Sunday, October 28, 2012
CÁCH MẠNG VÔ VĂN HÓA CỦA MAO I
Cuộc chiến của những đứa trẻ con (1+2)
Monday, October 15, 2012 4:32:29 AM
1966 – 1976: Cách mạng Văn hóa _ Hè 1966. Thanh thiếu
niên nắm lấy quyền lực trong các thành phố Trung Quốc. Học sinh hành hạ
thầy giáo của họ cho tới chết, sinh viên làm nhục giáo sư của họ, lứa
mới lớn đập nát những tượng đài kỷ niệm của một nền văn hóa lâu đời hàng
ngàn năm. Chính Mao đã mở cửa cho cuộc nổi dậy của “Hồng Vệ Binh” này –
để lật đổ đối thủ của ông ấy trong Đảng, đập tan xã hội và thực hiện
giấc mơ của ông ấy: cuộc cách mạng liên tục.
Bài: Walter Saller; Ảnh: Li Zhensheng
Phan Ba dịch từ chuyên san lịch sử “Trung Quốc của Mao Trạch Đông” do GEO Epoche xuất bản
Bài: Walter Saller; Ảnh: Li Zhensheng
Phan Ba dịch từ chuyên san lịch sử “Trung Quốc của Mao Trạch Đông” do GEO Epoche xuất bản
Khi cô giáo Biện Trọng Vân mặc quần áo vào buổi sáng ngày hôm sau đó, mỗi một cử động đều gây đau đớn, những vết sưng, những lằn roi và những vết bầm tím trên thân thể của bà gây đau rát. Bà cầm lấy cái túi xách, như thể chờ đợi một ngày dạy học bình thường. Bà nhét chứng minh nhân dân vào đấy, thêm quyển sách nhỏ màu đỏ với những câu trích dẫn Mao, bài văn “Người ta trở thành một người Cộng sản tốt như thế nào” của Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ và một quyển nhỏ về “Cuộc cách mạng vĩ đại làm xúc động tâm hồn.”
Đó là ngày thứ sáu, 5 tháng 8 năm 1966.
Khủng bố: Cô giáo Biện Trọng Vân (với chồng và ba trong số bốn người con của bà) se là người chết đầu tiên trong số các nạn nhân của cuộc Cách mạng Văn hóa. Bà làm việc tại một trường trung học nổi tiếng ở Bắc Kinh và bị chính các nữ sinh của mình hành hạ cho tới chết. Những người đấy đã đánh đập và xỉ nhục bà nhiều tuần liền vì cho rằng bà phản bội lý tưởng Cộng sản. Ảnh: GEO Epoche
Người đàn bà 50 tuổi đó sống với chồng và bốn đứa con trong một căn hộ trên đường Fu Wai, số 6, cách nơi làm việc của bà khoảng hai kilômét, trường nữ trung học ở đường Erlong. Đó là một trong những trường trung học lâu đời nhất của Bắc Kinh, một thể chế cho giới tinh hoa mà nhiều con cái của những người có quyền lực đến đấy học. Cả những đứa con gái của Mao cũng học ở đó. Khuôn viên rộng lớn bao gồm văn phòng, lớp học, phòng ngủ cũng như một sân vận động và nằm cách khu vườn Trung Nam Hải của các hoàng đế ngày xưa, nơi Mao ngụ ở sau những bức tường đỏ, vào khoảng một kilômét về phía Tây.
Bian dạy học ở trường này từ 17 năm nay, bà là đảng viên Đảng Cộng sản và cũng là hiệu phó. Nhưng bây giờ thì chính những người học trò của bà đã tuyên bố chiến tranh với bà.
Trường đã ngưng dạy hơn 50 ngày nay rồi. Tường của các ngôi nhà đầy bích báo – những dãy giấy, có những chữ to được viết ở trên đấy. “Trâu quỷ rắn ma hãy cút đi!”, các nữ sinh đã viết như thế. “Giải phóng toàn thể nhân loại là nhiệm vụ không thể chối bỏ của chúng ta!”
Ngày này qua ngày khác, có những bài hát vang ra điếc tai từ loa phóng thanh: “Đông phương hồng. Mặt trời lên.” Các nữ sinh đồng thanh hét to và nắm tay lại thành nắm đấm. Nhiều người trong số họ mặc quần và áo khoác màu xanh, dây thắt lưng nâu với khóa sắt và giày ủng da giống như những người lính. Thêm vào đó là dãy băng đỏ trên cánh tay trái.
Nhóm nữ sinh này tự gọi mình là “Hồng Vệ Binh”; có những người còn chưa quá 14 tuổi. Một trong số những người dẫn đầu họ là Song Binbin, một cô con gái cao gầy với chiếc kính đeo mắt to, con gái của một cán bộ Đảng cao cấp.
Trước đây vài tuần, các cô gái đã xông vào trong căn hộ của Bian, đã dán áp phích lên tường và cửa. “Đồ ma cáo! Đồ Quỷ nữ kinh khiếp! Đừng tưởng mày an toàn!”, họ đã viết như thế bằng mực Tàu trên báo cũ.
Những người xông vào nhà đã khám xét mọi thứ: ghi chép, sách, thư từ. Ngay đến sàn nhà cũng bị họ giật lên. Họ không tìm thấy một manh mối nào cho việc Bian là một kẻ phản bội.
Mặc dù vậy, trong một cuộc họp, họ đã hạ nhục người cô giáo, đá bà ấy và nhét đất vào miệng của bà ấy và sau đó đã phỉ báng bà ấy trong các báo tường: “Mày đã run rẩy như một cái lá, miệng đầy đất sét vàng, đánh khinh như một con heo chết đuối.”
Từ đấy, họ khủng bố Biện Trọng Vân hầu như hàng ngày. Chế diễu, nhổ nước miếng, đánh đập bà ấy. Và những cuộc tấn công của họ mỗi lần một dữ dội hơn.
Hôm qua, vào chiều ngày 4 tháng 8, một đám con gái đã xông vào phòng hiệu trưởng. Họ đã đánh Brian bằng gậy và bằng thắt lưng da, chửi rủa bà là “yêu tinh”.
Bây giờ, bà ấy đến cạnh giường của chồng bà và đưa tay cho ông ấy. Bà im lặng. Hai người là vợ chồng từ hơn 20 năm nay, bà chưa từng bao giờ từ giã như thế trước đây. Rồi Bian rời căn hộ và đi đến trường trên đường Erlong. Đến với những người hành hạ bà.
Vào buổi chiều, các nữ sinh sẽ lại hành hạ bà – và khiến cho bà trở thành nạn nhân đầu tiên đã chết của một chiến dịch sẽ làm cho Trung Quốc tê liệt mười năm trời. “Cuộc Cách mạng Văn hóa vô sản vĩ đại”. Cái trông giống như một vụ nổi điên thì thật sự là đã đi theo tính toán sát nhân của một người đàn ông duy nhất: hàng triệu thanh thiếu niên nổi loạn, đánh đập và giết người, vì Mao Trạch Đông già nua đã khuyến khích họ làm điều đó.
Để trả thù. Để lập trật tự trong đảng của ông ấy. Và để thúc đẩy cuộc cách mạng.
Nhiều Hồng Vệ Binh, như ở đây trong cuộc diễu hàng nhân ngày Quốc Khánh 1966, vẫn còn là trẻ con. Ảnh: GEO Epoche.
VÀO ĐẦU NHỮNG NĂM 1960, ảnh hưởng của Mao đến 17 triệu đảng viên Trung Quốc suy yếu dần. Tuy ông ấy vẫn còn là người đứng đầu cỗ máy quyền lực to lớn nhất thế giới, nhưng uy thế, cái mà ông ấy đã có được qua tranh đấu như là nhà lãnh tụ cách mạng và người thành lập nhà nước, không còn bảo vệ ông trước sự bất mãn của các cán bộ được nữa. Ngay đến những người đồng hành thủơ xưa từ những ngày của cuộc Vạn Lý Trường Chinh cũng quay mặt đi, như người đã được chỉ định làm người kế thừa ông, chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ, hay Đặng Tiểu Bình, tổng bí thư Đảng, hai trong số những người Cộng sản có nhiều quyền lực nhất của Trung Quốc.
Họ yêu cầu chấm dứt những cuộc thử nghiệm gây tai họa, những cái mà người đứng đầu ĐCS luôn bắt buộc đất nước của ông ấy tiến hành.
Chậm nhất là từ mùa Hè 1961, Lưu đã cho rằng cuộc Đại Nhảy Vọt, thử nghiệm của Mao, tăng tốc dẫn dắt Trung Quốc đến Chủ nghĩa Cộng sản, đã thất bại. Trong diễn tiến của chiến dịch này đã có hơn 30 triệu người chết đói, bị đánh chết hay chết do làm việc quá sức, vì Mao đã cải tạo nền nông nghiệp một cách tàn nhẫn, để nuôi dưỡng được con số ngày càng tăng của công nhân công nghiệp. Và vì người nông dân không còn được phép tạo dự trữ để đề phòng cho những lúc đói kém nữa.
Xã hội dao động, kinh tế tê liệt. Tính đáng tin cậy của Mao bị lay động. Bây giờ Lưu và Đặng chờ đợi một sự chừng mực ở ông ấy; đầu tiên là phải thực hiện một trật tự nhà nước Xã hội Chủ nghĩa ổn định, rồi người ta mới có thể xây dựng Chủ nghĩa Cộng sản ở trên đó. Nhưng trước hết là phải chấm dứt nạn đói.
Trong mùa Xuân năm 1962, Lưu dám làm một việc kinh thiên động địa: ông ấy phê bình chính sách của Mao: “Không có Đại Nhảy Vọt tới phía trước”, ông ấy nói trước 7000 cán bộ Đảng, “chúng ta đã rơi lại xa ở phía sau.” Sau chủ tịch nước, cả những đại biểu khác cũng đòi hỏi một thay đổi về chính trị kinh tế.
Mao nhìn đấy như là một sự phản bội tổ quốc. Rằng nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vẫn còn chưa phải là thiên đàng Cộng sản Chủ nghĩa, điều đấy không phải là vì ông mà là vì những sai lầm của cán bộ. Những người đấy chỉ tiến hành các chiến dịch một cách ngần ngừ và cẩu thả.
Thế nhưng thế lực của ông ấy đã suy yếu sau thảm họa của cuộc Đại Nhảy Vọt. Vì thế mà ông ấy nhận trách nhiệm cho thảm họa đói ăn trước 7000 cán bộ. Đó là thất bại nặng nề nhất của ông ấy kể từ khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Bây giờ ông ấy phải để cho những người chống ông ấy làm việc, mặc dù ông ấy phản đối đường lối của họ.
Và ông nhận ra trong người đồng chí ngày xưa đã cùng chiến đấu với mình, Lưu, đối thủ nguy hiểm nhất của ông ấy. Vì Lưu và những người theo ông ấy đã đảo ngược chính sách của Mao: họ cải tổ lại ngân sách, vì thế mà phải sa thải hàng triệu công nhân thiếu việc làm ra khỏi các nhà máy quốc doanh – dẫn đến việc thành hình một tầng lớp vô sản nghèo khổ mới, gồm giới tội phạm nhỏ và bán dâm.
Thêm vào đó, cán bộ của Lưu làm tăng sản lượng thu hoạch bằng cách cho những người nông dân đang bị gộp lại trong các hợp tác xã được phép mướn và tự gieo trồng trên những đồng ruộng nhỏ. Họ giảm chi phí vũ trang và thay vào đó hỗ trợ cho công nghiệp hàng tiêu dùng. Và họ giảm thời gian làm việc, để con người lại có thời gian thư giãn và cho gia đình.
Đất nước hồi phục lại từ những thiếu thốn càng nhiều thì các đồng chí dường như lại càng ít cần đến người “Chủ tịch vĩ đại” của họ chừng đấy. Ảnh hưởng của các nhà cải cách quanh Lưu, Đặng cũng như Bành Chân, thị trưởng của Bắc Kinh, liên tục tăng lên.
Bây giờ Mao phải tính đến việc bị tước quyền lực dần dần. Ông chỉ nhìn thấy “cánh hữu” ở khắp nơi, những người – như Lưu – phản bội lý tưởng cách mạng.
Vì thế mà hai người có nhiều quyền lực nhất của Trung Quốc đứng đối diện với nhau: sếp ĐCS Mao và chủ tịch nước Lưu. Tả chống hữu. Cuộc đấu tranh vì đảng, cái cuối cùng trở thành cuộc Cách mạng Văn hóa, được khai mào. Và Mao tập hợp những người theo ông ấy lại.
Trong lúc Lưu còn cải cách đất nước, Mao đã nắm chắc được sự ủng hộ của những người Cộng sản quá khích. Thuộc trong số đó cũng là người vợ thứ tư của ông ấy, Giang Thanh, nguyên là một nữ diễn viên. Trước khi Mao đâm yêu bà năm 1937, bà ấy tự gọi mình là Lam Tần và là một đề tài được ưa thích của giới báo chí lá cải. Từ năm 1963, bà làm việc trong Bộ Văn hóa, nơi bà ấy kiểm duyệt phim và kịch. Mặc dù cá nhân bà ấy vẫn thưởng thức phim truyện nước ngoài đã bị cấm.
Tranh giành quyền lực: Sau thảm họa của “Đại Nhảy Vọt”, Mao bị cô lập trong giới lãnh đạo ĐCS, ông ấy mất ảnh hưởng. Cũng vì vậy mà ông ấy huy động đội Hồng Vệ Binh – đội ngũ ngoài những việc làm khác cũng tấn công các đối thủ của ông ấy ở trong Đảng. Ảnh: GEO Epoche
Chồng của bà Giang coi thường khả năng chính trị của bà, nhưng ông ấy đánh giá cao tính vô lương tâm và cứng rắn của vợ mình: “Bà ấy nguy hiểm chết người và độc hại như một con bọ cạp”, ông ấy phán xét. Đối với ông, đấy là một công cụ toàn hảo để đe dọa các đối thủ của mình. Sau này, Giang sẽ bảo vệ mình: “Tôi là con chó của Mao Chủ tịch. Ông ấy ra lệnh thì tôi cắn.”
Nhưng người trung thành nhất với ông là Lâm Bưu: nguyên soái của nước Cộng hòa Nhân dân, người đánh chiếm Bắc Kinh và là Bộ trưởng Quốc phòng cũng là người chỉ huy “Quân Giải phóng Nhân dân” có lực lượng ba triệu lính – bên cạnh Đảng và bộ máy nhà nước là cột trụ quan trọng thứ ba của quyền lực trong nước.
Người sĩ quan gầy gò đó – sau sự xa cách vào lúc ban đầu thời Vạn lý Trường chinh – từ gần bốn thập niên nay là một đồng minh của Mao: không một ai khác quanh Mao hưởng được một sự tự chủ như thế. Đổi lại, ông ấy đứng cạnh Mao bất cứ lúc nào mà người này cần sự giúp đỡ. Tham vọng của Lâm không có ranh giới. Ông ấy muốn vươn lên trở thành nhân vật thứ hai của Trung Quốc – và sẽ trở thành người kế vị Mao.
Nhờ người lãnh đạo Đảng mà ông ấy mới có chức vụ bộ trưởng của mình. Lâm trả ơn, bằng cách gắn kết những người lính của mình vào viên chủ tịch. Quyển “Mao Chủ tịch ngữ lục”, một quyển sách nhỏ có bìa đỏ với những câu trích dẫn của người sếp ĐCS, là sáng kiến của ông ấy. Bắt đầu từ năm 1964, Lưu cho người phân phát nó cho các sĩ quan và người lính. Đã từ lâu, không chỉ khả năng quân sự của một người nào đó quyết định rằng người này là một người lính tốt, mà cả lòng trung thành của người đó với Mao nữa.
Nhưng mặc dù biết rằng các nòng súng đứng sau lưng mình, ông ấy vẫn không muốn tước quyền lực các đối thủ của ông ấy quanh Lưu Thiếu Kỳ bằng một cuộc đảo chính quân sự. Mà là qua một cuộc cách mạng.
Không phải quân nhân mà chính các nhà cách mạng là những người xua đuổi vô số kẻ giúp đỡ Lưu ra khỏi các chức vụ – những kẻ quan liêu đấy, những người điều hành các phương tiện sản xuất trong các nhà máy và cơ quan như “nhà tư bản”, hưởng đặc quyền và cản trở công cuộc xây dựng Chủ nghĩa Xã hội.
Chiến dịch: Hồng Vệ Binh công bố khẩu hiệu của mình trên những tờ báo tường viết tay. Trong đó, họ yêu cầu lật đổ “Băng nhóm Đen”, họ gọi đối thủ của Mao là vậy. Ảnh. GEO Epoche
Cú đánh đầu tiên của ông ấy là để chống lại văn hóa: “Tất cả các hình thức nghệ thuật – ca kịch, nhà hát, nghệ thuật nhân dân, hội họa và văn học”, người đồng chí cao cấp nhất trong Đảng tuyên bố vào cuối năm 1963, đều là “phong kiến hay tư bản”, ngay cả phần lớn các tác phẩm thành hình dưới chế độ của ông. Cần phải có một nền văn hóa mới, ông ấy yêu cầu, “làm sạch” Trung Quốc – khỏi các cán bộ đã xa rời nhân dân.
Trong khi đấy thì Mao rất thích ca kịch Trung Quốc, sở hữu trên 2000 băng thu thanh, nghiên cứu lịch sử của các hoàng đế Trung Quốc và làm thơ. Tuy vậy, ông vẫn nguyền rủa văn hóa “tiểu tư sản” mà không cần phải cố gắng tí nào.
Ông cũng phê bình các phương pháp giảng dạy thường gây nhàm chán trong trường học và đại học – ông muốn tranh thủ giới thanh thiếu niên cho cuộc cách mạng của ông ấy. Vì họ “ít bảo thủ nhất trong suy nghĩ”.
Cho đến nay, ông chống lại đối thủ của ông trước hết là qua những chiến dịch, được tổ chức và thực hiện bởi bộ máy của Đảng. Nhưng bây giờ chính ĐCS lại là kẻ thù – tổ chức thống trị nhà nước và trên thực tế là tất cả những cái khác trong cuộc sống của người Trung Quốc: các ủy ban nhà nước do họ kiểm soát quy định người ta phải làm việc ở đâu và sống trong thành phố nào; họ phân chia cho mỗi người nơi ở và cái ăn; và họ đánh giá, liệu người ta có phải là một đồng chí tốt hay không hay là một trường hợp để cải tạo.
Giới lãnh đạo Đảng tuy chấp thuận cho ông Chủ tịch vĩ đại cuộc Cách mạng Văn hóa của ông ấy – thế nhưng họ không giao cho một người theo Mao lãnh đạo chiến dịch này mà lại giao cho Bành, thị trưởng của Bắc Kinh.
Qua đó mà người Chủ tịch nhận được tòa án của ông ấy. Nhưng vai trò quan tòa của tòa án dị án thì Đảng lại để cho một trong những người theo dị giáo cao cấp nhất đóng: một điều lăng nhục.
Trong tháng 10 năm 1964, Nikita Khrushchev, người lãnh đạo ĐCS Xô viết, bị chính các đồng chí của mình lật đổ. Kể từ lúc đấy, Mao càng đa nghi hơn, nhìn thấy người âm mưu, tên phản bội và kẻ thù ở khắp mọi nơi.
Và đối thủ của ông ấy cũng tạo cho ông ấy nhiều cơ hội để mà nghi ngờ.
Vào ngày 3 tháng 1 năm 1965, Chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ được xác nhận trong chức vụ của ông ấy. Lúc bổ nhiệm ông ấy năm 1959, người dân hầu như không hề chào mừng ông ấy, nhưng bây giờ, vì ông ấy đã giải thoát Trung Quốc khỏi nạn đói, ông ấy được tôn sùng qua những cuộc duyệt binh lớn. Và hình ảnh của ông ấy được mang đi trên đường phố bên cạnh hình ảnh của Mao. Trong báo chí, bây giờ ông ấy cũng ngang hàng: “Chủ tịch Mao và Chủ tịch nước Lưu là các lãnh tụ mến yêu của chúng ta”, các báo viết.
Một lãnh tụ thứ nhì, trên cùng bậc với chính mình: đối với Mao, đấy là một cuộc tổng tấn công vào vị thế có một không hai của ông ấy.
“Mày nghĩ mày là ai chứ?”, có lần ông ấy đã rít lên như thế với Lưu. “Tao chỉ cần búng ngón tay là sẽ chẳng còn có mày nữa đâu!”
Nhưng Mao đã lầm. Trong mùa Thu năm 1965, ông ấy hầu như bị cô lập trong giới lãnh đạo của ĐCS. Điều này thể hiện ở việc khi ông yêu cầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trong đó có đại diện của Đảng, quân đội và các thể chế nhà nước, phải hành động chống Ngô Hàm, phó trị trưởng Bắc Kinh: vì vở kịch được cho là phản động “Hải Thụy bãi quan” mà sử gia đó – một người theo Lưu Thiếu Kỳ – đã viết lời. Ủy ban từ chối lời đề nghị đó. Mao không còn có đa số trong nhóm đứng đầu ĐCS nữa.
Sau đấy, ông ấy dùng đoàn tàu đặc biệt của mình đi về Thượng Hải, một thành trì của “phe tả”. Trong những tháng sau đó, ông ấy ở trong cơ ngơi của mình ở miền Nam Trung Quốc trong Hàng Châu, thăm thành phố Thiều Sơn là quê hương của ông ấy, đi dạo trên núi, tổ chức tiệc khiêu vũ.
Ở nước ngoài, có những nhà quan sát nào đó phỏng đoán rằng người chủ tịch đang bệnh nặng, bị tước quyền lực – hay đã chết nữa. Thế nhưng con người thất lạc đó đang chuẩn bị cuộc phản công của mình từ xa.
Vào ngày 10 tháng 11 năm 1965, một tờ báo ở Thượng Hải đăng một bài phê bình gay gắt vở kịch “Hải Thụy bãi quan”. Chính Mao đã viết nó cùng với vợ của ông ấy và hai người thân cận nữa. Lời kết tội: vở bi kịch mà trong đó một ông quan bị cho thôi chức vì đã phê bình người chủ của mình, là một ám chỉ đến người Chủ tịch, đặt ông ấy cùng hàng với kẻ chuyên chế (năm 1959, Mao đã sa thải Bộ trưởng Bộ Quốc phòng vì người này đã phê bình ông trong một bức thư; từ đấy Lâm Bưu chiếm chức vụ này). Bài viết báo hiệu: cuộc tranh giành quyền lực vẫn còn được tiếp tục.
Cuộc chiến của những đứa trẻ con (3+4)
Monday, October 15, 2012 4:48:52 AM
Bài: Walter Saller; Ảnh: Li Zhensheng
Phan Ba dịch từ chuyên san lịch sử “Trung Quốc của Mao Trạch Đông” do GEO Epoche xuất bản
Phan Ba dịch từ chuyên san lịch sử “Trung Quốc của Mao Trạch Đông” do GEO Epoche xuất bản
MỘT THÁNG SAU ĐÓ, Mao tiếp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lâm trong ngôi biệt thự hoàng đế của ông ấy ở Hàng Châu, tròn 200 kilômét về phía Nam của Thượng Hải. Ở đây, ông ấy hứa với người chỉ huy quân đội, rằng sẽ nâng ông ấy lên thành con số hai mới trong Đảng sau khi lật đổ Lưu theo kế hoạch và đập tan những “kẻ hữu khuynh”.
Lâm Bưu trẻ hơn Mao 14 tuổi, tức là cũng có thể có hy vọng, rằng một ngày nào đó sẽ thăng tiến lên đến tột đỉnh. Mối liên kết của hai người giờ đây càng chặt chẽ hơn bao giờ hết.
Mao cố nắm chắc sự giúp đỡ của những người trung thành khác. Rất có thể là ông ấy cũng đã tiếp xúc với Đặng Tiểu Bình trong thời gian này. Vì ông đánh giá cao sự hiểu biết và tài tổ chức của người này. Lúc trước, Đặng đã hỗ trợ cho viên Chủ tịch trong tất cả các chiến dịch chống lại kẻ thù của ông ấy. Thế nhưng sau cuộc Đại Nhảy Vọt, ông ấy không muốn tiến hành những cuộc thí nghiệm chính trị nữa.
Cổ
vũ: tháng 8 năm 1966, Mao tiếp đón cô nữ sinh Song Binbin, nhóm của
người này đã giết chết cô giáo Biện Trọng Vân. Ảnh: GEO Epoche
Trong mùa Xuân năm 1966, Giang Thanh vợ Mao yêu cầu trong tuyên ngôn “Giết chết văn hóa” do chính Mao biên tập một cuộc “Đại Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa ở mặt trận văn hóa để tiệt trừ những lực lượng đen tối độc tài có khuynh hướng chống Đảng và chống Chủ nghĩa Xã hội”.
Thế nhưng Mao vẫn còn chưa tấn công trực tiếp Chủ tịch nước Lưu. Ông chỉ yêu cầu sa thải một “Nhóm chống Đảng” bốn người, được cho là phá hoại cuộc Cách mạng Văn hóa. Người nổi tiếng nhất trong bốn người đấy là là Bành, thị trưởng Bắc Kinh.
Trong khi đó, Lâm Bưu chuẩn bị điều động quân đội về Bắc Kinh – được cho là để đàn áp một cuộc “đảo chính phản cách mạng” sắp xảy ra.
Dưới tình hình đó, Bộ Chính trị đã họp vào ngày 16 tháng 5 mà trong đó cần phải biểu quyết về danh sách của Mao. Viên Chủ tịch vẫn tiếp tục ở miền Nam Trung Quốc – có lẽ vì ông đã chắc chắn rằng mình sẽ chiến thắng.
Lưu Thiếu Kỳ khai mạc cuộc họp của ủy ban cao nhất trong ĐCS: “Chúng ta nhận được chỉ thị phải thảo luận về văn kiện này, nhưng chúng ta không được phép thay đổi nó”, ông ấy nói. “Điều này không phải là độc tài hay sao?”
Rồi ông hỏi Bành rằng người này có phản đối lời yêu cầu của Mao hay không. Ông ấy phủ nhận. Và rồi ông ấy giơ tay lên như tất cả các thành viên khác của Bộ Chính trị khi biểu quyết về sự sa thải của chính mình.
Thêm vào đó, các cán bộ đứng đầu đang hội họp này ủng hộ cuộc Cách mạng Văn hóa của Mao. Tại sao họ lại biểu quyết như thế, hai ngày sau đó mới rõ, khi Lâm Bưu tiếp tục đe dọa Bộ Chính trị theo yêu cầu của Mao: “Bất cứ ai chống lại Mao”, ông ấy tuyên bố, “sẽ bị Đảng và nhân dân trừng phạt.”
Qua đó Mao đã tạo nên một Bộ Chính trị tuân theo ý muốn của mình. Nhưng các nghị quyết của Bộ Chính trị – cả việc tước quyền lực của Bành Chân – tạm thời vẫn được giữ kín. Mao muốn tiếp tục im lặng, cho tới khi chuẩn bị xong cho cuộc “thanh trừng” lớn.
Một “Nhóm Trung ương của Cách mạng Văn hóa” dưới sự lãnh đạo của vợ Mao bây giờ thay thế cho các nhóm làm việc của Bành đã bị tước quyền lực. Thêm vào đó, Giang Thanh kiểm soát một tòa án có nhiệm vụ tổ chức những vụ bắt giam các đối thủ của Mao.
Và ngay sau cuộc họp của Bộ Chính trị, một chiến dịch báo chí chống lại các “cán bộ xét lại” và “trí thức tiểu tư sản” bắt đầu.
NHƯNG CÁI TRỰC TIẾP phát động cuộc nổi dậy của giới trẻ là một tờ báo tường trong một nhà ăn đại học ở Bắc Kinh, cái cỗ vũ cho “tinh thần cách mạng” và kêu gọi người đọc “phản kích lại băng nhóm đen” quanh Bành.
Mao, người trong dinh thự của mình được thông tin về tất cả các sự kiện quan trọng trong thủ đô, để cho đọc bài viết đó trên đài phát thanh vào ngày 1 tháng 6. Cùng ngày, một bài xã luận do ông yêu cầu được đăng trên tờ “Nhân dân Nhật báo” dưới tít “Quét sạch bọn trâu quỷ rắn ma”: mặc dù trật tự cũ đã bị lật đổ, tác giả ta thán, các “học giả” vẫn cố gắng tranh thủ giới trẻ cho một chính sách hướng về phía sau.
Trong mùa Xuân năm 1966, Giang Thanh vợ Mao yêu cầu trong tuyên ngôn “Giết chết văn hóa” do chính Mao biên tập một cuộc “Đại Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa ở mặt trận văn hóa để tiệt trừ những lực lượng đen tối độc tài có khuynh hướng chống Đảng và chống Chủ nghĩa Xã hội”.
Thế nhưng Mao vẫn còn chưa tấn công trực tiếp Chủ tịch nước Lưu. Ông chỉ yêu cầu sa thải một “Nhóm chống Đảng” bốn người, được cho là phá hoại cuộc Cách mạng Văn hóa. Người nổi tiếng nhất trong bốn người đấy là là Bành, thị trưởng Bắc Kinh.
Trong khi đó, Lâm Bưu chuẩn bị điều động quân đội về Bắc Kinh – được cho là để đàn áp một cuộc “đảo chính phản cách mạng” sắp xảy ra.
Dưới tình hình đó, Bộ Chính trị đã họp vào ngày 16 tháng 5 mà trong đó cần phải biểu quyết về danh sách của Mao. Viên Chủ tịch vẫn tiếp tục ở miền Nam Trung Quốc – có lẽ vì ông đã chắc chắn rằng mình sẽ chiến thắng.
Lưu Thiếu Kỳ khai mạc cuộc họp của ủy ban cao nhất trong ĐCS: “Chúng ta nhận được chỉ thị phải thảo luận về văn kiện này, nhưng chúng ta không được phép thay đổi nó”, ông ấy nói. “Điều này không phải là độc tài hay sao?”
Rồi ông hỏi Bành rằng người này có phản đối lời yêu cầu của Mao hay không. Ông ấy phủ nhận. Và rồi ông ấy giơ tay lên như tất cả các thành viên khác của Bộ Chính trị khi biểu quyết về sự sa thải của chính mình.
Thêm vào đó, các cán bộ đứng đầu đang hội họp này ủng hộ cuộc Cách mạng Văn hóa của Mao. Tại sao họ lại biểu quyết như thế, hai ngày sau đó mới rõ, khi Lâm Bưu tiếp tục đe dọa Bộ Chính trị theo yêu cầu của Mao: “Bất cứ ai chống lại Mao”, ông ấy tuyên bố, “sẽ bị Đảng và nhân dân trừng phạt.”
Qua đó Mao đã tạo nên một Bộ Chính trị tuân theo ý muốn của mình. Nhưng các nghị quyết của Bộ Chính trị – cả việc tước quyền lực của Bành Chân – tạm thời vẫn được giữ kín. Mao muốn tiếp tục im lặng, cho tới khi chuẩn bị xong cho cuộc “thanh trừng” lớn.
Một “Nhóm Trung ương của Cách mạng Văn hóa” dưới sự lãnh đạo của vợ Mao bây giờ thay thế cho các nhóm làm việc của Bành đã bị tước quyền lực. Thêm vào đó, Giang Thanh kiểm soát một tòa án có nhiệm vụ tổ chức những vụ bắt giam các đối thủ của Mao.
Và ngay sau cuộc họp của Bộ Chính trị, một chiến dịch báo chí chống lại các “cán bộ xét lại” và “trí thức tiểu tư sản” bắt đầu.
NHƯNG CÁI TRỰC TIẾP phát động cuộc nổi dậy của giới trẻ là một tờ báo tường trong một nhà ăn đại học ở Bắc Kinh, cái cỗ vũ cho “tinh thần cách mạng” và kêu gọi người đọc “phản kích lại băng nhóm đen” quanh Bành.
Mao, người trong dinh thự của mình được thông tin về tất cả các sự kiện quan trọng trong thủ đô, để cho đọc bài viết đó trên đài phát thanh vào ngày 1 tháng 6. Cùng ngày, một bài xã luận do ông yêu cầu được đăng trên tờ “Nhân dân Nhật báo” dưới tít “Quét sạch bọn trâu quỷ rắn ma”: mặc dù trật tự cũ đã bị lật đổ, tác giả ta thán, các “học giả” vẫn cố gắng tranh thủ giới trẻ cho một chính sách hướng về phía sau.
Người sếp của Đảng muốn động viên hàng triệu học sinh và sinh viên, bằng cách nâng xung đột thế hệ lên thành “mâu thuẫn giai cấp”: giới trẻ cách mạng ở một bên, người trưởng thành thường bảo thủ ở bên kia.
Lời kêu gọi của “Nhân dân Nhật báo” hướng đến thế hệ đầu tiên được sinh ra trong nước Cộng hòa Nhân dân và được giáo dục hầu như hoàn toàn theo các lý tưởng của Mao: một thế hệ sống tốt hơn nhiều so với cha mẹ của họ – và là một thế hệ mà mặc dầu vậy vẫn hết sức không tự tin. Vì so với các thành tích của thế hệ đi trước thì giới trẻ chỉ có thể thua kém. Thường họ phải nghe những câu chuyện anh hùng của giới cựu chiến binh trong những cuộc trao đổi do nhà nước tổ chức và phải chịu đựng khi những người già mắng nhiếc họ là “cây nhà kính” hèn nhát.
Nhưng họ có thể chứng tỏ lòng tin Cộng sản của họ như thế nào? Thường thì họ chỉ còn những hành động trẻ con như là sự lựa chọn: như trong ký túc xá, các học sinh tranh đua nhau xem ai là người dậy đầu tiên để lau hành lang hay lén giặt quần áo của bạn đồng học. Nhiều thanh thiếu niên viết nhật ký mà trong đó họ tưởng tượng ra hàng nhiều trang về tình yêu cách mạng của họ và để chúng nằm công khai trong phòng của họ hay trong phòng ngủ.
Trong lúc đó, việc đấy đối với họ không phải chỉ là để xứng đáng với các lý tưởng cách mạng, mà là cũng để cho tương lai sự nghiệp của họ. Vì áp lực thành tích chưa từng bao giờ đè nặng như thế. Các cơ hội thăng tiến biến mất dần, vì trường trung học đào tạo ra nhiều học sinh hơn là chỗ học đại học. Có những vùng mà cứ ba học sinh tốt nghiệp phổ thông thì mới có một người đi học đại học.
Liệu một người có được phép đi học đại học hay không, điều đấy không phải phụ thuộc trước hết vào điểm của người đó; cũng quan trọng như thế là gia thế của người đó và hoạt động chính trị của người đó. “Ai ở gần sân thượng cao thì nhìn mặt trăng trước”, đó là một câu châm ngôn, và do vậy mà con cái của đảng viên và những nhà cách mạng lão thành có được những cơ hội tốt nhất; học sinh từ những gia đình “đen”, cha mẹ của họ thuộc giai cấp tiểu tư sản trước khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân, thì ngược lại chỉ có thể tự thể hiện mình qua thành tích xuất sắc và một cuộc sống gương mẫu. Trong các trường học của đất nước có một cuộc cạnh tranh không khoan nhượng.
Không có thời gian cho các vui thú của tuổi mới lớn: thiếu niên không được phép hẹn hò, cai trị ở nhà là cha mẹ, và đi du lịch là việc không thể trả tiển được. Họ được thầy cô của họ huấn luyện theo yêu cầu của Đảng – không hề đếm xỉa đến ý kiến lẫn ước muốn của họ. Cho tới nay, giới trẻ còn không được phép độc lập tham gia chính trị nữa.
Nhưng bây giờ thì vị Chủ tịch Vĩ đại cần đến sự giúp đỡ của họ, sự hỗ trợ của giới trẻ. Trong quyển “Mao Chủ tịch ngữ lục”, ông ấy khen ngợi và ca tụng họ, gọi họ là “lực lượng tích cực nhất, sống động nhất của xã hội” và hứa hẹn với họ: “Thế giới là của các cháu.”
Cuối cùng thì họ có thể bỏ lại những thứ bị bắt buộc, gây chán nản, lại ở phía sau, phá vỡ mọi quy định và chứng minh rằng cả họ cũng là những nhà cách mạng nữa.
Mao, một bậc thầy trong mỵ dân, rất thành thạo trong nghệ thuật biến đổi những động cơ thông tục như sự thèm khát quyền lực của mình và ước muốn báo thù các địch thủ của mình trở thành một mong muốn thiêng liêng. Ông ấy biết người ta khơi lên sự hào hứng hoang dại như thế nào.
Đối
thủ: Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ bị tước quyền lực; cái giá phải trả cho
lời phê bình Mao là mạng sống của ông ấy. Ảnh: GEO Epoche
Thông điệp thành công. Vào ngày 2 tháng 6, thanh thiếu niên tại một trường trung học Bắc Kinh cũng treo một tờ báo tường lên. Nó được ký tên bởi “Hồng Vệ Binh”. Các học sinh đe dọa đối thủ của Mao quá khích hơn các sinh viên rất nhiều. “Chúng tôi sẽ dẫm đạp lên các người!”, có thể đọc được ở đó. “Chúng tôi sẽ tàn nhẫn!” Và: “Hãy vứt bỏ các cảm xúc con người!”
Chẳng bao lâu sau, Hồng Vệ Binh được thành lập ở hầu hết các thành phố lớn. Có những người nào đó mặc quân phục cũ của cha mẹ họ, những người khác nhận được quân phục chiến đấu và giày ủng từ kho quân đội. Bắt đầu là ở Bắc Kinh và rồi trên toàn nước, sinh viên và học sinh nổi dậy. Với số đông. Nhiều người bỏ học để thảo luận về cách mạng. Và họ viết báo tường.
Mao mừng rỡ: “Anh sẽ tạo ra sự lộn xộn lớn nhất dưới trời này”, ông ấy viết cho vợ, “để tạo ra trật tự lớn nhất.”
Trong lúc đó, Bộ Chính trị cố gắng hướng cuộc phản đối vào trong khuôn khổ trật tự. Lưu Thiếu Kỳ cho người thành lập những nhóm làm việc – cũng như tại các chiến dịch khác – có nhiệm vụ dẫn dắt phong trào. Thêm vào đó, họ cần phải ngăn chận việc bỏ học và bạo lực.
Thế nhưng các nhóm này chỉ có ít ảnh hưởng đến giới học sinh. Các vệ binh thường xuyên khiêu khích các cán bộ: “Nổi loạn là chính đáng”, họ trích dẫn Mao trên các tờ báo tường của họ – và qua đó đã tìm được một lời biện bạch cho các hành động bạo lực.
Bầu không khí mang tính thù địch. Chẳng bao lâu sau, các thầy giáo đầu tiên đã bị phỉ nhổ. Và bị đánh.
Thông điệp thành công. Vào ngày 2 tháng 6, thanh thiếu niên tại một trường trung học Bắc Kinh cũng treo một tờ báo tường lên. Nó được ký tên bởi “Hồng Vệ Binh”. Các học sinh đe dọa đối thủ của Mao quá khích hơn các sinh viên rất nhiều. “Chúng tôi sẽ dẫm đạp lên các người!”, có thể đọc được ở đó. “Chúng tôi sẽ tàn nhẫn!” Và: “Hãy vứt bỏ các cảm xúc con người!”
Chẳng bao lâu sau, Hồng Vệ Binh được thành lập ở hầu hết các thành phố lớn. Có những người nào đó mặc quân phục cũ của cha mẹ họ, những người khác nhận được quân phục chiến đấu và giày ủng từ kho quân đội. Bắt đầu là ở Bắc Kinh và rồi trên toàn nước, sinh viên và học sinh nổi dậy. Với số đông. Nhiều người bỏ học để thảo luận về cách mạng. Và họ viết báo tường.
Mao mừng rỡ: “Anh sẽ tạo ra sự lộn xộn lớn nhất dưới trời này”, ông ấy viết cho vợ, “để tạo ra trật tự lớn nhất.”
Trong lúc đó, Bộ Chính trị cố gắng hướng cuộc phản đối vào trong khuôn khổ trật tự. Lưu Thiếu Kỳ cho người thành lập những nhóm làm việc – cũng như tại các chiến dịch khác – có nhiệm vụ dẫn dắt phong trào. Thêm vào đó, họ cần phải ngăn chận việc bỏ học và bạo lực.
Thế nhưng các nhóm này chỉ có ít ảnh hưởng đến giới học sinh. Các vệ binh thường xuyên khiêu khích các cán bộ: “Nổi loạn là chính đáng”, họ trích dẫn Mao trên các tờ báo tường của họ – và qua đó đã tìm được một lời biện bạch cho các hành động bạo lực.
Bầu không khí mang tính thù địch. Chẳng bao lâu sau, các thầy giáo đầu tiên đã bị phỉ nhổ. Và bị đánh.
Thân
tín: Giang Thanh vợ của Mao là một động lực chính trong cuộc truy lùng
những người được cho là phản cách mạng. Ảnh: GEO Epoche
Nhưng không phải tất cả các học sinh đều dùng bạo lực – cũng là vì họ sợ trở thành nạn nhân của những thầy giáo muốn trả thù sau cuộc nổi loạn. Nhưng Mao cũng lôi kéo cả họ về phía của ông ấy: vào ngày 13 tháng 6, ông ấy cho ra quy định, rằng bắt đầu từ bây giờ, trong lúc phân bổ chỗ học đại học cần phải chú ý nhiều hơn nữa đến “tính vô sản” của những người xin học. Nói cách khác đi: ai muốn học đại học phải tham gia vào cuộc Cách mạng Văn hóa.
Đồng thời, ông ấy cho ngưng dạy học trong trướng. “Giới trẻ nhận được thức ăn”, ông ấy nói. “Với thức ăn, họ có năng lượng, và họ muốn nổi loạn. Họ còn phải làm gì nữa ngoài việc làm náo loạn?”
Bạo lực tăng lên. Vào ngày 18 tháng 6, Hồng Vệ Binh làm nhục 60 giáo sư và cán bộ ở Bắc Kinh. Các “bạo chúa học giả” bị bêu trên các bục gỗ với chiếc “mũ ô nhục” – những chiếc mũ bằng giấy có hình nón có viết những lời mắng nhiếc và lên án. Mãi đến khi một nhóm làm việc can thiệp, “cuộc họp phê bình đấu tranh” mới chấm dứt. Nhưng thường thì các cán bộ của Lưu không thể ngăn chận được những cuộc tấn công. Ở Bắc Kinh, các cán bộ chỉ kiểm soát được có chín trong số 54 trường đại học – ngoài ra, ở khắp nơi họ đều bị đuổi đi.
Sự căm ghét của học sinh và sinh viên hướng đến trước hết là tới những nhà sư phạm với “lý lịch giai cấp xấu”: như chống lại con cái của các địa chủ trước đây – như Biện Trọng Vân.
“Tôi bị tra tấn, bị đánh, bị đá bốn, năm giờ đồng hồ liền”, bà ấy viết cho giới lãnh tụ Đảng. Những người khác khiếu nại ở cảnh sát. Nhưng cả Đảng lẫn cơ quan nhà nước đều không bảo vệ thầy cô. Vì Bộ trưởng Bộ An ninh Công cộng, một người thân cận của Mao, đã ra lệnh cho cảnh sát làm ngơ trước những hành động bạo lực của Hồng Vệ Binh. Vì thế mà cho tới ngày 25 tháng 6, chỉ riêng trong các trường học của Bắc Kinh đã có gần 1000 thầy cô bị đánh đập hay lâm vào trong cảnh ấu đả với học sinh.
Nhưng không phải tất cả các học sinh đều dùng bạo lực – cũng là vì họ sợ trở thành nạn nhân của những thầy giáo muốn trả thù sau cuộc nổi loạn. Nhưng Mao cũng lôi kéo cả họ về phía của ông ấy: vào ngày 13 tháng 6, ông ấy cho ra quy định, rằng bắt đầu từ bây giờ, trong lúc phân bổ chỗ học đại học cần phải chú ý nhiều hơn nữa đến “tính vô sản” của những người xin học. Nói cách khác đi: ai muốn học đại học phải tham gia vào cuộc Cách mạng Văn hóa.
Đồng thời, ông ấy cho ngưng dạy học trong trướng. “Giới trẻ nhận được thức ăn”, ông ấy nói. “Với thức ăn, họ có năng lượng, và họ muốn nổi loạn. Họ còn phải làm gì nữa ngoài việc làm náo loạn?”
Bạo lực tăng lên. Vào ngày 18 tháng 6, Hồng Vệ Binh làm nhục 60 giáo sư và cán bộ ở Bắc Kinh. Các “bạo chúa học giả” bị bêu trên các bục gỗ với chiếc “mũ ô nhục” – những chiếc mũ bằng giấy có hình nón có viết những lời mắng nhiếc và lên án. Mãi đến khi một nhóm làm việc can thiệp, “cuộc họp phê bình đấu tranh” mới chấm dứt. Nhưng thường thì các cán bộ của Lưu không thể ngăn chận được những cuộc tấn công. Ở Bắc Kinh, các cán bộ chỉ kiểm soát được có chín trong số 54 trường đại học – ngoài ra, ở khắp nơi họ đều bị đuổi đi.
Sự căm ghét của học sinh và sinh viên hướng đến trước hết là tới những nhà sư phạm với “lý lịch giai cấp xấu”: như chống lại con cái của các địa chủ trước đây – như Biện Trọng Vân.
“Tôi bị tra tấn, bị đánh, bị đá bốn, năm giờ đồng hồ liền”, bà ấy viết cho giới lãnh tụ Đảng. Những người khác khiếu nại ở cảnh sát. Nhưng cả Đảng lẫn cơ quan nhà nước đều không bảo vệ thầy cô. Vì Bộ trưởng Bộ An ninh Công cộng, một người thân cận của Mao, đã ra lệnh cho cảnh sát làm ngơ trước những hành động bạo lực của Hồng Vệ Binh. Vì thế mà cho tới ngày 25 tháng 6, chỉ riêng trong các trường học của Bắc Kinh đã có gần 1000 thầy cô bị đánh đập hay lâm vào trong cảnh ấu đả với học sinh.
Đồng hành: Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lâm Bưu tham gia hỗ trợ cuộc cách mạng của Mao – và hy vọng sẽ kế tục ông ấy. Ảnh: GEO Epoche
Mao, người vẫn còn ở miền Nam của Trung Quốc, được tường thuật tỉ mỉ về chiến dịch. Trong một bài thơ, ông ấy ca ngợi cuộc Cách mạng Văn hóa như là “làn sóng chấn động của bão táp và sấm sét, khiến thế giới ngạc nhiên”. Thời khắc tái sinh của ông ấy đã đến rồi,
Mặt trời đã đứng cao trên thành phố Vũ Hán khi Mao bước lên khỏi làn nước màu nâu của Trường Giang vào ngày 16 tháng 7 năm 1966. Sau này, báo chí Trung Quốc sẽ khẳng định rằng người Chủ tịch Vĩ đại đã bơi 15 kilômét trong vòng hơn một giờ đồng hồ. Sau đó, trong một chiếc áo choàng tắm màu trắng, con người 72 tuổi đấy vẫy tay chào những người đang đứng xem. Hàng ngàn người đã đến để nhìn ông ấy. “Lãnh tụ Mao kính yêu của chúng ta rất khỏe mạnh, khiến nhân dân Trung Quốc đầy vui mừng”, tờ “Nhân dân Nhật báo” ca ngợi.
Lần tắm trong Trường Giang là một thông điệp gửi đến các đối thủ của Mao: người Chủ tịch Vĩ đại mạnh khỏe và nhất quyết đấu tranh.
Hai ngày sau đó, ông ấy trở về Bắc Kinh. Còn trong đêm, ông ấy đã gặp những người thân cận, chỉ Lưu Thiếu Kỳ là ông từ chối không cho diện kiến.
Ngay sau đó, Mao giải tán các nhóm làm việc – vì họ muốn dập tắt ngọn lửa nổi dậy. Bây giờ thì không còn ai giữ giới thanh thiếu niên lại cả.
Còn Lưu? Ông ấy phải tự lên án mình trước những người của cuộc Cách mạng Văn hóa, vì những cái được cho là lỗi lầm của các nhóm làm việc. Bây giờ thì ông biết rằng lần lật đổ mình chỉ còn là câu hỏi của những tuần tới đây mà thôi.
Đầu tháng 8, Mao lại triệu tập Trung ương Đảng. Lần họp này đã trở thành tòa án cho các đối thủ của ông ấy. Trong lúc họp, ông ấy lần đầu tiên viết một tờ báo tường. Đó là một cuộc tấn công chống lại “một số đồng chí nhất định”, những người đã vi phạm tinh thần của cuộc Cách mạng Văn hóa – và là một lời kêu gọi Hồng Vệ Binh hãy trừng phạt họ. Tít của tấm áp phích “Oanh tạc các trụ sở!”
Đó cuối cùng cũng là lời tuyên chiến với Lưu, với những người theo ông ấy và tất cả các cán bộ cũ. Nó được đăng vào ngày 5 tháng 8 năm 1966. Ngày cuối cùng trong cuộc đời của người cô giáo Biện Trọng Vân.
Mao, người vẫn còn ở miền Nam của Trung Quốc, được tường thuật tỉ mỉ về chiến dịch. Trong một bài thơ, ông ấy ca ngợi cuộc Cách mạng Văn hóa như là “làn sóng chấn động của bão táp và sấm sét, khiến thế giới ngạc nhiên”. Thời khắc tái sinh của ông ấy đã đến rồi,
Mặt trời đã đứng cao trên thành phố Vũ Hán khi Mao bước lên khỏi làn nước màu nâu của Trường Giang vào ngày 16 tháng 7 năm 1966. Sau này, báo chí Trung Quốc sẽ khẳng định rằng người Chủ tịch Vĩ đại đã bơi 15 kilômét trong vòng hơn một giờ đồng hồ. Sau đó, trong một chiếc áo choàng tắm màu trắng, con người 72 tuổi đấy vẫy tay chào những người đang đứng xem. Hàng ngàn người đã đến để nhìn ông ấy. “Lãnh tụ Mao kính yêu của chúng ta rất khỏe mạnh, khiến nhân dân Trung Quốc đầy vui mừng”, tờ “Nhân dân Nhật báo” ca ngợi.
Lần tắm trong Trường Giang là một thông điệp gửi đến các đối thủ của Mao: người Chủ tịch Vĩ đại mạnh khỏe và nhất quyết đấu tranh.
Hai ngày sau đó, ông ấy trở về Bắc Kinh. Còn trong đêm, ông ấy đã gặp những người thân cận, chỉ Lưu Thiếu Kỳ là ông từ chối không cho diện kiến.
Ngay sau đó, Mao giải tán các nhóm làm việc – vì họ muốn dập tắt ngọn lửa nổi dậy. Bây giờ thì không còn ai giữ giới thanh thiếu niên lại cả.
Còn Lưu? Ông ấy phải tự lên án mình trước những người của cuộc Cách mạng Văn hóa, vì những cái được cho là lỗi lầm của các nhóm làm việc. Bây giờ thì ông biết rằng lần lật đổ mình chỉ còn là câu hỏi của những tuần tới đây mà thôi.
Đầu tháng 8, Mao lại triệu tập Trung ương Đảng. Lần họp này đã trở thành tòa án cho các đối thủ của ông ấy. Trong lúc họp, ông ấy lần đầu tiên viết một tờ báo tường. Đó là một cuộc tấn công chống lại “một số đồng chí nhất định”, những người đã vi phạm tinh thần của cuộc Cách mạng Văn hóa – và là một lời kêu gọi Hồng Vệ Binh hãy trừng phạt họ. Tít của tấm áp phích “Oanh tạc các trụ sở!”
Đó cuối cùng cũng là lời tuyên chiến với Lưu, với những người theo ông ấy và tất cả các cán bộ cũ. Nó được đăng vào ngày 5 tháng 8 năm 1966. Ngày cuối cùng trong cuộc đời của người cô giáo Biện Trọng Vân.
TRƯỜNG SA, HOÀNG SA
Về địa danh Vạn Lý Trường Sa
Nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân
gửi cho BBCVietnamese.com
Gần đây Thư viện Đại Học
Oxford Anh quốc (Bodleian Library) công bố bản kỹ thuật số một địa đồ
cổ Trung Hoa với tiêu đề “The Selden Map of China”, phỏng định được thực
hiện trong thời Minh (1368-1644), nội dung mang tính chất địa đồ hàng
hải, phạm vi thể hiện gồm Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên và khu vực
Đông Nam Á.
Bấm
Địa đồ kích thước 100 x 150 cm, vẽ màu trên giấy. Về nguồn
gốc, địa đồ nguyên thuộc sở hữu của luật sư người Anh John Selden
(1584-1654), thể theo di nguyện của ông, gia đình đã tặng nó cho Thư
viện Đại học Oxford vào năm 1659, từ đó được cất giữ đến nay.
Bề mặt địa đồ này không ghi tiêu đề, nhưng theo
bản “Báo cáo tổng kết về cuộc điều tra tại một số thư viện Anh Quốc” của
Trương Chí Thanh và Triệu Đại Oánh- cán bộ Phòng Cổ tịch Thư viện Quốc
gia Trung Quốc- hồi tháng 5 năm 2008 thì địa đồ này được gọi là “Thiên
hạ hải đạo toàn đồ/World Searoad Complete Map”.
Theo Tiến sĩ Tiền Giang (Đại học Hong Kong)
trong bài giới thiệu sơ bộ về địa đồ này trên tập san “Hải giao sử
nghiên cứu” tháng 9/2011 thì nó được gọi là “Đông - Tây dương hàng hải
đồ”, và phỏng định được làm ra vào năm Thiên Khải thứ 4 (1624).
Căn cứ theo tính chất và mục đich của địa đồ, sau đây gọi tắt là Hải đồ (xem Hải đồ và các thông tin liên quan
Bấm
tại đây).
Các địa danh ngoài Trung Hoa được ghi trên Hải
đồ này khá nhiều, khoảng 105 nơi, đặc biệt vị trí Vạn Lý Trường Sa và
Vạn Lý Thạch Đường cùng các điểm xung quanh như sau.
Vạn Lý Trường Sa và Vạn Lý Thạch Đường
Theo đồ hình la bàn vẽ ở giữa trên trong nền Hải
đồ, thấy quy ước định vị trên bắc dưới nam, địa danh Vạn Lý Trường Sa
và Vạn Lý Thạch Đường được biểu thị là hai nơi gần nhau, cả hai nằm ở vị
trí gần như trung tâm của toàn đồ.
Địa danh Vạn Lý Thạch Đường được ghi trong đường
khuyên tròn, bên trên đường khuyên biểu thị một hòn đảo hình thang tô
màu đỏ hồng, cạnh bên phải đường khuyên (hướng đông) ghi ba chữ “Dữ hồng
sắc” (hòn đảo màu đỏ), ba chữ này như một lời chú bổ cho địa danh Vạn
Lý Thạch Đường; phía trên Vạn Lý Thạch Đường về hướng đông đông nam là
Vạn Lý Trường Sa, địa danh này được ghi kèm bốn chữ “Tự thuyền phàm
dạng” (giống như hình cánh buồm), “Vạn Lý Trường Sa, tự thuyền phàm
dạng” được viết thành hai hàng dọc liền nhau và đặt bên trong khung viền
giống như mảnh vải bay lượn; phía trái (hướng tây) Vạn Lý Thạch Đường
là hòn đảo ghi địa danh Ngoại La (tức đảo Lý Sơn), phía tây vượt qua
Ngoại La là lục địa, hơi chếch về bắc là địa danh Quảng Nam và hơi chếch
về nam là địa danh Tân Châu (tức Quy Nhơn).
Từ Vạn Lý Thạch Đường thẳng lên hướng bắc là cụm
địa danh “Thất Châu, Độc Trư, Quảng Châu” được ghi chung trong một
đường viền hình elip nằm nghiêng (theo chiều đông nam – tây nam), tiếp
lên hướng bắc cách một khoảng biển hẹp là các địa danh “Đam Châu”,
“Quỳnh Châu”, “Lôi Châu”, có điểm lạ là phần đất Đam Châu và Quỳnh Châu
(đều trên đảo Hải Nam) được vẽ liền với lục địa.
Cách một khoảng khá xa Vạn Lý Thạch Đường, về
hướng đông nam là địa danh Côn Lôn, chữ Côn Lôn được đặt trên nét vẽ
biểu thị ngọn núi và cạnh bên hải đạo từ Vương Thành Lữ Tống (Luzon) đến
Văn Lai (Brunei); cách một khoảng khá xa Vạn Lý Thạch Đường, về hướng
đông bắc là địa danh Nam Áo Khí được ghi trong đường khuyên tròn.
Hải đồ này có nhiều điểm khá đặc biệt.
Về kỹ thuật hàng hải, Hải đồ này có ưu điểm là
đã biểu thị các đường kẻ cho hải đạo, gồm 6 tuyến đông dương và 12 tuyến
tây dương, trên hải đạo cũng định phương hướng cần thiết theo hệ quy
ước la kinh truyền thống. Đối chiếu nhiều địa đồ mang tính chất hàng hải
do người Trung Hoa soạn vẽ, cho đến cuối Thanh, tuy có định hướng la
kinh nhưng hình như chưa từng thực hiện chi tiết kỹ thuật “kẻ nét hải
đạo” này.
Về hoạ pháp, đường nét và cách tô màu trên Hải
đồ không mang phong cách/quy tắc vẽ địa đồ và phương pháp hội hoạ truyền
thống Trung Hoa. Các điểm dễ nhận thấy là, trong cách biểu thị mặt
biển, Hải đồ không diễn tả đường nét “hải ba” (sóng biển) vốn là đặc
trưng truyền thống; vật thể tự nhiên như cây, đá cùng vật thể kiến trúc
đều vẽ không hợp cách.
Về việc sử dụng địa danh, tổ hợp địa danh Vạn Lý
Trường Sa và Vạn Lý Thạch Đường có tính cá biệt so với nhiều địa đồ,
hải đồ cùng thời.
Không biểu thị chủ quyền
Cùng thời Minh, trên bức “Hỗn nhất cương lý lịch
đại quốc đô chi đồ/Map of Integrated Lands and Regions of Historical
Countries and Capitals” (Triều Tiên, 1402) có hai nơi được tiêu danh
Thạch Đường và một nơi tiêu danh Trường Sa, theo thứ tự Thạch Đường-
Trường Sa- Thạch Đường.
Trên “Trịnh Hòa hàng hải đồ”, trong quyển 240
sách Võ Bị Chí (1619), có ba nơi được ghi (theo tứ tự trước sau từ phải
sang trái) là Thạch Tinh Thạch Đường- Vạn Sinh Thạch Đường Dữ - Thạch
Đường.
Trên “Đông nam hải di đồ”, trong quyển 223 sách Võ Bị Chí (1619), có hai nơi ghi là Thạch Đường – Trường Sa.
Trên “Đông tây nam hải di chư quốc tổng đồ”
trong quyển Thủ sách Đông tây dương khảo (1618) có hai nơi được ghi là
Thạch Đường – Trường Sa. Cho đến gần 100 năm sau, vào thời Thanh mới
thấy tổ hợp địa danh Vạn Lý Thạch Đường – Vạn Lý Trường Sa ghi trên địa
đồ, đầu tiên trong bức “Đại Thanh Trung – Ngoại thiên hạ toàn đồ/Địa đồ
Đại Thanh về Trung Hoa và các nước xung quanh” vẽ năm Khang Hi Bính Thân
(1716).
Cơ sở của Việt Nam tại Trường Sa
Đối với lời chú “giống như hình cánh buồm” đi
kèm địa danh Vạn Lý Trường Sa cũng cho một bất ngờ, hầu hết các địa đồ
cổ Trung Hoa, trước và sau niên điểm Hải đồ đều không đính kèm lời chú
giống như hoặc tương tự như vậy cạnh nơi được tiêu danh Trường Sa hoặc
Vạn Lý Trường Sa. Điều này, dẫn đến sự liên hệ với nhiều địa đồ phương
Tây, với cách biểu thị Paracels khá điển hình, với một vùng bằng tập hợp
những nét chấm với khuôn viền giống hình cánh buồm, sớm nhất có thể
thấy qua hai bản đồ của Bartholomen Velho (1560) và của F.M. Pinto
(1560).
Vạn Lý Thạch Đường và Vạn Lý Trường Sa trên Hải
đồ được đặt ở vị trí rất gần Quảng Nam và Quy Nhơn, ở hướng đông của hai
địa phương này, điều này khác hẳn các địa đồ trước và sau nó, thông
thường các địa đồ khác đặt Thạch Đường – Trường Sa hoặc Vạn Lý Thạch
Đường - Vạn Lý Trường Sa ở vào khoảng giữa đảo Lưu Cầu (Ryukyu) với biển
phía đông Trung Hoa hơn là đặt nó gần vùng bờ biển phía đông Việt Nam.
Một điểm sai trên Hải đồ rất đáng lưu ý là Đam
Châu và Quỳnh Châu (đều trên đảo Hải Nam) được vẽ liền với phần lục địa,
sai lầm này khó xảy ra đối với tác giả người Trung Hoa, bởi vì nhiều
địa đồ từ thời Tống đã thể hiện Quỳnh Châu là hải đảo.
Các đặc điểm nêu trên cho thấy Hải đồ này đã chịu ảnh hưởng rất nhiều từ các bản đồ Tây phương.
Tóm lại, các địa danh ghi trên Hải đồ chỉ mang
tính chất giao thông, không có ý biểu thị việc xác định chủ quyền của
nơi này đối với nơi khác.
Trong trường hợp Hải đồ có thêm mục đích biểu
thị hoặc gián tiếp nói đến sự lệ thuộc của các hải đảo vào quốc gia lục
địa nào đó, thì Vạn Lý Thạch Đường và Vạn Lý Trường Sa không thuộc vùng
biển Trung Hoa, điều này không chỉ nhận biết dựa vào vị trí diễn tả trên
Hải đồ, mà còn có sự liên hệ với những bức cùng thời đã nêu.
Chẳng hạn, sách Võ bị chí và Đông Tây dương khảo
có nhiều địa đồ về Trung Hoa và ngoài Trung Hoa, nhưng Thạch Đường-
Trường Sa chỉ có trên các địa đồ diễn tả nơi ngoài Trung Hoa, như “Đông
nam hải di đồ”, “Đông tây nam hải di chư quốc tổng đồ”. Ở góc độ này,
tức việc định vị các hải đảo và thể hiện vùng biển Đông Nam Á, Hải đồ có
thêm giá trị điều chỉnh các điểm bất ổn của nhiều địa đồ trước nó.
Bài viết thể hiện quan điểm và văn phong của tác giả, một nhà nghiên cứu về Biển Đông ở Việt Nam.
Quần đảo Hoàng Sa (Paracel Islands) và Quần đảo Trường Sa (Spratly Islands)
Bài viết này cung cấp một số thông tin và hình ảnh về Quần đảo Hoàng Sa (Paracel Islands) của Việt Nam hiện đang bị Trung Quốc chiếm giữ trái phép (từ 19/1/1974) và Quần đảo Trường Sa (Spratly Islands). | |
1. Giới thiệu (bổ sung thêm thông tin ở đây) 2. Tên gọi và vị trí địa lý của Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa (trích Nguyễn Nhã, 2002) Quần đảo Hoàng Sa (群島黄沙), tên Nôm: Bãi Cát Vàng, Hán Việt: 黄沙群島, tiếng Anh: Paracel Archipelagos (Islands) Quần đảo Trường Sa (群島長沙), Hán Việt: 長沙群島, tiếng Anh: Spratly hoặc Spratley Archipelagos (Islands)
Hình 1: Vị trí của Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa trên Biển Đông
|
Trước đây trong một thời gian dài, người Việt và người Phương Tây đều tưởng ở giữa Biển Đông chỉ có một quần đảo dài, đều gọi một tên chung, rất nhất quán. Người Việt gọi là Bãi Cát Vàng (bổ sung) hay Cồn Vàng hoặc Hoàng Sa (黄沙). Hoặc có khi gọi là Đại Trường Sa (大長沙) hay Vạn Lý Trường Sa (万里長沙).
Xem Bản đồ Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của www.intute.ac.uk
Bãi Cát (Kát) Vàng hay Cồn Vàng là gốc từ chữ Nôm, Hoàng Sa gốc từ chữ Hán, đều đồng nghĩa ( Sa = Cát, Hoàng = Vàng; Trường = Dài; Đại = Lớn; Vạn Lý = Vạn Dặm; Bãi là chỗ đất nổi lên ở ven hay giữa sông , biển; Cồn là gò đống nổi lên ở giữa sông hay biển).
Danh xưng từ chữ nôm "Cát Vàng" rất được thông dụng trong dân gian, được dân gian đặt tên sớm. Tên gọi từ chữ Hán “Hoàng Sa” được giới nho sĩ dịch và viết ra về sau.
Người Bồ Đào Nha, Hòa Lan gọi quần đảo là Parcel hay Pracel ( tiếng Bồ Đào Nha, Parcel có nghĩa là đá ngầm - ám tiêu; xem Eduardo Pinheiro, Dictionário Da Língua Portuguesa, Porto, Tipografia Sequeira, L.DA, 1948, tr.1042) vào đầu thế kỷ XVI; khi ấy người Phương Tây chưa biết đến các đảo ở phía Nam mà sau này gọi là Trường Sa; trên bản đồ thường ghi”I de Pracell”như bản đồ Bartholomen Velho (1560), bản đồ Fernao Vaz Dourado (1590).,bản đồVan Langren (1595)…
Người Pháp, Anh gọi là Paracel vào thế kỷ XVII, XVIII trên các bản đồ hàng hải. Mãi đến năm 1787-1788, khi đoàn khảo sát Kergariou Locmaria xác định rõ ràng và chính xác vị trí của quần đảo Paracel như hiện nay, người Phương Tây mới bắt đầu phân biệt quần đảo Paracel ở phiá Bắc với quần đảo ở phía Nam mà sau này đến thập niên 40 trong thế kỷ XX người Pháp mới gọi là Spratly(1.1) chỉ chung cho quần đảo Trường Sa.
Còn đối với người Việt, từ đầu thế kỷ XVIII đã kiểm soát vùng Biển Đông tới tận Hà Tiên, như Lê Quý Đôn trong Phủ Biên Tạp Lục đã cho biết Đội Bắc Hải trực thuộc Đội Hoàng Sa đã phụ trách riêng các đảo phía Nam của Bắc Hải và tới tận Côn Lôn, Hà Tiên. Tuy sang thế kỷ XIX, đã thấy địa danh Vạn Lý Trường Sa ở phía Nam ghi cùng với Hoàng Sa ở phía Bắc trong Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ, song vẫn chưa phân biệt thật rõ rệt mà vẫn chỉ chung một quần thể. Ngay thời Ngô Đình Diệm năm 1956 cũng thể hiện khái niệm “hai quần đảo là một” khi trong văn bản ghi Hoàng Sa chỉ cả hai quần đảo Paracel và Spratley.
Một điều hết sức đặc biệt là có sự nhất quán hết sức rõ ràng giữa danh xưng quần đảo tên Việt và tên Phương Tây, khi Giám Mục Taberd ghi rất rõ ràng ở bản đồ An Nam Đại Quốc Họa Đồ với hàng chữ: Paracel seu Cát Vàng . (Tiếng Latinh seu = hoặc là). Cũng chính Giám mục Taberd đã viết Paracels được người Việt gọi là Cát Vàng trong cuốn Univers, Histoire et Description de Tous Les Peuples, de Leurs Religions, Moeurs et Coutumes (1833). Điều này không hề có ở Trung Quốc cũng như bất cứ nước nào khác. Chỉ ở Việt Nam mới chắc chắn Cát Vàng hay Hoàng Sa chính là Paracel do Phương Tây đặt tên.Chính điều này là bằng chứng rất rõ ràng người Phương Tây ít ra từ đầu thế kỷ XIX đã xác nhận Paracel chính là Cát ( Kát) Vàng tức Hoàng Sa của Việt Nam.
Thật khác với người Phương Tây hay Trung Quốc, tên gọi được đặt hai quần đảo này chỉ thuần túy do nhu cầu hàng hải,tên gọi Hoàng Sa được người Việt đặt do việc xác lập chủ quyền ở hai quần đảo này, bởi đồng thời "Hoàng Sa" dùng để chỉ tên một tổ chức do nhà nước thành lập khai thác, kiểm soát, làm chủ các hải đảo mang tên "Hoàng Sa". Như thế bản thân tên gọi "Hoàng Sa" là bằng chứng cho sự xác lập cũng như thực thi chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa.
Quần đảo Hoàng Sa & Trường Sa nằm trong Biển Đông. Đã từ lâu, người Việt đã nói đến Biển Đông trong ca dao tục ngữ: “Thuận vợ, thuận chồng, tát Biển Đông cũng cạn” hay “Dã tràng xe cát Biển Đông”. Người Trung Hoa thường gọi là Nam Hải, song cũng tùy theo từng thời kỳ lịch sử người Trung Hoa đã tên gọi khác nhau như biển Giao Chỉ (Giao Chỉ Dương). Ngoài ra, ven tỉnh Quảng Đông, người Trung Hoa còn gọi là Việt Hải, Việt Dương.
Các nhà hàng hải Phương Tây từ thế kỷ XVI thường gọi là biển Champa (Ciampa), hay biển Trung Hoa hay Nam Trung Hoa. Cũng như người ta thường gọi biển kế cận Ấn Độ là Ấn Độ Dương. Song chẳng bao giờ Ấn Độ Dương là của Ấn Độ cũng như Biển Trung Hoa là của Trung Hoa cả. Đúng ra, Biển Đông bao quanh hầu hết các nước Đông Nam Á như Việt Nam, Philippines, Indonesia, Brunei, Malaysia, Singapore, Thái Lan, Campuchia, nên phải gọi là Biển Đông Nam Á mới đúng.
Từ nhiều thập niên qua, đã có nhiều nhà khoa học cố gắng giải thích sự hình thành nền văn hóa hàng hai của dân Việt nói riêng và của dân Đông Nam Á nói chung, có những sắc thái hoàn toàn khác với văn hoá lục địa Trung Hoa. Một số lý thuyết được tóm tắt như sau:
Chrester Norman cho rằng nền Văn Minh Hòa Bình được tạo dựng trong thời gian lục địa Sunda bị ngập nước. Khi đó Vịnh Bắc Bộ và Vịnh Thái Lan lúc trước là hai vùng đồng bằng trũng. Lý thuyết Norman cho rằng một số dân Đông Nam Á khởi sự trước hết bằng cuộc sống ở duyên hải, sau này hội nhập với dân cư vùng cao nguyên, nhưng rồi lại trở về vùng đồng bằng gần biển, sau nữa phát triển về hàng hải (“The Hoabinhian and After: Subsistence Patterns in Southeast Asia during the Late Pleistocene and Early Periods”,World Archaecology 2, No.3, 1971, pp 300-320). [107]
Wilheim G. Solheim cho rằng 6000 năm trước, dân Đông Nam Á đã mạo hiểm ra khơi. Gió bão và hải lưu của Biển Đông và Thái Bình Dương đã cuốn trôi một số người tới Nhật Bản, trong khi các nhóm khác bị quét sang Philippines, Indonesia, Malaysia. Tiếp theo, những toán dân chúng di chuyển tới các đảo ở ngoài khơi Thái Bình Dương và sang Madagascar.
Cũng theo Solheim, Biển Đông thời cổ còn là nơi phát sinh những đường hàng hải giao tiếp với các nơi ở dọc biển Á Châu, Âu Châu, Phi Châu và cả Mỹ Châu nữa. Solheim lý luận rằng chỉ có sự kiện Đông Nam Á giữ vai trò trung tâm phân tán như trục một cái bánh xe tỏa nan hoa ra khắp nơi mới giải thích được hiện tượng lịch sử là tại sao các chủng tộc khác biệt của loài người sống xa cách nhau trên thế giới lại có nhiều sự tương đồng về sinh hoạt văn hoá như vậy (“World Ethnographic Sample...A Possible Historical Explanation”,American Anthropologist, 70, 1968, p569). [107]
Nhà ngữ học Pháp Paul Rivet đã có nhiều cuộc nghiên cứu và kết luận rằng: “Từ Đông Nam Á, một thứ ngôn ngữ đã được truyền bá đi bằng đường hàng hải đến Nhật Bản, Tasmania, Địa Trung Hải, Phi Châu và Mỹ Châu”(Sumerien et Océanien, Collection Linguistique, Paris, 1929).(hình 1.1) [107]
Carl Sauer duyệt xét những biến chuyển về địa lý Biển Đông, ý thức tầm quan trọng của ngư nghiệp và hàng hải trong tiến trình văn minh Đông Á thời cổ, khác biệt hẳn với các nơi khác trên thế giới. Vì Biển Đông có hai vụ gió mùa, nên việc hải hành viễn duyên khi đi cũng như khi về rất tiện lợi. Sự trao đổi hàng hóa nâng cao kỹ thuật chế tạo phẩm vật. Trước đây 2500 năm, trống đồng chính là thành tích rõ ràng nhất minh chứng khả năng hàng hải của dân Lạc Việt.(Agricultural Origins and Dispersals, Series Two, New York, 1952, pp24-25)[ 107 ]. Những hoa văn nhiều hình thuyền trên trống đồng, thạp đồng thời đại Đông Sơn, thời đại Hùng Vương đã minh chứng hùng hồn dân Việt thời cổ đã coi trọng phương tiện đi lại bằng thuyền như thế nào!
Có những dự đoán của các nhà khoa học, chừng một vài thiên kỷ sắp đến, mực nước Biển Đông sẽ bắt đầu rút trở xuống. Căn cứ vào mực nước biển lên xuống trong quá khứ, nếu không có gì thay đổi, trong vòng dăm ba ngàn năm tới, cả Vịnh Bắc Bộ và Vịnh Thái Lan sẽ trở thành khô cạn, Biển Đông trở thành biển nội địa, đường hàng hải quốc tế không còn qua Biển Đông nữa (Xem bản đồ của National Geographic, March, 1971) . (hình 1.2, hình 1.3) [107]
Hai quần đảo cách nhau khoảng 500km, trải dài từ Bắc xuống Nam khoảng 11 vĩ độ, từ vĩ độ 17o 05B xuống 6o209B, từ Tây sang Đông khoảng 7 kinh độ, từ kinh độ 110o Đ đến kinh độ 117oĐ. Cả hai quần đảo này gồm nhiều đảo, đá, bãi cạn có nguồn gốc san hô. Tổng diện tích phần thường xuyên nổi lên mặt nước của mỗi quần đảo khoảng hơn 10km2. Tuy hai quần đảo cách xa nhau song mỗi quần đảo lại có một số đảo gần miền bờ biển đất liền nhô ra biển của Việt Nam tức vùng đất từ mũi Ba Làng An đến mũi Kê Gà (từ Quãng Ngãi đến Bình Thuận). Vị trí này khiến dân từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận có mối liên hệ lâu đời với hai quần đảo trên mà người Việt trong một thời gian dài đã coi gộp chung là một như chúng ta đã biết hoặc gọi là Hoàng Sa, hoặc gọi là Vạn Lý Trường Sa ( Xem hình 1.4, 1.5, 1.6).
3. Quần đảo Hoàng Sa
(trích Nguyễn Nhã, 2002)
Quần đảo Hoàng Sa nằm trong một phạm vi rộng khoảng 15.000 , giữa kinh tuyến 111 độ Đ đến 113 độ Đông, khoảng 95 hải lý (1 hải lý = 1,853 km), từ 17o05 xuống 15o,45độ vĩ Bắc, khoảng 90 hải lý; xung quanh là vùng biển có độ sâu hơn 1000m, song giữa các đảo có độ sâu thường dưới 100m.
Quần đảo Hoàng Sa nằm ngang bờ biển các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam và một phần Quảng Ngãi.
Về khoảng cách với đất liền, quần đảo Hoàng Sa nằm gần đất liền Việt Nam hơn cả:
Từ đảo Triton đến Mũi Ba Làng An (Cap Batangan:15độ vĩ B, 108 độ 6 kinh Đ), tức đất liền lục địa Việt Nam đo được 135 hải lý , cách Cù Lao Ré chỉ có 123 hải lý, trong khi đó khoảng cách đảo gần nhất tới bờ đảo Hải Nam xa tới 140 hải lý (đảo Hoàng Sa-Pattle:16 độ vĩ B, 111độ6 kinh Đ và Ling-Sui hay Leong Soi : 18độ vĩ B, 110 độ 03 kinh Đ); nếu tính tới đất liền lục địa Trung Hoa còn xa hơn nhiều, tối thiểu là 235 hải lý . (hình 1.7 )
Đoạn bờ biển từ Quảng Trị chạy dài xuống tới Quảng Ngãi đối mặt với các đảo Hoàng Sa luôn hứng gió Mùa Đông Nam hay Đông Bắc thổi vô, nên thường tiếp nhân các thuyền bị bão làm hư hại ở vùng biển Hoàng Sa (Hình 1.8). Các vua chúa Việt Nam hay chu cấp phương tiện cho các thuyền bị nạn ấy về nước, nên họ thường bảo nhau tìm cách tạt vào bờ biển của Việt Nam để nhờ cứu giúp. Chính vì thế, Hoàng Sa từ rất sớm đã được người Việt biết tới, hết sức quan tâm, cùng xác lập và thực thi chủ quyền của mình.
Trong khoảng 30 đảo, đá, bãi, cồn, hòn trên, hiện có 23 đã được đặt tên, gồm 15 đảo, 3 bãi, 3 đá, 1 cồn, 1 hòn. Các đảo trên không cao, cao nhất là Đảo Hòn Đá (50 feet), đảo thấp nhất là Đảo Tri Tôn (10 feet). Các đảo chính gồm 2 nhóm:
- Nhóm Lưỡi Liềm (Crescent group) ở Tây Nam.
- Nhóm An Vĩnh (Amphitrite Group) ở Đông Bắc.
Hình 2: Không ảnh đảo Hoàng Sa (Pattle Island, Shanhu Dao) với cơ sở quân sự, khí tượng Việt Nam (chụp năm 1968)
3.1 Nhóm Lưỡi Liềm
Nhóm Lưỡi Liềm còn gọi là Trăng Khuyết hay Nguyệt Thiềm, theo như Sơn Hồng Đức nếu nhìn từ máy bay xuống , nhóm đảo này trông hình như chiếc bánh “croissant” châu đầu vào nhau. Có 7 đảo chính và vô số mỏm đá:
. Đảo Hoàng Sa (Pattle, Shanhu Dao) (hình 1.9, đảo Hoàng Sa) [Tập San sử Địa số 29]
Tuy là đảo chính nhưng không phải là đảo lớn nhất, có vị trí quân sự quan trọng nhất cho việc phòng thủ bờ biển Việt Nam, hơn cả đảo Phú Lâm.
Đảo nằm trên tọa độ 16 độ 32,3 vĩ B , 111độ 35,7 kinh Đ, hình bầu dục, dài khoảng hơn 900m, rộng khoảng gần 700m, diện tích chừng 0,3km2 (30ha) [27, tr.21]gồm cả vòng san hô bao quanh.
Trước ngày 19 tháng 1 năm 1974, ngày Trung Quốc xâm chiếm, đảo này đã được Việt Nam xây dựng căn cứ quân sự, nhà cửa, đài khí tượng, hải đăng, miếu thờ Bà, cầu tàu, bia chủ quyền. Cho đến ngày Trung Quốc xâm chiếm, bia chủ quyền vẫn còn giòng chữ như sau: “République Franaise - Empire dAnnam-Archipel des Paracels”. Về Đông Bắc Đảo vẫn còn vài ngôi mộ binh lính thời Nhà Nguyễn. Phía Tây Nam đảo có một am thờ gọi là Miếu Bà, có một pho tượng Phật Bà Quan Am (hình 1.10). Đài khí tượng với danh xưng “Station dObservation 838” chính thức hoạt động từ năm 1938 thường với 5 nhân viên thuộc ty Khí tuợng Hoàng Sa do chính quyền Nam Việt Nam quản lý (hình 1.11). Từ năm 1931 đến 1975 thường xuyên có một trung đội lính từ Quảng Nam (Trung bộ Việt Nam) (hình 1.12, hình 1.13) [Tập San Sử Địa số 29].
. Đảo Hữu Nhật (Robert, Canquan Dao hay Cam Tuyền) (hình 1.14, hình 1.15)
Đảo mang tên suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật được vua Minh Mạng phái ra Hoàng Sa đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ vào năm 1836.
Phía Nam đảo Hoàng Sa cách độ 3 hải lý, hình bàu tròn, đường kính 800m, chu vi 2000 m, diện tích khoảng 0.32km2 (32ha) [17,tr.20] có vòng đai san hô bao ngoài xa, giữa là vùng bể lặng. Nằm ở tọa độ 111độ344kinh Đ, 16độ 3060 vĩ B . Chung quanh đảo cây cối um tùm, chính giữa là lòng chảo không sâu cho lắm. Biển quanh đảo có nhiều rong biển, phủ kín cả mặt biển. Nơi đảo này vì không người ở, nên con vít thường lên bờ đẻ la liệt từ tháng 3 đến tháng 8 âm lịch.
. Đảo Duy Mộng (Drummond, Jinquing Dao)
Đảo ở phiá Đông Nam đảo Hữu Nhật, phía Đông Bắc đảo Quang Hoà, nằm trên tọa độ 111 o 44kinh Đ,16 o 28 vĩ B, cũng do san hô cấu tạo thành, bãi san hô ra xa đảo, nhô lên khỏi mặt nước khoảng 4m. Đảo hình bầu dục, diện tích khoảng 0,41km2(41ha) [17,tr.21] không có loại cây lớn, chỉ toàn loại cây nhỏ. Giữa đảo là vùng đất trống, có thể định cư được. Đảo có một con lạch nhỏ, có thể dùng ghe nhỏ vào sâu trong nội địa. Tàu có thể neo cách đảo 200m. Có nhiều chim biển và con vít sống trên đảo.
. Đảo Quang Hòa (Duncan, Chenhang Dao) (hình 1.16)
Đảo nằm trên toạ độ 111o42kinh Đ, 16o 26 vĩ B cũng do san hô tạo thành, là đảo lớn nhất trong nhóm đảo Lưỡi Liềm (Crescent Group), Chung quanh đảo là bãi cát mầu vàng (hoàng sa hay cát vàng). Vòng san hô lan ra rất xa khỏi bìa đảo. Cạnh đảo lớn còn có những đảo nhỏ, nối liền nhau bằng bãi cát dài. Một vài bản đồ địa chất ghi Quang Hoà thành hai đảo Quang Hoà Đông và Quang Hoà Tây.
- Quang Hoà Đông có rừng cây nhàu, một loại cây dùng để làm thuốc thường thấy ở Trung Bộ và Nam Bộ Việt Nam và cây phosphorite mọc ở phía Tây của đảo, nhiều cây cao tới 5 m. Phần đảo phía Đông trơ trụi chỉ có dây leo sát mặt đất. Chu vi đảo 2.700m, diện tích khoảng 0,48km2 (48ha) [17, tr.21]
- Quang Hoà Tây là một đảo nhỏ, gần hình tròn, chu vi 1000m, chỉ bằng 1/10 đảo Quang Hoà Đông, khoảng 0,09 km2 (9ha), cùng có những loại cây như ở đảo Quang Hoà Đông nhưng chỉ cao khoảng 3m.
. Đảo Quang Anh ( Money Island, Jinyin dao, Kim Ngân (TQ)) (hình 1.17)
Đảo nằm ở trên toạ độ 1110 36kinh Đ, 1600 27 vĩ B do san hô tạo thành, nhô lên mặt nước độ 6 m, nơi cao nhất trong nhóm đảo Lưỡi Liềm. Chung quanh đảo bờ biển có nhiều đá ngầm sắc nhọn rất nguy hiểm, tàu lớn không thể cặp neo được. Các tàu lớn phải neo ở ngoài khơi, muốn vào đảo phải sử dụng thuyền nhỏ. Vì địa thế hiểm trở và trên đảo không có nước ngọt, nên ít vết chân người lui tới.
Đảo mang tên Phạm Quang Anh, một đội trưởng Hoàng Sa được vua Gia Long sai đo đạc thủy trình ở Hoàng Sa năm 1815, hiện có hậu duệ và nhà thờ họ ở Cù Lao Ré.
Đảo hình bầu dục, hơi tròn, chu vi khoảng 2.100 m, diện tích khoảng 0,3 km2 (30 ha) [17,tr.21] Có một số cây lớn mọc ở giữa đảo cao tới 5 m. Ở phía ngoài của đảo có các cây phosphorite và một loại cây khác giống cây mít không có trái.
Nhóm đảo Lưỡi Liềm ngoài 5 đảo trên còn 4 đảo nhỏ như đảo BaBa (Hoàn Thử, 1110 40 kinh Đ, 160 36 vĩ B), đảo Ốc Hoa (Toàn Phủ, 1110 38 kinh Đ, 160 36 vĩ B), đảo Lưỡi Liềm (Crescent Island, Đảo Thạch, 1110 46 kinh Đ, 160 34 vĩ B), đảo Xà Cừ (1110 42 kinh Đ, 160 33 vĩ B ), và các đá như đá Hải Sâm (Antelope Reef, 1110 34 kinh Đ, 160 29 vĩ B), đá Lồi (Discovery Reef, Yuzhuo Jiao, 1110 40 kinh Đ, 160 14 vĩ B), đá Chim Yến (Vuladdore Reef, 1120 04 kinh Đ, 160 21 vĩ B), đá Bạch Qui (Passu Keah Reef,Panshi Yu, 1110 455 kinh Đ, 160 03 vĩ B).
3.2 Nhóm An Vĩnh (1.2) (Amphitrite Groupe, (1.3)
Nhóm đảo An Vĩnh bao gồm các đảo tương đối lớn và cao nhất thuộc quần đảo Hoàng Sa, cũng là các đảo san hô lớn nhất của Biển Đông.Đảo lớn nhất là đảo Phú Lâm.
.Đảo Phú Lâm (Woody Island, YongxingDao)
Đảo nằm ở toạ độ 112 20 kinh Đ, 160 50 vĩ B. Đảo lớn nhất trong quần đảo,bề dài 3.700m và ngang 2.800m [31, tr.185].Trên đảo cây cối um tùm, có vài cây dừa, nên gọi là Phú Lâm. Ở đây chim hải âu sinh nở từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, để lại một lớp guano (phân đen) dày tới 50 cm. Đây là đảo duy nhất từ xa có thể nhìn thấy được.
Đảo có cầu tàu lớn, sân bay, đài kiểm báo và nhiều phương tiện quân sự khác.
. Các đảo khác
Tất cả các đảo, bãi thuộc quần đảo Hoàng Sa đều ở dưới vĩ tuyến 17, trừ Đá Bắc (North Reef, Beijiao, 1110 381 kinh Đ, 170 05 vĩ B), tại bãi này có nhiều xác tàu bị đắm nhiều nhất. Cụm An Vĩnh còn có đảo Cây (Tree Island, Zhaoshudao), 112016 kinh Đ, 160 50 vĩ B) Nhà cầm quyền thực dân Pháp đã xây dựng một đài quan trắc khí tượng, số hiệu trong danh sách World Meteorological Organisation là 48859.
Đảo Bắc (North Island, Beidao, 1120 183 kinh Đ, 160 57 vĩ B)
Đảo Nam (South Island, Nandao, 1120 197 kinh Đ, 160 567 vĩ B)
Đảo Giữa (Middle Island, Zhongdao, 1120 197 kinh Đ, 160 567 vĩ B)
Đảo Đá (Rocky Island, 1120 19 kinh Đ, 160 51 vĩ B) ở phía Tây Bắc đảo Phú Lâm.
Cồn Cát Tây (West Sand, Xi Shazhou, 1120 12 kinh Đ, 160 587 vĩ B)
Cồn Cát Nam (South Sand, Nan Shazhou, 1120 203 kinh Đ, 160 57 vĩ B)
3.3 Nhóm Linh Côn
Nằm về phía cực Đông của quần đảo Hoàng Sa. Đảo nằm vào kinh độ 1120 44 kinh Đ, vĩ độ 160 40.
Các đảo thuộc nhóm này không mấy quan trọng, chỉ là những mỏm san hô nhấp nhô trên mặt nước biển.
Linh Côn là tên một chiếc tàu bị nạn ở đây vào đầu thế kỷ XX. Lớn nhứt là đảo Linh Côn, diện tích chừng 1,62 km2, trên đảo có nước ngọt. Vùng san hô bao quanh kéo dài về phía Nam tới 15 hải lý.
Phía Tây nhóm đảo Linh Côn, còn có Đá Tháp (Pyramid Island, 1120 385 kinh Đ, 160 345 vĩ B), bãi Thủy Tề (Neptuna Bank, Beibianlang, 1120 31 kinh Đ, 160 30vĩB ). Phía Nam, Tây Nam còn có bãi Quảng Nghĩa (Jehangir Bank, Zhanhan tan), bãi Châu Nhai (Bremen Bank, Bimmeitan), bãi Tân Mê (1120 32 kinh Đ, 160 18 vĩ B), bãi Bồng Bay (Bombay Reef, Langhua jiao, 1120 30 kinh Đ, 160 02 vĩ B), bãi Gò Nói (Dido Bank, Xidu tan, 1120 55 kinh Đ, 160 49 vĩ B), bãi Ốc Tai Voi (Herald Bank, 1120 16 kinh Đ, 150 40 vĩ B), Bãi La Mác (1110 34 kinh Đ, 160 31 vĩ B).
Ngoài ra ở cực Nam còn có đảo Tri Tôn (Triton Island, Zhongjian dao, 1110 12kinh Đ, 150 46 vĩ B). Đây là hòn đảo đơn độc, ít người lui tới, nhưng rất nhiều hải sản, san hô đủ màu.
4. Quần đảo Trường Sa
Người Pháp gọi là Archipel des ýles Spratly, người Anh, Mỹ gọi là Spratley Islands hay Spratlies. Trung Quốc gọi là Nansha (Nam Sa) hay Nan Wei quần đảo, Philippines gọi là Kalayaan. Nhật gọi là Shinnan Guto.
Quần đảo Trường Sa cách quần đảo Hoàng Sa hiện nay tính đến đảo gần nhất vào khoảng 350 hải lý, đảo xa nhất 500 hải lý, cách Vũng Tàu 305 hải lý, Cam Ranh 250 hải lý, đảo Phú Quốc 240 hải lý, cách Bình Thuận (Phan Thiết) 270 hải lý.
Quần đảo trải dài từ vĩ độ 60 2 vĩ B tới 110 28 vĩ B, (1.4) từ kinh độ 1120 Đ đến 1150Đ trong vùng biển chiếm khoảng 160.000km2 - 180.000km2 . Biển tuy rộng nhưng diện tích các đảo, đá, bãi nổi lên khỏi mặt nước lại rất ít, chỉ tổng cộng khoảng 11 km2.
Về số lượng đảo theo thống kê của Tiến Sĩ Nguyễn Hồng Thao (Vụ Biển thuộc Ban Biên Giới Chính Phủ) năm 1988 bao gồm 137 đảo, đá, bãi (1.5) không kể 5 bãi ngầm thuộc thềm lục địa Việt Nam (gồm bãi Phúc Tần, Huyền Trân, Quế Đường, Phúc Nguyên, Tứ Chính) (1.6).
Theo thống kê của Pháp năm 1933 gồm 9 đơn vị chính và các đảo, đá, bãi phụ cận. Philippines đã liệt kê một danh sách 53 đơn vị gồm hòn đảo và cù lao trong một khu vực 976 dặm vuông. Căn cứ vào hải đồ vẽ năm 1979 của Cục Bản Đồ Quân Sự Bộ Tổng Tham Mưu (Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam), quần đảo Trường Sa có thể chia làm 9 cụm chính kể từ Bắc xuống Nam :
4.1 Cụm Song Tử gồm 2 đảo, 2 đá, 2 bãi
· Đảo Song Tử Đông, đảo Song Tử Tây.
Song Tử Đông (Northeast Cay, Pei Zi Dao hay Pei -tzu Tao (Trung Quốc), Parola Isl. (Phi), 11027 vĩ B, 1140 21 kinh Đ)
Song Tử Tây (Southwest Cay, Nan Zi Dao hay Nan -tzu Tao (Trung Quốc), Pugad Isl., (Phi) 110255 vĩ B, 1140 20 kinh Đ)
Hai hòn đảo này như sinh đôi nằm ở cực Bắc của quần đảo Trường Sa, ngang vĩ độ với Phan Rang (Ninh Thuận). Chính vì có vị trí này mà đội Bắc Hải hoạt động ở vùng này từ cuối thế kỷ XVII lấy xuất đinh từ tỉnh Bình Thuận. Trên đảo có những cây cao trung bình, nhiều phân chim có thể chế biến thành phân bón. Vòng quanh hai đảo này, về phía Đông và Nam chừng năm hải lý có nhiều mỏm đá ngầm. Rong biển mọc nhiều ở đây.
Song Tử Đông hơi tròn( hình.1.19), diện tích gần 20 acres, dài 900m , rộng 250m, cao độ 3m, có nhiều bãi cát và san hô xung quanh, nhiều cây cối, một ít dừa. Năm 1963, Việt Nam Cộng Hoà có dựng một bia chủ quyền (hình 1.20). Philippines cho quân chiếm đóng từ năm 1968.
Song Tử Tây hình lưỡi liềm (hinh 1.21), diện tích nhỏ hơn Song Tử Đông, dài 700m, rộng 300m, có nước ngọt, có một vườn dừa và nhiều cây nhỏ. Có tháp rađa thời Việt Nam Cộng Hoà. Hiện Quân Đội Nhân Dân Việt Nam đang trấn giữ cả hòn đảo ( hình 1.22) .
Cụm Song Tử còn có Đá Bắc (North Reef , Pei Jiao hay Tung - pei -Chiao (Trung Quốc), 11028 vĩ B, 114023 kinh Đ), Đá Nam (South Reef, Nan Jiao hay Nai -lo - Chiao, 11023 vĩ B, 1140 18 kinh Đ)
Phía Đông cụm Song Tử còn có bãi cạn Đinh Ba ở phía Bắc (Trident Shoal, Yong deng Ansha hay Yung -teng An - sha (Trung Quốc ), TatLong, Tulis Shoal (Phi), 11020, 1140 42 kinh Đ) và bãi Núi Cầu (Lys Shoal, Lesi Ansha (Trung Quốc ), Bisugo Shoal (Phi), 110205 vĩ B, 1140 35 kinh Đ ở phía Nam.
4.2 Cụm đảo Thị Tứ
Ở phía Nam cụm Song Tử, gồm đảo Thị Tứ và các bãi đá.
-Đảo Thị Tứ (ThiTu Island, Zhong Ye Dao hay Chung -Yeh Tao (Trung Quốc), Pagasa Isl (Phi), 110027 vĩ B, 1140 17 kinh Đ). Đảo nằm ở phía Đông Bắc của đảo Trường Sa (Spratley) do san hô tạo thành lẫn với cát trắng và đá vôi (hình 1.23).
Đảo hình bầu dục, bề ngang 550m, dài 700m, có giếng nước ngọt. Trên đảo có cây mù u, cây bàng, nhiều cây leo chằng chịt. Chung quanh đảo có rất nhiều rong biển và các bãi đá ngầm. Quanh đảo có nhiều cá, đồn đột, rong biển.
(Quân binh Philippines bắt đầu đổ bộ năm 1968 song chiếm đóng hẳn năm 1970, xây phi đạo nối dài ra biển, xây dựng thành căn cứ chính).
-Phía Bắc đảo Thị Tứ gồm Đá Hoài An (Xandi, 11003 vĩ B, 1140 134 kinh Đ), đá Tri Lễ (Sand Cay, 110037 vĩ B, 1140 154, đá Trâm Đức (110045 vĩ B, 1140 22kinh Đ),đá Vĩnh Hảo (110045 vĩ B, 1140 22 kinh Đ), đá Cái Vung (110079 vĩ B, 1140 115 kinh Đ).
-Phía Nam đảo Thị Tứ là đá Xu Bi (Subi Reef, Zhu Bi Jiao, Zamora Reef (Phi), 10054 vĩ B, 1140 06 kinh Đ), cách đảo Thị Tứ chừng 14 hải lý (đã bị Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa chiếm đóng năm 1988) .
4.3 Cụm đá Loai Ta
Ở phía Đông cụm Thị Tứ, gồm đảo Loai Ta phía dưới và cồn san hô Lancan hay An Nhơn (Lankian Cay, Yang xin Zhou, Panata, 10045 vĩ B, 1140 33 kinh Đ) ở phía Đông. Phía Bắc cụm là đảo Loai Ta (100407 vĩ B, 1140 248 kinh Đ, Loaita Island, Nan Yue Dao (Trung Quốc), Kota (Phi) (hình 1.24) ). Đảo hình tròn, đường kính 300m, cao chừng 2 m, nhiều cây lớn mọc quanh đảo. Phía Bắc đảo có nhiều cây dừa. Vòng quanh đảo có nhiều bãi cát trắng tạo nên vẻ đẹp nên thơ, Có giếng nước ngọt nhưng rất ít nước. Philippines chiếm đóng đảo sau 1970.
Cụm còn có đá An Lão (Menzies Reef, Mong zi Jiao (Trung Quốc), Lakandula Reef, 110083 vĩ B, 1140 48 kinh Đ), bãi Đường (Chang tan (Trung Quốc), 110 vĩB, 1140 42 kinh Đ), bãi An Nhơn Bắc (đá cuội) (Ku gui Jiao (Trung Quốc), 100465vĩB, 1140 34 kinh Đ) bãi Loại Ta (Loaita Reef, Shuan huan Shazhou, 100422 vĩ B, 1140 210 kinh Đ), bãi Loại Ta Nam (Loaita Bank, Shuan huan Shazhou, 100427 vĩ B, 1140 195 kinh Đ).
Phía Đông cụm Loại Ta còn có đảo Dừa và Đá Cá Nhám.
4.4 Cụm đảo Nam Yết hay Ti Gia
+ Ở phía Nam cụm Loại Ta, nằm kết một vòng san hô Tizard Bank, gồm đảo Nam Yết (Namyit Island, Hong xiu dao, 100 11 vĩ B, 1140 217 kinh Đ), đảo Sơn Ca (Sand Cay, Dungian shazhou, 100 227 vĩ B, 1140 285 kinh Đ), đảo Ba Bình (Itu Aba Island, Taiping dao, 100 228 vĩ B, 1140 217 kinh Đ), cùng bãi Bàn Than (100 231 vĩ B, 1140 245 kinh Đ), đá Núi Thị (Petley Reef, Bolan jiao, 100 247 vĩB, 1140 348 kinh Đ), đá En Đất (Eldad Reef, Anda jiao, 100 21 vĩ B, 1140 41 kinh Đ), đá Lạc (Meiji jiao, 100 102 vĩ B, 1140 148 kinh Đ), đá Gaven (Gaven Reef, Nan xun jiao, 100 127 vĩ B, 1140 13 kinh Đ), đá Lớn (Great Discovery Reef, Daxian jiao, 100 045 vĩ B, 1130 52 kinh Đ), đá Nhỏ (Small Discovery Reef, Xiaoxien jiao, 100 015 vĩ B, 1140 015 kinh Đ), đá Đền Cây Cỏ (Western or Flora Temple Reef, Fulusi jiao, 100 147 vĩ B, 1140 375 kinh Đ). Cụm này có đảo rộng nhất của Trường Sa là Ba Bình và cao nhất là đảo Nam Yết và nhiều lùm cây cao lớn nhất.
+ Đảo Nam Yết (NamYit Isl., Hong xiu dao (Trung Quốc), Binago (Phi), 10011vĩB, 1140 217 kinh Đ) (hình 1.25).
Đảo lớn thứ hai sau Ba Bình, song là hòn đảo cao nhất của quần đảo, ở phía Nam của cụm, hình chữ C, dài khoảng 700m, rộng 250m, cao 4,7m (15ft) (sách China's Boundaries của Ying Cheng Kiang (Illinois, 1984) ghi đảo này cao tới 61ft, Ocean Year Book 10 (Chicago, 1993) ghi kể cả cây cao 20m). Trên đảo có nhiều loại cây, nhiều nhất là cây xú hương (cao hơn 3 m), cây nhàu (cao hơn 3m), mù u (5m), dừa cao nhất (khoảng 12m) và nhiều giống cây nhỏ, cỏ gai vùng nhiệt đới. Chim, vít ở đây rất ít. Giếng nước không ngọt hơi lờ lợ. Chung quanh đảo có vòng san hô và nhiều bãi đá ngầm.
(Phía Bắc đảo có cầu tàu, đối diện với đảo Ba Bình do Đài Loan chiếm đóng). Tại đây có công sự phòng thủ kiên cố, được đặt Bộ chỉ huy toàn thể quần đảo của quân lính Việt Nam Cộng Hoà trước 1975. Năm 1975, quân đội nhân dân Việt Nam đã tiếp quản .
+ Đảo Sơn Ca (Sand Cay, Dungian shazhou, 100 227 vĩ B, 1140 285 kinh Đ).
Đảo có hình giống chữ C, dài 391m, rộng 156m, cao 3m (so với mực nước trung bình) (hình 1.26)
Đảo có các loại cây như xú hương, bàng, chiếc bạc và cỏ dại, dây leo mọc khắp nơi. Trước 1975 đều có quân đội Việt Nam Cộng Hoà chiếm đóng và sau đó được Quân Đội Nhân Dân Việt Nam tiếp quản.
+ Đảo Ba Bình (Itu Aba Island, Taiping dao (Trung Quốc), Ligaw I (Philippines) 100 228 vĩ B, 1140 217 kinh Đ) (hình 1.27).
Đảo lớn nhất của quần đảo Trường Sa, độ cao chừng 4m (13ft) thấp hơn Nam Yết một chút; theo Niên Giám Đài Loan 1993, dài 1360m, rộng 350m, cao 3,8m, diện tích 489.600m2 (gần 50 ha).
Có điều kiện sinh hoạt tốt nhất, đất đai mầu mỡ, trồng trọt khoai mì, rau cải, chuối…Chung quanh có san hô, mặt nước khá yên tĩnh, tiểu đĩnh có thể cập bến khá tốt.
Năm 1933, với danh nghĩa "bảo hộ" Việt Nam, Pháp đã cho quân chiếm đóng, thiết lập đài quan trắc khí tượng mang số hiệu là 48919, do World Meteorological Organisation cấp phát cùng với đài quan trắc ởHoàng Sa (Pattle) mang số hiệu 48860 và Phú Lâm mang số hiệu 48859 [11,41]. Tháng 12 năm 1946, Trung Hoa Quốc Gia chiếm đảo. Sau đó họ rút quân về Đài Loan năm 1950. Khi anh em Cloma, người Philippines tuyên bố khám phá Trường Sa, Đài Loan đã gửi quân trở lại đảo Ba Bình. Ngày 20 tháng 5 năm 1956, Đài Loan đã xây dựng cơ sở quân sự kiên cố. Tại đây có thể thành lập một sân bay nhỏ và hiện có cầu tàu cho các chiến hạm nhỏ cặp bến.
Phía Tây Nam cụm Nam Yết có Đá Chữ Thập (Fiery Cross or N.W, Yungshu jiao, KagilinganReef, 90 353 vĩ B, 1140 542 kinh Đ). Hòn Đá Chữ Thập là chỗ cao nhất của một bãi cạn dài 25km, rộng tối đa 6km, bị quân Trung Quốc chiếm đóng, biến nơi đây là cơ sở quân sự quan trọng.
4.5 Cụm đảo Sinh Tồn
Ở phía Nam cụm Nam Yết - Tigia. Gồm có đảo Sinh Tồn (Sin Cowe Island, Hing hong dao, 90 526 vĩ B, 1140 192 kinh Đ) (hình 1.28), đá Sinh Tồn Đông (90 525 vĩ B, 1140 347 kinh Đ), Đá Nhạn Gia (90 532 vĩ B, 1140 202 kinh Đ), Đá Bình Khê (Endmund Reef, 90 530 vĩ B, 1140 232 kinh Đ), Đá Ken Nan (Mekennan Reef, 90 535 vĩ B, 1140 273 kinh Đ), Đá Tư Nghĩa ( Hughes Reef, 90 542 vĩ B, 1140 293 kinh Đ), Đá Bình Sơn (Hallet Reef, 90 55, vĩ B 1140 308 kinh Đ), Đá Bãi Khung (Holiday Reef, 90 565 vĩ B, 1140 335 kinh Đ), Đá Đức Hoà (Empire Reef, 90 573 vĩ B, 1140 348 kinh Đ), Đá Ba Đầu (Whitsun Reef, Weinan jiao (Trung Quốc), 90 59 vĩ B, 1140 390 kinh Đ), Đá An Bình (Ross Reef, 90 53 vĩ B, 1140 364 kinh Đ), Đá Vị Khê (90 517 vĩ B, 1140 33 kinh Đ), Đá Bia (Bamfore Reef, 90 497vĩ B, 1140 302 kinh Đ), Đá Ninh Hoà (Tetley Reef, 90 497 vĩ B, 1140 300 kinh Đ), Đá Văn Nguyên (Jones Reef, 90 407 vĩ B, 1140 285 kinh Đ), Đá Phúc Sỹ (Higgen Reef , 90 467 vĩ B, 1140 240 kinh Đ), Đá Len Đao ( Lansdowne Reef, 90 457 vĩ B, 1140 218 kinh Đ), Đá Gạc Ma (Jonhson Reef, Zhang jiao (Trung Quốc), Mabine reef (Phi), 90 420 vĩ B, 1140 127 kinh Đ), Đá Cô Lin (Collins Reef, Cao lin jiao, 90 450 vĩ B, 1140 138 kinh Đ),Đá Nghĩa Hành (Lovele Reef, 90 50 vĩ B, 1140 157 kinh Đ), Đá Tam Trung (90 511 vĩ B, 1140 160 kinh Đ), Đá Sơn Hà (Gent Reef, 90 52 vĩ B, 1140 175 kinh Đ).
Ba hòn đảo trên và một số hòn đảo nhỏ nổi lên tạo thành một vòng đai san hô có tên là "Union Reefs".
Trước 1975, do quân đội Việt Nam Cộng Hoà trấn giữ. Sau khi giải phóng miền Nam, quân đội nhân dân Việt Nam trấn giữ các đảo Sinh Tồn, Sinh Tồn Đông, Đảo Len, Đá Côlin. Năm 1988, xảy ra cuộc đụng độ với quân Trung Quốc, 2 chiến hạm vận tải Việt Nam bị chìm, hơn 70 binh sĩ bị mất tích. Quân Trung Quốc đổ bộ và đóng trên đá Kennan và đá Gác Ma, nằm chen kẽ với quân của Việt Nam, khoảng cách chừng khoảng 3 hải lý. Vào đầu năm 1992, Trung Quốc lại chiếm thêm hòn đá Ba Đầu (cực Đông Bắc của Union Reef) và hòn Đá Lạc. Như thế trên rặng đá ngầm nhỏ có tên Johnson Reefs có quân Việt Nam ở đầu Bắc (đá Côlin) và Trung Quốc ở đầu Nam ( đá Gác Ma)
4.6 Cụm đảo Trường Sa
Ở về phía Nam và Tây Nam Cụm Sinh Tồn, trải dài theo chiều ngang, gồm có 3 đảo, các đá, bãi : Đá Lát (Ladd Reef, Riji jiao, 80 385 vĩ B, 1110 405 kinh Đ), Đảo Trường Sa (Spartly Island, Nan wei dao, 80 384 vĩ B, 1110 55 kinh Đ)(hình 1.30), Bãi Đá Tây (West Reef (Sand patch), Xi jiao, 80 52 vĩ B, 1120 14 kinh Đ), Đá Đông (East Reef, Dong jiao, Silangan Reef, 80 502 vĩ B, 1120 345 kinh Đ), Đá Châu Viên (Cuarteron Reef, Hua yang jiao, 80 53 vĩ B, 1120 500 kinh Đ), Đá Tốc Tan (Alison Reef, Liumen jiao, 80 50 vĩ B, 1140 00 kinh Đ), Đá Núi Le (Coznwallis S. Reef, Nan hua jiao, 80 45 vĩ B, 1140 11 kinh Đ), Đá Tiên Nữ (Tennent Reef, Pigeon, Tian Ian jiao, 80 52 vĩ B, 1140 39 kinh Đ)
Cụm đảo Trường Sa nằm phía Đông, kế cận các bãi, đá thuộc thềm lục địa Việt Nam như Phúc Tần, Huyền Trân, Quế Đường, Phúc Nguyên, Tư Chính. Đảo lớn nhất là đảo Trường Sa ( hình 1.,29), người Pháp gọi là đảo Bão Tố (Ile de Tempête). Có dạng hình tam giác cân mà cạnh đáy hơi chệch về phía Bắc. Đáy dài 350m, hai cạnh kia, mỗi cạnh 450m, cao độ ở phía Bắc là 3,5m, phía Nam là 2,1m so với mặt nước lúc nước ròng. Có khả năng thiết lập phi đạo. Sau 1975, Việt Nam đã xây dựng sân bay dài 800m.
Không có cây lớn, nhiều nhất là nam sâm, có dược tính, các loại rau sam, muống biển. Có loại chim hải âu trắng, sơn ca, chim én. Có giếng nước ngọt, khá sâu, độ 3m, ngọt tốt 9/10, song lại có mùi tanh của san hô.
Trước 1975 có quân trú phòng Việt Nam Cộng Hoà, có cầu tàu về phía tây đảo. Sau khi tiếp quản, Quân Đội Nhân Dân Việt Nam đã xây dựng cầu tàu lớn hơn.
Ngoài ra còn có các đảo Trường Sa Đông (Central Reef, Zhong jiao, 80 55 vĩ B, 1120 21 kinh Đ), Đảo Phan Vinh (Pearson Reef, Bisheng jiao, 80 58 vĩ B, 1130 415kinh Đ).
1.3.7. Cụm đảo An Bang
Ở phía Nam cụm đảo Trường Sa (Spratley) gồm có 1 đảo và các bãi, đá: Đá Ba Kè (Bombay Castle, Pongpo bao jiao, 70 56 vĩ B, 1110 440 kinh Đ), Bãi Đất (Orleana Shoal, Aonan Ansha, 70 41 vĩ B, 1110 440 kinh Đ), Bãi Đinh (Kinhston Shoal, Jin du ansha, 70 34 vĩ B, 1110 345 kinh Đ), Bãi Vũng Mây (Jonhson Patch, Changpun ansha, 70 47 vĩ B, 1110 35 kinh Đ), Bãi Thuyền Chài (Barque Canada Reef, Bai jiao, 80 10 vĩ B, 1130 18 kinh Đ), Đá Hà Tần (Lizzie Webr, Li xei jiao, 80 045 vĩ B, 1130 10 kinh Đ), Đá Tân Châu (100 505 vĩ B, 1150 51 kinhĐ), Đá Lục Giang (Hopp Reef, He jiao, 100 148 vĩ B, 1150 215 kinh Đ), Đá Long Hải (Livok Reef, Nan tang quan jiao, 100 105 vĩ B, 1150 17 kinh Đ), Bãi Trăng Khuyết (Half Moon Shoal, Banyue jiao, 80 52, vĩ B 1160 16 kinh Đ) , Đá Công Đo (Commodore Reef, Siling jiao, 80 22 vĩ B, 1150 13 kinh Đ), Đá Kỳ Vân (Mariveles Reef, Nan hai jiao, 70 59 vĩ B, 1130 56 kinh Đ), Bãi Kiệu Ngựa (Asdasier Reef, Andu jiao, 70 37 vĩ B, 1130 56 kinh Đ), Đá Hoa Lau (Swallow Reef, Dan Wan jiao, 70 24 vĩ B, 1130 40 kinh Đ), Đá Sắc Lốt (Royal Charlotts Reef, Huan lu jiao, 60 565 vĩ B, 1130 36 kinh Đ), Đá Louisa (Luisa Reef, Nan tong jiao, 60 209 vĩ B, 1130 154 kinh Đ).
Đảo duy nhất là đảo An Bang (Ambonay Cay, Anbo shazou, 70 522, 1120 542 kinh Đ). Đảo An Bang giống như một cái túi đáy nằm phía Đông và miệng thắt lại ở phía Tây. Đảo tương đối nhỏ và dài, chỉ rộng 20 mét so với chiều dài 200m, cao 2m so với mặt nước biển lúc nước ròng (hình 1.30).
Ngoài những cỏ dại rất thấp, không có cây cao bóng mát nào. Trước 1975, đảo An Bang do quân đội Việt Nam Cộng Hoà trú đóng. Sau 1975, quân đội Nhân Dân Việt Nam đóng ở đảo An Bang. Bãi Thuyền Chài nổi lên mặt nước, dài khoảng 32km, rộng tối đa 6 km. Phía Đông Nam của bãi Thuyền Chài, cách bãi này khoảng 40 đến 60 hải lý có quân trú phòng của Mã Lai Á trên các hòn đá Kỳ Vân, đá Kiệu Ngựa, đá Hoa Lau. Ở phía Đông cụm đảo này có quân Philippines đóng trên đá Công Đo.
4.8. Cụm đảo Bình Nguyên
Cụm đảo ở về phía Đông, gồm đảo Bình Nguyên (Flat island, Fei xin dao, 100 49 vĩ B, 1150 495 kinh Đ) và đảo Vĩnh Viễn (Nanshan island, Ma huan dao, 100 44 vĩ B, 1150 48 kinh Đ). Mỗi đảo diện tích khoảng 15 acres. Đảo Vĩnh Viễn dài chừng 580m, cao khoảng 2m, Đảo Bình Nguyên thấp hơn, rất hẹp bề ngang.
Phía Nam gần đảo Vĩnh Viễn có Đá Hoa (100 32 vĩ B, 1150 432 kinh Đ), Đá Đít Kim - Sơn (100 325 vĩ B, 1150 472 kinh Đ), Đá Đin (100 30 vĩ B, 1150 421 kinh Đ), Đá Hàn Sơn (100 28 vĩ B, 1150 438 kinh Đ), Đá Pet (100 276 vĩ B, 1150 464 kinhĐ), Cồn san hô Giắc - xôn. Về phía Nam xa hơn nữa có Đá Vành Khăn (Mischief Reef, Mei ji jiao, 90 55 vĩ B, 1150 32 kinh Đ), Bãi Cỏ Mây (2nd Thomas Shoal, Ren ai ansha, 90 44 vĩ B, 1150 515 kinh Đ), Bãi Cạn Suối Ngà(1st Thomas Shoal, Xinyu jiao, 90 195 vĩ B, 1150 555 kinh Đ), Đá Bốc Xan (Boxall Reef, Pai she jiao, 90 355 vĩ B, 1160 095 kinh Đ), Bãi Cạn Sa Bin (Sabina Shoal, Xian xin ansha, 90 45 vĩ B, 1160 29 kinh Đ). Phía Đông cụm đảo Bình Nguyên và đảo Vĩnh Viễn có Đá Hợp Kim ( Hopkins Reef, Huo xing jiao, 100 49 vĩ B, 1160 06 kinh Đ), Bãi Mỏ Vịt (Hirane Shoal, An tang tan, 100 54, 1160 205 kinhĐ), Đá Ba Cờ ( Baker Reef, Pei she jiao, 100 43 vĩ B 5, 1160 10 kinh Đ), Đá Khúc Giác (Iroquois Reef, Feng lai jiao, 100 37 vĩ B, 1160 10 kinh Đ), Đá Bá, Đá Gò Già (North Pennsylvania Reef, Yang ming jiao, 100 485 vĩ B, 1160 515 kinh Đ), Bãi Cạn Nam ( Southern Bank, Nan fang gian tan, 100 28 vĩ B, 1160 42 kinh Đ), Đá Chà Và (Brown, 100 345 vĩ B, 1170 017 kinh Đ), Bãi Cạn Nâu (Brown Bank, Dong tan 100 44 vĩ B, 1170 189 kinh Đ), Bãi Cạn Rạch Vang (Templer Bank, Zhong xi tan, 100 40 vĩ B, 1170 165 kinh Đ), Bãi Cạn Rạch Lấp (Carnatic Shoal, Hong shi ansha, 100 06 vĩ B, 1170 205 kinh Đ), Bãi Cạn Na Khoai (Lord Auckland Shoal, Elan ansha, 100 205 vĩ B, 1150 165 kinh Đ).
Hiện quân Philippines chiếm đóng cả 2 đảo Bình Nguyên và đảo Vĩnh Viễn và cho phá bỏ hầu hết khu vực bao quanh Bãi Cỏ Rong, Bãi Trăng Khuyết, Bãi Kiều Ngựa. Trung Quốc từ 1995 cũng chiếm đóng đá ngầm Vành Khăn.
5. Điều kiện tự nhiên, thảo mộc của Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa
(còn tiếp)
Tài liệu tham khảo
Nguyễn Nhã (2002)...
Hoàng Sa trên Wikipedia tiếng Việt
Quần đảo Trường Sa trên Wikipedia tiếng Việt
Bookmark bài viết này:
Thursday, October 25, 2012
NGUYỄN KHÔI * NHỚ NHÀ VĂN VŨ TRỌNG PHỤNG
(Tặng : Nguyễn Huy Hoàng - Mockba)
------------
Nhà văn trẻ , sao "Thiên Hư" thủ mệnh
"Tiền trở, hậu thành" phát lạ kinh thiên
Người Làng Hảo lại lớn lên ở Mọc
Nếp Nho phong hun đúc khí Rồng thiêng
*
!9 tuổi, Chàng thức đêm vung bút
Bi kịch 3 hồi "Không một tiếng vang"
Rồi "Cạm bấy người", "...lấy Tây"- Vua phóng sự
Thời Kim Tiền ngự xã hội giầu sang.
*
Siêu hình chút "Dứt tình" Chàng mơ mộng
"Cơm thầy,cơm cô"...cuộc sống bộn bề
Thương vợ trẻ, mẹ già...Chàng năng động
Viết đến lực tàn : vi trùng Kock lăm le...(1)
*
ÔI, "Giông tố" để đời đầy giông tố
"Số đỏ, Vỡ đê"...kiệt tác dâng đời
"Nhà văn tả chân" chưa thời nào có
"Thiên khốc" đến rồi...Vũ Trọng Phụng ơi !
*
27 tuổi đời, Ngôi sao vụt tắt
Văn đàn đang xôm ,phút chốc sững sờ
Còn ai đây viết những trang nóng hổi
Tả cái "Thời Đồ Đểu" mộng mơ...
*
Vũ Trọng Phụng ơi,giờ đang thời chuyển đổi
Lại đồng tiền chi phối mọi hành vi
Lũ Văn sĩ xu thời "khôn" ca ngợi
"Thi vân Yên Tử" cái chi chi...
*
Mồ yên nhé, Văn Hào ơi,thương lắm
Chết đi rồi mà nào đã yên thân
Đã mấy phen bị xới tung lên "đánh"
"Giông tố" ư..."Làm đĩ " đến bao lần ?
*
Thôi, đời là thế: thơ văn tài mệnh
Trớ trêu như "Trúng số độc đắc" lại bằng KHÔNG
"Thiên khốc, Thiên hư" đa sầu đa cảm
Ngời những trang văn đắc điạ Thăng Long.
----
(1) Vũ chết vì bệnh Lao (vi trùng Kock)
Viết tại Làng Mọc-kỷ niệm 100 năm ngày sinh Nhà văn Vũ Trọng Phụng
13-10-2012 , Nguyễn Khôi
Wednesday, October 24, 2012
LÃO SAY * CON CHÁU ÔNG BÂY GIỜ
CON CHÁU ÔNG BÂY GIỜ
Ngày xưa ông già rất áí quốc
Yêu Lê nin ông khóc mấy ngày trời
Cu Lành cháu ông cũng một duộc
Nó thương Stalin khóc mãi không thôi.
Ông già ngày xưa rất thô lỗ,
Thằng Tự Đức, thằng Pháp, thằng Mỹ Diệm
Ông vô văn hóa hay ông kiêu căng?
Con cháu ngày nay nó khác ông,
Chúng nói năng lịch sự vô cùng
Tàu Trung Quốc đâm chìm tàu ngư dân ta đánh cá
Chúng bảo rằng tàu lạ....ở biển Đông
(Sao không chỉ rõ mặt, nói thẳng tên?)
Ngày xưa ông tố cha mẹ, tổ tiên,
Con cháu của ông nay rất hiền,
Chúng nó hết lòng thờ mẫu quốc,
Nhân dân thì bảo : " Chúng rất hèn
( với giặc nhưng rất ác với dân)
Ngày xưa ông chuyên nghề ám sát
Ông giết Khái Hưng, Lan Khai, Tạ Thu Thâu
Con cháu ông ngang nhiên và anh dũng,
Cướp đất công khai và đánh dân bể đầu....
( Chúng là đảng cưóp có ba-tăng nào sợ ai đâu!)
Đại hội trung ương trí tuệ cao
Chém giết nhau bằng súng với bằng dao
Nhưng trong hội nghị cứ ấm ớ
Xử lý ai? Xử lý đồng chí nào?
( Sao chẳng công khai nói thẳng ra?)
No comments:
Post a Comment