Wednesday, August 17, 2016
VĨNH KHANH * TRUYỆN TÙ CỘNG SẢN
Câu chuyện của một người tù cải tạo
Câu chuyện của một người tù cải tạo
Lời nói đầu:
– “Lý do gì anh đã trốn thoát ra ở bên ngoài 11 năm rồi, bây giờ mới trở vào tự thú?”
Mgười Mỹ đen phỏng vấn Phạm Văn Thức nói thẳng với anh:
Lời nói đầu:
Ngày 15 tháng 12 năm 2007 vừa qua, sau
hơn 30 năm lưu lạc sống rãi rác khắp nơi, nhóm tù cải tạo 520 Xuyên Mộc
mới có cơ hội qui tụ về thành phố Houston tham dự buổi họp mặt lần đầu
tiên. Tôi không phải là thành viên trong nhóm, nhưng hân hạnh được tham
dự buổi họp mặt cảm động và tràn đầy tình huynh đệ này. Tôi gặp lại một
số bạn cũ cũng như được biết thêm nhiều anh em mới trong dịp này mà tên
mỗi người đều kèm theo một biệt danh dí dỏm như: Hoàng “xà lim”, Hối
“Hilton”, Dũng “Sún”, Hải “Vờ”, Toàn “chí chóe”… Đặc biệt hơn hết trong
số người tôi được giới thiệu ngày hôm đó là anh Phạm Văn Thức. Sau đó
được nghe chính anh và những bạn bè trong nhóm kể lại câu chuyện độc đáo
có một không hai của anh. Thú thật tôi bị cuốn hút vào câu chuyện hấp
dẫn này ngay từ đầu nên đã xin phép anh Phạm Văn Thức được viết lại nó.
Mời quý vị theo dõi câu chuyện độc đáo sau đây của người tù cải tạo nhóm
520 Xuyên Mộc có tên Phạm Văn Thức mà các bạn tù đã thân thương đặt cho
anh cái biệt danh là: Thức ” trốn trại”.
Kể từ sau ngày trình diện tập trung cải tạo, các sĩ quan chế độc cũ đã
phải trãi qua nhiều trại tập trung khác nhau như Trảng Lớn, Đồng Pan, Cà
Tum, Long Thành, Suối Máu …v…v… nhưng đến năm 1979, một đợt chuyển trại
nữa lại xảy ra. Trong đợt này có 520 sĩ quan cấp úy QLVNCH bị chuyển về
trại Xuyên Mộc thuộc Bà Rịa, Vũng Tàu. Trại Xuyên Mộc này từ trước chỉ
nhốt tù hình sự, nên nhóm tù sĩ quan cải tạo bị chuyển về đây cũng phải
chịu chung sự quản chế rất khắc khe, tàn ác giống như qui chế dành cho
các tội phạm hình sự. Mọi qui chế ở trại Xuyên Mộc này đều khó khăn hơn
nhiều so với các trại cải tạo mà họ đã ở qua trước đây. Bọn Công An quản
giáo trại vì quen thói đánh đập tù hình sự, nên cũng đánh đập tù sĩ
quan cải tạo rất dã man mỗi khi có ai phạm vào nội qui của trại, dù là
những lỗi rất nhỏ. Những hình phạt khắc nghiệt như cùm giò, nhốt xà lim
bỏ đói cả tháng trời… hoặc hình ảnh cả đám cán bộ quản giáo xúm lại đánh
hội đồng một anh tù cải tạo vô phúc nào đó là hình ảnh xảy ra hàng
ngày… Chính những điều này đã dấy lên sự bất mãn trong nhóm tù cải tạo
520 Xuyên Mộc và càng làm rõ nét thêm sự gian trá láo khoét của cái
chính sách gọi là “Khoan Hồng, Nhân Đạo” mà chính quyền cộng sản lúc nào
cũng rêu rao.
Một số tù bắt đầu tổ chức trốn trại. Khoảng giữa năm 1979, một vụ tổ
chức cướp súng trốn trại nổi tiếng xảy ra ở trại Xuyên Mộc. Tham gia
trong kế hoạch cướp súng trốn trại này gồm có 5 người là: Thiên, Tài,
Thịnh, Đức và Khanh, trong đó người chỉ huy là Thiên, một sĩ quan Trinh
Sát Dù. Sau nhiều lần bàn bạc cũng như theo dõi những thói quen của các
vệ binh, cán bộ mỗi ngày khi ra lao động bên ngoài. Tổ chức này quyết
định sẽ hành động vào lúc hết giờ lao động trong một ngày đã định sẵn,
khi các tù cải tạo sắp xếp chuẩn bị trở về trại. Nhiệm vụ được phân công
rõ ràng cho từng người, ai có nhiệm vụ nấy. Nhưng đúng là “Người tính
không bằng Trời tính”. Câu nói đó xem ra không phải là một câu nói vô
duyên cớ…
Đến ngay lúc sắp ra tay hành động thì một trục trặc nhỏ xảy ra đã làm đảo lộn hết mọi việc. Như mọi người đã bàn tính từ trước, nếu gặp trục trặc xảy ra trái với dự trù thì kế hoạch phải hủy bỏ ngay lập tức, chờ cơ hội khác an toàn hơn. Sau khi mọi người trong tổ chức nhận được dấu hiệu huỷ bỏ kế hoạch, ai nấy yên chí xếp hàng đi về trại, thì Thiên người đứng đầu tổ chức, vào một phút chủ quan nào đó, hoặc có thể anh ta thấy tiếc cho một cơ hội khó có được lần thứ hai… đã quyết định tấn công và cướp súng của một vệ binh gần đó. Trong lúc hai bên còn đang dằng co thì Thiên bị các vệ binh khác xông lên bắn chết tại chỗ, ngay cả tên vệ binh bị Thiên cướp súng cũng trúng đạn bị thương.
Đến ngay lúc sắp ra tay hành động thì một trục trặc nhỏ xảy ra đã làm đảo lộn hết mọi việc. Như mọi người đã bàn tính từ trước, nếu gặp trục trặc xảy ra trái với dự trù thì kế hoạch phải hủy bỏ ngay lập tức, chờ cơ hội khác an toàn hơn. Sau khi mọi người trong tổ chức nhận được dấu hiệu huỷ bỏ kế hoạch, ai nấy yên chí xếp hàng đi về trại, thì Thiên người đứng đầu tổ chức, vào một phút chủ quan nào đó, hoặc có thể anh ta thấy tiếc cho một cơ hội khó có được lần thứ hai… đã quyết định tấn công và cướp súng của một vệ binh gần đó. Trong lúc hai bên còn đang dằng co thì Thiên bị các vệ binh khác xông lên bắn chết tại chỗ, ngay cả tên vệ binh bị Thiên cướp súng cũng trúng đạn bị thương.
Tài ở gần đó bỏ chạy cũng bị bắn chết luôn sau đó. Ba người còn lại
trong tổ chức là Thịnh, Đức và Khanh lúc bấy giờ đang ở phía sau hoàn
toàn không chuẩn bị gì cho việc này cả, nên không ai trở tay kịp hoặc
giúp gì được cho Thiên và Tài. Lúc đó anh nào cũng đang mang trong người
một ruột tượng đựng cơm phơi khô, bất thình lình thấy Thiên ra tay hành
động… rồi súng nổ… rồi Thiên và Tài bị bắn ngã… sự việc xảy ra nhanh
quá! Nghĩ là mọi việc đã bị đổ bể, ở lại thế nào cũng sẽ bị xét bắt nên
ba người cũng vội bung ra chạy… Quân vệ binh cộng sản truy lùng ngay sau
đó… Kết quả Thịnh và Đức bị bắt lại và bị đánh thê thảm. Chỉ có Khanh
may mắn chạy thoát được. Vụ trốn trại này không những làm xôn xao tất cả
đám tù cải tạo còn lại, mà cả ban chỉ huy trại và quản giáo cũng xôn
xao, rúng động không kém. Ngay sau đó, hệ thống quản lý tù càng siết
chặt chẻ hơn… nội qui trại đưa ra càng khó khăn hơn và kỷ luật mới được
ban hành để đối phó với bất cứ ai phạm nội qui lại càng tàn bạo hơn
trước nhiều…. Tuy thế cũng không làm cho các tù nhân cải tạo sợ hải. Ít
ra là đối với một người: Đó là anh Phạm Văn Thức.
Anh Phạm Văn Thức trước đây là Thiếu Úy Phân Chi Khu Trưởng đơn vị đóng
tại tỉnh Long An. Anh là người miền Bắc di cư, hiền lành, ít nói và là
một tín đồ Công Giáo rất ngoan đạo. Nhưng không ai ngờ rằng với bề ngoài
hiền lành, ít nói của anh lại ẩn tàng một ý chí sắt đá với những quyết
định táo bạo khó có ai bì được. Sau khi từ trại Suối Máu bị chuyển về
Xuyên Mộc, dưới sự quản thúc tàn bạo của đám Công An đã đối xử với anh
và các bạn tù cải tạo như thú vật… thì anh đã nảy ra ý định trốn trại.
Tuy nhiên anh chưa kịp thực hiện kế hoạch của mình thì đã xảy ra vụ tổ
chức 5 người kể trên cướp súng vượt trại thất bại trước rồi. Việc này
xảy ra bắt buộc anh phải tạm thời đình hoãn kế hoạch của mình lại, chờ
mọi việc yên ổn, lắng dịu xuống hết rồi mới tính được.
Qua năm 1980, chuyện 5 người âm mưu cướp súng trốn trại tương đối đã êm.
Mọi sinh hoạt trại trở lại bình thường. Lúc bấy giờ vào mùa thu hoạch
bắp nên tất cả công tác lao động của trại chủ yếu là làm việc trên những
rẫy bắp nên các vệ binh đi theo canh gác tù chỉ tập trung ở những rẫy
bắp. Lợi dụng cơ hội này, Phạm Văn Thức quyết định thực hiện ý định của
mình. Anh nhận thấy nếu việc trốn trại có nhiều người tham dự sẽ không
được an toàn cho lắm. Tuy rằng với có nhiều người thì sẽ có sự giúp đỡ
lẩn nhau trong khi hành động cũng như trên bước đường trốn tránh trong
rừng, nhưng đồng thời kế hoạch cũng dễ bị vỡ nếu mọi việc không hoàn
toàn ăn khớp với nhau, như trường hợp của 5 người bạn tù trước đây. Do
đó Phạm Văn Thức quyết định thực hiện việc đào thoát một mình và không
bàn với ai về ý định của mình cả. Theo như sự tính toán của anh, trường
hợp nếu bị bắt lại thì không còn gì để nói, phải chấp nhận mọi hậu quả
thôi.
Còn nếu trốn thoát được thì chỉ cần vài ba ngày lội trong rừng là có thể
thoát ra được do thế việc chuẩn bị lương thực, nước uống không cần
thiết lắm. Vấn đề mưu sinh thoát hiểm trong rừng 2, 3 ngày không phải là
một điều khó khăn lắm đối với một sĩ quan, nhất là điều này anh đã được
huấn luyện từ trước. Kinh nghiệm anh đã thấy qua từ vài âm mưu trốn
trại bị lộ trước đây ở các trại khác cũng chỉ vì bị cán bộ quản giáo
phát giác ra việc dự trử cơm phơi khô để dành… Nên anh quyết định không
chuẩn bị gì cả cho phần lương thực. Mỗi buổi sáng đi ra lao động, chỉ
cần chút ít thức ăn mang theo trong ngày, bình nước nhỏ và con dao được
phát cho việc lao động là đủ. Với tư thế lúc nào cũng sẵn sàng như thế
anh kiên nhẩn chờ đợi thời cơ, ngày này không được thì chờ qua ngày
khác… Mọi sinh hoạt trong trại vẫn đều đều như bình thường, không ai mảy
may nghi ngờ gì đến anh cả.
Cuối cùng rồi thời cơ cũng đến. Ba ngày trước, lúc được giao công tác
thu hoạch trên rẫy bắp. Mọi người ai nấy đều lui cui bận rộn với công
việc, 2 tên vệ binh đi theo canh giữ thì đang ngồi tán gẫu với một tên
vệ binh khác ở phía xa. Thừa lúc không ai chú ý tới, Phạm Văn Thức lợi
dụng địa thế rậm rạp và thân cây bắp cao che khuất lủi nhanh vào sâu bên
trong và biến mất ngay.
Sau khi băng qua mấy rẫy bắp và vào được trong rừng, Phạm Văn Thức cố
gắng đi càng xa càng tốt khỏi vùng ảnh hưởng của trại Xuyên Mộc. Sau đó
anh nhắm hướng đi theo kế hoạch đã tính từ trước. Anh không đi về hướng
Bà Rịa, Vũng Tàu mặc dù từ trại Xuyên Mộc đi về Bà Rịa gần hơn; ngược
lại anh đã quyết định chọn con đường về hướng Gia Kiệm, Đồng Nai xa hơn
để đi. Có hai lý do khiến anh chọn con đường dài hơn, đồng nghĩa với khó
khăn hơn vì: Thứ nhất anh có thể đánh lạc hướng truy đuổi của các cán
bộ vệ binh Cộng Sản, ít ai ngờ anh sẽ chọn con đường xa hơn sau khi trốn
trại. Thứ hai ở Bà Rịa,Vũng Tàu anh không có ai là thân nhân quen biết
để có thể giúp đỡ. Còn nếu đến được Gia Kiệm, thì anh có ông anh đang ở
đó, sẽ nhờ ông anh này giúp đỡ cho bước kế tiếp…
Đã quyết định như thế từ trước, nên anh cứ căn cứ vào điểm chuẩn của núi
Chứa Chan từ xa lầm lủi đi. Ban ngày thì cứ nhắm hướng mà đi. Đêm đến
thì anh tìm cách leo lên một nhánh cây lớn để tránh thú dữ, ngủ chút
đỉnh lấy sức chờ trời vừa sáng lại leo xuống tiếp tục cuộc hành trình
đào thoát… Một ít lương thực mang theo cho ngày lao động hôm trước và
mấy trái bắp bẻ lúc còn trong rẫy cũng giúp anh thoát được cơn đói hành
hạ. Tuy nhiên đầu óc lúc nào cũng căng thẳng, mệt đến lã người nhưng anh
không dám nghỉ ngơi lâu vì chỉ sợ mệt quá ngủ quên luôn… Chỉ khi nào
mệt lắm anh mới dám tìm bụi rậm ngồi nghỉ ngơi chút đỉnh lấy lại sức,
còn lại thì anh cứ bươn bả đi miết. Vừa đi anh vừa cầu nguyện và tự nhắc
nhở để cổ vũ tinh thần: “Phạm Văn Thức ơi! Mày phải cố gắng lên. Không
được nghỉ… Mày đã trốn thì phải trốn cho thoát, thà là chết trong rừng,
đừng để bị bắt lại, chúng nó sẽ hành hạ mày thê thảm còn hơn chết nữa….
Chúng nó đang đuổi theo phía sau đó.
Không được nghỉ… Cố gắng lên… Cố gắng lên. Qua khỏi khu rừng này là an
toàn rồi…” Cứ thế anh vừa len lỏi đi, vừa tự nhắc nhở, khuyến khích mình
như thế. Gặp khu gai góc thì dùng dao phát quang xuyên qua hoặc tìm
cách né tránh rồi cố gắng giữ theo hướng cũ để khỏi bị lệch quá xa. Một
đôi khi gặp suối thì dò tìm chỗ cạn để vượt qua, rửa vội mặt mày cho
tỉnh người lại rồi cứ thế vượt suối đi tiếp… cuối cùng sau 3 ngày 2 đêm
thì anh đã sắp ra khỏi rừng, gặp đường quốc lộ rồi.
Núp vào một bụi cây rậm rạp, Phạm văn Thức hướng mắt về phía bìa rừng,
cẩn thận quan sát kỷ động tịnh chung quanh. Từ nơi đây, thỉnh thoảng anh
đã có thể nghe tiếng xe cộ chạy ngang qua nên đoán chắc phía trước là
quốc lộ. Theo như vị trí hiện tại chỗ anh đang đứng so sánh với bóng
dáng của núi Chứa Chan ở phía trước mặt, thì anh đoán mình còn cách Gia
Kiệm, điểm anh muốn đến, không bao xa. Nghe tiếng xe cộ thỉnh thoảng
vọng lại từ phía ngoài bìa rừng lòng anh mừng khấp khởi, tuy nhiên anh
không dám mạo hiểm đi ra quốc lộ vào lúc này. Trời hãy còn sáng lắm.
Nhìn lại quần áo trên người đầy bụi bậm, một vài nơi bị gai góc, cây cỏ
móc rách nát te tua lòi cả da thịt bên trong, anh nhủ thầm: “Với bộ dạng
thê thảm như vậy, rủi có ai bắt gặp cũng dễ bị nghi ngờ!”. Anh kiên
nhẩn ngồi dựa người vào trong một góc khuất của bụi rậm nghỉ ngơi chờ
mặt trời lặn. Ý nghĩ sắp gặp được người thân và thoát khỏi cảnh tù đày
làm anh nôn nao trong dạ, chỉ thầm mong cho mặt trời lặn thật sớm để
tiếp tục đi.
******
Khi Phạm Văn Thức lần mò tìm được tới nhà người anh ở Gia Kiệm thì trời
đã khuya rồi. Trên đường đi, anh tránh né hết những bóng dáng người di
động từ xa nên không ai phát giác ra anh cả. Khỏi phải diễn tả, chúng ta
cũng có thể đoán được là ông anh của Phạm Văn Thức sửng sốt như thế nào
khi biết được em mình trốn trại trở về. Sau khi trao đổi với nhau vài
câu, Phạm Văn Thức cho biết là không thể ở lại đây vì không an toàn. Anh
nhờ ông anh cấp tốc chở về Hố Nai nơi anh có một bà cô đang sống. Ở đó
an toàn hơn vì ở Hố Nai không ai biết gì về anh trước đây hết. Thế là
sau khi tắm rửa, thay quần áo, ăn uống qua loa lấy lại sức, hai anh em
chở nhau trên một chiếc Honda lên đường đi ngay trong đêm khuya về Hố
Nai.
Như chúng ta đã biết, Hố Nai là một xứ đạo được lập ra sau khi phong
trào di cư từ miền Bắc vào Nam năm 1954. Cư dân ở đây hầu hết theo đạo
Công Giáo, rất sùng đạo và đặc biệt có tinh thần đoàn kết rất cao. Ngay
cả sau năm 1975, khi cộng sản nắm chính quyền cũng gặp rất nhiều khó
khăn trong việc cai quản và áp đặt chính sách lên xứ đạo nổi tiếng này.
Chính nhờ thế ở tại nhà bà cô, Phạm Văn Thức cảm thấy rất an toàn. Không
một ai thắc mắc, để ý gì đến anh hết. Lúc bấy giờ vợ con của anh vẫn
còn ở với gia đình bên vợ tại Long An. Anh dặn người anh và bà cô tạm
thời không cho vợ con anh biết tin, vì chắc chắn sau khi phát giác anh
trốn trại, họ sẽ báo về địa phương truy lùng anh. Cứ kiên nhẩn đợi mọi
chuyện lắng dịu đâu đó rồi sẽ cho gia đình biết sau cũng không muộn.
Phạm Văn Thức ở nhà bà cô được hơn 2 tháng, mọi việc vẫn yên ắng, thuận
lợi. Lúc đó anh mới nhờ người báo tin cho vợ con ở Long An lên Hố Nai
gặp mặt.
Vào thời điểm này phong trào vượt biên đã rầm rộ lắm rồi. Gia đình bàn
với nhau là trường hợp của anh không thể ở lại VN được, bằng mọi cách
phải cho anh vượt biên ra khỏi VN. Nhưng trong khi chờ đợi tìm được
đường dây tổ chức vượt biên thì cũng phải kiếm việc gì làm để sống chứ
đâu thể ở mãi nhà bà cô được. Cũng may lúc đó có một gia đình người quen
đang làm rẫy ở khu kinh tế mới Cây Gáo, Trảng Bom. Gia đình này sẵn
lòng giúp đỡ và khuyên anh nên về ở chung với họ làm rẫy trong khi tìm
đường vượt biên. Vùng Cây Gáo lúc bấy giờ là một vùng mới khai phá, cư
dân hầu như từ khắp nơi đổ về đây lập nghiệp, sống chủ yếu bằng nghề làm
rẫy. Không ai biết quá khứ của ai và cũng chẳng ai thắc mắc gì ai cả.
Ngay chính quyền địa phương cũng rất dễ dãi với mọi người vì họ đang có
chiến dịch khuyến khích người dân về vùng này khai phá, trồng trọt tăng
gia sản xuất thêm…
Nơi đây đúng là một nơi lý tưởng để Phạm Văn Thức ẩn thân trong khi chờ
đợi vượt biên. Thế là anh bảo vợ con tạm thời ở lại Long An, còn một
mình anh đi lên khu kinh tế mới Cây Gáo tá túc ở nhà người quen tốt bụng
này, ngày ngày vác cuốc ra rẫy làm lụng che mắt thiên hạ. Trong khoảng
thời gian này, anh dò tìm mua được một giấy “Chứng Minh Nhân Dân” giả
với một tên họ khác. Nhớ thế chính quyền địa phương ở Cây Gáo, Trảng Bom
cũng không thắc mắc gì về anh, mọi sự đi lại của anh nhờ thế cũng dễ
dàng.
Kéo dài như thế cũng hơn năm trời, anh vừa tiếp tục làm rẫy vừa để ý tìm
kiếm đường dây vượt biên. Cuối cùng có người giới thiệu anh với một chủ
ghe và cũng là người tổ chức. Sau nhiều lần đi lại tìm hiểu kế hoạch…
anh đóng tiền cho chủ ghe và chờ đợi ngày xuất phát. Tuy nhiên chuyến
này anh đã bị gạt! Đến ngày xuất phát, chủ ghe âm thầm ra đi bỏ anh lại
không thông báo tiếng nào cả. Trời bất dung gian, chuyến vượt biên đó
cuối cùng bị đổ bể. Người chủ ghe bị Công An bắn chết còn tất cả những
người tham gia đều bị bắt lại hết… cũng may, nếu anh tham dự trong
chuyến này thì cũng bị bắt luôn rồi. Thật đúng là số Trời! Không ai có
thể nói trước được. Sau lần bị gạt này, tiền bạc mất hết, Phạm Văn Thức
không còn đủ khả năng tham gia vào một chuyến vượt biên nào nữa.
Anh đành bàn với vợ con gom góp mọi thứ lên khu kinh tế mới Cây Gáo,
Trảng Bom an phận làm ăn sinh sống. Gia đình anh tiếp tục làm rẫy thêm
một thời gian nữa, sau đó tìm được một việc khác tương đối đỡ hơn: Đó là
nghề đi bán và bỏ mối nước mắm lẻ. Tuy nghề này cũng vất vả, chủ yếu
chỉ lấy công làm lời, nhưng nhờ tính cần cù nhẫn nại, chịu khó chìu
khách hàng… nên mối quen càng ngày càng đông, gia đình anh nhờ thế cũng
đỡ vất vả hơn trước.
Năm 1989, chính quyền địa phương Cây Gáo, Trảng Bom có chính sánh cứu
xét cho những người địa phương ở “lậu” vào hộ khẩu thường trú. Nhưng
muốn được cứu xét người đó phải chứng minh được là mình thuộc diện lao
động sản xuất… Theo lời anh Phạm Văn Thức kể lại thì lúc đó gia đình anh
không còn làm rẫy nữa mà chuyên hẳn về nghề bán nước mắm lẻ. Công việc
này chính quyền địa phương coi như không hợp lệ trong việc cứu xét vào
hộ khẩu? Nhưng có lẽ nhờ gia đình anh thường ngày đối xử với bà con xóm
giềng rất tốt nên ai nấy đều thương mến. Biết được chuyện khó của anh,
một người láng giềng tên Long trước đây là Thượng Sĩ QLVNCH thuộc sư
đoàn 5 bộ binh đã giúp cho anh đứng tên đất rẫy của mình để anh có thể
chứng minh được với chính quyền địa phương gia đình anh là một gia đình
thuộc diện lao động sản xuất… Nhờ thế gia đình anh mới được cho vào hộ
khẩu. Mãi tới bây giờ Pham Văn Thức vẫn nhớ tới cái ơn giúp đỡ của ông
Thượng Sĩ Long tốt bụng này. (Như chúng đã biết, sau 1975, chính quyền
cộng sản áp đặt ra chế độ hộ khẩu như một hình thức kiểm soát người dân
về nhiều mặt. Những người không có hộ khẩu thường trú sẽ gặp rất nhiều
khó khăn đối với chính quyền địa phương. Ở vào trường hợp những người
như anh Phạm Văn Thức, việc vào được hộ khẩu thường trú, cũng đồng nghĩa
với việc sống một cách an toàn, hợp pháp, khó có ai có thể truy lùng ra
gốc tích trốn trại của anh ngày trước). Từ đó anh và gia đình cứ an
phận ngày ngày tiếp tục chở nước mắm đi bỏ mối nuôi sống gia đình…
Nếu câu chuyện của anh Phạm Văn Thức chỉ có thế thì cũng chẳng có gì quá
đặc biệt. Chúng ta xem như anh đã thành công trong việc trốn trại, sử
dụng giấy tờ giả, tên giả và cuối cùng an phận sinh sống với gia đình ở
một địa phương khác không ai hay biết gì hết… Nếu chỉ có thế thì chúng
ta có thể chấm dứt ở đây. Tuy nhiên câu chuyện của anh còn nhiều điều ly
kỳ và phần kế tiếp mới chính là phần độc đáo, có một không hai trong
cuộc đời của người tù nhóm 520 Xuyên Mộc có tên Phạm Văn Thức này. Mời
quý vị theo dõi tiếp…
******
Năm 1990 khi chương trình định cư nhân đạo HO của chính phủ Mỹ đưa ra,
Phạm Văn Thức lúc đó đang ngày ngày chở nước mắm bỏ mối ở vùng kinh tế
mới Cây Gáo, Trảng Bom nên hoàn toàn không hay biết gì cả. Đến khi một
người bạn thân của anh thời còn học trung học là Nguyễn Anh Tuấn (hiện
đang định cư tại Lafayette, Louisiana) nhắn tin lên báo cho anh biết về
chương trình này… Nguyễn Anh Tuấn cũng cho biết là mình đã nộp đơn xong
và đang chờ phái đoàn Mỹ phỏng vấn. Anh bạn này thúc dục Phạm Văn Thức
nên lo thủ tục cần thiết và nộp đơn sớm để được phỏng vấn sớm…
Tuy nhiên sau khi xem kỹ điều kiện thì Phạm Văn Thức không khỏi thất
vọng, vì điều kiện hợp lệ tiên quyết để được nhận đơn phỏng vấn cho
những cựu quân nhân, cán chính thuộc QLVNCH là phải chứng minh được mình
đã từng bị tù cải tạo trên 3 năm. Oái ăm thay trường hợp Phạm Văn Thức
hiện nay lại không có giấy tờ gì chứng minh được điều này, mặc dù anh đã
từng ở tù hơn 5 năm và qua mấy trại khác nhau trước khi trốn thoát khỏi
trại Xuyên Mộc! Ngoài ra tên và giấy tờ của anh hiện này đang xài là
tên giả! Anh không còn giấy tờ gì chứng minh được tên thật của mình.
Tuy thất vọng nhưng anh cũng cố điền đơn cầu may và khai thật hết tất cả
mọi việc trong phần khai lý lịch….Kết quả đơn của anh đưa vào không
được chấp nhận vì thiếu giấy tờ hợp lệ: Giấy ra trại chứng minh đã ở tù
cải tạo trên 3 năm! Nhìn bạn bè và người quen lần lượt được nhận đơn và
chờ gọi tên phỏng vấn làm anh càng nôn nóng và tuyệt vọng hơn. Đây là cơ
hội cuối cùng ngoài ra không còn cơ hội nào khác có thể cứu vớt anh và
gia đình thoát ra khỏi chế độ cộng sản hiện tại cả! Anh nản chí đến độ
không còn thiết gì đến làm ăn nữa. Mọi việc nhà đều giao phó cho vợ con
lo, còn anh thì cứ đi lên Saigon nghe ngóng tin tức, hy vọng có một cách
nào khác để được phái đoàn Mỹ phỏng vấn. Người ta bảo anh về trại cũ
xin giấy chứng nhận, nhưng đối với những người được thả về mà bị mất
giấy ra trại thì còn làm cách này được. Còn trường hợp trốn trại như anh
thì ai mà chứng nhận cho. Vả lại trở về trại cũ thì chẳng khác nào mang
thân vào miệng cọp, nguy hiểm quá…
Sau nhiều tháng đi lại, tốn kém đủ thứ mà không được gì cả. Phạm Văn
Thức buồn rầu lắm và càng đau lòng hơn khi nhìn thấy vợ con sống lam lũ ở
khu kinh tế mới. Nhận thấy mình cũng đã từng ở tù cải tạo 5 năm, chịu
biết bao nhiêu đắng cay cực khổ. Chỉ vì bất mãn chế độ đối xử hà khắc
của bọn công an trại… và vì muốn sống Tự Do nên anh mới phải trốn trại.
Để rồi hậu quả bây giờ không có gì chứng minh được là anh đã ở tù đủ
thời hạn yêu cầu để được cứu xét thì đau quá!! Không lẽ vợ con anh phải
suốt đời chịu sống lây lất ở khu kinh tế mới Cây Gáo này hoài sao? Rõ
ràng anh đã liên lụy đến gia đình, nếu không thì vợ con anh chắc cũng
được đi định cư ở Mỹ như những gia đình sĩ quan khác…Càng nghĩ Phạm Văn
Thức càng đau lòng thêm. Sau nhiều đêm trằn trọc không ngủ được, anh
quyết định trở lại trại cũ Xuyên Mộc trình diện và xin được ở tù lại.
Hy vọng sau khi hết hạn sẽ được thả về với một giấy chứng nhận ra trại.
Vì tương lai của gia đình vợ con, vì khát vọng được sống trong một xứ Tự
Do, thoát khỏi chế độ kềm kẹp của chế độ cộng sản hiện tại… anh đành đi
nước bài liều này, chấp nhận hết mọi hậu quả. Anh biết rằng đi nộp mạng
như thế, có thể họ sẽ bắt giữ anh lại nhốt triền miên không có ngày ra,
có thể bị gông cùm đánh đập và thậm chí có thể mất cả mạng nữa cũng
không biết chừng… Tuy nhiên thà là liều như vậy còn hy vọng có được một
tương lai sáng sủa cho gia đình, còn hơn là cứ sống lây lất mãi ở khu
kinh tế mới Cây Gáo này suốt đời! Anh tự an ủi miễn còn sống thì họ nhốt
mãi cũng phải có ngày ra. Lúc đó anh sẽ hợp lệ nộp đơn xin cứu xét đi
định cư theo diện HO. Viễn ảnh của một ngày mai tươi sáng nơi xứ Tự Do
làm anh quyết tâm hơn!
Tuy đã có quyết tâm như vậy nhưng Phạm Văn Thức không dám bàn với vợ con
về ý định của mình vì sợ bị ngăn cản. Anh âm thầm tìm đến một người bạn
tù trong nhóm 520 Xuyên Mộc trước đây là anh Nguyễn Văn Vượng (Hiện
đang định cư tại California), nói ý định của mình cho Nguyễn Văn Vượng
biết và nhờ anh bạn này chở dùm anh lên trại Xuyên Mộc, sau đó trở về
báo cho gia đình vợ con anh biết sau.
Nguyễn Văn Vượng cũng kinh ngạc trước quyết định của bạn, lên tiếng
khuyên cản anh nên suy nghĩ lại vì ý định này quả thật quá nguy hiểm.
Nhưng ý Phạm Văn Thức đã cương quyết như vậy rồi nên người bạn này cũng
đành chịu. Sau khi bàn bạc cặn kẻ và chuẩn bị tinh thần cho mọi tình
huống xấu nhất có thể xảy ra, hai người bạn chở nhau trên một chiếc
Honda đi thẳng lên Xuyên Mộc. Lúc đó là năm 1991, nếu tính từ khi trốn
trại ra năm 1980 thì anh Phạm Văn Thức đã ở bên ngoài đúng 11 năm rồi.
Trại Xuyên Mộc lúc bấy giờ hầu như đã thay đổi hết. Nơi đây không còn
nhốt tù cải tạo sĩ quan chế độ cũ nữa, mà chỉ còn là trại tù dành cho
tội phạm hình sự mà thôi. Kể cả ban chỉ huy trại, công an quản giáo và
các vệ binh cũ cũng không còn ở đó nữa. Mấy cán bộ công an mới không
biết gì về vấn đề tù sĩ quan cải tạo trước đây. Khi Phạm Văn Thức cho
biết mình đã trốn khỏi trại này 11 năm trước, bây giờ vào trình diện để
xin được ở tù trở lại, thì tất cả cán bộ công an trại ngẩn người ra nhìn
anh như nhìn một người điên. Họ ngạc nhiên cũng phải, vì trước đây đâu
bao giờ có trường hợp nào xảy ra như thế này? Họ hỏi anh:
Phạm Văn Thức trả lời:
– “Đời sống bên ngoài càng ngày càng khó khăn đối với một người sống
không giấy tờ như anh. Vả lại anh còn có vợ con nên càng gặp khó khăn
nhiều hơn. Cuối cùng chịu đựng hết nỗi nên anh quyết định chọn con đường
tự thú để hy vọng sau khi ở tù xong, ít nhất sẽ được trại cấp một giấy
chứng nhận và sau khi về cuộc sống sẽ dễ dàng hơn, không phải trốn chui
trốn nhủi nữa…”
Họ còn hỏi anh nhiều điều nữa và bắt anh làm bản tự khai. Anh cứ một mực
khai sau khi trốn trại về sống vất vưởng ở nhiều nơi khác nhau không
giấy tờ gì cả, nên không ai chứng thật được lời khai của anh.
Theo lời anh Phạm Văn Thức kể lại thì ban chỉ huy trại Xuyên Mộc lúc bấy
giờ không quyết định được trường hợp của anh nên giữ anh ở lại đó và
điện về Bộ Nội Vụ xin chỉ thị. Một lúc lâu sau, bọn công an trại quay
lại nói ngay với anh:
– “Anh mà có tinh thần tự giác trở lại thành thật khai báo cái gì? Nói
thật đi. Mục đích của anh đến đây chỉ vì muốn xin giấy chứng nhận để
được cứu xét đi Mỹ thôi. Có phải thế không??”
Cả bọn xúm lại hỏi anh câu này xong cứ chỉ trỏ cười hoài. Anh cũng cười
giả lả trả lời cho qua chuyện với bọn chúng. Anh đoán sau khi điện về Bộ
Nội Vụ xin chỉ thị, chắc có lẽ trên Bộ Nội Vụ có nói gì đó về chương
trình HO, nên đám công an mới biết được mục đích của anh, chứ trước đó
chúng còn ngơ ngác không biết gì cả.
Cuối cùng họ giam Phạm Văn Thức ở chung một buồng với đám tù hình sự.
Ban ngày anh không phải làm việc gì hết, ban đêm công an giao cho anh
nhiệm vụ “trưởng buồng”, điểm danh và trông chừng tù hình sự tìm cách
trốn. Anh cười thầm trong bụng:
– “Mình là thằng trốn trại ngày trước, bây giờ lại làm nhiệm vụ canh chừng tù trốn trại. Đúng là khôi hài thật!”.
Làm “trưởng buồng” được mấy hôm cứ ở mãi một chỗ tù túng quá, anh xin
được ra ngoài lao động. Họ cho anh ra trông coi mấy mẫu điều mới trồng,
hàng ngày theo dõi xem có bị hư hại gì không?? Công việc cũng không có
gì nặng nhọc và điều đáng nói là không ai cai quản anh cả. Anh muốn đi
đâu thì đi, muốn làm gì thì làm miễn ở trong phạm vi đó thôi. Trong
khoảng thời gian ở tù lần này, gia đình vợ con anh được phép lên thăm
viếng đều đặn thoải mái lắm. Nói chung họ đối với anh lần này rất dễ
dãi, ngoài sự tưởng tượng của anh. Cứ như thế Phạm Văn Thức ở gần đúng
một năm thì một hôm được gọi về buồng giam nhốt lại, không cho ra ngoài
lao động nữa.
Ở trong buồng giam khoảng 3 tuần thì anh được gọi lên thả về. Họ cấp cho
anh một giấy ra trại chứng nhận từ ngày đầu tiên anh trình diện tập
trung cải tạo 28 tháng 6 năm 1975 đến khi thả vào tháng 6 năm 1992
(không nhớ rõ ngày). Như vậy là họ đã chứng nhận anh ở tù liên tục 17
năm không gián đoạn, xem như anh chưa hề trốn trại ra ngoài bao giờ. Anh
cũng ngạc nhiên về điều này tuy nhiên cũng chẳng thắc mắc gì cả vì đã
đạt được kết quả mong muốn. Phạm Văn Thức cầm tờ giấy ra trại với tên
thật của mình trên đó mà lòng vui mừng vô hạn. Lần này thì chắc chắn anh
đủ điều kiện nộp đơn theo diện HO rồi. Tuy nhiên anh không ngờ rằng
việc chứng nhận anh đã ở tù liên tục 17 năm vô tình lại đưa anh vào một
rắc rối khác!
*****
Sau khi về nhà không bao lâu, Phạm Văn Thức xúc tiến ngay việc nộp đơn
xin đi theo chương trình HO. Lần này đơn của anh được nhận ngay. Anh vui
mừng trở về nhà yên tâm chờ đợi. Cuối năm 1994 anh nhận được giấy mời
đi phỏng vấn. Khỏi nói cũng biết là anh và gia đình vui mừng biết chừng
nào. Đúng ngày hẹn, hai vợ chồng anh lên Saigon gặp phái đoàn Mỹ. Sau
đây là tóm tắt những điểm trong buổi phỏng vấn ngắn ngủi với phái đoàn
Mỹ:
Theo đúng thủ tuc, Họ yêu cầu anh giơ tay tuyên thệ những lời khai trong
cuộc phỏng vấn là hoàn toàn sự thật. Nếu gian dối thì sẽ chịu mọi trách
nhiệm… và hồ sơ sẽ không được cứu xét nữa. Sau đó họ hỏi ngay anh:
– “Xin ông cho biết tên thật của ông là gì? Gia cảnh của ông hiện nay như thế nào?”
Anh trả lời:
– “Tôi tên Phạm Văn Thức. Tôi có vợ và 3 con.”
– “Ngoài tên này ra, ông còn sử dụng tên nào khác nữa không?”
– “Có! Sau khi trốn trại về, để tránh tai mắt địa phương và dễ dàng
trong việc đi lại, tôi có xài tên giả. Tôi đã có khai chuyện này trong
phần tờ khai lý lịch trong hồ sơ…”
– “Hiện ông có đang sống cùng với vợ con của ông không? và đang làm nghề gì?”
– “Vâng, tôi đang sống cùng với vợ và 3 con của tôi ở Cây Gáo, Trảng Bom. Chúng tôi hiện đang sống bằng nghề bán nước mắm”
– “Trước năm 1975, cấp bậc chức vụ của ông là gì? Đơn vị ở đâu?”
– “Trước 1975 cấp bậc của tôi là Thiếu úy. Chức vụ Phân Chi Khu Trưởng, đơn vị ở tại tỉnh Long An”
Người Mỹ trong phái đoàn phỏng vấn nhìn vào hồ sơ của anh một lúc rồi hỏi:
– “Cấp bậc của ông là Thiếu Úy, chức vụ Phân Chi Khu Trưởng, nhưng tại
sao ông đi học tập cải tạo đến 17 năm? Ngay cả cấp Tướng trước đây đi
học tập cải tạo cũng không lâu đến như vậy? Có gì đặc biệt trong việc
ông đi cải tạo trước đây không?”
– “Tôi đã trình bày rất rõ trong phần khai lý lịch là sự thật thời gian ở
tù cải tạo của tôi hai lần tổng cộng 6 năm, 3 ngày: Lần thứ nhất hơn 5
năm, sau đó tôi trốn trại ra ngoài ở hết 11 năm. Lần thứ hai họ bắt giữ
tôi lại khoảng gần đúng 1 năm ”
– “Nhưng tại sao trong giấy ra trại ghi rõ thời gian tính từ ngày ông đi
trình diện là 28 tháng 6 năm 1975 cho đến ngày ông được thả ra năm
1992. Như vậy không phải là tổng cộng thời gian đã ở trong trại là 17
năm hay sao?”
– “Mong ông phải khai rõ hơn về chuyện này vì chúng tôi nhận thấy có
điều gì đó không ổn trong tờ giấy ra trại này và lời khai của ông?? Có
phải giấy ra trại này giả không?”
Đến đây thì Phạm Văn Thức cảm thấy bất an lắm:
– “Giấy ra trại đó dĩ nhiên là thật! Tôi cũng không biết tại sao họ lại
chứng nhận trong giấy ra trại như vậy? Lời khai của tôi hoàn toàn là sự
thật. Ông có thể liên lạc kiểm chứng với họ”
Người Mỹ đen đóng tập hồ sơ của Phạm Văn Thức lại một cách lạnh lùng:
– “Thời gian trốn trại ở bên ngoài 11 năm của ông nếu là sự thật thì tại
sao họ lại không tính đến? Rất tiếc chúng tôi không có nhiệm vụ tìm
hiểu tại sao cho vấn đề mâu thuẩn này của ông?”
Rồi không đợi Phạm Văn Thức có dịp trình bày thêm, người Mỹ này tiếp luôn:
– “Rất tiếc chúng tôi từ chối cứu xét hồ sơ này của ông vì những lời
khai và giấy tờ của ông đã không chứng minh được rõ ràng và ăn khớp với
nhau. Bây giờ xin mời ông bà về và chúc may mắn.”
Bước ra khỏi phòng phỏng vấn, phải nói là tinh thần Phạm Văn Thức xuống
thê thảm. Mọi hy vọng tan biến hết! Rốt cuộc sau bao nhiêu cố gắng, chịu
đựng, liều lĩnh đi trình diện xin ở tù lại lần thứ hai với hy vọng có
được giấy ra trại để được phái đoàn Mỹ nhận đơn cứu xét… để rồi kết quả
cũng chính tờ giấy ra trại này hại anh… Càng suy nghĩ Phạm Văn Thức càng
thấy chán nãn! Đám đông đang đứng tụ tập ở phía trước cửa chờ đến phiên
mình được gọi vào phỏng vấn, thấy vợ chồng Pham Văn Thức buồn rầu đi ra
thì xúm lại hỏi thăm. Sau khi biết chuyện hồ sơ của anh bị phái đoàn Mỹ
từ chối vì không chứng minh được rõ ràng thời gian trốn trại và thời
gian anh đã ở tù trước đây…., một người trong đám đông góp ý khuyên anh
nên tìm lại những bạn tù biết về chuyện trốn trại của anh và nhờ họ làm
đơn xác nhận dùm rồi gởi qua toà đại sứ Hoa Kỳ ở Bankok xin tái cứu xét
lại hồ sơ… chuyện này cũng chỉ là hy vọng thôi, tuy nhiên còn nước thì
còn tát…
Phạm Văn Thức cũng muốn nghe theo lời khuyên đó lắm, nhưng bây giờ biết
đi đâu mà tìm gặp bạn tù cũ nhờ giúp xác nhận dùm việc anh đã trốn
trại…? Thời điểm lúc đó là cuối năm 1994 các bạn tù của anh đã đi định
cư theo những diện HO trước đó hết rồi!! Số của anh đúng là xui tận
mạng! Chẳng lẽ Thượng Đế cố tình thử thách sự chịu đựng của gia đình anh
hay sao? Bao nhiêu sức lực ý chí của anh gần như kiệt quệ hết. Vợ chồng
anh chỉ còn biết đêm ngày cầu nguyện xin Thượng Đế, Ơn Trên ban phép
màu ra tay cứu giúp mà thôi!!
Có lẽ lời cầu nguyện đầy thành tâm của vợ chồng Phạm Văn Thức cuối cùng
đã thấu đến tai Thượng Đế và khiến Ngài cảm động nên đã lóe lên cho anh
một tia hy vọng mới: Trong khi dò tìm cầu may tin tức những người bạn tù
cũ, thì anh nghe nói có một người tên là Đào Văn Long, trước đây cũng
là là tù cải tạo ở trại Xuyên Mộc, lẽ ra đã đi định cư theo diện HO lâu
rồi, nhưng vì anh này bị bệnh phổi nên phải ở lại uống thuốc chữa trị
khi nào hết mới được đi. Tuy thế không ai biết rõ anh Đào Văn Long hiện
nay đang ở đâu?
Nhận được tin này Phạm Văn Thức mừng quá. Tưởng ai chứ Đào Văn Long thì
anh rất thân, từ lúc hai người còn ở trại Suối Máu. Anh còn nhớ lúc
chuyển từ trại Suối Máu về Xuyên Mộc, anh và Đào Văn Long ngồi kế bên
nhau trên cùng một chiếc xe. Khi đi ngang qua Bà Rịa Vũng Tàu, anh nhớ
Đào Văn Long có kể cho anh nghe rằng nhà ba anh ta ở Bà Rịa, Vũng Tàu từ
nhiều đời trước. Gần như những ai ở lâu vùng này đều biết đến ba anh
Đào Văn Long cả. Cứ đến đó hỏi tên ông Ba Quạ là sẽ có người chỉ đến
ngay. Lúc bấy giờ ngồi trên xe, Đào Văn Long kể cho anh nghe chuyện này
cũng chỉ là vô tình khi xe đi ngang qua vùng này vậy thôi chứ không có ý
gì khác. Tuy nhìên vì tên thường gọi của ba anh Đào Văn Long là “Ba
Quạ” khá đặc biệt nên khiến Phạm Văn Thức còn nhớ tới bây giờ.
Thế là Phạm Văn Thức lên đường đi Bà Rịa, Vũng Tàu hỏi thăm nhà ông Ba
Quạ ngay, hy vọng từ đó sẽ biết được tin tức người bạn Đào Văn Long. Sau
khi đến nơi hỏi thăm nhiều người, cuối cùng anh được một anh lái xe
Honda ôm cho biết ông Ba Quạ đã chết lâu rồi. Nghe tin này Phạm Văn Thức
chới với, tuy nhiên anh cũng cố hỏi tiếp:
– “Thế anh có biết con cái của ông Ba Quạ còn những ai và ở đâu không?”
Anh tài xế xe ôm trả lời:
– “Ông ta có người con gái đang mở quán bán hủ tiếu gần đây thôi.”
Mừng quá, thế là sẵn xe Honda ôm, Phạm Văn Thức nhảy lên nhờ chở ngay
tới chỗ cô con gái ông Ba Quạ. Té ra đây chính là cô em của Đào Văn
Long, người bạn tù mà anh muốn tìm. Nhờ cô này chỉ dẫn, sau đó anh đã
tìm gặp Đào Văn Long. Cũng may là anh này vẫn còn đang uống thuốc điều
trị bệnh phổi nên Phạm Văn Thức mới có cơ hội gặp được, nếu không thì
chắc anh ta cũng đã đi Mỹ lâu rồi. Sau khi biết rõ câu chuyện, Đào Văn
Long đưa cho Phạm Văn Thức địa chỉ của một người bạn tù khác cũng rất
thân với cả hai người từ lúc còn ở trại Suối Máu. Đó là anh Nguyễn Đức
Dũng, biệt danh Dũng “Sún”, đã đi định cư diện HO và hiện đang sống ở
Washington DC. Đào Văn Long khuyên anh nên gởi thơ liên lạc và nói rõ ý
định của mình cho Dũng “Sún” biết. Chắc chắc Dũng “Sún” sẽ liên lạc thêm
được nhiều anh em khác làm đơn xác nhận cho anh để bổ túc hồ sơ.
Lập tức Phạm Văn Thức gởi ngay một lá thơ qua Mỹ cho Nguyễn Đức Dũng kể
rõ mọi chuyện và nhờ anh này giúp đở. Đến đây thì hình như những đại
nạn, rủi ro của gia đình anh đã thực sự chấm dứt. Mọi chuyện sau đó xảy
ra thật nhịp nhàng, ăn khớp với nhau một cách tuyệt diệu. Sau khi nhận
được thơ của bạn, Nguyễn Đức Dũng đã liên lạc được 8 bạn tù cải tạo khác
cũng ở cùng trại Xuyên Mộc với nhau trước đây, cùng làm ngay một tờ đơn
xác nhận rằng có quen biết với Phạm Văn Thức từ lúc còn ở trại cũ Suối
Máu và cùng chuyển sang trại Xuyên Mộc vào năm 1979… tất cả khai biết rõ
chuyện trốn trại năm 1980 của anh như thế nào… sau đó mang đi thị thực
chữ ký và gởi bản chính qua toà đại sứ Hoa Kỳ ở Bankok, Thailand và một
bản sao về cho anh. Năm 1997, phái đoàn Mỹ mở lại hồ sơ Pham Văn Thức,
gởi giấy mời vợ chồng anh trở lại tái phỏng vấn và tuyên bố chấp nhận
gia đình anh được định cư ở Mỹ theo diện nhận đạo HO 40. Gia đình anh
lên đường đi định cư không bao lâu sau đó, chấm dứt một quảng đời dài
lận đận tưởng như không bao giờ thoát ra được. Hiện anh Phạm Văn Thức
đang sống an lành cùng gia đình tại thành phố Philadelphia, tiểu bang
Pennsylvania, Hoa kỳ.
Câu chuyện của anh Phạm Văn Thức, một người tù cải tạo trong nhóm 520
Xuyên Mộc kể trên, là một điển hình đáng cho chúng ta suy gẩm về ý chí
kiên cường, quyết không chấp nhận sống dưới sự kềm kẹp của chế độ cộng
sản… cũng như tinh thần nhẫn nại, sự chịu đựng bền bỉ, sẵn sàng hy sinh
và bất chấp mọi hậu quả của anh để đánh đổi lấy cuộc sống TỰ DO mà anh
hằng khao khát.
Vĩnh Khanh
Phố Đá Tròn, những ngày cuối năm 2007
http://www.vietnhim.com/dongnhim/showthread.php?t=21381Wednesday, August 14, 2013
KIM OANH * VƯỢT BIỂN ĐÔNG
Tôi cố vùng dậy thì thoáng nghe tiếng nói: "Tên tôi là.....( xin cho tôi được giấu tên) tôi chết vì tội vượt biên ở Kiên Lương, Rạch Giá, tôi sẽ phù hộ cô suốt cuộc đời " và bóng hình ấy biến mất. Khi choàng tỉnh, tôi rất lo âu, sợ sệt. Nơi đây tôi quen chị Ánh, Chị rất thương tôi vì chị thấy tôi thường hay khóc một mình. Tôi đem giấc mơ kể chị nghe, chị cho biết, cách nay vài tháng có một chuyến tàu của sinh viên, giả dạng là một đoàn văn công đi trình diển văn nghệ, bị bại lộ. Cả đoàn cùng nhau đốt tàu và tự thiêu ngoài khơi, chị ức đoán cách ăn mặc của người trong giấc mơ là người trong chuyến hải hành này. Chị khuyên tôi, đừng lo sợ, mỗi khi ăn cơm hãy gọi tên người ấy và lập lại lời người nói, mời người về dùng cơm và cầu nguyện những gì tôi ước muốn.
Thế là từ đó tôi luôn cầu, khấn nguyện cho anh em tôi được ra khỏi phòng tối. Một tuần lễ sau anh
và em tôi được ra ở hội trường.Tôi vô cùng mừng rỡ. Lại tiếp tục khấn cầu.Tuy là hy vọng rất mong manh nhưng tôi vẫn khấn nguyện cho chúng tôi được sớm thả ra. Ồ điều ấy khó lắm! Vì chúng tôi đang trong lứa tuổi lao động nên trước khi được tha, bắt buộc phải đi lao động ở U Minh ít nhất một năm. Sau 2 tháng 10 ngày bị giam, nhóm tôi được gọi tên tập họp. Lòng nghĩ thầm đi U Minh thôi!. Nhưng một phép nhiệm mầu, mười bảy người trong nhóm được "khoan hồng". Thật tôi không ngờ là điều này có thể xãy ra .
Nghe audio trọn bài văn qua giọng đọc của Hồng Ánh & Hoàng Phố
(Xướng ngôn viên đài Phát Thanh Radio "Tiếng Nước Tôi" , San Jose, California)
Sau đó, gia đình tôi vẫn lần lượt ra đi. Tôi lại tiếp tục cầu nguyện cho anh chi em tôi ra đi thành công tôi sẽ ở lại với Ba Má, được thế tôi mãn nguyện lắm rồi. Thế là mỗi chuyến anh, chị, em của tôi đều đến nơi bình an. Duy chỉ có tôi thất bại, lầm lũi trở về. Rồi chờ đêm thật khuya mới dám vào nhà. Má tôi bảo: mỗi lần nghe tiếng gỏ cửa trong đêm, lòng Má đau như cắt vì biết rằng con đi không thành. Ba Má đã đổ không biết bao công lao, khó nhọc, vơ vét những gì có thể bán đổi lấy vàng để lo cho tôi, thất bại là mất tiền. Với năm lần thất bại. Ba Má phải vay mượn, nhất quyết cho tôi ra đi.
Một hôm Má tôi hỏi:
- Con đã cầu nguyện như thế nào? nói cho Má nghe?
- Con cầu cho tất cả anh chị em ra đi được bình an con ở lại với Ba Má.
Má tôi không nói lời nào, Má nấu một mâm cơm chay và khấn Người đã phù hộ cho tôi xin lỗi người khuất mặt mà tôi đã gặp trong giấc mơ. Má xin được lấy lại lời tôi khấn. Mong Người giúp tôi ra đi được bình an, nếu có thương tôi người hãy giúp cho con tôi được hạnh phúc về sau. Và Má tôi bảo :
- Từ nay con đừng cầu xin người ấy nữa, hãy để cho Người ra đi thanh thản.
Vào một mùa thu 1979, trời chưa kịp sáng tôi một lần nữa rời gia đình. Có người hướng dẫn tôi đến bến đò Rạch Sỏi. Một chiếc đò nhỏ, tất cả mười ba người.Tôi cảm thấy lo với con số 13.Thật vậy, đò vừa ra khỏi vùng khám xét, bỗng nhiên tắt máy và trôi theo con nước, tất cả lo âu, hồi hộp. Chúng tôi bắt buộc phải nằm dài xuống lòng đò, một tấm bạt được phủ lên che kín. Hai người trong nhóm thay phiên nhau sửa máy. Tôi cầu nguyện Trời Phật Ông Bà che chở cho chúng tôi.
Tiếng máy nổ, có lẽ không lớn bằng mười ba tiếng thở phào nhẹ nhỏm. Đò tiếp tục chạy, từ từ thấy biển khơi. Một chiếc tàu thật dài khoảng mười mét hiện ra trước mắt. Chúng tôi lên tàu cả gia đình chủ tàu, tài công đều là anh em ruột. Trong nhóm người đi đa số là họ hàng gần trừ ra hai gia đình còn lại, và tôi không có họ hàng với chủ ghe. Như vậy trong tàu này tôi là người đơn độc. Hoà, cậu thanh niên đưa chúng tôi đến ghe lớn, vội vàng bỏ chiếc đò nhỏ xin chủ ghe đi theo.Tổng cộng bốn mươi hai người.
Vừa vui lại vừa khóc! Lần này là vĩnh viễn xa… xa tất cả những người thương, xa quê hương và biết đến bao giờ mới có ngày trở lại? Sau đó nỗi lo ngại lại xâm chiếm lòng. Rồi đây chúng tôi sẽ đi đâu và về đâu?
Nhưng tôi đã từng suy nghĩ ra đi là tìm cái sống trong cái chết, vì vậy sẵn sàng chấp nhận một bị bắt hoặc tệ hại hơn là bỏ mình ngoài biển khơi. Nghĩ như thế mới mong có đủ can đảm và cương quyết ra đi.
Chiếc tàu tôi vừa lên, đã đi đánh cá lâu ngày trên biển nên trên tàu có sẵn rất nhiều thực phẩm. Mấy hầm tôm, cá, mực tươi. Mực khô, tép khô, gạo nước đều đầy ấp. Chủ tàu họ lo cơm nước rất chu đáo cho những người trong chuyến đi này. Riêng tôi không ăn được vì bị say sóng.
Ngày đầu ra khơi, lo lắng, bồn chồn lẫn háo hức, không ai ngủ được, khi đêm đến tất cả lên boong tàu trò chuyện và tôi được dịp làm quen những người đồng hành. Gia đình anh Hai, anh Ba, gia đình anh Tư, anh Năm, vợ chồng anh tài công (anh Mài và chị Ánh), gia đình chú Tuấn, vợ chồng anh Phỡ, vợ chồng Dũng Thắm, còn lại tất cả còn độc thân là chú Tuấn, Anh Cường, Thường, Diếng, Giỏi, Hòa, Hùng, Liêm, bốn đứa con gái ,Hà , Nguyên, Hồng và tôi.
Lúc biển yên gió lặng, cùng nhau phân công, ai bíết nói tiếng Anh để có thể giúp mọi người khi đến nơi. Trong nhóm có anh Dũng nhận trách nhiệm này, anh Ba ,anh Cường là người Hoa có thể nói tiếng Quang Thoại, tiếng Quảng Đông. Anh Ba rất vui tính, anh trò chuyện để trấn an mọi người, anh kể sự tích chiếc tàu, rất linh thiêng, con gái của bà chủ tàu trước đó đã chết ngay cột tàu. Khi gia đình anh mua về họ luôn luôn khấn cô gái ấy.Trên tàu có một tượng Phật Bà thật cao, được thờ trước đầu tàu để độ hộ cho gia đình anh mỗi chuyến ra khơi. Ngoài ra anh con một lọ nước làm phép. Anh bảo khi gặp nguy cơ chỉ cần thoa lên tóc thì nói đối phương sẽ nghe. Cho nên anh rất có niềm tin. Đêm đó nhìn dáng của mọi người cùng hướng mắt ra vùng biển bao la, lòng tôi như chỉ rối, lắc đầu xua đi khối nặng đang đè trong não tôi cố gắng dỗ giấc ngủ, ngủ bình yên sau một ngày hoang mang sợ hãi.
Ngày sau, tàu vẫn êm đềm lướt sóng, hai bên hong tàu có hai đàn cá đi theo…xa khơi bắt đầu thấy những mảnh ván đồ đạc nổi trôi. Một nỗi lo sợ bao trùm. Có lẽ một chiếc tàu nào đã đắm gần đây. Khoảng xế chiều, tàu đi cũng khá xa hướng về Malaysia. Thình lình anh tài công bỏ ống nhìn , thông báo có hai chiếc tàu thật lớn từ xa tiến đến vơí tốc độ rất nhanh, anh sợ với tốc độ này đụng phải, tàu sẽ bị vỡ tan.
Tất cả anh em chủ tàu chuẩn bị chống trả vì họ có mang theo rất nhiều súng đạn.Theo kinh nghiệm đi biển họ biết đó là hải tặc. Nhưng các bà vợ của họ khóc xin năn nỉ chồng đừng chống trả . E rằng hải tặc có súng lớn hơn bắn lại, sẽ chết hết. Các bà khóc quá nên các ông buông tay.
Tôi thật nhanh, nhảy vội xuống hầm tàu lấy dầu nhớt bôi vào mặt mình cho xấu xí đi vì hai chị tôi đi trước viết thư về căn dặn khi gặp hải tặc một là làm đàn bà có con nhỏ, hai là làm một đứa con nít, thấy ai có con thì bế đại như thế mới mong thoát thân.
Trời ơi! Khi hai chiếc tàu cập vào chúng tôi như người đã chết rồi. Tất cả đứng im như pho tượng. Bọn chúng chỉ có cái khố che thân, mặt mày dữ dằn, tay cấm búa, dao, mã tấu, thật kinh khiếp vô cùng.Tôi thấy chị Tư có hai đứa con nhỏ, tôi vội vàng bế đứa nhỏ nhất của chị, vừa lúc ấy chúng đã tràn ngập lên tàu. Chúng chia chúng tôi ra làm ba nhóm: đàn bà con nít, đàn ông con trai và con gái.
Tôi bế đứa nhỏ, nên chúng đẩy tôi vào nhóm đàn bà. Chúng thay nhau lục soát khắp tàu, khắp nơi trên cơ thể của từng người, chúng vơ vét vàng bạc, nhưng có lẽ điều chúng mừng nhất là những khẩu súng đạn và thực phẩm tươi dưới hầm. Bọn họ quên chúng tôi trong giây phút, chỉ lo vơ vét hết thực phẩm tươi về tàu . Thời gian sợ hải và kinh hoàng kéo dài rất lâu.
Bỗng nhiên chúng ra dấu mang nhóm con gái sang tàu chúng. Khiếp đảm và vô cùng tuyệt vọng! …Lúc này tôi chỉ biết cầu nguyện mà thôi và tôi quên đi những gì Má tôi dặn dò, tôi cầu xin linh hồn Người đã phù hộ cho tôi dạo trước. Xin người thứ lỗi cho tôi, ra đi mà không dám nói, giờ nếu thương tôi xin giúp tất cả mọi người thoát nạn và những người con gái kia không bị làm ô nhục, tôi rất cám ơn. Và từ xa xuất hiện thêm chiếc tàu thứ ba, đang tiến dần đến.Tôi biết là khó sống hôm nay. Tôi khấn nguyện xin Đức Mẹ, Ông Bà, Người phù hộ, nếu chết thì cho tôi được chết trên bờ, để Ba Má tôi còn biết con mình bỏ xác nơi đâu, cầu cho những người con gái kia được thả về tàu của mình, đừng bắt họ đi và được bình an. Tôi nguyện thề sau này tôi sẽ vào đạo.Thế rồi tôi ngất đi không còn biết gì nữa.
Khi tỉnh lại, tôi cảm nhận có mùi dầu Nhị Thiên Đường ở mũi. Cạnh tôi là một người đàn ông trung niên ăn mặc bình thường. Ông nhanh tay vúi vào tay tôi một cuộn giấy tròn nhỏ, linh cảm đây là người tốt, tôi vội giấu vào trong búi tóc tôi. Ông ta hỏi tôi có biết tiếng Anh không, tôi gật đầu, ông ta vội nói: "Tôi là môt thương buôn ở Singapore có hai con. Sau này cần gì tôi giúp."
Người thương buôn đưa cho tôi một thau cháo, tôi không dám ăn, tôi sợ có thuốc mê, không còn nói được chỉ biết lắc đầu kinh hãi. Nhìn chung quanh các bạn gái đã về lại tàu, Tất cả đều bình an. Bọn hải tặc chỉ còn lãng vãng vài tên, lo vơ vét đồ đạt còn sót.
Ông cho người đem sửa đặc, dầu Nhị Thiên Đường, cá mòi hộp cho chúng tôi. Nói bằng tiếng Quảng Đông, chỉ đường đi đến Kuala Lumpur.
Sau khi hai chiếc tàu hải tặc đi xa rồi, tàu ông mới rời chúng tôi. Ông chỉ xin tượng hình Phật Bà nơi đầu tàu. Chúng tôi cùng ôm nhau khóc vì nỗi kinh hoàng đã qua đi. Kể từ giây phút đó tất cả đã thành một đại gia đình, đùm bọc chở che cho nhau.
Định thần lại, tôi xem cuộn giấy nhỏ của người thương buôn đưa, chính là địa chỉ của ông ở Singapore. Chiếc tàu thứ ba chính là chiếc tàu ân nhân của chúng tôi. Xin cám ơn một tấm lòng nhân đạo, xin ơn trên che chở cho gia đình người ân nhân này luôn an lành, hạnh phúc..Đúng là một phép nhiệm mầu mà ơn trên đã ban cho chúng tôi thoát nạn hôm nay.
Đêm thứ nhì, để tránh gặp nguy một lần nữa, đèn tàu tắt hết đêm nay không một ai dám ngủ mặc dù đã mệt lã người.Thình lình một tia sáng loé lên từ xa, tàu hướng theo tia sáng ấy mà chạy. Chúng tôi reo mừng, một dãy nhà đèn sáng choang, và môt bến cảng trãi dài.Tàu cập vào cảng Hải Quân ở Trenganu. Hôm nay là ngày 12- 5- 1979.
Nhưng chưa kịp vui, một người lính Hải Quân nhảy thẳng xuống boong tàu, bắn một phát súng chỉ thiên. Than ơi! Đại họa đã giáng lần thứ hai sao? Chúng tôi khiếp cả hồn vía, con nít khóc vang, tất cả dồn vào góc tàu, nép sát bên nhau run rẩy, người lính kia thì quát tháo om sòm. Tôi chợt nghe loáng thoáng tiếng Anh thì phải ? Tôi vội trấn tỉnh để lắng nghe.
Thôi đúng rồi! Tôi nhìn anh Dũng, anh ngồi bất động và đang cố gắng che chở cho Thắm vợ anh.
- Ai có thể nói được tiếng Anh?
Hắn lập đi lập lại nhiều lần. Hồn viá đâu trả lời. Một nỗi kinh hoàng trước họng súng hướng về chúng tôi.
- Không ai trả lời tôi sẽ bắn.
Tôi chỉ nghe có thế chân tay rời rã. Nhưng nghĩ đến "chết" làm tôi nhớ Má tôi, bà thường đem chuyện đời xưa kể cho con cháu nghe về kinh nghiệm sống trong chiến tranh .Thời chạy loạn giặc Tây, Má tôi nhờ có chút vốn liếng tiếng Pháp, Má cũng từng giúp được cho bản thân mình và những người phụ nữ cùng làng thóat cảnh bị Tây hảm hiếp.Tôi như cái lò xo bật dậy, với vốn liếng Anh ngữ ít ỏi, tôi trả lời:
- Tôi biết nói tiếng Anh chút ít.
Và lạ thay người lính đó nhỏ giọng xuống, tôi cảm thấy tinh thần mình bớt căng thẳng, tôi cố gắng tập trung nhiều hơn.
- Có bao nhiêu người trên tàu? Hắn hỏi
- Có bốn mươi hai người trên tàu.Tôi trả lời
- Tôi đếm không đúng bốn mươi hai người thì tôi bắn. Hắn chỉa súng vào ngay tôi.
Tôi không còn tinh thần nữa, tôi khóc và quỳ xuống van lạy.Cả tàu thấy tôi quỳ lạy tất cả đều làm theo. Ngay khi ấy hơn chục người lính khác kéo đến. Họ mặc đồng phục Hải Quân.Họ ra lệnh tôi là người rời tàu trước tiên, đứng sang một bên, không bị khám xét và tất cả lần lượt rời tàu, những người còn lại bị khám xét toàn thân nhưng không sàm sở như bọn hải tặc dã man. Cũng nhờ tôi không bị xét nên lúc đi ngang tôi, Nguyên vội nhét vào tay tôi một sợi dây chuyền, tôi vội giấu vào trong búi tóc.
Màn đêm buông xuống rất nhanh tôi đoán gần 12giờ đêm. Những người lính Hải Quân cho chúng tôi ăn tạm bánh mì ngọt vài trái bôm. Chúng tôi đã từ từ bình tỉnh lại.
Họ hỏi chúng tôi từ đâu tới, đi có bị hải tặc không? Họ cho biết chúng tôi sẽ phải rời nơi này trong vài hôm. Họ sẽ cấp xăng, thực phẩm và tiếp tục ra đi. Những ngày lế tiếp anh Ba anh Cường có thể nói tiếng Quảng với họ, anh Dũng và tôi cùng họp tác trả lời bằng tiếng Anh. Ba đêm liền chúng tôi ngủ ngoài trời trên nền xi măng cảng nóng bức. Mỗi đêm thao thức vì có những người muốn giở trò tồi bại với con gái, các anh họ của Nguyên, Hồng luôn nằm cạnh hai cô che chở còn tôi không có người thân nên được nằm giữa Nguyên và Hồng. Rất cảm ơn hai cô bạn đã cho tôi môt nơi nương tựa, một tình tương thân tương ái.
Đêm thứ tư chúng tôi được vào môt căn nhà bằng gỗ hai tầng ở tạm. Khi vào nơi ấy chúng tôi nhận được những dòng chữ để lại từ những người đến trước, trên tảng đá để làm bếp nấu nướng và vết tích để lại là những nhúm tro tàn. " Nơi đây không an toàn có thể bị kéo ra khơi. " Dòng nhắn tin này làm chúng tôi rất lo sợ, thì ra tai họa vẫn luôn chực chờ bất cứ lúc nào, nhưng lời nhắn đó là những chân tình quý báu đối với chúng tôi.
Lo lắng chưa biết phải đối phó như thế nào thì một đêm có chiếc tàu cập vào cảng để lấy nước và xăng dầu. Một người đàn ông bảo rằng tàu còn tốt sẽ bị ra khơi trở lại. Đến nửa khuya ông khách lạ trở lại cùng các anh trong tàu đục thủng cho tàu chìm. Người ân nhân đó một lần nữa đã đến với chúng tôi trong việc làm vô cùng thánh thiện, người ấy không ai khác hơn chính là người Singapore đã giúp chúng tôi khi hải tặc cướp tàu. Xin muôn vạn lời cám ơn, tấm lòng nhân hậu, một lần nữa xin gửi đến ân lòng biết ơn và lời nguyện cầu mọi điều may lành đến với ông và gia đình .
Thế là thoát nạn! Sáng hôm sau tàu chìm, bắt đầu có cảnh sát đến canh giữ chúng tôi. Cứ mỗi hai tiếng đồng hồ họ thay ca trực, mỗi ca là hai người cảnh sát, nhờ có canh gác và có nhiều phòng, từng gia đình ngủ riêng, tôi cùng ba chị em của Nguyên chung phòng, con trai ngủ dọc theo hành lang để bảo vệ cho con gái.
Chiều đến, có tàu của lính commando cặp vào cảng lấy nhiên liệu. Họ vào trò chuyện với anh Ba và anh Cường. Nhưng đêm đến đang yên giấc, vài lính commando thực hiện những hành động xấu xa. Trãi qua bao lo âu mệt mỏi, mấy anh ngủ say không hay lính đã vào phòng chúng tôi. Hốt hoảng vì họ pha đèn vào mặt , tôi bật ngồi dậy và la to: "Chú Tuấn ơi cứu tụi con."
Tất cả con trai chạy sang. Chú Tuấn đã bị họ đánh báng súng vào đầu. Chúng chưa kịp giở trò, thì vội chạy nhanh vì một chiếc xe cảnh sát khác đến thay ca trực. Thì ra hai người cảnh sát trước đã toa rập với họ thực hiện điều xấu xa. Cám ơn Phật Trời đã che chở những đứa con gái này thoát nạn đêm nay. Anh Dũng đã thuật lại cho hai người cảnh sát vừa đến thay ca trực, họ lập biên bản và kể từ sau hôm ấy chúng tôi mới được yên thân. Từ đó, đêm đến các anh trong tàu đem chúng tôi giấu dưới lường môt chiếc xe hư lánh nạn.
Hai tuần lễ trôi qua, họ đưa chúng tôi rời Cảng bằng xe cam nhông nhưng không biết đi đâu và đến nơi nào. Xe được che kín mít, cố vén tấm bạt xem. Ôi! Toàn là rừng rậm lại một phen lo âu hoảng hốt. Sau một đoạn đường dài ngoằn ngoèo và nhấp nhô, bất chợt xe dừng lại. Xuống xe, nhìn thấy phiá bên trong hàng rào dây kẻm gai toàn là người.
Mừng quá! Mừng quá người Việt Nam. Những người đồng hương chào hỏi, tiếp đón ân cần, được đưa vào trại tỵ nạn.Chúng tôi, người về từ cõi chết!
Sau khi tạm ổn định, mới vỡ lẽ đây là môt trại tập trung tổng cộng hơn ba ngàn người Việt tỵ nạn. Người ta gọi nơi đây là Rừng Dương vì chung quanh toàn là cây Dương. Không có Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc cũng không có Hồng Thập Tự đến, hầu như phải tự túc. Không biết bao giờ được vào trại chính thức. Gần hơn năm nay chưa ai được ra khỏi nơi này. chỉ biết đợi chờ.... những gia đình ở khá lâu họ trồng trọt, những vườn rau xanh biếc, chăn nuôi gà để sinh sống. Họ cho biết trước đó nhiều tàu được gọi ra đi nhưng không rõ được vào trại hay đã bị đưa ra khơi, hoàn toàn bặt tin.
Nơi Rừng Dương, ai có tiền muốn gì cũng có, người bản xứ họ mang lương thực nước uống bán lấy vàng hay tiền đô Mỹ, chúng tôi nhờ vào gạo, cá khô còn sót lại, cùng chia nhau ăn. Gạo đã vơi đi dần, chúng tôi phải nấu cháo. Khi hết hẳn lương thực, mạnh ai nấy lo thân. Tôi đã cùng ba chị em Nguyên thành một gia đình, các anh cùng tàu trốn trại vào rừng đốn lá và lợp cho một mái nhà để trú mưa. Thức ăn dần dần hết, người ta lẻn vào rừng tìm rau cỏ ăn, tôi là thân con gái không dám đi, lính Mã Lai bắt được trốn trại họ đánh nhừ tử. Tôi chờ cho mọi người ăn hết đọt rau cỏ non, bỏ phần già, tôi nhặt lại ăn cho qua ngày. Một hôm giặt đồ tôi phát giác ra một sơị dây chuyền còn sót lại, Má tôi đã cẩn thận may vào cạp quần, mừng quá ,nhờ người đổi ra tiền Mã.
Sau khi có tiền việc đầu tiên tôi nhờ mấy người trốn trại mua dùm vật dụng cần thiết nhất, thế là đã mất đi hơn hai phần ba số tiền. Phần còn lại tôi mua đường để đủ sức chịu đựng khi đói, mì gói bốn đứa chia nhau làm canh ăn đở dạ. Sợi dây chuyền tôi giấu được cho Nguyên cũng dành để chi vào những nhu yếu phẩm cần thiết nhất cho ba chi em cô. Rất vất vã và thiếu thốn mọi phương tiện, chúng tôi cũng gặp những người muốn giúp đở, che chở. Nhưng ở đời có ai học được chữ ngờ. Nghĩ vậy nên ba đứa con gái chúng tôi không dám nhận. Tôi luôn tự nhủ lòng "Trời sanh voi sanh cỏ".Thôi thì "Hết cơn bỉ cực đến hồi thới lai". Ráng cố gắng chiụ đựng một thời gian xem sao!
Sinh hoạt ở đây, chiều khoảng 3 giờ đến 8 giờ tối, những người kiểm soát trại, mở hàng rào kẻm gai, gọi số tàu xuống biển tắm theo nhóm.Thời gian trôi qua cũng được hơn hai tháng. Một chiều xuống biển tắm, loa phóng thanh gọi số tàu tập họp. Trong đó có tàu của chúng tôi " VNKG 0249”.Vội vã chạy về lều, được biết hôm nay có tất cả bốn chiếc tàu được ra khỏi trại Rừng Dương. Đây là diểm phúc hay điều bất hạnh?
Tất cả mọi người đều hoang mang không hiểu tai sao chúng tôi đến sau lại được đi trước? Khi chiếc xe cam nhông đến, người lớn tuổi bàn với nhau, chuyến xe đầu nếu đến được trại chính thức thì đánh lên thành xe dấu thập, còn nếu bị ra khơi thì đánh dấu trừ, để cho những người sau biết đường mà lo liệu. Nhóm chúng tôi đi sau cùng. Khi xe đầu trở về đón tiếp, tất cả hò reo mừng rỡ, vì chữ thập đã được ghi lại thành xe. Bắt tay từ giã những người bạn thân quen, tuy ở ngắn ngũi nhưng chúng tôi rất bùi ngùi xúc động vì cùng chung cảnh ngộ. Hy vọng một ngày gần tất cả sẽ được thoát khỏi nơi này. Các chú bác còn ở lại căn dặn khi gặp Cao Ủy Tỵ Nạn nhớ cho họ biết, còn rất nhiều người tỵ nạn bị lãng quên nơi Rừng Dương.
Đến trại vào buổi chiều. Nơi đây có phái đòan Mã Lai, trưởng trại, thông dịch viên tiếp đón, được biết đây là Trại Tỵ Nạn Cherating. Tất cả sẽ được cấp lều cho tạm trú, thực phẩm khô do Hội Hồng Thập Tự tiếp tế, mỗi tháng được thêm một phần thịt, rau tươi. Sẽ có các Phái đoàn từ các quốc gia trên thế giới đến mở hồ sơ, phỏng vấn và cho định cư ở nước thứ ba. Tôi như người đi trên mây, chỉ biết khóc… khóc vì sung sướng, khóc vì biết mình đã được TỰ DO.
Trại Cherating là một xã hội mới. Một xã hội thu nhỏ trong cộng đồng người Việt ly hương. Cũng bon chen cũng cạm bẫy, cám dỗ. Tuy nhiên bên cạnh những người xấu, cũng có những người với tấm lòng nhân hậu vị tha. Chợ nhóm buổi sáng, ban đêm có quán café ca nhạc, có trường học dạy sinh ngữ.
Trường học được lập ra cho mọi người. Ai muốn có chút vốn liếng ngoại ngữ để định cư ở nước thứ ba. Học cũng để quên đi thời gian, quên đi nỗi nhớ gia đình, nhớ quê hương.
Công lao này do các anh sinh viên học sinh xuất thân từ trường Pétrusky,Taberd, Phú Thọ. Họ xin Cao Ủy Tỵ Nạn các dụng cụ học đường như sách, tập viết, phấn và bảng đen.Các anh dựng lớp, đóng bàn học và thay phiên nhau dạy các lớp buổi sáng, các lớp buổi tối, miễn phí. Việc làm thiện nguyện của các anh thật cao quý.
Lều chúng tôi được dựng trên môt nơi trước kia là bãi rác, nằm cạnh bìa rừng, chung quanh trại rào dây kẻm gai. Có những đêm đang ngủ, tiếng la thất thanh “Có rắn!” bọn tôi nằm bất động, rắn bò ngang mình từng đứa, toát mồ hôi hột, thế là thức trắng đêm vì sợ. Có lần bị rết kẹp nhức nhối, may có các cụ người Hoa tốt bụng dùng tỏi vắt đắp cho tôi qua cơn đau. Đêm nào mưa thì như đêm âý ngủ ngồi, nước ngập từ bãi rác xông lên nồng nặc mùi hôi thối. Dần dần có thêm điều kiện các anh trong tàu đóng sạp cao để tránh rắn rết.
Trãi qua những ngày dài buồn khổ vì nhớ nhà, nhớ cha mẹ còn kẹt lại ỏ Việt Nam. Không sao nhắn được tin tức cho gia đình là tôi đã bình yên. Khi có người ra đi định cư nước thứ ba, tôi cũng như bao người vội vã viết vài lời nhắn gữi cho thân nhân. Nhưng rồi cũng vô vọng. Nguyên, Hồng, Liêm ba chị em được phái đoàn Canada nhanh chóng chấp nhận, vì Ba Nguyên làm hảng viết chì Pacific ở Biên Hòa. Ba chi em từ giã tôi đi Canada rất nhanh. Còn lại một mình tôi đã cố gắng sống, sống trong buồn bã đơn độc. Cuộc sống khó khăn, sống thật bơ vơ, tôi phải chống chỏi với đời bằng đôi tay nhỏ bé và yếu đuối của mình. Tuy khổ nhưng lúc nào tôi cũng cố giữ lòng trong sáng, tôi tự nhắc nhở với chính mình. Khổ đã quá nhiều, tại sao chỉ còn gang tấc mà không vượt qua được hay sao?!
Sau khi ba chị em Nguyên ra đi, tôi xin các anh đóng cái sạp riêng cho tôi vì hai cô bạn đi rồi không còn ai nằm hai bên che chở cho tôi. Thế là tôi có một gian san riêng, bề ngang nửa mét, bề dài một mét rưởi. Mỗi buổi sáng tôi thức thật sớm xuống gần bờ biển tập thể dục. Các bác người Hoa dạy tập Tài Chi, trưa thì cùng các tổ đi làm vệ sinh phòng tắm nữ, thời gian bạn bè bên nhau trong trại Cherating, hàng ngày được nghe, và nhắc nhở đến những kỷ niệm nơi quê nhà dấu yêu. Tất cả những kỷ niệm ấy lúc nào cũng đẹp. Những câu chuyện hay những kỷ niệm đẹp đều bắt đầu bằng hai chữ “Ngày xưa” đã được nhắc đến một cách thiết tha và u hòai không ai có thể quên. Vì những nhớ nhung ấy những người đến trước đặt tên trong trại ty nạn Cherating, những khu vực là Sàigòn, Chợ Lớn, và tên những con đường Tự Do, Nguyễn Huệ, Lê Lợi ...
Chương trình dạy anh văn được rút ngắn. Mỗi tối tan học về, cùng các bạn nghe ké Radio, tin tức đài BBC hay đài VOA . Tôi thường ngồi khóc một mình, khi nghe được tiếng hát Khánh ly, Lệ Thu, Elvis Phương… những bài hát nghe nhớ nhà "đứt ruột". Đó là hai chữ mà ngày xưa tôi thường nghe Ba Má tôi nói. Tôi không hiểu thế nào, nhưng giờ đây tôi đã hiểu thấu thế nào là "đứt ruột".
Một sáng tinh sương, khí trời dịu mát, sau khi đi tập thể dục xong, tôi lang thang đến văn phòng thông tin, cũng như bao người có mặt nơi đây dò xem danh sách những người có thân nhân đi tìm. Tôi không tin vào mắt mình tên tôi rõ ràng từng nét ngày sanh, số tàu “có thư bảo đảm”. Tôi như người điên la thật to và nhảy tung tăng mừng rỡ khi bình tỉnh lại, chung quanh mọi người đều cười về sự vui mừng trông thật ngây ngô của tôi. Họ đã đồng cảm chia sẻ với niềm vui mà tôi đang có.
Đó là lần đầu tiên, nhận thư từ Úc của hai chi tôi gửi sang kèm cái cheque một trăm đô. Tạm thời chưa sử dụng được vì không có nơi đề đổi tiền. Nhưng điều quan trọng vào lúc này, lá thư của hai chị. Nó có ý nghĩa như lá bùa hộ mạng, để chứng minh khi tôi gặp phái đòan Úc sau này.
Thời gian chờ đợi chậm chạp trôi qua.Tôi được phái đòan Mỹ và phái đòan Pháp phỏng vấn nhưng tôi không khai có anh ở Mỹ và có cô ở Pháp. Tôi muốn đi Úc vì đa số anh chị đều ở Úc .Theo qui định của Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc dạo ấy. Ai muốn chờ quốc gia mình muốn đến” bóc đi” (định cư) thì ít nhất phải có hai quốc gia khác đóng “dấu bác”( khước từ) vào hồ sơ, tôi đã có đủ điều kiện vì phái đòan Mỹ và phái đoàn Pháp đóng dấu khước từ .
Hai tuần sau phái đoàn Úc đến trại phỏng vấn. Tôi không có tên trong danh sách phỏng vấn vì thứ tự hồ sơ chưa đến. Phái đòan sẽ làm việc bốn ngày, và ba tháng sau họ mới trở lại trại lần nữa. Những người có kinh nghiệm cho biết, nếu phỏng vấn nhanh, đôi khi họ bổ túc thêm danh sách.Với ý chí cương quyết và tinh thần nhẫn nại tôi không đầu hàng số phận Tự nghĩ mình phải làm sao và như thế nào để được vào phỏng vấn? Thế là mổi buổi sáng, tôi đều đứng chờ ngoài văn phòng phỏng vấn. Trưa đến giờ nghĩ, tôi vội chạy về lều ăn qua loa, rồi đến văn phòng tiếp tục chờ. Trên tay tôi luôn có “ lá bùa hộ mệnh” . hồi hộp và chờ đợi...Nhưng nghĩ lại.Tôi chờ ai đây,và chờ điều gì? Trong khi tên tôi chưa được niêm yết. Tôi chỉ biết cầu Phật Trời và Ông Bà, ban một phép nhiệm mầu cho tôi.
Ba ngày trôi qua, hết giờ làm việc tôi buồn thiu, lặng lẽ ra về ...mấy đứa cùng chuyến tàu cứ chọc “Đừng lo nữa chị ơi, chờ đi theo diện “hốt rác” với tụi em cho vui...”
Đến ngày thứ tư, tôi cảm thấy tuyệt vọng, danh sách ngồi chờ phỏng vấn vẫn còn.Tuy nhiên lòng tôi vẫn cương quyết không bỏ cuộc. Tôi khấn nguyện ơn trên giúp tôi có niềm tin và hy vọng...cho đến giây phút cuối cùng cuộc phỏng vấn kỳ này.
Bỗng một trận mưa thật lớn trút xuống, mọi người chạy tán loạn. Riêng tôi vẫn đứng im chờ đợi, bị ướt cả người, vốn mãnh mai yếu đuối. Tôi đã tự hỏi “không biết điều gì đã thúc đẩy tôi có một sức chịu đựng thế này ?” Có lẽ đó là niềm tin mãnh liệt trong tôi, được đức tin này là nhờ Ba Má tôi từng kể lại những tháng năm dài chạy loạn, từ thời Pháp thuộc cho đến trận Mậu Thân, và biến cố năm 1975. Ba Má tôi đã chịu đựng không biết bao gian khổ, khó khăn để cho mười đứa con được thành người, và tương lai tốt đẹp.
Năm 1976 vừa xong bậc trung học tôi rời Vĩnh Long, lần đầu tiên ba anh em chúng tôi vượt biên cùng với mười bảy người bạn chí thân. Vừa xuống tàu lớn chúng tôi đã bị bắt và đưa về nhà lao Rạch Giá trong nỗi lo âu sợ hãi.
Trong nhà giam, mọi vấn đề về vệ sinh đối với phụ nữ đỡ hơn nam giới. Buổi chiều, phụ nữ được thả ra sân chơi, nhìn qua bên phía nhà của nam giới, tôi nhận diện được anh và em tôi qua ô cửa sổ nhỏ. Chúng tôi trao đổi bằng cách ra dấu và biểu hiện bằng ánh mắt.
Đêm đêm tôi cầu nguyện Đất Trời, Ông Bà đã qua đời, phù hộ cho anh em tôi được thoát tai nạn này. Một buổi trưa đang mơ màng ngủ trong cơn nửa mê nửa tỉnh, những người cùng phòng đánh bài, trò chuyện lao xao, tôi cố giương đôi mắt nhưng không thể được. Bỗng một hình ảnh lung linh ở khung cửa sổ, trên nóc phòng giam. Hình bóng người thanh niên,vận áo dài khăn đóng, gương mặt thanh tú và hiền từ.
Công ơn dưỡng dục sinh thành của Ba Má vẫn luôn là một nét son đẹp nhất
trong đời. Đây là tấm gương sáng mà Người đã dành cho con cháu đời sau
noi theo, hình ảnh này mãi mãi không phai nhòa. Bên cạnh đó trong tôi
còn có một tinh thần của một Hướng Đạo sinh Việt Nam. Chúng tôi luôn
tươi cừơi và hát khi gặp khó khăn hoặc hiểm nguy "Hướng Đạo Việt Nam khó
khăn coi thường, Hướng Đạo Việt Nam đuốc thiên soi đường, luôn luôn ta
bền gan rèn tâm hồn trong sáng...".Vâng, tôi sẽ và rất kiên cường vượt
qua mọi thử thách đã và đang chờ. Xin biết ơn những huynh trưởng trong
Hướng Đạo đã rèn luyện cho tôi một tinh thần phấn đấu và niềm hy vọng để
sinh tồn.
Người được phỏng vấn đứng lên từ chiếc ghế trước mặt người tùy viên di trú Úc, anh trật tự gọi tiếp danh sách nhưng vắng mặt. Bây giờ chỉ còn phái đòan Úc và bác thông dịch viên. Như một điều kỳ diệu, tôi không tin vào mắt mình tôi vuốt nước mưa trên mặt, người tùy viên Úc vẫy tay gọi tôi vào, tôi đứng như pho tượng, không nhấc nổi đôi chân. Bác thông dịch gọi tôi.
- Cháu vào đây...
Bừng tĩnh, mừng khôn xiết! Tôi chạy nhanh vào văn phòng. Họ mời ngồi và tự giới thiệu tên .Tôi biết được người thông dịch viên tên Đào( tôi không rõ là họ hay tên)
Thế là cuộc phỏng vấn bắt đầu.
Bác Đào bảo:
- Cháu có biết tiếng Anh không?
- Thưa bác cháu biết ít thôi, cháu sợ quá!
- Chaú biết gì cứ trả lời, vì sẽ được nhiều ưu điểm, lúc nào không biết Bác sẽ giúp cháu. Bác rất ân cần và nhiệt tình, lời nói rất nhỏ nhẹ nên làm tôi hết lo sợ. Bác Đào thông dịch :
- Tại sao chaú đứng trong mưa, tại sao ngày nào ông ta cũng thấy cháu đứng trước cửa văn phòng, chờ đợi điều gì và chờ ai? cháu muốn đi đâu?
Tôi như người từ trên trời rơi xuống, chưa được hoàn hồn.Bác Đào tiếp:
- Cháu trả lời đi.
Bác Đào đánh thức cơn mộng của tôi.
- Dạ Cháu chờ đợi vì cháu không có tên trong danh sách phỏng vấn đợt này, cháu muốn đi Úc, cháu có hai người chị ở đó đang làm bảo lảnh cho cháu.
- Hai chị làm nghề gì, ở Tiểu Bang nào, có giấy làm bảo lảnh chưa? Có bằng chứng gì không?
Tôi vội đưa lá thư hai chị tôi viết bằng anh ngữ, hai chị biết sẽ dễ dàng khi tôi gặp phái đòan Úc sang phỏng vấn. Sau khi đọc xong lá thư. Họ bắt đầu phỏng vấn rất chi tiết lý lịch cá nhân và cả gia đình. Thình lình một chiếc máy bay đang bay trên bầu trời, người tùy viên Úc chỉ lên trời hỏi tôi.
- Đó là gì ?
Đồng thời ông hỏi những vật dựng trên bàn.Tôi phải tự trả lời bằng tiếng Anh. Sau vài giây hồi hôp, ông nói với Bác Đào, bác nhìn tôi mĩm cười:
- Phái đoàn Úc đã nhận cháu rồi.
Tôi lặng người và nước mắt rơi, một giấc mơ tôi chưa bao giờ nghĩ đến.Tôi thật không ngờ đời mình được diễm phúc như hôm nay.Tôi vừa khóc vừa cười vì sung sướng.Tôi đứng lên cám ơn Bác Đào và phái đoàn.
Ra về, suốt con đường về lều vừa đi vừa cười như một người điên..và cảm thấy chưa có ngày nào đẹp như hôm nay, kể từ lúc tôi vấn thân vào cuộc đời ly hương.
Chiều nay, tôi âm thầm khui mấy hộp đậu đây là thức ăn được tiếp tế, ngày nào cũng ăn nên chỉ cần ngữi mùi làm ai cũng phải sợ. Rửa sạch và nấu một nồi chè đãi các bạn, báo tin vui. Do tâm lý ai nấy đều công nhận nồi chè đậu hôm nay vừa ngon lại vừa thơm. Không ai tin phái đoàn Úc nhận tôi đi định cư là sự thật.
Hai tuần sau nhân viên văn phòng Ban đại diện gọi danh sách những người được nhận làm thủ tục khám sức khỏe, trả lều lại cho Ban nhà đất. Đúng một tháng tôi được chuyển trại để chờ chuyến bay. Trại chuyển tiếp chúng tôi đến là trại Sungei Besi. Nơi đây vừa mới xây loại nhà tiền chế, phòng bốn người ở, thức ăn được nấu sẳn, đến giờ mang dụng cụ lãnh thức ăn, giữa trại có một Tivi chiếu phim cho xem. Chúng tôi được xe bus đưa ra Kuala Lumpur để khám sức khoẻ và được hướng dẩn đi ngân hàng đổi cheque.
Ai cũng bảo sung sướng quá ! Nhưng càng sung sướng thì lòng tôi càng nhớ nhà, càng đau lòng nhiều hơn...Giờ đây tôi hiểu thật đầy đủ ý nghĩa lời của Ba Má tôi nói: “Ở đời các con hãy nhớ, được như hôm nay đó là do phước đức ông bà để lại. Vậy theo đó mà noi gương".Vâng, tôi là người hưởng rất nhiều phước đức của Ông Bà Cha Mẹ. Đời đời không bao giờ quên lời dạy quý báu của Ba Má tôi.
Tháng 12 tôi có chuyến bay đi Úc. Tại phi trường Malaysia còn sớm, chúng tôi được đi xem các cửa hàng.Tôi không quên người ân nhân Singapore ngày nào đã cứu mạng, tôi mua một post card gửi đến ông, viết lời cám ơn và từ giã, tôi rời Mã Lai đi đinh cư ở Úc.
Ngày 6- 12- 1979 chuyến bay boeing rời Mã Lai đến Melbourne vào lúc 6 giờ sáng. Chuyến xe bus đưa chúng tôi về Altona Migrant Hostel người ta bảo đây là mùa ấm thế mà chúng tôi lạnh run.Trời còn hơi sương và một buổi sáng thật yên tịnh, một thành phố trong lành, người Úc niềm nở hiếu khách thật dễ thương. Có thông dịch viên tiếp đón và ân cần cho biết sơ về nơi đây. Còn quá sớm nên chúng tôi được đưa về phòng ngủ, trưa sẽ trở lại văn phòng họp để nghe điều lệ và thủ tục định cư.
Hostel này ngày xưa là một trại lính gần bờ biển Williamstown. Sáu đứa con gái độc thân ở một căn, gồm ba phòng ngủ, một phòng khách, tiện nghi không thiếu, ngày ba buổi ăn trong canteen có nhân viên quét dọn phòng, trải thay drap giường. Điều quan trọng là họ đã tổ chức lớp học anh văn, không những thế mà họ còn
dạy cho chúng tôi biết thế nào là lịch sự văn minh của người tây phương, hướng dẩn từ cách ăn cách nói để hòa nhập vào phong tục và tập quán của người Úc.
Chúng tôi không có khóa học tại Hostel nên sáng xe bus đưa chúng tôi đến trung tâm sinh ngữ ở Collingwood học. Ăn sáng xong, mỗi đứa nhận một bọc thức ăn cho phần ăn trưa, đã đặt chiều qua. Đây là thời gian hiếm nhất để chúng tôi nhanh chóng hoàn tất khóa học tòan thời Gia đình được ở trong Hostel một năm, riêng độc thân thì sáu tháng. Sau khi trừ tiền ăn ở trong Hostel, chúng tôi được lảnh một cái cheque 23 đô la mỗi hai tuần. Thật sự tôi chưa bao giờ ngờ rằng cuộc đời mình quá may mắn như thế, người dân Úc thật tốt, họ mang mình đến đây, lo từ vật chất đến tinh thần .
Càng nghĩ tôi càng cố gắng vươn lên cố gắng làm một người công dân tốt hầu đáp lại tấm chân tình họ đã cưu mang tôi và cả gia đình tôi.
Năm 1981 vì lời nguyện cầu cho chuyến vượt biển bình an và cho cả tàu thoát hiểm tôi đã xin được rửa tội vào đạo trong mùa Phục Sinh.Sau một năm học anh văn tôi ghi danh vào đại học RMIT vì muốn có một nghề vững chắc hơn. Một mặt bảo lảnh Ba Má tôi. Nhưng vào lúc ấy Bộ Di Trú cần điều kiện phải có việc làm, vội vã đi tìm việc làm ngay, tôi đã gác việc học lại.
Ba Má được ra đi đó là điều tôi hằng ao ước, được báo đáp tình thương mà Ba Má tôi đã hy sinh cho anh chị em chúng tôi. Tôi làm ca đêm cho một hảng Kotex Mills ở vùng Brunswick dệt vớ phụ nữ , không ngại gian khó chỉ mong sao Ba Má được an hưởng tuổi già. Sau đó tôi xin làm một hảng khác ca ngày, cố làm hết sức mình cùng các anh chị lo cho gia đình, ngoài ra phải trả lại số nợ Ba Má đã vay cho tôi ra đi lần cuối cùng.
Năm 1982 tôi lập gia đình, 1983 chúng tôi được một trai và 1989 có thêm một gái.
Mùa Phục sinh năm 1984 Ba Má tôi đã được đến Úc theo diện đòan tụ gia đình. Đó là niềm hạnh phúc nhất đời của anh chị em chúng tôi. Ước mơ của tôi đã thành sự thật. Xin tạ ơn Đất Trời đã ban Hồng Ân đến cho đời tôi.
Cùng năm này may mắn được trúng tuyển trong kỳ thi do Bưu điện tổ chức, công việc đã cho gia đình tôi một cuộc sống ổn định trên bước đường lưu vong. Món quà quý nhất trong xã hội mới mẽ này.
Ba Má tôi thường bảo: “Đất nước này, người dân này tốt quá họ đã đem lòng nhân đạo để cưu mang chúng ta, Ba Má già rồi không làm được gì nữa. Bổn phận các con hãy ráng làm để trả ơn dùm Ba Má, và dạy dỗ con cái của mình trở thành người hữu dụng mai sau cho nước Úc và đẹp mặt cho người Việt Nam của mình nữa nhe con.”
Lời nhắc nhở này chúng tôi luôn ghi nhớ và cố gắng sống sao cho đáng làm người, tôi không làm được gì hơn là hết lòng dạy dỗ các con phải lấy Nhân, Lễ Nghiã, Trí,Tín làm nền tảng cho cuộc sống. Và tôi luôn hy vọng mai sau chúng là người có đức, có tài cùng góp một bàn tay giúp xây dựng đất nước này, và mãi mãi không quên mình là người Việt Nam kiên cường bất khuất!
Kim Oanh
Mùa Phục Sinh 2004
Người được phỏng vấn đứng lên từ chiếc ghế trước mặt người tùy viên di trú Úc, anh trật tự gọi tiếp danh sách nhưng vắng mặt. Bây giờ chỉ còn phái đòan Úc và bác thông dịch viên. Như một điều kỳ diệu, tôi không tin vào mắt mình tôi vuốt nước mưa trên mặt, người tùy viên Úc vẫy tay gọi tôi vào, tôi đứng như pho tượng, không nhấc nổi đôi chân. Bác thông dịch gọi tôi.
- Cháu vào đây...
Bừng tĩnh, mừng khôn xiết! Tôi chạy nhanh vào văn phòng. Họ mời ngồi và tự giới thiệu tên .Tôi biết được người thông dịch viên tên Đào( tôi không rõ là họ hay tên)
Thế là cuộc phỏng vấn bắt đầu.
Bác Đào bảo:
- Cháu có biết tiếng Anh không?
- Thưa bác cháu biết ít thôi, cháu sợ quá!
- Chaú biết gì cứ trả lời, vì sẽ được nhiều ưu điểm, lúc nào không biết Bác sẽ giúp cháu. Bác rất ân cần và nhiệt tình, lời nói rất nhỏ nhẹ nên làm tôi hết lo sợ. Bác Đào thông dịch :
- Tại sao chaú đứng trong mưa, tại sao ngày nào ông ta cũng thấy cháu đứng trước cửa văn phòng, chờ đợi điều gì và chờ ai? cháu muốn đi đâu?
Tôi như người từ trên trời rơi xuống, chưa được hoàn hồn.Bác Đào tiếp:
- Cháu trả lời đi.
Bác Đào đánh thức cơn mộng của tôi.
- Dạ Cháu chờ đợi vì cháu không có tên trong danh sách phỏng vấn đợt này, cháu muốn đi Úc, cháu có hai người chị ở đó đang làm bảo lảnh cho cháu.
- Hai chị làm nghề gì, ở Tiểu Bang nào, có giấy làm bảo lảnh chưa? Có bằng chứng gì không?
Tôi vội đưa lá thư hai chị tôi viết bằng anh ngữ, hai chị biết sẽ dễ dàng khi tôi gặp phái đòan Úc sang phỏng vấn. Sau khi đọc xong lá thư. Họ bắt đầu phỏng vấn rất chi tiết lý lịch cá nhân và cả gia đình. Thình lình một chiếc máy bay đang bay trên bầu trời, người tùy viên Úc chỉ lên trời hỏi tôi.
- Đó là gì ?
Đồng thời ông hỏi những vật dựng trên bàn.Tôi phải tự trả lời bằng tiếng Anh. Sau vài giây hồi hôp, ông nói với Bác Đào, bác nhìn tôi mĩm cười:
- Phái đoàn Úc đã nhận cháu rồi.
Tôi lặng người và nước mắt rơi, một giấc mơ tôi chưa bao giờ nghĩ đến.Tôi thật không ngờ đời mình được diễm phúc như hôm nay.Tôi vừa khóc vừa cười vì sung sướng.Tôi đứng lên cám ơn Bác Đào và phái đoàn.
Ra về, suốt con đường về lều vừa đi vừa cười như một người điên..và cảm thấy chưa có ngày nào đẹp như hôm nay, kể từ lúc tôi vấn thân vào cuộc đời ly hương.
Chiều nay, tôi âm thầm khui mấy hộp đậu đây là thức ăn được tiếp tế, ngày nào cũng ăn nên chỉ cần ngữi mùi làm ai cũng phải sợ. Rửa sạch và nấu một nồi chè đãi các bạn, báo tin vui. Do tâm lý ai nấy đều công nhận nồi chè đậu hôm nay vừa ngon lại vừa thơm. Không ai tin phái đoàn Úc nhận tôi đi định cư là sự thật.
Hai tuần sau nhân viên văn phòng Ban đại diện gọi danh sách những người được nhận làm thủ tục khám sức khỏe, trả lều lại cho Ban nhà đất. Đúng một tháng tôi được chuyển trại để chờ chuyến bay. Trại chuyển tiếp chúng tôi đến là trại Sungei Besi. Nơi đây vừa mới xây loại nhà tiền chế, phòng bốn người ở, thức ăn được nấu sẳn, đến giờ mang dụng cụ lãnh thức ăn, giữa trại có một Tivi chiếu phim cho xem. Chúng tôi được xe bus đưa ra Kuala Lumpur để khám sức khoẻ và được hướng dẩn đi ngân hàng đổi cheque.
Ai cũng bảo sung sướng quá ! Nhưng càng sung sướng thì lòng tôi càng nhớ nhà, càng đau lòng nhiều hơn...Giờ đây tôi hiểu thật đầy đủ ý nghĩa lời của Ba Má tôi nói: “Ở đời các con hãy nhớ, được như hôm nay đó là do phước đức ông bà để lại. Vậy theo đó mà noi gương".Vâng, tôi là người hưởng rất nhiều phước đức của Ông Bà Cha Mẹ. Đời đời không bao giờ quên lời dạy quý báu của Ba Má tôi.
Tháng 12 tôi có chuyến bay đi Úc. Tại phi trường Malaysia còn sớm, chúng tôi được đi xem các cửa hàng.Tôi không quên người ân nhân Singapore ngày nào đã cứu mạng, tôi mua một post card gửi đến ông, viết lời cám ơn và từ giã, tôi rời Mã Lai đi đinh cư ở Úc.
Ngày 6- 12- 1979 chuyến bay boeing rời Mã Lai đến Melbourne vào lúc 6 giờ sáng. Chuyến xe bus đưa chúng tôi về Altona Migrant Hostel người ta bảo đây là mùa ấm thế mà chúng tôi lạnh run.Trời còn hơi sương và một buổi sáng thật yên tịnh, một thành phố trong lành, người Úc niềm nở hiếu khách thật dễ thương. Có thông dịch viên tiếp đón và ân cần cho biết sơ về nơi đây. Còn quá sớm nên chúng tôi được đưa về phòng ngủ, trưa sẽ trở lại văn phòng họp để nghe điều lệ và thủ tục định cư.
Hostel này ngày xưa là một trại lính gần bờ biển Williamstown. Sáu đứa con gái độc thân ở một căn, gồm ba phòng ngủ, một phòng khách, tiện nghi không thiếu, ngày ba buổi ăn trong canteen có nhân viên quét dọn phòng, trải thay drap giường. Điều quan trọng là họ đã tổ chức lớp học anh văn, không những thế mà họ còn
dạy cho chúng tôi biết thế nào là lịch sự văn minh của người tây phương, hướng dẩn từ cách ăn cách nói để hòa nhập vào phong tục và tập quán của người Úc.
Chúng tôi không có khóa học tại Hostel nên sáng xe bus đưa chúng tôi đến trung tâm sinh ngữ ở Collingwood học. Ăn sáng xong, mỗi đứa nhận một bọc thức ăn cho phần ăn trưa, đã đặt chiều qua. Đây là thời gian hiếm nhất để chúng tôi nhanh chóng hoàn tất khóa học tòan thời Gia đình được ở trong Hostel một năm, riêng độc thân thì sáu tháng. Sau khi trừ tiền ăn ở trong Hostel, chúng tôi được lảnh một cái cheque 23 đô la mỗi hai tuần. Thật sự tôi chưa bao giờ ngờ rằng cuộc đời mình quá may mắn như thế, người dân Úc thật tốt, họ mang mình đến đây, lo từ vật chất đến tinh thần .
Càng nghĩ tôi càng cố gắng vươn lên cố gắng làm một người công dân tốt hầu đáp lại tấm chân tình họ đã cưu mang tôi và cả gia đình tôi.
Năm 1981 vì lời nguyện cầu cho chuyến vượt biển bình an và cho cả tàu thoát hiểm tôi đã xin được rửa tội vào đạo trong mùa Phục Sinh.Sau một năm học anh văn tôi ghi danh vào đại học RMIT vì muốn có một nghề vững chắc hơn. Một mặt bảo lảnh Ba Má tôi. Nhưng vào lúc ấy Bộ Di Trú cần điều kiện phải có việc làm, vội vã đi tìm việc làm ngay, tôi đã gác việc học lại.
Ba Má được ra đi đó là điều tôi hằng ao ước, được báo đáp tình thương mà Ba Má tôi đã hy sinh cho anh chị em chúng tôi. Tôi làm ca đêm cho một hảng Kotex Mills ở vùng Brunswick dệt vớ phụ nữ , không ngại gian khó chỉ mong sao Ba Má được an hưởng tuổi già. Sau đó tôi xin làm một hảng khác ca ngày, cố làm hết sức mình cùng các anh chị lo cho gia đình, ngoài ra phải trả lại số nợ Ba Má đã vay cho tôi ra đi lần cuối cùng.
Năm 1982 tôi lập gia đình, 1983 chúng tôi được một trai và 1989 có thêm một gái.
Mùa Phục sinh năm 1984 Ba Má tôi đã được đến Úc theo diện đòan tụ gia đình. Đó là niềm hạnh phúc nhất đời của anh chị em chúng tôi. Ước mơ của tôi đã thành sự thật. Xin tạ ơn Đất Trời đã ban Hồng Ân đến cho đời tôi.
Cùng năm này may mắn được trúng tuyển trong kỳ thi do Bưu điện tổ chức, công việc đã cho gia đình tôi một cuộc sống ổn định trên bước đường lưu vong. Món quà quý nhất trong xã hội mới mẽ này.
Ba Má tôi thường bảo: “Đất nước này, người dân này tốt quá họ đã đem lòng nhân đạo để cưu mang chúng ta, Ba Má già rồi không làm được gì nữa. Bổn phận các con hãy ráng làm để trả ơn dùm Ba Má, và dạy dỗ con cái của mình trở thành người hữu dụng mai sau cho nước Úc và đẹp mặt cho người Việt Nam của mình nữa nhe con.”
Lời nhắc nhở này chúng tôi luôn ghi nhớ và cố gắng sống sao cho đáng làm người, tôi không làm được gì hơn là hết lòng dạy dỗ các con phải lấy Nhân, Lễ Nghiã, Trí,Tín làm nền tảng cho cuộc sống. Và tôi luôn hy vọng mai sau chúng là người có đức, có tài cùng góp một bàn tay giúp xây dựng đất nước này, và mãi mãi không quên mình là người Việt Nam kiên cường bất khuất!
Kim Oanh
Mùa Phục Sinh 2004
CHẾ VĂN THỨC * CHẾT TẬP THỂ TRONG TRẠI TÙ CẢI TẠO
-
Lời nói đầu: Khi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) non trẻ của Miền Nam Việt Nam bị sụp đổ bởi sự phản bội của nước bạn đồng minh. Quân cộng miền Bắc tiến chiếm Miền Nam, trên thế giới đã có một nhận định cho rằng: sẽ có cuộc tắm máu xảy ra.
Nhưng không, rút kinh nghiệm của các nước cộng sản anh em và của chính Cộng Sản Việt Nam (CSVN) qua những lần tắm máu, sau khi cướp được chính quyền, bị thế giới lên án nặng nề. Lần này, sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, CSVN không áp dụng thủ đoạn tắm máu mà thi hành chính sách KHÔ MÁU! Đối với Quân Dân Cán Chính VNCH.
Bài viết sau đây, tôi kể lại một chuyện thật, không hư cấu, một trong trăm ngàn sự thật về chính sách đối xử tàn độc của chế độ CSVN với nhân dân Miền Nam Việt Nam! Đề tài khô khan, mong người đọc thông cảm.
TRẠI TÙ SUỐI MÁU, Biên Hòa.
Phản Kháng Của Tù Cải Tạo Trong Đêm Noel 1978.
Sau ba năm lao động khổ sai trên vùng rừng núi cao nguyên Lambiang (Lâm Viên) cuối dãy Trường Sơn. Những sĩ quan QLVNCH, người tù chính trị không án, được ngụy trang dưới mỹ từ “cải tạo”, do các đơn vị bộ đội quản lý từ sau ngày 30 tháng Tư năm 1975. Nay vì nhu cầu cuộc chiến xâm chiếm nước láng giềng Cambodia vào cuối năm 1978, bộ đội đã chuyễn chúng tôi trở về trại Suối Máu, Biên Hòa, giao qua ngành công an quản lý.
Tùy tình thân giữa bạn tù với nhau, trong các ngày lễ lớn của bất cứ tôn giáo nào, hay những ngày lễ Quốc Gia, ngày tết Dương Lịch, tết Nguyên Đán, chúng tôi từng nhóm tụ năm tụ bảy hàn huyên tâm sự. Chiều hôm 24 tháng 12 năm 1978, từng nhóm bạn gom góp mỗi người một ít đường, gạo nếp, đốt lửa đó đây dọc theo hè nhà, nấu chè lạc để có bửa ăn chung đón mừng ngày Chúa Giáng Sinh. Trên vọng gác, công an trông thấy dấu hiệu lạ trong các khu giam tù từ K1, đên các khu K2, K3. Khoảng 7 giờ tối, từng toán công an võ trang vào bên trong tuần tra, hỏi chúng tôi chuyện gì mà tụ tập, chúng tôi giải thích. Toán tuần tra rão quanh một vòng rồi trở ra ngoài.
Đến 8 giờ tối, hầu hết các K vang lên tiếng cười cùng tiếng vỗ tay. Khu K1 nơi giam tù sĩ quan cấp Thiếu và Trung úy, tuổi chừng 20 đến 30 rất trẻ, còn tràn đầy sinh khí, ồn ào náo động nhất, họ hát Thánh ca, tình ca với những chiếc đàn guitar tự chế.
Các toán công an võ trang trở vào, ra lệnh “cải tạo viên “ giải tán vào bên trong láng (nhà). Chưa đến 10 giờ đêm, giờ ngủ theo quy định của trại, họ cưỡng lệnh không chịu vào. Có tiếng súng nổ, công an võ trang bắt đi ba người tù đem ra ngoài khu giam.
Lập tức, toàn thể tù nhân khu K1 gọi nhau tập trung ở sân trước đối diện với cửa ra vào Ban giám thị trại. Họ dùng tay làm loa che miệng, đồng thanh kêu gọi Giám thị trại thả người trở vào, cũng hướng về các khu K2 giam tù cấp Tá, khu K3 cấp Đại úy để thông báo tình hình và xin tiếp tay yểm trợ, bằng cách tất cả tù nhân ra khỏi láng, làm theo những gì bạn tù K1 yêu cầu với Giám thị trại.
Bên ngoài, Giám thị trại vẫn im lìm, bên trong âm thanh hò reo của tù nhân vang dội toàn khu trại tù Suối Máu. Ngay lúc này, tại K2 các bạn tù cấp Tá, nhanh chóng thành lập Ủy Ban Hành Động (UBHĐ). Thiếu tá Không Quân Lê Thanh Hồng Vân vóc người to cao, làm Trưởng UBHĐ (hiện nay anh đang định cư tại Florida). Thiếu tá Pháo binh Lê Văn Sanh làm Phó Trưởng Ban (nay anh định cư tại Texas) và nhiều thành viên cho từng bộ phận, như bộ phận Hành Động, bộ phận An Ninh, bộ phận Kế Hoạch. Một số thành viên trong UBHĐ chui hàng rào kẻm gai, sang K1 hổ trợ và bàn kế hoạch. Hàng rào kẽm gai ngăn giữa các K trước đấy rất kiên cố, nhưng sau ba năm do bộ đội quản lý, cán binh bộ đội nhổ bớt cọc sắt ấp chiến lược và tháo lấy kẽm gai để làm việc riêng tư, nên nay hàng rào thưa trống, người chui qua lại rất dễ dàng.
Đã giữa khuya, Giám thị trại vẫn không động tỉnh. Bước đầu UBHĐ kêu gọi nhau hát các bản Thánh ca, trong đó bản HANG BELEM :
Ðêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời
Chúa sinh ra đời nằm trong hang đá nơi máng lừa.
Trong hang bê-lem ánh sáng tỏa lan tưng bừng . . .
là bản nhạc dễ hát nhất, hầu như ai cũng hát được, không phân biệt tôn giáo, các bạn tù Ki Tô Hữu hát lớn mọi người cùng hát theo, lặp đi lặp lại liên hồi, chen lẫn với tiếng vổ tay, tiếng kêu gọi thả tù. Trời về khuya tỉnh mịch, âm thanh vang dội đến tận vùng dân cư nhà thờ Hố Nai, Biên Hòa.
Có tiếng động cộc cạch từ những loa phóng thanh đặt sẳn trong các K giam tù, để Giám thị trại thông báo chỉ thị, mở đài (radio) phát thanh Hà Nội, đài Saigòn giải phóng cho tù nhân nghe tin tức vào mỗi sáng sớm và chiều tối. Giám thị trại lên tiếng:
"Yêu cầu tất cả “trại viên cải tạo” trong các K giải tán trở vào láng để ngủ, sau đó Ban giám thị sẽ cho ba trại viên trở vào."
Không ai bảo ai mọi người đồng loạt trả lời:
“ Phải thả người vào trước đã”.
Hai bên, lời qua tiếng lại giằng co mãi, lồng trong tiếng hát Thánh ca mỗi lúc một vang dội hơn, mặc dù đêm đông giá lạnh nhưng mọi người vẫn kiên trì ngồi dưới sương khuya.
Từ xa vọng lại tiếng động cơ nổ rầm rì, rồi dần dần nghe rõ tiếng xích sắt của xe tăng nghiền trên mặt đường nhựa, từ hướng nhà thờ Hố Nai tiến về trại tù Suối Máu. Bọn cai tù lượng định tình thế, kéo dài thời gian xin chỉ thị cấp trên, điều động xe tăng đến mặt trước của trại tù để thị oai. Không nao núng, UBHĐ đưa ra quyết định, gọi lớn ra bên ngoài:
” Nếu ban giám thị trại không thả người vào, đêm nay tất cả trại viên cải tạo sẽ không vào ngủ”.
Tiếng gầm gừ của máy nổ, tiếng xích sắt của tăng nghiền trên mặt đường mỗi lúc nghe ác liệt hơn, rồi từng loạt đại liên trên tăng thay nhau nổ dòn, đạn hú xé không gian, xẹt ánh lửa vèo vèo ngang qua các nóc nhà trại giam.
Trước tình huống đã cởi lưng cọp không thể lùi, UBHĐ họp bàn quyết định, thông báo cho Giám thị trại:
”Ngày mai toàn thể trại viên cải tạo sẽ TUYỆT THỰC nếu trại không thả người vào”.
Đồng thời loan báo đến các K:
“Yêu cầu tất cả các toán anh nuôi, sáng ngày mai KHÔNG ĐƯỢC RA BỘ CHỈ HUY LÃNH GẠO VÀ THỰC PHÂM, cho đến khi Ban giám thị trại thả người vào.”
Tiếng hát Thánh ca tiếng vỗ tay, tiếng gọi thả tù vẫn tiếp tục vang vang trong đêm khuya. UBHĐ kêu gọi các bạn tù lớn tuổi vào láng để nghỉ trước, nhưng không một ai chịu rời chỗ. Biện pháp TUYỆT THỰC của tù nhân là sự việc bất ngờ đối với Giám thị trại. Phần chủ động của quyết định này thuộc về phía tù nhân. Không một toán anh nuôi nào có thể cưởng lại, không chấp hành, nếu họ muốn sống còn.
Thấy tình thế không thuyết phục được đám tù nhân nếu không thả tù.
Giám thị trại Bằng lên tiếng yêu cầu toàn thể trại viên cải tạo giải tán vào ngủ. Ba trại viên sẽ trở vào khi làm xong kiểm điểm trong một thời gian ngắn.
Cùng lúc ấy tiếng máy nổ của xe tăng xa dần khu trại tù Suối Máu.
Khuya lắm rôi, tù nhân vẫn ngồi hát Thánh ca. Bổng có tiếng dây xích sắt lỏn cỏn va chạm vào trụ cổng K1, của mở ba bạn tù bước vào bên trong. Tiêng hoan hô, reo hò gọi tên ba bạn tù. UBHĐ thông báo đến mọi người trở vào láng và bỏ lệnh tuyệt thực, để ngày mai các toán anh nuôi tiếp tục làm nhiệm vụ cơm nước.
ĐƯỜNG VÀO ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN
Noel, 24 tháng 12 năm 1978, đã là ngày 25 tháng 11 năm Mậu Ngọ, chỉ còn đúng một tháng đến tết Kỷ Mùi 1979. Thời gian này, nước lớn đàn anh Trung Cộng dạy cho bọn đàn em CSVN một bài học ở địa đầu giới tuyến. Không khí trong trại tù sôi sục về thời sự nghe được qua loa phóng thanh của trại.
Sau đêm tù cải tạo phản kháng, chúng tôi nghĩ sẽ có sự trừng phạt đến với một số người. Nhưng không, Giám thị trại, những con cáo già không biểu lộ một thái độ hằn học nào. Ngược lại cục trại giam đưa cán bộ tuyên huấn đến trại nói chuyện về tình hình biên giới Việt Trung, tuyên truyền, đề cao bộ đội cộng sản ở tuyến đầu chống trả quân bành trướng Trung Quốc v.v…
Giám thị trưởng trại tỏ ra thân thiện vui vẽ, liên tiếp vào trại tập họp “trại viên cải tạo” nói chuyện về chánh sách cải tạo khoan hồng của đảng, nhà nước và nhân dân . . . Ngoài ra, giám thị trại bàn đến ngày tết truyền thống, tết Kỷ Mùi, đề ra kế hoạch thi đua, mừng đón Xuân. Mục đích đánh lạc hướng kế hoạch đòn thù mà chúng sẽ áp dụng.
Sau những ngày tết Kỷ Mùi, đầu tháng 2-1979, bửa cơm chiều vừa xong, tù nhân cấp Tá ở K2 chúng tôi, có lệnh tập trung lên hội trường làm việc. Lệnh tập họp bất thường vào chiều tối, mọi người đã đoán có điều bất thường sẽ đến. Quanh hội trường công an võ trang canh gác. Trên bục, giám thị trưởng đọc “lệnh chuyễn trại”.
Trong đời người tù cải tạo, chuyễn trại là cả một cực hình, một nỗi kinh hoàng không kể xiết. Danh sách đen, hơn 350 tù cấp Thiếu, Trung và Đại tá chúng tôi, lần lược được gọi tên, tách riêng, ra sân xếp thành từng đội 30 người. Lệnh cho chúng tôi trở về láng thu xếp tù trang rồi đi ngủ.
Khi có lệnh tất cả tập họp lên sân trại. Chúng tôi được phát một khúc bánh mì bột bo bo kẹp chút thịt heo mỡ. Đúng 4 giờ sáng tiếng ì ầm của đoàn xe Molotova tiến vào trước cổng trại.
Đoàn xe tù lên đường còn trong đếm tối, mãi đến lúc bình minh ló dạng, chúng tôi mới biết đoàn xe đang chạy trên Quốc lộ I, đi về hướng Bắc. Mỗi xe tù có một công an võ trang đi theo, nhưng họ ngôi cùng tài xế ở trước xe, do vậy ở phía sau chúng tôi bàn tán với nhau, đoán già đoán non đủ thứ. Đến trưa đoàn xe tù vào thành phố Phan Rang, đoàn xe ngừng lại ở đầu thành phố. Tài xế vào phố ăn trưa, mỗi chúng tôi cầm khúc bánh mì bo bo ngao ngán.
Người bán hàng rong trong phố, thấy có đoàn xe vừa dừng ở bên ngoài, họ kéo nhau chạy ra, phụ nữ già trẻ có, các cháu nam nữ tuổi rất nhỏ, quần áo bạc màu, rạn rách. Trên tay mỗi người một cái mẹt, một chiếc rổ rá đựng ít củ khoai lan, củ mì (sắn) luộc, mớ trái cây, các loại bánh gói lá chuối. Ra đến nơi, ban đầu họ không biết xe chở khách gì, họ chạy ùa đến rao bán mớ hàng trên tay. Có sự đồng ý của công an võ trang, một số anh em tù chúng tôi đứng lên trong xe, chìa tiền mua thức ăn. Bất chợt một phụ nữ lớn tuổi trong nhóm, nhìn thấy chữ CẢI TẠO thật to, dấu đóng trên lưng áo, trên quần tù nhân. Bà ta la lớn lên gần như gào thét:
“Các chú CẢI TẠO tụi bay ơi, các chú cải tạo tụi bay ơi, đưa lên cho các chú đi đừng lấy tiền của các chú, đưa lẹ lên ”.
Cả nhóm nghe theo lời bà. Chúng tôi cầm tiền, cúi gập người xuống năn nĩ các cháu nhỏ lấy tiền, nhưng chúng lắt đầu lia lịa, chúng chia nhau chạy khắp đoàn xe tù, ném đồ ăn lên xe. Một vài cháu lớn tuổi khỏe hơn, chạy thật nhanh vào trong phố gọi thêm các bạn mang hàng ra cho, ra đến nơi đoàn xe tù đã nổ máy chuyễn đi, họ ném theo lên xe tù những gì họ có trên rổ rá và đứng nhìn theo cho đến khi đoàn xe khuất xa – Mắt tôi cay cay nhỏ lệ, không phải chỉ lúc đó mà chính lúc này, tôi đang kể lại ký ức khó quên trong đời tù cải tạo, sau 30 tháng Tư-1975 – Xin nói rõ, trong giai đoạn đầu vào trại tù, bộ đội quản lý, không thu giữ tiền bạc và đồng hồ, nhẩn vàng.
Đoàn xe tù tiếp tục lăn bánh về hướng bắc Quốc lộ I, chúng tôi không đoán được sẽ đi về đâu. Khoảng 4 giờ chiều đoàn xe qua cầu đập Đồng Cam, rồi qua khỏi thị xã Tuy Hòa, Phú Yên đến quận Tuy An, đoàn xe rẽ trái, băng qua thiết lộ hỏa xa, dẫn vào quận Đồng Xuân. Lúc này tôi nhận ra địa danh vì tôi đã từng hành quân trên Khu 22 Chiến Thuật này gồm ba tỉnh: Bình Định, Phú Yên và Phú Bổn.
Trồi lên hụp xuống trên một độc đạo tung bụi đỏ mịt mù, đoàn xe mang chúng tôi vào một thung lũng rọ heo xa hun hút, dưới khí trời vàng vàng mờ ảo trong ánh nắng chiều. Đoàn xe dừng lại trước cổng một trại giam, tứ bề vòng rào lưới B40 và kẽm gai kiên cố. Trại cải tạo XUÂN PHƯỚC quận Đồng Xuân tỉnh Phú Yên, trại tù mang bí số A20. Những trại tù có mang bí số, trực thuộc Cục Quản Lý Trại Giam Trung Ương điều hành, là những trại tù nổi tiếng khắc nghiệt đối với tù nhân
CẢNH ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN
Trước khi vào đến trại giam A20, đoàn xe vượt qua một đoạn đường, bên phải là sườn đồi đất đỏ sỏi đá, bên trái là một cánh đông đất sét với những thửa rộng lúa cháy vàng bởi nắng hạn. Một cảnh tượng hải hung, thoạt đầu chúng tôi không ai hiểu nổi là hình ảnh gì, mặc dù chúng tôi cũng trong thân phận người tù!
Trên những thửa ruộng khô, đất đai nứt nẻ, lố nhố những toán người không áo không mũ nón, vỏn vẹn chỉ chiếc quần cụt, để lộ đôi ống xương chân khẳng khiu, thân hình da bọc xương với chiếc đầu lâu sậm màu! Hình ảnh ma quái này, ngày nay nếu sống ở Mỹ chúng ta có thể tưởng tượng được. Vào dịp lễ Halloween 31 tháng 10 mỗi năm, trong các của tiệm bán đồ trang trí lễ ma, chưng bày những bộ xương người, đầu lâu trắng hếu, trông ghê rợn, thì cảnh tượng trên cánh đồng khô, người tù đang lao động giống y chang như vậy. Ở đây những bộ xương ma quái kia biết cử động, đôi tay xương xẩu, nặng nề mệt nhọc nâng cây cuốc đưa lên thả xuống, đang đào xới thửa ruộng đất khô cằn chai cứng!
Trước cổng trại, chúng tôi được lùa xuống sắp hàng trên một sân gạch rộng lớn. Trời đã chiều, từ nhiều hướng các đội tù lao động lần lượt kéo về, sắp hàng chờ khám xét nhập trại. Chúng tôi sửng sờ, tận mắt nhìn rõ những bộ áo quần tù, xám tro bạc màu, rách tả tơi, bay phất phơ trên những bộ xương với có chiếc đầu lâu mà chúng tôi đã nhìn thấy trên cánh đồng trước đó. Những người tù đã cởi bỏ áo quần để không cho thấm ướt mồ hôi, hầu giữ ấm được thân thể khi về trại.
Thành phần tù gì? Họ là ai? Họ là tù hình sự. Phần lớn là con cháu của quân nhân, công chức VNCH. Tuổi chừng 15 đến 30, vào tù cải tạo vì không chịu thi hành nghĩa vụ quân sự, không muốn đem thân bỏ mạng nơi chiến trường Cambodia. Không thi hành nghĩa vụ lao động, theo chính sách cưỡng bức lao động cá nhân, hay buộc phải đi lao động thay thế cho thân nhân già yếu trong gia đình. Công tác lao động thường là công trình thủy lợi, đào kênh dẫn nước, vào núi chẻ đá, khuân vác đất đá, đốn gỗ, xây đập ngăn nước. Một thành phần nữa, là con cháu các gia đình “ngụy quân, ngụy quyền và ngụy dân” bị chính quyền địa phương đẩy đi vùng “kinh tế mới”, cuộc sống thiếu thốn quá khổ, bỏ trốn về các thành phố, mua lén bán chui, kiếm sống, giúp đở mẹ, anh em, trong khi ông, cha đang trong tù cải tạo! Chỉ có dưới chế độ cộng sản, mới có chuyện ba thế hệ gặp nhau trong nhà TÙ!
Chúng tôi tù chính trị, được nhốt chung với tù hình sự trong trại giam Xuân Phước, nhưng ở riêng một khu, cách nhau một sân rộng và nhà hội trường. Trại cấm chúng tôi “liên hệ” với tù hình sự, nhưng rồi đó đây chúng tôi cũng tiếp xúc được.
Dãy nhà tôi ở mang số 8, gọi là láng 8, dài chừng 50 met, nơi tôi ở, sát cạnh một “trạm xá”, ngôi nhà nhỏ diện tích độ 10 x 5 mét, mái tranh vách đất, chỉ một cửa nhỏ ra vào . Nói là trạm xá nhưng nhiều ngày, chẳng thấy y tá hay y sĩ vãng lai, cũng không thấy khám bệnh. Thì ra nơi đó, các cháu bị bệnh lao phổi đến thời kỳ quá nặng, cán bộ trại đưa vào cách ly, nằm chờ chết. Tiếng ho sùng sục bên trong liên hồi vọng ra.
Những cháu còn chút sức, lê thân ra ngoài hóng nắng, mở nút áo để lộ thân hình da bọc xương, đầu trọc không còn chút tóc, người co quắp, thở hỗn hễn, đứt đoạn từng hơi! Dãy nhà 8 nằm cuối cùng, sát hàng rào trại, nên họ ngăn một đoạn ngay đầu nhà, chừng 5 met làm thành một phòng nhỏ, phòng xác! Do vậy, bọn tù ở láng 8 chúng tôi, nhìn qua khe cửa, mỗi ngày chứng kiến ít nhất có từ 2 đến 3 xác chết, quấn bằng manh chiếu hay mền. Trên đầu chiếc giường tre, ngọn đèn dầu leo lắc, một chén cơm có cắm đôi đủa. Họ đưa xác vào đó ban đêm sau 7 giờ tối, khi chúng tôi đã vào bên trong láng ngủ và cửa khóa chặt. Ngày hôm sau, lúc chúng tôi xuất trại đi lao động bên ngoài, cán bộ trại cho đội tù hình sự, có tên Đội Tự Giác, dùng xe cải tiến, loại xe thùng có 2 bánh sắt, chở xác chết ra chôn ở một ven rừng đất đỏ, nghĩa địa của trại.
Những lần đi lao động ngang qua đây, chúng tôi đã thấy nhiều nấm mộ lắm rồi.
Tù cải tạo thuộc diện tù chính trị như chúng tôi, thời kỳ do bộ đội quản lý, mặc dù lao động khổ sai trong vùng rừng núi Trường Sơn, nhưng khi làm lao động có thể đi lại đó đây, tìm kiếm rau lá, bẩy chuột, bắt rắn cóc nhái . . . cải thiện bửa ăn, phụ thêm mớ thực phẫm, do vợ con thân nhân, cực khổ gồng gánh, vượt vạn dặm thăm nuôi. Thân xác chúng tôi cũng đã kiệt quệ, nhưng chưa đến nổi nào.
Đến lúc vào tay ngành công an quản lý, tại trại tù A20 này, quy chế đời sống chúng tôi không khác gì so với các cháu tù hình sự. Phần ăn mỗi bửa đều giống nhau. Nấu bếp làm cơm do tù hình sự phụ trách. Bửa ăn sáng trước giờ đi đồng lao động, mỗi phần ăn độ 4, 5 lát “sâm”. gọi là sâm cho vui, cũng để đánh lừa cái miệng, thực ra nó là những lát mì (củ sắn).
Mì do tù nhân trồng trọt, đến mùa thu hoach (bới lấy củ), cán bộ trại bắt tù nhân ngồi giữa đồi trọc, mỗi người một khúc gỗ, một con dao lớn, chặt củ sắn thành nhiều lát, có bề dày bằng nữa đầu lóng tay, những lát mì tung ra phơi nắng ngay tại chỗ, trên nền đất cát đỏ, qua nhiều ngày đêm, bất kể nắng mưa sương gió, cát bụi bám đầy. Đến lúc lát mì khô đã đổi sang màu sậm, được đưa vào các kho chứa, bao bọc bởi những mành tre thưa mỏng, không đủ sức che mưa gió. Những lát mì đóng lại thành cục, lên men trắng, men vàng rồi men đỏ, lát mì không còn lên men được nữa, trở thành những lát Sâm Cao Ly màu đen lánh!
Phần cơm trưa và cơm chiều giống nhau. Chén cơm chỉ là một chén sâm, cỏng lưa thưa một vài hạt cơm! Thức ăn là tô canh rau xanh, rau do tù trồng, được bón loại phân XANH, tức phân người trộn với lá cây xanh, phân lấy từ cầu tiêu nổi có thùng chứa. Những lúc trời nắng hạn, không sản xuất đủ rau xanh, thay canh bằng lưng nửa chén mắm thối!. Cai tù thầu mua tất cả các loại cá do ngư dân đánh bắt, không đủ phương tiện ướp lạnh, không đủ muối ướp mặn, đã ươn sình, thối rữa. Lâu lâu, xe tải chở cá vào trại, đã nghe mùi hôi tanh. Chúng đổ cá vào hồ làm mắm, hồ xây bằng xi măng rất lớn, tường cao 2 mét, chia thành bốn ngăn khoản 3x2 mét, mặt trên bịt kín, chừa một nắp đậy vuông.
Cá không ăn muối cá ươn, ở đây cá đã ươn sình, đưa vào hồ làm mắn, đổ thêm nước lã, lại không bỏ đủ muối, cá lên men mục nát rất nhanh, trở thành nước mắn. Màu nước mắm đen ngồm, tựa nước ống cống chợ cầu ông Lãnh, Saigon! Những khi toán anh nuôi mở nắp hầm lấy mắm, mùi thối xông lên nồng nặc, tỏa đi khắp khu trại giam, đến nín thở. Cầm chén mắm, không cách nào tôi đưa chén mắm lên miệng được, cho dù dùng mấy ngón tay cố bóp kín lỗ mũi. Tôi không ăn được mắm thối, nhưng cũng không đổ bỏ đi. Đại tá bác sĩ Nguyễn Văn Khái cựu Chỉ huy trưởng Tổng Y Viện Cộng Hòa Saigon, khuyên tôi:
“Anh không ăn được anh cho người khác, tuy mắm thối nhưng nó có chất đạm, rất cần cho cơ thể hiện nay”.
Tôi đã đưa mắm cho người bạn, Đại tá Nguyễn Văn Luật, cùng đội lao động với tôi.
Người tù chính trị trong ngục tù cải tạo, có được sự sống còn, phải nhắc đến công lao vô bờ bến của những người vợ. Mãi mãi tôi ghi nhớ công ơn vợ tôi. Nhờ vợ, hơn một năm tôi thoát khỏi cảnh ăn mắm thối. Trước tết Kỹ Mùi-1979, từ Đà Nẵng vợ tôi lặn lội vào trại tù Suối Máu, Biên Hòa thăm nuôi. Khi ngang qua vùng Nha Trang, vợ tôi mua được 12 con mực khô lớn, loại xuất khẩu, họ đem bán chui.
Ngày đầu mới chuyễn đến trại tù A20 này, công an cán bộ khám xét tù trang, tất cả thức ăn do gia đình tiếp tế đều bị tịch thu, tiền bạc đồng hồ, nhẫn vàng bị thu giữ. May mắn cho tôi, tên công an cán bộ lo xốc xáo quần áo, chăm chú lục tìm những thứ mà chúng có thể bỏ túi luôn được.
Chiếc bao cát tôi đựng mấy con mực và gói muối bột, rơi ra một bên nằm cạnh chân tôi. Lẹ chân tôi hất nhẹ vào đống đồ đã khám xong, nhờ vậy tôi giữ được bao thức ăn vợ tôi vừa tiếp tế. Hàng tuần, trại cho tù xuống bếp hâm đồ ăn một lần vào buổi trưa. Tôi cắt một đoạn mực, chừng một lóng tay, xé thật nhỏ cho vào lon ghi-gô thêm chút muối bột, đun sôi làm thành nước mắm, ăn tằn tiện thoát nổi khổ húp mắn thối mỗi bửa!
CHẾT TẬP THỂ TRONG TRẠI TÙ CẢI TẠO.Từ môi trường sống đó, ngoài bệnh lao như đã kể trên, hầu hết là ở các cháu tù hình sự. Nhiều thứ bệnh khác thi nhau hoành hành trên thân xác người tù, nhất là bệnh kiết lỵ, loại bệnh dễ lây lan, nguy hiễm, tử vong cao.
Người bệnh, bụng đau nhói ruột co thắt, hậu môn luôn bị thúc dục đi tiêu liên tục, nhưng rất khó khăn, chỉ tiêu ra chút ít đờm giãi lẫn lộn máu tươi. Không thuốc men chửa trị, nhiều bệnh nhân kiệt sức không lê ra được khỏi nơi nằm, tiểu tiện tại chỗ, mùi hôi tanh xông lên, từng đàn ruồi nhặng vù vù bay lượn, trông phát khiếp!
Địa ngục trần gian, đại học máu, những ngôn từ dành để chỉ “ Trại Cải Tạo” dưới chế độ cộng sản, không sai chút nào! Cộng sản Bắc Việt cưởng chiếm được Miền Nam, chia người dân Miền Nam ra ba thành phần: Ngụy quân, ngụy quyền và ngụy dân, điều tôi không bịa đặt, mà lời nói ra từ cửa miệng bọn cán bộ tuyên huấn, trong những lần tiếp xúc với tù nhân.
Một trong những đòn phép tàn độc cộng sản Hà Nội dùng để trả thù nhân dân Miền Nam là: chính sách Bao Tử. Dùng bao tử để hành hạ thân xác con người, bỏ ĐÓI con người, làm cho con người mất hết lý trí, tiêu tan ý chí kháng cự. Nhưng chúng đã lầm!
Nói đến đói trong trại tù cải tạo, thú thật, tôi viết lên điều này, xin người đọc đừng cho tôi chê trách ai đó. Nếu ai chưa chịu đựng qua cái đói trong ngục tù cải tạo, khi nghe nói đến đói, không thể có cảm nhận như người tù cải tạo đã ĐÓI! họ đơn thuần thấy cái bao tử thiếu thiếu vì lỡ một bửa cơm, hay một vài ngày phải nhịn ăn để trị bệnh. Đói trong trại cải tạo là một đòn thù ác nghiệt, có tính toán của cộng sản.
Bao tử người tù cải tạo, lúc nào cũng trống trơn, cơ trắng bao tử chà xát vào nhau, một cảm giác đau đớn không biết diễn tả thế nào cho đúng. Ăn rồi cũng như chưa ăn!, khổ cho cái bao tử cứ bị đánh lừa triền miên. Sau bửa cơm, tôi buồn tình dùng đũa, gõ vào miệng chén, ngâm nga:
Mình ngỡ những chưa ăn
ai ngờ đã ăn rồi.
Mình ngỡ những chưa ăn,
ai ngời đã ăn xong!
Ôi tấm thân tù tội ...
Khi viết bài này tôi mới biết, vô tình tôi đã đổi lời một đoạn ngắn trong bản nhạc của một nhạc sĩ ăn cơm Quốc Gia thờ ma cộng sản, nhạc sĩ Trịnh CS, bài “ Tình Nhớ “ (Tình ngỡ đã quên đi, như lòng cố lạnh lùng...). Lời tôi đổi, nói lên được tính dã man của con người cộng sản, mà Trịnh CS là một.
Các cháu tù hình sự, không còn lối thoát với cơn đói hoành hành thân xác. Trong những giờ làm lao động bên ngoài, các cháu vớ được bất cứ con trùng gì, như dế, châu chấu, cào cào, bọ ngựa hay cả con trùn, các cháu chỉ cần ngắt chân, lặt cánh, phủi phủi rồi đưa vào miệng ăn sống ngon lành! Gặp bửa, có cháu bắt được nhiều mồi hơn ăn tại chỗ không hết, dấu cán bộ, nhắt vào lai ống quần, tay áo, đem về trại đến đêm lén lút ăn tiếp. Ăn để mà sống qua ngày, đa số ngả bịnh, chết lai rai mỗi ngày.
Trại có một đội lao động gọi là Đội tự giác, nhân số khoảng 40, tất cả đều là các cháu tù hình sự. Được tuyển chọn từ những cháu học tập cải tạo “có tiến bộ”, sinh hoạt “có thành tích”!
Đội tự giác xử dụng khoảng 20 chiếc xe cải tiến, xe thùng có hai bánh niềng sắt. Nhận công việc làm từ cán bộ trại và được tự do ra vào trại để thi hành công tác, có công an Quản giáo giám thị, nhưng không có công an võ trang theo canh giữ. Sức khỏe các cháu Đội tự giác có phần khá hơn, nhờ những lúc chuyên chở thực phẩm từ Bộ chỉ huy trại vào khu giam tù, các cháu có cơ hội bòn tỉa được vài chút thức ăn, tuy vậy cũng không thấm đủ vào đâu, đói vẫn hoàn đói!
Những ngày không có công tác chuyên chở, đội tự giác cũng phải lao động cuốc đất trên các ruộng rẫy, nhưng các cháu Đội tự giác được đi lại dễ dãi hơn. Từ đó các cháu cử hai người đi tìm các loại rau cỏ có thể ăn được, dùng chiếc thùng lớn nấu nước để uống trong lúc làm lao động. Gần cuối giờ, cho rau vào thùng nấu chín, mang về trại chia nhau ăn, phụ thêm cho bửa cơm tù chẳng đủ vào đâu!
Mùa hè, miền rừng núi nắng cháy, rau cỏ dại không còn. Lâu lâu, gặp một vài cơn mưa giông, các vườn trồng cây mì (sắn) được bón phân xanh, gặp mưa rào đâm chồi nhanh hơn loại cây cỏ khác. Các cháu Đội tự giác vào vườn mì, hái đọt mì cho vào thùng nấu làm canh. Khoảng giữa tháng 5 năm 1981, đêm khuya đang ngủ, cửa nhà giam số 8 của chúng tôi có tiếng động mở khóa, cán bộ trực trại rọi đèn pin, bước vào gọi lớn: “Anh Khái, anh Nhu, mau theo tôi “ (tức đại tá bác sĩ Nguyễn Văn Khái và đại tá bác sĩ Phạm Văn Nhu )
Cán bộ trực trại dẫn 2 bác sĩ qua khu tù hình sự. Chừng 15 phút sau, hai vị bác sĩ quay trở về nhà giam số 8, vào trong cửa nói lớn:
"Các cháu Đội tự giác ăn canh đọt mì, trúng độc tình trạng rất nguy kịch, xin các bạn ai còn đường, còn đậu xanh, vui lòng nhín cho một ít để chúng tôi cấp tốc cứu các cháu"
Gom góp được một ít đường đậu, hai bác sĩ vội vã quay nhanh trở lại khu giam tù hình sự. Hơn một tiếng đồng hồ sau, hai bác sĩ trở về láng, trầm buồn nói nho nhỏ:
“Cả đội tự giác chết hết rồi ! cháu Sơn ( đội trưởng) to khỏe như vậy cũng đã chết ngay, may ra còn sống được hai em, nhờ đương bị bịnh, ăn ít hơn!”
Đây đó có tiếng sụt sùi vì qúa xúc động, cảm thương cho các cháu! Tôi thực sự lại khóc khi viết đến đây.
Thật vô nhân, tàn ác, giam tù bỏ đói, bệnh hoạn không thuốc men. Gặp lúc nguy ngập như vầy, không phương tiện cứu chữa. Bác sĩ “ngụy quân” đem giam tù đã 6 năm, hai bàn tay trắng, tài nào cứu được mạng người sắp chết. Vậy mà bọn chúng cũng trơ mặt, há mồm lên tiếng kêu, cứu người.
Xế chiều ngày hôm sau, đội tù chúng tôi đang cuốc đất trên thửa ruộng cạnh ven rừng. Xa xa về hướng trại giam, chúng tôi thấy một đoàn xe cải tiến chừng hơn 15 chiếc, các cháu tù hình sự, một đứa kéo, hai đứa đẩy phía sau xe, hì hục kéo qua con đường đất đỏ dưới chân đồi. Chúng tôi đoán biết đó là đoàn xe chở thi hài 37 cháu trong Đội tự giác đã chết tối hôm qua,
Khi đoàn xe gần đến sau lưng chúng tôi, không ai bảo ai, chúng tôi tự động quay mặt về đoàn xe chở xác, bỏ cuốc xẽm xuống đất, tay dở nón mũ áp vào ngực, đứng cúi đầu. Hai công an võ trang canh gác, đứng trên bờ ruộng, ngạc nhiên hét lớn:
- Các anh làm gì vậy, làm gì vậy, tất cả làm việc đi, làm việc đi.
Mặc cho tên công an võ trang quát tháo, chúng tôi cứ tiếp tục đứng im, chờ cho đoàn xe đưa ma qua hết, chúng tôi mới trở lại làm việc. Không có lấy một chiếc quan tài, thi hài của các cháu được bó trong những chiếc chiếu, chăn mền mà các cháu đã dùng để ngủ! Hai ba thi hài chất lên một xe, đưa ra chôn ở một triền đồi, nơi đã có nhiều mộ của các cháu tù hình sự chết lai rai trước đó, tù nhân chính trị chúng tôi cũng đã có người vĩnh viễn nằm đó.
Đến nay, nghĩa địa này đã nằm sâu dưới đáy đập nước thủy điện Xuân Phước, Phú Yên!
Viết để Tưởng Niệm các bạn tù chính trị, các cháu tù hình sự đã bỏ mình trong ngục tù Xuân Phước. Chắc các bạn, các cháu đã siêu thoát về một thế giới Vĩnh Hằng. Cầu xin các bạn, các cháu hộ trì lại cho Đất Nước Việt, Dân Tộc Việt sớm thoát khỏi chế độ cộng sản tàn bạo, vô nhân!
California, Tháng Tư Đen 2012
CHS/PCT/ĐN5460
Cựu TNCT Chế Văn Thức
No comments:
Post a Comment