TÔI CHẾT, THÌ ... ???
Đây là một câu nói để đời” [đã đi vào lịch-sử] của cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm.
Nhưng gần đây có kẻ đã sửa khác đi lời trối-trăng của người mà họ tôn sùng.
... Lúc sinh thời, tại nhiều nơi. Trước nhiều cơ quan, đoàn thể, Quân trường … mỗi khi thuận tiện, Ông [TT Diệm] đều nhắn nhủ:

-Tôi tiến. Hãy tiến theo tôi !
-Tôi lui. Hãy giết tôi !
-Tôi chết. Hãy nối chí tôi !
... Người viết cũng không quên những lời của Thượng Nghị sĩ Lê Châu Lộc luôn luôn nhắc nhở về Di Huấn của Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
... Người viết là kẻ hậu sinh. Vì thế, trước khi viết bài này, tôi đã phải gọi sang Hoa Kỳ để được nghe chính những lời của Thượng Nghị Sĩ Lê Châu Lộc truyền đạt qua điện thoại viễn liên Mỹ - Pháp về những điều mà chính Ông Lê Châu Lộc đã biết - nghe - thấy trong suốt thời gian là Tùy Viên ở bên cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Mỗi lần hầu chuyện với Ông Lê Châu Lộc, tôi đều được Ông nhắc lại nhiều lần, để phải ghi nhớ những điều Ông đã nói:
- Tôi tiến. Hãy tiến theo tôi !
- Tôi lui. Hãy giết tôi !
- Tôi chết. Hãy nối chí tôi !
... Trên đây, là những dòng của Ông Lê Châu Lộc; nguyên Sĩ Quan Tùy Viên của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, và là Thượng Nghị Sĩ thời Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa. Ông đã viết về những điều mà chính Ông đã chứng kiến, mắt thấy, tai nghe trong suốt thời gian ở bên cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm từ năm 1959 cho đến ngày 1-11-1963 trên trang: ngodinhdiem.net
29-5-2011
Hàn Giang Trần Lệ Tuyền
(trong bài "Tổng Thống Ngô Đình Diệm Và Phật Giáo")
Lời "trối-trăng" liên-hệ đã được Tổng-Thống Ngô Đình Diệm nói ra, chỉ một lần (chỉ một lần mà đã là gở miệng, thần khẩu buộc xác phàm) vào dịp Quốc-Khánh 26-10-1963.
Thế mà ngày nay người ta bảo là tại "nhiều nơi", "mỗi khi thuận tiện", cố TT họ Ngô "đều nhắn nhủ" như thế – mà lại là Di Huấn phịa mới là chuyện ngược đời.
Tôi thử dò lại một số tài-liệu thỉ được biết Sự Thật. Sự Thật, câu nói đó là:
TÔI CHẾT, THÌ TRẢ THÙ CHO TÔI!
A
NGUỒN GỐC VIỆT-NAM:
Theo Tiến-Sĩ HOÀNG NGỌC THÀNH:
... Tổng thống Diệm thường đi Đàlạt nghỉ cuối tuần, nhất là sau khi ông Nhất Linh Nguyễn Tường Tam uống thuốc độc quyên sinh ngày 7-7-1963, tức ngày kỹ niệm 9 năm cầm quyền của ông Diệm. Một số người nhận thấy rằng tổng thống Diệm đã cảm thấy có cái gì bất ổn trong tình thế. Trong ngày Quốc khánh cuối cùng 26-10-1963, khi tiếp các đoàn thể, mặt tổng thống Diệm “thoáng buồn”, bằng một giọng ai oán, ông nói mấy lời mà nhiều người cho là gở:
“Chế độ này tuy còn nhiều khuyết điểm, cũng còn hơn nhiều chế độ khác. Người ta chê là độc tài, nhưng chỉ ngại còn những thứ độc tài khủng khiếp hơn... Tôi tiến thì theo Tôi, Tôi lùi thì bắn tôi, Tôi chết thì trả thù cho Tôi...
(Trích từ cuốn sách “Những Ngày Cuối Cùng Của Tổng Thống Ngô Đình Diệm” của Hoàng Ngọc Thành và Thân Thị Nhân Đức, do Quang Vinh & Kim Loan & Quang Hiếu, ở San Jose, USA, xuất bản, năm 1994, trang 441)
Theo Ký-Giả PHAN VIẾT PHÙNG:
[ChinhNghiaViet] NGÔ ĐÌNH DIỆM - NGÔI SAO ÁI QUỐC
Saturday, October 15, 2011 2:11 PM
From: "an do" <ankaydo@gmail.com>
NGÔ ĐÌNH DIỆM - NGÔI SAO ÁI QUỐC
PHAN VIẾT PHÙNG
Lời Tòa Soạn: Bài viết của tác giả Phan Viết Phùng với tựa đề "Ngôi sao ái quôc giữa đêm tối của dân tộc" chúng tôi xin trích đăng phần sau của bài viết đề cập tới việc Mỹ làm áp lực Tổng Thống Ngô Đình Diệm và đi tới đảo chánh. Xin cám ơn tác giả và giới thiệu với bạn dọc một bài viết rất công phu .
TUẦN BÁO ĐỜI
... Vào giai đoạn này, Tổng Thống Diệm hình như có linh cảm về một cái gì không lành. Hôm lễ Quốc Khánh 26-10-1963, khi nói với các đoàn thể về chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa ông có nói câu "Tôi tiến thì theo tôi, tôi lùi thì bắn tôi, còn tôi chết thì trả thù cho tôi"...
Tác Giả: Phan Viết Phùng
Trích Tuần Báo ĐỜI (Số 25 )
Năm Thứ Nhất Ngày 17-24/10/2003 - Trang 8 & 9
Theo Ký-Giả PHẠM PHONG DINH:
Tổng Thống NGÔ ĐÌNH DIỆM, Kẻ Sĩ Cuối Cùng
(2.11.1963 – 2.11.2006)
Tôi tiến, hãy theo tôi;
tôi lùi, hãy bắn tôi;

tôi chết, hãy trả thù cho tôi.
Tôi không phải là thần thánh,
tôi chỉ là một người bình thường,
tôi chỉ biết thức khuya, dậy sớm làm việc,
một lòng hiến dâng đời tôi cho đất nước và dân tộc.
Theo Ký-Giả LE TRAN:
RE: [GoiDan] Đốt nén hương lòng kính dâng Ngô Tổng Thống,
Thursday, October 28, 2010 4:44 PM
From: "Le Tran"
"TÔI CHẾT XIN ĐỒNG BÀO HÃY TRẢ THÙ CHO TÔI!"
Đó là lời cuối của bài Hiệu Triệu TT N Đ D đọc sáng ngày 26-10-1963
TT Ngô Đình Diệm nói: "Tôi tiến, đồng bào tiến theo tôi; tôi lùi, đồng bào hãy giết tôi; tôi chết, xin đồng bào trả thù cho tôi" (bài hiệu triệu cuối cùng đọc ngày Quốc Khánh 26-10-1963).
B
NGUỒN GỐC ANH-MỸ:
Ngo Dinh Diem Quotes and Quotations
Follow me, if I advance; kill me if I retreat; revenge me if I die!
Ngo Dinh Diem | Leaders and Leadership Quotes
Ngo Dinh Diem Quotes
Follow me if I advance! Kill me if I retreat! Revenge me if I die!
Ngo Dinh Diem

Ngo Dinh Diem Quotes

Ngo Dinh Diem Quotes & Sayings

Related Results
Ngo Dinh Diem Quotes About:

Ngo Dinh Diem Quotes (1 Quote)

Follow me if I advance! Kill me if I retreat! Revenge me if I die!(Ngo Dinh Diem Quote)

Ngo Dinh Diem Quotes & Sayings Related Results

Ngo Dinh Diem Quotes About:
C
Ý-KIẾN:
Kẻ nào, dù với lý-do hay mục-đích gì, mà sửa-đổi lời nói của cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm, thì:
Về mặt pháp-lý: kẻ ấy đã phạm tội man-khai, một tội hình-sự mà bất-cứ quốc-gia nào cũng kết án.
Về mặt giáo-lý: kẻ ấy đã phạm tội làm chứng dối, phạm Điều Răn thứ 9 trong 10 Điều Răn của Chúa Trời(Xuất-Hành 20:3-17; Phục-Truyền 5:7-21), thêm điều đặt chuyện là bởi Lòng Tà mà ra (Ma-Thi-Ơ 5:37): sẽ bị đày xuống hỏa-ngục”.
Về mặt chính-trị: kẻ ấy cho rằng cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm nói sai [nên phải chỉnhlại], tức là đã phạm tội khinh-mạn, xúc-phạm, bôi nhọ, lăng-mạ... không chỉ một mình cố Tổng-Thống Diệm mà cả chế-độ Đệ-Nhất Cộng-Hòa lẫn mọi phần-tử hoài-Ngô (trong đó có cả bản-thân các đương-nhân).
Về mặt tâm-lý: kẻ ấy hiểu thấu tâm can của người chết thảm, đã quyết thực-thi di-huấntrả thù, song lại vụng-về đáng lẽ phịa ra một câu nói khác, thì lại dùng chính câu nói đã thành bất-tửmà bịa-đặt hai tiếng nối chíthay cho hai tiếng ác-ôn kia tưởng là tô son, hóa ra để lộ tim đen của chính mình.
 


NGÔ ĐÌNH DIỆM:
PHÓ CHỦ-TỊCH NƯỚC
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
 
 
            Ngày 23-10-2011, tôi được người quen ở đường Willet gọi báo là có một người muốn được gặp tôi, nên tôi đến gặp.
            Người ấy” tự giới-thiệu là “đàn em thân-tín” của cố Đại-Tá Nguyễn Hữu Duệ (Mời xem).
 
            Người ấy giải-thích trường-hợp gặp tôi:
            “Vào năm 2004, Đại-Tá Nguyễn Hữu Duệ có nhờ tôi mang bỏ vào thùng thư Bưu-Điện một bức thư gửi cho ông Lê Văn Anh, ở Số 5 Đường Willet Court, Thành-Phố Alameda. Tôi không biết rõ trong thư viết gì. Nhưng tôi để ý thấy ông cũng là người ở Thành-Phố Alameda, mà trong hồi-ký của ông đăng báo cũng như in sách thì có đề-cập đến Đại-Tá Duệ. Hôm nay tôi muốn gặp ông, song sợ đường-đột chưa biết tính-tình của ông thế nào, nên ghé vào nhà Ông Lê Văn Anh để hỏi dò trước, vì nghĩ rằng chắc hai ông có quen biết nhau; do đó Ông Anh mới gọi đến ông.”          
 
 
            Tôi hỏi mục-đích người ấy muốn gì.
            Người ấy đáp là bất-đồng với những bài-viết của tôi, nhưng muốn thử-thách xem tôi có dám phổ-biến một bài xác-nhận là có kết-quả cụ-thể trong việc cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm và cố Cố-Vấn Ngô Đình Nhu thương-thảo với Ông Hồ Chí Minh và phe cộng-sản Bắc Việt.
 
            Thấy chuyện có vẻ hấp-dẫn, tôi mời người ấy vào một nhà hàng để ngồi nói chuyện cho thoải-mái hơn.
           
            Người ấy yêu-cầu tôi giữ bí-mật tính-danh, địa-chỉ của mình. Tôi hứa.
            Mở đầu, người ấy nói là cuốn sách “Nhớ lại những ngày ở cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm” không phải hoàn-toàn do Đại-Tá Nguyễn Hữu Duệ viết, mà ổng chỉ thảo nguệch-ngoạc mấy đoạn hồi-ký, rồi có người khác sửa giùm, phỏng-vấn mà viết thêm vào, cũng như tự họ viết thêm.
             

Tôi hỏi: “Làm sao ông biết?” Người ấy trả lời:
            – Hồi đó tôi ở gần ổng, thường đến thăm ổng, nên có nghe thấy việc này. Nhưng họ đã viết lung-tung, thí-dụ: đại-tá Trưởng Phòng II Quân-Đoàn II là Trịnh Tiếu mà họ viết là Trịnh Tiến; khi ổng nhắc chuyện có người nói là dân-chúng Miền Trung không thích bị đi Dinh Điền tận trên Cao Nguyênlà nói về chuyện Dinh Điền thời đónhưng họ lại gài vào chuyện ổng làm Tỉnh-Trưởng Thừa-Thiên sau này, viết rằng sau này khi ổng ở Huế có rất nhiều người xin đi Dinh Điền mà không đi được. Thật ra, thời-gian ổng làm Tỉnh-Trưởng ở Huế thì đâu còn có chương-trình Dinh Điền mà đòi xin đi!
 
            Tôi đã có đọc cuốn sách ấy rồi, và thấy không cần bình-luận gì thêm, mà chỉ nôn-nóng được nghe người ấy cho biết “kết-quả cụ-thể” của việc đàm-luận giữa họ Ngô và họ Hồ mà thôi. Tôi nói:
            – Xin ông kể ngay về vụ liên-lạc giữa các lãnh-tụ hai Miền.
            Người ấy vẫn còn nói thêm:
            – Tôi muốn để ông biết rõ, là Đại-Tá Duệ trung-thành tuyệt-đối với Tổng-Thống Ngô Đình Diệm, và cả dòng họ Ngô Đình; và tôi cũng thế. Dù ổng trình-độ không cao*, nhưng tôi rất kính-phục Đại-Tá Duệ, là một mẫu người trung-can nghĩa-khí, đã được “Cụ Tổng”, “Ông Cố” và “Cậu Út” thương-yêu, thì quyết trọn đời tôn-thờ lãnh-tụ ân-nhân của mình, chứ không thay-đổi lập-trường như một số khác có trình-độ cao hơn ổng. Và đó chính là nỗi khổ-tâm trọn đời của ổng, như tôi sắp kể tiếp theo.
 
           
 
 
-------
*Sau đó, tôi tìm đọc lại bức thư của cố Đại-Tá Nguyễn Hữu Duệ viết gửi Ông Lê Văn Anh, mới thấy quả thật là Duệ “trình-độ không cao.” Ai lại không nhớ ngày (tháng, năm) mình đến làm Tỉnh-Trưởng/Thị-Trưởng Thừa-Thiên/Huế, bao lâu, trong thư hồi-âm cho Ông Lê Văn Anh. (Viết thư tức là có đủ thì-giờ tra-cứu, chứ đâu là phải trả lời điện-thoại tức-thì, mà bảo rằng mình chưa kịp nhớ ra, hay là nhớ sai?)
 
            Tôi đưa máy điện-thoại lên, định chụp hoặc nhờ kẻ khác chụp giùm một vài tấm ảnh, nhưng bị người ấy chối-từ.
            Tôi đành im-lặng ngồi chờ. Người ấy xích tới gần tôi, nói chậm và rõ vào sát tai tôi. Đại-ý như sau:
 
            – Trước cuộc chính-biến 1-11-1963, Đại-Tá (lúc ấy còn là Thiếu-Tá) Nguyễn Hữu Duệ sai tôi mang một mật-thư của Tổng-Thống Ngô Đình Diệm ra Huế để kín-đáo trao tận tay cho Ông Cố-Vấn Ngô Đình Cẩn. Tôi đã ra Huế vào ngày 30-10-1963, nhưng vì lo-ngại đám người hầu việc tại nhà “Cậu Út” đã bị “Đức Cha” mua-chuộc, nên tôi nấn-ná chờ xem có ai là bạn cũ không; mãi đến chiều ngày 1-11-1963 thì biến-cố lớn xảy ra, thành-thử tôi chưa trao được mật-thư của “Cụ Tổng” cho “Cậu Út”. 

Sau đó, vào lại Sài-Gòn, chờ-đợi cho đến khi có dịp may thoáng gặp lại Thiếu-Tá Nguyễn Hữu Duệ trong tình-huống mới, tôi quá bức-xúc nên mất tự-chủ, đã gật gật đầu, xem như báo-cáo là đã hoàn-thành công-tác mà ổng giao cho, để ổng an-tâm chịu đựng hoàn-cảnh khó-khăn. Lỡ rồi, từ đó cho đến ngày nay, tôi vẫn còn giữ mật-thư nói trên. . . .
            Tôi hỏi nhẹ-nhàng:
            – Nhưng ông là người thân-tín, vả lại tình-hình đã lắng yên rồi, mà Đại-Tá Duệ đã làm việc lại, đã thăng lên cấp đại-tá, đã được cử làm Tỉnh-Trưởng Thừa-Thiên, bây giờ đã qua Mỹ rồi, còn gì cấn-cái mà ông không nói thẳng ra cho Đại-Tá Duệ biết rõ Sự Thật?
            Người ấy lắc đầu:
            – Không phải là người trong cuộc, ông không hiểu đâu. Tôi xin tóm-tắt như sau:
            “Sau khi chế-độ Đệ-Nhất Cộng-Hòa sụp đổ, hai phíakể công cũng như kết tộiđều nhắm vào hai nhân-vật Ngô Đình DiệmNgô Đình Nhu, nhất là về vụ tiếp-xúc với phe bên kia.
Phía kết tội thì chê-bai là phản-bội Đồng-Minh, phản-bội Chính-Nghĩa Quốc-Gia, đem dâng Miền Nam cho Miền Bắc, chịu làm đàn-em dưới trướng của họ Hồ.
Phía kể công thì đề-cao tinh-thần tự-chủ, tái-lập hòa-bình, tạo nên cơ-hội cho Miền Nam ổn-định, giúp cho dân giàu nước mạnh, Việt-Nam Cộng-Hòa trường-tồn.
            “Chúng tôinhững người của chế-độ cũtất-nhiên là phía kể công. Nhưng đại-đa-số thì chỉ kể công dựa trên lý-thuyết, dựa trên ước-muốn, dựa trên cảm-tính, chứ không đưa ra một kết-quả nào rõ-ràng. . . .”
 
            Tôi vội xen ngang:
            – Thế sao ông bảo là có kết-quả cụ-thể?
            Người ấy khoát tay:
            – Khoan đã, để tôi nói hết. Rắc-rối là phía kể công lại chia ra làm hai bên. Bên này thì chỉ đề-cập đến việc thương-thảo như một giả-thuyết, như một kế-hoạch tuyệt-vời, nhưng chưa thực-thi thì bị Hoa-Kỳ phá vỡ nên mất cơ-hội bằng vàng. Bên kia thì cho là đã bắt đầu, có chỉ-dấu tốt, nhưng bị Đồng-Minh ngáng chân dở chừng nên mang uất-hận ngút trời. . . .
            – Phần Đại-Tá Duệ, và ông?
            – Ổng cũng như tôi, dù đứng về phía kể công; nhưng lại... khác bên. Bên Đại-Tá Duệ thì là số đôngđúng ra là ổng đã chịu ảnh-hưởng của họHọ khẳng-định là không có đi đêm,” rằng việc liên-lạc giữa “Cụ Tổng” & “Ông Cố” với “Cụ Hồ” chỉ do Ông Ngô Đình Nhu bịa ra để bỡn Hoa-Kỳ, đồng-thời “các Tướng” cũng phịa như thế để có lý-do mà “phản” Nhà Ngô. Bên ấy mạnh miệng nhất, và mạnh thế nhất. Họ đưa Đại-Tá Duệ đi khắp các Bang, qua Âu, qua Úc, tán-dương sách-lược Cách Mạng Nhân Vị, hoan-hô lập-trường chống Mỹ đổ quân, quyết-tâm bảo-vệ chủ-quyền Quốc-Gia, đề-cao tinh-thần yêu nước và khôi-phục danh-dự cho cố Tổng-Thống và cố Cố-Vấn họ Ngô cùng các cựu cộng-sự-viên... Đại-Tá Duệ hăng say quá, nên tôi không thể nói gì chống lại ý ổng.
    – Còn về bên ông?
            – Bên tôi thì có một điểm đặc-biệt: ít người nhưng có uy-tín hơn người. Giáo-Sư Tôn Thất Thiện, Tiến-Sĩ Lâm Lễ Trinh, Đổng-Lý Quách Tòng Đức... Họ đã xác-nhận là đã có tiếp-xúc giữa hai Miền, nhưng chưa thành-công, như mọi người đã biết. Tuy nhiên, riêng tôi thì khác: tôi có bằng-chứng là đã có kết-quả cụ-thể bước đầu. . . .
            – ???
            – Tôi đã tò-mò mở đọc mật-thư của Tổng-Thống Ngô Đình Diệm gửi cho Cố-Vấn Ngô Đình Cẩn.
 
    Người ấy kể cho tôi nghe nội-dung của bức thư ấy, mà tôi chỉ nhớ đại-ý như sau:
 
            Ngoài những tin-tức đã lọt ra ngoài, thật ra thì chính Tổng-Thống Ngô Đình Diệm đã có nhiều đường dây liên-lạc khác, bí-mật, trực-tiếp với Ông Hồ Chí Minh. Không lẽ tự dưng mà vào đầu năm 1963 Ông Hồ gửi vào biếu một cành đàotất-nhiên là đã từng có trao-đổi, thông-cảm, thỏa-thuận những gì trước rồi mới đến bày-tỏ cảm-tình công-khai.
            Cả hai, NgôHồ đã qua quá-trình dài ngày mặc-cả với nhau.
            Đồng-thuận trước nhất là không còn có binh-lính Hoa-Kỳ hiện-diện tại Miền Nam.
            Miền Bắc gặp nhiều khó-khăn: đối-ngoại thì Nga-Cộng muốn “sống chung hòa-bình” (hòa-hợp BắcNam, ai lo phần nấy, không còn chiến-tranh). Tàu-Cộng thì muốn chiến-tranh, quyết đòi thống-nhất (thôn-tính Miền Nam); đối-nội thì Hồ muốn theo ý Nga, trong lúc Lê Duẩn & Lê Đức Thọ thì muốn theo ý Tàu. (Việc này là một trở-ngại xảy ra sau khi Ông Hồ đã gửi cành đào vào biếu Cụ Ngô.)
            Miền Nam cũng có khó-khăn: đối-ngoại thì bị Hoa-Kỳ đòi đưa quân vào, trong lúc Giáo-Hoàng Giôn XXIII ủng-hộ một nước Việt-Nam thống-nhất dưới quyền của Hồ Chí Minh; đối-nội thì Mặt Trận Giải Phóng ngày càng lớn lên, Phong-Trào Phật-Tử Tranh-Đấu rộng ra. (Cả hai cũng đều chống Mỹ như “ta”.) 
            Đề-nghị mới nhất là: Thống-Nhất Đất Nước, với Cụ Hồ Chí Minh là Chủ-Tịch, Cụ Ngô Đình Diệm là Phó Chủ-Tịch, Nước Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hòa. Như thế thì: về đối-ngoại, Miền Bắc đáp-ứng được yêu-cầu của cả Liên-Xô lẫn Trung-Quốc, Miền Nam thoát khỏi áp-lực của Hoa-Kỳ, cả hai Miền thỏa-mãn ý-đồ của Vatican cũng như ước-muốn của Pháp, Ý, Ấn-Độ, Ba-Lan; về đối-nội, Miền Bắc hết đổ xương máu, noi gương Miền Nam mà tái-thiết và phát-triển, Miền Nam vừa xóa bỏ Mặt Trận Giải Phóng vừa dẹp tan Phong Trào Phật-Tử Tranh-Đấu. (Trước đó, Cụ Ngô đòi làm Thủ-Tướng, hay ít nhất cũng là Bộ-Trưởng Bộ Nội-Vụ tức Bộ Công-An, như đã yêu-cầu từ hồi 1945-46, để có thực-quyền, và có thể dành vài ghế Phó Thủ-Tướng, hay Bộ-Trưởng, Thứ-Trưởng, hay Tổng-Cục-Trưởng, cho Cố-Vấn Ngô Đình Nhu và Cố-Vấn Ngô Đình Cẩn; nhưng đến phút chót thì phe Duẩn+Thọ không chịu, nên Cụ Hồ khuyên Cụ Ngô nhận chức Phó Chủ-Tịch Nước để có vai-vế tương-đương mà cũng có thể có vài Trợ-Lý cho Phủ Phó Chủ-Tịch Nước. Cụ Hồ hy-vọng là có Cụ Ngô và Ông Nhu bên cạnh thì sẽ thoát được áp-lực của Lê DuẩnLê Đức Thọ.)
            Kết-luận là cả Tổng-Thống Ngô Đình Diệm lẫn Cố-Vấn Ngô Đình Nhu đều cần ý-kiến thuận của Cố-Vấn Ngô Đình Cẩn, trước khi chính-thức thỏa-hiệp với Chủ-Tịch Hồ Chí Minh, dự-trù sẽ cùng thình-lình công-bố một lần, để đặt cả thế-giới trước một “sự đã rồi”, trong năm 1964 (sẽ thảo-luận thêm, là vào ngày 7-7 hoặc 26-10 theo đề-nghị của Cụ Ngô, hay là vào ngày 19-5 hoặc 2-9 theo đề-nghị của Cụ Hồ). . . .
 
            Tôi hỏi người ấy sao không phổ-biến tin này sớm hơn. Người ấy trả lời:
            – Mật-thư chưa đến được tay “Cậu Cẩn” thì cả chế-độ đã tiêu-tan rồi. Sau đó, tôi phải giấu kín, vì sợ nếu Đại-Tá Duệ mà biết là tôitức là chính ổngđã không làm tròn sứ-mạng của Ngô Tổng-Thống tín-cẩn giao cho, thì ổng sẽ hối-hận khủng-khiếp và căm-thù tôi ghê-gớm, không lợi-ích gì cho cả hai.
            Tôi hỏi một câu cuối cùng:
            – Tại sao hôm nay ông lại muốn tôi công-bố chuyện này?
            – Vì Đại-Tá Nguyễn Hữu Duệ đã chết. Tôi định đợi đến 2-9-2013, kỷ-niệm lần giỗ lần thứ 50 của “Cụ TổngNgô Đình Diệm và “Ông CốNgô Đình Nhu thì sẽ tung ra. Đây là kết-quả cụ-thể của cuộc mật-đàm 2 bên, nếu không bị vụ binh-biến 1-11-1963 phá hỏng thì hẳn nước ta đã là một Quốc-Gia thanh-bình, thịnh-vượng, hùng-cường, nhờ ơn của nhị vị vĩ-nhân, Khai-Sáng Nền Đệ-Nhất Cộng-HòaLa-Sơn Phu-Tử Tái-Thế của Việt-Nam. Tôi sợ qua năm 2012 thì có “tận-thế” theo lịch của người Maya, không còn cơ-hội nào nữa; đồng-thời, tôi muốn thách ông, là người chống lại sáng-kiến và nỗ-lực của Nhà Ngô dàn-xếp giữa 2 Miền, xem ông có dám phổ-biến bằng-chứng thành-công này (dù chưa viên-mãn) đến với quảng-đại độc-giả gần+xa?

            Lời kết: “Người ấy” tuyệt đối cấm tôi tiết lộ tên và địa-chỉ trong khi còn sống, vì đây là “bí mật thâm cung.

 

 

LÊ XUÂN NHUẬN * AI GIẾT VNCH?

Sau Hiệp-Định Paris năm 1971, chậm nhất là kể từ sau “Mùa Hè Đỏ Lửa” năm 1972, các vụ “Bàn Thờ Phật Xuống Đường” cũng như “Tổng-Công-Kích Tết Mậu-Thân” đã là chuyện cũ, đã lùi vào dĩ-vãng rồi.
Các ván cờ đó đã được các bên tham-dự xóa hết rồi.

Hệ-quả có chăng là sau vụ “Bàn Thờ Phật Xuống Đường” năm 1966 thì Nhóm “Phật-Tử Tranh-Đấu” đã không còn “tranh-đấu” nữa; và sau vụ VC “Tổng-Công-Kích Tết Mậu-Thân” năm 1968 và Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972 thì tinh-thần chống-Cộng của Dân và Quân Miền Nam đã lên cao hơn.

Cho nên Biến-Động Miền Trung là chuyện đã xưa rồi.

Mới nhất, gian-xảo nhất, và nham-hiểm nhất, là chuyện Biến-Loạn Miền Trung.
Trên bàn cờ thời-sự Miền Nam Việt-Nam, vào giai-đoạn cuối-cùng của lịch-sử Việt-Nam Cộng-Hòa, chỉ còn có một ván cờ mới―chung-kết và chung-quyết:
Đối-thủ chính bên phía đối-lập với Chính-Quyền là các Nhóm “Giáo-Dân Tranh Đấu”, do đại-khối hơn 300 linh-mục trong “Phong Trào Chống Tham Nhũng” và cả đám linh-mục nằm vùng và thân-Cộng, “lãnh-đạo tinh-thần” Kitô-Giáo Việt-Nam, đứng ra thao-túng tình-hình.
Ở trên đầu và sau lưng họ là Tòa Thánh La-Mã với đích-thân Giáo-Hoàng Phaolô VI cùng với hàng chục quốc-gia chư-hầu của Vương-Quốc Vatican.

Thế đánh cạn-tàu ráo-máng của nội-thù đã chiếu bí Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu, trực-tiếp mở đường cho ngoại-địch hạ gục đối-thủ trong nước cờ kết-thúc yữa Bắc-Việt Xâm-Lược với Việt-Nam Cộng-Hòa.
*
Vận Nước suy-đồi, mỗi người dù nhiều dù ít đều có một phần trách-nhiệm (thất-phu hữu-trách).
Chỉ có những kẻ đầy thiên-kiến, mù lương-tri, có ác-ý, và không tôn-trọng Sự Thật, mới đổ hết lỗi cho một riêng ai.

Ngày nay, mang thân-phận thất-quốc, lưu-vong, chỉ trừ những kẻ đã ở hẳn bên phía cộng-sản Việt-Nam rồi, còn thì không có “Phật-Tử Tranh-Đấu” nào mà không luyến-tiếc Việt-Nam Cộng-Hòa.

Trong lúc đó, có một số “Giáo-Dân Tranh-Đấu”, đến tận ngày hôm nay―đã gần 40 năm qua―mà vẫn còn tự-hào, hãnh-diện về những âm-mưu, toan-tính, nỗ-lực, và hành-động của cái-gọi-là “Phong-Trào Chống Tham Nhũng”, vì mình không những chỉ chống-phá cá-nhân Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu mà đã đạp đổ cả cơ-chế Hiến-Pháp―với Lập-Pháp, Hành-Pháp, Tư-Pháp ở trong Chính-Quyền―và các Khối, các Nhóm trong Dân-Nhân―với các Chính-Đảng và các Giáo-Hội sống dưới Chính-Thể Việt-Nam Cộng-Hòa―nói chung là Việt-Nam Cộng-Hòa.

*
NB: Bọn đó đã bị chính cựu thiếu-tá Liên Thành công-khai kết án: xin mời bấm link sau đây:
Đoạn video được ghi-chú rõ:
“Liên Thành: LM Trần Hữu Thanh
Chủ Tịch Phong Trào Chống Tham Nhũng
chống VNCH tại Sài Gòn 1974
Chính Khí Việt ngày 17-07-2010”
“LM Trần Hữu Thanh chủ động dấn thân vào chính trị:
đó là năm 1974 ở Sài-gòn.
LM Trần Hữu Thanh cùng với 301 Linh Mục khác
ký tuyên ngôn lập Ủy Ban Chống Tham Nhũng,
chống VNCH

*
Tóm lại, nếu vì một lý-do nào đó mà phải gán riêng cho đích-danh một số người nào đó là “thủ-phạm chính” quấy-rối an-ninh trật-tự công-cộng nhất, lũng-đoạn tình-hình chính-trị quốc-gia nhất, gây cho tinh-thần dân-chúng hoang-mang nhất, khiến cho ý-chí chống-Cộng của chiến-sĩ giao-động nhất, vào mấy năm cuối-cùng của Chiến-Tranh Việt-Nam―tức là đâm một nhát dao chí-tử vào Việt-Nam Cộng-Hòa khi đang hấp-hối―thì số người đó rõ-ràng, không thể chối-cãi được, phải là thành-phần cực-đoan trong Nhóm “Giáo-Dân Tranh-Đấu”―các linh-mục cộng-sản nằm vùng, tay sai và thân-Cộng, cùng với Ban Lãnh-Đạo của “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng”―dù là một bộ-phận nhỏ―của giới tín-đồ Kitô-Giáo Miền Nam Việt-Nam.



     Có kẻ lập-luận rằng chính Phật-Giáo tranh-đấu lật đổ Đệ Nhất Cộng Hòa rồi lại tiếp-tục tranh-dấu dưới thời Đệ Nhị Cộng Hòa, đưa đến mất nước vào Ngày 30 Tháng 4 Năm 1975 [sic].
     Lê Xuân Nhuận đã sưu-tập được một số sự-kiện & tài-liệu lịch-sử, chứng-minh rằng vụ sụp đổ của VNCH vào Tháng Tư Đen năm 1975 không phải là do Phật Giáo gây nên, mà do một thế-lực khác, không chỉ ở trong phạm-vi quốc-gia mà cả ở trên bình-diện quốc-tế, suốt từ 1968 cho đến 1975 (không kể Do-Thái, Trung-Cộng, Hoa-Kỳ).
     Muốn biết chi-tiết xin mời đọc cuốn “Biến-Loạn Miền Trung”.


NGƯỜI BẠN ĐỒNG-MINH &
TÒA TỔNG-LÃNH-SỰ HOA-K VÙNG I
TRONG suốt thời-gian từ Hiệp-Ðịnh Geneva 1954 đến Hiệp-Ðịnh Paris 1973, nhất là từ 1962 đến 1975, đã có khoảng vài chục người Mỹ làm Cố-Vấn (Phối-Trí-Viên, rồi Người Bạn Đồng-Minh) cho tôi: đa-số họ là viên-chức cơ-quan Tình-Báo TrungƯơng Hoa-Kỳ (CIA). Mỗi người đều có những đặc-điểm nào đó, phần lớn là tốt, về mặt công-tác chung hoặc về mặt quan-hệ hợp-tác giữa hai bên.
Tôi biết rằng đa-số viên-chức tình-báo Mỹ đều mang tên giả; nhưng, người nào đã có một vai trò, một chỗ đứng, thì đều cần có một cái tên, để phân-biệt kẻ khác với mình.
Tuy nhiên, người đã đẩy tôi vào một cuộc chiến-đấu gay-gắt, cùng một lúc với cả ba kẻ thù theo nguyên-tắc tình-báođối-phương, công-chúng, và đồng-nghiệplại là một trong các Người Bạn Ðồng-Minh hậu-chiến của tôi, trong một năm rưỡi tôi được Trung-Ương đưa trở về Miền Trung, cũng là giai-đoạn lịch-sử cuối-cùng của Việt-Nam Cộng-Hòa. Dù sao, anh bạn này cũng đã ghi lại một dấu ấn sâu-đậm trong trí nhớ của tôi.
Người đó là Kenneth D. Ferguson.
*

Giữa phản-chiến và phản-chính không có biên-cương. Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu bị phần lớn báo-chí chỉ-trích, đa-số hội-đoàn phản-đối, và các phần-tử bất-mãn tẩy chay. Người ta cũng quy-trách cho cho Hoa-Kỳ.
Tôi kéo bàn tay của viên đại-tá CIA bạn tôi ra trước mắt, vuốt ngược những sợi lông dày và cứng trên mu:
− Báo-chí Việt-Nam gọi người Mỹ là những “bàn tay
lông-lá”.
− Tôi biết.
Chính-khách Ngô Đình Diệm là người đầu tiên mở trang sử chính-thức và công-khai quan-hệ với Hoa-Kỳ, nên tôi bắt đầu về ông Diệm trước. Tôi hỏi thẳng:
− Anh nghĩ thế nào về cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm?
− Anh nói trước đi!
Ferguson đẩy tôi đi trước. Cũng như nhiều người Mỹ khác, anh muốn tỏ ra là mình không can-thiệp vào việc nội-bộ của nước người. Tôi bèn dò ý:
− Hoa-Kỳ không muốn giết Diệm. Nhưng điều chắc-chắn là Hoa-Kỳ không muốn chế-độ Diệm tồn-tại lâu hơn. Kỳ-thị tôn-giáo là một trong nhiều nguyên-nhân, tuy chỉ nội một cái nguyên-nhân ấy cũng đã đủ sức thuyết-phục để Quân-Lực phải ra tay...
− Còn những nguyên-nhân nào nữa?
Diệm đánh hỏng những giá-trị tinh-thần của Mỹ mà Hoa-Kỳ muốn Diệm là biểu-trưng...
− Những giá-trị nào được xét ở đây?
− Căn-bản là các quyền tự-do ghi trong Tu-Chính-Án số 1 của Hiến-Pháp Hoa-Kỳngôn-luận, báo-chí, tín-ngưỡng, hội-họp ôn-hòa, đạo-đạt ý dânmà Diệm khinh thường. Diệm tự cho mình cao hơn Hiến-Pháp (“Đằng sau hiến-pháp, còn có tôi!”).
− Gì nữa?
− Diệm phá vỡ kế-hoạch của Mỹ thành-lập Liên-Bang Đông-Dương và Liên-Phòng Đông-Bắc Á-Châu. Và Diệm hầu như suýt dâng nốt Miền Nam Việt-Nam cho cộng-sản: Ổng mưu-toan thỏa-hiệp với Bắc-Việt, lúc ấy là một khối chính-trị và quân-sự to lớn, thống-nhất và ngoan-cường bội phần hơn Miền Nam, có thừa thủ-đoạn và khả-năng tiêu-diệt thành-phần Quốc-Gia. Ổng muốn trở lại với Pháp; ổng muốn lạnh nhạt với Mỹ, trong lúc đối-ngoại thì mọi việc đều nhờ Mỹ đỡ đầu, đối-nội thì nền kinh-tế còn phôi-thai, cả guồng máy chính-quyền, trị-an và quốc-phòng, v.v... đều sống nhờ vào viện-trợ của Hoa-Kỳ...
− Anh nghĩ thế nào về cái chết của Diệm?
− Ô hay, tôi định hỏi anh thì anh đã hỏi ngược lại tôi.
Chúng tôi nhìn nhau rồi cả hai cùng cười. Tôi nói:
− Diệm tự giết mình!
Ferguson trố mắt nhìn tôi xem tôi có nói đùa hay không. 
Tôi giải-thích thêm:
− Về mặt sự-việc: cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm, dù muốn dù không, cũng đã trở thành một con hổ dữ. Hé một lời-nói, lộ một cử-chỉ mà vây-cánh ổng cho là phạm-thượng thì khó mà thoát khỏi bàn tay tàn-độc của thủ-hạ ổng. Huống gì, lật đổ ổng, lùng rượt ổng, bắt trói ổng... Tôi kính-trọng Diệm, tôi không tán-đồng việc giết Diệm, tôi phản-đối cách giết Diệm; nhưng tôi thông-cảm tình-cảnh của những kẻ đã cỡi lên đầu hổ rồi. Giết hổ hay hổ giết mình. Có thể xem như “tự-vệ” mà thôi. 
− Còn mặt nào nữa?
− Về mặt tinh-thần:
“Thứ nhất: Diệm chịu ảnh-hưởng Đạo Nho, muốn mình “tiết trực, tâm hư”. Nhưng Đạo Nho lấy “trung-quân” làm trọng; mà Diệm thì không chịu làm một bề-tôi lương-đống, đã phản-bội Bảo Đại để lên làm Nguyên-Thủ Quốc-Gia, tức đã phạm tội bất-trung với vua. Thế là Nho-Giáo không dung. 
“Thứ hai: Diệm lật đổ Bảo Đại vì Bảo Đại bất-tài. Điều đó đúng; tức Diệm thực-thi chủ-nghĩa duy-ích, một thứ đạo-đức mới. Nhưng học-thuyết vị-lợi ấy chủ-trương nhân danh đa-số, để làm điều có ích lợi chung. Trong lúc đó, áp-dụng chủ-nghĩa thực-dụng cho thiểu-số phe mình mà thôi, chính Diệm cũng đã biết trước là sẽ lâm-nguy. Ổng nói: Tôi chết thì trả thù cho tôi!’ Nếu chết tự-nhiên thì tại sao lại phải trả thù? Và Diệm cũng đã nêu lên tiền-lệ: mình truất ngôi người này được, thì kẻ khác cũng lại hất cẳng mình được, chứ sao! Các tướng chỉ noi gương ổng mà thôi! Đó là quy-luật sinh-tồn! Thế là đạo-đức mới cũng quật lại ổng. 
“Thứ ba: Diệm là tín-đồ Đạo Kitô. Theo Đạo ấy thì, “Satan là Chúa của đời này” (2 Cor 4:4) Chính “Đức Jesus cũng gọi Quỷ Satan là vua, chúa (kẻ thống-trị, bá-chủ) của thế-gian này” (John 12:31) và Thánh-Kinh xác-nhận “Cả thế-gian đều phục dưới quyền ma-quỷ, đều nằm trong tay ma quỷ (cả thế-giới đều ở dưới quyền thống-trị của Quỷ-vương)” (1 John 5:19). Với tư-cách chủ-nhân-ông của cả thế-giới loài người, “Satan đem Đức Jesus lên đỉnh núi cao, chỉ cho Ngài thấy các nước vinh-quang rực-rỡ khắp thế-giới, quyến-rũ Ngài rằng: Ngươi chỉ cần quỳ gối thờ lạy ta, là ta sẽ cho ngươi làm chủ tất cả thế-gian này!” (Matt 4:8,9). Đức Jesus từ-chối; Ngài cầu-nguyện Đức Chúa Trời: “Con đã rao truyền lời Cha cho các tín-đồ, nên người đời thù ghét họ, vì họ không thuộc về thế-gian, cũng như Con không thuộc về thế-gian” (John 17:14).
 Lời Đức Chúa Trời kể rằng: “Các vua thế-gian nổi dậy, các lãnh-tụ bàn nghị cùng nhau, âm-mưu đối đầu với Jehovah Đức Chúa Trời và nghịch với Đức Jesus là Đấng chịu xức dầu của Ngài” (Ps 2:2). Do đó, Chúa dạy: “Chớ yêu thế-gian, cũng đừng yêu (quyền-hành, danh-vọng, lợi-lộc) bất-cứ những gì thuộc về thế-gian” (1 John 2:15-17). Thánh-Kinh giảng thêm: “Kết bạn với kẻ thù của Đức Chúa Trời tức là thù nghịch với Đức Chúa Trời; kẻ thù đó là thế-gian” (Jas 4:4). Ngay chính trong giới tín-đồ của mình, khi “Đức Jesus thấy họ sắp tạo áp-lực đưa Ngài lên làm vua, Ngài liền bỏ đi lên núi ở một mình” (John 6:15), không chịu làm vua ở thế-gian. Nói chung, ngày nào mà Đấng Cứu-Thế chưa tái-lâm (chưa tận-thế), thì ngày đó “Cả thiên-hạ (toàn thể thế-giới loài người) còn bị Quỷ-vương hay Satan lừa dối, dỗ dành” (Rev 12:9), “làm mờ tối tâm trí (mù lòng)” (2 Cor 4:4), và “kẻ thù của Đức Chúa Trời” (Jas 4:4) là “các vua thế-gian” (Ps 2:2). Tóm lại, tín-đồ Đạo Chúa là người không thuộc về thế-gian; mà Diệm làm Tổng-Thống tức là làm một vua ở thế-gian, dưới quyền của Quỷ Satan, và chống lại Đức Chúa Trời. Hơn nữa, Đạo Chúa cấm đoán mọi Đạo khác, theo các Điều Răn thứ 1 và thứ 2 của Đức Chúa Trời: “Các ngươi không được thờ thần nào khác, ngoài Ta; không được khắc hình tượng-trưng cho bất-cứ cái gì trên cõi đời này; không được thờ-phụng chúng” (Ex 20:3-5). Thế mà Diệm còn tôn sùng giáo-lý Đức Khổng, dùng hình khóm trúc làm biểu-hiệu cho tinh-thần Nho-Giáo của mình, khắc vào ấn-tín của mình và của cả Quốc-Gia. Thế là Thiên-Chúa-Giáo cũng không dung. “Quân thù trồng rặt loại nho lấy giống từ vườn Sô Đôm với đất từ đồng Gô Mo; trái đắng và chua, làm thành rượu độc nọc rắn”. Tất-nhiên Đức Chúa Trời phải “ganh tỵ” (Zec 1:14), vì Chúa là Chúa “phân bì” (De 32:16; PS 78:58), “động lòng ghen” (Zec 1:14), nên Chúa phải trừng-trị, phải trả thù: “Báo thù là việc của ta, Ta làm cho chúng ngã nhào, tai-họa ào đến tức-thời” (Deut 32:32-35)...” 
− Chuyện đã qua rồi, phải không?
− Cái đó còn tùy. Nhưng có vài điều đáng nói:
“Thứ nhất, Diệm phản Bảo Đại thì Diệm vẫn còn mắc nợ Bảo Đại, vì Bảo Đại dùng Diệm mà Diệm không giúp ích gì cho Bảo Đại; nhưng các Tướng lật Diệm thì Diệm vẫn còn mang ơn các Tướng, vì Diệm dùng các Tướng thì các Tướng đã liều thân xông pha trận-tiền, đánh dẹp các giáo-phái, bình-định xứ-sở, ổn-định tình-hình cho chế-độ Diệm vững an. Thứ hai, nếu Diệm có đức, có tài, thì đó là thuộc-tính của một người, không nhất-thiết có nghĩa là mọi người khác đều tầm-thường mọi mặt, và bất-cứ đồ-đệ nào còn sót lại của Diệm cũng xứng-đáng lên làm lãnh-tụ quốc dân...” 
Nghĩ rằng chừng đó đã đủ, tôi hỏi qua chuyện mới:
− Anh nghĩ thế nào về Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu ?
− Cũng xin nhường anh!
Thế là Ferguson lại đẩy tôi đi trước nữa. Tôi thấy cần phải rào-đón phần mình trước tiên:
− Chắc anh đã biết là tôi đối-lập với Thiệu. Nhưng tôi chỉ chống tính-cách quân-phiệt, tôi chỉ phản-đối việc quân-cách-hóa Chính-Quyền, nhất là với Cảnh-Lực; tôi đòi-hỏi thực-thi Kế-Hoạch Cảnh-Sát-Hóa, là một quốc-sách tối-thượng mà Hoa-Kỳ tặng cho để làm sách-lược hậu-chiến, nhưng Thiệu xếp bỏ không dùng. Trong việc chống Thiệu, tôi khác người ta.
− Người ta chống Thiệu thế nào?
Tôi thấy là Ferguson đang “moi tin” tôi, nhưng tôi cũng thử dò đường:
− “Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc” thì có đông-đảo quần-chúng, là giới Phật-tử chiếm trên chín mươi phần trăm dân-số, có sẵn ứng-viên lý-tưởng vào chức-vụ Tổng-Thống, là Dương Văn Minh. Nếu là ứng-viên dân-sự thì khó lòng được lòng mọi Tướng, nhưng Minh là đại-tướng. Minh hòa-hoãn với cộng-sản, và Hà-Nội đã bắn tiếng chỉ nói chuyện với Minh. Đa-số đã chán chiến-tranh, lại ngán cộng-sản, nên đặt hy-vọng vào Minh. Nhưng Lực-Lượng này không bạo-động, và chỉ chờ-đợi đến kỳ bầu-cử Tổng-Thống vào cuối năm nay mà thôi...
− Anh cứ nói đi!
− “Đại-Việt Cách-Mạng Đảng” là một chính-đảng có nhiều đảng-viên nhất, lại được tổ-chức chặt-chẽ. Họ có nhiều đảng-viên giữ các chức-vụ trọng-yếu trong Chính-Quyền. Họ có thực-lực chính-trị. Lãnh-tụ của Đảng là Hà Thúc Ký nặng ký hơn Thiệu trong cuộc chạy đua giành phiếu nay mai. Tuy thế, có nhiều đảng-viên có thể bầu Minh.
− Xin nói tiếp đi! 
− “Việt-Nam Quốc-Dân Đảng” là một chính-đảng kỳ-cựu, có thời mạnh hơn Việt-Minh tức Cộng-Sản Việt-Nam. Sau này phân-hóa thành nhiều hệ-phái, phải đứng chung với “Đảng Dân-Chủ” của Thiệu trong một Liên-Minh. Hiện Vũ Hồng Khanh, một lãnh-tụ chính-trị mà Hồ Chí Minh đã phải nài-nỉ mời đồng ký tên ngang hàng với mình trong bản thỏa-hiệp thành-lập chính-phủ Quốc+Cộng liên-hiệp vào năm 1946, đang nỗ-lực thống-nhất lại. Mục đích của họ là phục-hồi uy-tín và địa-vị của Đảng cả ở trong nước lẫn ở nước ngoài. Họ không hoàn-toàn đồng-minh với Thiệu, nhưng nhiều đảng-viên cũng có thể chọn Minh. 
− Còn các tổ-chức khác nữa?
− “Phong-Trào Quốc-Gia Cấp-Tiến” dựa vào các nhà khoa-bảng và giới học-thức trẻ. Họ muốn cải-cách kinh-tế là huyết-mạch của quốc-dân, vì cho rằng nhà cầm quyền hầu như bất-chấp cán cân mậu-dịch và vấn-đề cung cầu...
“Các đoàn-thể khác nói chung thì chỉ đưa ra một vài ý-kiến mới, nhằm mục-đích trình-diện một vài nhân-vật tranh-đấu cấp địa-phương, nhắm ghế Quốc-Hội hoặc Hội-Đồng Tỉnh, Thị.
“Một số phần-tử nặng tinh-thần dân-tộc thì cho là Thiệu quá lệ-thuộc Hoa-Kỳ.
“Còn trên bình-diện cá-nhân thì phần đông chống Thiệu theo kiểu trưng-diện một món thời-trang, sợ không đối-lập thì bị xem là lỗi-thời!”
Ferguson cùng cười theo tôi. Lát sau, anh dè dặt:
− Nay Huế đã mất, nhưng những người liên-hệ với Huế thì vẫn còn. Anh thấy hệ-lụy của nó đối với tình-hình mới tại các Tỉnh trong Nam sẽ như thế nào?
Người Bạn của tôi nhắc đến những việc mà tôi cố ý hoặc bỏ qua hoặc dành nói sau. Tôi phải nói luôn:
− Đảng “Nhân-Xã”, tức Đảng “Cần-Lao Nhân-Vị” đổi mới, chỉ hoạt-động bên trong các giới tín-đồ Đạo Kitô và cựu cơ-sở Đảng Cần-Lao. Bên ngoài, họ có “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng và Kiến-Tạo Hòa-Bình”. Hòa-Bình thì chưa thấy có kế-hoạch khả-thi. Tham-nhũng thì là cụ-thể, nhưng chưa phải là yếu-tố quyết-định hàng đầu. Theo họ, lật đổ Ngô Đình Điệm mới là tội-phạm tối-trọng, bất-khả khoan-dung. Họ đã bắt đầu bạo-động. Mục-đích của họ là thay-thế Thiệu ngay, bằng một Tổng-Thống và Chính-Quyền rập khuôn Đệ-Nhất Cộng-Hòa . 
− Anh nghĩ thế nào?
Tôi đáp:
− Diệm nếu còn sống thì ổng cũng đã mãn các nhiệm-kỳ hiến-định từ lâu. Người của thời này không thể giải-quyết việc của thời kia. Không dưng mà các cộng-tác-viên ban đầu đã rời-bỏ, rồi các trí-thức chống-đối, rồi nhiều thành-viên nội-các từ-chức, rồi dân-chúng sôi-sục bất-bình, rồi chính người nhà mà cũng chia tay. Quân-đội bắt đầu đảo-chính từ 1960, ném bom Dinh Tổng-Thống từ 1962... 
“Việc gì phải đến là cứ đến.
“Háo-hức dẹp một tảng đá cản đường, không ai ngờ trước sẽ gặp bãi lầy tiếp theo. Nhưng hẳn không ai muốn cho tình-hình xấu đi...
“Lịch-sử đã sang trang. Vấn-đề bây giờ không phải là khóc mình, hận người, mà là làm sao để cải-thiện tình-hình. Có ai xứng-đáng để lên thay Thiệu không, và, nếu thay Thiệu thì thay cách nào?”
− Ý anh thế nào?
− Trước hết, nói về người thay. Tôi thấy là không, hoặc chưa, có ai có đủ điều-kiện để lên thay Thiệu. Riêng đối với Mỹ, nếu có thì tất Hoa-Kỳ đã bật đèn xanh cho xuất-hiện rồi!
Ferguson cố gắng giữ nguyên nét mặt vô-tư. Anh tiếp-tục hỏi tôi:
− Còn về cách thay? 
Tổng-Thống là người lãnh-đạo toàn-dân. Xuất-xứ có thể là bất-cứ đâu, nhưng đối-tượng phục-vụ không phải chỉ là một chính-đảng, một giáo-hội, một xã-giới, hay một gia-đình. Về Thiệu, tôi đã suy-nghĩ về hai trường-hợp có thể xảy ra: ông tự giải-quyết, hoặc bị giải-quyết. 
Tôi nói ngắn gọn:
− Thiệu đang gặp nhiều khó-khăn: Hoa-Kỳ rút ra, cộng-sản tiến vào, đối-lập lấn lên. Lần đầu tiên người dân Việt-Nam được tự-do xúc-phạm một nguyên-thủ quốc-gia mà không sợ bị bắt nhốt, trả thù, như dưới thời Diệm. Theo tôi, Thiệu không nên tham-quyền cố-vị. Vì chống mình nên người ta chỉ nhắm vào việc thay mình. Nếu mình bắn tiếng từ-chức thì tự-nhiên sẽ nổi lên tất cả các chuẩn-ứng-viên thay mình; dân-chúng sẽ so-sánh lựa-chọn giữa họ với mình; và người ta sẽ quay lại chống nhau, làm sáng tỏ ưu-khuyết-điểm của từng người; mình dựa vào đó mà tu-chính và quyết-định ở lại hay ra đi.
“Nếu Thiệu từ-chức, hoặc ông bị mất trí hay mệnh-vong, thì cũng chỉ có Phó Tổng-Thống Trần Văn Hương lên thay, cho đến cuối năm nay [1975] mới hết nhiệm-kỳ. Với Hương, có đạo-đức nhưng thiếu bản-lãnh, tình-hình sẽ như thế nào?
“Còn nếu muốn loại cả chế-độ Thiệu tức-thời thì chỉ có cách là đảo-chính quân-sựmột việc mà chắc hẳn đã có kẻ mưu toan nhưng không thuyết-phục được ai nên không xảy ra. Nhưng nếu xảy ra thì Chính-Quyền cũng sẽ chỉ nằm trong tay các tướng: Minh, Khiêm, Kỳ, v.v... hoặc người nào khác thì cũng thế thôi. Có khuôn mặt nào nổi bật hơn đâu? Kinh-nghiệm Cách-Mạng 1-11-1963: thay-đổi toàn-diện thì tình-hình sẽ như thế nào? Tóm lại, người ta mới nghĩ đến việc loại Thiệu, nhưng chưa nghĩ đến tình-hình hậu-Thiệu; hoặc cũng đã có nghĩ đến, nhưng không thực-tế, chỉ chủ-quan, cầu-may. Thực-tế là đã có Việt-Nam-Hóa, không còn báo-cô Hoa-Kỳ như trước được nữa, mà quốc-dân thì chưa đủ sức tự-túc tự-tồn. Giặc đã đến bên lưng, không còn thì-giờ để làm lại từ đầu...”
Im lặng một lát, rồi Ferguson hỏi tôi mà tôi nghe như anh tự hỏi mình:
− Không còn cách nào nữa ư?
Tôi nói chậm-rãi:
− Đáng lẽ đã có nhiều cách rồi!
Bạn tôi nhướng mắt lên, đợi chờ.
− Đệ-Nhất cũng như Đệ-Nhị Cộng-Hòa Việt-Nam chỉ thấy cái phần chiến-thuật chứ không thấy cái phần chiến-lược của các Kế-Hoạch mà Hoa-Kỳ đưa ra. Ngoài ra, họ chỉ chú-trọng cái phần ưu mà không quan-tâm đến cái phần khuyết, ở cuối mỗi Kế-Hoạch đều có nêu lên. Hơn nữa, còn có hai nhược-điểm về phía Hoa-Kì. Cố-Vấn Mỹ chỉ là cấp thừa-hành, đâu phải ai cũng hiểu được thâm-ý khi soạn-thảo kế-hoạch của cấp Trung-Ương hay chiến-lược-gia; thế mà họ đã để cho Đồng-Minh Việt-Nam cứ xem Cố-Vấn Mỹ như thước ngọc khuôn vàng. Trong lúc đó, các cấp Trung-Ương và ngoại-giao sành-sỏi của Mĩ thì cứ phép-tắc lễ-nghi; đáng lẽ phải nói huỵch-toạc ra như giữa các bên phối-tác với nhau, thì họ lại chỉ bóng-gió xa-xôi, mặc cho người nghe có thể không hiểu hoặc hiểu lầm.
− Xin anh nói rõ hơn.
− Diệm đã phá hỏng kế-hoạch của Mỹ nên mới hỏng bét. Bây giờ Thiệu cũng bỏ lỡ kế-hoạch của Mỹ nên phải dở-dang.
− Anh muốn nói về “Cảnh-Sát-Hóa” và trước đó là “Liên-Bang Đông-Dương”, “Liên-Phòng Đông-Bắc Á-Châu”?
− Vậy anh muốn tôi nói về vấn-đề gì khác nào?
− Nếu còn vấn đề gì khác, sao không nói ra?
Tôi ngưng một lát, rồi đánh bạo nói lên ý nghĩ của mình:
− Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa quả thật thiện-chiến, tinh-thần rất cao, nhưng dù có được Hoa-Kỳ tiếp-tục viện-trợ và yểm-trợ thì cũng vẫn sẽ không bao giờ thắng được Cộng-Sản Việt-Nam! 
Ferguson không giấu nổi vẻ ngạc-nhiên. Tôi giảng giải thêm:
− Lính phải ngăn-chận kẻ thù đằng trước để che-chở dân đằng sau. Đằng nầy: ở cấp Xã thì Nghĩa-Quân thu mình trong dăm ba chòi gác; ở cấp Quận thì Địa-Phương-Quân thủ thế trong khuôn-viên trụ-sở Chi-Khu; còn Chủ-Lực-Quân thì sau các cuộc hành-quân là rút về trại binh. Cộng-sản chiếm được phần lớn không-gian và thời-gian, nhất là ban đêm, cô-lập lính trong đồn và chế-ngự dân bên ngoài. Lính đã không bảo-vệ được dân thì thôi, làm sao mong dân phải làm khiên mộc bên ngoài bảo-vệ cho lính trong đồn? 
Người bạn của tôi ngẫm-nghĩ một lát rồi hỏi lại tôi:
− Thế còn Cảnh-Lực thì sao ?
− Cảnh-Lực, với tổ-chức và điều-hành hiện nay, không giúp được gì đúng với mong đợi của mọi người. Cảnh-Sát mới xuống đến Xã, các Xã “an-ninh” mà thôi, và chỉ là Cảnh-Sát Sắc-Phục, không làm điệp-báo, không lùng-diệt, và cũng không chống-cự nổi nếu bị đối-phương tấn-công. Đặc-Cảnh thì ở cấp Quận, và Ban Tác-Vụ chỉ có mấy người, làm sao nắm hết các Xã, các Thôn trong khắp khu-vực trách-nhiệm của mình, nhất là khi không có đủ phương-tiện để tổ-chức các đường dây...
Ferguson hỏi vặn tôi:
− Nghe anh có vẻ bi-quan. Thế tại sao hôm trước anh lại nài-ép tôivà tôi đã nhiệt-thành giúp anhbênh-vực Việt-Nam Cộng-Hòa trước các Dân-Biểu và Thượng-Nghị-Sĩ Hoa-Kỳ khi họ đến tận chỗ quan-sát tình-hình tại Vùng I này?
− Anh muốn tôi cứ để mặc cho chính-thể này suy sụp sao?
Chừng thấy câu chuyện hơi găng, Ferguson liền đổi đề-tài:
− Tôi thấy anh có nhiều hiểu-biết và nhận-định giá-trị hơn người. Ước chi anh là Tổng-Thống của nước này!
Dù anh nói thật hay nói mỉa tôi, tôi cũng không cần. Tôi đã bốc đồng:
− Tôi đợi thăng cấp vào ngày mồng 1 tháng 6 [1975] này, xong tôi ứng-cử vào Quốc-Hội. Tôi vào một Khối hoặc một Ủy-Ban. Tôi ra một tờ báo. Tôi lập một hội-đoàn. Và tôi ứng-cử Tổng-Thống Việt-Nam Cộng-Hòa. Anh nghĩ sao?
Ferguson trả lời:
− Tại sao lại không?
Tôi muốn nhân dịp dò-xét thái-độ của anh đối với mình:
− Nhưng điều quan-trọng là anh có ủng-hộ tôi hay không?
Người Bạn Đồng-Minh đưa ngay tay ra bắt tay tôi:
− Tại sao lại không?
Chúng tôi ôm nhau mà cười.
Sau đó, trở lại với chủ-đích của mình, tôi nói:
− Tôi đã đưa cho Watkins, viên-chức phụ-tá của anh, một chiếc máy truyền-tin cầm tay, với tần-số và mật-hiệu liên-lạc với tôi 24/24 giờ. Khi nào anh rời Đà-Nẵng thì anh hoặc anh ấy gọi tôi. 
− Watkins đã nói cho tôi biết rồi.
Đề-cập đến sự-việc ấy, bỗng-nhiên tôi thấy nghẹn-ngào.
Tôi rán hỏi thêm một câu:
− Tóm lại, Hoa-Kỳ có bỏ Đà-Nẵng không? Và Hoa-Kỳ có bỏ Việt-Nam không?
− Anh đã biết câu trả lời của tôi rồi!
Thật là một câu trả lời “khôn-ngoan”.
Rốt cuộc, tôi vẫn chẳng biết Người Bạn Đồng-Minh Hoa-Kỳ Ferguson đã trả lời tôi như thế nào.
*
Ngay đêm hôm ấy, Tòa Tổng Lãnh-Sự Hoa-Kỳ tại Vùng I bí-mật ra đi.
Tòa Tổng-Lãnh-Sự Hoa-Kỳ Rút Khỏi Miền Trung
Khoảng quá nửa đêm 27-3-1975, tôi được báo-cáo là các Thủy-Quân Lục-Chiến Mỹ canh gác Tòa Tổng-Lãnh-Sự Hoa-Kỳ tại Vùng I đã khóa cổng kỹ và rời khỏi trụ-sở ấy, sau khi đã chở ra khỏi nơi đó nhiều chuyến hàng đóng thùng, và từ giữa sân bên trong thì bốc lên trời một cột khói đen như ai đang đốt nhiều đồ vật gì.
Tôi gọi điện-thoại đến đó, rồi đến tư-gia của các Người Bạn Ðồng-Minh và những viên-chức ngoại-giao Hoa-Kỳ mà tôi quen, thì hoặc đường dây bị hư, hoặc chuông có reo mà không có người trả lời. Tôi dùng máy vô-tuyến gọi các Người Bạn Ðồng-Minh Ferguson và Watkins, nhưng cũng không liên-lạc được với ai.
*
Mờ sáng hôm sau, 28-3-1975, dân-chúng bắt đầu vào “hôi của” tại tòa nhà vốn được gọi theo địa-chỉ là 52 Bạch-Ðằng. Lúc đầu thì đồ ăn, đồ uống, vật-liệu văn-phòng, dụng-cụ linh-tinh; về sau thì bàn ghế tủ giường, trang-cụ, thiết-cụ, máy móc; cuối-cùng là các loại xe-hơi.
Tôi chen lách đám đông vào được trong văn-phòng của Trạm Hàng-Không “Air America”. Nơi đây đang chuẩn-bị đợt hành-khách và hành-lý cuối-cùng cho một số phi-cơ bán-phản-lực và trực-thăng. Viên kỹ-sư Phi-Luật-Tân, Trưởng Trạm, tuy đang bận túi-bụi nhưng không quên trao ngay chiếc chìa-khóa vào phòng VIP cho tôi. Anh tưởng, như những lần trước, tôi mà đến đây là chỉ để đưa hay đón các viên-chức quan-trọng mà thôi, vì lần nào tôi cũng mượn dùng phòng khách quan-nhân.
Khi chỉ còn lại mấy chiếc trực-thăng, anh chào từ-giã tôi, rồi cùng với các nhân-viên khác dùng bình-xịt xịt ra một thứ bọt trắng xóa, đẩy đám đông lui ra xa khỏi phi-cơ. Xong họ bay lên, rời khỏi sân bay và trạm hàng-không đặc-biệt này, sau khi nói cho tôi biết là họ bay ra tàu-thủy đang đậu ngoài khơi.
Thế là người Mỹ đã thật-sự bỏ Ðà-Nẵng, bỏ Miền Trung, bỏ Vùng Chiến-Tuyến này rồi.
*
Ngày đó, 28-3-1975, từ trong trụ-sở của họ khói đen từ mấy thùng đốt hồ-sơ tài-liệu tiếp-tục bốc lên ngút trời.
Tôi tiếp-tục tìm và gọi cho đến hôm sau vẫn không có vân mòng gì về Người Bạn Đồng-Minh.
Và ngày 29-3-1975 được xem là ngày thất-thủ của thủ-phủ Miền Trung...
(Trích "Biến-Loạn Miền Trung" trang 413-432)
Một phần bài này đã có trong "Về Vùng Chiến-Tuyến" 1996)




 
 Sau Hiệp-Định Paris năm 1971, chậm nhất là kể từ sau “Mùa Hè Đỏ Lửa” năm 1972, các vụ “Bàn Thờ Phật Xuống Đường” cũng như “Tổng-Công-Kích Tết Mậu-Thân” đã là chuyện cũ, đã lùi vào dĩ-vãng rồi.