Monday, April 22, 2013
NGUYỄN THIÊN THỤ * THỦ ĐOẠN HỒ CHÍ MINH & TRUNG CỘNG
CÁC THỦ ĐOẠN CHÍNH
TRỊ
-Ông gây là vụ biến loạn ở Nghệ An để thổi phồng sự kiện Sô Viết Nghệ Tĩnh để lập công và tuyên truyền.
Sau đây, chúng tôi xin trình bày rõ về các điểm sau:
(1). Một số người cho rằng vì Mỹ và Ngô Đình Diệm không thi hành hiệp định Geneve 1954 cho nên kéo dài chiến tranh. Nếu Việt Cộng thắng thì chúng thẳng tay thực thi đấu tố sẽ đem lại đau thương như miền Bắc. Nếu Việt Cộng thua thì chúng sẽ tiếp tục chiến đấu vì năm 1954 chúng tập kết tượng trưng còn để lại lực lượng nằm vùng tại các thôn trang và núi rừng.
Năm 1975 là năm đau thương của VNCH. Chúng ta cũng như Đài Loan là những con tốt, con xe bị hy sinh trong ván cờ quốc tế. Nhưng qua cơn bão, chúng ta sẽ quật khởi. Lòng dân trong nước ngày càng mạnh. Nhân dân Việt Nam với truyền thống Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ sẽ chiến đấu giành độc lập và tự do.
Hồ Chí Minh là tên đại gian, đại ác.Đảng Cộng sản Viêt Nam là đội quân tiên phong của Trung Cộng để họ tiến về phương Nam. Hồ Chí Minh là tay sai Trung Cộng, dùng khẩu hiệu giải phóng dân tộc, chống Pháp, chống Mỹ để gây chiến tranh để tiêu diệt dân tộc Việt Nam . Ông hô hào chiến đấu đến giọt máu cuối cùng, đến thế hệ thứ ba, thứ tư, ông quyết tâm tiêu hủy tất cả dù đốt sạch Trường Sơn. Nếu người Việt cuối cùng nằm xuống thì ai sẽ chiếm đất nước này? Câu trả lời là Trung Cộng. Trung Cộng huấn luyện cán bộ, cung cấp cố vấn, tướng lãnh và binh sĩ cùng lương thục, súng đạn tiền bạc cho Việt Cộng để Việt Cộng thực hiện kế hoạch xâm luợc thế giới. Không những thế, Trung Cộng và Pháp đã nhiều phen đứng đáng sau gây ra những cuộc biến loạn để thủ lợi. Họ đã ve vãn và kéo Ngô Đình Diệm trung lập theo Pháp và Trung CỘng. Họ cũng vận động Dương Văn Minh theo TRung Cộng. Họ cũng nhúng tay vào vụ Lê Quốc Quân, Mai Văn Hạnh... Nay thì họ ra mặt lấn chiếm Việt Nam.
Hồ Chí Minh chết đi để lại một đất nước tiêu điều khốn khổ vì tiền bạc khá nhiều nhưng bọn cộng sản đã thành tư bản đỏ, cướp tài sản nhà nước và nhân dân, làm cho ngân hàng trống rỗng, kinh tế suy sụp. Về chính trị, vẫn theo chủ trương độc tài, tàn bạo của cộng sản, họ thần phục Trung Cộng, cam tâm bán đất, nhượng biển cho Trung Cộng để cầu danh lợi bản thân và gia đình họ trong khi nhân dân khốn khó điêu linh. Cái tai họa do Hồ Chí Minh và đảng cộng sản gây ra, toàn dân ta phải giải quyết bằng cách tiêu diệt cộng sản để lập một nước tự do, dân chủ.
Trich NGUYỄN THIÊN THỤ * HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ
Ông Hồ có nhiều thủ đoạn lắm lắm, sau đây là những thủ đoạn được
sách báo phanh phui, còn những cái ẩn tàng khác, nay mai cũng sẽ được phát
hiện.
- Vì tham danh vọng, ông cướp danh hiệu và công
trình các bậc tiền bối như Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền,
Phan Bội Châu, Hồ Học Lãm.
-Ông không có bằng cấp, trình độ lớp ba trường làng, nhưng lại
muốn có danh giá nên đã khai man là học Quốc Học, Huế, học trường Đại Học Đông
Phương của Nga, phụ trách phòng Nam Á Châu của Đệ tam quốc tế.
-Ông mưu cùng Lâm Đức Thụ bán Phan Bội Châu và các đảng viên
phe Quốc gia lẫn phe cộng sản để cho bọn ông giành độc quyền yêu nước và độc
quyền cai trị. Làm việc này ông tiêu diệt phe quốc gia lại có tiền tiêu xài.
-Có lẽ ông cũng dùng thủ đoạn này mà triệt hạ
những đối thủ của ông như Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Hồng Phong, Trần Phú, Hà Huy
Tập, Phùng Chí Kiên, Nguyễn Bình etc.
Ông không
được Quốc Tế giao việc ở Thái Lan, ông tự ý đi mà phao tin là được lệnh Quốc tế
.
-Ông bị Stalin, Mao khinh bỉ nhưng lại bịa đặt là ông được Quốc tế
kính trọng.
-Ông gây là vụ biến loạn ở Nghệ An để thổi phồng sự kiện Sô Viết Nghệ Tĩnh để lập công và tuyên truyền.
-Tác
phẩm Ngục Trung Nhật Ký không phải là của Nguyễn Tất Thành nhưng bọn Việt Cộng
đã sửa chữa và nói là của Nguyễn Ái Quốc. Nếu là của Hồ Tập Chương thì sao lại
sửa chữa, phải chăng là muốn giấu diếm dấu tích người Trung Quốc? Dẫu sao đây
cũng là một vụ gian lận. Ngục Trung Nhật Ký không phải là của Nguyễn Tất Thành.
-Hồ Chí Minh luôn dùng kế sách chia rẽ, nói xấu để hại người
quốc gia. Trước 1945, bọn ông Hồ ở chung nhà với Hồ Học Lãm thì bọn này tìm
cách chia rẽ lực lượng Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội.
Được VNDLDM hội cứu ra khỏi tù và cho gia nhập lực lượng cách mạng, Hồ Chí Minh
lại nịnh hót Trương Phát Khuê để ông này bắt giam các nhà cách mạng quốc gia. Khi Việt Cộng cộng tác với
lực lượng OSS, thì Hồ Chí Minh cũng kiếm cách nói xấu phe Quốc gia. Ông cũng
tung tin Đại Việt sắp tấn công Pháp nên Pháp đã giúp vũ khí cho Việt cộng sát
hại Đại Việt và Quốc Dân đảng.
Pháp đã trở thành tay sai của Việt Cộng.
Pháp đã trở thành tay sai của Việt Cộng.
-Mặc dầu đã có phái đoàn sang Pháp dự hội nghị Fontainebleau, ông
Hồ cũng đi dự. Mục đích đi Pháp là để tránh mặt. Trước khi đi, ông giao nhiệm
vụ tàn sát Đại Việt và Quốc dân đảng cho Võ Nguyên Giáp. Ông còn đưa Huỳnh Thúc
Kháng làm bù nhìn bộ nội vụ, Huỳnh Thúc Kháng mắc mưu ký giấy ra lệnh tấn công
trụ sở Ôn Như Hầu của Đại Việt và Việt
Quốc. Sang Pháp, ông ký giấy mời Pháp trở lại Việt Nam mục đích là nhờ
Pháp đuổi quân Tưởng Giới Thạch mà ông không ngại là mang tiếngViệt gian bán nước . Trần Văn Giàu phản đối việc này nên bị cách chức.
-Ông tổ chức đón tiếp Pháp đến Hà Nội ngày 19-5 mà lại nói là mừng sinh nhật của ông.
-Ông tổ chức đón tiếp Pháp đến Hà Nội ngày 19-5 mà lại nói là mừng sinh nhật của ông.
-Ông Hồ tuân lệnh Nga Tàu, nhất là ông cúi đầu theo chỉ thỉ của cố
vấn Trung Quốc thi hành CCRD. Nhưng CCRD là một màn gian trá nhằm mục đích cướp
tài sản và khủng bố nhân dân cho nên bọn ông đã đem những nông dân nghèo và kết
tội bọn họ là địa chủ.Trong khi đó ông tàn nhẫn giết những người đã nuôi nấng
ông và giúp đỡ công cộng cuộc cứu nước như bà Nguyễn Thị Năm ở Thái
Nguyên, Đặng Văn Hướng...Ông tuân lệnh Nga Hoa giết người xong ông làm bộ
than thở rằng ông không muốn cải cách ruộng đất, ông muốn hòa bình sẽ thi
hành, ông không muốn giết bà Nguyễn Thị Năm nhưng ông bị cố vấn Trung Quốc bắt
buộc chứ lòng ông nhân đạo lắm!HOÀNG TÙNG * HỒI KÝ )
-Ông hứa
hẹn sẽ chia ruộng đất cho dân nghèo, nhưng chia ruộng được vài tháng thì ông
thu lại, bắt dân vào HTX, nghĩa là bắt toàn dân làm nô lệ. khi dân vào HTX ,
ông đưa một số máy cày và tuyên bố từ đây nông dân thoát kiếp trâu cày, nhưng
được it lâu, ông thu hồi máy cày...
-Trong
CCRD, gặp lúc bên Liên Xô có vụ xét lại, ông lo sợ dân chúng sẽ theo Liên Xô
kết án ông và lật đổ ông, và ông sợ Võ Nguyên Giáp và Trường Chinh sẽ thay ông
cho nên ông tìm cách tiêu diệt hai ông này. Trước tiên, ông đã đổ tội cho Trường Chinh, cách
chức Trường Chinh và bọn thủ hạ của Trường Chinh. Tiếp theo, ông kêu Võ Nguyên
Giáp vào giúp ông việc đảng và thay ông xin lỗi đồng bào. Võ Nguyên Giáp mứng
húm vì tưởng ông ta sẽ được ông Hồ yêu quý giao chức Tổng bí thư, nhưng trong
CCRD và Chỉnh Đốn đảng, một số chân tay của Võ Nguyên Giáp bị đốn, Võ Nguyên
Giáp trở thành tướng không quân. Màn chót, ông kêu Lê Duẩn trong Nam ra làm
Tổng Bí thư, Lê Duẩn thay ông đạp Võ Nguyên Giáp xuống đất đen!
-Ông
tuyên bố độc lập tự do, nhưng thực tế ông đưa Việt Nam vào quỷ đạo Nga Tàu, và
bán Việt Nam cho Trung Quốc. Ông không tự tay ký giấy, ông truyền khẩu lệnh cho
Phạm Văn Đồng ký văn tự bán nước. Ông nói tự do nhưng ông cướp hết mọi thứ tự
do của nhân dân ấy thế mà bọn Việt Cộng luôn miệng nói " Không gì
quý hơn độc lập tự do".
Ông đem quân xâm nhập miền Nam nhưng lại bảo đó là lực lượng GPMN, không liên quan đến Hà Nội. Sau 1975, đảng cộng sản thủ tiêu MTGPMN.
Ông đem quân xâm nhập miền Nam nhưng lại bảo đó là lực lượng GPMN, không liên quan đến Hà Nội. Sau 1975, đảng cộng sản thủ tiêu MTGPMN.
Sau đây, chúng tôi xin trình bày rõ về các điểm sau:
(1). Một số người cho rằng vì Mỹ và Ngô Đình Diệm không thi hành hiệp định Geneve 1954 cho nên kéo dài chiến tranh. Nếu Việt Cộng thắng thì chúng thẳng tay thực thi đấu tố sẽ đem lại đau thương như miền Bắc. Nếu Việt Cộng thua thì chúng sẽ tiếp tục chiến đấu vì năm 1954 chúng tập kết tượng trưng còn để lại lực lượng nằm vùng tại các thôn trang và núi rừng.
(2).
Cộng sản bao giờ cũng gian trá. Chúng biết dân Việt Nam ghét cộng sản cho nên
chúng mở đầu bản tuyên ngôn độc lập lấy lời của bản tuyên ngôn độc lập của Mỹ
và hàng chữ Độc lập Tự do Hạnh phúc của Tam dân chủ nghĩa là để lấy lòng Mỹ và
Trung Hoa quốc gia, đồng thời đánh lừa nhân dân Việt Nam rằng chúng theo phe tự
do, không phải phe cộng sản.
Trong khi đó Hồ Chí MInh viết thư cho Tổng thống Mỹ xin viện
trợ. Ông xin viện trợ chứ không phải thần phục Mỹ và từ bỏ Liên Xô. Tổng Thống
Mỹ đã không trả lời. Ông A. Patti và một số sử gia và chính trị gia cho rằng
tổng thống Mỹ đã không đáp ứng yêu cầu của ông Hồ nên chiến tranh đã kéo dài.
Nếu thuận theo ông Hồ thì Việt Nam đã theo Mỹ và chiến tranh Việt Mỹ đã không xảy ra..
Nhận định như vậy là sai lầm. Trong chương trước, chúng tôi
đã trình bày thể lệ của đệ tam quốc tế và sự kiểm soát ngặt nghèo của Comitern
đối với các đảng Cộng sản. Nếu ông Hồ phản bội Liên Xô, Trung Cộng thì ông
sẽ bị giết ngay. Trong thế giới cộng sản chỉ có hai trường hợp ly khai mà không
chết đó là Tito và Mao Trạch Đông. Ông Hồ gửi thư cho tổng thống Mỹ là để xin viện trợ, ông dùng
tiền bạc và vũ khí Mỹ để giết dân Việt Nam và xâm lăng các nước khác, mở rộng
đế quốc cộng sản.
Ông xin viện trợ là để dùng Mỹ chống Pháp cho ông. Nếu Mỹ
viện trợ cho ông Hồ tức là Mỹ mắc mưu cộng sản như người Pháp đã cam tâm làm
tay sai cho ông Hồ trong vụ giúp cộng sản thanh toán phe quốc gia. Tổng thống
Truman đã thông minh và khôn ngoan mà tránh dây dưa với Việt cộng.
Nếu
người Mỹ muốn vào Đông Dương thì họ phải chờ dịp Pháp rút lui khỏi Đông Dương,
còn Pháp ở Đông Dương, Mỹ vào Đông Dương sao tiện? Hơn nữa,Tổng Thống Truman đã
hiểu chủ nghĩa cộng sản là chủ nghĩa có hai mục đích triệt hạ tư bản và
tiêu diệt Mỹ. Có lẽ vì thấy thế nên ông từ khước Hồ Chí Minh là tay sai của
Stalin và Mao Trạch Đông. Ít nhất, trên bình diện chính trị , người Mỹ
thông minh, khôn ngoan hơn người Pháp.
Trước 1945, ông Hồ đã kết án Mỹ. Có lẽ A. Patti , Duiker và những người khác đã không đọc kỹ Marx, Lenin, Stalin và Hồ Chí Minh. Trong miệng Trần Dân Tiên, ông Hồ đã bộc lộ tư tưởng căm thù Mỹ, khinh bỉ Mỹ: Ông Hồ chỉ trích tổng thống Mỹ Thomas Woodrow Wilson ,và ông Hồ cho rằng .. những lời tuyên bố tự do của các nhà chính trị tư bản trong lúc chiến tranh thật ra chỉ là những lời đường mật để lừa bịp các dân tộc " (TRẦN DÂN TIÊN I, 19 ) .
Trước 1945, ông Hồ đã kết án Mỹ. Có lẽ A. Patti , Duiker và những người khác đã không đọc kỹ Marx, Lenin, Stalin và Hồ Chí Minh. Trong miệng Trần Dân Tiên, ông Hồ đã bộc lộ tư tưởng căm thù Mỹ, khinh bỉ Mỹ: Ông Hồ chỉ trích tổng thống Mỹ Thomas Woodrow Wilson ,và ông Hồ cho rằng .. những lời tuyên bố tự do của các nhà chính trị tư bản trong lúc chiến tranh thật ra chỉ là những lời đường mật để lừa bịp các dân tộc " (TRẦN DÂN TIÊN I, 19 ) .
Trong
thế chiến, Mỹ giúp đỡ vũ khí, tiền bạc cho Hồ Chí Minh là điều hợp lý. Nếu sau đệ nhị thế chiến, tổng thống Mỹ viện trợ tiền bạc
và súng đạn cho ông Hồ thì thật là một chuyện buồn cười! Họ nhận viện trợ và họ
sẽ trở mặt như họ đã lừa người Pháp trong 1945-1946. Việt Cộng có thể làm mọi
việc vì họ dựa vào hai cường quốc là Liên Xô và Trung Quốc!
Trong
mắt một số Việt cộng, cho đến nay mối tương quan Việt Hoa là "tình
nghĩa đồng chí anh em", còn mối tương quan Mỹ Việt là mối hận thù,
là cách moi tiền anh nhà giàu ngu dại. Sau 1975, Lê Duẩn ra lệnh các đại sứ đòi
tiền Mỹ mới chịu bang giao. Nay dù họ quỳ lạy Trung Quốc, họ cũng tỏ ra thân Mỹ
để moi tiền bằng mọi cách. Chúng ta đã nghe những nhàm tai luận điệu Bắc Kinh
và Hà nội chống " diễn biến hòa bình".
Cuối năm 2012, chúng ta cũng nghe những cái loa chống Mỹ của Trần Đăng Thanh và Nguyễn Chí Vịnh. (10).Bọn họ cũng đã trí thức vận được Vũ Quốc Thúc, Trịnh Khải hô hào trung lập chống Mỹ. Sự căm thù đế quốc Mỹ cũng rất mạnh ở Trung Quốc và dân chúng Việt Nam mặc dầu số du lịch, du học sinh và nhà giàu di cư sang Mỹ rất đông. Mong rằng người Mỹ sẽ không mắc lừa Trung Cộng và Việt Cộng.
Cuối năm 2012, chúng ta cũng nghe những cái loa chống Mỹ của Trần Đăng Thanh và Nguyễn Chí Vịnh. (10).Bọn họ cũng đã trí thức vận được Vũ Quốc Thúc, Trịnh Khải hô hào trung lập chống Mỹ. Sự căm thù đế quốc Mỹ cũng rất mạnh ở Trung Quốc và dân chúng Việt Nam mặc dầu số du lịch, du học sinh và nhà giàu di cư sang Mỹ rất đông. Mong rằng người Mỹ sẽ không mắc lừa Trung Cộng và Việt Cộng.
(3). Khi
Mỹ rút lui khỏi Việt Nam thì dân miền Nam đau khổ, mà người Mỹ cũng choáng
váng. Các nhà báo, nhà chính trị đua nhau nói về " hội chứng Việt
Nam". Tất nhiên phe cộng sản thì vui mừng coi như là đại thắng mùa xuân 1975. Nhưng sau 1954, Trung Cộng ra mặt
chủ trương hai nước Việt Nam, và ông Hồ tuyên bố " Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành
lấy “Độc lập”.
Hai việc này cho chúng ta thấy Trung Cộng viện trợ cho Việt Cộng nhưng vẫn muốn hai nước Việt Nam tồn tại và Mỹ ở lại Việt Nam, và Hồ Chí Minh luôn cương quyết hy sinh đến ngưởi Việt cuối cùng, hy sinh đến thế hệ thứ ba, thứ tư. Như vậy là ông Hồ dù là Nguyễn Tất Thành, Hồ Tập Chương hay ai đó đều là người của Trung Quốc, đóng vai trò lãnh đạo chiến tranh để tiêu diệt Việt Nam cho tham vọng bành trướng của Trung Quốc.
Bọn trung ương Hà Nội háo chiến, không hiểu thâm ý của Trung Cộng. Trung cộng muốn chiếm Việt Nam và thế giới. Họ muốn Việt Nam chết hết sau đó là dân Trung Cộng tràn sang chiếm cứ. Cuộc chiến 1945-1975 đã làm cho miền Bắc cạn nhân lực, bọn họ đã đôn lính, bắt thanh niên nam nữ 14-15 tuổi vào trận tuyến.
Hai việc này cho chúng ta thấy Trung Cộng viện trợ cho Việt Cộng nhưng vẫn muốn hai nước Việt Nam tồn tại và Mỹ ở lại Việt Nam, và Hồ Chí Minh luôn cương quyết hy sinh đến ngưởi Việt cuối cùng, hy sinh đến thế hệ thứ ba, thứ tư. Như vậy là ông Hồ dù là Nguyễn Tất Thành, Hồ Tập Chương hay ai đó đều là người của Trung Quốc, đóng vai trò lãnh đạo chiến tranh để tiêu diệt Việt Nam cho tham vọng bành trướng của Trung Quốc.
Bọn trung ương Hà Nội háo chiến, không hiểu thâm ý của Trung Cộng. Trung cộng muốn chiếm Việt Nam và thế giới. Họ muốn Việt Nam chết hết sau đó là dân Trung Cộng tràn sang chiếm cứ. Cuộc chiến 1945-1975 đã làm cho miền Bắc cạn nhân lực, bọn họ đã đôn lính, bắt thanh niên nam nữ 14-15 tuổi vào trận tuyến.
Nếu kéo dài nữa thì sao? Quân
Trung Quốc sẽ tràn vào miền Bắc làm bộ đội, làm dân cày, làm công nhân, và đất
Bắc sẽ thành thuộc địa Trung Cộng. Và miền Nam cũng sẽ kiệt quệ như vậy. Bên
cạnh đó, bọn Trung Cộng sẽ bắt bọn Hà Nội ký giấy nhượng đất, nhượng biển. Dù
Trung cộng chưa chiếm hết Việt Nam, trong cuộc chiến 45-75, họ cấy người vào
đảng và cơ quan bộ viện. Việc đưa Hồ
Tập Chương và một số người nào đó vào trung ương đảng cũng là việc đương nhiên
trong tiến trình xâm lấn Việt Nam.
Càng trường kỳ kháng chiến thì Việt Nam càng suy yếu và Trung Cộng thêm mạnh mẽ trong mục đích xâm lược Việt Nam. Trong 30 năm chiến tranh, Trung Cộng đã viện trợ 20 tỷ Mỹ kim. Năm 1962, viện trợ 90.000 vũ khí nhẹ.. Từ tháng giêng 1965 đến tháng 3/1968, TH đã gởi qua VN trên 320.000 binh lính vào những đơn vị phòng không, công binh, hỏa xa và tiếp liệu, có lúc đến 175.000 người trong một năm (TÀI LIỆU VỀ QUAN HỆ VIỆT NAM -TRUNG QUỐC ).
Họ giúp nhiều như vậy để Việt Cộng nhớ ơn, đồng thời nắm quyền cai trị Việt Cộng, mà cũng là bắt Việt Cộng mắc nợ, ký giấy nợ, chịu điều kiện nọ kia. Đó là cái mồi cho Việt Cộng cũng như Phi Cộng nuốt vào dạ dày!
Càng trường kỳ kháng chiến thì Việt Nam càng suy yếu và Trung Cộng thêm mạnh mẽ trong mục đích xâm lược Việt Nam. Trong 30 năm chiến tranh, Trung Cộng đã viện trợ 20 tỷ Mỹ kim. Năm 1962, viện trợ 90.000 vũ khí nhẹ.. Từ tháng giêng 1965 đến tháng 3/1968, TH đã gởi qua VN trên 320.000 binh lính vào những đơn vị phòng không, công binh, hỏa xa và tiếp liệu, có lúc đến 175.000 người trong một năm (TÀI LIỆU VỀ QUAN HỆ VIỆT NAM -TRUNG QUỐC ).
Họ giúp nhiều như vậy để Việt Cộng nhớ ơn, đồng thời nắm quyền cai trị Việt Cộng, mà cũng là bắt Việt Cộng mắc nợ, ký giấy nợ, chịu điều kiện nọ kia. Đó là cái mồi cho Việt Cộng cũng như Phi Cộng nuốt vào dạ dày!
Qua bài biên khảo của Đặng Chí Hùng, chúng ta có những thông tin sau:
Trên
trang của học viện Hành
chính quốc gia Việt Nam tại Hà Nội có tên: hanhchinh.com.vn có một bài
viết nói về phát biểu của tướng Nguyễn Trọng Vĩnh – nguyên Đại sứ đặc
mệnh toàn quyền Việt Nam tại Trung Quốc từ năm 1974 đến năm 1987.
Trong bài viết có đoạn tướng Vĩnh phát biểu: “Giúp nhiều như
vậy, một mặt họ bắt ta phải hàm ơn, phải đi theo; mặt khác, buộc ta phải
lệ thuộc họ về phụ tùng nguyên liệu. Vì vậy họ tiếp tục giúp ta về tiền
và vật chất mãi đến khi chúng ta giải phóng hoàn toàn miền Nam…”
“Sau khi ta ký hiệp định Giơ-ne-vơ, nước ta chia làm
hai miền, Trung Quốc gợi ý ta xây dựng miền Bắc trước và thực hiện
trường kỳ mai phục ở chiến trường miền Nam. Ý đồ là giữ chúng ta luôn ở
thế yếu thì họ mới dễ khống chế (vì ta chỉ có một nửa nước). Họ không
muốn ta hoàn toàn giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất toàn vẹn
lãnh thổ, trở thành một nước mạnh tuột khỏi tay Trung Quốc…”
“Sau Tết Mậu Thân, khi Mỹ dao động quyết tâm, ta cũng
thấy có thời cơ thương lượng, thì Trung Quốc không muốn ta đàm phán mà
muốn ta “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng” vừa để cho ta kiệt quệ vừa để Mỹ sa lầy phải tìm đến Trung Quốc.”
Trong cuốn sách “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua”của Nhà xuất bản Sự Thật công bố 14/10/1979, phụ trách bản thảo đưa in là Phạm Xuyên và Đình Lai có đoạn:
“Trong chiến lược toàn cầu của những người lãnh đạo Trung Quốc,
nếu họ coi Liên Xô và Mỹ là những đối tượng chủ yếu cần phải chiến
thắng, thì họ coi Việt Nam là một đối tượng quan trọng cần khuất phục và
thôn tính để dễ bề đạt được lợi ích chiến lược của họ.”…”
Đường vẽ chấm là “biên giới” của Trung Quốc theo quan điểm bành trướng, những vùng đánh số là những lãnh thổ mà nhà cầm quyền Bắc Kinh cho là đã bị nước ngoài “chiếm mất” bao gồm: một phần lớn đất vùng Viễn Đông và Trung Á của Liên Xô (số 1, 17, 18), Át Xam (số 6), Xích Kim (số 4), Butan (số 5), Miến Điện (số 7), Nêpan (số 3), Thái Lan (số 10), Việt Nam (số 11), Lào, Campuchia…” và “Chủ tịch Mao Trạch Đông còn khẳng định trong cuộc họp của Bộ Chính trị ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc, tháng 8 năm 1965:
Đường vẽ chấm là “biên giới” của Trung Quốc theo quan điểm bành trướng, những vùng đánh số là những lãnh thổ mà nhà cầm quyền Bắc Kinh cho là đã bị nước ngoài “chiếm mất” bao gồm: một phần lớn đất vùng Viễn Đông và Trung Á của Liên Xô (số 1, 17, 18), Át Xam (số 6), Xích Kim (số 4), Butan (số 5), Miến Điện (số 7), Nêpan (số 3), Thái Lan (số 10), Việt Nam (số 11), Lào, Campuchia…” và “Chủ tịch Mao Trạch Đông còn khẳng định trong cuộc họp của Bộ Chính trị ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc, tháng 8 năm 1965:
“Chúng ta phải giành cho được Đông nam châu Á, bao gồm cả miền
nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malayxia và Singapore… Một vùng như
Đông nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản… xứng đáng với sự
tốn kém cần thiết để chiếm lấy…
Sau khi giành được Đông nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió Đông sẽ thổi bạt gió Tây…”
Sau khi giành được Đông nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió Đông sẽ thổi bạt gió Tây…”
Rõ ràng đoạn trích này của người cộng sản Việt Nam cho thấy họ phải
công nhận Trung cộng muốn “khuất phục” Việt Nam mà bao đời họ đã không
làm được. Trung cộng tự coi Việt Nam là một phần của họ. Cuốn sách này
lại đề cập tiếp:
“Trong cuộc gặp giữa đại biểu bốn đảng cộng sản Việt Nam, Trung
Quốc, Inđônêxia và Lào tại Quảng Đông tháng 9 năm 1963, thủ tướng Chu
Ân Lai nói: “Nước chúng tôi thì lớn nhưng không có đường ra, cho nên rất
mong Đảng Lao động Việt Nam mở cho một con đường mới xuống Đông nam
châu Á”.
Để làm suy yếu và nắm lấy Việt Nam, họ ra sức phá sự đoàn kết
giữa ba nước ở bán đảo Đông Dương, chia rẽ ba nước với nhau, đặc biệt là
chia rẽ Lào và Campuchia với Việt Nam. Đồng thời họ cố lôi kéo các nước
khác ở Đông nam châu Á đối lập với Việt Nam, vu khống, bôi xấu, hòng cô
lập Việt Nam với các nước trên thế giới.” Và:
“Trong 30 năm qua, những người lãnh đạo Trung Quốc coi Việt Nam
là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu đối với chiến lược của
họ, luôn luôn tìm cách nắm Việt Nam. Muốn như vậy, nước Việt Nam phải là
một nước không mạnh, bị chia cắt, không độc lập và lệ thuộc Trung
Quốc.”
Như vậy âm mưu thôn tính Việt Nam bằng con đường cô lập, và gây
chia rẽ và muốn gây nội chiến tại Việt Nam là một cứu cánh cho Trung
cộng. Chính những người cộng sản Việt Nam cũng phải nói lên sự thực này.
Trung cộng muốn một Việt Nam yếu đuối về cả con người và tài nguyên để họ dễ dàng nắm cổ. Trung cộng rất khôn khéo ở chỗ muốn Việt Nam chia đôi nhưng lại bán vũ khí cho Miền Bắc để gây chiến với Miền Nam.
Nam Bắc đánh nhau chính là điều Trung cộng muốn. Chúng ta hoàn toàn có thể kiểm chứng thông tin về cuốn sách đã viết trên website của quân đội Việt Nam (Cộng sản):
Trung cộng muốn một Việt Nam yếu đuối về cả con người và tài nguyên để họ dễ dàng nắm cổ. Trung cộng rất khôn khéo ở chỗ muốn Việt Nam chia đôi nhưng lại bán vũ khí cho Miền Bắc để gây chiến với Miền Nam.
Nam Bắc đánh nhau chính là điều Trung cộng muốn. Chúng ta hoàn toàn có thể kiểm chứng thông tin về cuốn sách đã viết trên website của quân đội Việt Nam (Cộng sản):
Trong cuốn sách có tên gọi tạm dịch ra tiếng Việt “Liên Xô- Trung Quốc và Việt Nam, vấn đề chưa được biết”
của tác giả người Nga, Ruslan Kobachenko, nhà giáo kiêm nhà nghiên cứu
lịch sử Châu Á từng giảng dạy tại đại học Minsk-Nga, ông cũng là đảng
viên đảng cộng sản Liên Xô.
Cuốn sách này đã được nhà xuất bản Lịch sử của Liên Bang Nga xuất bản năm 1995, có đoạn trong trang 235 như sau: “Trung Quốc muốn Việt Nam không toàn vẹn và nội chiến. Họ muốn chúng ta (ý nói Liên Xô) phải suy yếu khi đối đầu với Mỹ và Việt Nam là con bài trong tay họ”.
Cuốn sách này đã được nhà xuất bản Lịch sử của Liên Bang Nga xuất bản năm 1995, có đoạn trong trang 235 như sau: “Trung Quốc muốn Việt Nam không toàn vẹn và nội chiến. Họ muốn chúng ta (ý nói Liên Xô) phải suy yếu khi đối đầu với Mỹ và Việt Nam là con bài trong tay họ”.
Điều này cho thấy chính những người cộng sản Nga cũng đã công nhận
rằng Trung cộng âm mưu về một Việt Nam suy yếu để họ lợi dụng cho mục
đích bành trướng.
Cũng tại cuốn: “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua”
của Nhà xuất bản Sự Thật công bố 14/10/1979 có đoạn mà đảng cộng sản
Việt Nam cho biết âm mưu và hành động nhằm làm suy yếu nội lực Việt Nam
ta:
“Để tăng sức ép đối với Việt Nam, những người lãnh đạo Trung Quốc
còn chỉ thị cho sứ quán của họ ở Hà Nội xúi giục, tổ chức người Hoa ở
Việt Nam gây rối, chống lại Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Cùng với hàng vạn người thuộc “bộ đội hậu cần” Trung Quốc sang làm đường giúp Việt Nam ở những tỉnh phía bắc từ năm 1965 đến 1968, bọn phản động người Hoa tuyên truyền cho “tư tưởng Mao Trạch Đông” và “cách mạng văn hóa”, xuyên tạc đường lối của Việt Nam, tổ chức các màng lưới gián điệp.
Những người cầm quyền Bắc Kinh còn cho những người gọi là “tị nạn cách mạng văn hóa” thâm nhập các tỉnh biên giới phía bắc Việt Nam để làm tình báo và tổ chức các “đội quân ngầm”
(Trong cuộc hội đàm cấp cao Việt – Trung tháng 9 năm 1970, Chủ tịch Mao Trạch Đông đã thừa nhận trách nhiệm của Trung Quốc đối với các hoạt động không hữu nghị đó. Tháng 11 năm 1977. Chủ tịch Hoa Quốc Phong lại một lần nữa, thừa nhận như thế.)”.
Cùng với hàng vạn người thuộc “bộ đội hậu cần” Trung Quốc sang làm đường giúp Việt Nam ở những tỉnh phía bắc từ năm 1965 đến 1968, bọn phản động người Hoa tuyên truyền cho “tư tưởng Mao Trạch Đông” và “cách mạng văn hóa”, xuyên tạc đường lối của Việt Nam, tổ chức các màng lưới gián điệp.
Những người cầm quyền Bắc Kinh còn cho những người gọi là “tị nạn cách mạng văn hóa” thâm nhập các tỉnh biên giới phía bắc Việt Nam để làm tình báo và tổ chức các “đội quân ngầm”
(Trong cuộc hội đàm cấp cao Việt – Trung tháng 9 năm 1970, Chủ tịch Mao Trạch Đông đã thừa nhận trách nhiệm của Trung Quốc đối với các hoạt động không hữu nghị đó. Tháng 11 năm 1977. Chủ tịch Hoa Quốc Phong lại một lần nữa, thừa nhận như thế.)”.
Rõ ràng âm mưu của Trung cộng nhằm làm suy yếu về con người, tài
nguyên, kinh tế… của Việt nam là không thể chối bỏ. Bạn đọc có thể kiểm
chứng đoạn trích ở trên qua links:
Về
phía
người Mỹ, họ lý luận rằng họ vào Việt Nam là để giữ vững thế cờ Domino,
để giữ
cho chiến tranh ở xa nước Mỹ. Có thể người Mỹ còn có những mục đich
khác và mục đich này rất quan trong khiến họ phải ở lại Việt Nam mười
năm. Sau 1973 là họ đã hoàn thành nhiệm vụ và đạt mục đích nên họ rút
lui. Người Mỹ thích phù phép, thich trò múa rối cho nên những màn cãi
nhau, những cuộc biểu tình phản chiến, những ngoại giao bóng tròn đều
phục vụ cho kế hoạch " đà đao" của họ.
Trong trường hợp Mỹ chẳng có kế sách dài lâu, chỉ bạ đâu đánh đó, thực tế cũng cho họ thấy rõ âm mưu, kế họach Trung Cộng. Sau Tết mậu thân 1968, tướng Westmoreland báo cáo về Ngũ Giác đài là đã diệt hết Việt Cộng nhưng sau đó Việt Cộng vẫn tấn công vài đợt nữa. Ngũ Giác đài cho rằng Westmoreland "làm láo báo cáo hay" nhưng sau đó họ nghiên cứu và tìm thấy câu trả lời: : Đó là lực lượng Trung Cộng đóng vai Việt Cộng tấn công....Trung Cộng là kho người vô tận. Họ sẵn sàng hy sinh vài triệu, vài chục triệu...
Chậm lắm vào 1970, người Mỹ thấy rõ âm mưu của Trung Cộng nên họ tìm cách thoát hiểm khỏi cái "Mê hồn trận Đông Dương" do Trung Cộng bày ra. Nếu Mỹ ở lại thì Mỹ, Việt Nam Cộng hòa và Cộng hòa XHCN Việt Nam đều chết hết cho mộng bành trướng của Trung Cộng, Vì vậy mà Mỹ rút khỏi Việt Nam.
Trong trường hợp Mỹ chẳng có kế sách dài lâu, chỉ bạ đâu đánh đó, thực tế cũng cho họ thấy rõ âm mưu, kế họach Trung Cộng. Sau Tết mậu thân 1968, tướng Westmoreland báo cáo về Ngũ Giác đài là đã diệt hết Việt Cộng nhưng sau đó Việt Cộng vẫn tấn công vài đợt nữa. Ngũ Giác đài cho rằng Westmoreland "làm láo báo cáo hay" nhưng sau đó họ nghiên cứu và tìm thấy câu trả lời: : Đó là lực lượng Trung Cộng đóng vai Việt Cộng tấn công....Trung Cộng là kho người vô tận. Họ sẵn sàng hy sinh vài triệu, vài chục triệu...
Chậm lắm vào 1970, người Mỹ thấy rõ âm mưu của Trung Cộng nên họ tìm cách thoát hiểm khỏi cái "Mê hồn trận Đông Dương" do Trung Cộng bày ra. Nếu Mỹ ở lại thì Mỹ, Việt Nam Cộng hòa và Cộng hòa XHCN Việt Nam đều chết hết cho mộng bành trướng của Trung Cộng, Vì vậy mà Mỹ rút khỏi Việt Nam.
Có
thể họ có một
chương trình lâu dài. Giai đoạn 1963-1973 là giai đoạn thứ nhất Mỹ vào
Việt Nam để thực hiện một số công tác. Giai đoạn thứ hai từ 1974 -2000
giai đoạn hai là thực hiện không thành kế mặc cho Trung Cộng chiếm Thái Bình Dương
và một phần Á Châu, Phi châu. Giai đoạn ba là từ 2000 về sau là giai đoạn ba:Mỹ quay trở lại Á Châu-Thái Bình dương, thực hiện kế đà đao.
Từ năm 1975, họ thấy đã đủ và rút lui theo kế "
đà đao" hay kế không thành".. Họ lại còn bỏ tiền của đầu tư vào Trung Cộng theo khẩu hiệu "Toàn cầu hóa" để con nhái Trung Cộng to bằng con
bò trong khi đó các nước tư bản bị thất nghiệp, bị khủng hoảng kinh tế. Từ
2000, Trung Cộng tuyên bố 80% biển đông là đất đai của họ. Lúc này thì Mỹ tuyên
bố trở lại Thái Bình Dương.
Một
số Việt cộng hay thân cộng cho rằng sau thất bại Việt Nam, Mỹ không còn
mặt mũi nào huyênh hoang xâm lược hay làm sen đầm quốc tế nữa. Điều này
sai vì sau Việt Nam, Mỹ vẫn ngang tàng xâm lược, gây chiến tranh vùng
vịnh, chiếm Iraq và Afghanistan,
Dẫu
sao, cuộc sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu khiến cho Việt Cộng hoảng sợ.
Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Đức Anh đã chạy qua Thành Đô ôm chân Trung
Cộng.. Hồ Chí Minh còn vờ vịt, nhưng bọn Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê
Đức Anh thực sự cam tâm bán nước cho Trung Cộng,
Hồ Chí Minh, Nguyễn Văn Linh, Nông Đức Mạnh, bọn Việt Cộng đã thực sự lọt vào tròng của Trung Cộng, Tuy nhiên, trong hàng ngũ Việt Cộng có lẽ còn có nhiều người yêu nước. Võ Nguyên Giáp, Đồng Sĩ Nguyên, Nguyễn Trọng Vĩnh, Dương Danh Dy, Cù Huy Hà Vũ là những tấm lòng còn nghĩ đến giang sơn Việt Nam độc lập, tự chủ.
Hồ Chí Minh, Nguyễn Văn Linh, Nông Đức Mạnh, bọn Việt Cộng đã thực sự lọt vào tròng của Trung Cộng, Tuy nhiên, trong hàng ngũ Việt Cộng có lẽ còn có nhiều người yêu nước. Võ Nguyên Giáp, Đồng Sĩ Nguyên, Nguyễn Trọng Vĩnh, Dương Danh Dy, Cù Huy Hà Vũ là những tấm lòng còn nghĩ đến giang sơn Việt Nam độc lập, tự chủ.
Năm 1975 là năm đau thương của VNCH. Chúng ta cũng như Đài Loan là những con tốt, con xe bị hy sinh trong ván cờ quốc tế. Nhưng qua cơn bão, chúng ta sẽ quật khởi. Lòng dân trong nước ngày càng mạnh. Nhân dân Việt Nam với truyền thống Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ sẽ chiến đấu giành độc lập và tự do.
Hồ Chí Minh là tên đại gian, đại ác.Đảng Cộng sản Viêt Nam là đội quân tiên phong của Trung Cộng để họ tiến về phương Nam. Hồ Chí Minh là tay sai Trung Cộng, dùng khẩu hiệu giải phóng dân tộc, chống Pháp, chống Mỹ để gây chiến tranh để tiêu diệt dân tộc Việt Nam . Ông hô hào chiến đấu đến giọt máu cuối cùng, đến thế hệ thứ ba, thứ tư, ông quyết tâm tiêu hủy tất cả dù đốt sạch Trường Sơn. Nếu người Việt cuối cùng nằm xuống thì ai sẽ chiếm đất nước này? Câu trả lời là Trung Cộng. Trung Cộng huấn luyện cán bộ, cung cấp cố vấn, tướng lãnh và binh sĩ cùng lương thục, súng đạn tiền bạc cho Việt Cộng để Việt Cộng thực hiện kế hoạch xâm luợc thế giới. Không những thế, Trung Cộng và Pháp đã nhiều phen đứng đáng sau gây ra những cuộc biến loạn để thủ lợi. Họ đã ve vãn và kéo Ngô Đình Diệm trung lập theo Pháp và Trung CỘng. Họ cũng vận động Dương Văn Minh theo TRung Cộng. Họ cũng nhúng tay vào vụ Lê Quốc Quân, Mai Văn Hạnh... Nay thì họ ra mặt lấn chiếm Việt Nam.
Hồ Chí Minh chết đi để lại một đất nước tiêu điều khốn khổ vì tiền bạc khá nhiều nhưng bọn cộng sản đã thành tư bản đỏ, cướp tài sản nhà nước và nhân dân, làm cho ngân hàng trống rỗng, kinh tế suy sụp. Về chính trị, vẫn theo chủ trương độc tài, tàn bạo của cộng sản, họ thần phục Trung Cộng, cam tâm bán đất, nhượng biển cho Trung Cộng để cầu danh lợi bản thân và gia đình họ trong khi nhân dân khốn khó điêu linh. Cái tai họa do Hồ Chí Minh và đảng cộng sản gây ra, toàn dân ta phải giải quyết bằng cách tiêu diệt cộng sản để lập một nước tự do, dân chủ.
Trich NGUYỄN THIÊN THỤ * HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ
_______
CHÚ THÍCH
CHÚ THÍCH
(1)Tùng
Khánh.Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đạo đức cách mạng.157. TƯ TƯỞNG ĐẠO
ĐỨC * PHẠM HẢO, HỮU THỌ, KHUẤT
(2). Pierre Darcourt. BayVien, Le Maître de Cholon; Grasset, 1997 ;Bảo Đại. Con Rồng Việt Nam – Hồi ký chính trị 1913-1987, Nguyễn Phước tộc xuất bản. 1990, tr. 205.
(3).
Thép Mới. "Năng động Hồ Chí Minh ". Bút ký, Chính trị
Quốc gia. 1990, tr.143.(92 * BÚT SỬ* NHÀ SÀN * GÁI
); (71 * ĐẶNG CHÍ HÙNG * NGƯỜI CHỒNG NGƯỜI CHA)
(4). Tài liệu của Đặng Chí Hùng và Bút Sử có ghi: Trong "Ho
Chi Minh", tác giả William Duiker, trang 575, viết: "In April 2001,
the ralatively unknown government official Nong Duc Manh, widely rumored to be
the illegitimate son of Ho Chi Minh, was elected general secretary of the VCP
(Vietnamese Communist Party)- 14″. Số 14 để người đọc lật ra sau cuốn sách đọc
tiếp footnote 14: "Nong Duc Manh has denied these rumors, but he concedes
that his mother, a member of the Tay ethnic minority, served as Ho’s servant
after the latter’s return to Vietnam during the early 1940s…"Tôi xem quyển
sách của W. Duiker, xuất bản 2000 có chú 14 nhưng không có hàng này.
Những hàng trên chỉ có ở lần tái bản 2002.
(5). Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Vinh Sơn, Sài Gòn, 1969,
tr. 75.
(6). Nguyễn Thế
Anh, "Hành trình chính trị của Hồ Chí Minh", đăng trong Hồ Chí Minh,
sự thật về thân thế và sự nghiệp, một nhóm tác giả, Nxb. Nam Á, Paris, 1990,
tr. 25.
(7).Bảo Đại, Con rồng Việt Nam – Hồi ký chính trị 1913-1987, Nguyễn Phước tộc xuất bản. 1990, tr. 205.
(8). Sophie Quinn Judge. The Missing Years, 199.
(9).Trần Đăng Thanh nói:" Có hai mối quan tâm lớn nhất là: “Việt Nam phải mang ơn Trung Quốc”, và “Mỹ là một nước gian ác, sự giúp đỡ trong giáo dục đối với Việt Nam là hành động “Diễn biến hòa bình” cần phải cảnh giác”
(7).Bảo Đại, Con rồng Việt Nam – Hồi ký chính trị 1913-1987, Nguyễn Phước tộc xuất bản. 1990, tr. 205.
(8). Sophie Quinn Judge. The Missing Years, 199.
(9).Trần Đăng Thanh nói:" Có hai mối quan tâm lớn nhất là: “Việt Nam phải mang ơn Trung Quốc”, và “Mỹ là một nước gian ác, sự giúp đỡ trong giáo dục đối với Việt Nam là hành động “Diễn biến hòa bình” cần phải cảnh giác”
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/opinion-of-usdipl-about-trdthanhs-lect-ml-12232012103827.html
Một thứ trưởng quốc phòng Việt Nam nói các cuộc biểu tình
chống Trung Quốc “gây mất ổn định” trong khi Việt Nam “cần ổn định, cần sự đồng
thuận để phát triển, để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ”....Nếu có được một người bạn
XHCN rất lớn bên cạnh ủng hộ và hợp tác cùng có lợi thì sẽ vô cùng thuận lợi
cho sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam."Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh
NGỌC TRÂN * TRANG THƠ VONG QUỐC
Khóc tháng tư đen
Ôm mặt khóc tháng tư đen
ngày cuối !
Lệnh đầu hàng như nhát chém ngang lưng !
Bao năm qua anh dũng giữa chiến trường ,
Bổng phút chốc tan hàng trong tức tưởi !
Như mãnh hổ giữa một bầy lang sói .
Từ khắp nơi uất hận ngút trời xanh !
Các anh hùng tuẩn tiết chết theo thành !
Đang chiến thắng bỗng dưng thành chiến bại ,
Nhìn áo chiến ngổn ngang lòng tê tái .
Bạn bè cùng chiến hữu một niềm đau !
Nắm tay nhau mà mắt lệ dâng trào .
Đất nước đã vào tay quân giặc đỏ .
Thương dân mình sẽ chịu nhiều đau khổ !
Dưới gông cùm của chủ nghĩa ngoại lai .
Ta thét vang lên hận tháng tư này .
Bao chiến đấu giờ đây thành vô nghĩa !!
Nơi xứ người nhớ thương về quê mẹ ,
Tháng tư buồn lại vây kín hồn ta !
Bao năm qua chuyện cũ vẫn chưa nhòa ,
Vẫn nhớ mãi quê hương ngày đen tối !
Lệnh đầu hàng như nhát chém ngang lưng !
Bao năm qua anh dũng giữa chiến trường ,
Bổng phút chốc tan hàng trong tức tưởi !
Như mãnh hổ giữa một bầy lang sói .
Từ khắp nơi uất hận ngút trời xanh !
Các anh hùng tuẩn tiết chết theo thành !
Đang chiến thắng bỗng dưng thành chiến bại ,
Nhìn áo chiến ngổn ngang lòng tê tái .
Bạn bè cùng chiến hữu một niềm đau !
Nắm tay nhau mà mắt lệ dâng trào .
Đất nước đã vào tay quân giặc đỏ .
Thương dân mình sẽ chịu nhiều đau khổ !
Dưới gông cùm của chủ nghĩa ngoại lai .
Ta thét vang lên hận tháng tư này .
Bao chiến đấu giờ đây thành vô nghĩa !!
Nơi xứ người nhớ thương về quê mẹ ,
Tháng tư buồn lại vây kín hồn ta !
Bao năm qua chuyện cũ vẫn chưa nhòa ,
Vẫn nhớ mãi quê hương ngày đen tối !
Ngọc
Trân
Tháng tư vẫn nhớ về An Lộc
Tháng tư vẫn nhớ về An
Lộc ,
Nhớ đồi Đồng Long nhớ bạn bè .
Bốn mươi năm chợt như giấc mộng ,
Nhiều đêm chuyện cũ vẫn hiện về .
Tháng Tư vẫn nhớ về An Lộc ,
Những ngày pháo giặc rót như mưa . .
Thị trấn như chìm trong biển lửa ,
Bạn bè nằm xuống chết bất ngờ !
Tháng Tư vẫn nhớ về An Lộc .
Tay súng trong tay quyết giữ cờ
Bao lần chiếm lại nơi địch đóng ,
Đồi gió mồ chôn xác giặc thù .
Tháng Tư vẫn nhớ về An Lộc .
Nhớ đường quốc lộ số mười ba
Dân lành gục ngã khi chạy giặc .
Giặc giết em thơ lẫn mẹ già !
Tháng Tư vẫn nhớ về An Lộc .
Những nấm mồ chôn cất bạn bè ,
Chẳng khói hương ấm hồn tử sĩ !
Người đi chẳng hẹn được ngày về .
Tháng Tư vẫn nhớ về An Lộc .
Những ngày giải tỏa tỉnh Bình Long ,
Xe tăng giặc chết nằm phơi xác ,
Cờ vàng phất phới bạn cười vang .
Tháng tư gom lại bao nỗi nhớ ,
Tóc xanh giờ cũng đã thay màu .
Hơn nửa đời người thân biệt xứ,
Nhớ về quê mẹ một niềm đau !!!!!!
Nhớ đồi Đồng Long nhớ bạn bè .
Bốn mươi năm chợt như giấc mộng ,
Nhiều đêm chuyện cũ vẫn hiện về .
Tháng Tư vẫn nhớ về An Lộc ,
Những ngày pháo giặc rót như mưa . .
Thị trấn như chìm trong biển lửa ,
Bạn bè nằm xuống chết bất ngờ !
Tháng Tư vẫn nhớ về An Lộc .
Tay súng trong tay quyết giữ cờ
Bao lần chiếm lại nơi địch đóng ,
Đồi gió mồ chôn xác giặc thù .
Tháng Tư vẫn nhớ về An Lộc .
Nhớ đường quốc lộ số mười ba
Dân lành gục ngã khi chạy giặc .
Giặc giết em thơ lẫn mẹ già !
Tháng Tư vẫn nhớ về An Lộc .
Những nấm mồ chôn cất bạn bè ,
Chẳng khói hương ấm hồn tử sĩ !
Người đi chẳng hẹn được ngày về .
Tháng Tư vẫn nhớ về An Lộc .
Những ngày giải tỏa tỉnh Bình Long ,
Xe tăng giặc chết nằm phơi xác ,
Cờ vàng phất phới bạn cười vang .
Tháng tư gom lại bao nỗi nhớ ,
Tóc xanh giờ cũng đã thay màu .
Hơn nửa đời người thân biệt xứ,
Nhớ về quê mẹ một niềm đau !!!!!!
Ngọc Trân 4/12
Quê hương tôi biển đông đang dậy sóng !
Quê hương tôi biển đông
đang dậy sóng !
Lũ giặc Tầu đang khuấy phá đảo ta ,
Chúng ngang nhiên thành lập phố Tam Sa .
Và hành động không khác chi hải tặc .
Bắt ngư dân cùng tịch thâu tài sản .
Đường lưỡi bò chúng tuyên bố của mình ??
Gom biển đông chúng muốn thành của riêng ,
Xóa luật biển coi thường Liên hiệp quốc ,
Bọn Việt cộng đang cầm quyền trong nước .
Đã cúi đầu khuất phục bọn Hán gian !
Hèn với giặc nhưng rất ác với dân .
Đã đàn áp những người dân yêu nước !
Chúng giờ đây đã không yêu tổ quốc .
Dâng tài nguyên dâng biển đảo đất đai .
Và tự mình chúng biến thành tay sai .
"Ơn Trung Quốc" chúng ăn mừng mở hội .
Toàn dân ơi ! hãy đáp lời sông núi .
Cùng đứng lên tận diệt lũ Việt gian .
Hãy cùng nhau viết trang sử huy hoàng ,
Bạch Đằng đó còn âm vang chiến thắng .
Biển đông quê tôi là mồ chôn giặc .
Lũ giặc Tầu đang khuấy phá đảo ta ,
Chúng ngang nhiên thành lập phố Tam Sa .
Và hành động không khác chi hải tặc .
Bắt ngư dân cùng tịch thâu tài sản .
Đường lưỡi bò chúng tuyên bố của mình ??
Gom biển đông chúng muốn thành của riêng ,
Xóa luật biển coi thường Liên hiệp quốc ,
Bọn Việt cộng đang cầm quyền trong nước .
Đã cúi đầu khuất phục bọn Hán gian !
Hèn với giặc nhưng rất ác với dân .
Đã đàn áp những người dân yêu nước !
Chúng giờ đây đã không yêu tổ quốc .
Dâng tài nguyên dâng biển đảo đất đai .
Và tự mình chúng biến thành tay sai .
"Ơn Trung Quốc" chúng ăn mừng mở hội .
Toàn dân ơi ! hãy đáp lời sông núi .
Cùng đứng lên tận diệt lũ Việt gian .
Hãy cùng nhau viết trang sử huy hoàng ,
Bạch Đằng đó còn âm vang chiến thắng .
Biển đông quê tôi là mồ chôn giặc .
Ngọc
Trân
Xin hãy giữ lá cờ vàng ba sọc đỏ
Hôm nay thấy cờ vàng bay
phất phới .
Nơi xứ người mà cứ ngỡ quê tôi ,
Tôi và anh lưu lạc cuối phương trời .
Nơi đất khách gia tài còn đâu nữa !
Chỉ còn lại cờ vàng ba sọc đỏ .
Như những giòng máu đỏ chứa trong tim .
Tuổi trẻ chúng ta giờ biết đâu tìm ?
Gia tài đó xin trao cho lớp trẻ .
Ngày nào đó trên quê hương đất mẹ ,
Con cháu mình sẽ dựng lại cờ xưa .
Khi nước mình sạch bóng bọn cộng nô .
Cờ thân ái sẽ thay màu cờ máu ,
Hãy cùng nhau chúng ta khuyên con cháu ,
Gia tài ta là tổ quốc thân yêu .
Là cờ vàng ba sọc đỏ luân lưu ,
Mong thế hệ đàn em mình tiếp nối .
Việt Nam Cộng hòa chữ vàng chói lọi .
Sẽ sáng ngời trên đất nước thân yêu .
Ngọc Trân
Nơi xứ người mà cứ ngỡ quê tôi ,
Tôi và anh lưu lạc cuối phương trời .
Nơi đất khách gia tài còn đâu nữa !
Chỉ còn lại cờ vàng ba sọc đỏ .
Như những giòng máu đỏ chứa trong tim .
Tuổi trẻ chúng ta giờ biết đâu tìm ?
Gia tài đó xin trao cho lớp trẻ .
Ngày nào đó trên quê hương đất mẹ ,
Con cháu mình sẽ dựng lại cờ xưa .
Khi nước mình sạch bóng bọn cộng nô .
Cờ thân ái sẽ thay màu cờ máu ,
Hãy cùng nhau chúng ta khuyên con cháu ,
Gia tài ta là tổ quốc thân yêu .
Là cờ vàng ba sọc đỏ luân lưu ,
Mong thế hệ đàn em mình tiếp nối .
Việt Nam Cộng hòa chữ vàng chói lọi .
Sẽ sáng ngời trên đất nước thân yêu .
Ngọc Trân
Đọc thơ Lời tử sĩ
Đọc thơ anh chợt rưng rưng nước mắt !
Lời thơ buồn thấm tận trái tim tôi !
Những bạn bè tôi đã mất lâu rồi !
Xác thân đã thấm sâu lòng đất mẹ !
Cần gì nữa những nắm mồ sạch sẽ ?
Khi nước nhà chưa sạch bóng quân thù ,
Khi nước nhà vẫn còn bóng cộng nô ,
Một lần nữa chúng cam tâm bán nước .
Nỗi nhục xưa một ngàn năm Bắc thuộc !
Đất biên cương biển đảo đã mất rồi !
Bạn nằm đó mà hồn vẫn chưa nguôi !
Tôi mượn lời thơ nói niềm uất hận !
Khi đất nước giặc còn đang rao bán !
Van xin làm gì một cái nghĩa trang ,
Đâu cần chi những nắm mộ huy hoàng ,
Chỉ tủi những vong linh người nằm xuống .
Tôi mong sao một ngày mai tươi sáng
Đất nước mình dẹp hết bọn cường quyền .
Bọn chúng tôi sẽ rước các hương linh ,
Đặt trân trọng trên bàn thờ tổ quốc .
Ngọc Trân
Sunday, April 21, 2013
LÊ XUÂN NHUẬN * VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI * AI GIẾT VIỆT NAM CỘNG HÒA ?
ÔNG
NGÔ ĐÌNH DIỆM VÀ PHE NHÓM
KHÔNG
BIẾT GÌ TRƯỚC
VỀ
CHÍNH-BIẾN 1-11-1963?
Có một điều mà không ai là không thắc-mắc:
Ông Ngô Đình Diệm
và phe nhóm không biết gì trước về cuộc chính-biến 1-11-1963 hay
sao? trong lúc mật-vụ chuyên-môn, nào là thuộc Sở Nghiên Cứu
của Phủ Tổng-Thống, thuộc Tổng Nha Cảnh-Sát Công-An, thuộc
Phủ Đặc-Ủy Trung-Ương Tình-Báo, thuộc Nha An-Ninh Quân-Đội, thuộc cả Bộ Thông-Tin, v.v...; tai+mắt thân-tín
xông-xáo trong các đảng+đoàn, như Đảng Cần Lao, Quân Ủy Đảng,
Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia, Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới Xã Hội,
v.v...; tay+chân tự-nguyện dày đặc trong các tổ-chức công-cộng
như Ấp Chiến Lược, Liên Gia, nghiệp-đoàn, thương-gia, lao-động,
tôn-giáo, thanh-niên, sinh-viên học-sinh, v.v...
Về phiá nội-bộ Miền Nam, chế-độ Ngô
Đình Diệm đã đánh mất lòng dân, nhiều
nhất là kể từ đầu thập-niên 1960,
cụ-thể với các vụ:
-- 18 chính-trị-gia tên tuổi, gồm có
Phan Khắc Sửu, Trần Văn
Hương, Phan Huy Quát, Trần Văn Đỗ, v.v..., trong đó có đến
11 Tổng-Trưởng,
Bộ-Trưởng cuả chính chính-phủ Đệ-Nhất
Cộng-Hoà của ông Diệm, họp tại nhà hàng
Caravelle,
Saigon, vào ngày 26-4-1960, đã ra Tuyên-Ngôn phản-đối chế-độ độc-tài
Ngô Đình Diệm,
đòi
ông thay-đổi chính-sách;
-- Lê Xuân Nhuận, tại hội-đường cơ-quan
Cảnh-Sát Huế, trong buổi lễ Hai Bà Trưng, đã công-khai tố-cáo các
sai+trái của chế-độ Ngô Đình Diệm;
-- Chế-độ Diệm đã bị đảo-chính hụt, vào ngày
11-11-1960, do Đại-Tá Nguyễn Chánh
Thi,
Chỉ-Huy-Trưởng Nhảy Dù, cầm đầu, với sự tham-dự của các
Trung-Tá Nguyễn Triệu Hồng, Vương Văn Đông, các Thiếu-Tá
Phan Trọng
Chinh, Phạm Văn Liễu, Đại-Úy
Phan Lạc Tuyên, Bác-Sĩ Phan Quang Đán,
v.v...;
-- Dinh Độc-Lập đã bị ném bom, vào ngày
27-2-1962, do hai phi-công Phạm Phú
Quốc và Nguyễn Văn Cử thực-hiện;
-- Hoà-Thượng
Thích Quảng-Đức (và các vị khác)
đã tự-thiêu,
Phật-Tử khắp nơi đã xuống đường, vì
chính quyền Diệm cấm treo cờ Phật-Giáo vào
ngày lễ Phật-Đản, nổ chết người
tại Đài Phát-Thanh Huế vào tối 8-5-1963,
tổng-tấn-công chuà-chiền vào đêm 20-8-1963; v.v...
-- Ông+Bà Trần Văn Chương, Đại-Sứ
tại Mỹ và Quan-Sát-Viên tại Liên-Hiệp-Quốc, là
cha+mẹ đẻ của bà Ngô Đình Nhu, và thạc-sĩ
Vũ Văn Mẫu, Ngoại-Trưởng và là
cộng-sự-viên lâu năm nhất của
Tổng-Thống Diệm, mà cũng đã
quyết-liệt chống lại chế-độ họ Ngô;
v.v...
Đó là
những tín-hiệu, những cảnh-báo trước,
từ phía người dân Miền Nam.
Còn về phía Hoa Kỳ thì họ đã
triệu hồi đại sứ Frederick Nolting và thay
thế bằng đại sứ
Henry Cabot Lodge. Ông
đại sứ này rất nổi tiếng là chuyên
viên tổ chức các cuộc đảo chính lật đổ
các chính quyền độc tài (Tổng Thống
Diệm không lẽ không thấy rõ ý-đồ và quyết-tâm của chính
phủ Hoa Kỳ trong việc bổ-nhiệm ông này? thế mà, ngày
21 tháng 8 năm 1963 là ngày đại sứ Henry Cabot
Lodge sẽ đến Saigon thì ngày 20
tháng 8 năm 1963 Tổng Thống Diệm đã ra lệnh
mở cuộc hành quân tổng tấn công “quét dọn”
các chùa chiền, rõ ràng là để “dằn mặt” tức
khiêu-khích ông đại sứ kiêm chuyên viên đảo chánh
này!).
Hoa-Kỳ đã thấy rõ tính-chất
độc-tài hại dân của tập-đoàn họ Ngô
và tinh-thần đối-kháng của sĩ-phu và
quần-chúng Việt-Nam từ lâu, cũng như biết trước
về dự-mưu đảo-chính cuả số tướng
VNCH liên-hệ từ nhiều năm qua. Thế nhưng
mãi đến tháng 9-1963 Tổng Thống Kennedy mới
trả lời báo-chí rằng muốn chiến-thắng
Việt-Cộng thì phải thay-đổi chính-sách và
nhân-sự
cuả chính-phủ Ngô Đình Diệm, và đại-sứ
Henry Cabot Lodge mới trực-tiếp đề-nghị
Tổng-Thống NĐD cải-tổ (nhưng ông Diệm
vẫn không nghe theo!)
Theo
ký-giả TÚ GÀN
(Lữ
Giang, Nguyễn Cần):
“...
nếu ông Diệm ra đi và Bảy Viễn lên nắm
quyền, Bảy Viễn sẽ cho thanh toán tất cả
những người bấy lâu nay hợp tác với ông
Diệm, lúc đó anh em sẽ trốn ở đâu?
Ông Nhu
nói rằng anh em muốn gì cứ vào nói chuyện
thẳng với Thủ Tướng, còn ông phải
liên lạc với Nha Trang và Huế yêu cầu cho lập
ngay hai chiến khu, một ở Phan Rang và một ở
Huế, để khi tình hình nguy ngập, anh em có thể vào
đó ẩn nấp và tìm cách lật ngược lại
thế cờ.
Đến lúc này, ông
Diệm
đã nói với anh em rằng nếu
bị mất chức, ông sẽ ở lại Việt Nam
cầm đầu một đảng chính trị để
tranh cử vào Quốc Hội và lật lại thế
cờ.”
(trích
từ bài viết “Chuyện
50 Năm VNCH”
của Tú
Gàn)
Tức
là ngay
từ những ngày mới lên làm Thủ Tướng, ông Diệm đã thấy
rõ viễn-cảnh
có thể mất chức, và cùng ông Nhu tính chuyện thành-lập chiến-khu,
tìm cách lật lại thế cờ.
Theo
linh-mục TRẦN VĂN KIỆM
(bạn
thân từ thời còn lưu-lạc tại Hoa-Kỳ và từ 1954 phục-vụ với
tư cách “quan-sát-viên miễn phí” của TT Diệm):
<<Cần
gì đại quân Mĩ phải kéo sang đây mà thêm đổ máu cho cả quân
Mĩ cả nhân dân Việt từ Bắc vào Nam làm gì? Thế rồi... ông
(Diệm) quyết liệt từ chối đề nghị của Bạch cung. Ngày mùng
4 tháng chạp dương lịch năm 1960, Đại sứ Hoa kì Elbridge Durbrow, đánh
điện về Hoa thịnh đốn: “It
may be necessary to consider alternatives to Diem.”
Tin
lọt tới Hà nội, Bắc kinh và Mạc tư khoa!!!
Hoa kì thua trận Việt Nam từ ngày hôm ấy;
ông Diệm nhận án tử hình cũng ngày hôm ấy:
mùng 4 tháng chạp năm 1960!!!.??>>
(trích
từ hồi ký “Có phải Hoa thịnh đốn
đã đưa ông Diệm về làm Tổng thống Đệ nhất Cộng hòa Việt
Nam?” của L.m. An-tôn
Trần văn Kiệm)
Theo
ký-giả TÚ
GÀN:
“Ngày
8.10.1963, Giáo sư Bửu Hội ra trước Đại
Hội Đồng Liên Hiệp Quốc trình bày đề
nghị của chính phủ VNCH và xin Liên Hiệp Quốc
cử một phái đoàn sang Việt Nam xem xét về
vụ Phật Giáo.
Trên
đường trở về Việt Nam, Giáo sư Bửu
Hội và phái đoàn đã ghé Washington thăm Tòa Đại
Sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ và thông báo một
số chỉ thị cần thiết của Tổng
Thống. Khi phái đoàn của
Giáo Sư Bửu Hội vừa đến Washington thì
Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã mời Giáo sư
Bửu Hội đến nói chuyện. Nhưng khi
phái đoàn đến thì Bộ Ngoại Giao bắt phái
đoàn phải ngồi ở ngoài, chỉ mời
riêng Giáo sư Bửu Hội vào nói chuyện với
Thứ Trưởng Averell Harriman, người chủ mưu
đảo chánh lật đổ Tổng Thống Ngô Đình
Diệm. Sau
cuộc tiếp xúc, Giáo sư Bửu Hội cho phái
đoàn
biết Bộ Ngoại Giao Hoa
Kỳ thuyết phục Giáo sư tuyên bố chống
chế độ Ngô Đình Diệm và hứa sẽ cho làm
Thủ Tướng sau khi chế độ Ngô Đình
Diệm bị lật đổ. Giáo sư Bửu Hội
chẳng những không đồng ý mà còn phái một
đặc sứ trong phái đoàn về ngay Saigon báo tin cho
Tổng Thống Ngô Đình Diệm biết.
Sau đó, Giáo sư đã đích
thân trở về Việt Nam báo cáo mọi việc đã
xẩy ra.”
(Trích
từ bài “Thích
Trí Quang và
Giấc Mơ Lãnh Tụ” -
Saigon
Nhỏ ngày 26.10.2001
Theo
tiến sĩ LÂM
LỄ TRINH
(cựu
Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ dưới thời TT Ngô Đình Diệm):
“Một
âm mưu lật đổ Tổng Thống Diệm vào cuối tháng 8-1963:
Trong
phiên họp ngày 31.8.1963,
tại Bộ Ngoại giao, Hoa Thịnh Đốn, khi
biết tin âm mưu lật đổ
TT Diệm thất bại tuần lễ trước,
Phó Tổng thống Lyndon Johnson bộc trực tuyên bố:
. . .”
(trích
từ bài “33 năm sau: Truyền thông
Mỹ vẫn bóp méo Chiến Tranh VN” - VNN, 29.4.08)
Theo
ông ĐOÀN
THÊM
(cựu
Phụ-Tá Đổng-Lý Văn-Phòng Phủ Tổng-Thống Ngô Đình
Diệm):
“31-10-1963 - Chuyên
viên xây hầm trú ẩn trong sân dinh Gia Long (của
Tổng Thống Ngô Đình Diệm) cho biết: đã hoàn
tất công việc, và (nếu bị) bom 500 cân ném cũng
không việc gì...”
(trích
từ cuốn “Hai
Mươi Năm Qua – Việc Từng Ngày (1945-1964)”
của Đoàn Thêm, trang 365)
Tức
là Tổng-Thống Diệm đã biết trước
sẽ bị đại-nạn nên chuẩn-bị sẫn nơi
trú-ẩn an-toàn... (tuy nhiên, chỉ có một đêm trước ngày
định-mệnh 1-11-1963)
Theo
luật-sư HOÀNG DUY HÙNG
(Nhà
báo, nhà văn):
<
Vào ngày 26-8-1963, Lodge hội-họp với
Ủy-Ban Hành-Động tại Tòa Đại-Sứ
Mỹ ở Saigon để trù tính một cuộc đảo-chính
chống Diệm.
Tờ báo Anh-ngữ “The Times of Vietnam” (của Diệm & Nhu) ở Saigon, vào ngày 2-9-1963, đã đăng một bài loan tin rằng CIA (cơ-quan Tình-Báo Trung-Ương Hoa-Kỳ) đã xuất ra khoảng 10 đến 24 triệu đô-la để dùng vào kế-hoạch lật đổ chế-độ Diệm. Vài tiếng đồng-hồ sau đó, một bàn tay bí-mật nào đó đã mua gọn hết cả 6,000 số báo. Một tuần-lễ sau, bài báo nói trên lại được đăng lại, và tất cả các bản in lại cũng bị một bàn tay có quyền-lực lớn bí-mật mua tuốt và hủy trọn.>>
(trích
từ tác phẩm “A Common Quest for
Vietnam's Future - a brief of Vietnam War, the First and Second Republic of
Vietnam” của Hoàng Duy Hùng)
Như
thế tức là các ông Diệm & Nhu đã có biết
trước,
chậm nhất là vào ngày 2-9-1963, rằng Hoa-Kỳ đã
có kế-hoạch lật đổ mình rồi.
ÔNG
LÂM LỄ TRINH VÀ
ÔNG
QUÁCH TÒNG ĐỨC
Ông
Lâm Lễ Trinh
vừa phổ
biến một
bài viết như
sau:
“CHÍN
NĂM BÊN
CẠNH
TỔNG
THỐNG NGÔ
ÐÌNH DIỆM
Mạn
đàm với
cựu Ðổng
lý QUÁCH TÒNG ÐỨC
Lâm Lễ Trinh
Tuy
là bạn
tâm giao
với người
viết từ
lâu, ông Quách Tòng
Ðức luôn luôn
tỏ ra dè
dặt và
thận
trọng
khi nhắc
đến
những năm
dài làm Ðổng
lý Văn phòng
cho Tổng
thống Ngô
Ðình Diệm,
Vân vân...
(xem dưới)
LÂM
LỄ TRINH
Ngày
Quốc khánh
Hoa kỳ 2005
Thuỷ
Hoa Trang
Californie »
Vì bài
viết ấy
có đề
cập một
số vấn
đề
lịch sử
mà ông Lâm
Lễ Trinh
viết (hoặc
đồng ý và
ghi lại, nhưng)
không rõ,
thậm chí không
đúng, nên tôi
xin nêu một
số thiển
ý sau đây
để
rộng
đường
dư luận:
1)
Ông Ngô
Đình
Diệm về
nước ngày
nào ?
Ông
Lâm Lễ Trinh
viết:
“Hiệp
định Genève,
ký ngày 20.7.1954,
chia đôi VN nơi
vĩ tuyến
17.
Trong đám
đông
quần chúng đón
tiếp
nồng
nhiệt
Thủ tướng
Diệm tại
phi trường
Tân Sơn
Nhứt
có ông
Nguyễn
Ngọc Thơ,
... cùng đi
với ông Quách
Tòng Đức.
Thủ tướng
Diệm - kiêm
luôn Quốc phòng
và Nội
Vụ - mời
ông Thơ tham
gia Nội các
với tư cách
Bộ trưởng
Nội vụ.
Ông Thơ
chọn ông
Đức làm
Đổng lý
Văn phòng năm
1954.”
Ý-Kiến:
Đọc
đoạn văn
trên, tôi
hiểu là hai
ông Nguyễn
Ngọc Thơ
và Quách Tòng
Đức là
hai nhân-vật
đã ra phi-trường
Tân Sơn
Nhật “đón
tiếp
nồng-nhiệt”
thủ-tướng
Diệm lúc ông
Diệm về
nước, và
về nước
sau khi Hiệp
Định Genève
đã
được
ký vào ngày
20.7.1954; và vì
hai ông Thơ và
Đức
nồng-nhiệt
với
thủ-tướng
Diệm như
thế nên ông
Thơ
được
mời làm
Bộ-Trưởng
Nội-Vụ và
ông này chọn
ông Đức
làm Đổng-Lý
Văn-Phòng.
Nhưng
sự thật
thì ông Diệm
đã về nước
từ ngày (xem
bài “ông Ngô
Đình
Diệm về
nước ngày
nào?”của Lê
Xuân Nhuận)
tháng 6 năm
1954, thành-lập
chính-phủ
từ ngày
6.7.1954, và làm
lễ ra
mắt
nội-các vào
ngày 7.7.1954 (được
gọi là “Ngày
Song-Thất”),
tức là 13 ngày
trước ngày
ra đời
của Hiệp
Định
Geneva 20.7.1954; và
nội-các
gồm có 7
tổng-trưởng,
và một
số bộ-trưởng
(trong đó ông
Thơ là
một), mà
bộ-trưởng
thì là thấp
hơn
tổng-trưởng
(xem chú thích 1).
Như
thế, thì:
(a)
Mệnh
đề
“Hiệp Định
Gevève...” là
thừa,
hoặc
được
đặt không
đúng
vị-trí và trình-tự
thời-gian
trong đoạn
văn tóm-tắt
lịch-sử
ấy;
(b)
Vỉệc
hai ông Thơ và
Đức
tham-gia nội-các
không phải là
“được
thưởng”
về sự
“đón
tiếp
nồng-nhiệt”
kể trên, nên
nhóm từ “đón
tiếp
nồng
nhiệt
thủ tướng
Diệm...” cũng
là thừa. Nếu
muốn nói là
ông Thơ và ông
Đức
được
thủ-tướng
Diệm tín-nhiệm
thì nên nêu ra
những lý do
khác, hơn là
chỉ nhờ
vào sự “đón
tiếp
nồng
nhiệt” cũng
chẳng hơn
gì “đám
đông
quần chúng”
(?) mà thôi (xem
chú thích 4).
2)
Thủ-tướng
Ngô Đình
Diệm lên làm
Tổng-Thống
vào ngày nào ?
Ông Lâm
Lễ Trinh
viết:
“Ngày
23.10.1955,
một cuộc
trưng cầu
dân ý truất
phế Bảo
Đại.
Ngày 26.10.1956,
từ Thủ tướng
trở thành
Tổng
thống,
ông
Diệm
thiết
lập nền
Đệ
nhứt
Cọng hoà VN.
Quân đội
tổ chức
một cuộc
diễn binh huy
hoàng tại
đại
lộ Trần
Hưng Đạo
Sàigòn dưới
quyền điều
khiển
của Dương
Văn Minh,
vừa vinh thăng
Thiếu tướng
sau khi tảo
thanh xong Bình Xuyên
taị Rừng
Sát.”
Ý-Kiến:
Thủ-tướng
Ngô Đình
Diệm
truất-phế
Bảo Đại
qua cuộc “trưng-cầu
dân-ý” (xem chú
thích 3) vào ngày
23.10.1955, xong tuyên-bố
Hiến-Ước
tạm-thời
vào ngày
26.10.1955, và theo
Hiến Ước
ấy thì
“Việt-Nam là
một nước
Cộng-Hòa,
Quốc-Trưởng
lấy
danh-hiệu là
Tổng-Thống
VNCH” cho nên
Thủ Tướng
Diệm trở
thành Tổng
Thống ngay vào
ngày 26.10.1955 (chứ
không phải
đợi
đến ngày
26.10.1956) (xem chú
thích 2).
3)
Tổng Giám
Mục Ngô
Đình
Thục
được
Giáo Hoàng
phục hồi
chức tước
gì?
Ông Lâm
Lễ Trinh
viết:
“Về
tin đồn
Đức cha
Thục làm kinh
tài (khai
thác lâm sản,
mua thương
xá Tax, làm
chủ nhà sách
Albert Portail..v..v..),
ông Đức
cho rằng TT
Diệm tin TGM
Thục không làm
điều gì
quấy, ngài phải
kiếm
tiền
nuôi sống trường
Đại
học Đà
Lạt do Ngài
thành lập.
Trải qua
một cuộc
đời sóng
gió và gặp
nhiều
hiểu lầm
với Toà thánh
Vatican sau 1975, TGM
Ngô Đình
Thục
được
Giáo hoàng phục
hồi chức
tước về
hưu ở Hoa
kỳ và đã
ra đi bình
yên tại
một Viện
dưỡng lão
công giáo
thuộc
tiểu bang
Missouri.”
Ý-Kiến:
“Phục
hồi” là (cho)
trở lại
“y như” tình-trạng
cũ.
“Chức
tước” cũ
của giáo-phẩm
Peter Martin Ngô
Đình
Thục, trong
thời
cực-thịnh
của
tổng-thống
Ngô Đình
Diệm, là
Tổng Giám
Mục, Địa
Phận Huế.
Tgm
Thục qua La Mã
dự Công
Đồng
Vatican II, và sau
cuộc “Cách
Mạng
1-11-1963” thì không
được
phép về
lại Việt
Nam, vì đã dính
líu bất chính
vào chế
độ độc
tài Ngô Đình
Diệm, nên
sống lưu
vong.
Cuối
thập niên
1960 và trong
thập niên
1970, Tgm Thục
ngả theo giáo
phái Palmar de
Troya ở Tây
Ban Nha, phong
chức giám
mục trái phép
cho một
số người,
trong đó có
Dominguez Gomez (là
kẻ sau đó
tự xưng
đã
được
thần bí phong
chức Giáo Hoàng,
của Giáo
Hội mới,
là Ky Tô Giáo
Palmar, nghịch
với Ky Tô Giáo
La-Mã) nên
bị Giáo Hoàng
Paul VI dứt phép
thông công.
Sau khi Giáo Hoàng Paul VI qua đời, Tgm Thục qua Pháp, ngồi nghe xưng tội tại một nhà thờ ở Toulon, nhưng tiếp tục phong chức giám mục cho nhiều người, và vào tháng 2 năm 1982 thì ra tuyên cáo cho rằng ngôi vị Giáo Hoàng đang bị bỏ trống và đòi bầu cử Giáo Hoàng.
Sau đó Tgm Thục được Giám mục Louis Vezelis, thuộc Dòng Franciscan ở New York, Hoa Kỳ, mời qua và ngụ tại đó. Về sau, theo nhóm Vezelis thì Tgm Thục bị một số tu sĩ Việt Nam bắt cóc đưa từ New York đến Missouri, giam riêng, cắt đứt liên lạc với bạn bè. Tgm Thục qua đời ngày 13-12-1984 ở Mỹ, trong cảnh lưu vong và trong tình trạng mập mờ. Như thế, khó mà khẳng định là Tgm Thục đã được hoàn toàn “phục hồi (cả) chức (lẫn) tước” (theo Wikipedia, the free encyclopedia).
Sau khi Giáo Hoàng Paul VI qua đời, Tgm Thục qua Pháp, ngồi nghe xưng tội tại một nhà thờ ở Toulon, nhưng tiếp tục phong chức giám mục cho nhiều người, và vào tháng 2 năm 1982 thì ra tuyên cáo cho rằng ngôi vị Giáo Hoàng đang bị bỏ trống và đòi bầu cử Giáo Hoàng.
Sau đó Tgm Thục được Giám mục Louis Vezelis, thuộc Dòng Franciscan ở New York, Hoa Kỳ, mời qua và ngụ tại đó. Về sau, theo nhóm Vezelis thì Tgm Thục bị một số tu sĩ Việt Nam bắt cóc đưa từ New York đến Missouri, giam riêng, cắt đứt liên lạc với bạn bè. Tgm Thục qua đời ngày 13-12-1984 ở Mỹ, trong cảnh lưu vong và trong tình trạng mập mờ. Như thế, khó mà khẳng định là Tgm Thục đã được hoàn toàn “phục hồi (cả) chức (lẫn) tước” (theo Wikipedia, the free encyclopedia).
4)
Ai là “cha
đẻ”
của
“quốc sách”
Ấp Chiến
Lược?
Ông Lâm
Lễ Trinh
viết:
“Ông
(Ngô Đình Nhu)
phát
động
phong trào ấp
chiến lược
từng
gây thiệt
hại cho CS
Bắc Việt.
Quốc sách
Ấp Chiến
Lược là
do nghị định
số 11-TTP và
ông Nhu giữ
vai trò Chủ
tịch Ủy
Ban Liên Bộ
Ấp Chiến
Lược.”
Ý-Kiến:
Kế
hoạch Ấp
Chiến Lược
thoát thai từ
sáng kiến
của Sir Robert
Thompson, người
Anh.
Lúc làm
Tổng Giám
Đốc An-Ninh
tại Mã Lai,
ông đã
loại trừ
được
Đảng
cộng sản
“Mau Mau”
tại nước
này.
Đại
tá CIA Edward G.
Lansdale của
Mỹ noi theo
kế hoạch
ấy để
trừ tiệt
được
Đảng
cộng sản
“Huks” tại
Phi Luật Tân.
Sir Robert
Thompson
được
mời làm
Phụ Tá cho
nhiều đời
Tổng
Thống Mỹ
để đặc
trách chống
du kích chiến
tại các nước
Á Đông.
Hoa Kỳ
biệt phái
Lansdale qua
cố vấn
cho Tổng
Thống Ngô
Đình
Diệm (ngay khi
về làm
Thủ Tướng)
để
cải
thiện tình hình
và củng
cố địa
vị cho
họ Ngô, và
rồi áp
dụng
“quốc sách”
Ấp Chiến
Lược
tại Việt
Nam Cộng Hòa. Vì
Tổng
Thống quá
bận, cũng
như vì
tầm quan
trọng
của nó, nên
ông giao cho bào
huynh là Ngô
Đình Nhu
đại
diện để
thực thi
một chính sách
của Mỹ,
làm việc
chung với
Lansdale.
Tóm
lại, ông
Cố vấn
Ngô Đình Nhu,
được
Lansdale cố
vấn, chỉ
thừa kế
phương sách
chống
Cộng của
Anh và Mỹ
tại Mã Lai và
Phi Luật Tân,
chứ không
phải là
“cha đẻ”
của quốc
sách Ấp
Chiến Lược,
như một
số người
đã gọi.
5)
Chức
vụ của
ông Dương
Văn Hiếu
là gì?
Ông Lâm
Lễ Trinh
viết:
“
Trong quyển
hồi ký “ Dòng
họ Ngô Ðình”,
xuất bản
năm 2003
taị Californie,
tác giả
Nguyễn Văn
Minh, nguyên bí thơ
(1956-1963)
của cố
Ngô Ðình
Cẩn, ghi nơi
trang 164-165:
Lối 10 hôm
sau vụ
nổ lựu
đạn
giết 7 em bé
và một
số Phật
tử tại
đài phát
thanh Huế nhân
ngày lễ
Phật Ðản
1963, Dương
Văn Hiếu,
trưởng
đoàn công tác
đặc
biệt
Miền Trung,
vào Dinh để
phúc trình
với TT
Diệm.”
Ý-Kiến:
“Đoàn
Công Tác Đặc
Biệt
Miền Trung”
(có thêm 2
chữ Miền
Trung) là của
ông Cố
vấn Ngô
Đình Cẩn
ở Miền
Trung, do ông Dương
Văn Hiếu
chỉ huy, vào
những năm
đầu
của Đệ
Nhất
Cộng Hòa.
Từ năm
1960 trở di,
ông Hiếu
được
đưa lên làm
Trưởng
Khối
Cảnh Sát
Đặc
Biệt tại
Tổng Nha
Cảnh Sát Công
An (toàn quốc)
ở Sài-Gòn.
Tại
đây,
Tổng Nha CSCA
phối hợp
với Phủ
Đặc
Ủy Tình Báo
Trung Ương
thành lập
một tổ
chức chung,
hoạt
động bí
mật, mang tên
là “Đoàn Công
Tác Đặc
Biệt” (không
có 2 chữ
Miền Trung).
Do đó,
khi vụ “Đài
Phát Thanh
Huế”
xảy ra, năm
1963, ông
Hiếu không còn
là Trưởng
“Đoàn Công
Tác Đặc
Biệt
Miền Trung”,
và cũng không
phải là Trưởng
“Đoàn Công
Tác Đặc
Biệt” (vì
Đoàn này là
tổ chức
bí mật, và
ở cấp
thấp hơn
cấp Khối
của Tổng
Nha).
Vậy,
khi ông Dương
Văn Hiếu
vào phúc trình
với Tổng
Thống
Diệm, là
với chức
vụ và tư
cách Trưởng
Khối
Cảnh Sát
Đặc
Biệt,
Phụ Tá
Tổng Giám
Đốc
Cảnh Sát Công
An, cao nhất
về ngành an
ninh và phản
gián, của toàn
quốc,
chứ không
phải (vì không
còn) là “Trưởng
Đoàn Công Tác
Đặc
Biệt
Miền Trung”
(ở cấp
thấp hơn,
và chỉ
ở một
địa phương).
6)
Ông Quách Tòng
Đức
phục vụ
Tổng
Thống Ngô
Đình
Diệm như
thế nào?
Ông Lâm
Lễ Trinh
viết:
“Ông
Đức còn
nhớ rất
rành mạch
rằng, sau
thảm
kịch tại
Đài Phát
thanh Huế
chiều ngày
8.5.1963, Tổng
thống có
đòi ông vào
Văn phòng
để
đưa cho ông
xem, với
một gương
mặt “mệt
nhọc, buồn
rầu và chán
nãn”, công
điện ngày
6.5.1963 nói trên
và hỏi “một
cách sơ sài”
ai đã
gởi đi
chỉ thị
ấy.
Ông Đức
trả lời
không biết vì
trong sổ công
văn gởi
đi không có
dấu vết
của tài
liệu vưà
kể. Theo
ông QTĐ, trong
hoàn cảnh chánh
trị dồn
dập sôi
động lúc
đó
(Thích Quảng Đức tự thiêu, Quách Thị Trang bị baén chết tại chợ Bến Thành, lựu đạn nổ ở Huế, tướng lãnh lập kiến nghị đòi cải tổ, việc kiểm soát chùa..v..v..) , TT Diệm rối trí, không còn màng đến việc ra lệnh điều tra.
Ông có lẽ dư biết việc giả tạo công điện 9159 là một đòn phép mới của phe chống Chánh phủ ( Phật giáo Ấn quang ? Tình báo Hoa kỳ? Đảng phái đối lập? hay Cộng sản?). Vậy việc ông Đức xin từ chức là một điều thất thiệt. Nghi “tình báo Mỹ tổ chức” ông Đức – như tướng Đính ởm ờ xuyên tạc – là một chuyện tưởng tượng rẻ tiền."
(Thích Quảng Đức tự thiêu, Quách Thị Trang bị baén chết tại chợ Bến Thành, lựu đạn nổ ở Huế, tướng lãnh lập kiến nghị đòi cải tổ, việc kiểm soát chùa..v..v..) , TT Diệm rối trí, không còn màng đến việc ra lệnh điều tra.
Ông có lẽ dư biết việc giả tạo công điện 9159 là một đòn phép mới của phe chống Chánh phủ ( Phật giáo Ấn quang ? Tình báo Hoa kỳ? Đảng phái đối lập? hay Cộng sản?). Vậy việc ông Đức xin từ chức là một điều thất thiệt. Nghi “tình báo Mỹ tổ chức” ông Đức – như tướng Đính ởm ờ xuyên tạc – là một chuyện tưởng tượng rẻ tiền."
Ý-Kiến:
Công điện
số 9159 ngày
6.5.1963
được
ghi là xuất
phát từ văn
phòng Phủ
Tổng
Thống,
tức từ bàn
giấy của
Đổng Lý
Văn Phòng Quách
Tòng Đức;
và công điện
ấy đã gây
nên biết bao
phản ứng
và hậu
quả vô
củng bất
lợi, trong cũng
như ngoài nước,
cả một
chuỗi
biến cố
lớn lao
dồn dập
đưa đến
cái chết
của Tổng
Thống Ngô
Đình
Diệm và
nển Đệ
Nhất
Cộng Hòa.
Thế mà
ông Quách Tòng
Đức
vẫn cứ bình
chân như
vại:
Tổng
Thống “không
màng đến
việc ra
lệnh điều
tra” thì thôi,
chứ mình không
chịu lên
tiếng
cải chính, ít
nhất thì cũng
thanh minh hay “tâm
sự” gì
với ông
Cố vấn
Ngô Đình Nhu
ở sát
cạnh mình –
một việc
có thể thay
đổi tình
hình.
Tôi
thấy có 2
vấn đề:
Một, là
Tổng
Thống Ngô
Đình
Diệm quá
ư chuyên
quyền,
hễ ông mà không
ra lệnh điều
tra thì không
một ai dám
tự điều
tra, dù là để
tìm thủ
phạm
ngụy tạo
công điện
nói trên, để
cứu chế
độ
của mình;
nếu thế
thì ông lâm nguy
là đáng quá
rồi .
Hai, là ông
Quách Tòng Đức
quá “vô tích
sự”
nếu không
muốn nói là
vô lương
tâm:
ở nước
người ta,
chỉ một
phi cơ nào
đó lâm
nạn cũng
đủ để
cho Bộ Trưởng
Giao Thông toàn
quốc từ
chức vì
tự ý
thức trách
nhiệm trên lương
tâm mình.
7)
Tuần báo
nào của
Mỹ
đăng bài
về vụ trái
bom nổ
chậm tại
Đài Phát
Thanh Huế?
Ông Lâm
Lễ Trinh
viết:
“Trong
hồi ký “Ngô
Đình
Diệm, Nổ
lực hoà bình
dang dở”,
(nxb Xuân Thu
Californie 1989), nơi
trang 189-190,
Nguyễn Văn
Châu, nguyên giám
đốc Nha
Chiến tranh Tâm
lý Quân đội
VNCH, trở thành
đối
lập với
Chánh phủ trước
cuộc binh
biến 1.11.1963,
có ghi lại:
Sau 1975, một
cựu đại
uý Hoa kỳ tên
James Scott, liên
hệ với
CIA và từng làm
cố vấn
cho Tiểu
đoàn 1/3
thuộc Sư
đoàn 1
Bộ binh, thú
nhận trong
một lá thơ
đăng
trên một
tuần báo
Mỹ
rằng chính y
đã gài
một trái bom
nổ chậm
chiều 8.5.1963
taị Huế.
Sự kiện
này cũng
được
Trần Kim
Tuyến, dưới
bút hiệu Lương
khải Minh, ghi
lại trong
hồi ký Làm
thế nào
giết một
Tổng
thống? (tập
2, trang 366-370).
Ý-Kiến:
Phát giác
“động
trời”
thế này mà
không được
ai chú ý đúng
mức.
Tại sao
không tìm cho ra
“cựu đại
úy Mỹ James
Scott” có
phải là nhân
vật
“thực” hay
không, cố
vấn cho
Tiểu đoàn
1/3 vào thời
gian nào,
nhất là “lá
thơ
đăng trên
một tuần
báo Mỹ” là
tuần báo
loại nào, tên
gì, ở địa
phương nào,
và ra ngày nào,
v.v..., nhất là
nguyên văn bài
báo liên quan.
Làm sao
biết trước
là sẽ có
cuộc
biểu tình
tại Đài
Phát Thanh
Huế, và vào
giờ nào, phút
nào, thì có
những ai
ở đó,
đề gài (định
giờ) cho bom
phát nổ? (xem
chú thích 5).
8)
Ông Ngô
Đình
Diệm là con
thứ mấy
trong gia đình
họ Ngô ?
Ông
Lâm Lễ Trinh
viết:
“TT
Diệm là người
con trai thứ
ba trong gia đình
nhà Ngô”
Ý-Kiến:
Ông Ngô
Đình
Diệm là con
thứ tư (không
phải thứ
ba) trong gia đình
nhà Ngô (xem chú
thích 6).
9)
Ai là lãnh
tụ
“Mặt
Trận Dân
Tộc Giải
Phóng Miền
Nam”?
Ông
Lâm Lễ Trinh
viết:
“Nguyễn
Khánh, kịch sĩ
từng đả
đảo
Hiến chương
Vũng Tàu do chính
ông cho thảo
ra. Một đòn
khác của tướng
Khánh: móc
nối với Huỳnh
Tấn Phát, lãnh
tụ (?)
Mặt
trận
Giải phóng
Miền Nam,
với chủ
đích – theo
lời tuyên
bố của
Khánh – kéo Phát
về phiá
Quốc gia.”
Ý-Kiến:
Dù
người dân
thường cũng
biết là
Nguyễn
Hữu Thọ
(chứ không
phải
Huỳnh
Tấn Phát) là
“lãnh tụ”
của cái
“Mặt
Trận” này (xem
chú thích 7).
10)
Hai ông Ngô
Đình
Diệm và Ngô
Đình Nhu
bị giết
vào ngày nào?
Ông
Lâm Lễ Trinh
viết:
“Ông
Đức
tỏ ra ngán
ngẩm khi
được
hỏi nghĩ
gì về
sự tự thú
trên đây.
Theo ông, trong
những ngày chót
của một
cuộc đời
đấu tranh
gian khổ, TT
Diệm là con
người cô
đơn
nhứt trên
thế gian: dân
tộc bỏ rơi,
đồng minh
phản bội,
gia đình
chia cách,
kẻ thù
cộng sản
reo hò chiến
thắng, sự
nghiệp chính
trị ra tro,
uất hận
ngất
trời vì tương
lai mù mịt
của Đất
nước,
một quốc
gia bị
sức mạnh
chèn ép.
Với ông Nhu
quỳ bên
cạnh cầu
nguyện trong
Nhà thờ Cha
Tam Chợ
Lớn sáng
ngày 1.11.1963 không
chắc TT
Diệm đồng
một tâm tư
với người
em.”
Ý-Kiến:
Hai
ông Diệm và
Nhu cầu
nguyện trong
Nhà Thờ Cha
Tam ở
Chợ Lớn
vào sáng ngày
2.11.1963 chứ
không phải
1.11.1963.
Trong
một bài khác,
nhan đề "Khí
Tiết và Lãnh Đạo",
ông Lâm Lễ Trinh
cũng viết sai ngày
như thế.
LÊ XUÂN NHUẬN
CHÚ
THÍCH:
(1)
Đoàn Thêm,
“Hai Mươi
Năm Qua”, Xuân
Thu, Saigon, 1965,
trang 148-50.
(2)
Đoàn Thêm,
sđd, trang 184.
(3)
Nguyễn
Đình
Tuyến,
“Những
Biến Cố
Lớn trong 30 Năm
Chiến Tranh
tại Việt
Nam 1945-1975”,
Đại
Học Đông
Nam, Houston, TX,
USA, 1995, trang 39:
“Cuộc
Trưng Cầu
Dân Ý này là màn
đạo
diễn của
Đại-tá
Landsdale đã
đóng vai trò
quan trọng
trong việc
ủng hộ
Thủ Tướng
Diệm.
Ở
nhiều nơi
trong thành-phố
Saigon, số
phiếu
bầu cử
cho ông Diệm
bằng 130% con
số cử
tri (vì binh sĩ
của Lữ
Đoàn Phòng
Vệ Phủ
Thủ Tướng
và Đoàn Viên
Phong Trào Cách
Mạng
Quốc Gia
của ông
Diệm đã
được
phép bầu
đi bầu
lại
nhiều
lần).”
(4) a/ Nguyễn Đình Tuyến, sđd, trang 25: “Có khoảng 500 đồng bào công giáo chào đón ông ở Phi Trường Tân Sơn Nhất.”
(4) a/ Nguyễn Đình Tuyến, sđd, trang 25: “Có khoảng 500 đồng bào công giáo chào đón ông ở Phi Trường Tân Sơn Nhất.”
b/
Văn Bia,
“Những Ngày
Chung Sống
với Chí Sĩ
Ngô Đình
Diệm”, Lê
Hồng, Methuen,
MA, USA, 2001, trang
273-76:
“Báo chí
phản ảnh
trung thực dư
luận
quần chúng.
Không
một tờ báo
nào hoan hô ngày
Thủ Tướng
Ngô Đình
Diệm
được
bổ nhiệm...
Cả Saigon
chỉ huy động
được
có một nhúm
nhỏ xíu công
chức đi lên
phi trường
Tân Sơn
Nhứt
tiếp đón
Thủ Tướng
Ngô Đình
Diệm.
Dân thì
chỉ có nhóm
thân hữu
trong Ban Đón
Tiếp.
Lần
đầu lưa
thưa đi rước
hụt đã là
một thí
nghiệm cho
thấy sự
hưởng
ứng bi đát... Báo
chí và dân chúng
rất thờ
ơ với
việc Thủ
Tướng Ngô
Đình
Diệm về
nước
chấp chánh...
Ông Phan
Xứng lo
viết
kiến
nghị của
dân thiểu
số vùng
Đạt-Lắc
mà đâu
thấy có bóng
dáng người
Thượng nào.
Ông
Trần
Quốc Bửu
không huy động
được
đoàn viên các
nghiệp đoàn,
tưởng
đâu rất
to tát của ông.
Cũng không
thấy có nhóm
Công Giáo nào do
cha (Nguyễn
Quang) Toán mang
tới ...
báo
giới không
hậu
thuẫn cho ông
Diệm...
Về nước
gần như
trong lặng
lẽ...”
(5)
a/
Tuệ Chương,
“Viết
Về Huế”,
Worcester,
Massachusetts, USA (theo
Hồ Công Tâm,
25-5-2003):
”...
Khi trên đài
lục cục
khiêng bàn ra xong,
Thượng
Tọa Trí Quang
và ông Tỉnh
Trưởng
đã đứng
trên đó, chưa
kịp nói gì,
thì ngay trước
mặt tôi, người
chỉ huy đứng
trên chiếc xe
có tên Ngô Ðình
Khôi, đứng
thẳng lên, (người
và xe đều
hướng
về phía
đài phát
thanh) rút súng
nhỏ bắn
lên trời ba
phát\. Tôi
thấy lửa
từ nòng súng
tóe ra rất rõ
ràng\. Tiếp
theo đó là
một
tiếng nổ
lớn phát ra
từ phía
đài phát
thanh\. Xin
nhớ là ba phát
súng lệnh
nổ trước,
lựu đạn
nổ sau\. Ông
Tỉnh Trưởng
và Thượng
Tọa Trí Quang
đang đứng
trên bàn cao,
liền
nhảy
xuống...”
b/
Truyền
thông ngoại
quốc:
A
la suite d'incidents
sanglants à
Huế
LES
BOUDHISTES DU
VIETNAM DU SUD
ENTRENT EN CONFLIT
AVEC LE GOUVERNEMENT
"CATHOLIQUE"
DE DIỆM
Saigon
. 15 Mai (A.F.P.) .-
Une vive tension
religieuse règne
actuellement au
Vietnam du Sud. Elle
est due à la
discrimination dont
les Boudhistes
s’estiment victime,
et qui a trouvé son
expression récemment
dans de sanglants evènement
à Huế.
Selon
la version
officielle de ces évènements,
c'est le lancement
d'une grenade par un
terrorite qui a
provoqué dans la
soirée du 8 Mai, la
mort de sept
personnes parmi la
foule qui
manifestait en ce
jour anniversaire de
la naissance du
Bouddha, devant les
bâtiments de la
radio.
Trích
dịch báo
"LE MONDE"
ngày 16-5-63.
SAU
NHỮNG VỤ
LÔI THÔI ĐẪM
MÁU Ở
HUẾ,
PHẬT TỬ
MIỀN NAM
VIỆT NAM TRANH
CHẤP VỚI
CHÍNH PHỦ
"Thiên Chúa
Giáo"
của ÔNG
DIỆM
Saigon.
15.5 A.F.P. (Thông
tấn xã Pháp).
Hiện tại
ở miền
Nam Việt Nam
đang có
một sự căng
thẳng mãnh
liệt về
tôn giáo đã
xuất phát vì
một sự
phân biệt mà
các Phật
tử xem mình là
nạn nhân và
đã biểu
lộ mới
đây trong
những
biến cố
đẫm máu
ở Huế.
Theo luận
điệu chính
quyền thì
đêm 8.5 dương
lịch,
một kẻ
khủng bố
đã tung ra
một quả
lựu đạn
làm chết
bảy người
trong đám
biểu tình trước
trụ sở
đài phát
thanh trong ngày
lễ Phật
đản.
(6) Nguyễn Lý Tưởng, “Bổ Túc Vài Điều Về Họ Ngoại Của Cố Hồng Y Thuận”:
Ông
Ngô Đình
Khả và Bà
Phạm Thị
Thân có tất
cả 09 người
con: 06 trai, 03 gái
theo thứ
tự như
sau:
-Ngô Thị Giao (chồng là Trương Đình Tùng)
-Ngô Đình Khôi (vợ là Nguyễn Thị Giang con Ông Nguyễn Hữu Bài)
-Ngô Đình Thục (Tổng Giám Mục, Huế)
-Ngô Đình Diệm (Tổng Thống VNCH)
-Ngô Thị Hiệp (chồng là Nguyễn Văn Ấm sinh ra Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận)
-Ngô Thị Hoàng (chồng là Nguyễn Văn Lễ, tức Cả Lễ)
-Ngô Đình Nhu (vợ là Trần Lệ Xuân con gái LS Trần Văn Chương)
-Ngô Đình Cẩn
-Ngô Đình Luyện
(7) a/ Nguyễn Đình Tuyến, sđd, trang 52: “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam là hậu thân của Việt Minh... Mặt Trận này đề cử Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ Tịch, Nguyễn Thị Bình làm Ngoại Trưởng.”
-Ngô Thị Giao (chồng là Trương Đình Tùng)
-Ngô Đình Khôi (vợ là Nguyễn Thị Giang con Ông Nguyễn Hữu Bài)
-Ngô Đình Thục (Tổng Giám Mục, Huế)
-Ngô Đình Diệm (Tổng Thống VNCH)
-Ngô Thị Hiệp (chồng là Nguyễn Văn Ấm sinh ra Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận)
-Ngô Thị Hoàng (chồng là Nguyễn Văn Lễ, tức Cả Lễ)
-Ngô Đình Nhu (vợ là Trần Lệ Xuân con gái LS Trần Văn Chương)
-Ngô Đình Cẩn
-Ngô Đình Luyện
(7) a/ Nguyễn Đình Tuyến, sđd, trang 52: “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam là hậu thân của Việt Minh... Mặt Trận này đề cử Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ Tịch, Nguyễn Thị Bình làm Ngoại Trưởng.”
b/
Văn Bia,
sđd, trang
91-92:
“Ngô
Đình
Diệm và
Nguyễn
Hữu Thọ
đã từng
sống chung dưới
một mái nhà...
Pháp có dành
cho ông (Ngô
Đình
Diệm)
một chỗ
ở trong
một biệt
thự lớn
ở số 152
đường
De Gaulle (sau
đổi là Công
Lý)...
kế
cận một
phòng do vợ
chồng
luật sư
Nguyễn
Hữu Thọ
cư ngụ...
Nguyễn
Hữu Thọ
sau đó làm
Chủ Tịch
Mặt Trận
Giải Phóng
Miền Nam.”
SÁU
THÁNG PHÁP
NẠN 1963
của
Minh Không Vũ
Văn Mẫu
Giao
Điểm in
lại năm
2003 tại Hoa
kỳ,- PO BOX
2188, Garden Grove,
CA
Tác
giả đã
đưa ra chứng
từ của
ông Trần
hữu Thế
(nguyên Bộ trưởng
Giáo dục)
về trách
nhiệm
của TGM
Thục như
sau:
“Chính
tối hôm
Phật đản
cũng đã có
một bữa
tiệc tại
nhà Ngô đình
Cẩn với
sự hiện
diện của
TGM Thục,
một số
bộ trưởng
và nhiều nhân
vật cao
cấp trong chính
phủ. Đang
giữa bữa
ăn thì
Tỉnh trưởng
Nguyễn văn
Đẳng và
Phó Tỉnh trưởng
Đặng Sĩ
hốt
hoảng xin vào
trình bày tình hình
rất căng
thẳng vì
mấy ngàn
Phật tử
đang tụ
họp trước
Đài Phát
thanh. Vì phụ
trách các
vấn đề
an ninh, Thiếu
tá Đặng
Sĩ xin
chỉ thị
để đối
phó.
Ngô
đình Cẩn
ngồi
yên không nói gì,
hay không
muốn nói có
lẻ vì đã
đoán trước
được
ý kiến
của ông anh
Ngô đình
Thục
thế
nào cũng
chống
đối thái
độ hòa
hoãn của ông
ta trong
vụ này.
Sau báo cáo
của Đặng
Sĩ, TGM Ngô
đình
Thục đang
ăn bổng
ngưng lại,
giơ tay ra
hiệu cho
Thiếu tá
Đặng Sĩ
“Dẹp…!”.
Tỉnh trưởng
và Phó Tỉnh
trưởng lãnh
chỉ thị
lui ra. Sau
đó thì các
sự việc
xãy ra như
bác sĩ Erich
Wulff đã
tường
thuật rõ ràng
các điều
mắt thấy
tai nghe tại
chỗ”
(tr.215-216).
Lâm
Lễ Trinh, “KHÍ
TIẾT VÀ LÃNH
ÐẠO”
Trong
những
giờ phút
cuối cùng
cuộc đời,
Tổng
thống
Diệm hoàn toàn
cô đơn:
đồng minh
bội bạc,
dân tộc
hiểu lầm,
người thân
trở mặt
và kẻ thù
cộng sản
reo mừng. Cầu
nguyện
lần chót sáng
ngày 1.11.1963 tại
thánh đường
Cha Tam
Chợlớn,
với ông Nhu
quỳ bên
cạnh nhưng
không chắc
đồng
một tâm tư,
Lê
văn Ấn
“Tinh
Thần Ngô
Đình
Diệm”
7-11-2004
Nói
đến tài
ba của anh em
Tổng
Thống Ngô
Ðình Diệm chúng
ta phải
kể đến
quốc sách
Ấp Chiến
Lược.
Ðây là một
chiến lược
chống
lại du kích
chưa từng
có trong lịch
sử chống
du kích. Theo Sir
Thomson, chuyên gia
chống du kích
Anh quốc thì
một tiểu
đội du kích
cần phải
có 400 lính
mới dẹp
được.
Nhưng với
quốc sách
ấp chiến
lược, tách
dân ra khỏi
du kích chẳng
khác tách cá ra
khỏi nước,
không cần
phải một
số quân
đông đảo
như vậy.
Vào thời
điểm này,
những cán
bộ cao
cấp của
Việt
Cộng đã
lần lượt
trở về
Bắc,
những
đơn
vị du kích
Việt
Cộng đã
bị cô
lập, đói
khát, cơ
hồ tan rã.
Đọc
"Dòng
Họ
NGÔ
ÐÌNH
-
ƯỚC
MƠ
chưa
đạt."..Phần
1
|
Kiêm
Ái
+
Nguyễn
Văn
Minh
|
Tác
Giả:
Nguyễn
Văn
Minh
|
Và
theo lời
kể của
Ðại úy
Hồng Dũ
Long thì người
ném
chất nổ
tại Ðài phát
thanh Huế
đêm 8.5.63 không
ai khác hơn là
James Scott,
một nhân viên
CIA,
người này
đã nói
với Ðại
úy Long: Ai mà cho
rằng VC gây nên
vụ nổ này
thì thật là
ngây thơ.
Loại
thuốc nổ
ấy chỉ có
CIA Mỹ
mới có” (từ
trang 205 đến
235).
Ngo Dinh Diem
From
Wikipedia, the free
encyclopedia:
on
October
26, 1955,
in a
disputed nationwide
referendum,
the people voted to
remove the emperor Bao
Dai as head of
state and elect Diem
the first President
of the Republic of
Vietnam.
When
the referendum was
held, Diem's troops
guarded the polls
and those who
attempted to vote
for the Emperor were
assaulted.
Diem's detractors
say that the fraud
was obvious. In Saigon,
for example, Diem
claimed more votes
than there were
registered voters in
the entire area.
The National Archive – A Learning Curve
http://www.learningcurve.gov.uk/
When
the voters arrived
at the polling
stations they found Diem's
supporters in
attendance.
After
the election Diem
informed his
American advisers
that he
had achieved 98.2
per cent of the vote.
They
warned him that
these figures would
not be believed and
suggested that he
published a figure
of around 70 per
cent. Diem
refused and as the
Americans predicted,
the election
undermined his
authority.
TÔI CHẾT, THÌ ... ???
Đây là một câu
nói “để đời”
[đã đi vào lịch-sử] của cố Tổng-Thống Ngô Đình
Diệm.
Nhưng gần đây
có kẻ đã sửa khác đi lời trối-trăng của người mà họ tôn sùng.
...
Lúc sinh thời, tại nhiều
nơi. Trước
nhiều cơ quan, đoàn thể, Quân trường … mỗi
khi thuận
tiện, Ông [TT Diệm]
đều nhắn
nhủ:
-Tôi tiến. Hãy tiến theo tôi ! -Tôi lui. Hãy giết tôi !-Tôi chết. Hãy nối chí tôi !
... Người viết
cũng không quên những lời của Thượng Nghị sĩ Lê Châu
Lộc luôn luôn nhắc nhở về Di Huấn của Tổng Thống
Ngô Đình
Diệm.
...
Người viết là kẻ hậu sinh. Vì thế, trước khi viết bài này, tôi đã phải gọi sang
Hoa Kỳ để được nghe chính những lời của Thượng
Nghị Sĩ Lê Châu Lộc truyền đạt qua điện thoại
viễn liên Mỹ - Pháp về những điều mà chính Ông Lê Châu
Lộc đã biết - nghe - thấy trong suốt
thời gian là Tùy Viên ở bên cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Mỗi lần hầu chuyện
với Ông Lê Châu Lộc, tôi đều được Ông nhắc lại
nhiều lần, để phải ghi nhớ những điều Ông đã nói:
- Tôi tiến.
Hãy tiến theo tôi !
- Tôi lui. Hãy giết tôi !
- Tôi chết. Hãy nối chí tôi !
...
Trên đây, là
những dòng của Ông Lê Châu Lộc; nguyên
Sĩ Quan Tùy Viên của Tổng Thống Ngô Đình Diệm,
và là Thượng Nghị Sĩ thời Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa. Ông
đã viết về những điều mà chính Ông đã chứng kiến, mắt thấy, tai nghe trong suốt
thời gian ở bên cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm từ năm 1959 cho đến ngày
1-11-1963 trên trang: ngodinhdiem.net
29-5-2011
Hàn Giang Trần Lệ
Tuyền
(trong
bài
"Tổng Thống Ngô Đình Diệm Và Phật Giáo")
|
Lời "trối-trăng" liên-hệ đã được Tổng-Thống Ngô Đình Diệm nói ra,
chỉ một lần (chỉ một lần mà đã
là gở miệng, thần khẩu buộc xác phàm) vào dịp Quốc-Khánh 26-10-1963.
Thế mà ngày nay người ta bảo là tại
"nhiều nơi", "mỗi
khi thuận
tiện", cố TT họ Ngô "đều nhắn nhủ" như thế – mà lại là Di Huấn phịa mới là chuyện
ngược đời.
Tôi thử dò lại một số tài-liệu thỉ được biết
Sự Thật. Sự Thật, câu nói đó là:
TÔI
CHẾT, THÌ TRẢ THÙ CHO TÔI!
A
NGUỒN GỐC
VIỆT-NAM:
Theo Tiến-Sĩ HOÀNG NGỌC THÀNH:
“... Tổng thống Diệm thường đi Đàlạt nghỉ cuối tuần, nhất là sau khi ông Nhất Linh
Nguyễn Tường Tam uống thuốc độc quyên sinh ngày
7-7-1963, tức ngày kỹ niệm 9 năm cầm quyền của ông Diệm. Một số người nhận thấy rằng tổng thống Diệm đã cảm thấy có cái gì bất ổn trong tình thế.
Trong ngày Quốc khánh cuối cùng 26-10-1963, khi
tiếp các đoàn thể, mặt tổng thống Diệm “thoáng
buồn”, bằng một giọng ai oán, ông nói mấy lời mà nhiều
người cho là gở:
“Chế độ này tuy
còn nhiều khuyết điểm, cũng còn hơn nhiều chế độ khác. Người ta chê là độc tài,
nhưng chỉ ngại còn những thứ độc tài khủng khiếp hơn... Tôi tiến thì theo Tôi, Tôi lùi thì bắn tôi, Tôi chết thì
trả thù cho Tôi...
”
(Trích từ cuốn sách
“Những
Ngày Cuối Cùng Của Tổng Thống Ngô Đình Diệm” của Hoàng
Ngọc Thành và Thân Thị Nhân
Đức, do Quang Vinh & Kim Loan & Quang Hiếu, ở San Jose, USA,
xuất bản, năm 1994, trang
441)
Theo Ký-Giả PHAN VIẾT PHÙNG:
[ChinhNghiaViet]
NGÔ ĐÌNH DIỆM - NGÔI SAO ÁI QUỐC
Saturday, October 15, 2011
2:11 PM
From: "an do" <ankaydo@gmail.com>
NGÔ ĐÌNH DIỆM - NGÔI SAO ÁI
QUỐC
PHAN VIẾT PHÙNG
Lời Tòa Soạn: Bài viết của tác
giả Phan Viết Phùng với tựa đề "Ngôi sao ái quôc giữa đêm tối của dân tộc"
chúng tôi xin trích đăng phần sau của bài viết đề cập tới việc Mỹ làm áp lực
Tổng Thống Ngô Đình Diệm và đi tới đảo chánh.
Xin cám ơn tác giả và giới thiệu với bạn dọc một bài viết rất công phu
.
TUẦN BÁO
ĐỜI
... Vào giai đoạn này, Tổng Thống Diệm
hình như có linh cảm về một cái gì không lành.
Hôm lễ Quốc Khánh 26-10-1963, khi nói với các
đoàn thể về chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa ông có nói câu "Tôi
tiến thì theo tôi, tôi lùi thì bắn tôi, còn tôi chết thì trả thù cho
tôi"...
Tác Giả: Phan Viết Phùng
Trích Tuần Báo ĐỜI (Số 25 )
Năm Thứ Nhất Ngày 17-24/10/2003 - Trang 8 & 9
Trích Tuần Báo ĐỜI (Số 25 )
Năm Thứ Nhất Ngày 17-24/10/2003 - Trang 8 & 9
Theo Ký-Giả PHẠM PHONG DINH:
Tổng
Thống NGÔ ĐÌNH
DIỆM, Kẻ Sĩ Cuối Cùng
(2.11.1963 –
2.11.2006)
Tôi tiến, hãy theo tôi;
tôi lùi, hãy bắn tôi;
tôi chết, hãy trả thù cho tôi.
Tôi không phải là thần thánh,
tôi chỉ là một người bình thường,
tôi chỉ biết thức khuya, dậy sớm làm việc,
một lòng hiến dâng đời tôi cho đất nước và dân tộc.
tôi lùi, hãy bắn tôi;
tôi chết, hãy trả thù cho tôi.
Tôi không phải là thần thánh,
tôi chỉ là một người bình thường,
tôi chỉ biết thức khuya, dậy sớm làm việc,
một lòng hiến dâng đời tôi cho đất nước và dân tộc.
Theo Ký-Giả LE TRAN:
RE: [GoiDan] Đốt
nén hương lòng kính dâng Ngô Tổng Thống,
Thursday, October 28, 2010 4:44 PM
From:
"Le
Tran"
"TÔI
CHẾT
XIN ĐỒNG BÀO HÃY TRẢ THÙ CHO TÔI!"
Đó
là lời cuối của bài Hiệu
Triệu
TT N Đ D đọc sáng ngày 26-10-1963
TT Ngô Đình Diệm nói:
"Tôi tiến, đồng bào
tiến theo tôi; tôi lùi, đồng bào hãy giết tôi; tôi chết, xin đồng bào trả thù
cho tôi" (bài hiệu triệu cuối cùng đọc ngày Quốc
Khánh 26-10-1963).
B
NGUỒN GỐC
ANH-MỸ:
Ngo Dinh Diem Quotes and Quotations
Follow
me, if I advance; kill me if I retreat; revenge me if I die!
Ngo
Dinh Diem | Leaders and Leadership
Quotes
Ngo Dinh
Diem Quotes
Ngo Dinh Diem Quotes
|
Ngo Dinh Diem Quotes & Sayings
Related Results
Ngo
Dinh Diem Quotes About:
Ngo Dinh Diem Quotes (1 Quote)
Follow
me if I advance! Kill me if I retreat! Revenge me if
I die!(Ngo Dinh Diem
Quote)
Ngo Dinh Diem Quotes & Sayings Related Results
Ngo Dinh Diem Quotes About:
C
Ý-KIẾN:
Kẻ nào, dù với lý-do
hay mục-đích gì, mà sửa-đổi lời nói của cố Tổng-Thống Ngô Đình
Diệm, thì:
Về mặt pháp-lý:
kẻ ấy đã phạm tội man-khai, một tội
hình-sự mà bất-cứ quốc-gia nào cũng kết án.
Về mặt giáo-lý: kẻ ấy đã
phạm tội làm chứng dối, phạm Điều Răn
thứ 9 trong “10 Điều Răn của Chúa Trời”
(Xuất-Hành 20:3-17;
Phục-Truyền 5:7-21), thêm điều đặt chuyện là bởi
Lòng Tà mà ra (Ma-Thi-Ơ 5:37): sẽ bị đày xuống “hỏa-ngục”.
Về mặt chính-trị: kẻ ấy cho
rằng cố Tổng-Thống Ngô Đình
Diệm nói sai [nên phải “chỉnh”
lại], tức là đã phạm tội
khinh-mạn, xúc-phạm,
bôi nhọ, lăng-mạ... không chỉ một mình cố Tổng-Thống Diệm mà cả chế-độ Đệ-Nhất
Cộng-Hòa lẫn mọi phần-tử hoài-Ngô (trong
đó có cả bản-thân các đương-nhân).
Về mặt tâm-lý: kẻ ấy hiểu thấu
tâm can của người chết thảm, đã quyết thực-thi “di-huấn”
trả
thù, song lại vụng-về ―
đáng lẽ phịa ra một câu nói khác, thì lại dùng chính câu nói đã thành
“bất-tử”
mà bịa-đặt hai tiếng
“nối chí”
thay cho hai tiếng ác-ôn kia
―
tưởng là tô son, hóa ra để lộ tim đen của chính mình.
NGÔ ĐÌNH DIỆM:
PHÓ CHỦ-TỊCH
NƯỚC
VIỆT NAM DÂN CHỦ
CỘNG HÒA
Ngày 23-10-2011, tôi được người quen ở đường Willet gọi
báo là có một người muốn được gặp tôi, nên tôi đến gặp.
Người ấy giải-thích trường-hợp gặp tôi:
“Vào năm 2004, Đại-Tá Nguyễn
Hữu Duệ có nhờ tôi mang bỏ vào thùng thư
Bưu-Điện một bức thư gửi cho ông Lê Văn Anh, ở
Số 5 Đường Willet Court, Thành-Phố Alameda.
Tôi không biết rõ trong thư viết gì. Nhưng tôi để ý thấy ông cũng là người ở
Thành-Phố Alameda, mà trong hồi-ký của ông
đăng báo cũng như in sách thì có đề-cập đến Đại-Tá Duệ. Hôm nay tôi muốn gặp ông, song sợ đường-đột chưa
biết tính-tình của ông thế nào, nên ghé vào nhà Ông Lê
Văn Anh để hỏi dò trước, vì nghĩ rằng chắc hai ông có quen biết nhau; do
đó Ông Anh mới gọi đến ông.”
Tôi hỏi mục-đích người ấy muốn gì.
Người ấy đáp là
bất-đồng với những bài-viết của tôi, nhưng muốn thử-thách xem tôi có dám
phổ-biến một bài xác-nhận là có kết-quả cụ-thể trong
việc cố Tổng-Thống Ngô Đình
Diệm và cố Cố-Vấn Ngô Đình
Nhu thương-thảo với Ông Hồ Chí Minh
và phe cộng-sản Bắc Việt.
Thấy chuyện có vẻ hấp-dẫn, tôi mời người ấy vào một nhà
hàng để ngồi nói chuyện cho thoải-mái hơn.
Người ấy yêu-cầu tôi giữ bí-mật
tính-danh, địa-chỉ
của mình. Tôi hứa.
Mở đầu, người ấy nói là cuốn sách “Nhớ lại những ngày ở cạnh Tổng Thống Ngô Đình
Diệm” không phải hoàn-toàn do Đại-Tá Nguyễn
Hữu Duệ viết, mà ổng chỉ thảo nguệch-ngoạc mấy đoạn hồi-ký, rồi có người
khác sửa giùm, phỏng-vấn mà viết thêm vào, cũng như tự họ viết thêm.
Tôi hỏi: “Làm sao ông biết?” Người ấy trả lời:
– Hồi đó tôi ở gần ổng, thường đến thăm ổng,
nên có nghe thấy việc này. Nhưng họ đã viết lung-tung, thí-dụ: đại-tá Trưởng
Phòng II Quân-Đoàn II là Trịnh Tiếu mà họ viết là
Trịnh Tiến; khi ổng nhắc chuyện có người nói là
dân-chúng Miền Trung không thích bị đi Dinh
Điền tận trên Cao Nguyên─là nói
về chuyện Dinh Điền thời đó─nhưng
họ lại gài vào chuyện ổng làm Tỉnh-Trưởng Thừa-Thiên sau này, viết rằng sau này khi ổng ở
Huế có rất nhiều người xin đi Dinh Điền mà
không đi được. Thật ra, thời-gian ổng làm Tỉnh-Trưởng ở Huế thì đâu còn có chương-trình Dinh Điền mà đòi
xin đi!
Tôi đã có đọc cuốn sách ấy rồi, và thấy không cần
bình-luận gì thêm, mà chỉ nôn-nóng được nghe người ấy cho biết “kết-quả cụ-thể” của việc đàm-luận giữa họ Ngô và họ Hồ mà
thôi. Tôi nói:
– Xin ông kể ngay về vụ liên-lạc giữa các lãnh-tụ hai
Miền.
Người ấy vẫn còn nói thêm:
– Tôi muốn để ông biết rõ, là Đại-Tá Duệ trung-thành tuyệt-đối với
Tổng-Thống Ngô Đình
Diệm, và cả dòng họ Ngô
Đình; và tôi cũng thế. Dù ổng trình-độ
không cao*, nhưng tôi rất kính-phục Đại-Tá
Duệ, là một mẫu người trung-can nghĩa-khí, đã
được “Cụ Tổng”, “Ông
Cố” và “Cậu Út” thương-yêu, thì quyết
trọn đời tôn-thờ lãnh-tụ ân-nhân của mình, chứ không
thay-đổi lập-trường như một số khác có trình-độ cao hơn ổng. Và đó chính là nỗi
khổ-tâm trọn đời của ổng, như tôi sắp kể tiếp theo.
-------
*Sau
đó, tôi tìm đọc lại bức thư của cố Đại-Tá Nguyễn Hữu
Duệ viết gửi Ông Lê Văn Anh, mới thấy
quả thật là Duệ “trình-độ không cao.” Ai lại
không nhớ ngày (tháng, năm) mình đến làm
Tỉnh-Trưởng/Thị-Trưởng Thừa-Thiên/Huế, bao lâu, trong thư hồi-âm cho Ông Lê Văn Anh. (Viết thư tức là có đủ thì-giờ tra-cứu,
chứ đâu là phải trả lời điện-thoại tức-thì, mà bảo rằng mình chưa kịp nhớ ra,
hay là nhớ sai?)
Tôi đưa máy điện-thoại lên, định chụp hoặc nhờ kẻ khác
chụp giùm một vài tấm ảnh, nhưng bị người ấy chối-từ.
Tôi đành im-lặng
ngồi chờ. Người ấy xích tới gần tôi, nói chậm và rõ vào sát tai tôi. Đại-ý như
sau:
– Trước cuộc chính-biến 1-11-1963, Đại-Tá (lúc ấy còn là Thiếu-Tá) Nguyễn Hữu Duệ sai tôi mang một mật-thư của Tổng-Thống Ngô Đình Diệm ra Huế để kín-đáo trao tận tay cho Ông Cố-Vấn Ngô Đình Cẩn. Tôi đã ra Huế vào ngày 30-10-1963, nhưng vì lo-ngại đám
người hầu việc tại nhà “Cậu Út” đã bị “Đức Cha” mua-chuộc, nên tôi nấn-ná chờ xem có ai là
bạn cũ không; mãi đến chiều ngày 1-11-1963 thì biến-cố lớn xảy ra, thành-thử tôi
chưa trao được mật-thư của “Cụ Tổng” cho “Cậu Út”.
Sau đó, vào lại Sài-Gòn, chờ-đợi cho đến khi có dịp may thoáng gặp lại Thiếu-Tá Nguyễn Hữu Duệ trong tình-huống mới, tôi quá bức-xúc nên mất tự-chủ, đã gật gật đầu, xem như báo-cáo là đã hoàn-thành công-tác mà ổng giao cho, để ổng an-tâm chịu đựng hoàn-cảnh khó-khăn. Lỡ rồi, từ đó cho đến ngày nay, tôi vẫn còn giữ mật-thư nói trên. . . .
Sau đó, vào lại Sài-Gòn, chờ-đợi cho đến khi có dịp may thoáng gặp lại Thiếu-Tá Nguyễn Hữu Duệ trong tình-huống mới, tôi quá bức-xúc nên mất tự-chủ, đã gật gật đầu, xem như báo-cáo là đã hoàn-thành công-tác mà ổng giao cho, để ổng an-tâm chịu đựng hoàn-cảnh khó-khăn. Lỡ rồi, từ đó cho đến ngày nay, tôi vẫn còn giữ mật-thư nói trên. . . .
Tôi hỏi nhẹ-nhàng:
– Nhưng ông là người thân-tín, vả lại tình-hình đã lắng
yên rồi, mà Đại-Tá Duệ đã làm việc lại, đã
thăng lên cấp đại-tá, đã được cử làm Tỉnh-Trưởng Thừa-Thiên, bây giờ đã qua Mỹ rồi, còn gì cấn-cái mà ông không nói thẳng ra
cho Đại-Tá Duệ biết rõ Sự Thật?
Người ấy lắc đầu:
– Không phải là người trong cuộc, ông không hiểu đâu. Tôi
xin tóm-tắt như sau:
“Sau khi chế-độ
Đệ-Nhất Cộng-Hòa sụp đổ, hai phía─kể công cũng như kết
tội─đều
nhắm vào hai nhân-vật Ngô Đình
Diệm và Ngô Đình
Nhu, nhất là về vụ tiếp-xúc với phe bên
kia.
“Phía kết tội thì chê-bai là phản-bội Đồng-Minh,
phản-bội Chính-Nghĩa Quốc-Gia, đem dâng Miền Nam cho
Miền Bắc, chịu làm đàn-em dưới trướng của họ Hồ.
“Phía kể công thì đề-cao tinh-thần tự-chủ, tái-lập
hòa-bình, tạo nên cơ-hội cho Miền Nam ổn-định, giúp
cho dân giàu nước mạnh, Việt-Nam Cộng-Hòa trường-tồn.
“Chúng
tôi─những
người của chế-độ cũ─tất-nhiên là phía kể
công. Nhưng đại-đa-số thì chỉ kể công dựa trên lý-thuyết, dựa trên
ước-muốn, dựa trên cảm-tính, chứ không đưa ra một kết-quả nào rõ-ràng. . .
.”
Tôi vội xen
ngang:
– Thế sao ông
bảo là có kết-quả cụ-thể?
Người ấy khoát
tay:
– Khoan đã, để
tôi nói hết. Rắc-rối là phía kể công lại chia ra làm hai bên. Bên này thì chỉ đề-cập đến việc thương-thảo như một
giả-thuyết, như một kế-hoạch tuyệt-vời, nhưng chưa
thực-thi thì bị Hoa-Kỳ phá vỡ nên mất cơ-hội
bằng vàng. Bên kia thì cho là đã bắt đầu, có chỉ-dấu tốt, nhưng bị Đồng-Minh ngáng chân dở chừng nên mang uất-hận ngút trời. .
. .
– Phần Đại-Tá
Duệ, và ông?
– Ổng cũng như
tôi, dù đứng về phía kể
công; nhưng lại... khác bên. Bên
Đại-Tá Duệ thì là số đông─đúng
ra là ổng đã chịu ảnh-hưởng của họ─Họ khẳng-định là không có
“đi đêm,” rằng việc liên-lạc giữa “Cụ Tổng” & “Ông
Cố” với “Cụ Hồ” chỉ do Ông Ngô
Đình Nhu bịa ra để bỡn Hoa-Kỳ,
đồng-thời “các Tướng” cũng phịa như thế để có lý-do mà “phản” Nhà Ngô. Bên ấy mạnh
miệng nhất, và mạnh thế nhất. Họ đưa Đại-Tá Duệ
đi khắp các Bang, qua Âu, qua Úc, tán-dương sách-lược Cách Mạng Nhân Vị, hoan-hô
lập-trường chống Mỹ đổ quân, quyết-tâm bảo-vệ chủ-quyền Quốc-Gia, đề-cao
tinh-thần yêu nước và khôi-phục danh-dự cho cố Tổng-Thống và cố Cố-Vấn họ Ngô cùng các cựu
cộng-sự-viên... Đại-Tá Duệ hăng say quá, nên tôi không thể nói gì chống lại
ý ổng.
– Còn về bên ông?
– Bên tôi thì có một điểm đặc-biệt: ít người nhưng
có uy-tín hơn người. Giáo-Sư Tôn Thất
Thiện, Tiến-Sĩ Lâm Lễ Trinh, Đổng-Lý Quách Tòng
Đức... Họ đã xác-nhận là đã có tiếp-xúc giữa
hai Miền, nhưng
chưa thành-công, như mọi người đã biết. Tuy nhiên, riêng tôi thì khác: tôi có bằng-chứng là đã có kết-quả cụ-thể bước đầu. . . .
– ???
– Tôi đã tò-mò
mở đọc mật-thư của Tổng-Thống Ngô
Đình Diệm gửi cho Cố-Vấn Ngô
Đình Cẩn.
Người ấy kể cho tôi nghe
nội-dung của bức thư ấy, mà tôi chỉ nhớ đại-ý như sau:
Ngoài
những tin-tức đã lọt ra ngoài, thật ra thì chính Tổng-Thống Ngô Đình Diệm đã có nhiều đường dây liên-lạc khác,
bí-mật, trực-tiếp với Ông Hồ Chí Minh. Không lẽ
tự dưng mà vào đầu năm 1963 Ông Hồ gửi vào biếu một cành đào─tất-nhiên là đã từng có trao-đổi, thông-cảm,
thỏa-thuận những gì trước rồi mới đến bày-tỏ cảm-tình công-khai.
Cả hai, Ngô─Hồ đã qua quá-trình
dài ngày mặc-cả với nhau.
Đồng-thuận trước nhất là không còn có binh-lính Hoa-Kỳ hiện-diện tại Miền Nam.
Miền Bắc gặp nhiều khó-khăn: đối-ngoại thì Nga-Cộng muốn “sống chung
hòa-bình” (hòa-hợp Bắc─Nam, ai lo phần
nấy, không còn chiến-tranh). Tàu-Cộng thì
muốn chiến-tranh, quyết đòi thống-nhất (thôn-tính Miền
Nam); đối-nội thì Hồ muốn theo ý Nga, trong lúc Lê
Duẩn & Lê Đức Thọ thì muốn theo ý
Tàu. (Việc này là một trở-ngại xảy ra sau
khi Ông Hồ đã gửi cành đào vào biếu Cụ Ngô.)
Miền Nam cũng có khó-khăn: đối-ngoại thì bị Hoa-Kỳ đòi đưa quân vào, trong lúc Giáo-Hoàng Giôn
XXIII ủng-hộ một nước Việt-Nam thống-nhất dưới quyền
của Hồ Chí Minh; đối-nội thì Mặt Trận Giải
Phóng ngày càng lớn lên, Phong-Trào Phật-Tử Tranh-Đấu rộng ra. (Cả hai cũng đều
chống Mỹ như “ta”.)
Đề-nghị mới
nhất là: Thống-Nhất Đất Nước, với Cụ Hồ Chí
Minh là Chủ-Tịch, Cụ Ngô Đình Diệm là Phó
Chủ-Tịch, Nước Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hòa.
Như thế thì: về đối-ngoại, Miền Bắc đáp-ứng được yêu-cầu của cả Liên-Xô lẫn Trung-Quốc, Miền
Nam thoát khỏi áp-lực của Hoa-Kỳ, cả
hai Miền thỏa-mãn ý-đồ của Vatican cũng như
ước-muốn của Pháp,
Ý, Ấn-Độ, Ba-Lan; về đối-nội, Miền Bắc
hết đổ xương máu, noi gương Miền Nam mà tái-thiết và
phát-triển, Miền Nam vừa xóa bỏ Mặt
Trận Giải Phóng vừa dẹp tan Phong Trào Phật-Tử Tranh-Đấu. (Trước đó, Cụ Ngô đòi làm Thủ-Tướng, hay ít nhất cũng là Bộ-Trưởng
Bộ Nội-Vụ tức Bộ Công-An, như đã yêu-cầu từ hồi 1945-46, để có thực-quyền, và có
thể dành vài ghế Phó Thủ-Tướng, hay Bộ-Trưởng, Thứ-Trưởng, hay Tổng-Cục-Trưởng,
cho Cố-Vấn Ngô Đình Nhu và Cố-Vấn Ngô Đình Cẩn; nhưng đến phút chót thì phe Duẩn+Thọ không chịu,
nên Cụ Hồ khuyên Cụ Ngô nhận chức Phó Chủ-Tịch
Nước để có vai-vế tương-đương mà cũng có thể có vài Trợ-Lý cho Phủ Phó
Chủ-Tịch Nước. Cụ Hồ hy-vọng là có Cụ Ngô và Ông Nhu bên cạnh thì sẽ
thoát được áp-lực của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ.)
Kết-luận là
cả Tổng-Thống Ngô Đình Diệm lẫn Cố-Vấn Ngô Đình Nhu đều cần ý-kiến
thuận của Cố-Vấn Ngô Đình Cẩn, trước khi
chính-thức thỏa-hiệp với Chủ-Tịch Hồ Chí Minh,
dự-trù sẽ cùng thình-lình công-bố một lần, để đặt cả thế-giới trước một “sự đã rồi”, trong năm 1964
(sẽ thảo-luận thêm, là vào ngày 7-7 hoặc 26-10 theo đề-nghị của Cụ Ngô, hay là vào ngày 19-5 hoặc 2-9 theo đề-nghị của
Cụ Hồ). . . .
Tôi hỏi người ấy
sao không phổ-biến tin này sớm hơn. Người ấy trả lời:
– Mật-thư chưa
đến được tay “Cậu Cẩn” thì cả chế-độ đã
tiêu-tan rồi. Sau đó, tôi phải giấu kín, vì sợ nếu Đại-Tá Duệ mà biết là tôi─tức là
chính ổng─đã không làm tròn sứ-mạng của Ngô Tổng-Thống tín-cẩn giao cho, thì ổng sẽ hối-hận
khủng-khiếp và căm-thù tôi ghê-gớm, không lợi-ích gì cho cả hai.
Tôi hỏi một câu
cuối cùng:
– Tại sao hôm
nay ông lại muốn tôi công-bố chuyện này?
– Vì Đại-Tá
Nguyễn Hữu
Duệ đã chết. Tôi định đợi đến 2-9-2013, kỷ-niệm lần giỗ lần thứ
50 của “Cụ Tổng” Ngô Đình Diệm và “Ông
Cố” Ngô Đình
Nhu thì sẽ tung ra. Đây là kết-quả cụ-thể
của cuộc mật-đàm 2 bên, nếu không bị vụ binh-biến 1-11-1963 phá hỏng thì
hẳn nước ta đã là một Quốc-Gia thanh-bình, thịnh-vượng, hùng-cường, nhờ ơn của
nhị vị vĩ-nhân, Khai-Sáng Nền Đệ-Nhất Cộng-Hòa
và La-Sơn Phu-Tử Tái-Thế của Việt-Nam. Tôi sợ qua năm 2012 thì có “tận-thế”
theo lịch của người Maya, không còn cơ-hội
nào nữa; đồng-thời, tôi muốn thách ông, là người chống lại sáng-kiến và nỗ-lực
của Nhà Ngô dàn-xếp giữa 2 Miền, xem ông có dám phổ-biến bằng-chứng thành-công này (dù chưa viên-mãn) đến với
quảng-đại độc-giả gần+xa?
Lời kết: “Người ấy” tuyệt đối cấm tôi tiết lộ tên và địa-chỉ
trong khi còn sống, vì đây là “bí mật thâm cung.”
LÊ XUÂN NHUẬN * AI GIẾT VNCH?
Sau Hiệp-Định Paris năm 1971, chậm nhất là kể từ sau “Mùa Hè Đỏ Lửa” năm 1972, các vụ “Bàn Thờ Phật Xuống Đường” cũng như “Tổng-Công-Kích Tết Mậu-Thân” đã là chuyện cũ, đã lùi vào dĩ-vãng rồi.
Các ván cờ đó đã được các bên
tham-dự xóa hết rồi.
Hệ-quả có chăng là sau vụ “Bàn Thờ
Phật Xuống Đường” năm 1966 thì Nhóm “Phật-Tử Tranh-Đấu” đã không còn
“tranh-đấu” nữa; và sau vụ VC “Tổng-Công-Kích Tết Mậu-Thân” năm 1968 và Mùa Hè
Đỏ Lửa năm 1972 thì tinh-thần chống-Cộng của Dân và Quân Miền Nam đã lên cao
hơn.
Cho nên Biến-Động Miền Trung là
chuyện đã xưa rồi.
Mới nhất, gian-xảo nhất, và
nham-hiểm nhất, là chuyện Biến-Loạn Miền Trung.
Trên bàn cờ thời-sự Miền Nam
Việt-Nam, vào giai-đoạn cuối-cùng của lịch-sử Việt-Nam Cộng-Hòa, chỉ còn có một
ván cờ mới―chung-kết và chung-quyết:
Đối-thủ chính bên phía đối-lập với
Chính-Quyền là các Nhóm “Giáo-Dân Tranh Đấu”, do đại-khối hơn 300 linh-mục
trong “Phong Trào Chống Tham Nhũng” và cả đám linh-mục nằm vùng và thân-Cộng,
“lãnh-đạo tinh-thần” Kitô-Giáo Việt-Nam, đứng ra thao-túng tình-hình.
Ở trên đầu và sau lưng họ là Tòa
Thánh La-Mã với đích-thân Giáo-Hoàng Phaolô VI cùng với hàng chục quốc-gia
chư-hầu của Vương-Quốc Vatican.
Thế đánh cạn-tàu ráo-máng của
nội-thù đã chiếu bí Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu, trực-tiếp mở đường cho
ngoại-địch hạ gục đối-thủ trong nước cờ kết-thúc yữa Bắc-Việt Xâm-Lược với
Việt-Nam Cộng-Hòa.
*
Vận Nước suy-đồi, mỗi người dù nhiều
dù ít đều có một phần trách-nhiệm (thất-phu hữu-trách).
Chỉ có những kẻ đầy thiên-kiến, mù
lương-tri, có ác-ý, và không tôn-trọng Sự Thật, mới đổ hết lỗi cho một riêng
ai.
Ngày nay, mang thân-phận thất-quốc,
lưu-vong, chỉ trừ những kẻ đã ở hẳn bên phía cộng-sản Việt-Nam rồi, còn thì
không có “Phật-Tử Tranh-Đấu” nào mà không luyến-tiếc Việt-Nam Cộng-Hòa.
Trong lúc đó, có một số “Giáo-Dân
Tranh-Đấu”, đến tận ngày hôm nay―đã gần 40 năm qua―mà vẫn còn tự-hào, hãnh-diện
về những âm-mưu, toan-tính, nỗ-lực, và hành-động của cái-gọi-là “Phong-Trào
Chống Tham Nhũng”, vì mình không những chỉ chống-phá cá-nhân Tổng-Thống Nguyễn Văn
Thiệu mà đã đạp đổ cả cơ-chế Hiến-Pháp―với Lập-Pháp, Hành-Pháp, Tư-Pháp ở trong
Chính-Quyền―và các Khối, các Nhóm trong Dân-Nhân―với các Chính-Đảng và các
Giáo-Hội sống dưới Chính-Thể Việt-Nam Cộng-Hòa―nói chung là Việt-Nam Cộng-Hòa.
*
NB: Bọn đó đã bị chính cựu thiếu-tá Liên Thành
công-khai kết án: xin mời bấm link sau đây:
Đoạn video được ghi-chú rõ:
“Liên Thành: LM Trần Hữu Thanh
Chủ Tịch Phong Trào Chống Tham Nhũng
chống VNCH tại Sài Gòn 1974
Chính Khí Việt ngày 17-07-2010”
“LM Trần Hữu Thanh chủ động dấn thân vào chính trị:
đó là năm 1974 ở Sài-gòn.
LM Trần Hữu Thanh cùng với 301 Linh Mục khác
ký tuyên ngôn lập Ủy Ban Chống Tham Nhũng,
chống VNCH”
*
Tóm lại, nếu vì một lý-do nào đó mà
phải gán riêng cho đích-danh một số người nào đó là “thủ-phạm chính” quấy-rối
an-ninh trật-tự công-cộng nhất, lũng-đoạn tình-hình chính-trị quốc-gia nhất,
gây cho tinh-thần dân-chúng hoang-mang nhất, khiến cho ý-chí chống-Cộng của
chiến-sĩ giao-động nhất, vào mấy năm cuối-cùng của Chiến-Tranh Việt-Nam―tức là
đâm một nhát dao chí-tử vào Việt-Nam Cộng-Hòa khi đang hấp-hối―thì số người đó
rõ-ràng, không thể chối-cãi được, phải là thành-phần cực-đoan trong Nhóm
“Giáo-Dân Tranh-Đấu”―các linh-mục cộng-sản nằm vùng, tay sai và thân-Cộng, cùng
với Ban Lãnh-Đạo của “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng”―dù là một bộ-phận nhỏ―của giới
tín-đồ Kitô-Giáo Miền Nam Việt-Nam.
Có kẻ lập-luận rằng chính Phật-Giáo tranh-đấu lật đổ Đệ Nhất Cộng Hòa
rồi lại tiếp-tục tranh-dấu dưới thời Đệ Nhị Cộng Hòa, đưa đến mất nước vào Ngày
30 Tháng 4 Năm 1975 [sic].
Lê Xuân Nhuận đã sưu-tập được một số sự-kiện & tài-liệu lịch-sử,
chứng-minh rằng vụ sụp đổ của VNCH vào Tháng Tư Đen năm 1975 không phải là do
Phật Giáo gây nên, mà do một thế-lực khác, không chỉ ở trong phạm-vi quốc-gia
mà cả ở trên bình-diện quốc-tế, suốt từ 1968 cho đến 1975 (không kể Do-Thái,
Trung-Cộng, Hoa-Kỳ).
Muốn biết chi-tiết xin mời đọc cuốn “Biến-Loạn
Miền Trung”.
NGƯỜI
BẠN ĐỒNG-MINH &
TÒA
TỔNG-LÃNH-SỰ HOA-KỲ
VÙNG I
TRONG
suốt thời-gian từ Hiệp-Ðịnh Geneva 1954 đến Hiệp-Ðịnh Paris 1973, nhất là từ
1962 đến 1975, đã có khoảng vài chục người Mỹ làm Cố-Vấn (Phối-Trí-Viên, rồi
Người Bạn Đồng-Minh) cho tôi: đa-số họ là viên-chức cơ-quan Tình-Báo TrungƯơng
Hoa-Kỳ (CIA). Mỗi người đều có những đặc-điểm nào đó, phần lớn là tốt, về mặt
công-tác chung hoặc về mặt quan-hệ hợp-tác giữa hai bên.
Tôi biết rằng đa-số viên-chức tình-báo
Mỹ đều mang tên giả; nhưng, người nào đã có một vai trò, một chỗ đứng, thì đều
cần có một cái tên, để phân-biệt kẻ khác với mình.
Tuy nhiên, người đã đẩy tôi vào một cuộc
chiến-đấu gay-gắt, cùng một lúc với cả ba kẻ thù theo nguyên-tắc
tình-báo―đối-phương,
công-chúng, và đồng-nghiệp―lại
là một trong các Người Bạn Ðồng-Minh hậu-chiến của tôi, trong một năm rưỡi tôi
được Trung-Ương đưa trở về Miền Trung, cũng là giai-đoạn lịch-sử cuối-cùng của
Việt-Nam Cộng-Hòa. Dù sao, anh bạn này cũng đã ghi lại một dấu ấn sâu-đậm trong
trí nhớ của tôi.
Người đó là Kenneth D. Ferguson.
*
Giữa
phản-chiến và phản-chính không có biên-cương. Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu bị
phần lớn báo-chí chỉ-trích, đa-số hội-đoàn phản-đối, và các phần-tử bất-mãn tẩy
chay. Người ta cũng quy-trách cho cho Hoa-Kỳ.
Tôi kéo bàn tay của viên
đại-tá CIA bạn tôi ra trước mắt, vuốt ngược những sợi lông dày và cứng trên
mu:
−
Báo-chí Việt-Nam gọi người Mỹ là những “bàn
tay
lông-lá”.
−
Tôi biết.
Chính-khách Ngô
Đình Diệm là người đầu tiên mở trang sử chính-thức và công-khai quan-hệ với
Hoa-Kỳ, nên tôi bắt đầu về ông Diệm trước. Tôi hỏi thẳng:
−
Anh nghĩ thế nào về cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm?
−
Anh nói trước đi!
Ferguson đẩy tôi đi trước. Cũng như
nhiều người Mỹ khác,
anh muốn tỏ ra là mình không can-thiệp vào việc nội-bộ của
nước người. Tôi bèn dò ý:
−
Hoa-Kỳ không muốn giết Diệm. Nhưng điều chắc-chắn là
Hoa-Kỳ không muốn chế-độ Diệm tồn-tại lâu hơn. Kỳ-thị tôn-giáo là một trong
nhiều nguyên-nhân, tuy chỉ nội một cái nguyên-nhân ấy cũng đã đủ sức thuyết-phục
để Quân-Lực phải ra tay...
−
Còn những nguyên-nhân nào nữa?
−
Diệm đánh hỏng những giá-trị tinh-thần của Mỹ mà Hoa-Kỳ muốn Diệm là biểu-trưng...
−
Những giá-trị nào được xét ở đây?
−
Căn-bản là các quyền tự-do ghi trong Tu-Chính-Án số 1 của Hiến-Pháp
Hoa-Kỳ―ngôn-luận,
báo-chí, tín-ngưỡng, hội-họp ôn-hòa, đạo-đạt ý dân―mà
Diệm khinh thường. Diệm tự cho mình cao hơn Hiến-Pháp (“Đằng
sau hiến-pháp, còn có tôi!”).
−
Gì nữa?
−
Diệm phá vỡ kế-hoạch của Mỹ thành-lập Liên-Bang Đông-Dương và Liên-Phòng
Đông-Bắc Á-Châu. Và Diệm hầu như suýt dâng nốt Miền Nam Việt-Nam cho cộng-sản:
Ổng mưu-toan thỏa-hiệp với
Bắc-Việt, lúc ấy là một khối chính-trị và quân-sự to lớn, thống-nhất và
ngoan-cường bội phần hơn Miền Nam, có thừa thủ-đoạn và khả-năng tiêu-diệt
thành-phần Quốc-Gia. Ổng muốn trở lại với Pháp; ổng muốn lạnh nhạt với Mỹ, trong
lúc đối-ngoại thì mọi việc đều nhờ Mỹ đỡ đầu, đối-nội thì nền kinh-tế còn
phôi-thai, cả guồng máy chính-quyền, trị-an và quốc-phòng, v.v... đều sống nhờ
vào viện-trợ của Hoa-Kỳ...
−
Anh nghĩ thế nào về cái chết của Diệm?
−
Ô hay, tôi định hỏi anh thì anh đã hỏi ngược lại tôi.
Chúng tôi nhìn nhau rồi cả hai cùng
cười. Tôi nói:
−
Diệm tự giết mình!
Ferguson trố mắt nhìn tôi xem tôi có nói
đùa hay không.
Tôi giải-thích thêm:
−
Về mặt sự-việc: cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm, dù muốn dù không, cũng đã trở thành
một con hổ dữ. Hé một lời-nói, lộ một cử-chỉ mà vây-cánh ổng cho là phạm-thượng
thì khó mà thoát khỏi bàn tay tàn-độc của thủ-hạ ổng. Huống gì, lật đổ ổng, lùng
rượt ổng, bắt trói ổng... Tôi kính-trọng Diệm, tôi không tán-đồng việc giết
Diệm, tôi phản-đối cách giết Diệm; nhưng tôi thông-cảm tình-cảnh của những kẻ đã
cỡi lên đầu hổ rồi. Giết hổ hay hổ giết mình. Có thể xem như “tự-vệ”
mà thôi.
−
Còn mặt nào nữa?
−
Về mặt tinh-thần:
“Thứ
nhất: Diệm chịu ảnh-hưởng Đạo Nho, muốn mình “tiết
trực, tâm hư”.
Nhưng Đạo Nho lấy “trung-quân”
làm
trọng; mà Diệm thì không chịu làm một bề-tôi lương-đống, đã
phản-bội Bảo Đại để lên làm Nguyên-Thủ Quốc-Gia, tức đã phạm tội bất-trung với
vua. Thế là Nho-Giáo không dung.
“Thứ
hai: Diệm lật đổ Bảo Đại vì Bảo Đại bất-tài. Điều đó đúng; tức Diệm thực-thi
chủ-nghĩa duy-ích, một thứ đạo-đức mới. Nhưng học-thuyết vị-lợi ấy chủ-trương
nhân danh đa-số, để làm điều có ích lợi chung. Trong lúc đó, áp-dụng chủ-nghĩa
thực-dụng cho thiểu-số phe mình
mà thôi, chính Diệm cũng đã biết trước là sẽ lâm-nguy. Ổng nói: ‘Tôi
chết thì trả thù cho tôi!’ Nếu
chết tự-nhiên thì tại sao lại phải trả thù? Và Diệm cũng đã nêu lên tiền-lệ:
mình truất ngôi người này được, thì kẻ khác cũng lại
hất cẳng mình được, chứ sao! Các tướng chỉ noi gương ổng mà thôi! Đó là quy-luật
sinh-tồn! Thế là đạo-đức mới cũng quật lại ổng.
“Thứ
ba: Diệm là tín-đồ Đạo Kitô. Theo Đạo ấy thì, “Satan
là Chúa của đời này”
(2 Cor 4:4) Chính “Đức
Jesus cũng gọi Quỷ Satan là vua, chúa (kẻ thống-trị, bá-chủ)
của thế-gian
này”
(John 12:31) và Thánh-Kinh xác-nhận “Cả
thế-gian đều phục dưới quyền ma-quỷ, đều nằm trong tay ma quỷ (cả
thế-giới đều ở dưới quyền thống-trị của Quỷ-vương)” (1 John 5:19). Với
tư-cách chủ-nhân-ông của cả thế-giới loài người, “Satan đem Đức Jesus lên
đỉnh núi cao, chỉ cho Ngài thấy các nước vinh-quang rực-rỡ khắp thế-giới,
quyến-rũ Ngài rằng: Ngươi chỉ cần quỳ gối thờ lạy ta, là ta sẽ cho ngươi
làm chủ tất cả thế-gian này!” (Matt 4:8,9). Đức Jesus từ-chối; Ngài
cầu-nguyện Đức Chúa Trời: “Con đã rao truyền lời Cha cho các tín-đồ, nên
người đời thù ghét họ, vì họ không thuộc về thế-gian, cũng như Con không thuộc
về thế-gian” (John 17:14).
Lời Đức Chúa Trời kể rằng: “Các vua thế-gian
nổi dậy, các lãnh-tụ bàn nghị cùng nhau, âm-mưu đối đầu với Jehovah Đức Chúa
Trời và nghịch với Đức Jesus là Đấng chịu xức dầu của Ngài” (Ps 2:2). Do đó,
Chúa dạy: “Chớ yêu thế-gian, cũng đừng yêu (quyền-hành, danh-vọng,
lợi-lộc) bất-cứ những gì thuộc về thế-gian” (1 John 2:15-17).
Thánh-Kinh giảng thêm: “Kết bạn với kẻ
thù của Đức Chúa Trời tức là thù nghịch với Đức Chúa Trời; kẻ thù đó là
thế-gian” (Jas 4:4). Ngay chính trong giới tín-đồ của mình, khi “Đức
Jesus thấy họ sắp tạo áp-lực đưa Ngài lên làm vua, Ngài liền bỏ đi lên núi ở một
mình” (John 6:15), không chịu làm vua ở thế-gian. Nói chung,
ngày nào mà Đấng Cứu-Thế chưa tái-lâm (chưa tận-thế), thì
ngày đó “Cả thiên-hạ (toàn thể thế-giới loài người) còn bị Quỷ-vương hay
Satan lừa dối, dỗ dành” (Rev 12:9), “làm mờ tối tâm trí (mù lòng)” (2
Cor 4:4), và “kẻ thù của Đức Chúa Trời” (Jas 4:4) là “các vua
thế-gian” (Ps 2:2). Tóm lại, tín-đồ Đạo Chúa là người không thuộc về
thế-gian; mà Diệm làm Tổng-Thống tức là làm một vua ở thế-gian, dưới quyền của
Quỷ Satan, và chống lại Đức Chúa Trời. Hơn nữa, Đạo Chúa cấm đoán mọi Đạo khác,
theo các Điều Răn thứ 1 và thứ 2 của Đức Chúa Trời: “Các ngươi không được thờ
thần nào khác, ngoài Ta; không được khắc hình tượng-trưng cho bất-cứ cái gì trên
cõi đời này; không được thờ-phụng chúng” (Ex 20:3-5). Thế mà Diệm còn tôn
sùng giáo-lý Đức Khổng, dùng hình khóm trúc làm
biểu-hiệu cho tinh-thần Nho-Giáo của mình, khắc vào ấn-tín của mình và của cả
Quốc-Gia. Thế là Thiên-Chúa-Giáo cũng không dung. “Quân thù trồng rặt loại
nho lấy giống từ vườn Sô Đôm với đất từ đồng Gô Mo; trái đắng và chua, làm thành
rượu độc nọc rắn”. Tất-nhiên Đức Chúa Trời phải “ganh tỵ” (Zec 1:14),
vì Chúa là Chúa “phân bì” (De 32:16; PS 78:58), “động lòng ghen” (Zec
1:14), nên Chúa phải trừng-trị, phải trả thù: “Báo thù là việc của ta, Ta làm
cho chúng ngã nhào, tai-họa ào đến tức-thời” (Deut 32:32-35)...”
− Chuyện đã qua rồi, phải không?
− Cái đó còn tùy. Nhưng có vài điều đáng nói:
“Thứ nhất, Diệm phản Bảo Đại thì Diệm vẫn còn mắc
nợ Bảo Đại, vì Bảo Đại dùng Diệm mà Diệm không giúp ích gì cho Bảo Đại; nhưng
các Tướng lật Diệm thì Diệm vẫn còn mang ơn các Tướng, vì Diệm dùng các Tướng
thì các Tướng đã liều thân xông pha trận-tiền, đánh dẹp các giáo-phái, bình-định
xứ-sở, ổn-định tình-hình cho chế-độ Diệm vững an. Thứ hai, nếu Diệm có đức, có
tài, thì đó là thuộc-tính của một người, không nhất-thiết có nghĩa là mọi người
khác đều tầm-thường mọi mặt, và bất-cứ đồ-đệ nào còn sót lại của Diệm cũng
xứng-đáng lên làm lãnh-tụ quốc dân...”
Nghĩ rằng chừng đó đã đủ, tôi hỏi qua chuyện
mới:
− Anh nghĩ thế nào về Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu
?
− Cũng xin nhường anh!
Thế là Ferguson lại đẩy tôi đi trước nữa. Tôi thấy
cần phải rào-đón phần mình trước tiên:
− Chắc anh đã biết là tôi đối-lập với Thiệu. Nhưng
tôi chỉ chống tính-cách quân-phiệt, tôi chỉ phản-đối việc quân-cách-hóa
Chính-Quyền, nhất là với Cảnh-Lực; tôi đòi-hỏi thực-thi Kế-Hoạch Cảnh-Sát-Hóa,
là một quốc-sách tối-thượng mà Hoa-Kỳ tặng cho để làm sách-lược hậu-chiến, nhưng
Thiệu xếp bỏ không dùng. Trong việc chống Thiệu, tôi khác người ta.
− Người ta chống Thiệu thế nào?
Tôi thấy là Ferguson đang “moi tin” tôi,
nhưng tôi cũng thử dò đường:
− “Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải
Dân-Tộc” thì có đông-đảo quần-chúng, là giới Phật-tử chiếm trên chín mươi
phần trăm dân-số, có sẵn ứng-viên lý-tưởng vào chức-vụ Tổng-Thống, là Dương Văn
Minh. Nếu là ứng-viên dân-sự thì khó lòng được lòng mọi Tướng, nhưng Minh là
đại-tướng. Minh hòa-hoãn với cộng-sản, và Hà-Nội đã bắn tiếng chỉ nói chuyện với
Minh. Đa-số đã chán chiến-tranh, lại ngán cộng-sản, nên đặt hy-vọng vào Minh.
Nhưng Lực-Lượng này không bạo-động, và chỉ chờ-đợi đến kỳ bầu-cử
Tổng-Thống vào cuối năm nay mà thôi...
− Anh cứ nói đi!
− “Đại-Việt Cách-Mạng Đảng” là một
chính-đảng có nhiều đảng-viên nhất, lại được tổ-chức chặt-chẽ. Họ có nhiều
đảng-viên giữ các chức-vụ trọng-yếu trong Chính-Quyền. Họ có thực-lực chính-trị.
Lãnh-tụ của Đảng là Hà Thúc Ký nặng ký hơn Thiệu trong cuộc chạy đua giành phiếu
nay mai. Tuy thế, có nhiều đảng-viên có thể bầu Minh.
− Xin nói tiếp đi!
− “Việt-Nam Quốc-Dân Đảng” là một
chính-đảng kỳ-cựu, có thời mạnh hơn Việt-Minh tức Cộng-Sản Việt-Nam. Sau này
phân-hóa thành nhiều hệ-phái, phải đứng chung với “Đảng Dân-Chủ” của
Thiệu trong một Liên-Minh. Hiện Vũ Hồng Khanh, một lãnh-tụ chính-trị mà Hồ Chí
Minh đã phải nài-nỉ mời đồng ký tên ngang hàng với mình trong bản thỏa-hiệp
thành-lập chính-phủ Quốc+Cộng liên-hiệp vào năm 1946, đang nỗ-lực thống-nhất
lại. Mục đích của họ là phục-hồi uy-tín và địa-vị của Đảng cả ở trong nước lẫn ở
nước ngoài. Họ không hoàn-toàn đồng-minh với Thiệu, nhưng nhiều đảng-viên cũng
có thể chọn Minh.
− Còn các tổ-chức khác nữa?
− “Phong-Trào Quốc-Gia Cấp-Tiến” dựa vào
các nhà khoa-bảng và giới học-thức trẻ. Họ muốn cải-cách kinh-tế là huyết-mạch
của quốc-dân, vì cho rằng nhà cầm quyền hầu như bất-chấp cán cân mậu-dịch và
vấn-đề cung cầu...
“Các đoàn-thể khác nói chung thì chỉ đưa ra một
vài ý-kiến mới, nhằm mục-đích trình-diện một vài nhân-vật tranh-đấu cấp
địa-phương, nhắm ghế Quốc-Hội hoặc Hội-Đồng Tỉnh, Thị.
“Một số phần-tử nặng tinh-thần dân-tộc thì cho là
Thiệu quá lệ-thuộc Hoa-Kỳ.
“Còn trên bình-diện cá-nhân thì phần đông chống
Thiệu theo kiểu trưng-diện một món thời-trang, sợ không đối-lập thì bị xem là
lỗi-thời!”
Ferguson cùng cười theo tôi. Lát sau, anh dè
dặt:
− Nay Huế đã mất, nhưng những người liên-hệ với
Huế thì vẫn còn. Anh thấy hệ-lụy của nó đối với tình-hình mới tại các Tỉnh trong
Nam sẽ như thế nào?
Người Bạn của tôi nhắc đến những việc mà tôi cố ý
hoặc bỏ qua hoặc dành nói sau. Tôi phải nói luôn:
− Đảng “Nhân-Xã”, tức Đảng “Cần-Lao
Nhân-Vị” đổi mới, chỉ hoạt-động bên trong các giới tín-đồ Đạo Kitô và cựu cơ-sở
Đảng Cần-Lao. Bên ngoài, họ có “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng và Kiến-Tạo
Hòa-Bình”. Hòa-Bình thì chưa thấy có kế-hoạch khả-thi. Tham-nhũng thì là
cụ-thể, nhưng chưa phải là yếu-tố quyết-định hàng đầu. Theo họ, lật đổ Ngô Đình
Điệm mới là tội-phạm tối-trọng, bất-khả khoan-dung. Họ đã bắt đầu bạo-động. Mục-đích
của họ là thay-thế Thiệu ngay, bằng một Tổng-Thống và Chính-Quyền rập khuôn
Đệ-Nhất Cộng-Hòa .
− Anh nghĩ thế nào?
Tôi đáp:
− Diệm nếu còn sống thì ổng cũng đã mãn các
nhiệm-kỳ hiến-định từ lâu. Người của thời này không thể giải-quyết việc của thời
kia. Không dưng mà các cộng-tác-viên ban đầu đã rời-bỏ, rồi các trí-thức
chống-đối, rồi nhiều thành-viên nội-các từ-chức, rồi dân-chúng sôi-sục bất-bình,
rồi chính người nhà mà cũng chia tay. Quân-đội bắt đầu đảo-chính từ 1960, ném
bom Dinh Tổng-Thống từ 1962...
“Việc gì phải đến là cứ đến.
“Háo-hức dẹp một tảng đá cản đường, không ai ngờ
trước sẽ gặp bãi lầy tiếp theo.
Nhưng hẳn không ai muốn cho tình-hình xấu đi...
“Lịch-sử đã sang trang. Vấn-đề bây giờ không phải
là khóc mình, hận người, mà là làm sao để cải-thiện tình-hình. Có ai xứng-đáng
để lên thay Thiệu không, và, nếu thay Thiệu thì thay cách nào?”
− Ý anh thế nào?
− Trước hết, nói về người thay. Tôi thấy là không,
hoặc chưa, có ai có đủ điều-kiện để lên thay Thiệu. Riêng đối với Mỹ, nếu có thì
tất Hoa-Kỳ đã bật đèn xanh cho xuất-hiện rồi!
Ferguson cố gắng giữ nguyên nét mặt vô-tư. Anh
tiếp-tục hỏi tôi:
− Còn về cách thay?
Tổng-Thống là người lãnh-đạo toàn-dân. Xuất-xứ có
thể là bất-cứ đâu, nhưng đối-tượng phục-vụ không phải chỉ là một chính-đảng, một
giáo-hội, một xã-giới, hay một gia-đình. Về Thiệu, tôi đã suy-nghĩ về hai
trường-hợp có thể xảy ra: ông tự giải-quyết, hoặc bị giải-quyết.
Tôi nói ngắn gọn:
− Thiệu đang gặp nhiều khó-khăn: Hoa-Kỳ rút ra,
cộng-sản tiến vào, đối-lập lấn lên. Lần đầu tiên người dân Việt-Nam được tự-do
xúc-phạm một nguyên-thủ quốc-gia mà không sợ bị bắt nhốt, trả thù, như dưới thời
Diệm. Theo tôi, Thiệu không nên tham-quyền cố-vị. Vì chống mình nên người ta chỉ
nhắm vào việc thay mình. Nếu mình bắn tiếng từ-chức thì tự-nhiên sẽ nổi lên tất
cả các chuẩn-ứng-viên thay mình; dân-chúng sẽ so-sánh lựa-chọn giữa họ với mình;
và người ta sẽ quay lại chống nhau, làm sáng tỏ ưu-khuyết-điểm của từng người;
mình dựa vào đó mà tu-chính và quyết-định ở lại hay ra đi.
“Nếu Thiệu từ-chức, hoặc ông bị mất trí hay
mệnh-vong, thì cũng chỉ có Phó Tổng-Thống Trần Văn Hương lên thay, cho đến cuối
năm nay [1975] mới hết nhiệm-kỳ. Với Hương, có đạo-đức nhưng thiếu bản-lãnh,
tình-hình sẽ như thế nào?
“Còn nếu muốn loại cả chế-độ Thiệu tức-thời thì
chỉ có cách là đảo-chính quân-sự―một
việc mà chắc hẳn đã có kẻ mưu toan nhưng
không thuyết-phục được ai nên không xảy ra. Nhưng nếu xảy ra thì Chính-Quyền
cũng sẽ chỉ nằm trong tay các tướng: Minh, Khiêm, Kỳ, v.v... hoặc người nào khác
thì cũng thế thôi. Có khuôn mặt nào nổi bật hơn đâu? Kinh-nghiệm Cách-Mạng
1-11-1963: thay-đổi toàn-diện thì tình-hình sẽ như thế nào? Tóm lại, người ta
mới nghĩ đến việc loại Thiệu, nhưng chưa nghĩ đến tình-hình hậu-Thiệu; hoặc cũng
đã có nghĩ đến, nhưng không thực-tế, chỉ chủ-quan, cầu-may. Thực-tế là đã có
Việt-Nam-Hóa, không còn báo-cô Hoa-Kỳ như trước được nữa, mà quốc-dân thì
chưa đủ sức tự-túc tự-tồn. Giặc đã đến bên lưng, không còn thì-giờ để làm lại từ
đầu...”
Im lặng một lát, rồi Ferguson hỏi tôi mà tôi nghe
như anh tự hỏi mình:
− Không còn cách nào nữa ư?
Tôi nói chậm-rãi:
− Đáng lẽ đã có nhiều cách rồi!
Bạn tôi nhướng mắt lên, đợi chờ.
− Đệ-Nhất cũng như Đệ-Nhị Cộng-Hòa Việt-Nam chỉ
thấy cái phần chiến-thuật chứ không thấy cái phần chiến-lược của các Kế-Hoạch mà
Hoa-Kỳ đưa ra. Ngoài ra, họ chỉ chú-trọng cái phần ưu mà không quan-tâm đến cái
phần khuyết, ở cuối mỗi Kế-Hoạch đều có nêu lên. Hơn nữa, còn có hai nhược-điểm
về phía Hoa-Kì. Cố-Vấn Mỹ chỉ là cấp thừa-hành, đâu phải ai cũng hiểu được
thâm-ý khi soạn-thảo kế-hoạch của cấp Trung-Ương hay chiến-lược-gia; thế mà họ
đã để cho Đồng-Minh Việt-Nam cứ xem Cố-Vấn Mỹ như thước ngọc khuôn vàng. Trong
lúc đó, các cấp Trung-Ương và ngoại-giao sành-sỏi của Mĩ thì cứ phép-tắc
lễ-nghi; đáng lẽ phải nói huỵch-toạc ra như giữa các bên phối-tác với nhau, thì
họ lại chỉ bóng-gió xa-xôi, mặc cho người nghe có thể không hiểu hoặc hiểu
lầm.
− Xin anh nói rõ hơn.
− Diệm đã phá hỏng kế-hoạch của Mỹ nên mới hỏng
bét. Bây giờ Thiệu cũng bỏ lỡ kế-hoạch của Mỹ nên phải dở-dang.
− Anh muốn nói về “Cảnh-Sát-Hóa”
và trước đó là “Liên-Bang Đông-Dương”, “Liên-Phòng Đông-Bắc
Á-Châu”?
− Vậy anh muốn tôi nói về vấn-đề gì khác nào?
− Nếu còn vấn đề gì khác, sao không nói ra?
Tôi ngưng một lát, rồi đánh bạo nói lên ý nghĩ của
mình:
− Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa quả thật thiện-chiến,
tinh-thần rất cao, nhưng dù có được Hoa-Kỳ tiếp-tục viện-trợ và yểm-trợ thì cũng
vẫn sẽ không bao giờ thắng được Cộng-Sản Việt-Nam!
Ferguson không giấu nổi vẻ ngạc-nhiên. Tôi giảng
giải thêm:
− Lính phải ngăn-chận kẻ thù đằng trước để che-chở
dân đằng sau. Đằng nầy: ở cấp Xã thì Nghĩa-Quân thu mình trong dăm ba chòi gác;
ở cấp Quận thì Địa-Phương-Quân thủ thế trong khuôn-viên trụ-sở Chi-Khu; còn
Chủ-Lực-Quân thì sau các cuộc hành-quân là rút về trại binh. Cộng-sản chiếm được
phần lớn không-gian và thời-gian, nhất là ban đêm, cô-lập lính trong đồn và
chế-ngự dân bên ngoài. Lính đã không bảo-vệ được dân thì thôi, làm sao mong dân
phải làm khiên mộc bên ngoài bảo-vệ cho lính trong đồn?
Người bạn của tôi ngẫm-nghĩ một lát rồi hỏi
lại tôi:
− Thế còn Cảnh-Lực thì sao ?
− Cảnh-Lực, với tổ-chức và điều-hành hiện nay,
không giúp được gì đúng với mong đợi của mọi người. Cảnh-Sát mới xuống đến Xã,
các Xã “an-ninh” mà thôi, và chỉ là Cảnh-Sát Sắc-Phục, không làm điệp-báo, không
lùng-diệt, và cũng không chống-cự nổi nếu bị đối-phương tấn-công. Đặc-Cảnh thì ở
cấp Quận, và Ban Tác-Vụ chỉ có mấy người, làm sao nắm hết các Xã, các Thôn trong
khắp khu-vực trách-nhiệm của mình, nhất là khi không có đủ phương-tiện để
tổ-chức các đường dây...
Ferguson hỏi vặn tôi:
− Nghe anh có vẻ bi-quan. Thế tại sao hôm trước
anh lại nài-ép tôi―và
tôi đã nhiệt-thành giúp anh―bênh-vực
Việt-Nam Cộng-Hòa trước các Dân-Biểu và Thượng-Nghị-Sĩ Hoa-Kỳ khi họ đến tận chỗ
quan-sát tình-hình tại Vùng I này?
− Anh muốn tôi cứ để mặc cho chính-thể này suy sụp
sao?
Chừng thấy câu chuyện hơi găng, Ferguson liền đổi
đề-tài:
− Tôi thấy anh có nhiều hiểu-biết và
nhận-định giá-trị hơn người. Ước chi anh là Tổng-Thống của nước này!
Dù anh nói thật hay nói mỉa tôi, tôi cũng không
cần. Tôi đã bốc đồng:
− Tôi đợi thăng cấp vào ngày mồng 1 tháng 6 [1975]
này, xong tôi ứng-cử vào Quốc-Hội. Tôi vào một Khối hoặc một Ủy-Ban. Tôi ra một
tờ báo. Tôi lập một hội-đoàn. Và tôi ứng-cử Tổng-Thống Việt-Nam Cộng-Hòa. Anh
nghĩ sao?
Ferguson trả lời:
− Tại sao lại không?
Tôi muốn nhân dịp dò-xét thái-độ của anh đối với
mình:
− Nhưng điều quan-trọng là anh có ủng-hộ tôi hay
không?
Người Bạn Đồng-Minh đưa ngay tay ra bắt tay
tôi:
− Tại sao lại không?
Chúng tôi ôm nhau mà cười.
Sau đó, trở lại với chủ-đích của mình, tôi
nói:
− Tôi đã đưa cho Watkins, viên-chức phụ-tá của
anh, một chiếc máy truyền-tin cầm tay, với tần-số và mật-hiệu liên-lạc với tôi
24/24 giờ. Khi nào anh rời Đà-Nẵng thì anh hoặc anh ấy gọi tôi.
− Watkins đã nói cho tôi biết rồi.
Đề-cập đến sự-việc ấy, bỗng-nhiên tôi thấy
nghẹn-ngào.
Tôi rán hỏi thêm một câu:
− Tóm lại, Hoa-Kỳ có bỏ Đà-Nẵng không? Và Hoa-Kỳ
có bỏ Việt-Nam không?
− Anh đã biết câu trả lời của tôi rồi!
Thật là một câu trả lời “khôn-ngoan”.
Rốt cuộc, tôi vẫn chẳng biết Người Bạn
Đồng-Minh Hoa-Kỳ Ferguson đã trả lời tôi như thế nào.
*
Ngay đêm hôm ấy, Tòa Tổng Lãnh-Sự Hoa-Kỳ tại Vùng I
bí-mật ra đi.
Khoảng quá nửa đêm
27-3-1975, tôi được báo-cáo là các Thủy-Quân Lục-Chiến Mỹ canh gác Tòa
Tổng-Lãnh-Sự Hoa-Kỳ tại Vùng I đã khóa cổng kỹ và rời khỏi trụ-sở ấy, sau khi đã
chở ra khỏi nơi đó nhiều chuyến hàng đóng thùng, và từ giữa sân bên trong thì
bốc lên trời một cột khói đen như ai đang đốt nhiều đồ vật gì.
Tôi gọi điện-thoại đến đó,
rồi đến tư-gia của các Người Bạn Ðồng-Minh và những viên-chức ngoại-giao Hoa-Kỳ
mà tôi quen, thì hoặc đường dây bị hư, hoặc chuông có reo mà không có người trả
lời. Tôi dùng máy vô-tuyến gọi các Người Bạn Ðồng-Minh Ferguson và Watkins,
nhưng cũng không liên-lạc được với ai.
*
Mờ sáng hôm sau, 28-3-1975,
dân-chúng bắt đầu vào “hôi của” tại tòa nhà vốn được gọi theo địa-chỉ là 52
Bạch-Ðằng. Lúc đầu thì đồ ăn, đồ uống, vật-liệu văn-phòng, dụng-cụ linh-tinh; về
sau thì bàn ghế tủ giường, trang-cụ, thiết-cụ, máy móc; cuối-cùng là các loại
xe-hơi.
Tôi chen lách đám đông
vào được trong văn-phòng của Trạm Hàng-Không “Air America”. Nơi đây đang
chuẩn-bị đợt hành-khách và hành-lý cuối-cùng cho một số phi-cơ bán-phản-lực và
trực-thăng. Viên kỹ-sư Phi-Luật-Tân, Trưởng Trạm, tuy đang bận túi-bụi nhưng
không quên trao ngay chiếc chìa-khóa vào phòng VIP cho tôi. Anh tưởng, như những
lần trước, tôi mà đến đây là chỉ để đưa hay đón các viên-chức quan-trọng mà
thôi, vì lần nào tôi cũng mượn dùng phòng khách quan-nhân.
Khi chỉ còn lại mấy
chiếc trực-thăng, anh chào từ-giã tôi, rồi cùng với các nhân-viên khác dùng
bình-xịt xịt ra một thứ bọt trắng xóa, đẩy đám đông lui ra xa khỏi phi-cơ. Xong
họ bay lên, rời khỏi sân bay và trạm hàng-không đặc-biệt này, sau khi nói cho
tôi biết là họ bay ra tàu-thủy đang đậu ngoài khơi.
Thế
là người Mỹ đã thật-sự bỏ Ðà-Nẵng, bỏ Miền Trung, bỏ Vùng Chiến-Tuyến này
rồi.
*
Ngày đó, 28-3-1975, từ trong trụ-sở của họ khói đen từ
mấy thùng đốt hồ-sơ tài-liệu tiếp-tục bốc lên ngút trời.
Tôi tiếp-tục tìm và gọi cho đến hôm sau vẫn không có vân
mòng gì về Người Bạn Đồng-Minh.
Và ngày 29-3-1975 được xem là ngày thất-thủ của thủ-phủ
Miền Trung...
(Trích
"Biến-Loạn Miền Trung"
trang 413-432)
Một
phần bài này đã có trong "Về
Vùng Chiến-Tuyến" 1996)
Sau
Hiệp-Định Paris năm
1971, chậm nhất là kể từ sau “Mùa Hè Đỏ Lửa” năm 1972, các vụ “Bàn Thờ Phật
Xuống Đường” cũng như “Tổng-Công-Kích Tết Mậu-Thân” đã là chuyện cũ, đã lùi vào
dĩ-vãng rồi.
Các ván cờ đó đã được các bên
tham-dự xóa hết rồi.
Hệ-quả có chăng là sau vụ “Bàn Thờ
Phật Xuống Đường” năm 1966 thì Nhóm “Phật-Tử Tranh-Đấu” đã không còn
“tranh-đấu” nữa; và sau vụ VC “Tổng-Công-Kích Tết Mậu-Thân” năm 1968 và Mùa Hè
Đỏ Lửa năm 1972 thì tinh-thần chống-Cộng của Dân và Quân Miền Nam đã lên cao
hơn.
Cho nên Biến-Động Miền Trung là
chuyện đã xưa rồi.
Mới nhất, gian-xảo nhất, và
nham-hiểm nhất, là chuyện Biến-Loạn Miền Trung.
Trên bàn cờ thời-sự Miền Nam
Việt-Nam, vào giai-đoạn cuối-cùng của lịch-sử Việt-Nam Cộng-Hòa, chỉ còn có một
ván cờ mới―chung-kết và chung-quyết:
Đối-thủ chính bên phía đối-lập với
Chính-Quyền là các Nhóm “Giáo-Dân Tranh Đấu”, do đại-khối hơn 300 linh-mục
trong “Phong Trào Chống Tham Nhũng” và cả đám linh-mục nằm vùng và thân-Cộng,
“lãnh-đạo tinh-thần” Kitô-Giáo Việt-Nam, đứng ra thao-túng tình-hình.
Ở trên đầu và sau lưng họ là Tòa
Thánh La-Mã với đích-thân Giáo-Hoàng Phaolô VI cùng với hàng chục quốc-gia
chư-hầu của Vương-Quốc Vatican.
Thế đánh cạn-tàu ráo-máng của
nội-thù đã chiếu bí Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu, trực-tiếp mở đường cho
ngoại-địch hạ gục đối-thủ trong nước cờ kết-thúc yữa Bắc-Việt Xâm-Lược với
Việt-Nam Cộng-Hòa.
*
Vận Nước suy-đồi, mỗi người dù nhiều
dù ít đều có một phần trách-nhiệm (thất-phu hữu-trách).
Chỉ có những kẻ đầy thiên-kiến, mù
lương-tri, có ác-ý, và không tôn-trọng Sự Thật, mới đổ hết lỗi cho một riêng
ai.
Ngày nay, mang thân-phận thất-quốc,
lưu-vong, chỉ trừ những kẻ đã ở hẳn bên phía cộng-sản Việt-Nam rồi, còn thì
không có “Phật-Tử Tranh-Đấu” nào mà không luyến-tiếc Việt-Nam Cộng-Hòa.
Trong lúc đó, có một số “Giáo-Dân
Tranh-Đấu”, đến tận ngày hôm nay―đã gần 40 năm qua―mà vẫn còn tự-hào, hãnh-diện
về những âm-mưu, toan-tính, nỗ-lực, và hành-động của cái-gọi-là “Phong-Trào
Chống Tham Nhũng”, vì mình không những chỉ chống-phá cá-nhân Tổng-Thống Nguyễn Văn
Thiệu mà đã đạp đổ cả cơ-chế Hiến-Pháp―với Lập-Pháp, Hành-Pháp, Tư-Pháp ở trong
Chính-Quyền―và các Khối, các Nhóm trong Dân-Nhân―với các Chính-Đảng và các
Giáo-Hội sống dưới Chính-Thể Việt-Nam Cộng-Hòa―nói chung là Việt-Nam Cộng-Hòa.
*
NB: Bọn đó đã bị chính cựu thiếu-tá Liên Thành
công-khai kết án: xin mời bấm link sau đây:
Đoạn video được ghi-chú rõ:
“Liên Thành: LM Trần Hữu Thanh
Chủ Tịch Phong Trào Chống Tham Nhũng
chống VNCH tại Sài Gòn 1974
Chính Khí Việt ngày 17-07-2010”
“LM Trần Hữu Thanh chủ động dấn thân vào chính trị:
đó là năm 1974 ở Sài-gòn.
LM Trần Hữu Thanh cùng với 301 Linh Mục khác
ký tuyên ngôn lập Ủy Ban Chống Tham Nhũng,
chống VNCH”
*
Tóm lại, nếu vì một lý-do nào đó mà
phải gán riêng cho đích-danh một số người nào đó là “thủ-phạm chính” quấy-rối
an-ninh trật-tự công-cộng nhất, lũng-đoạn tình-hình chính-trị quốc-gia nhất,
gây cho tinh-thần dân-chúng hoang-mang nhất, khiến cho ý-chí chống-Cộng của
chiến-sĩ giao-động nhất, vào mấy năm cuối-cùng của Chiến-Tranh Việt-Nam―tức là
đâm một nhát dao chí-tử vào Việt-Nam Cộng-Hòa khi đang hấp-hối―thì số người đó
rõ-ràng, không thể chối-cãi được, phải là thành-phần cực-đoan trong Nhóm
“Giáo-Dân Tranh-Đấu”―các linh-mục cộng-sản nằm vùng, tay sai và thân-Cộng, cùng
với Ban Lãnh-Đạo của “Phong-Trào Chống Tham-Nhũng”―dù là một bộ-phận nhỏ―của giới
tín-đồ Kitô-Giáo Miền Nam Việt-Nam.
Có kẻ lập-luận rằng chính Phật-Giáo tranh-đấu lật đổ Đệ Nhất Cộng Hòa
rồi lại tiếp-tục tranh-dấu dưới thời Đệ Nhị Cộng Hòa, đưa đến mất nước vào Ngày
30 Tháng 4 Năm 1975 [sic].
Lê Xuân Nhuận đã sưu-tập được một số sự-kiện & tài-liệu lịch-sử,
chứng-minh rằng vụ sụp đổ của VNCH vào Tháng Tư Đen năm 1975 không phải là do
Phật Giáo gây nên, mà do một thế-lực khác, không chỉ ở trong phạm-vi quốc-gia
mà cả ở trên bình-diện quốc-tế, suốt từ 1968 cho đến 1975 (không kể Do-Thái,
Trung-Cộng, Hoa-Kỳ).
Muốn biết chi-tiết xin mời đọc cuốn “Biến-Loạn
Miền Trung”.
GIÁO-HOÀNG PHAOLÔ VI
... Ngày 4-10-1965, Giáo Hoàng Paul VI viếng nước Mỹ.
Sau
chuyến đi cuả GH Paul VI, màu sắc ngoại giao
Roma rõ nét: liên
lạc trực tiếp với Hà Nội
và Trung Quốc. Hồng y IginoEugenio liên
lạc với đại diện VN ở Âu châu.
Hồng y Paolo
Bertoli qua trung gian người Pháp làm việc với Saigon và
Hà Nội.
Đại diện Vatican
ở Cambodia tiếp xúc với Việt-Cộng.
Học giả, luật gia, sử gia, hàng giáo phẩm, nhân
viên ngoại giao… đổ xô về Roma. GH
và ông Hồ Chí Minh trực tiếp trao đổi thư
từ...
(Xem
A)
Tóm
lại, lập trường của Vatican
rất rõ ràng: Cổ võ Hòa bình, chấm dứt chiến
tranh, quan
hệ tốt với chính quyền miền Bắc và Chính
phủ lâm thời miền Nam.
(Vũ
Ngọc Nhạ,
điệp-viên
cộng-sản trong Phủ Tổng-Thống VNCH)
còn
được Tòa thánh Vatican và Giáo hoàng Paulus VI
tặng bằng khen và Huy
chương "Vì hòa bình"
vào tháng 6 năm 1971 (trong lúc Nhạ đang ở tù
tại Côn Đảo). (Xem
C)
Tổng-Thống
Nguyễn Văn Thiệu đích-thân đi trực-tiếp
cầu-cứu với Giáo-Hội Kitô La-Mã, là một
trung-tâm quyền-lực chính-trị khác của
thế-giới. Tuy nhiên, Giáo-Hoàng Paul VI không
tiếp-kiến, dù Thiệu là một tổng-thống
của một quốc-gia có tỷ-số giáo-dân đông
thứ nhì tại lục-địa Á-Châu, mà cũng là
một con chiên...
Đã thế, Giáo-Hoàng còn
chỉ-trích Thiệu, lại còn tiếp-kiến cặp
Nguyễn Thị Bình và Xuân Thủy, Trưởng Phái-Đoàn
cộng-sản tại hòa-hội Paris... (Xem
D)
LÊ XUÂN NHUẬN
Tham-Khảo
Fw: [BaoQuoc] Fw: Tại sao Hồng Y Francis Spellman Muốn Dội Bom Nguyên Tử Xuống Việt Nam?
Sunday,
April 22, 2012 9:52 AM
From:
"Ba Pham"
To:
"Ái Võ" , "Alex Harrison"
, "Anh Ly" ,
"backydicu@gmail.com" , ...
Kính
chuyển tiếp.
PHVg
Tại
sao Hồng Y Francis Spellman Muốn Dội Bom Nguyên Tử
Xuống Việt Nam?
Cécilia Trần Thị Vĩnh-Tường 12/11/2010
... Giáo Hoàng Paul VI xung trận “Jamais plus la guerre”
…không
là anh em nếu không có lòng trắc ẩn…
Gìữa
một nước Mỹ tang tóc, đại ngươn soái “Ba
thước gươm, một cỗ nhung yên” thúc
ngựa xông vào vòng lửa đạn chính là giáo hoàng
Paul VI. Vừa nhậm chức GH tháng 6/1963, Paul VI chớp
mắt thấy tiêu tùng hai tổng thống Ki-tô Vatican
mất công gầy dựng: tháng 11-1963, TT Ngô Đình
Diệm và Kennedy chết thảm trong vũng máu bởi chính
tay người Mỹ. Từ đó, bên tai tiếng bom
rền vang hơn tiếng thánh ca. Giáo Hoàng Paul VI lo
lắng về việc Spellman thủ hai vai một lúc:
hồng y New York và tổng tuyên úy quân đội,
khiến thế giới suýt mấy lần đối
diện với thế chiến ba. GH đã cố nói
chuyện với Spellman nhiều lần, nhưng chỉ nói
với hai cái tai điếc đặc.
Ngày
4-10-1965, lần đầu tiên một giáo hoàng Vatican
viếng nước Mỹ vốn là đất của giáo
hội Tin Lành. Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc U Thant
và các viên chức cao cấp trong chính phủ ra đón GH
ở máy bay. Ngoại giao Roma cực kỳ tinh vi qua mắt
được cả thượng đế trên trời
lẫn loài nguời dưới thế: hai đại
diện Chúa: Paul VI và Spellman tươi cười cho
cả thế giới chụp hình...
Người
khách danh dự phải đến trụ sở Liên
Hiệp Quốc trước GH 30 phút là bà quả phụ
Jackie Kennedy. Bài diễn văn lịch sử dài
3354-chữ, GH
Paul VI dùng tiếng Pháp.
Mảnh dẻ như cây sậy Pascal trong cơn gió
cuồng bay, Paul VI dứt khoát:
Jamais
plus la guerre! Jamais plus la guerre!
Chiến
tranh!! Không!! Không bao giờ nữa!!..Chỉ hoà bình
mới soi sáng định mệnh nhân loại …Nếu
muốn là anh em, hãy bỏ khí giới xuống…Yêu người
sao được khi lăm lăm vũ khí trong tay! sẽ
không là anh em nếu không có lòng trắc ẩn…”
Lời
tuyên bố bung ra như bom 30 kilotons. Người thông
dịch toát mồ hôi, cà lăm không tin ở tai mình. 116
đại biểu các quốc gia nồng nhiệt đứng
dậy hoan hô, trừ đại biểu Albanie tẩy chay.
Buổi tối tại Yankee Stadium trước 90.000 người,
diễn văn 1460-chữ bằng tiếng Anh, Paul
VI nhắc “Peace/hòa bình” tới 28 lần,
như những thông điệp sau này của Đức
DaLai LaMa. Đức Lê Lợi, xong chiến tranh chống quân
Minh, cũng trả kiếm cho rùa thần. Không cần
chữ nghĩa dài dòng, bài học để lại đời
sau vẫn đúng như ngàn năm trước: mài gươm
cho sắc đánh giặc ngoài, xong việc binh đao,
phải coi dân là trọng.
“Hỡi
anh em! Ta có ba điều gửi lục địa trẻ
trung rạng rỡ này: Hãy yêu hoà bình! Hãy phục
vụ hòa bình! Ta mang tặng hồng y Spellman phiến đá
cậy từ đền thờ Saint Peter’s Basilica ở
Roma, hồng y hãy vì danh Chúa xây dựng một giáo hội
cho tương lai, trong Đức Tin và Đức Mến”
Một
trăm triệu người khắp thế giới nghe thông
điệp của vị chủ chăn Vatican qua TV. Người
Mỹ vỡ toang đón niềm vui. Cả nước
Mỹ mềm môi say thánh ý như say rượu nho. Mừng
nhất là các bà mẹ héo hon sửa soạn cho con
đăng lính đi VN hay qua Canada trốn lính, trong đó
có mẹ của James Carroll. Chỉ vài ngày sau, 100.000 người
khắp nước Mỹ nhảy múa mở đầu
“Phong Trào Hoà Bình.” Thu xếp lại bản đồ
thế giới, thông điệp cuả giáo hoàng rất rõ:
Vatican
muốn chiến tranh VN chấm dứt, nếu không, không
“đi” với Hoa Kỳ nữa.
Các
quốc gia đang lâm chiến nhẩy tango trên than hồng.
KGB, CIA, MI6 vồ lấy hai bài diễn văn, kính hiển
vi xét từng dấu phẩy dấu chấm. Washington bí
mật cho loan tin “Giáo hoàng không biết ngài nói gì”.
Sự thật thế nào?
1. GH biết/không biết
trận chiến toàn cầu đều là con cờ cuả
đế quốc vô hình Knights of Malta: bao giờ đạt
chỉ tiêu sản xuất bom đạn mới ngưng
chiến được
2. GH đã có mật ước
với một trong hai (hoặc cả hai) siêu cường
Liên Sô/Hoa Kỳ? 3. GH
Paul VI vẫn được coi là có khuynh hướng
cộng sản.
Khi còn là bộ trưởng ngoại giao Vatican, ông đã
từ chối chiếc mũ hồng y GH Pius XII ban, thà
nhận một nhỉệm sở xa xôi với chức giám
mục khiêm nhường, để phản đối chính
sách thân Phát Xít của GH Pius XII. Giáo hoàng Paul VI mang
niềm bí ẩn ấy về cõi thiên đàng và chỉ nói
riêng với Chúa, vị hôn phu 2000 tuổi...
Sau
chuyến đi cuả GH Paul VI, màu sắc ngoại giao
Roma rõ nét: liên
lạc trực tiếp với Hà Nội
và Trung Quốc. Hồng y IginoEugenio liên
lạc với đại diện VN ở Âu châu.
Hồng y Paolo
Bertoli qua trung gian người Pháp làm việc với Saigon và
Hà Nội.
Đại diện Vatican
ở Cambodia tiếp xúc với Việt-Cộng.
Học giả, luật gia, sử gia, hàng giáo phẩm, nhân
viên ngoại giao… đổ xô về Roma. GH
và ông Hồ Chí Minh trực tiếp trao đổi thư
từ...
Dư
luận miền Nam VN ghét oan cái đám phản chiến
tốt đen Jane Fonda, John Kerry, trong khi GH
Paul VI, McNamara, McBundy là phản chiến thượng
hạng.
Người Việt vỗ tay nhạo báng trên xác chết
người Việt mấy chục năm nay mà không
biết (hay không dám chỉ đích danh) kẻ mang chiến
tranh choàng lên cổ người Việt là HY Spellman. Có
đọc một nhận xét từ người ngoại
quốc “Nguời Việt khi không đánh ngoại xâm thì
chúng nó đánh nhau”.Chúng nó đánh nhau!
Một tâm
thức chắc chắn được tình báo các nước
đối tác nghiên cứu/khai thác, khi cần áp dụng
với giá rẻ mạt hay hứa hẹn tầm phào là
tạo ngay đuơc chia rẽ, hỗn loạn. Lời
thề kinh hãi cuả dòng Jesuits/dòng Tên gặp đất
tốt, khỏi bón phân phiếc chi hết… “Con đã
được đào tạo để lẳng lặng
gieo mầm mống tị hiềm và thù ghét giữa
cộng đồng, địa phương, quốc gia
đang hòa bình, và khích bác chúng gây đổ máu, lôi kéo
chúng giao chiến với nhau, và gây ra khởi loạn hay
nội chiến ở các quốc gia…”...
Cécilia
Trần Thị Vĩnh-Tường (Mùa Vu Lan 2010)
Lương
Tâm Công Giáo:
...
đường lối của Vatican thông qua Giáo
Hoàng Phao lồ Đệ lục
là kêu gọi hòa bình, chấm dứt chiến tranh, gián
tiếp chống lại quan điểm
của người Mỹ và chính quyền VNCH. Năm
1968, Giáo Hoàng Phao lồ Đệ lục đã lập ra ngày
Quốc tế Hòa Bình. Ngài còn kêu gọi Hòa Bình
bằng thương thuyết tại Việt Nam và trung
Đông.
Cụ
thể hơn, Ngay từ 2/5/1967 khi chiến tranh leo thang
đến đỉnh điểm của nó, GH Phaolô VI
đã đưa ra đề nghị và giải pháp: “Phải
chấm dứt các cuộc oanh tạc trên lãnh thổ
Bắc Việt và đồng thời cũng phải
chấm dứt những cuộc xâm nhập vũ khí và
vật liệu chiến tranh vào miền Nam.”
Trong
Hội nghị thường niên
của các giám mục Việt Nam, nhân
dịp này, Giáo Hoàng Phao Lồ đệ lục đã
gửi một tâm thư đề ngày 13-2-1965 mà Ngài
bầy tỏ như sau đã được đăng trên
tờ Xây Dựng: “Tuy xa cách ngàn dậm mà lòng
vẫn gần gũi và theo sát những biến cố
dồn dập ngày nay đang rung chuyển và gây nên
cảnh thịt rơi máu đổ trên mảnh đất
Việt Nam.”
Và
Ngài hứa tìm cách đưa lại Hòa bình cho Việt
Nam.
Ngài
viết tiếp, “Ta đã cố gắng dùng
đường lối kín đáo để tiếp xúc
với nhiều nhân vật đại diện trong các chính
phủ, mục đích là thành khẩn xin các vị đó
tìm lấy một giải pháp danh dự, nhưng hòa bình
cho các vấn đề khó khăn quốc tế đang làm
ta lo nghĩ”.
Tóm
lại, lập trường của Vatican
rất rõ ràng: Cổ võ Hòa bình, chấm dứt chiến
tranh, quan hệ tốt với chính
quyền miền Bắc và Chính phủ lâm thời miền
Nam. Sau 30 tháng tư, yêu cầu các Giám Mục
ở lại, hợp tác với chính quyền mới theo chính
sách Hòa giải
Dân tộc. Trong tinh thần đó, rất nhiều bài
báo, truyện ngắn trong các tờ tập san Đất
Nước, Hành Trình,
Trình Bầy cổ võ cho Hòa
Bình, chống chiến tranh và Hòa Hợp
Hòa Giải. Lý Chánh Trung,
một trong những thành phần trí thức cực đoan
viết rằng: Tôi cổ võ cho Hòa Bình vì tôi là người
Việt Nam và hơn thế nữa, tôi là một người
công giáo.
Lý
do thứ ba là sau khi Hiệp Định Paris được
ký kết ngày 27/1/1973, miền Bắc đã nghĩ ngay
đến việc thiết lập một tòa đại
sứ của họ tại Ý Đại Lợi tại
số 156, đường Bravetta. Tòa đại sứ này
chắc hẳn không nhằm lợi thế chính trị
đem lại từ nước Ý cho bằng nhận
được sự ủng hộ của Vatican.
Và
trên thực tế, Giáo Hoàng Phao Lô
Đệ lục đã tiếp kiến phái đoàn
của MTGPMN Việt Nam.
...
Theo linh mục Cao Văn Luận cho biết Hồng y Casaloli,
phụ trách ngoại giao của Tòa thánh nhờ linh mục
Luận về nước nhắn nhủ lại: yêu
cầu các giám mục Việt Nam không di tản, chuẩn
bị sống chung và tìm cách hợp tác
với chính quyền mới một khi tình thế
đã thay đổi.
Và
việc bổ nhiệm Giám mục Nguyễn
Văn Thuận sau này thật ra nằm trong tinh
thần sống chung và hợp tác với chính quyền
mới. Bằng chứng là ở Nhatrang,
Giám mục Thuận đã khôn ngoan giao hảo với chính
quyền mới và đã được họ cho phép
mở lại chủng viện để sinh hoạt bình thường.
Trở lên
Wikipedia
(Vũ
Ngọc Nhạ) còn được Tòa thánh Vatican và Giáo hoàng Paulus VI
tặng bằng khen và Huy
chương "Vì hòa bình"
vào tháng 6 năm 1971.
Có
kẻ lập-luận rằng chính Phật-Giáo tranh-đấu
lật đổ Đệ Nhất Cộng Hòa rồi
lại tiếp-tục tranh-dấu dưới thời Đệ
Nhị Cộng Hòa, đưa đến mất nước
vào Ngày 30 Tháng 4 Năm 1975 [sic].
Lê Xuân Nhuận đã sưu-tập được một
số sự-kiện & tài-liệu lịch-sử,
chứng-minh rằng vụ sụp đổ của VNCH vào
Tháng Tư Đen năm 1975 không phải là do Phật Giáo
gây nên, mà do một thế-lực khác, không chỉ ở
trong phạm-vi quốc-gia mà cả ở trên bình-diện
quốc-tế, suốt từ 1968 cho đến 1975 (không
kể Do-Thái, Trung-Cộng, Hoa-Kỳ).
Muốn biết chi-tiết xin mời đọc cuốn “Biến-Loạn
Miền Trung”.
Sách
dày 500 trang
khổ
5.5”x8.5”
Tại
Nam Cali:
Nhà
sách Tự Lực
Tại
Bắc Cali:
Các
Nhà sách Hương Giang & Tự
Do
Trong
Hoa-Kỳ:
Gửi
20USD (bao luôn cước-phí) đến
Loc
Le
1707
Webster Street
Alameda,
CA 94501-2135
No comments:
Post a Comment