, cái cặp mắt rất là sắc sảo và cái giọng nói rất là vang, vang mạnh lắm và tiếng đờn nghe não ruột luôn. Tôi nhắm mắt mà nghe, thì tôi thấy rằng, rõ ràng là người này đã sống rất nhiều và đã có một đời sống rất là gian truân, nhưng mà có điều, vẫn lướt lên để sống, chấp nhận cái cuộc sống của mình, chứ không có đòi hỏi gì nhiều hết. Thành ra cái tiếng đờn và giọng hát, nó đi quyện vào nhau. Tôi rất lấy làm sung sướng được nghe bà ấy hát. Lần đầu tiên bà ấy hát cho tôi nghe bài « Thập ân ». Thì tôi nhớ hoài cái bài Thập ân này. Nó nói lên cái lòng hiếu thảo của người con.
Từ đó về sau này, tôi không có dịp gặp được bà ấy nữa. Có điều tôi theo dõi tất cả những sinh hoạt của bà, qua báo chí, qua đài truyền hình… Tôi biết rằng năm 2008 bà ấy được lãnh giải thưởng Đào Tấn, là một giải thưởng rất là quan trọng cho những người đã phụng sự âm nhạc dân tộc và nghệ thuật cổ truyền.
Trong 10 năm chót của cuộc đời bà ấy, có rất nhiều học trò đã đến học với bà ấy. Anh Thao Giang cũng đã quay nhiều phim cho đài truyền hình về sinh hoạt của bà ấy và có phim « Xẩm Đỏ », được đạo diễn Lương Đình Dũng quay cách nay 2 năm.
Tôi xem bà ấy cũng như tất cả những diva, hay những người nghệ sĩ lớn, hay những ca sĩ lớn của xứ Việt Nam hay ngay như trên thế giới, ngang hàng với bà Quách Thị Hồ. Bà ấy có một giọng hát rất là đặc biệt, là đại diện cho một truyền thống âm nhạc đang sắp mai một đi (…).
Di sản lớn, tiếp thu rất nhỏ
Theo như tôi nghĩ, sự ra đi của bà Hà Thị Cầu sẽ để lại sự mất mát rất lớn trong truyền thống hát xẩm. Không có một cơ quan nghiên cứu để làm một cuộc điền dã, đi thâu thập bà ấy, theo phương pháp dân tộc nhạc học. Các điền dã ít có làm hoặc chỉ làm một cách chung chung để thâu một số bài bản cho một số người trẻ học thôi, chứ không có đi thâu một cách tận tường, thâu hết – một việc cần làm để duy trì truyền thống hát xẩm với người cuối cùng còn lại của truyền thống này.
Nhạc sĩ Đặng Hoành Loan là người đã thực hiện từ sớm việc thu thanh nghệ nhân Hà Thị Cầu. Sau đây ông chia sẻ một số ấn tượng về tài năng Hà Thị Cầu và thực trạng của việc kế thừa.
Nhà nghiên cứu Đặng Hoành Loan
 
15/03/2013

 
 
Đặng Hoành Loan : Bà ấy là một tài năng xẩm, với giọng hát tuyệt vời, với những rung cảm dường như nó từ máu, từ trong huyết mạch của bà ấy, cho nên khi bà ấy cất lên giọng hát là nó cuốn hút người ta ngay. Tôi được làm việc với bà ấy và thu thanh toàn bộ những vốn liếng của bà ấy vào những năm 1990. Nếu bây giờ đem đối chiếu lại với cái việc bà truyền lại cho lớp trẻ hiện nay, thì chắc chỉ được 1/10 thôi.
Đấy là vốn liếng bài bản. Còn vốn liếng nghệ thuật, tức là cái trình diễn nghệ thuật của bà ấy, thì phải nói rằng là lớp trẻ chưa tiếp cận được. Bởi vì bà có một tài năng mà không phải nghệ sĩ nào cũng có. Một người vừa đàn, vừa hát, một người vừa đánh trống, vừa hát. Một người tự mình có thể đánh hai ba trống một lúc, thì đấy là điều hiếm thấy. Đồng thời bà ấy lại là một nghệ sĩ, một người hát xẩm, đúng là xẩm, tức là sự ngẫu hứng những bài hát, thì bà ấy là người ngẫu hứng vô cùng tài ba. Và có nhiều bài hát bà để lại những dấu ấn rất sâu, như « Yên Mô quê mình », là bài viết về quê hương Yên Mô của bà ấy.
Có lẽ đây là người cuối cùng ra đi cùng với tài sản xẩm, không còn bao giờ có thể thấy nó hiện hữu được nữa. Và nếu nói một cách theo chủ quan của những người… thì cũng có thể nói là cũng còn lại một chút ít, của lớp trẻ tiếp thu được dăm ba bài.
Cũng như nhà dân tộc nhạc học Trần Quang Hải, nhạc sĩ Đặng Hoành Loan nhận thấy, nghệ nhân Hà Thị Cầu đã ra đi, và cùng với bà là cả một « gia tài » hết sức lớn lao đã một đi không trở lại, lớp nghệ sĩ trẻ mới chỉ thâu nhận được những điều ít ỏi từ người nghệ sĩ lớn.
Nỗ lực nối lại một truyền thống nửa thế kỷ đứt đoạn
Như chúng ta biết, môn hát xẩm như một phương tiện kiếm sống của những người mù trên các không gian ngoài đường phố đã không còn tồn tại từ hàng chục năm nay. Trong thời gian ít năm trở lại đây, tại Hà Nội bắt đầu phát triển một số nhóm biểu diễn do các nghệ sĩ, các nhà nghiên cứu chủ trì với mục tiêu phục dựng lại những bài hát và làn điệu xẩm thời xưa.
Trung tâm phát triển nghệ thuật âm nhạc, Hội Nhạc sĩ Việt Nam, kể từ năm 2008, đã tổ chức Lễ giỗ Tổ nghề hát xẩm (vào ngày 22/2 âm lịch) sau nửa thế kỷ gián đoạn, nhằm nối lại với truyền thống này.
Chúng tôi xin chuyển đến quý vị tiếng nói của nghệ sĩ Mai Tuyết Hoa, một trong những giọng hát và tay đàn quen thuộc với nhiều người yêu thích xẩm. Chị Mai Tuyết Hoa là một trong các trụ cột của sân khấu xẩm được tổ chức vào thứ bảy hàng tuần trước cửa chợ Đồng Xuân (Hà Nội). Sau đây nghệ sĩ Mai Tuyết Hoa chia sẻ những kỷ niệm và ấn tượng in dấu trong tâm hồn chị trong thời gian được theo học nghệ nhân Hà Thị Cầu.
Nghệ sĩ Mai Tuyết Hoa
 
15/03/2013
 
 
Mai Tuyết Hoa : Tôi biết bà qua giọng hát, qua những cái băng tư liệu của Viện nghiên cứu âm nhạc Việt Nam sưu tầm. Nghe băng, nghe đĩa của cụ và tôi đã bắt chước cái giọng hát của cụ, cũng như tiếng đàn của cụ. Cái điều ấn tượng nhất với tôi là cái phong cách của cụ, cũng như tính cách của cụ, rất là gần gũi, dí dỏm và rất là hài hước.
Riêng đối với nghệ thuật hát xẩm, thì phải nói, nó rất là phong phú. Phong phú ở bài bản, phong phú ở làn điệu, có buồn, có vui. Nói chung, thì nghệ thuật hát xẩm diễn tả được tất cả những tâm trạng của con người. Và cái điều khó nhất, chính là làm sao mà mình hát gần gũi nhất, dí dỏm nhất và lôi cuốn người nghe nhất. Và cho dù là, cho đến bây giờ, tôi đã học đến hơn mười năm, nhưng mà cái điều mà nghệ nhân Hà Thị Cầu làm được, cuốn hút được người nghe, thì tôi nghĩ vẫn còn rất là xa, bởi vì tôi cũng chỉ có thể học được một chút gì đó của cụ thôi, còn để đạt đến đỉnh điểm như cụ, thì tôi nghĩ điều đó khó ai có thể làm được.
Hát cho mình, hát cho mọi người
Đặc biệt là nghệ thuật hát xẩm, thì nó không như những loại hình nghệ thuật khác, nó khác quan họ, nó khác ca trù, nó rất là dân dã, rất là bình dân. Bình dân ở đây là nó rất gần gũi với mọi người. Ở mọi tầng lớp đều có thể thưởng thức nghệ thuật hát xẩm, vì nó dễ nghe, dễ hiểu. Nghệ thuật hát xẩm chính là cái mà người hát xẩm hát cho mình và cho mọi người.
RFI : Hát cho mình và hát cho mọi người là như thế nào, xin chị diễn tả thêm.
Mai Tuyết Hoa : Người hát xẩm hát thế nào để cho người nghe cảm thấy rằng là, cái điều này nó lay động lòng người lắm, nó miêu tả được nhân tình thế thái, thời sự chiến cuộc. Hoặc là ví dụ như, một người rất thích người hát xẩm hát cho một nỗi niềm gì đấy của mình, ví dụ như anh đang thích một cô này, mà chưa nói được ra lời, thì nhờ người hát xẩm hát cho là tôi đang rất là thích cô đấy, cô có đồng ý đến với tôi hay không ? Người hát xẩm hát cho cuộc đời mình và hát hộ người kia. Người kia cảm thấy rằng là anh hát xẩm này anh ấy có ích, anh ấy giúp được cô kia cô ấy hiểu được ý nghĩa của anh í, thì anh í động lòng, anh í để vào chậu thau đồng một chút ít tiền vào chậu thau đồng, gọi là thưởng cho người hát xẩm. Chứ người hát xẩm không đi xin, đó là điều tôi muốn nói với tất cả mọi người là như vậy.
Kết thúc chương trình hôm nay, chúng tôi xin mời quý vị nghe tiếng nói của nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền, người được nghệ nhân Hà Thị Cầu nhận làm con nuôi. Ông cũng là người từ gần 20 năm nay liên tục nỗ lực để hiểu xẩm, với hy vọng truyền đến công chúng những bí ẩn của môn nghệ thuật này.
Bùi Trọng Hiền : Tôi được nghe giọng của bà lần đầu tiên là vào năm 1979-1980, thời đó trên làn sóng phát thanh của đài tiếng nói Việt Nam, phát một bài hát xẩm, gọi là « Theo Đảng trọn đời », là do bà đặt lời, vừa đàn, vừa hát. Đấy là lần đầu tiên trong cuộc đời tôi được nghe. Hồi đó còn nhỏ lắm, thì thấy đó là một giọng hát rất hay. Nội dung của bài ca ấy nói về những người con đi tha phương cầu thực, tìm miếng ăn để sống, trong thời ly loạn của chiến tranh.
Sau này, khi lớn lên, học nhạc cổ rồi trở thành một người làm nghiên cứu, thì cái lần tôi được tiếp xúc chính thức với bà là năm 1992, trong những cuộc liên hoan ở Hà Nội, thì được gặp bà. Thì đến năm 1994, tôi mới có dịp được về Ninh Bình, để thăm bà. Từ đó, bà nhận tôi làm con nuôi, và tôi nhận bà làm mẹ đỡ đầu. Cứ có cơ hội, thì tôi lại xách máy và phi xe máy 120 cây về Ninh Bình nhà bà, và tranh thủ học hỏi và ghi chép tất cả, và thu âm toàn bộ những gì tinh hoa nhất, mà bà có.
Cái phóng khoáng và giang hồ của xẩm
Thông qua bà, tôi hiểu được xẩm của thời xưa, bởi vì bà là người cuối cùng hát xẩm. Thông qua những lời kể của bà, rồi những ngón đàn tiếng ca của bà, rồi tất cả những kỹ thuật, về phách, sênh, đàn nhị, về cách đặt lời của bà, cũng như tất cả những gì kỳ vĩ nhất của nghệ thuật xẩm của những người hát rong, vốn là những người hỏng mắt, cứ theo đó mà tuôn trào qua những lời kể, và tôi đã ngấm rất nhiều và thực sự bà là một người thầy rất lớn của tôi.
Suốt từ đó, cho đến khi bà còn khỏe, trong rất nhiều năm, cứ có dịp nào về là tôi lại xách máy quay lại thu âm. Một bài của bà, tôi thu không biết bao nhiêu lần, và mỗi lần bà lại đàn hát ra một dị bản khác nhau. Các bạn cũng biết là nghệ thuật xẩm cũng như rất nhiều thể loại nghệ thuật cổ truyền khác của Việt Nam là nghệ thuật ngẫu hứng. Mỗi làn điệu của một « lòng bản », trên cái lòng bản đó, người ta trình diễn các dị bản rất khác nhau. Đó là độ « giang hồ » của xẩm.
Nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền
 
15/03/2013
 
 
RFI : Thưa anh, nghệ thuật xẩm của rất nhiều làn điệu. Làn điệu nào có thể nói là đặc trưng cho nghệ thuật hát xấm và bản thân nghệ nhân Hà Thị Cầu là đỉnh cao trong những làn điệu đó. 
Bùi Trọng Hiền : Từ một hình thức hát rong của những người hỏng mắt, xẩm đã sáng tạo những làn điệu của riêng mình, mà không một thể loại nào có. Tôi lấy ví dụ như điệu xẩm Huê tình chẳng hạn. Đấy là một điệu xẩm rất nổi tiếng. Nổi tiếng đến mức mà các ngành cổ nhạc bạn, ví dụ như chèo và ca trù đã du nhập làn điệu đấy vào trong kho tàng âm nhạc của mình.
Chúng ta biết rằng xẩm ngày xưa hát ở đường phố, hát ở bến nước, sân đình, hát ở bến đò, hát ở góc chợ. Cái nhu cầu của xẩm là hát ở những nơi đông người để kiếm sống. Thế cho nên, một bài ca xẩm thường không thể là bài ngắn gọn và nó thường là những làn điệu để chuyển tải những bài thơ rất dài. Để làm sao, người ta đi chợ, người ta nghe được đoạn đầu, thậm chí người ta nghe được bất cứ đoạn nào trong lời ca đó, người ta cũng nắm bắt được làn điệu đó, và người ta cảm thấy thích thú. Vì thế, cái tính gọi là tính trường thiên, tính kể truyện của xẩm rất là rõ ràng.
Người kể truyện trong sân khấu cuộc đời
Một đặc điểm nữa là nội dung của xẩm phải rất đặc biệt. Đặc biệt để làm sao trong đám đông ấy, giữa những tiếng ồn ào của chợ búa, của bến đò, của đường phố, người ta phải nghe nó đập vào ấn tượng, vào tai, vào mắt cái người đi đường, để người ta dừng lại, người ta thưởng tiền cho người hát xẩm. Thì với cái đặc điểm hát rong, nay đây mai đó, thì bản chất cái nghề nghiệp đó, cái cách thức diễn xướng, lấy đường phối, lấy bầu trời, lấy khung cảnh xã hội làm sân khấu, gọi là « sân khấu cuộc đời » của mình, thì hát xẩm đã tự hình thành nên những tính cách nghệ thuật rất riêng.
Bà biết hầu hết tất cả các làn điệu xẩm cổ truyền. Ở bà có cái đặc biệt là bà không biết chữ, như những người nghệ sĩ xẩm thời xưa thôi, nhưng chỉ có điều cái trữ lượng lời ca và làn điệu trong bà, nó như là một cái ăn sâu vào trong máu rồi, bởi vì bà hát từ năm 8 tuổi, 10 tuổi, nó in cả cuộc đời và một lúc nào đấy là nó bật ra, thì bà lại hát trường thiên cả một đoạn rất dài. Thế cho nên, khó có thể nói là bà hát cái gì hay nhất, bởi vì đối với tôi, bu tôi hát cái gì cũng hay. Bà sử dụng thành thạo tất cả các nhạc cụ sênh, phách, trống mảnh, nhị và việc diễn tấu đa năng, vài nhạc cụ một lúc như thế, vừa hát, vừa đàn, là một điểm rất đặc trưng của xẩm. Đối với tôi, thì bu hát làn điệu nào cũng ngọt ngào và hết sức kinh điển.
RFI : Một trong những cái nét mà anh vừa nhấn mạnh, là cái sự phóng khoáng trong diễn xuất của người hát xẩm và đặc biệt là nghệ nhân Hà Thị Cầu, đúng không ạ ?
Bùi Trọng Hiền : Bản chất của mỗi làn điệu xẩm là mang tính dị bản rất lớn, mỗi người thể hiện một cách khác nhau và thậm chí cùng một người mỗi lần hát một cách khác nhau, nhưng nó lại có một lòng bản riêng của từng làn điệu (Hát minh họa hai câu trong bài Thập ân với các biến tấu khác nhau : « Mẹ mới có thai, kể từ một ân, thì con ơi, mẹ mới có thai. Âm dương nhị khí nào ai biết gì »).
Một tuyến giai điệu có thể hát dựng lên, hoặc hát luồn xuống là tùy theo các cảm hứng của người ta lúc ấy. Nhưng cái điểm vào đầu và điểm kết thúc phải xác định được theo điệu thức của làn điệu đó và cái khung lòng bản của làn điệu đó, ứng với lời thơ lục bát, thì nó sẽ ra được làn điệu Thập ân. Và đấy chính là độ giang hồ, hoang dã của xẩm, khiến cho cái độ phóng khoáng và mỗi người sẽ thể hiện vào đó một dấu ấn của riêng mình.
RFI : Thưa anh, xẩm được coi là nghệ thuật của những người có cuộc sống rất khổ ải. Điều này có đúng không và nếu đúng, thì được thể hiện như thế nào qua giọng hát của bà Hà Thị Cầu ?
Bùi Trọng Hiền : Có điều rất lạ là cuộc sống của những người xẩm ngày xưa được xếp vào ở tầng đáy của xã hội, bởi vì họ là những người bị hỏng mắt, thì âm nhạc trở thành cứu cánh của những người hỏng mắt, và vì thế họ tìm đến xẩm. Thì đấy là cái đầu tiên ta thấy.
Nhưng điều đặc biệt của hát xẩm, chúng ta tưởng tượng là, nếu như để kiếm sống, mà chỉ hát những khúc hát bi ai không, thì sẽ rất khó, cho nên là, anh muốn người ta nghe và người ta cho anh tiền, thì thường anh phải tìm đến những chủ đề đừng có quá buồn, quá bi lụy. Tôi cho rằng chính đặc điểm xã hội đấy, từ nhu cầu của đám đông đấy, nó dẫn đến trong xẩm là âm nhạc tươi sáng rất nhiều. Những cái điệu buồn rất ít, mà cái buồn chỉ là cái buồn man mác. Cái buồn nó không bi lụy, ai oán đến mức bi sầu, cảm thấy không lối thoát. Còn lại đa số là các làn điệu vui, tươi sáng.
Xẩm đủ bản lĩnh để hát về thời sự
Chúng ta biết rằng, trong xã hội có những thói hư tật xấu gì mà người ta muốn đả kích, thì xẩm rất nhanh nhạy, biến tất cả những câu chuyện ấy thành một bài thơ dài và bắt đầu hát. Tất nhiên là trong đám đông ở chợ, khi mà nghe thấy hát về một hiện tượng có tính thời sự như thế, thì lập tức người ta sẽ dừng lại nghe và người ta rất vui, vì đánh trúng vào thị hiếu của người ta mà. Chẳng hạn như có cô gái không chồng mà chửa, hay một cô gái lấy Tây đen, hay là có một ông nhà giàu keo kiệt, chẳng hạn, thì xẩm lập tức ứng biến ngay thành bài ca. Chúng ta biết trong thời chống Pháp, thì cuộc khởi nghĩa của Đội Cấn thất bại trên Thái Nguyên, thì khi đó ai là người dám nói ? Thời đó không có báo chí nhiều như bây giờ và những thông tin ấy tất cả đều thông qua xẩm hết. Và lập tức xẩm ở Hà Nội có một bài vè rất dài, gọi là « vè Đội Cấn ». Và cả trăm câu thơ đó, người xẩm đã sáng tạo ra và hát những nội dung có tính hết sức thời sự và đánh đúng vào tinh thần yêu nước, vào cái câu chuyện vừa mới nóng hổi. Và xẩm đủ bản lĩnh để hát những điều đó.
RFI : Anh nói đến một điều rất thú vị và quan trọng. Thế ở nghệ nhân Hà Thị Cầu, thì tính thời sự và cập nhật này được thể hiện như thế nào ?
Bùi Trọng Hiền : Trong những bài hát rất nổi tiếng của bà như « Dâu lười » và « Rể lười », chẳng hạn. Chúng ta biết là trong xã hội, chuyện trong một làng xóm, một vùng nào đó, chuyện gọi là dâu lười và rể lười là rất phổ biến. Chỉ có điều, không ai có thể đem công khai ra nói được. Bỗng nhiên, có một người xẩm hát một bài « Dâu lười », rồi sau đó người ta cứ tự vận vào, chắc là nói đến ông nào đó trong xóm nhà mình, hoặc gia đình mình, người ta nghe thấy đã quá. Có thể nói chuyện « Dâu lười » và « Rể lười » là một trong các chủ đề về thời sự rất đặc sắc mà bà còn nhớ lại được. Nó nằm trong kho tàng của xẩm cổ truyền. Về sau này, hầu như là bà rất ít « viết » bài ca mới, ngoài bài « Theo Đảng trọn đời » rất nổi tiếng, vào thời gian Việt Nam chống lại quân Trung Quốc xâm lược năm 1979. Còn phần lớn kho tàng bà hát thì phần lớn là xẩm cổ truyền, lời cổ truyền hết.
RFI : Nghệ nhân Hà Thị Cầu được coi là người hát xẩm cuối cùng, bà đã ra đi, vậy tương lai của môn nghệ thuật này sẽ ra sao ? 
Bùi Trọng Hiền : Những làn điệu xẩm vẫn còn lại. Còn lại trong các băng đĩa của các nhà nghiên cứu, còn lại trong một số nghệ sĩ đã học được một vài làn điệu, nhưng một nghệ sĩ xẩm đúng nghĩa của nó, một nghệ sĩ xẩm đích thực, thì đã chấm dứt cuộc sống. Cho nên, sự ra đi của bà cũng đặt dấu chấm hết cho nghệ thuật hát xẩm nói chung. Bà Hà Thị Cầu là người cuối cùng.
RFI xin chân thành cảm ơn nghệ sĩ Mai Tuyết Hoa, các nhà nghiên cứu Trần Quang Hải, Đặng Hoành Loan và Bùi Trọng Hiền đã dành thời gian cho tạp chí
Các bài liên quan

Thursday, March 14, 2013

SƠN TRUNG * GS. NGHIÊM THẨM


  HOÀI NIỆM GS. NGHIÊM THẨM

SƠN TRUNG 
Sinh ngày 13-5-1920, tại Hà Đông. Giáo sư Đại Học Văn Khoa và Quản thủ viện Bảo tàng Quốc Gia
Cư ngụ tại 290/27 Công Lý, Saigòn. 
Gia nhập :Socié té des Etudes Indochinoises.
Hội Việt Nam Liên Lạc Văn Hóa Á Châu.

THÀNH TÍCH VĂN HÓA:    
Ông viết  khoảng 30 bài, ở đây chúng tôi xin ghi lại 10 bài tượng trưng.
1. Introduction à Ethnographie du Vietnam.(Revue Văn Hóa Nguyệt San N0 75, Saigon, 1962.)
 2."Esquisse d'une étude sur les interdits chez les Vietnamiens" (Publication de l Institu de Recherches Archeologiques N0 8, Saigon, 1965.
3. Comment se pose la question des sources et des documents en Asie et en Afriques, notamment en ce qui a trait à l' histoire, à la philologie, au droit et plus généralement aux science humaines.(Publié dans " État et perspertives des etudes Affricaines et Orientales", Université de Montreal, 1964)
4.Towards understanding the origines of Vietnam (Revue "Asian culture", vol III, N0 2, Saigon 1961, publié par Vietnamese Association for Asian cltural relation).
5. Đi thăm kho tàng của các vua Chàm. Văn Hóa nguyệt san, số  56, 57; Saigon, 1960.
6. Sơ lược về các kho tàng chứa báu vật của các vua Chàm. Khào cổ tập san, số 1, Saigon, 1960. 
7. Công việc bảo tồn và trùng tu các cổ tích lịch sử và mỹ thuật. Quê Hương số 39, 1962. 
8. "Nguyễn Văn Học hay Trần Văn Học", Tạp chí Văn hóa nguyệt san, số 61, 1961.
9. Đồng bào Sedang. Quê Hương số 27, 1961.
10. Những thế kỷ đầu tiên của Phật giáo tại Việt Nam. Vạn Hạnh số 8, 9 năm 1966. 

QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC & CÔNGTÁC

Diplome de l' Ecole du Louvre  (Paris)
Diplome de Muséeologie ( Paris)
Được ủy nhiệm đi Hoa Kỳ 1960 để tổ chức cuộc triển lãm lưu động về Mỹ Thuật và Khảo cổ Việt Nam.
Chánh sự vụ viện Khảo Cổ (1957-1963)
Giám Đốc Viện Khảo Cổ ( 1964)
Chuyên viên tại viện Bảo Tàng Saigon (1965-1967)   
 Quản thủ viện Bảo Tàng Quốc Gia Saigon (từ 1968).
Giáo sư khoa Khảo cổ  và viện lịch sử mỹ thuật Đông Phương tại trường Quốc Gia cao đẳng Mỹ thuật Saigon (1067-1969).
Giáo sư Đại Học Văn Khoa Saigon  (từ 1961).
Hội viên Hội Đồng Dân Quân, ban Văn Hóa (1966-1967)
Chủ tịch tiểu ban Nghiên cứu các sắc dân thiểu số, Hội Đồng dân quân (1967)
Giáo sư tại Đại học Chiến tranh chính trị Da lat (từ 1966)
Hội viên ủy ban Khoa học Nhân Văn của Hội Đồng Quốc gia khảo cứu Khoa Học (Từ 1969)Đắc cử Hội viên Hội đồng Văn Hóa Giáo dục (1969) [1]

Đọc bài viết của Bạch Diện thư sinh, tôi có cảm hứng và có tài liệu để viết bài này. Trước 1975, tôi cùng làm việc với GS Nghiêm Thẩm tại Đại Học Văn Khoa Saigon. GS thuộc lớp thế hệ gìà, còn tôi thuộc thế hệ trẻ. GS dạy ban Nhân Văn, tôi dạy ban Văn Chương Việt Nam. Ban Văn Chương Việt Nam có môn phụ là Văn Minh Việt Nam, mời GS Nghiêm Thẩm dạy về môn Khảo cổ, chương trình của GS Nghiêm Thẩm là các nền văn minh cổ như Đông Sơn với trống đồng, búa cổ. Ban Văn Minh Việt Nam còn có GS Vũ Quốc Thúc dạy về pháp chế Việt Nam thời cổ.


Tôi it khi gặp GS và chuyện trò cùng GS Nghiêm Thẩm vì giờ giấc khác nhau .
Sau ngày 30- tháng 4-1975, trường chưa giải thể, chúng tôi phải học tập chính trị  hơn một năm. Lúc đó , tôi mới biết Bà Ngô Thị Dung là người vợ mới của GS. Bà vốn chuyên về tiếng Nhật, lúc đó cũng được tập trung học chính trị tại DHVK Saigon với chúng tôi. Một hôm tại Đại học Văn Khoa , bà đi trước, tôi đi sau, tôi mới thấy rõ tướng "xà hành" là như thế nào. Sách triết lý cũng như sách tướng Đông phương bao giờ cũng chú trọng bốn chữ "Quang Minh chính đại" . Sắc mặt tươi sáng thì tốt, mặt mũi, thân hình phải ngay chính. Miệng méo, vai lệch, tiếng nói không rõ, thân hình xiêu vẹo, tam đình bất cân là tướng tiểu nhân hoặc ít hưởng phúc lộc. Người xưa thường lấy cái cụ thể để nói về cái tượng trưng, hoặc lấy cái hình tướng này để nói về hình tướng khác. Cổ nhân lại ưa dùng lời văn bóng bảy Nếu không có thầy hướng dẫn, ta khó mà hiểu được. Thí dụ mũi rồng, mắt phượng thì hiểu làm sao vì không ai thấy rồng, thấy phượng. Nói dáng " tọa như sơn" thì nghĩa hiểu rõ nhưng thế nào là tọa như sơn". Điều mà ai cũng biết như sách nói "mao như thảo" nghĩa là lông như cỏ nhưng có ba bảy loại cỏ. Trên Long Khánh, hay Đà Lạt cỏ cao hơn đầu người vậy thì hiểu làm sao cho đúng.


Sau nghe tin GS Nghiêm Thẩm bị giết, búa bổ vào đầu, tôi mới nghiệm thấy cái tướng "xà hành" là không tốt cho chồng con.

Vài ngày sau, gặp GS Thanh Lãng, được GS cho biết trước đó vài hôm, GS Nghiêm Thẩm có đến thăm GS. Thanh Lãng, và ông cho biết trước đó một ngày, một con chim ở đâu bay tới sa xuống trước mặt ông, ông cho là điềm xấu và ông lấy làm bồn chồn, lo lắng. GS Nghiêm Thẩm lo lắng là phải vì dân ta ta có câu " chim sa cá nhảy " là độc lắm. Chúng tôi nghe chuyện, ai nấy buồn xo.


Khi sinh thời, GS Nghiêm Thẩm có tiếng trăng hoa, cho nên khi GS bị giết, ai cũng nghĩ rằng ông bị tình địch trả thù. Tuy nhiên, GS Nghiêm Thẩm cũng như GS. Phạm Văn Diêu có nhiều sách quý, Cộng sản không muốn hai ông mang sách quý ra ngoại quốc cho nên họ đã giữ hai ông ở lại. GS Phạm Văn Diêu là cháu họ Phạm Văn Đồng, người ta lại càng muốn không cho đi sợ tiết lộ bí mật quốc gia và thanh danh của thủ tướng. Cũng như bà Giáo sư, tiến sĩ Võ Hồng Anh, người phụ nữ đầu tiên của ngành vật lý Việt Nam con gái Võ đại tướng được tặng giải thưởng Kovalevskaia, được Mỹ mời qua dạy học, chắc là đảng không muốn bà đi..


Nay đọc tài liệu của Bạch Diện thư sinh thì tôi mới biết một khuôn mặt khác của người giáo sư đó. Té ra ông là một bậc chính nhân quân tử, "uy vũ bất năng khuất". Một khi đại vương hạ giá cầu hiền mà ông thẳng thắn từ chối thì ông quả có gan cóc tía, con người đó rất quý, không tìm thấy đủ trên mười ngón tay. Người ta hai lần cầu khẩn mà ông cương quyết thì ông can đảm hơn Trần Bình Trọng. Ông quyết liệt thì bọn họ sẽ không tha thứ!GS Nghiêm Thẩm tất biết họ dùng ông để làm gì. Họ dùng ông để ngụy tạo chứng cớ lịch sử để khoe mẽ với Nga Tàu và Quốc Tế. Ông đã quyết liệt nếu  mềm lòng, suốt đời ông sẽ là nô lệ của họ.
Trong thời gian đó tôi thấy có những vị ngày tháng quỳ mòn sân Ngô Tổng Thống, hoặc đức cha Ngô Đình Thục, giờ chót lại theo cờ đỏ... Thật sự có những ông rất khí tiết và hiểu đời. Khi cộng sản vào, GS Nghiêm Toản , GS Nguyễn Duy Cần lấy cớ già 70 lại bệnh tật nên xin về nghỉ. Tôi cũng thấy có ông ngày xưa nịnh hót khoa trưởng Bùi Xuân Bào, sau khi GS. Bùi Xuân Bào đi tù, vô cớ ông đứng lên chỉ trích  vắng mặt GS. Bùi Xuân Bào. Tôi nói vô cớ vì lúc đó không ai bắt ông phải chỉ trích, phê bình ai.  GS Lê Văn Diệm là con người lù đù, it nói nhưng đã đứng lên phản pháo ông nọ, cũng là con người can đảm. GS Bùi Xuân Bào là con người hiền lành. Khi ở tù về, ông thành thực than thở với tôi rằng Ông chỉ muốn qua Pháp để gặp vợ con". Đó cũng là con người hiền lành, gỉỏi chịu đựng.


Tôi cũng thấy có ông trên 80-90 tuổi, họ cho về hưu thì vẫn xin ở lại "học tập tốt, lao động tốt" để được lưu dung. Ông này lấy cớ học tập tốt để cho con ông một trung tá đang đi tù ở miền Bắc được sớm về đoàn tụ gia đình.Trước đây tôi cho ông là nịnh nhưng sau mới biết ông yêu cộng sản thật tình, ông không muốn con ông chạy theo "Mỹ ngụy" nên khuyên con ông ở lại để  hưởng độc lập tự do.


Sau 1975, chúng tôi mỗi người một phương tan tác, it khi nghe tin nhau. Nay được đọc bài của Bạch Diện thư sinh, lòng thêm mối cảm phục GS Nghiêm Thẩm.

______
[1] Hình ảnh và tiểu sử lấy từ    Niên Giám Văn Nghệ Sĩ và Hiệp Hội Văn Hóa Việt Nam 1969- 1970. Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn Hóa,    Saigon, 1970. tr.87.  Sau này, ông Nghiêm Trung gửi thư cho biết GS. NghiêmThẩm sinh năm 1918 chứ không phải 1920 và tháng mất của GS là 26/07/1979 chứ không phải là tháng 11.Xin cảm tạ.)

BẠCH DIỆN THƯ SINH * GS NGHIÊM THẨM

GS. Nghiêm Thẩm: Vị giáo sư anh hùng - Nhà khoa học chân chính

vnch SGUniversity

Sau ngày 30-4-1975, nhiều giáo sư các Đại học miền Nam bị loại ra khỏi Đại học. Một số giáo sư tìm cách vượt biên, một số bất hợp tác thẳng thừng, một số chấp nhận hợp tác, hợp tác miễn cưỡng hay hợp tác tự nguyện. Có một sự thật phũ phàng là, hợp tác tự nguyện hay hợp tác miễn cưỡng, các vị giáo sư ấy đều bị kì thị và không được tin dùng. Thêm một sự thật khác nữa, đó là các vị ấy thường xuyên nhận được lệnh phải viết lách hoặc thực hiện những công trình “khoa học” nhằm phục vụ nhu cầu chính trị.  Trong cuốn Bên Thắng Cuộc của Huy Đức vừa mới được phổ biến, có đoạn trích lời phát biểu của Huỳnh Kim Báu, Tổng thư ký Hội Trí thức Yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh xác nhận sự thật ấy: “Những năm ấy, các trí thức Sài Gòn vẫn nhận được điện thoại từ Văn phòng Thành ủy hỏi xem: ‘Có công trình khoa học chào mừng 3-2 hay 19-5 không?’. Những Giáo sư như Phạm Biểu Tâm, Lê Văn Thới thì mắng ngay: ‘Không có thứ khoa học nào gọi là khoa học chào mừng cả’. Nhưng một số người khác thì có, người thì làm ra chất tẩy rửa ‘pentonic’, người chứng minh ‘ăn mấy ký khoai mì bổ bằng một ký thịt bò’, người thì ‘ăn bo bo nhiều dinh dưỡng hơn cả gạo’. Nhưng ngay cả những ‘nỗ lực’ đó cũng không giúp kiến tạo được lòng tin”. (Huy Đức. Bên Thắng Cuộc. Cuốn I, Phần I: Miền Nam, Chương VI: Vượt Biên. Bodoilambao.wordpress.com).

Trong số những giáo sư Đại học ở lại và hợp tác miễn cưỡng, đã nổi bật lên một vị giáo sư anh hùng, dám đem mạng sống của mình để bảo vệ danh dự của một nhà giáo, một nhà khoa học chân chính. Vị giáo sư đó chính là Giáo sư Nghiêm Thẩm, Giám đốc Viện Bảo tàng Sài Gòn, giáo sư Đại học Văn khoa Sài Gòn và cũng là giáo sư của hầu hết các Đại học công tư ở miền Nam hồi đó.

Thân thế

Gs. Nghiêm Thẩm  sinh năm 1920, tại huyện Đông Anh, tỉnh Vĩnh Yên (nay thuộc Hà Nội); là con thứ 5 của cụ Nghiêm Hoàn Luyến, người làng Hòa Xá, phủ Ứng Hòa,  Hà Nội.

Dòng tộc Gs. Nghiêm Thẩm, lớp trước, có nhiều người xuất thân khoa bảng, quan lại. Thế hệ sau, ở miền Bắc, có người là thứ trưởng, đại sứ, doanh gia; ở miền Nam, người anh thứ ba của Gs. Nghiêm Thẩm là Gs. Nghiêm Đằng, nguyên Phó Viện trưởng Học viện Quốc gia Hành chánh và anh thứ 4 là Nghiêm Mỹ, Đại sứ Việt Nam Cộng hòa ở Malaysia, Jordan và New Zealand. (Xin xem Bài Phát Biểu của Ông Nghiêm Kiến Nam trong buổi lễ kỉ niệm ngày húy 90 năm của Cụ Bảng Mai Lâm Nghiêm Châu Tuệ tổ chức ngày 18.9.2011.  Nghiemchungtam.wordpress.com)

Sau khi tốt nghiệp Trung học ở Hà Nội, ông được gửi sang Pháp, học trường École du Louvre, Paris, ngành bảo tàng (de Muséologie).

Năm 1956, ông về nước.  Từ đó, ông lần lượt đảm trách nhiều công tác văn hóa giáo dục:
- Phục vụ tại Viện Khảo cổ Sài Gòn, đặc trách khai quật di tích lịch sử Óc Eo (Ba Thê, An Giang); hướng dẫn các đoàn đi nhiều nơi ở miền Nam để khai quật những di chỉ khảo cổ.
- 1961, được bầu làm thành viên Hội đồng điều hành khóa 10 Hội Tiền sử Viễn Đông (Far Eastern Prehistory Association - FEPA). Cũng trong năm này, ông được mời làm giáo sư ngành nhân chủng học tại Đại học Văn khoa Sài Gòn và Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định.
-  Năm 1964, ông được mời làm Giám đốc Viện Khảo cổ Sài Gòn và giáo sư tại Đại học Vạn Hạnh vừa mới thành lập; đồng thời, được mời làm cố vấn xây dựng chùa Vĩnh Nghiêm.
- Năm 1966, được mời giảng dậy tại trường Đại học Chiến Tranh Chánh Trị Đà lạt.
- Năm 1968, Quản thủ Viện Bảo tàng Quốc gia Sài Gòn.
-  Năm 1969, Ủy viên Ủy ban Khoa học Nhân văn của Hội đồng Quốc gia Khảo cứu khoa học Việt Nam Cộng hòa.

Sau 30 tháng 4 năm 1975, Gs. Nghiêm Thẩm ở lại và tiếp tục được coi là nhân viên giảng huấn như trước.  (Chúng tôi chưa biết Gs. Nghiêm Thẩm “được phép” dậy môn gì).

Cuối tháng 11 năm 1979, Gs. Nghiêm Thẩm bị giết chết một cách tàn ác tại nhà riêng số 29/27 Nam Kỳ Khởi Nghĩa (tên cũ: đường Công Lý), phường 8, quận 3,Tp. HCM.

Những công trình khảo cứu

Gs. Nghiêm Thẩm để lại nhiều công trình nghiên cứu nhân chủng và khảo cổ quý báu cho đời sau (theo Wikipedia).

1. "Tôn giáo của người Chăm ở Việt Nam", Quê-hương bộ 2 tập I, tháng 4/1962, tr. 108-123. (tài liệu tham-khảo đã được Pierre Bernard Lafont nhắc lại trong "Contributions à l'ètude des structures sociales des Chams du Viêt-nam", Bulletins de l'Ecole francaise d'Extreme-Orient, No 1/volume 52,p157 - p171, 1964).

2. "Sơ lược về các kho tàng chứa bảo vật của các vua Chăm", "Việt-nam khảo-cổ tập san', số 1, 1960, Saigon Tham khảo bổ-túc cùng tác-giả Văn-hóa Nguyệt-san, số 56, trang 1359-1366, 1960 và Văn-hóa Nguyệt -san, số 57, trang 1567-1575, 1960 "Đi thăm kho tàng các vua Chăm".

3. "Esquisse d'une étude sur les interdits chez les Vietnamiens" (tiếng Pháp), Ministère de la culture et de l'éducation la République du Vietnam, 1965, 240 trang. Tủ sách Viện Khảo Cổ ( trích đoạn: "le nom d'une personne fait partie integrante de son individu. On doit ménager ces noms individuels comme si l'on a affaire avec la substance precieuse et sacrée qu'est l'âme.(tr.74)" [tham khảo bổ túc "Interdits concernant les noms imperiaux sous le règne des Nguyễn" Tạ quang Phát, tập san khảo cổ 4, Saigon, 1966, pp 52–84].

4. "Tương quan giữa Sử địa và Nhân chủng học", Tập san Sử địa cuốn 1, th.1,2,3, 1966.

5. "Công trình sư Trần Văn Học", Tạp chí Văn hóa, số 61, 1962.

6. "Tìm hiểu đồng bào Thượng" Tạp chí Quê-hương, số 31, giêng/1962, tr 130-150 Bản dịch tiếng Anh của Voth Donald E. "Seeking to understand the highlanders: the two tribal kingdoms of the vietnamese Court in the past, king of Fire (Po Tau Pui) and King of Water(Po Tau Ea)". South-East Asia. An international quarterly, vol 1, pp335–363, 1971.Tham-khảo bổ-túc tư-liệu của ông Adhemar Leclere "Compte-rendus des seances de l'Academie des Inscriptions et Belles Lettres 3903, vol 47, issue 4, pp 369-378. Bị vong lục của Công-sứ Pháp tại Cao-miên, Adhemar Leclere, phúc-trình Hiến-chương về việc sáng-lập một Đại thọ lâm Phật giáo "veah" (Vihara), ở Sâmbok (tỉnh Kratie), mà quốc vương Cao-miên Sauriyopor, gọi là "ngọ môn"(threa nokor) trong đó có nhắc đến các "Vua Lửa" (Hỏa xá) & "Vua nước" (Thủy xá) mà hai vương quốc Cao-miên và Ai-lao phải triều cống cứ ba năm một lần (kèm theo danh sách dài các loại cống-vật), ngoài ra cón cam kết sẽ bảo-lãnh chu toàn việc hậu sự cho các tiểu vương Hỏa xá và Thủy xá nếu một trong hai vị này băng hà. Vihara (đại tòng lảm) Sâmbok, khoảng 10 kms bắc Kratíe (Kracheh), hay, Wat Phnom Sâmbok, dựa theo hiến chương này được sáng lập vào năm 1601. Bản phúc-trình của Công sứ Leclere được in bởi nhà Alphonse Picard & fils, libraires des archives nationales et de la Sociéte de l'École des Chartes, 82 rue Bonaparte, Paris 6.

7. "Kĩ thuật Bảo tàng học và giáo dục căn-bản", 96 trang, UNESCO, Saigon, 1959 (dịch).

8. "Persistence culturelle du substrat indonesien chez les Vietnamiens" (Sự tồn tại của bản chất Indonesien trong nền văn hóa Việt Nam) ngày 11 tháng 9 năm 1961.

9. Tờ trình về việc đi xem công tác xây cất hai ngôi đền tại Kalong và tại Sopmadronhay, để chứa bảo vật của các vua Chăm, và ghé thăm các Tháp Po Dam, tháp Phố Hài (Pajai), còn gọi Tháp Po Sah Inư trên Đồi Bà Nài và đền thờ vua Po Nrop (đồng tác giả với Lưu Quý Tân).

10.  Phúc trình việc đi tiếp nhận những tảng đá chạm tại trường tiểu học Tam Hiệp, quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường.(chú giải: v/v những tảng đá chạm, yêu cầu bạn đọc nên tham khảo bổ túc ở Louis Malleret, "II. Pierres gravées et Cachets de divers pays du Sud-Est de l'Asie, trường Viễn Đông Bác Cổ, B.E.F.E.O, vol 51, issue 51-1, pp 99–116, 1963).

11.  R.Y. Lefebvre D'Argencé, Les céramiques à base chocolatée au musée Lous  Finot de l'Ecole francaise d'Extrême-Orient à Hanoi.

Đời tư

Có 3 vị phụ nữ đã chính thức đi qua cuộc đời Gs. Nghiêm Thẩm:  Hồi còn học bên Pháp, ông sống chung với bà Gerda Meta Nielsen, một nghệ sĩ phong cầm người Đan Mạch. Ông bà có với nhau 1 con gái tên là Đan Tuyết Thẩm Nghiêm, sanh năm 1956,  tên đầy đủ là Ester Bondo Đan Tuyết Thẩm Nghiêm.

Đi du học về, ông thành hôn với Bà Ds. Đỗ Thị Thuần Bích. Bà là giáo sư dậy tại trường đại học Dược khoa Sài Gòn.  Gs.Thuần Bích sinh 2 con trai, Nghiêm Thẩm Đan Nghị và Nghiêm Thẩm Đan Đại.  Năm 1977, Bà Thuần Bích đưa 2 con đi vượt biên và định cư tại Hoa Kì. Bà đã qua đời tại Sacramento, CA., vào năm 2010.

Sau khi Bà Ds. Thuần Bích đi vượt biên được một thời gian, Gs. Nghiêm Thẩm  sống chung với Bà Ngô Thị Dung.  Bà Ngô Thị Dung giảng dậy tiếng Nhật tại Đại học Tổng hợp Thành phố HCM (Đh. Văn khoa cũ) sau ngày 30.4.1975.

Phong cách

Gs. Nghiêm Thẩm là một trí thức thứ thiệt, có cuộc sống giản dị, thanh bạch. Phong thái ông an nhiên, tự tại; nét mặt thường tươi vui, hiền lành. Ông cười bằng miệng và cả bằng mắt. Chiếc tẩu hút thuốc “pipe” coi như là vật tùy thân của ông.  Gs. Đỗ Khánh Hoan, Trưởng Ban Anh văn Đại học Văn khoa Sài Gòn trước 30.4.1975, đồng nghiệp lâu năm của Gs. Nghiêm Thẩm, nhận xét về Gs. Nghiêm thẩm như sau: “Theo chỗ tôi biết Gs. Thẩm hiền lành, không gây thù chuốc oán với ai, không ganh đua kèn cựa với ai, coi mọi thứ như 'nơ pa.'” (Email của Gs. Đỗ Khánh Hoan ngày 02.02.2013).

 Mức lương một giáo sư Đại học ở miền Nam thời ấy đâu đến nỗi nào, song suốt bao năm, ông rong ruổi khắp mọi con đường Sài Gòn chỉ với một cái xe đạp, đàng sau ràng chiếc cặp samsonite đựng tài liệu giảng dậy. Bọn đạo chích đã từng chiếu cố chiếc samsonnite này của ông nhiều lần! Những thứ đó làm nên dáng dấp và phong cách độc đáo rất dễ mến của Gs. Nghiêm Thẩm.

Có lẽ của cải vật chất qúy giá nhất của ông là căn nhà do chính phủ Đệ nhất Cộng hòa cấp cho.  Gia đình ông đã sống tại đây trên 20 năm và cũng chính tại nơi đây, ông đã bị thảm sát.

Cuộc sống Gs. Nghiêm Thẩm tuy thanh bạch về của cải vật chất, song trong căn nhà ông, chất chứa cả một kho tàng văn hóa vô giá.  Thật vậy, chỉ cần phát mại một pho tượng đồng đen hay một chiếc búa khảo cổ không thôi, ông đã có thể kiếm được một món tiền khá lớn, đấy là chưa kể đến tủ sách hiếm qúy của ông. Còn nhớ, khi được Gs. Nghiêm Thẩm nhận đỡ đầu tiểu luận, ông đã đưa tôi lên lầu thăm kệ sách của ông kê chung quanh phòng ngủ.  Ông hãnh diện bảo tủ sách của ông có những cuốn hiện ở cả miền Nam không đâu có. Liên tục trong nhiều năm, giáo sư đã chi tiêu một khoản tiền khá lớn để thuê người đóng bìa cứng cho những cuốn sách hiếm qúy mà ông sưu tầm được. Đương nhiên những cuốn sách này là vô giá trong thị trường văn hóa, chữ nghĩa.

Cái chết anh hùng của một nhà giáo, một nhà khoa học chân chính

Gs. Đỗ Khánh Hoan cho biết: Gs. Nghiêm Thẩm chỉ miệt mài nghiên cứu và giảng dậy, không bao giờ dính dáng chuyện chính trị (qua cuộc tiếp xúc điện thoại với Gs. Đỗ Khánh Hoan ngày 08 và 09, 01. 2013) .

Ai cũng nghĩ, sau 30.4.1975, một người luôn luôn xa tránh chính trị như Gs. Nghiêm Thẩm, sẽ được sống an thân dưới chế độ mới. Đáng tiếc, điều đó đã sai.  Bởi vì, dưới chế độ Cộng Sản, tất cả đều phải phục vụ chính trị, đều phải phục vụ tuyên truyền.  Chống chế độ, đương nhiên sẽ bị chế độ bóp nát. Không chống chế độ, nhưng không chịu làm tay sai cho chế độ, cũng bị chế độ nghiền nát.

Đó là trường hợp Gs. Nghiêm Thẩm.

Hồi tưởng, khoảng gần cuối tháng 4 năm 1975, vì có việc phải vào gặp Ông Chấn tại Văn phòng Đại học Văn khoa Sài Gòn;  khi đi ra ngang cửa Câu lạc bộ Văn khoa, tôi gặp Gs. Nghiêm Thẩm.  Ông vẫn xách chiếc samsonite như mọi khi, nhưng khuôn mặt ra chiều rất đăm chiêu.  Tôi chào ông và hỏi ông tình hình rồi sẽ ra sao. Giáo sư bảo:  “Hết rồi. Sài Gòn sẽ như Nam Vang” (Nam Vang thất thủ ngày 17. 4. 1975).  Ông còn nói như  tiên tri: “Đại sứ Mĩ  Martin (Graham Martin) sẽ cuốn cờ, leo lên máy bay trực thăng mà đào thoát y như Đại sứ Mĩ  Dean (John Gunther Dean) ở Nam Vang”. Tôi hỏi tiếp: “Thầy có đi không”.  Ông buồn buồn bảo:  “Tôi không đi.  Tôi già rồi, đi làm gì”. Đó là lần cuối cùng tôi gặp Gs. Nghiêm Thẩm.

Năm 1988, đi tù cải tạo về, nghe tin Gs. Nghiêm Thẩm đã bị sát hại, tôi rủ anh Nguyễn Văn V. tới thăm Gs. Toan Ánh và cũng để hỏi về cái chết của Gs. Nghiêm Thẩm.  (Anh NVV. là giáo sư Trung học, cũng đi tù cải tạo về vì tội chống đối nhà trường XHCN).

Theo lời Gs. Toan Ánh kể cho hai chúng tôi thì Gs. Nghiêm Thẩm vẫn thường hay lên nhà ông chơi.  Rồi, một sáng, Gs. Nghiêm Thẩm từ nhà Gs. Toan Ánh đạp xe về nhà, khi bước lên lưng chừng cầu thang, Gs. Nghiêm Thẩm đã bị một tên hung thủ dùng cái búa khảo cổ của ông đập vào đầu ông tới chết. Một điều đáng ngạc nhiên là, không biết căn cứ vào đâu, Gs. Toan Ánh nghi ngờ nguyên do vụ án mạng là vì tình.

Khi sang tới Hoa Kì, tình cờ tôi được đọc cuốn “Rồng Xanh Ngục Đỏ” (Hội Hữu xuất bản tại Hoa Kì năm 1986) của Lm. Vũ Đình Trác, trong đó có nói về cái chết của Gs. Nghiêm Thẩm.

Lm. Vũ Đình Trác và Gs. Nghiêm Thẩm quen nhau và trở thành đôi bạn thân từ năm 1978 khi hai vị, như hầu hết các giáo sư Đại học còn ở lại, đã gia nhập vào các nhóm nghiên cứu văn hóa thành lập sau 30.4.1975. Vì say mê khảo cổ, cho nên khi nghe Lm. Vũ Đình Trác nói ông có Cuốn Bách Việt Tiên Hiền Chí, trích ra từ Đại Bộ Dã Sử Trung Hoa Lĩnh Nam Di Thư, ngay lập tức, Gs. Nghiêm Thẩm tìm tới làm quen với Lm. Vũ Đình Trác.  Rồi từ chỗ trao đổi sách cổ và tài liệu cổ, hai vị trở thành đôi bạn tri kỉ, tâm giao.

Lần đầu tới thăm Gs. Nghiêm Thẩm, Lm. Vũ Đình Trác ngạc nhiên được biết thêm Gs. Nghiêm Thẩm đang sống chung với bà Ngô Thị Dung.  Sau 30.4.1975, bà Ngô Thị Dung dậy Nhật ngữ tại Đại học (Văn khoa cũ).  Lm. Vũ Đình Trác quen biết Bà Ngô Thị Dung hồi cả hai còn học bên Nhật.  Gs. Nghiêm Thẩm nói ông và bà Ngô Thị Dung đã làm hôn thú để làm đơn xin đi đoàn tụ với ba má bà đang sống ở Canada.

Trong thời đại “đồ đểu cáng” sau 30.4.1975, dưới những con mắt tham lam và tàn ác của những ông kẹ văn hóa, việc sở hữu những đồ cổ và sách cổ qúy giá cũng trở thành một mối lo hại thân cho các khổ chủ .

Cho nên Gs. Nghiêm Thẩm phải dặn dò Lm. Vũ Đình Trác: “Linh mục phải giữ bí mật những tài liệu cổ này, kẻo tụi nó đánh hơi được thì phiền to; chiếc búa khảo cổ của tôi, tụi nó cũng đã biết rồi, mà cứ nay đứa này, mai đứa khác đến hỏi thăm và đòi xem” (Sđd. Trang 253).

Còn Bà Ngô Thị Dung thì thổ lộ: “Anh Thẩm là một nhà khoa học thuần túy, nên anh thiếu sự đưa đẩy uyển chuyển, khi giao tiếp với công an cán bộ”.  Bà cũng nói thật “ Anh Thẩm qúy cha lắm, mới tiết lộ những bí mật của anh như thế” (Sđd. Trang 253).

Thêm vào đó, sau khi chiếm trọn miền Nam, với khí thế thắng lợi ngút trời, Lê Duẩn và Lê Đức Thọ bộc lộ tham vọng muốn làm bá chủ toàn vùng Đông Nam Á.  Trên thực tế, vào thời điểm đó, CSVN đã chiếm đóng Lào, rồi Kampuchea, và đang chuẩn bị “giải phóng” Thái Lan. Để thực hiện âm mưu, họ tích cực chuẩn bị mọi mặt.  Trong kế hoạch chuẩn bị, họ toan tính lợi dụng chất xám của trí thức để đánh mặt trận tâm lí, khơi dậy ý chí quật cường và lòng kiêu hãnh dân tộc. Đây là điểm  khởi đầu cho tai họa sắp đổ ập xuống cuộc đời của một trí thức thứ thiệt như Gs. Nghiêm Thẩm.

Đúng như vậy. Gs. Nghiêm Thẩm đã tâm sự với Lm. Vũ Đình Trác chuyện Tổng Bí thư đảng CSVN Lê Duẩn, với sự tháp tùng của Nguyễn Tuân, đã vào Nam và cho mời Gs. Nghiêm Thẩm tới khách sạn Majestic mà đãi đằng, khen ngợi, rồi “đưa đơn đặt hàng” cho ông.

Cuối bữa tiệc thịnh soạn, Lê Duẩn nói với Gs. Nghiêm Thẩm:  “Anh Nghiêm Thẩm, chắc anh biết: cả thế giới đang coi Việt Nam mình như “đỉnh cao trí tuệ loài người” mà anh cũng được vinh dự ấy.  Việt Nam chúng ta phải làm chủ miền Đông-Nam-Á này.   Mọi yếu tố làm chủ hầu như đã đầy đủ, chỉ còn thiếu một điều…

Từ trước tới nay, mấy thằng chép sử “nhãi ranh’ vẫn cho rằng: nguồn gốc các sắc tộc miền Đông-Nam Á-Châu này là Mã Lai hay Indonesien.  Đại Nga-xô mới tìm được ít dấu vết chứng tỏ rằng Việt Nam chúng mình mới là thủy tổ.  Chúng ta đang làm lại lịch sử Đông-Nam Á-Châu.  Khoa nhân chủng học và khảo cổ của ta lúc này đang phát đạt vô biên, nên anh phải nắm lấy cơ hội này, với uy tín sẵn có của anh, anh phải viết một bài lớn, thẩm định lại: Dân Việt Nam là thủy tổ các dân tộc Đông-Nam Á-Châu.  Như thế mới đúng ý nghĩa của “Đỉnh cao trí tuệ loài người” và mới xứng đáng tài năng hiếm có của anh”.

Tôi im lặng một phút…trả lời hắn:  “Uy tín của tôi lúc này là nói đúng và nói thật.  Theo các tài liệu khoa học hiển nhiên, nhất là khoa khảo cổ học và nhân chủng học quá rõ ràng, tôi không thể viết thế khác được.  Viết như đồng chí nói là phản khoa học”.

Hắn mỉm cười, bảo tôi:  “Anh nói thế tức là còn đang ở trong vòng gò bó của sách vở, của óc đế quốc, của hủ lậu, chứ không theo sử quan một tí nào cả”.

Tôi cảm thấy tức đầy ruột…nên tôi hơi bạo lời:  “Nếu tôi viết như thế, thì các nhà khảo cổ và nhân chủng học trên thế giới sẽ cho tôi và cả chế độ tôi phục vụ là con chó chết.  Tôi không bao giờ làm chuyện sa đọa ấy”.

Lê Duẩn vẫn không lộ vẻ tức giận.  Hắn hỏi tôi vắn tắt:  “Anh nhất định không làm chuyện đó?”.

Tôi bỗng tìm được một danh từ xưng hô, trả lời hắn:  “Tôi không thể đáp ứng yêu cầu của đàn anh trong việc này”.

Lê Duẩn ném cho tôi một cái nhìn có vẻ dữ tợn với câu nói cộc lốc:  “Anh nhất định thế…Mong anh đổi ý”.

Tôi cũng nhìn thẳng vào mặt hắn, trả lời cương quyết:  “Tôi không bao giờ đổi ý”.

Hắn đi ra, không nói thêm nửa lời.

Tôi coi đó như một biến cố đổ vỡ trong đời tôi, dưới chế độ khốn nạn này.  Nhưng tôi thà tan vỡ cả tấm thân với cả chế độ này, còn hơn đổ vỡ cho đất nước tôi, cho chí hướng và danh dự học thức của tôi” (Sđd. Trang 254, 255,256).

Sau lần gặp Lê Duẩn, Gs. Nghỉêm Thẩm sống thấp thỏm, lo âu, chờ đợi một điều gì đó không hay xẩy ra cho ông.  Nhưng rất bất ngờ, giáo sư lại được mời đi họp một lần nữa.  Người mời lần này là Bộ trưởng Thông tin Văn hóa CSVN Nguyễn Văn Hiếu.  Tháp tùng Bộ trưởng Thông tin Văn hóa còn có Gs. Phạm Huy Thông, Viện trưởng Viện Khảo cổ Hà Nội và mấy viên bộ trưởng khác.  Nơi hội họp là khách sạn Hữu Nghị.  Thời gian họp kéo dài ba bốn ngày.  Đưa rước bằng xe Mercedes.  Ăn uống sang trọng.  Mục đích được cho biết là chuẩn bị tham dự Đại hội khảo cổ sắp diễn ra ở Moscow.  Họ yêu cầu Gs. Nghiêm Thẩm đóng góp tài liệu và kiến thức; họ nói úp mở có thể sẽ mời giáo sư tham gia phái đoàn.

Đáp lại, Gs. Nghiêm Thẩm dứt khoát không chấp nhận đưa ra quan điểm nào khác, ngoài sự tôn trọng tính khách quan của những tài liệu khảo cổ và giáo sư cũng ngỏ ý xin được miễn tháp tùng phái đoàn đi Moscow, viện cớ “tôi có nhiều ý kiến đối nghịch, sẽ bất lợi cho Đại hội” (Sđd. Trang 256).

Trước thái độ cương quyết của Gs. Nghiêm Thẩm, viên bộ trưởng nói:  “Cái đó tùy anh” và “Anh chưa đủ thành thực”.

Gs. Nghiêm Thẩm nói với Lm. Vũ Đình Trác:  “Tôi nghe câu đó như một bản án kết tội; từ đó, tôi bắt đầu chán sống.  Bà NTD (Ngô Thị Dung) bảo tôi: thái độ như vậy không hay.  Coi chừng tụi nó cho mình là phản chế độ, là bất hợp tác.  Anh nên mềm dẻo với tụi nó thì hơn” (Sđd. Trang 257).

Chuyện Gs. Nghiêm Thẩm bị bọn Cộng sản làm phiền cũng được Gs. Đỗ Khánh Hoan xác nhận qua email ông gửi cho tôi ngày 02.02.2013 như sau: “…Nhiều lần gặp nhau anh (tức Gs. Nghiêm Thẩm) chỉ nói: Bọn nó muốn 'toucher' moa nhưng moa không thích, dính vào tụi nó bẩn người và khó chịu lắm. Họa chứ không phải phúc đâu, Hoan! Moa chỉ mong nó bảo nhau đến nhận chìa khóa cơ sở là moa bai bai!”.

Vào thời điểm đầu Tháng 11.1979, Gs. Nghiêm Thẩm rất bi quan, chán nản; thậm chí có lần ông còn thổ lộ với Lm. Vũ Đình Trác là ông muốn vào đạo Chúa, mong nấp bóng từ bi của Ngài và được Ngài an ủi, phù trì.

Nỗi chết chóc càng ngày càng ám ảnh tâm trạng Gs. Nghiêm Thẩm.

Tuy rất thông cảm tâm trạng u uẩn của bạn, nhưng Lm. Vũ Đình Trác không biết làm gì để giúp bạn.  Rồi vì phải đi Cần Thơ giảng dậy lớp Đông y, linh mục buồn bã chia tay Gs. Nghiêm Thẩm, ông nói với giáo sư:  “Số phận chúng mình dưới chế độ Cộng sản chỉ có thế”.

Sau mấy tuần đi dậy ở miền Tây, Lm. Vũ Đình Trác trở lại Sài Gòn và tới thăm Gs. Lê Tôn Nghiêm (cựu linh mục, giáo sư Triết học).  Gs. Lê Tôn Nghiêm cho linh mục biết Gs. Nghiêm Thẩm đã bị sát hại cách đó 2 tuần, tức là vào cuối Tháng 11.1979.

Theo sự tường thuật của Lm. Vũ Đình Trác thì vụ sát hại Gs. Nghiêm Thẩm xẩy ra vào lúc 11 sáng.  Thủ phạm là  2 tên lạ mặt.  Chúng tông cửa vào nhà và móc súng ra, uy hiếp Gs. Nghiêm Thẩm phải giao ra chiếc búa khảo cổ của ông. Khi lấy được chiếc búa khảo cổ, một tên dùng chính chiếc búa khảo cổ đập 3 búa lên đầu giáo sư, rồi chúng tẩu thoát cùng với chiếc búa cướp được. Gs. Nghiêm Thẩm nằm chết trên vũng máu.  Lúc xẩy ra án mạng, bà Ngô Thị Dung không có ở nhà chỉ có cô cháu lén nhìn trộm thấy mọi diễn biến.

Cô cháu vội đi tìm bà Ngô Thị Dung.  Công an tới lập biên bản và niêm phong tủ sách của giáo sư.

Bà Ngô Thị Dung lo việc mai táng cho Gs. Nghiêm Thẩm. Có một ít đồng nghiệp tiễn đưa giáo sư ra nghĩa trang.

Sau lễ an táng, một số giáo sư thân hữu đã ngồi lại với nhau để hồi tưởng về Gs. Nghiêm Thẩm.  Qua trao đổi tâm tình, các vị biết được Gs. Nghiêm Thẩm đã thổ lộ tâm sự bi quan, yếm thế với 6 thân hữu khoảng 10 ngày trước khi ông bị thảm sát.

Gs. Lê Tôn Nghiêm và Gs. NTN (chưa đoán ra là vị nào) mời thân hữu nâng li, đang khi đó Gs. TNT ngâm lên bài thơ chiêu hồn thống thiết:

Nghiêm Thẩm! Nghiêm Thẩm!
Anh là đỉnh cao của hoa gấm Giang sơn,
Anh ra đi mang nặng những oán hờn.
Có khôn thiêng, xin hãy về chứng giám
Vạn lòng thành, vạn niềm tin tưởng niệm
Của anh em trí thức dưới trời Nam.
Nguyện làm gió quét sạch lũ sài lang,
Nguyện làm mưa cho quê hương mát mẻ,
Nguyện làm nắng cho rực màu đất mẹ,
Nguyện làm trăng gieo rắc ánh thanh bình.

Vài nhận xét:

1. Về thời điểm: Wikipedia và vietgle.vn đều chỉ nói vắn tắt Gs. Nghiêm Thẩm bị cướp giết chết tại tư gia vào năm 1982.

Thiển nghĩ, thời điểm 1982 không chính xác. Xin nêu 2 bằng chứng:

Một là, Gs. Đỗ Khánh Hoan cho chúng tôi biết ông đã nghe tin Gs. Nghiêm Thẩm bị sát hại trước khi ông vượt biên vào Tháng 12.1979.  Vậy vụ thảm sát Gs. Nghiêm Thẩm không thể nào xẩy ra sau ngày Gs. Đỗ Khánh Hoan vượt biên được (qua cuộc điện thoại của tôi với Gs. Đỗ Khánh Hoan vào ngày 08 và 09. 01. 2013).

Hai là, trong hồi kí “Rồng Xanh Ngục Đỏ” (Sđd), Lm. Vũ Đình Trác nói ông chia tay Gs. Nghiêm Thẩm vào đầu Tháng 11.1979 để đi Cần Thơ giảng dậy lớp Đông y.  Khi ông trở về Sài Gòn thì Gs. Lê Tôn Nghiêm cho biết Gs. Nghiêm Thẩm đã bị sát hại cách đó 2 tuần, tức là vào cuối Tháng 11.1979.  Năm sau, Lm. Vũ Đình Trác vượt biên vào Tháng 5.1980.

Với 2 bằng chứng khả tín này, có thể khẳng định Gs. Nghiêm Thẩm bị sát hại vào Tháng 11 năm 1979 chứ không phải là năm 1982.

2. Về thủ phạm và cách gây án: Gs. Toan Ánh và Lm. Vũ Đình Trác đều nói Gs. Nghiêm Thẩm bị hung thủ đập vào đầu đến chết bằng cái búa khảo cổ qúy giá của ông.  Nhưng Gs. Toan Ánh lại nghi sát thủ là một tay gian phu, cho nên chắc hung thủ chỉ có một tên mới hợp lí.  Đang khi đó, theo Lm. Vũ Đình Trác thì hung thủ là 2 tên lạ mặt.

Mặc dù chúng tôi biết rõ Gs. Toan Ánh vốn là bạn thâm giao của Gs. Nghiêm Thẩm, nhưng không hiểu ông căn cứ vào đâu để nêu lên nghi vấn một tên gian phu  đã gây nên cái chết của Gs. Nghiêm Thẩm.  Đàng khác, nghi vấn này xét thấy càng vô lí hơn, vì bất cứ tên gian phu nào cũng như bất cứ người nào muốm cắm sừng lên đầu người phối ngẫu của mình, tối thiếu, đều phải tính toán cẩn thận giờ giấc sinh hoạt của nạn nhân và phải chọn thời điểm và nơi hành sự cho an toàn, kín đáo.

Nếu vụ án Gs. Nghiêm Thẩm là do một tên gian phu thì quả là y quá ngang nhiên và quá táo bạo, cho nên mới dám vi phạm những điều cấm kị sơ đẳng của một kẻ gian. Thiển nghĩ, cái nghi vấn của Gs. Toan Ánh sẽ mãi mãi chỉ là một nghi vấn có tính cách “tiêu cực”, trừ khi những người trong cuộc còn tại thế chịu lên tiếng.

Cũng không loại bỏ cái nghi vấn của Gs. Toan Ánh là do bị ảnh hưởng bởi thủ đoạn đánh lạc dư luận của những kẻ phạm án.  Biết đâu chúng đã thi hành âm mưu bắn một mũi tên mà giết được 2 con chim: tức là chúng giết Gs. Nghiêm Thẩm rồi cho Công an lập ra một biên bản gian trá, trong đó dàn dựng thủ phạm sát nhân là một tên gian phu.  Làm thế, chúng vừa làm mất danh dự vừa bịt miệng vị phụ nữ, là người không có mặt ở nhà lúc xẩy ra án mạng.

Chắc nhiều người còn nhớ CSVN đã bắt Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ đêm 05.10.2010 với tang vật tội “mua dâm” là “hai bao cao su (condoms)” khều ra được từ sọt rác phòng khách sạn của ông. Thế rồi CSVN lại phù phép tội mua dâm thành ra tội “tuyên truyền chống phá nhà nước XHCN”! 

3. Về nguyên do tại sao Gs. Nghiêm Thẩm bị thảm sát

Có nhiều bằng chứng cho một nghi vấn khác “hợp lí” hơn: Chính bọn lãnh đạo chóp bu CSVN ra lệnh giết Gs. Nghiêm Thẩm vì ông là một trí thức bất hợp tác, không chịu khuất phục làm công cụ tuyên truyền cho chúng.

Đọc cuốn hồi kí “Rồng Xanh Ngục Đỏ” dài 379 trang của Lm. Vũ Đình Trác, chúng tôi thấy có vài chỗ tác giả đã lầm lẫn hoặc là cả tin.  Chẳng hạn như ở trang 209, tác giả kể chuyện Gs. Lý Chánh Trung đã vượt biên tới Thái Lan năm 1981 và vì bị đồng bào vạch mặt chỉ tên là Cộng sản, cho nên không thể xin định cư tại Hoa Kì mà phải xin đi Pháp.  Có lẽ tác giả muốn kể chuyện vượt biên của Gs. Châu Tâm Luân.  Sự thật thì Gs. Lý Chánh Trung không hề vượt biên; ông vẫn ở Việt Nam.

Hay là ở các trang 262- 275, Lm. Vũ Đình Trác thuật lại một cách tin tưởng những chuyện phép lạ do tên Hồ Ngọc Ánh (Hồ Ngọc Anh) “đạo diễn” cho Đức Mẹ Maria “thi hành” ở Trung tâm Fatima, Bình Triệu, vào năm 1975.  Theo tôi, tay Hồ Ngọc Anh này là một tên đại bịp.  Không biết bằng cách nào, sau này, hắn ta lại có mặt tại Hoa Kì và đã tới lãnh địa Dòng Đồng Công tại Carthage, Missouri, toan dở trò bịp bợm một lần nữa vào Tháng 12 năm 1993, nhưng đã bị Dòng Đồng Công lột mặt nạ (Xin xem bài Sự Thật Về Ông Hồ Ngọc Anh dài 7 trang trên Nguyệt san Trái Tim Đức Mẹ, Số 194, Tháng 02,1994).  Thực ra, không phải chỉ một mình Lm. Vũ Đình Trác tin vào vụ “phép lạ Hồ Ngọc Anh” mà còn có vài giáo sĩ vị vọng khác nữa cũng tin như vậy!

Mặc dù có vài điều đáng tiếc ấy, song không thể phủ nhận toàn bộ giá trị cuốn hồi kí Rồng Xanh Ngục Đỏ được.  Đọc cuốn hồi kí này, chúng ta sẽ có cái nhìn sống động tổng quát về tình hình suy sụp của xã hội miền Nam sau ngày 30.4.1975, nhất là tình cảnh bi đát của giới trí thức và giáo sư Đại học. Đúng là cái cảnh “sĩ khí rụt rè gà phải cáo”!.

Riêng phần tường thuật diễn tiến các tình tiết dẫn đưa tới cái chết của Gs. Nghiêm Thẩm, chúng tôi thấy có lớp lang và hữu lí.

Thứ nhất: Tính khảng khái và sự bất hợp tác của Gs. Nghiêm Thẩm

Bất cứ ai quan tâm tới lịch sử cận đại Việt Nam cũng đều biết tỏ tường rằng, trong quá trình đấu tranh cướp chính quyền ở cả hai miền đất nước, bọn lãnh đạo chóp bu CSVN đã thủ tiêu nhiều nhà đối lập danh tiếng, nhiều đồng chí dầy công nghiệp của họ, cho nên việc họ tiêu diệt một trí thức bất hợp tác như Gs. Nghiêm Thẩm chỉ là chuyện nhỏ, chuyện thường tình!

Đối với bọn Cộng Sản, không theo chúng  cũng bị chúng coi là kẻ thù cần phải tiêu diệt.  Thế mà Gs. Nghiêm Thẩm đã dám không tuân theo lệnh của Lê Duẩn là kẻ có quyền lực vô biên vào thời đó.  Hậu quả tất nhiên là Gs. Nghiêm Thẩm phải chết.

Thứ hai: Để thi hành lệnh hành quyết của các lãnh tụ CS, bọn tay sai sát nhân có trăm phương nghìn kế để giết người: Bắt đi “cải tạo” nơi rừng thiêng nước độc không có ngày về, mật báo cho đối phương để mượn tay đối phương tiêu diệt đối thủ, dùng thuốc độc, cho xe cán chết, dàn dựng một vụ chết vì lạc đạn hoặc là một vụ cướp của giết người…

Xem xét thấy vụ sát hại Gs. Nghiêm Thẩm, bắt buộc người quan sát phải nghi ngờ ngay đây là một vụ thanh toán kẻ bất hợp tác về chính trị, được dàn dựng như là một vụ giết người cướp của.

Nghi vấn này căn cứ trên lập luận như sau: Kẻ trộm cướp thường chỉ nhắm vào những con mồi có tiền của; đang khi Gs. Nghiêm Thẩm không phải là người có tiền của. Bọn hung thủ sát hại Gs. Nghiêm Thẩm và chỉ lấy được chiếc một búa khảo cổ. Thử hỏi làm sao những tên trộm cướp bình thường lại biết Gs. Nghiêm Thẩm sở hữu chiếc búa khảo cổ và nếu chỉ để lấy chiếc búa ấy, có đáng để chúng phải giết một mạng người không?  Suy ra, chỉ có những kẻ chủ mưu, những kẻ ra lệnh giết người thuộc giới cầm quyền chính trị văn hóa cao cấp mới biết Gs. Nghiêm Thẩm có đồ cổ và sách vở hiếm qúy.  Cướp của trong trường hợp này là thứ yếu, tiêu diệt đối tượng bất hợp tác chính trị mới là chủ đích. Thêm vào đó, ngay sau khi Gs. Nghiêm Thẩm bị sát hại, Công an tới lập biên bản và “tức khắc niêm phong tủ sách” của ông (Sđd. Trang 258).  Bọn cướp của giết người bình thường không biết giá trị của sách vở.

Thứ ba:  Gs. Đỗ Khánh Hoan cho biết, Ban Giám hiệu nhà trường Cộng sản rất thích màu mè.  Theo lệ, mỗi khi một giáo sư hay nhân viên Trường Đại học nào có cha mẹ vợ con qua đời, nhà trường đều cử đại diện đi phúng điếu.  Riêng trường hợp Gs. Nghiêm Thẩm bị sát hại, nhà trường phản ứng rất khác lạ.  Gs. Đỗ Khánh Hoan chỉ được nghe tin về cái chết của Gs. Nghiêm Thẩm chứ không được nhà trường thông báo chính thức và nhà trường cũng không cử phái đoàn đi thăm viếng hoặc phúng điếu.  Gs. Nghiêm Thẩm là giáo sư kì cựu của nhà trường. Bà Ngô Thị Dung sống chung có hôn thú với Gs. Nghiêm Thẩm, cũng là giảng viên Nhật ngữ của nhà trường.  Vậy tại sao nhà trường lại đối xử phân biệt tệ hại và vô tình đến như vậy?  Câu trả lời chỉ có thể vì đây là vụ án chính trị mà thôi.

Từ câu trả lời trên, người ta có thể hiểu được tại sao vài tài liệu trên mạng lại “ngụy tạo” nguyên do và thời điểm về cái chết của Gs. Nghiêm Thẩm. Họ nói Gs. Nghiêm Thẩm bị cướp giết tại tư gia năm 1982.  Phải chăng họ muốn tung hỏa mù, muốn đánh lạc hướng dư luận?

Thứ tư:  Hoạt cảnh sát hại Gs. Nghiêm Thẩm diễn ra trước con mắt nhìn lén của cô cháu gái, lúc đó có mặt ở nhà.

Thứ năm: Cứ sự thường, nếu đây là vụ án hình sự thuần túy thì, ít nhiều gì, công an, báo chí và tòa án cũng đã làm việc. Nhưng đây là vụ án mạng có tính chính trị mà thủ phạm là bọn Cộng sản, rồi chính bọn họ lập biên bản và điều tra thì chẳng khác chi một kẻ vừa đá banh vừa thổi còi, cho nên vụ án giết Gs. Nghiêm Thẩm ngay giữa thành phố lớn nhất của một nước đã bị cho chìm xuồng, và dư luận không  mấy ai hay, không mấy ai biết.

Vụ Gs.Nghiêm Thẩm bị sát hại chưa bao giờ được điều tra nghiêm chỉnh và khách quan, cũng như chưa bao giờ được một tòa án xứng đáng xét xử công khai với đầy đủ thủ tục tố tụng, cho nên theo luật, không ai có thẩm quyền đưa ra lời buộc tội có giá trị pháp lí ở đây và vụ việc vẫn còn là một nghi án.  Thế nhưng, trên đời này có nhiều vụ việc, mặc dù chưa được công nhận là có giá trị pháp lí (de jure), nhưng  đã có giá trị trên thực tế rồi (de facto).

Trong thời cận đại và thời hiện đại, cha chú chúng tôi và chính chúng tôi là những chứng nhân sống, là nạn nhân thật sự của các thủ đoạn cướp chính quyền và các đòn phép kềm kẹp tàn độc của Đảng Cộng sản Việt Nam.  Cho nên chúng tôi không lạ gì những thủ đoạn thâm hiểm, những tội ác tày trời của bọn Cộng sản VN.  Vụ sát hại Gs. Nghiêm Thẩm chưa có bản án pháp lí, nhưng trong tâm trí chúng tôi, với những bằng chứng và những suy luận trên đây, thiết tưởng đã đủ lí do để chúng tôi đi từ nghi vấn đến kết luận rằng Gs. Nghiêm Thẩm đã bị bọn chóp bu Cộng sản VN ra lệnh sát hại một cách tàn ác, vì ông đã cương quyết bất hợp tác, không chịu bẻ cong ngòi bút làm công cụ tuyên truyền cho chúng.

Oan khuất thay! Đau đớn thay!

Vinh danh Gs. Nghiêm Thẩm

Mặc dù chưa được thụ án nghiêm chỉnh và dư luận không mấy ai hay, không mấy ai biết vụ Gs. Nghiêm Thẩm bị sát hại, nhưng chúng tôi là môn sinh của Gs. Nghiêm Thẩm, chúng tôi biết và chúng tôi muốn danh tính và cái chết tức tưởi của vị giáo sư anh hùng được đời sau biết tới.  Hiện nay, bọn CSVN làm ra rất nhiều luật lệ, nhưng chúng xài có một thứ luật.  Đó là luật rừng.  Cho nên không mong gì chúng giở lại hồ sơ vụ án Gs. Nghiêm Thẩm.  Nếu có ai khiếu kiện thì kết quả cũng chỉ là “con kiến mà kiện củ khoai” mà thôi.  Song chúng tôi tin rằng CSVN không có thể thống trị đất nước này mãi được.  Sẽ có một ngày đất nước thoát khỏi gông cùm Cộng sản.  Chắc chắn lúc đó, công lí sẽ được trả lại cho Gs. Nghiêm Thẩm một cách sòng phẳng.

Trong hoàn cản hiện nay, môn sinh chúng tôi có thể làm ngay một việc là vinh danh Gs. Nghiêm Thẩm như một trí thức anh hùng, một nhà giáo, một nhà khoa học chân chính.

Bất kể bọn Cộng sản đã dàn dựng vụ sát hại Gs. Nghiêm Thẩm như thế nào, và rồi giải thích ra sao, Gs. Nghiêm Thẩm vẫn đã là anh hùng rồi. Gs. Nghiêm Thẩm là anh hùng ngay từ khi ông dứt khoát không tuân lệnh của Tổng Bí thư đảng CSVN Lê Duẩn, của viên Bộ trưởng Thông tin Văn hóa CSVN để phải bẻ cong ngòi bút mà viết bài phục vụ chính trị. Gs. Nghiêm Thẩm đã không chịu khuất phục trước cường quyền, sẵn sàng chấp nhận tất cả, ngay cả cái chết để bảo vệ danh dự một trí thức, bảo vệ sự thực khách quan của khoa học.

Gs. Nghiêm Thẫm xứng đáng là một Chu Văn An, là một Nguyễn Bỉnh Khiêm thời đại ngày nay.

Cuối cùng, chúng tôi xin mượn những câu thơ bất khuất của kẻ sĩ Phùng Quán để kính viếng hương hồn Gs. Nghiêm Thẩm.

Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
(Lời Mẹ Dặn)

*Bạch Diện Thư Sinh
   02.02.2013.

(Mong được qúy độc giả chỉ cho biết những phát hiện khác có liên quan tới cái chết của Gs. Nghiêm Thẩm, để sự thật càng sáng tỏ hơn. Xin liên lạc về:  yetkieu01@gmail.com. Xin cảm tạ.)

Phần phụ thêm:

1. Gs. Toan Ánh (1916-2009)

 nhavan toananh 
 Gs. Toan Ánh (ảnh của Nguyễn Thụy Long)

Tên thật là Nguyễn Văn Toán. Sinh tại Thị Cầu, Bắc Ninh.

Ông từng là công chức cao cấp Bộ Thông Tin, Phó Chủ tịch Hội đồng Văn hóa Giáo dục VNCH và là giảng sư Đại học Vạn Hạnh và Đại học Huế.

Ông là nhà biên khảo tiếng tăm, là tác giả của trên 120 cuốn sách, hầu hết là những cuốn khảo luận về phong tục tập quán giá trị, như:  Nếp Cũ (11 cuốn), Việt Nam Chí Lược (5 cuốn), Tín Ngưỡng Việt Nam, Hội Hè Đình Đám, Cầm Ca, v.v….

Gs. Toan Ánh là một học giả luôn luôn nâng đỡ, khuyến khích hậu sinh học tập.  Năm 1971, dù không phải là học trò của ông, chúng tôi cũng đã mấy lần được hầu chuyện giáo sư. Tôi được Gs. Nghiêm Thẩm nhận đỡ đầu cho tiểu luận của tôi, một phần là nhờ lời giới thiệu của Gs. Toan Ánh.

Tư gia của Gs. Toan Ánh nằm trong cư xá dân sự đường Công Lý, chênh chếch phía trước cổng Tổng Tham Mưu QLVNCH.  Còn nhớ hồi ấy, chung quanh phòng khách là những kệ sách xếp đầy sách vở. Lần trở lại thăm Gs. Toan Ánh năm 1988, tôi nhận thấy người và cảnh đã đổi khác nhiều.  Căn phòng chỉ còn là phòng khách, không còn những kệ đầy ắp sách vở.  Hồi đó, giáo sư còn tráng kiện, hoạt bát làm sao.  Nay thì tuổi đời chồng chất và nhất là hoàn cảnh đổi dời của thời thế đã làm cho dáng vẻ giáo sư ra chiều ưu tư, xa vắng. Nụ cười vẫn còn đó, nhưng chừng như ít tươi hơn xưa! Giáo sư bảo ông đã hưu dưỡng và người ta đang thương lượng để xuất bản những bộ sách cũ cũng như mới của ông. Ông than phiền rằng bên hải ngoại đã in sách của ông mà không hỏi ông. Khi ông viết thư yêu cầu họ trả cho ông chút tiền nhuận bút để dưỡng già, họ trả lời: “Sách của ông chúng tôi in ra cho, ông còn muốn gì nữa?!”  Gs. Toan Ánh chua chát nói: “Đấy, mấy anh coi, họ nói thế có nghe được không. Trước 30.4.1975, sách của tôi xuất bản bao nhiêu
bộ, toàn là sách bán được, sách có độc giả, không bao giờ thuộc loại sách bán “xon” ngoài hè phố.  Sách của tôi khá nhiều. Tên tuổi Toan Ánh đâu có xa lạ gì với độc giả toàn miền Nam. Tôi đâu có cần nhờ tới họ mới được thiên hạ biết đến”.

Hiện ở trong nước, Nhà xuất bản Trẻ đã kí hợp đồng 10 năm (2004-2015) để được độc quyền xuất bản Toan Ánh Toàn Tập, gồm 124 tác phẩm đã từng xuất bản và chưa xuất bản của Gs. Toan Ánh. Có một điểm cần lưu ý là tất cả những sách vở đã xuất bản thời Quốc gia nay được in lại ở trong nước đều bị đục bỏ, sửa chữa những chỗ đụng chạm tới Cộng sản VN hoặc là sẽ có những ghi chú cuối trang theo quan điểm của người Cộng sản.

 2. Lm. Vũ Đình Trác (1927-2003)

  LM vudinhtrac  Lm. Vũ Đình Trác

Ông sinh tại Trung Lao, Nam Định.

1954: Linh mục

1960: Cử nhân Văn chương Việt Hán, Đại học Văn khoa Sài Gòn.

1963 – 68: Bề trên Tu viện Mai Khôi, Chí Hòa; Hiệu trưởng Trung học Minh Viễn, Chợ Lớn.

1968 – 71: Du học Đài Loan, đậu Thạc sĩ Triết tại Đại học Fujen (Phụ Nhân), Đài Bắc.

1971 – 74: Học Đại học Sophia, Tokyo, Nhật Bản, đậu Tiến sĩ Triết.

1974: Về nước, dậy học.

Ông là tác giả khoảng 20 cuốn sách, như:  Triết Lý Chấp Sinh Nguyễn Công Trứ, Triết Lý Nhân Bản Nguyễn Du, Một Trăm Cây Thuốc Vạn Linh, Việt Nam Trong Qũy Đạo Thế Giới, Rồng Xanh Ngục Đỏ, Công Giáo Việt Nam Trong Truyền Thống Văn Hóa Dân Tộc…

Cuối Tháng 8. 1975:  bị đuổi cùng 60 tu sĩ ra khỏi cơ sở tu hội Thánh Gioan Bình triệu do lệnh của UB Quân quản Xã Bình Trước, Quận Thủ Đức, vì chúng muốn cướp cơ sở của Tu hội. Về nhà ở với mẹ tại Chí Hòa.  Làm việc mục vụ chui cho các nữ tu Mai Khôi Chí Hòa; đồng thời dậy các nữ tu chế thuốc Nam và chữa bệnh chui, nhưng rất mát tay. Để khỏi phiền phức, ông viết đơn xin nghỉ dậy Đại học.  Có lúc được mời mở lớp dậy châm cứu và thuốc dân tộc tại Trung tâm Tĩnh tâm Betania, Chí Hòa. Ông còn đi mở lớp ở Cần Thơ, Long Xuyên, Đà Lạt, Dốc Mơ.  Sau đó, xin mở Phòng Đông y tại Bệnh viện Saint Paul (nay là Bv.  Điện Biên Phủ) cho đến sau Tết 1980.

Tháng 5. 1980: Vượt biên sang Hoa Kì.

2003: Qua đời tại Nam California.

BX CANH * CỪU VÀ SÓI

Con Cừu và Con Chó Sói – BXCanh

 
 
 
 
 
 
2 Votes


Bài đọc suy gẫm: Con Cừu và Con Chó Sói hay Những Bài Học Để Đời của tác giả BXCanh.Hình ảnh chỉ có tính minh họa.


 Hình Ls. Nguyễn Mạnh Tường hồi trẻ và 1952.
1.  Trí thức NGUYỄN MẠNH TƯỜNG.
 Nói tới tên ông, nhiều người Việt nghĩ ngay tới việc ông đỗ hai bằng tiến sĩ, Văn và Luật tại Montpellier, Pháp trong một năm, lúc mới 23 tuổi. Ngoài ra, người ta không nhớ ông đã làm được công nghiệp gì tương xứng với tài năng và công lao học tập! Điều đó không có chi lạ. Ông đã theo “Hồ tặc” đi kháng chiến, và kể từ lúc ấy, đời ông kể như đã đi vào ngõ cụt. Đã có quá nhiều sách báo nói về ông Nguyễn Mạnh Tường và những tháng ngày thê thảm của ông và gia đình ông, dù bản thân ông chưa phải là trái chanh đã hết nước trong tay Cộng. Nếu không đọc cuốn sách Un Excommunié do chính ông viết, chúng ta khó tưởng tượng ông “lưỡng khoa tiến sĩ” này lại bị đau nhục dưới tay “vượn người” như thế! Nhưng vì đâu nên nỗi?
Hoàn cảnh lịch sử? Lòng yêu nước, hay sự bịp bợm của cộng sản đã đưa ông vào thảm trạng?
Năm 1936, cậu thanh niên 27 tuổi, với hai bằng tiến sĩ từ mẫu quốc hồi hương, tương lai sáng rỡ như mặt trăng mặt trời. Cậu trở thành giáo sư trường Lycée du Protectorat tức trường Bưởi, rồi cậu mở văn phòng luật sư tại hai biệt thự tại thủ đô Hà Nội. Khi cộng sản cướp chính quyền, cậu hào hứng hiến luôn cả hai biệt thự cho nhà nước. Kháng chiến bùng nổ, cậu không ngại gian lao, xách khăn gói vào Khu Tư, tức Thanh Hóa theo “Bác.”
Chiến tranh tạm ngừng năm 1954, nhà trí thức lúc ấy đã mỏi mệt vì những điều tai nghe, mắt thấy về Đảng và “bác”, nhưng cổ đã vướng tròng, khó bề thoát ra. Trở về Hà Nội, ông được cộng sản ấn vào tay một lô chức tước “phó”, vô danh và… vô thực luôn: Phó chủ tịch Hội Luật Gia Việt Nam, phó Trưởng khoa Đại Học Sư Phạm, thành viên Hội Hữu Nghị Việt-Xô, v…v..
“ Đó là các chức vụ hoàn toàn có tính cách lễ nghi, không hiệu năng mà cũng chằng có thực quyền, đó là những chức vụ mà tôi chỉ là kẻ dư thừa .”
Năm 1956, có phong trào Đòi tự do, dân chủ của các báo Nhân Văn, Giai Phẩm. Báo Nhân Văn đăng bài phỏng vấn ông Nguyễn Mạnh Tường. Ông vạch trần tính chất phản dân hại nước của cộng sản:
“Đảng Viên đảng Lao Động và cán bộ thi hành chính sách thiếu tính thần dân chủ, xa lìa quần chúng, tạo ra tình trạng đối lập quần chúng với mình… ”
Dĩ nhiên, ông cũng còn tin cộng sản có thể sửa đổi được, và ông đề nghị những biện pháp sửa đổi! Ngày nay, dù đã có một tay cộng sản gộc, chính tông, là Boris Yelsin bỏ đảng và tuyên bố
“Cộng Sản không thể sửa đổi ”, nhiều ông trí thức của ta vẫn tin rằng có thể dùng kiến nghị, thư ngỏ… để thay đổi chính sách của Cộng sản. Cộng sản dĩ nhiên không thèm đếm xỉa gì đến những đề nghị của ông Tường; nhưng lãnh đạo Cộng sản lại dương những con mắt cú vọ quan sát, nhằm “chiếu tướng” ông trí thức. Ngày 30 tháng 10 năm 1956, ông luật sư, giáo sư, kiêm luôn bao nhiêu chức Phó và Thành viên các hội, đọc một bài diễn văn tại cái gọi là Mặt Trận Tổ Quốc, phân tích những khốc hại đẫm máu của việc Cải Cách Ruộng Đất, và đề ra phương hướng để tránh mắc lại! Ông Trí thức lúc ấy chắc vẫn tin là cộng sản mắc “sai lầm”, chứ không phải là chúng chủ tâm và tỉ mỉ hoạch định đủ phương kế để giết người và cướp đất ruộng. Sau bài diễn văn với những đề nghị này, nọ của ông, dây thừng quanh cổ ông được cộng sản xiết chặt lại. Bao nhiêu chức tước vớ vẩn của ông được gỡ sạch. Ông bị đưa ra đấu tố tại trường Đại Học cho học trò ông xỉ vả, mắng mỏ; ông bị ra trước Mặt Trận Tổ Quốc để các “đồng chí” của ông đấu đá. Ông bị các đảng viên đảng Xã Hội, một đảng bù nhìn do cộng sản nặn ra để trang trí cho chế độ, đấu tố ông lần chót. Ông chống trả rất can trường, với lập luận sắc bén của một luật sư có tài. Nhưng rồi ông đau khổ nhận rằng:
 “Con cừu thì không thể lý luận với một con chó sói”.
Số phận ông đã được Cộng đảng quyết định: Bỏ cho chết đói giữa một sa mạc hận thù không lối thoát. Ông than thở
“Tôi đã là kẻ lữ hành trong chuyến đi qua sa mạc kéo dài từ năm 1958 đến năm 1990, hơn ba mươi năm dài đằng đẵng! Chìm trong vùng cát của sa mạc tuyệt vọng làm cạn khô dòng nước mắt, tôi đã lê tấm thân bị tra tấn bởi thiếu thốn cô đơn với quả tim rướm máu bởi nỗi buồn chua cay và vị đắng của mật!” Trong ba mươi năm dài ấy, nhà trí thức sống ra sao?
Ông kể lại:
“Trước tiên, loại bỏ ngay buổi ăn sáng, một thói quen sa hoa của những người tư sản. Tiếp đến, cá thịt từ từ biến mất trong những buổi ăn trưa và tố́i. Khẩu phần cơm rau mỗi ngày một ít đi, và đến lúc mỗi ngày chúng tôi chỉ có một bát cháo để ăn. Vợ và con gái tôi ốm đi trông thấy. Bao nhiêu sáng láng đã biến mất trên khuôn mặt dài ra vì ốm đói.”
Trong cơn khốn cùng như thế, gia đình ông Tiến sĩ “may mắn” có được một con gà mái “mắn đẻ một cách đáng ngạc nhiên ”. Mỗi ngày con gà cho một trái trứng, và mỗi người trong gia đình thay phiên nhau hưởng. Muốn cho gà đẻ trứng, thì phải cho nó ăn. Khốn nỗi người còn sắp chết đói, lấy đâu gạo, bắp cho gà! Nhà trí thức ‘phát huy sáng kiến’:
“mỗi ngày, vào lúc hoàng hôn, khi chợ đã vắng người mua bán, tôi lượn quanh để lén nhặt những mảnh rau vụn, tránh không để người qua đường nhìn thấy, mang về nuôi nó”
Thê thảm không còn gì để nói! Nhưng con gà, dù mắn đẻ, tất cũng không nuôi sống nổi cả gia đình của ông tiến sĩ. Ông phải đau khổ, năn nỉ những kẻ có tiền để họ mua những thứ ông có thể vơ vét ở trong nhà: sách vở, quần áo của ông, son phấn , tóc giả của bà, muỗng nĩa trong bếp… Giống hệt tình cảnh của toàn dân miền Nam năm 1975 khi được cộng “giải phóng.” Ba mươi năm vật lộn mỏi mòn, chỉ để khỏi chết đói!
Cộng sản đã trả công cho sự nhiệt thành và công lao hạn mã của ông bằng cái đói và nhục. Nhiệt thành, say sưa, vì khi Cộng mới nổi lên, ông đã đem tất cả nhà cửa hiến dâng cho đảng.
Công lao hãn mã, vì ông đã lặn lội sang tận thủ đô Bruxelles của Bỉ, năm 1956, đem tài hùng biện, chứng minh với Hiệp Hội Luật Gia Dân Chủ thế giới, là Bắc cộng có “chính nghĩa” khi dùng súng đạn để “giải phóng miền Nam ” Nhưng xem tư cách và sự phản ứng can trường của ông trong suốt 30 năm bị cộng mưu dìm cho chết, chúng ta ngậm ngùi thương ông hơn là oán giận. Ông đã lạc đường vào lịch sử và bị vây bọc trong hoàn cảnh khó khăn. Không khuất phục được ông, bọn cộng vô học ghen, tức, đầy đọa và hạ nhục ông.
So sánh với những anh “trí thức” hải ngọai ngày nay, từng kinh hoàng bỏ chạy khi cộng sản tới, lại được chứng kiến sự tan rã tận gốc của cái chủ thuyết giết người tàn độc, mà vẫn xun xoe đưa đầu cho cộng sai khiến, chúng ta phải kinh ngạc về sự “khả úy” của các “trí thức” hậu sinh. Ông Nguyễn Mạnh Tường có lẽ đã trả được mối thù với bọn việt cộng bằng cách mô tả sự tàn độc của chúng trong hai cuốn Hồi Ký mà ông để lại cho đời.
Ông đã thảnh thơi từ giã cuộc đời ngày 13 tháng 6 năm 1997.
Hình Luật Sư Nguyễn Mạnh Tường và vợ, bà Tống Lệ Dung.





2.  Trí thức DƯƠNG QUỲNH HOA

Nhận định bất hủ của Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa (trí thức theo công sản sau phản tỉnh lại và bị chế độ đối xử tệ bạc) là :”Trong chiến tranh, chúng tôi sống gần nhân dân, sống trong lòng nhân dân. Ngày nay, khi quyền lực nằm an toàn trong tay rồi, đảng đã xem nhân dân như là một kẽ thù tiềm ẩn”. Và khi nhận định về bức tường Bá Linh, Bà nói:” Đây là ngày tàn của một ảo tưởng vĩ đại”. Blog Truong Sa

Bà Dương Quỳnh Hoa sinh trưởng trong tầng lớp thượng lưu của xã hội Việt Nam. Bà theo học y khoa tại Saigon rồi sang Pháp năm 1948 học tiếp và đỗ bác sĩ năm 1953. Ăn phải bả Cộng sản, bà liên lạc với Cộng sản Pháp, gia nhập cộng đảng vào cuối thập niên 1950 và hoạt động cho Cộng trong thời gian ở Pháp từ 1948 đến 1954. Sau 1954, bà về Saigon nằm vùng và do thám cho cộng. Năm 1960, được bọn Bắc cộng giựt dây, bọn theo cộng miền Nam thành lập Mặt Trận Giải Phóng. Bà Hoa là một sáng lập viên của cái Mặt Trận này. Năm 1968, sau vụ đại bại của cộng quân, mụ cùng chồng trốn ra bưng với Việt cộng, và được cho làm Bộ Trưởng Y Tế. Trong thời gian ở trong bưng, đứa con trai nhỏ của mụ đã chết vì bệnh sưng màng não. Chồng bà là Huỳnh Văn Nghị được cộng dụ dỗ cho nhập Đảng; nhưng ông Nghị nhận rõ bộ mặt thật của bọn giải phóng, nên tìm cách khước từ “vinh dự” đó. Năm 1975, sau khi chiếm được Miền Nam, bọn Bắc Cộng ra tay xóa sổ cái Mặt Trận Giải Phóng.
Những anh chị trót bán linh hồn cho quỷ trong Mặt Trận, như các anh Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Trương Như Tảng… và bọn lủng lẳng đứng giữa như Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Lý Quý Chung, Lý Chánh Trung… đều vỡ mặt, tẽn tò như một lũ con nít bị lừa không được ăn kẹo! Chính bà Hoa sau này đã thú nhận việc đi theo Cộng là một ảo tưởng chính trị trong đời bà. Ngày 17 tháng 10 năm 1996, khi được tờ báo Far Eastern Economic Review phỏng vấn:
“ Quel est l’évenement le plus marquant pendant les 50 années passées?”
Bà trả lời:
“L’effondement du mur de Berlin qui a mis un term à la “grande illusion”
dịch tạm: Biến cố nào được kể là nổi bật nhất trong 50 năm qua?
Bà DQH: Đó là sự sụp đổ bức tường Bá Linh và chấm dứt một “ảo tưởng lớn ”
Khi được Stanley Karnow phỏng vấn về sự thất bại của cộng sản Việt nam, bà nói:
“Tôi đã là người cộng sản cả đời tôi. Nhưng bây giờ khi chứng kiến những sự thật về chủ nghĩa cộng sản và sự thất bại của nó, quản trị kém, tham nhũng, đặc quyền, áp chế, lý tưởng của tôi đa hết ”.[I have been a communist all my life, but now I’ve seen the realities of Communist, and it is a failure - mismanagement, corruption, repression. My ideals are gone”]


Cuối thập niên 1970, bà nói với Nguyễn Hữu Thọ:
“Tôi và anh chỉ là những kẻ bù nhìn, là những món đồ trang sức rẻ tiền. Chúng ta không thể nào phục vụ một chế độ thiếu dân chủ và không luật lệ.”
Khi được phỏng vấn về bọn lãnh đạo Việt cộng, bà lạnh lùng trả lời:
“Đó là những kẻ ngu si đần độn, bởi vì họ là cộng sản”.
Trong những câu bà Hoa nói trên, chúng ta nên chú ý đến câu
“Nhưng bây giờ khi chứng kiến những sự thật về chủ nghĩa cộng sản…”
Đó chính là một lời thú nhận là:
dù học hành nhiều như bà, được sống trong một nước tự do như nước Pháp, có thừa phương tiện tìm hiểu, nghiên cứu, bà đã không biết gì về chủ nghĩa cộng sản!
Ngày 25/2/2006, người nữ cán bộ cộng sản đã góp công không nhỏ cho cộng sản đặt cái ách khốn cùng trên đầu đồng bào của bà, lặng lẽ bị các oan hồn chết vì giặc cộng, đưa về trước Diêm Vương để nghe phán xét tội lỗi. Cái bạo quyền bà đã hy sinh hết tuổi thanh xuân và tài năng để dựng nên nó, không có được một lời nói về bà. Mang “ảo tưởng ”, tự hiến mình làm “bù nhìn, đồ trang sức rẻ tiền ”, “ không biết sự thật về cộng sản mà vẫn theo chúng” thì kết quả đương nhiên chỉ có như thế.
Các vị trí thức tiền bối như Nguyễn Mạnh Tường, Dương Quỳnh Hoa, do hoàn cảnh lịch sử hoặc do sai lầm nhất thời, đã có lúc theo cộng hay thân cộng. Nhưng khi nhận rõ bộ mặt phản dân hại nước của cộng sản, họ đã có phản ứng quyết liệt. Trí thức Nguyễn Manh Tường đã dõng dạc tuyên bố:
“ Tôi không hề tham gia mặt trận Việt Minh. Bao giờ tôi cũng là một người yêu nước, luôn luôn ưu tư đến việc giành lại độc lập cho đất nước. Tuy nhiên tôi tự xác định cho mình một vị trí là làm một người trí thức. Mà người trí thức, muốn độc lập, thì không nên tham chính. Người trí thức phải đứng về phía nhân dân, chứ không đứng về phía nhà cầm quyền.”
Ông cũng đã can đảm nhận chịu 30 năm đọa đầy thê thảm chứ không đầu hàng cộng. Khi thoát khỏi sự kiềm chế của Cộng sản, ông đã viết hai cuốn sách:
(1) Un Excommunié – http:// http://www.ethongluan.org/
(2) Une Voix Dans La Nuit http://www.viet.rfi.fr/vi%C3%AAtnam/20110918-plan-vii-nguyenmanh-tuong-tieu-thuyet-une-voix-dans-la-nuit-ii-van-de-tri-thuc-v , bày tỏ lập trường của trí thức, và mô tả sự xấu xa tàn độc của Cộng sản. Cuốn Une Voix Dans La Nuit, [chưa xuất bản, được bà Thụy Khuê trích dẫn và bình luận trong Website của RFI] viết về về sự thiết lập chế độ ác ôn cộng sản ở Việt Nam. Ông viết xong vào năm 1993, lúc đã 85 tuổi, chứng tỏ ông trí thức vẫn nặng lòng vì đất nước. Bà Dương Quỳnh Hoa cũng dứt khoát vứt bỏ mọi ưu tiên mà chế độ dành cho bà, để quay về vị trí của người trí thức.
Những trí thức nói trên, nhất là tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường, vẫn còn lưu lại trong lòng chúng ta sự ngậm ngùi thương tiếc.
BXCanh
Hình ảnh và bài đọc do nhóm Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.

No comments: