Monday, October 29, 2012
VỀ VIỆN TRẦN NHÂN TÔNG
Lạm bàn về Trần Nhân Tông Academy
Huỳnh Thục Vy
October 25, 2012One Bình Luận
October 25, 2012One Bình Luận
Dư luận gần đây bàn tán khá nhiều về sự ra đời của học viện Trần Nhân Tông và “giải thưởng hòa giải Trần Nhân Tông”. Nhân dịp này tôi cũng xin mạo muội chia sẻ vài ý kiến.
Đầu tiên, Trần Nhân Tông Academy ra đời trong hoàn cảnh thế giới chứng kiến và nhiệt thành hoan nghênh những thành tựu đầu tiên của cuộc hòa giải và thay đổi chính trị ngoạn mục tại Burma, nên xem như sự ra đời này có thể là một cách “đánh tiếng” về tương lai chính trị Việt Nam. “Hạ cánh an toàn” và không bị trừng phạt chính là điều họ muốn người dân dành cho các vị lãnh đạo Cộng sản của chúng ta chăng?
Tuy chẳng dám có xét đoán nào về sở học của các vị giáo sư, tiến sĩ trong TNT Academy, nhưng xem qua danh sách nhân sự trong tổ chức này tôi chú ý đến nhiều điểm. Tôi đặc biệt chú tâm đến ông chủ tịch Thomas Patterson- người đã ca ngợi ông Hồ Chí Minh ngang tầm Wasington: “sự vô tư không vị kỉ, sự khiêm tốn mà chúng ta tìm thấy ở cuộc đời Hồ Chí Minh hay George Washington”. Sự so sánh khập khiễng đầy dụng ý này chắc chắn không phải xuất phát từ một nhà nghiên cứu vô tư- người có nhiều điều kiện để đạt tri kiến tường minh về sự thật lịch sử hơn phần lớn nhân loại. Trong TNT Academy còn có một số vị học rộng tài cao thuộc hàng ngũ trí thức trưởng thành từ chế độ Cộng Sản hoặc thuộc “thành phần thứ ba” trước năm 1975, cùng các vị trí thức nước ngoài đặc biệt là ở Harvard, Hoa Kỳ. Các vị thuộc thành phần thứ 3 và các vị ở Harvard không hiểu sao cứ làm tôi nghĩ tới phong trào phản chiến, phong trào chống VNCH và ủng hộ Cộng Sản ở Harvard và Hollywood trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Với trình độ tri thức trung bình, một người như tôi, thiển nghĩ, cũng có quyền đặt nghi vấn về những con người này.
Một tổ chức cổ vũ hòa giải mà lại không hề có sự tham gia của thành phần trí thức từng là nạn nhân Cộng Sản. Các vị có thiện chí hòa giải thực sự hay không, tôi chưa dám bàn đến, nhưng khi muốn hòa giải thì điều tối thiểu là phải có đầy đủ các bên liên quan. Ví như có một người A đánh người B bị thương, muốn hòa giải thì trong bàn hòa giải ấy phải có anh A và anh B, cả những người bên A và bên B; chứ không thể chỉ có anh A và những người liên quan đến anh, hay những người bàng quan đứng giữa (thành phần thứ ba) mà thiếu đi sự có mặt của anh B. Chưa nói đến nội dung hòa giải và khả năng hòa giải, thành phần của “hội đồng hòa giải” này cũng khiến người ta ngay từ đầu đã không khỏi nghi ngờ.
Thứ hai, về hình tượng Trần Nhân Tông, theo cách nhìn của cá nhân tôi, Ngài là một vị vua đáng ngưỡng phục, cả với vai trò người đứng đầu quốc gia và tư cách một cá nhân bình thường. Với vai trò người lãnh tụ chính trị, ông đã lãnh đạo cuộc chiến đánh đuổi quân Nguyên thành công, củng cố sự ổn định của chính sự triều Trần và phát triển quốc gia. Ông còn là người góp phần mở rộng lãnh thổ nước Đại Việt về phía Nam. Đứng trên lập trường luân lý công bằng của nhân loại, lấy đất của nước người không thể gọi là Nhân; nhưng với địa vị của một ông vua nước Việt, ông không những không đáng trách mà còn là người có công. Trong chính thể quân chủ, một nguyên thủ quốc gia mà giữ gìn và mở rộng được quyền lợi của đất nước thì đó đã là một người cai trị thành công. Điều đáng nói ở đây là có một khả năng không thể tránh khỏi: giá trị tạo nên một nguyên thủ tốt lại mâu thuẫn quyết liệt với giá trị tạo nên một con người tốt. Bởi vậy, với vị trí một cá nhân, Trần Nhân Tông đã bỏ việc chính trị phiền hà để lên núi xuất gia. Điều này cho thấy một sự nhận thức rõ về thân phận con người trên thế gian và một quyết định dứt khoát chấm dứt mâu thuẫn giữa một bên là một ông vua bất chấp thủ đoạn và một cá nhân bình thường, thiện hảo.
Nhìn vào cuộc đời vị vua này, tôi nhận thấy một diễn tiến mỹ mãn, một kết thúc có hậu và một lựa chọn đứng trên thiên hạ nhưng điều này không đồng nghĩa với việc tất cả những gì ông làm đều đúng và đều có thể áp dụng cho thời đại chúng ta. Tên tuổi Trần Nhân Tông tất nhiên xứng đáng để đặt cho bất cứ học viện nào, nhưng không phải vì “tinh thần Hòa giải” theo cách mà chúng ta gán ghép cho ông (sẽ nói ở phần sau), mà vì công lao thực sự đối với đất nước (như là một vị vua và một nhà văn hóa).
Con người là luôn sai lầm nên việc ca ngợi ông như một bậc thánh là quá miễn cưỡng, ấy là chưa nói đến việc “thánh hóa” ông để làm bình phong che đậy một dụng ý nào đó. Biến ông thành một tấm gương đạo đức cao cả để định hướng cho một ý đồ của chúng ta là một hành vi lợi dụng lịch sử trắng trợn. Ông đã là một nhân vật lịch sử, xin đừng sử dụng ông trong những vấn đề mà thời đại chúng ta phải đối mặt. Cá nhân tôi luôn đề cao việc sử dụng những giá trị đương đại để giải quyết những vấn đề đương đại. Việc sùng bái cá nhân, chẳng có tác dụng giải quyết triệt để vấn đề hôm nay mà còn gây ra những hệ lụy tai hại trong nhận thức của công chúng. Chúng ta không cần bất cứ tượng đài cá nhân “hậu Hồ Chí Minh” nào nữa.
Thứ đến, xin lạm bàn về câu chuyện mà nhà sư Thích Nhất Hạnh kể về vua Trần Nhân Tông. Chuyện kể rằng, sau khi đánh xong giặc Nguyên, nhà vua đã cho đốt tất cả các tài liệu bí mật ghi về việc các cận thần của ông đã hợp tác với quân Nguyên và nói rằng: “Đất nước ta cần sự hòa giải và hàn gắn chứ không cần sự trừng phạt”. Trước tiên, xin đừng nhìn mọi việc dưới nhãn quan luân lý dễ dãi. Bởi luân lý là quan trọng nhưng không phải lúc nào nó cũng là chìa khóa giải quyết vấn đề của nhân loại.
Thời quân chủ, ông vua chính là luật pháp, là nguyên tắc tối thượng, ông muốn bắt tội ai thì bắt, tha cho ai thì tha. Một khả năng lớn là: những người mà nhà vua không trừng phạt và giấu kín cả hành động phản quốc của họ là hoàng thân quốc thích; cho nên sự ân xá của ông chỉ là để bảo vệ uy danh của hoàng triều. Quả thật, hành động cá nhân tùy tiện của một ông vua chính là đặc trưng của chính thể quân chủ chuyên chế. Ở đây, luật pháp trong tay ông và ý dân có thể là điều ông không cần màng đến. Dù là một vị vua anh minh, có gì đảm bảo quyết định của ông không cảm tính, không phù hợp và không vị nể tình riêng?
Trong thời đại pháp trị này, tất cả mọi người, kể cả một nguyên thủ quốc gia, đều hành xử trong sự điều chỉnh và chế tài của luật pháp. Một vị nguyên thủ dù tài năng xuất sắc cũng không thể đưa ra những quyết định tùy tiện và độc đoán. Một kẻ có tội đáng bị trừng phạt phải do pháp luật quyết định chứ không phải dựa trên quyết định cá nhân của người cầm quyền.
Không biết câu chuyện ấy có thật hay không và được lấy ra từ tài liệu lịch sử nào, nhưng dẫu nó là thật thì việc này cũng chỉ cho thấy tính chất độc đoán của quyền lực quân chủ. Tôi viết những dòng này không nhằm đả kích cá nhân vua Trần Nhân Tông, mà nhằm chỉ ra cái khiếm khuyết tất yếu của nền chính trị quân chủ. Và từ đó, sẽ thấy thật vô lý nếu lại lấy cái giá trị khiếm khuyết đó để áp dụng cho thời đại này, dù nhân danh Hòa giải hay gì đi nữa. Chúng ta không thể lấy cái luân lý cũ, cái nguyên tắc cai trị cũ ra để áp đặt vào thời đại mới, lấy một câu chuyện mang đầy màu sắc quân chủ để cổ vũ hòa giải trong thời pháp trị. Nếu làm vậy, thì một là chúng ta quá vô lý, hai là chúng ta có ý đồ ám muội.
Còn câu chuyện về hòa giải đã tốn khá nhiều giấy mực và dấy lên nhiều cuộc tranh luận chưa ngã ngũ, tôi không dám bàn đến, chỉ xin nói rằng: Nếu anh A đánh anh B bị thương thì còn bàn đến chuyện hòa giải để mang hai anh lại, cùng ngồi vào bàn nói chuyện với nhau, để anh A nói chuyện xin lỗi và bồi thường cho anh B. Cần phải lưu ý trong chuyện này, anh A phải là người chủ động, có thiện chí thực sự, và phải nhận thức được lỗi lầm của mình. Anh A phải mang tiền thuốc men và thành khẩn đến nhà anh B nói chuyện hòa giải, để mong anh B khỏi kiện ra tòa; chứ không phải cứ trịch thượng ngồi nhà, rồi cho người ra đánh tiếng trước cổng nhà, rêu rao về hòa giải. Còn trường hợp anh A đánh anh B chết thì theo luật pháp, dù gia đình anh B có muốn tha cho anh A cũng không được, vì hành vi của anh A lúc này là tội phạm hình sự không chỉ lấy đi tính mạng của cá nhân anh B mà còn xâm phạm đạo đức và ảnh hưởng nghiêm trọng đến cách cư xử bình thường của xã hội. Lúc này, vai trò giải quyết vụ việc phải được giao cho luật pháp, chứ không ai có thẩm quyền bàn đến trừng phạt hay tha thứ. Sau khi Công lý được thực thi thì mới tính đến chuyện hòa giải giữa hai gia đình A và B. Thật vậy, Hòa giải cần một số điều kiện, mà Công lý là điều kiện không thể bỏ quên.
Để kết thức bài viết, tôi xin chia sẻ rằng: học viện Trần Nhân Tông có nhiều nhân sự và cố vấn phương Tây, nhưng điều đó không phải là một bảo chứng hữu hiệu cho uy tín và giá trị của học viện này. Sau buổi trao giải thưởng vắng mặt cho hai chính khách Burma và những phát hiện của công luận về việc đưa thông tin không đúng sự thật của tổ chức này, học viên Trần Nhân Tông xem như đã mở đầu “vở kịch” không được thành công. Và nhân đó, chúng ta cũng cảm nhận được rằng: uy tín của một tổ chức không đến từ thành phần nhân sự khoa bảng bằng cấp đầy mình, mà đến từ thời gian làm việc nghiêm túc trong tinh thần trách nhiệm và tôn trọng sự thật.
Là một người ít học, ít tuổi nhưng lại hay nói thật những điều mình nghĩ, tôi rất mong nhận được cái nhìn bao dung từ độc giả. Thành thật mong rằng, tranh luận không đẩy người ta ra xa nhau mà mang chúng ta đến gần nhau trong tinh thần mưu cầu sự thật.
Huỳnh Thục Vy
Tam Kỳ ngày 15 tháng 10 năm 2012
www.vietthuc.org
Trò bịp bợm cố hữu rẻ tiền của VC “Hoà Giải Hoà Hợp” xâm nhập Đại Học Harvard qua Viện Trần Nhân Tông
Trúc Giang
October 25, 20123 B�nh Luận
Trên bản tin của đài RFI ngày 22-9-2012 vừa qua, Giáo Sư Phạm Cao Dương trả lời phỏng vấn về Viện Trần Nhân Tông như sau: “Cần phải chú ý đến những nghiên cứu căn bản về lịch sử, cần phải đào tạo và đầu tư lâu dài cho việc nghiên cứu về Trần Nhân Tông, nếu không thì sau một thời gian ngắn dự án sẽ bị hụt hơi và để lại những hậu quả đáng tiếc”.
GS Dương cũng lo ngại rằng: “Nếu các hoạt động của Viện Trần Nhân Tông thiên về mục tiêu chính trị nhất thời thì hình tượng Trần Nhân Tông có thể bị lợi dụng.”Qua thành phần Ban Chấp Hành và Ban Cố Vấn của Trần Nhân Tông Academy, GS Dương có nhận xét là: “Gần như vắng bóng các nhà nghiên cứu sử học, tôn giáo và triết học. Việc dành ít nội dung cho các cuộc nghiên cứu cơ bản có thể khiến cho Viện không đạt được sứ mạng đề ra.”. Vì vậy GS Phạm Cao Dương cũng nhấn mạnh về sự không phù hợp của tôn chỉ giải thưởng với bản chất của tư tưởng Trần Nhân Tông.
ảo thuật vẹm/vẹt
1. Mở bài
Báo chí trong nước đưa tin, có một giải thưởng quốc tế mang tên một vị vua Việt Nam, đó là “Giải Trần Nhân Tông: Hoà giải và Yêu thương” (Tran Nhan Tong Reconciliation Prize) do Viện Trần Nhân Tông (Tran Nhan Tong Academy) của Đại học Harvard trao tặng hàng năm cho những nhân vật có thành tích nổi bật về hoà giải và yêu thương.
2. Viện Trần Nhân Tông (Tran Nhan Tong Academy)Một viện nghiên cứu quốc tế tại trường Đại học Harvard, thành phố Boston, được đặt theo tên của vị vua Việt Nam là Trần Nhân Tông.Viện Trần Nhân Tông (Tran Nhan Tong Academy) do ông Nguyễn Anh Tuấn thành lập và làm giám đốc điều hành. Ông Tuấn là nhân viên nghiên cứu (Associate) tại Shorenstein Center on the Press Politics, and Public Policy (Trung tâm Báo chí Chính trị và Chính sách Công) tại Đại học Harvard.Viện Trần Nhân Tông có một Ban Điều Hành và Ban Cố Vấn gồm những chính khách, giáo sư và trí thức Việt Nam trong, ngoài nước và người Mỹ.
2.1. Mục đích của Viện Trần Nhân Tông
1. Tổ chức nghiên cứu về Trần Nhân Tông theo tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời xuất bản các kết quả nghiên cứu.
2. Thúc đẩy ứng dụng tư tưởng nhân ái giàu trí tuệ của Phật hoàng Trần Nhân Tông vào đời sống hàng ngày.
3. Quảng bá giá trị của tư tưởng và sự nghiệp vĩ đại của Trần Nhân Tông.
2.2. Tổ chức và điều hành
Ban điều hành
Giám đốc: Nguyễn Anh Tuấn. Trực tiếp điều hành Trần Nhân Tông Academy
Ủy viên: Bushra Naz Malik, Douglas Coulter.
Ban Cố vấn
Chủ tịch: GS Thomas Patterson
Phó chủ tịch: Ann L. McDaniel
Các cố vấn: Robin Sproul, Alex S. Jones, Nguyễn Văn An, Hoàng Tụy, Thomas Fiedler, Michael Dukakis, nhà văn hoá Việt Phương, GS Ngô Vĩnh Long, cụu tổng thống Latvia là bà Vaira Vike-Freigberga.
3. Những nhân vật của Viện Trần Nhân Tông
3.1. Giám đốc Nguyễn Anh Tuấn
Viện Trần Nhân Tông do ông Nguyễn Anh Tuấn, cựu Tổng biên tập trang mạng VietNamNet, thành lập và trực tiếp điều hành.Ông Tuấn sinh ngày 23-9-1962, quê Đức Phổ, Quảng Ngãi. Giữ chức Tổng biên tập VietNamNet suốt 14 năm, đã từ chức và thôi làm cán bộ nhà nước trước khi sang Hoa Ky.
Ông Tuấn tỏ lòng tự hào về thành tích phục vụ đảng và Nhà nước trong ngành truyền thông. “Năm 2005, ông Tuấn tháp tùng phái đoàn Phan Văn Khải đến HK, ông bị những người VN biểu tình bao vây, bị anh Lê Phước Tuấn đánh bằng cán cờ, và khi ông bỏ chạy, thì họ đá vào túi đồ nghề nhà báo của ông”.
3.2. Cố vấn Nguyễn Văn An
Nguyễn Văn An sinh ngày 1-10-1937 tại Mỹ Tần, Nam Định. Ủy viên Bộ Chính trị đảng CSVN, Chủ tịch Quốc hội từ ngày 27-6-2001 đến 26-6-2006.
3.3. Cố vấn Việt Phương
Việt Phương tên khai sanh là Trần Quang Huy, sinh năm 1928, “hoạt động cách mạng” từ năm 1944 tới nay. Từng làm chuyên gia cao cấp về kinh tế và chính trị cho các thủ tướng: Phạm Văn Đồng, Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải. Việt Phương là một trong những người có sáng kiến lập ra “Ngày Hoà giải và Yêu thương 9 tháng 9” hàng năm.
3.4. Cố vấn Dương Trung Quốc
Sinh năm 1947. Quê quán ở Bến Tre nhưng sinh ra và lớn lên ở Hà Nội. Là một nhà sử học. Đại biểu quốc hội 2 khoá, khoá XI (2002-2007), khoá XII (2007-2012). Là một đại biểu ngoài đảng, được chọn cho ra ứng cử và đắc cử trong tỷ lệ ấn định người ngoài đảng là 43/493 đại biểu.
3.5. Cố vấn Ngô Vĩnh Long“Ông Ngô Vĩnh Long là một trong những học giả Việt kiều nổi tiếng ở Mỹ. Hiện là GS dạy khoa Lịch sử ở Đại học Maine, HK. Sinh năm 1934 tại Vĩnh Long. Là lứa đầu tiên tham gia phong trào Sinh viên yêu nước ở Sài Gòn. Đã từng biểu tình chống Nguyễn Khánh.Ngày 10-2-1972, đã tham gia chiếm tòa Lãnh sự VNCH ở New York trong lúc nhân viên ăn trưa. Mục đích tuyên bố với thế giới về chủ trương gọi là “đòi hỏi của nhân dân VN”.
Cũng như các trí thức Việt kiều khác, ông thường về VN tham gia các tọa đàm với học giả trong nước. (Theo Wikipedia).
3.6. Những nhân vật ngoại quốc
1. Thomas Patterson, giáo sư chính trị và báo chí tại trường John F. Kennedy, thuộc ĐH Harvard.
2. Ann L. McDaniel, phó chủ tịch tờ Washington Post.
3. Robin Sproul, giám đốc văn phòng ABC News ở Washington.
4. Alex S. Jones, giám đốc trung tâm báo chí chính trị ĐH Harvard.
5. Bà Vaira Vike-Freiberga, cựu tổng thống Latvia.
6. Bà Bushra Naz Malik, người Pakistan.
7. Douglas Coulter, giáo sư trường Quản Lý Guanghua, Bắc Kinh.
Thành phần người Việt của Viện nghiên cứu TNT đa số là những đảng viên đã từng giữ những chức vụ quan trọng trong bộ máy chính quyền của chế độ CS hiện nay. Những nhân vật Hoa Kỳ không có ai là những nhà nghiên cứu về lịch sử VN cả.
4. Giải thưởng Trần Nhân Tông: Hoà Giải & Yêu Thương
Giải thưởng Trần Nhân Tông: Hoà giải và Yêu thương (Tran Nhan Tong Reconciliation Prize) trao hàng năm cho những người có thành tích nổi bật về “Hoà giải và Yêu thương” giữa các quốc gia, dân tộc, tôn giáo, đã giải quyết các mối xung đột, chấm dứt chiến tranh. Chủ trương dùng âm nhạc xoá bỏ những khác biệt và xung đột. Sáng kiến tổ chức “Ngày Hoà giải và Yêu thương Thế giới hàng năm là ngày 9 tháng 9” (Tiếp theo ngày quốc khánh 2-9 của VN).
5. Không minh bạch trong việc trao giải Trần Nhân Tông ngày 22-9-2012
Bản tin trên đài RFI cho biết, “ngày 22-9-2012, tại buổi lễ tổ chức ở Harvard University Faculty Club, Boston, HK, tổng thống Miến Điện U Thein Sein và chủ tịch đảng đối lập Aung San Suu Kyi được trao “Giải thưởng Trần Nhân Tông: Hoà Giải và Yêu Thương”. Hai nhân vật Miến Điện trên là hai phe đối lập đã bắt tay hoà giải với nhau”.
5.1. Sự thật không có việc trao giải cho hai nhân vật Miến Điện nầy.
Hai nhân vật Miến Điện không đến nhận giải thưởng và trả lời rằng: “Do chương trình hoạt động bận rộn nên không đến dự được”.
Do đó, không có việc trao giải thưởng.
“Việc vắng mặt không được Ban tổ chức công bố trên mạng, không cải chính bản tin đã loan trước đó.
Tuy nhiên Viện vẫn tiến hành buổi lễ để giới thiệu Viện Trần Nhân Tông và Giải thưởng TNT.
Viện Đại học có mời một nhà tu hành có uy tín của Phật Giáo đến trao giải thưởng cho hai chính khách Miến Điện, họ đã chọn ông Thích Nhất Hạnh. Nhưng đã biết, từ nước Pháp, ông Nhất Hạnh đã nhũn nhặn từ chối và có gởi lời chào mừng.” (Bùi Tín)
Ông Bùi Tín cũng cho biết thêm: “Ông Nguyễn Anh Tuấn hiện đảm nhận hình thành Trần Nhân Tông Academy, thuộc Đại học Harvard, dựng lên thư viện Trần Nhân Tông (TNT), còn lo dựng tượng TNT lớn, bằng đồng tại Harvard, qua quyên góp xã hội và sự hỗ trợ của Nhà nước VN”
5.2. Nhận xét của Dân Làm Báo
Tác giả Gánh Hàng Hoa trên trang mạng Danlambao viết như sau:
“Nổi bật nhất là việc, mặc dù ông Thein Sein và bà Aung San Suu Kyi không hề có mặt trong buổi lễ trao giải thưởng, nhưng Ban Biên Tập của www.trannhantong.net vẫn đăng tải những bài viết, video clip và hình ảnh chấp nối từ những nguồn hoàn toàn không có dính dáng gì đến giải thưởng hoà giải TNT. Phải chăng là mục đích muốn dẫn dắt độc giả tin tưởng rằng đã có một buổi lễ trao giải thưởng tận tay cho hai nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng ở Miến Điện, nhằm tạo uy tín, dù giả dối, cho Trần Nhân Tông Academy và những người đứng sau lưng học viện?”.
Những tin tức lập lờ đánh lận con đen nầy khiến cho nhiều người nhầm lẫn, trong đó có ông Bùi Tín khi viết bài về buổi lễ. Do đó, ông Bùi Tín có viết bài đính chính đăng trên trang Việt Báo.com
“Trong bài viết ngày 22-9-2012 của Lan Anh, có hai tấm hình của ông Thein Sein và bà Aung San Suu Kyi, có kèm theo lời chú thích, khiến độc giả tin rằng đó là hình chụp trong buổi lễ trao giải thưởng ngày 22-9-2012. Trên thực tế, hai tấm hình được “ăn cắp” (không xin phép tác giả) từ những trang mạng khác mà chủ nhân thật sự của nó không được nêu tên ra. Tấm hình ông Thein Sein do phóng viên Hoàng Đình Nam của AFP (American Free Press) chụp. Còn tấm hình của bà Aung San Suu Kyi là do phóng viên Khin Maung Win của AP (Associated Press) chụp ngày 2-4-2012. Có nguồn tin cho biết Lan Anh là con gái của Nguyễn Anh Tuấn?”
Một tổ chức quốc tế, một giải thưởng quốc tế mà làm ăn mờ ám, lươn lẹo, đánh lận con đen như thế thì làm sao mà sống lâu được?
Không trung thực là tự hủy diệt.
Sở dĩ 700 tờ báo và cơ quan truyền thông cùng 15,000 nhà báo trong nước còn sống lâu được là nhờ họ gác lương tâm qua một bên, tiến công bên lề phải, tức là bưng bít tin tức, bóp méo sự thật, ca tụng bạo quyền.
Những thành tích làm báo nhà nước không còn tin cậy được nữa.
6. Vua Trần Nhân Tông và biểu tượng hoà giải
Trước hết phải xác định một lần nữa, Trần Nhân Tông là một minh quân, một anh hùng dân tộc trong việc chống quân Nguyên, là một thiền sư đã Việt Nam hoá đạo Phật và là Tổ sư sáng lập phái thiền Trúc Lâm Yên Tử.
Về Phật giáo, lịch sử ghi chép ông đã “tập đại thành” những tư tưởng của nhiều thiền sư trước đó, như sư Vạn Hạnh chẳng hạn.
Hình tượng Trần Nhân Tông bị lợi dụng. GS Phạm Cao Dương cho biết: “Nếu các hoạt động của Viện Trần Nhân Tông thiên về mục đích chính trị nhất thời, thì hình tượng TNT có thể bị lợi dụng”.
Để làm sáng tỏ về việc hoà giải của vua Trần Nhân Tông, thiết nghĩ nhìn lại lịch sử đời Trần và vua Trần Nhân Tông.
7. Tổng quát về nhà Trần
Trong lịch sử Việt Nam, nhà Trần là một thời đại hưng thịnh nhất của dân tộc Việt. Nhà Trần trị vì 175 năm với 12 vị vua. Quân dân Đại Việt đã 3 lần đánh tan quân xâm lược Nguyên-Mông. Có những vị danh tướng như Hưng Đạo Vương đã làm rạng danh trang sử Việt.
Thái sư Trần Thủ Độ là người gầy dựng lên nhà Trần bằng cách ép anh rể là vua Lý Huệ Tông phải lên làm thái thượng hoàng, nhường ngôi lại cho con gái thứ hai là Lý Chiêu Hoàng, 7 tuổi. Sau đó, đưa cháu là Trần Cảnh, 8 tuổi, vào làm chồng Chiêu Hoàng để cướp ngôi nhà Lý.Trần Cảnh lên ngôi tức là Trần Thái Tông.
Trần Thủ Độ lại ép buộc Lý Huệ Tông phải đi tu và âm mưu giết chết. Đó là một hôm, khi vua Lý Huệ Tông đang ngồi nhổ cỏ trước sân chùa, Trần Thủ Độ nói “Nhổ cỏ phải nhổ tận gốc rể”. Hiểu ý, Lý Huệ Tông tự tử chết.
Trần Thái Tông còn nhỏ, nên Trần Thủ Độ nắm giữ quyền hành cai trị đất nước suốt 40 năm, và Trần Thái Tông chỉ làm vua cho có chức vị.
Trần Thủ Độ thông dâm với người chị, là vợ của vua Lý Huệ Tông, bà là mẹ của 2 công chúa Thuận Thiên và Lý Chiêu Hoàng.
Những vị vua sau lại sa vào con đường đam mê tửu sắc, khiến cho nhà Trần suy tàn và mất ngôi.
Vị vua sau cùng là Trần Thiếu Đế, 5 tuổi, bị ông ngoại là Hồ Quý Ly cướp ngôi, lập ra nhà Hồ. Mười hai vua nhà Trần là: Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Anh Tông, Minh Tông, Hiến Tông, Dụ Tông, Nghệ Tông, Duệ Tông, Trần Phế Đế, Thuận Tông và Trần Thiếu Đế.
8. Lịch sử chê trách nhà Trần
Dưới đây là những trang sử không vẻ vang gì về văn hoá của dân tộc. Chúng ta cũng không hãnh diện vì nó. Chúng ta cũng không mong muốn có những trang sử bị chê trách, tuy nhiên, nó là lịch sử, và không ai có thể sửa đổi lịch sử được cả. Cho dù có nhắc đến, hoặc cố tình che dấu thì lịch sử vẫn là lịch sử.
Trúc Giang tôi cũng không có ý bôi nhọ tổ tiên của dân tộc, nhưng vì, có ý kiến cho rằng nhân vật Trần Nhân Tông bị lợi dụng, cho nên cần phải làm sáng tỏ. Đây là vấn đề rất tế nhị khi lạm bàn về lịch sử có thể gây sự ngộ nhận nhưng đó là sự kiện có tốt, có xấu được ghi lại.
Nói về Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên
ĐVSKTT của Ngô Sĩ Liên là bộ quốc sử VN bằng chữ Hán viết theo thể biên niên, ghi chép lịch sử VN từ thời đại truyền thuyết Kinh Dương Vương năm 279 TCN đến năm 1675, đời Lê Gia Tông nhà Hậu Lê.
ĐVSKTT bắt đầu được Ngô Sĩ Liên, một sử quan, biên soạn. Sau đó được dịch ra chữ Quốc ngữ, hiện còn được lưu giữ ở Viễn Đông Bác Cổ Paris (Pháp).
Nhà xuất bản Khoa học Xã hội VN xuất bản và phát hành lần đầu tiên năm 1993. Là bộ sử xưa nhất, là di sản văn hoá vô giá của dân tộc Việt. Là kho tài liệu phong phú rất có giá trị. Các bộ sử sau nầy dựa vào đó mà biên soạn.
Lịch sử chê trách nhà Trần hai việc:
- Là dùng các công chúa thực hiện mỹ nhân kế để giữ nước
- Xảy ra tình trạng loạn luân?
Ngoài hai sử gia Ngô Sĩ Liên và Ngô Thì Sĩ, ngay cả Lê Quý Đôn cũng hạ bút: “Họ Trần lập hoàng hậu bằng cách nhà vua lấy chị em con chú con bác làm vợ. Loạn luân như thế mà vẫn điềm nhiên không coi là kỳ quái… Triều Lê ta, gia pháp rất đúng, giáo dục luân thường rất rõ ràng. Khi chọn phi tần, tất lấy trong con em các dòng họ công thần và con nhà tử tế mà lễ trật phân biệt, tôn ty rạch ròi, không có cái tệ bất chính trong chốn phòng the của đời trước”.
Để chứng minh nhà Trần có tội, Ngô Thì Sĩ viết: “Nhà Trần lấy vợ là người cùng họ, âm dương không phải lứa đôi nên có tai biến trong những hôn nhân cùng họ:
- Năm 1300, người đàn bà Hồng Lộ sinh con 2 đầu
- Năm 1304, người đàn bà ở kinh thành sinh con 2 đầu, 4 chân, 4 tay.
- Năm 1350, tại làng Thiên Cung, Nghệ An, có người con gái hoá trai.
Theo Nho giáo, vua là con Trời, mà con Trời hành sự không đúng lễ giáo thì bị Trời ra tay răn dạy như thế”.* (Nhận xét của người viết sử ở thế kỷ 14, tức là hơn 600 năm trước)
9. Mỹ nhân kế và loạn luân
9.1. Dùng các công chúa làm mỹ nhân kế để giữ nước
9.1.1. Gả Ngoạn Thiềm công chúa cho Nguyễn Nộn
Năm 1228, Ngoạn Thiềm công chúa là con của Trần Thái Tông, là em gái của Trần Thánh Tông, được đem gả cho Nguyễn Nộn.
Lý do, Nguyễn Nộn bắt được vàng ngọc mà không đem dâng nạp triều đình nên bị bắt giam. Mẹ của Lý Chiêu Hoàng xin cho Nguyễn Nộn được đi đánh giặc để chuộc tội. Nguyễn Nộn có tài nên dẹp được phiến loạn và thu phục được quân binh nổi loạn, thanh thế lừng lẫy một phương ở tỉnh Hải Dương.
Nhà Trần một mặt phong chức cho Nộn là Hoài Đạo Hiếu Vũ Vương, một mặt gả công chúa Ngoạn Thiềm làm tay trong, dò la tin tức đề phòng Nộn làm phản. Nguyễn Nộn biết được âm mưu đó, nên dọn cho công chúa ra ở riêng một nơi, bị cô lập và theo dõi nên không làm gì được cả.
9.1.2. Triều đình sai dâng công chúa An Tư cho Thoát HoanTháng 12 năm 1284 dương lịch, thế quân Nguyên rất lớn, do Trấn Nam Vương Thoát Hoan, con trai Hốt Tất Liệt, chỉ huy, tiến công rất mạnh đã áp sát vào thành Thăng Long. Quân nhà Trần rơi vào thế nguy hiểm, Thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông suýt bị rơi vào tay giặc.Nhiều tôn thất nhà Trần như Trần Ích Tắc, con của vua Thái Tông, em vua Thánh Tông, chú của Trần Nhân Tông, Trần Kiện, Trần Lộng, mang cả gia quyến và thuộc hạ ra đầu hàng quân Nguyên.Trần Ích Tắc (1254 – 1329) là con thứ năm của vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh), em vua Thánh Tông, chú của vua Trần Nhân Tông.Năm Ất Dậu 1285, quân nhà Nguyên chia quân làm 3 đạo tiến đánh Đại Việt lần thứ hai. Lúc đó đạo quân thứ ba do Toa Đô chỉ huy từ dưới Chiêm Thành đánh lên.Trần Ích Tắc thống lĩnh hàng vạn quân cùng với các thuộc hạ là Trần Kiện, Lê Tắc chống lại cánh quân của Toa Đô.Thế yếu, các tướng nhà Trần mang cả gia đình và thuộc hạ dâng nộp vũ khí xin đầu hàng. Toa Đô sai người đưa đám hàng quân gồm Trần Ích Tắc, con là Trần Hữu Lượng và Trần Đoan Ngọ, các cận thần là Trần Kiện, Lê Tắc về Yên Kinh (Bắc Kinh). Trần Ích Tắc được phong làm An Nam Quốc Vương, thăng chức và hưởng lộc của vua Tàu.
Trần Ích Tắc đầu hàng kẻ giặc để hưởng vinh hoa phú quý là một vết nhơ trong lịch ngàn năm của dân tộc.Tình thế rất nguy cấp, Thượng hoàng Trần Thánh Tông (cha của Trần Nhân Tông) quyết định dâng em gái út của mình là An Tư công chúa cho Thoát Hoan để cầu hòa.Tháng 3 năm 1285, vua Trần Nhân Tông sai Trung Hiếu Hầu Trần Dương và quan hầu cận là Đào Kiện, đưa người cô của nhà vua là An Tư công chúa về Thăng Long để dâng lên cho Thoát Hoan xin cầu hòa nhưng không có kết quả.
Dâng con gái cho giặc là 2 cái nhục bị chê trách.
9.1.3. Gả Huyền Trân công chúa cho Chế Mân
Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông hứa gả con gái cho Chế Mân khi viếng thăm Chiêm Thành. Chế Mân dâng kỳ hương và báu vật xin cưới nhưng không được. Sau Chế Mân dâng 2 châu Ô và Rí thì nhà Trần mới đồng ý gả công chúa cho vua Chiêm Thành. Tháng 6 năm 1306 Huyền Trân công chúa về Chiêm Thành.Tháng 5 năm 1307 Chế Mân chết. Theo tục lệ Chiêm Thành thì hoàng hậu phải lên dàn hoả thiêu chết theo vua. Nhà Trần sai Trần Khắc Chung lấy cớ sang điếu tang lập kế đưa công chúa Huyền Trân về nước.
Sử gia Ngô Sĩ Liên viết trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư như sau: “Thượng hoàng Trần Nhân Tông đã xuất gia rồi, vua Anh Tông thay đổi lời hứa có khó khăn gì đâu, mà phải đem gả cho người xa, không phải giống nòi. Cho rằng giữ đúng lời hẹn ước, thế rồi sau đó lại dùng kế gian trá để cướp lại, thế thì chữ tín ở đâu?”
9.1.4. Trần Minh Tông gả Nguyệt Sơn công chúa cho Ngô DẫnNăm 1363, vua Trần Minh Tông gả Nguyệt Sơn công chúa cho Ngô Dẫn, do Ngô Dẫn trở nên giàu có, nhờ có viên ngọc lớn bán được nhiều tiền.Sau đó, Ngô Dẫn ỷ lại giàu có, và do tính háo sắc, đã tư tình với người khác, xem thường công chúa. Công chúa tâu lên, Ngô Dẫn được miễn tội chết nhưng bị tịch thu toàn bộ gia sản.
Sử gia Ngô Thì Sĩ viết: “Nhà Trần quen làm lối nầy, cốt được lợi trông thấy mà đem má phấn đánh đổi tràng thành, gả Ngoạn Thiềm công chúa cho Nguyễn Nộn, dâng An Tư công chúa cho Thoát Hoan đều theo lối ấy cả”.
9.1.5. Sinh hoạt của các công chúa thời TrầnNgoài những cuộc hôn nhân giữa bà con trong họ, và với người ngoài vì lý do chính trị, ngoại giao, các công chúa đời Trần được sử sách ghi chép như sau:“Bắt đầu từ năm 1266, các công chúa cũng như các vương hầu, cung tần, được phép chiêu tập những người không có sản nghiệp làm nô tỳ để khai khẩn ruộng hoang, đắp đê ngăn nước mặn ở ven biển, chờ 2, 3 năm sau biến thành ruộng.Khi các công chúa và vương hầu, cung tần lập trang trại thì phải huấn luyện những nô tỳ trở thành quân lính, tổ chức thành đội quân, bản bộ, làm quân trừ bị.”
Các công chúa đời Trần bị chỉ trích là bắt người dân làm nô lệ, hại gia đình tan nát.
9.2. Loạn luân đời Trần
Nhà Trần đoạt ngôi nhà Lý bằng hôn nhân ngoại thích, do đó, để tránh họa ngoại thích, nhà Trần chủ trương kết hôn với người trong dòng họ (hôn nhân nội thích). Việc nầy đưa đến dòng họ triều Trần loạn luân, là các con chú con bác, con cô cậu, bạn dì lấy nhau. Trái với văn hoá tốt đẹp, thuần phong mỹ tục, đạo lý, lễ giáo gia phong của người Việt Nam.
Biện pháp hôn nhân nội thích không giữ được ngôi báu nhà Trần, và cuối cùng nhà Trần cũng bị mất ngôi vì hôn nhân ngoại thích. Đó là Hồ Quý Ly đoạt ngôi nhà Trần lập nên nhà Hồ.
Sử sách ghi có 35 trường hợp loạn luân trong hoàng tộc nhà Trần.
Trần Liễu lấy Thuận Thiên công chúa là con cậu lấy con cô.
Năm 1225. Trần Cảnh (Trần Thái Tông) lấy Lý Chiêu Hoàng cũng là con cậu lấy con cô. Giải thích liên hệ như sau:
Trần Thừa là cha của Trần Liễu và Trần Cảnh.
Trần Thừa là anh ruột của Thuận Trinh. Mà Thuận Trinh là mẹ của 2 công chúa Thuận Thiên và Lý Chiêu Hoàng
Hai anh em ruột Trần Liễu và Trần Cảnh con của Trần Thừa lấy hai chị em ruột Thuận Thiên và Lý Chiêu Hoàng, là con của Thuận Trinh, tức là 2 anh em con cậu lấy 2 chị em con cô.
Năm 1237. Trần Cảnh (Trần Thái Tông) lấy Thuận Thiên công chúa, vợ của Trần Liễu, đã có thai 3 tháng. Lý do là Lý Chiêu Hoàng không có con, nên Trần Thủ Độ ép Trần Liễu phải nhường vợ lại cho em ruột là Trần Cảnh, tức là Trần Thái Tông. Trường hợp nầy cũng là con cậu lấy con cô và em chồng lấy chị dâu.
Năm 1251, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, (con của Trần Liễu) lấy công chúa Thiên Thành (con của Trần Cảnh) tức là con bác lấy con chú.
Liên hệ như sau: Trần Liễu và Trần Cảnh là anh em ruột.
Trần Quốc Tuấn là con của Trần Liễu. Thiên Thành là con của Trần Cảnh, tức là con bác lấy con chú.
Năm 1258. Trần Thánh Tông (con Trần Thái Tông, Trần Cảnh) lấy Thiên Cảm công chúa (con của Trần Liễu) tức là con chú lấy con bác.
Năm 1274. Vua Trần Nhân Tông lấy 2 người con gái của Trần Quốc Tuấn là Bảo Thánh và Tuyên Tử, thuộc về con nhà chú lấy con nhà bác.
Năm 1351. Trần Dụ Tông loạn dâm với chị ruột là Thiên Ninh công chúa. Câu chuyện như sau. Lúc Dụ Tông 4 tuổi, trong buổi dạo thuyền đêm Trung Thu ở Hồ Tây, vô tình bị chết đuối. Thầy thuốc người Tàu tên Trâu Canh dùng kim châm, cứu sống và tiên đoán, sau nầy sẽ bị liệt dương.
Dụ Tông lên ngôi năm 6 tuổi. Đến năm 14 tuổi thì cưới vợ, đúng là bị liệt dương. Thầy thuốc Trâu Canh cho toa, hãy giết 1 bé trai, mổ lấy mật hoà với dương khởi thạch mà uống, và phải thông dâm với chị hoặc em ruột thì mới hiệu nghiệm. Sự mê tín dị đoan nầy làm giảm sút đạo lý của truyền thống dân tộc!
Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi lại ở trang 132 như sau: “Vua làm theo, thông dâm với chị ruột là Thiên Ninh công chúa, quả nhiên có công hiệu”.
Có tất cả 35 trường hợp loạn luân trong hoàng tộc nhà Trần được ghi lại rõ ràng, đã bị các sử gia Ngô Sĩ Liên, Ngô Thì Sĩ, Phan Phú Tiên và cả Lê Quý Đôn, vua Tự Đức cũng đã phê phán mạnh mẽ việc loạn luân luông tuồng nầy.
10. Trần Nhân Tông
Trần Nhân Tông tên thật là Trần Khâm, sinh ngày 7-12-1258, con trai trưởng của Trần Thánh Tông.
Ngày 8-11-1278, ông được vua cha truyền ngôi năm ông 20 tuổi. Trị vì 14 năm. Nhường ngôi, lên làm Thượng hoàng 5 năm, xuất gia 8 năm.Thọ 51 tuổi. Trần Nhân Tông là vị vua thông minh và quả quyết. Nhờ Thượng hoàng Thái Tông còn nắm mọi việc trong triều và có nhiều người tài trí giúp nước, nhà vua, các tướng lãnh và dân chúng một lòng đánh giặc nên từ năm 1285 đến 1287 quân Nguyên-Mông hai lần sang xâm lấn đều bị đập tan.
Trần Nhân Tông xuất gia tu hành tại cung Vũ Lâm, Ninh Bình, sau đó đến Yên Tử, Quảng Ninh, thành lập Thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử. Trúc Lâm là hiệu của Trần Nhân Tông cũng là hiệu của ông là Thiền Sư Đạo Viên.
Ông là Tổ thứ nhất của dòng thiền Việt Nam, được gọi cung kính là Phật Hoàng. Qua đời ngày 16-12-1308, thọ 51 tuổi.
11. Thời kỳ suy tàn của nhà Trần
Từ Trần Nghệ Tông, Trần Phế Đế, Trần Thuận Tông, nhà Trần suy tàn. Thái sư nhiếp chính là Hồ Quý Ly lộng quyền, khuynh đảo triều đình.
Hồ Quý Ly gả con gái trưởng là Thánh Ngâu cho vua Trần Thuận Tông, sinh ra Trần Thiếu Đế. Quý Ly khuynh đảo triều đình, đưa 2 con trai vào nắm chức vụ quyền lực quan trọng trong triều.
Ông ép buộc con rể là Thuận Tông phải lên làm Thượng hoàng, nhường ngôi cho con là thái tử An, tức Thiếu Đế lúc 2 tuổi. Kế tiếp, buộc Thuận Tông phải đi tu và sai người giết chết, ban đầu sai người dâng rượu độc, Thuận Tông uống vào nhưng không chết, lại dâng nước dừa mà không cho ăn, vẫn không chết. Cuối cùng, Quý Ly sai tướng Phạm Khả Vĩnh đến thắt cổ thượng hoàng, chết lúc 22 tuổi.
Hồ Quý Ly đem giết 370 người thuộc nhà Trần chống lại ông ta, trong đó có Trần Nguyên Hãng và Trần Khát Chân.
Tình hình Đại Việt hỗn loạn. Giặc cướp Nguyễn Nhữ Cái nổi lên có hàng vạn người theo, cướp bóc bừa bãi. Triều đình bó tay.
Ngày 28 tháng 2 năm Canh Thìn, 1400, Trần Thiếu Đế bị ông ngoại ép nhường ngôi. Hồ Quý Ly sai các tông thất nhà Trần phải dâng biểu 3 lần mới chịu nhận làm vua.
Hồ Quý Ly lên ngôi, niên hiệu là Thánh Nguyên. Đổi tên nước là Đại Ngu, dời đô từ Thăng Long về An Tông, Thanh Hoá. Quý Ly truyền ngôi cho con là Hồ Hán Thương.
Nhà Hồ làm vua được 7 năm thì bị nhà Minh sang đánh, bắt giết Hồ Hán Thương. Nước Nam bị lệ thuộc vào nhà Minh năm 1407.
Lịch sử lập lại. Những gì Trần Thủ Độ làm để đoạt ngôi nhà Lý, được Hồ Quý Ly thực hiện để đoạt ngôi nhà Trần. Đó là Trần Thủ Độ ép anh rể Lý Huệ Tông phải nhường ngôi cho con gái, Lý Chiêu Hoàng, lên làm Thượng hoàng, ép đi tu và giết chết bằng câu nói bóng gió là “nhổ cỏ phải nhổ tận gốc rể”
Hồ Quý Ly ép con rể lên làm Thượng hoàng, ép đi tu và cũng dùng 4 câu thơ bóng gió là nên tự kết thúc cuộc đời bằng 2 câu “Sao không sớm liệu đi. Để cho người nhọc sức?” “Người nhọc sức” là những người mà Hồ Quý Ly sai theo hầu cận, theo dỏi và kiểm soát Trần Thuận Tông, (con rể của ông).
12. Phật Giáo suy tàn
Thời kỳ đầu nhà Trần, Phật Giáo phồn thịnh, được xem là quốc giáo. Các vua đều sùng đạo. Cho xây chùa, đúc chuông, tạc tượng thờ phượng khắp nơi.
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép lại như sau: “Thượng hoàng xuống chiếu rằng trong nước hễ chỗ nào có đình trạm đều phải đắp tượng Phật để thờ. Trần Nhân Tông sai sứ sang Tàu thỉnh kinh về truyền bá Đạo Phật. Chính ông là người Tổ đầu tiên của Thiền phái Trúc Lâm. Nhưng cuối đời Trần, Phật Giáo bị pha trộn thêm các hình thức mê tín, bùa chú, nên ngày càng suy vi”. Do đó, Phật giáo không được coi là quốc giáo nữa. Nho giáo được tôn trọng hơn vì “chịu ảnh hưởng” của Tàu!
Năm 1396, vâng lời Hồ Quý Ly, vua Trần Thuận Tông xuống chiếu sa thải các tăng đạo từ 50 tuổi trở xuống, bắt buộc phải hoàn tục. Những người còn lại, trên 50 tuổi, phải tham dự các kỳ thi về kinh giáo. Ai thi đậu thì được cho làm Đường Đầu Thủ, Trì cung, Trì quán. Ai không đậu thì cho làm kẻ hầu của những người tu hành.
Nhà Trần là một thời đại hưng thịnh nhất lịch sử với ba lần chiến thắng quân xâm lược nhà Nguyên một cách vẻ vang. Trần Nhân Tông là một vị vua anh minh là người đã Việt Nam hoá Phật Giáo và là Tổ sáng lập phái thiền Trúc Lâm Yên Tử
Nhưng Trần Nhân Tông không phải là một biểu tượng nổi bật về tinh thần “hoà giải”. Tư tưởng của Trần Nhân Tông bắt nguồn từ đạo Phật và xuất phát cũng từ Phật Giáo từ hàng ngàn năm tới ngày nay.
Âm Mưu Của CSVN
Bài học kinh nghiệm về hoà giải hoà hợp với Việt CộngĐể phát động chiến dịch thực hiện NQ 36 về hoà giải hoà hợp dân tộc, nhà sư quốc doanh Thích Đức Nghi qua Pháp móc nối với sư ông Thích Nhất Hạnh để thành lập chùa Bát Nhã theo thiền phái Làng Mai ở Việt Nam.Tu viện Bát Nhã thuộc thị xã Bảo Lộc tỉnh Lâm Đồng, diện tích 30 hecta, được thành lập năm 1995 do thượng tọa Thích Đức Nghi làm viện chủ tu viện.Tháng 2 năm 2005, Thích Đức Nghi đồng ý cho thiền sư Thích Nhất Hạnh và tăng nhân Làng Mai xây dựng Bát Nhã thành một trung tâm tu học theo pháp môn Làng Mai. Nhất Hạnh chi ra một triệu đô la để mua đất và mở rộng khu tu viện.Tháng 5 năm 2005, Thích Đức Nghi bảo lãnh các nhà sư tu tập tại Làng Mai người Pháp và người Pháp gốc Việt, được về nước đào tạo tăng sinh. Trong vòng một năm, tăng sinh lên tới 300 người. Một dự án xây dựng cơ sở cho 1,000 tăng sinh, được đề ra.
Tháng 6 năm 2008, ông thầy chùa quốc doanh Thích Đức Nghi phản phé, tuyên bố chấm dứt việc bảo lãnh các sư quốc tịch nước ngoài, có nghĩa là buộc những tăng ni quốc tịch Pháp phải rời Việt Nam.
Công điện của toà Đại sứ Mỹ bị Wikileaks phổ biến trên Internet có nội dung như sau:
Ngày 8-8-2008, công an địa phương ra công văn trục xuất 397 tăng ni ra khỏi Viện. Các tu sinh gởi kiến nghị khắp nơi nhưng không ai trả lời cả.
Ngày 19-11-2008, một buổi họp ở Sài Gòn, Viện Phật Giáo VN và Ban Tôn Giáo Chính phủ, ủy quyền cho Ban Trị Sự Phật Giáo Lâm Đồng giải quyết vụ việc.
Ngày 27-6-2009, ông thầy chùa quốc doanh Thích Đức Nghi cắt điện và nước của tăng sinh cho đến ngày 1-8-2009.
Ngày 20-9-2009, một bọn côn đồ đến đập phá nhà cửa, ném đá và đồ vật dơ bẩn, đập phá chỗ ở của các tăng sinh trước mặt Thích Đức Nghi. Quần áo của các ni cô bị lấy đem vứt xuống suối.
Ngày 27-9-2009, công an thường phục mang mặt nạ chống hơi độc với dùi cui, sát cánh với bọn côn đồ, cưỡng bức 150 tăng sinh ra ngoài sân, chịu đựng suốt cơn mưa, rồi chúng xông vào phá phách các liêu phòng, phá cửa sổ, bàn ghế, giường chiếu, đổ nước phá hư những thiết bị điện tử, từ điện thoại di động đến máy vi tính.
Máu đổ trước sân chùa, bộ áo cà sa nhuộm máu.
Hai thầy bị kéo đi như kéo súc vật, bị đập phun máu đầu bất tỉnh. Hai tăng sĩ sư huynh bị bắt mang đi. Các tăng sinh nằm dài dưới mặt đường trước những chiếc xe để ngăn chận việc mang người, không biết đem đi đâu.
Công an ra tay “hơi mạnh”, máu me đầy người, những bộ áo cà sa đẫm máu và máu đổ trước sân chùa do sự đàn áp dã man và tàn bạo.
Hai người bị thẩm vấn, ép cung là Làng Mai hoạt động chống chính quyền. Sau đó họ bị trục xuất về nguyên quán là Nha Trang và Hà Nội.
Khoảng từ 80 đến 100 tăng sinh bị chở đi đâu không ai biết.
Vào đêm chủ nhật, tất cả tăng sinh đều bị trục xuất ra khỏi tu viện sau khi bị tấn công dã man. Đến 6 giờ sáng thứ hai, Viện Bát Nhã không còn bóng dáng một tăng sinh nào cả. Công an đã trục xuất 100% tăng sinh ra khỏi tu viện.
200 tăng sinh chạy đến tá túc ở chùa Phước Huệ, cách đó 17 km cũng bị áp lực phải trục xuất. Giáo Hội Phật Giáo gởi tối hậu thơ buộc các tăng sinh phải rời khỏi chùa Phước Huệ thời hạn chót là ngày 30-11-2009.
Nhà cầm quyền CSVN tuyên bố vụ việc là do tranh chấp nội bộ giữa Phật giáo với nhau, tu mà tâm chưa tịnh.
Ông Bùi Hữu Đức, Vụ trưởng Vụ Phật Giáo chính thức lên án sư ông Nhất Hạnh. Tiếp theo, báo Công An Nhân dân đăng tải nhiều bài mạ lỵ Thích Nhất Hạnh.
Ngày 30-9-2009, sư ông Nhất Hạnh gởi một lá thư cho chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết xin che chở cho các tăng sinh Bát Nhã. Nguyễn Minh Triết cũng trở mặt. Không có hồi âm.
Ngày 2-10-2009, Nhất Hạnh gởi thơ cho các trí thức trong và ngoài nước, xin lên tiếng kịp thời che chở cho 400 người trẻ bị bao vây và đàn áp tại Bát Nhã.
Các tăng sinh Làng Mai giữ đúng tôn chỉ là chế ngự cơn giận, hoà giải hoà hợp và yêu thương đối với công an, nhưng rất tiếc, công an CS chưa giác ngộ.
Hoà giải hòa hợp phải được thực hiện bình đẳng và tự nguyện tự giác giữa hai bên mới được. Ngay cả nhà sư quốc doanh Thích Đức Nghi cũng lật lọng, tráo trở đối với người đồng đạo, nên thầy trò Nhất Hạnh bó tay.
Phật giáo chơi Phật giáo thì ai hòa giải với ai đây?
Nhớ lại, khi về VN, thầy Nhất Hạnh thực hiện hoà giải hòa hợp dân tộc theo nội dung NQ 36, tổ chức 3 Đại Trai Đàn Chẩn Tế Bình Đẳng ở 3 miền, Nam Trung Bắc, gọi là “Đại Trai Đàn Chẩn Tế Giải Oan”, cầu nguyện giải trừ oan khổ.
Sư ông Nhất Hạnh bị VC chơi 3 cú đau hơn bị bò đá vào dế.
Trước năm 1975, thầy binh vực VC, chống VNCH, chống Mỹ, bị VNCH buộc phải lưu vong sau khi dự Đại hội Phật giáo ở Nhật Bản vào năm 1967. Binh vực VC mà bị VC đá, đó là cái đau thứ nhất.
Bị VC lợi dụng để quảng cáo cho việc thực hiện thành công NQ 36, bị mất trên một triệu đô la, và 400 tăng sinh bị đàn áp, cấm tụ tập tu hành.Đó là cái đau thứ hai, do thơ ngây không hiểu Cộng Sản.
Cái đau thứ ba là mắc cở với người quốc gia của VNCH, đau hơn bị bò đá mà phải ngậm đắng nuốc cay, chả dám hở môi với ai cả. Đó là cái đau nhất của một vị tu hành có tiếng tăm.
Bài học Làng Mai giúp chúng ta nhận chân về chiêu bài hoà giải hoà hợp của Việt Cộng.
Mục đích của Viện Trần Nhân Tông là: “Tổ chức nghiên cứu về Trần Nhân Tông theo tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời xuất bản những kết quả nghiên cứu”. Thế nhưng những ông tây bà đầm chẳng có tay nào làm công việc nghiên cứu về sử học, văn hoá, tôn giáo, triết học của Việt Nam cả, thì lấy cái gì mà xuất bản?
Ông chủ tịch Giải thưởng Trần Nhân Tông, Thomas Patterson, trước kia là một chiến binh Mỹ đã từng tham chiến ở VN, mà Hà Nội gọi chung là “đế quốc Mỹ xâm lược”, thế nhưng bây giờ ông đã “nhiều lần nhận xét rằng chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là một nhà lãnh đạo lớn, đức độ và tài năng như vua Trần Nhân Tông vậy”. (Bùi Tín)
Tuyên bố như vậy, thì chính là hạ nhục Trần Nhân Tông, chớ không phải vinh danh. Bởi vì, Trần Nhân Tông mà giống như Hồ Chí Minh thì hết chỗ chê rồi.
Viện Trần Nhân Tông chủ trương dùng âm nhạc xoá bỏ những khác biệt và xung đột là một chủ trương thật đáng buồn cười, vì âm nhạc đã có từ ngàn năm nay dưới biết bao nhiêu hình thức và thể loại, nhưng xung đột, tranh chấp, khủng bố ngày càng gia tăng…
Trong nội bộ những vị “chân tu” như Nhất Hạnh và Thích Đức Nghi mà không hoà giải với nhau được thì làm sao mà những người phàm phu tục tử, ngoại đạo, hoà giải và yêu thương nhau cho được. Hay là đề nghị tổng thống Mỹ thử dùng âm nhạc để hoà giải với giáo chủ Hồi giáo và tổng thống Iran, với TT Bashar al-Assad của Syria, hoặc Kim Jong-un xem sao?
ảo thuật vẹt
Kết
Có thể nói Tran Nhan Tong Academy made in Vi Xi Hà Nội, vì Viện được thành lập và điều hành bởi những đảng viên đã từng giữ những chức vụ cao cấp của chế độ độc tài Cộng Sản VN.
Hoà giải hoà hợp dân tộc là một chiêu bài của Nghị Quyết 36. Trước đây, thủ đoạn dùng “củi đậu nấu đậu”, tức là dùng Việt gian nằm vùng trong cộng đồng người Việt tỵ nạn CS để đánh phá các phong trào dân chủ và nhân quyền cho VN, thủ đoạn đó thất bại. Có thể chiến thuật mới là dùng người bản xứ đứng mũi chịu sào để đánh người tỵ nạn CS thì chắc ăn hơn.
Tóm lại, câu chuyện hoà giải giữa Làng Mai Bát Nhã của Thích Nhất Hạnh với Cộng Sản VN, là một bằng chứng cụ thể để chúng ta thấy rõ về NQ 36 của Việt Cộng. NQ 36 nhằm tiêu diệt tinh thần đấu tranh chống chế độ độc tài để đòi tự do, dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam.
Trúc GiangMinnesota tháng 10 năm 2012
www.vietthuc.org
3 Attached files| 92KB
Sunday, October 28, 2012
TRẦN CÔNG * HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆT CỘNG TẠI HẢI NGOẠI
HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆT CỘNG
TẠI HẢI NGOẠI
Trần Công
Trong bao nhiêu năm nay, cộng sản đã ra sức phá hoại các cộng đồng hải
ngọai. Cộng sản đã bắt chước đường lối gian manh của Nguyễn Tất Thành,
sau này là Hồ Chí Minh, là nói xấu, chia rẽ hàng ngũ quốc gia.và xâm
nhập vào các tổ chức quốc gia để phá hoại và cướp bóc.Đường lối chung là
gây chia rẽ trong cộng đồng hải ngoại, làm suy yếu lực lượng cộng
đồng..
Phương thức hành động là :
+ Chúng giả danh là sĩ quan, đã ngồi tù, hay con cái các nhà văn danh
tiếng. Chúng cũng mua chuộc các sĩ quan, nhà văn vốn ở Miền Nam, vốn ở
trong hàng ngũ quốc gia để tuyên truyền phá hoại như việc chúng giả
danh con nhà văn Vũ Trọng Phụng để tuyên truyền hay vu khống các nhân
vật VNCH như chúng bịa đặt về luật sư Trần Văn Tuyên, về nhà văn Nguyễn
Thị Vinh
+ Chúng mua chuộc các sĩ quan, nhà văn , văn nghệ sĩ , các tu sĩ hay
các các vị ở trong chính quyền cộng hòa như Nguyễn Cao Kỳ, Phạm Duy,Nhất
Hạnh, Phạm Minh Mẫn...để tuyên truyền, phá hoại khối thống nhất của hải
ngoại.
+Chúng tạo thanh thế rồi xâm nhập vào các cộng đồng gây chia rẽ.hay loan tin thất thiệt.
+Chúng dùng báo chí, e mail để khuấy động, hoặc kích bác chia rẽ trong cộng đồng.
Đường lối hoạt động là :
+Chúng gây chia rẽ. làm cho anh em bôi xấu nhau, vu cáo... như chúng đã làm trong các hội đoàn quân nhân hải ngoại.
+Chúng nhân danh chống cộng hay nhân danh công bằng như nhóm Liên Thành
và Giao Điểm để gây ra xung đột tôn giáo có lợi cho cộng sản.. Một vài
người đứng đàng sau, giả làm sư để chống Thiên Chúa giáo và giả Thiên
chúa giáo để mạ lỵ, vu khống Phật giáo, mà Phật giáo Thống NHất hiện nay
là một trong những cột trụ vĩ đại chống đỡ ngôi nhà Việt Nam trước sự
phá hoại, xâm chiếm của Việt Cộng và TRung Cộng.
Khoảng 1963, bọn cộng sản đã thực hiện âm mưu xúi dục chiến tranh tôn giáo tại Miền Nam. Chúng cho người đến vùng Thiên chúa giáo kêu gào rằng nhà thờ bị Phật tử đốt, chúng cũng đến vùng nhiều Phật tử loan tin nhà chùa bị Thiên Chúa giáo đốt. Nhưng lúc đó đồng bào ta sáng suốt không măc mưu bọn cộng sản gian manh! Ngày nay, chúng lại giở thủ đoạn xảo quyệt này. Xin các vị lãnh đạo tôn giáo, các vị lãnh đạo cộng đồng và tất cả đồng bào ta phải sáng suốt, đề phòng những âm mưu và thủ đoạn gian ác của cộng sản.
Khoảng 1963, bọn cộng sản đã thực hiện âm mưu xúi dục chiến tranh tôn giáo tại Miền Nam. Chúng cho người đến vùng Thiên chúa giáo kêu gào rằng nhà thờ bị Phật tử đốt, chúng cũng đến vùng nhiều Phật tử loan tin nhà chùa bị Thiên Chúa giáo đốt. Nhưng lúc đó đồng bào ta sáng suốt không măc mưu bọn cộng sản gian manh! Ngày nay, chúng lại giở thủ đoạn xảo quyệt này. Xin các vị lãnh đạo tôn giáo, các vị lãnh đạo cộng đồng và tất cả đồng bào ta phải sáng suốt, đề phòng những âm mưu và thủ đoạn gian ác của cộng sản.
+Chúng dùng danh nghĩa chống cộng, tố cộng để phá hoại uy tín những vị
có uy tín như một số cá nhân đã liên kết để vu cáo Nguyễn Chí Thiện là
Việt Cộng nằm vùng,..Họ làm như thế cũng để cộng đồng ta chia thành hai
phe ủng hộ và chống mà chia rẽ nhau.
+Chúng cố tìm cách phá hoại nêu lên mọi lý do để làm nhụt chí tranh đấu
cho dân chủ Việt Nam. Trong vụ đài SBTN kêu gọi ký tên kêu gọi đấu tranh
dân chủ cho Việt Nam, đặc biệt là vụ Việt Khang. Chúng tung tin ký tên
vào Thỉnh nguyện thư thì bị Việt Cộng trả thù, tranh đấu cho Việt Khang
là làm hại Việt Khang, ký thỉnh nguyện thư là bị nhóm SBTN lợi dụng.
+Chúng giả danh đảng phái quốc gia lập ra ra các cuộc phê bình văn
học, sử học, dịch thuật để cộng đồng ta kẻ bênh, người chống gây ra
chia rẽ.
+Chúng mượn miệng một số người kêu gọi hòa hợp hòa giải, hoặc đừng theo Mỹ như nhóm Trịnh Khải, Vũ Quốc Thúc để làm suy yếu tinh thần chống cộng đôc tài, đòi tự do dân chủ cho Việt Nam
+Chúng cũng mượn người Mỹ che chắn cho âm mưu xâm nhập cộng đồng như viện Trần Nhân Tông, đứng sau do Thomas Patterson . Chúng ta nên biết tinh thần Trần Nhân Tôn là chống Trung Quốc xâm lược chứ không phải là phụ họa cho bọn bán nước, đầu hàng Trung Cộng, cướp đất của dân, đàn áp nhân dân, bóp chẹt mọi quyền tự do dân chủ của nhân dân.
+Chúng mượn miệng một số người kêu gọi hòa hợp hòa giải, hoặc đừng theo Mỹ như nhóm Trịnh Khải, Vũ Quốc Thúc để làm suy yếu tinh thần chống cộng đôc tài, đòi tự do dân chủ cho Việt Nam
+Chúng cũng mượn người Mỹ che chắn cho âm mưu xâm nhập cộng đồng như viện Trần Nhân Tông, đứng sau do Thomas Patterson . Chúng ta nên biết tinh thần Trần Nhân Tôn là chống Trung Quốc xâm lược chứ không phải là phụ họa cho bọn bán nước, đầu hàng Trung Cộng, cướp đất của dân, đàn áp nhân dân, bóp chẹt mọi quyền tự do dân chủ của nhân dân.
+ Để phá hoại tinh thần quốc gia chống cộng sản sản, chúng đề nghị lấy
ngày quốc hận 30- 4 làm ngày " hòa giải"..., và bỏ cờ vàng lẫn cờ cộng
sản.. Không ai mắc mưu chúng. Mặt nạ của chúng đang lộ dần
Đất nước ta hiện nay có hai hiểm họa:
+Bị Trung Quốc xâm lược, chúng ta phải nỗ lực chống ngoại xâm
+Bị bọn cộng sản bán nước, chúng còn cướp đất. cướp nhà cửa của nhân dân và bóp nghẹt mọi thứ tự do dân chủ của nhân dân.
+Bị bọn cộng sản bán nước, chúng còn cướp đất. cướp nhà cửa của nhân dân và bóp nghẹt mọi thứ tự do dân chủ của nhân dân.
Chúng ta phải tập trung nỗ lực giải quyết hai vấn đề này. Đừng để mắc
mưu kế thâm hiểm của cộng sản. Chúng ta đã thành công trong vụ Trần
Trường, vụ cờ vàng, vụ Thỉnh nguyện thư, vụ Hồng Vân.. Chúng ta phải giữ
vững tinh thần chiến đấu. Một thời gian ngắn nữa, tình hình sẽ biến
chuyển và có lợi cho chúng ta.
Ngày nay, cộng sản đã có hàng chục ngàn sinh viên du học, hàng chục ngàn
công nhân xuất khẩu, hàng vạn du khách và hàng tỷ đồng để thực hiện
việc công khai đánh phá cộng đồng. Nhưng chúng càng nổi lên thì sẽ bị
tiêu diệt như vụ mậu thân (1968).
Xin các vị lãnh đạo cộng đồng và đồng bào phải chuẩn bị đối phó cho những ngày sắp tới với tinh thần quyết tâm và sự sáng suốt.
Xin các vị lãnh đạo cộng đồng và đồng bào phải chuẩn bị đối phó cho những ngày sắp tới với tinh thần quyết tâm và sự sáng suốt.
Muà thu 2012
Trần Công
THƠ MINH NGHIÊU
M: Mông Lung 1
Có em mới có trăng này
Có em mới có sen đầy giữa trăng
Không em đường dậy cát lầm
Tôi tri thiên mệnh cũng nhầm phù
sinh
Có em nhón gót đa tình
Có em đêm ngủ gập ghềnh mộng rơi
Hôm nay mưa bão tơi bời
Trăng lu ai dạo khúc mời mọc ai?
Trên đường tôi đếm cỏ cây
Bao nhiêu chiếc lá lấp đầy mông
lung?
Bởi em là của muôn trùng
Và trăng là của riêng thương...hằng
hà!
NGHIÊU
MINH
Tôi là tôi hay chẳng là tôi
Giữa lấn chen đất đứng đất ngồi
Hay tôi cùng nhân gian bể khổ
Biết lội hay không: cũng vậy thôi!
Em là em hay chẳng là em
Rao chiêu quân tối lửa tắt đèn
Hay em ba bảy liều nhắm mắt
Giày cũng có số... Chỉ cần hên!
Nhau cùng nhau hay chẳng cùng nhau
Biết xung khắc vẫn a thần phù
Như trăm trứng trăm con huyền thoại
Kẻ biển người non vẫn gối đầu!
Thôi thì thôi cũng vẫn thôi thì
Lỡ yêu nhau ngu gì bỏ đi
Có cãi nhau thì nhớ cãi cọ
Dù kiếp sau gặp lại...sân si!
giới
thiệu NM trong 2 facebooks:
giới
thiệu NM trong youtube:
THANH THANH * MỘNG
MỘNG
www.ThanhThanh.us
tặng Thanh-Thanh
Em đến thăm anh lúc nửa chiều,
Nắng vàng nhạt nhạt, gió hiu hiu;
Tre nghiêng trước ngõ như chào đón,
Hoa rắc hàng hiên, lá rải lều...
Nhà anh vắng quá, gọi không ai;
Em đoán anh đang chép soạn bài .
Rón rén vô phòng em nói bỡn:
– Ô kià, thi
sĩ nhớ nhung ai?
Nhưng không! anh ngủ giữa chiều mơ,
Sách gối, bên tay giấy mấy tờ,
Và bút chì lăn bên lọ mực...
Biết rồi: anh ngủ giữa hương thơ .
Em đến bên bàn lục vở anh
Viết bừa dăm chữ lên bià xanh,
Bảo rằng em ghé thăm anh đó;
Ðang giấc thần tiên, thức chẳng đành.
Gió thổi bên hiên rụng lá vàng,
Lá rơi làm dậy cả không gian;
Giật mình em tỉnh – À ra mộng
Ðã dẫn em đi vạn dặm đàng.
Em cách xa anh vạn dặm trường,
Làm sao gặp được? nhớ nhung vương.
Em mong anh cũng luôn luôn mộng,
Ðể gặp nhau và đỡ nhớ thương!
Nhưng, khốn chưa! vừa ra khỏi mơ
Bỗng thương không bến, nhớ không bờ.
Tháng ngày cách biệt người yêu dấu,
Buồn nhớ trông anh luống thẫn thờ...
C.M.
(đăng trên “Việt Nam Phụ Nữ”, Huế, 1948)
CUỘC CÁCH MẠNG VÔ VĂN HÓA CỦA MAO II
Cuộc chiến của những đứa trẻ con (phần 5)
Phan Ba dịch từ chuyên san lịch sử “Trung Quốc của Mao Trạch Đông” do GEO Epoche xuất bản
VÀO KHOẢNG 13 GIỜ 30 vào cái ngày 5 tháng 8 đấy, nữ Hồng Vệ Binh của trường nữ trung học trên đường Erlong đã đẩy Bian và bốn người đồng nghiệp của bà ra ngoài giữa cái nóng bức của buổi trưa. Họ lặng lẽ đi củng với các nạn nhân của họ đến sân thể thao, để tiến hành một cuộc diễu hành hạ nhục “băng nhóm đen” này. Mặt của bốn thầy cô bị vẽ đầy bằng mực, chỉ còn nhìn thấy mắt và răng. Họ đội những chiếc nón ô nhục trên đầu.
Khi đoàn người tới sân, lượng người đứng xem hẳn đã lên đến một vài trăm.
Bây giờ, những kẻ làm nhục bắt buộc thầy cô của họ phải hét lên: “Tôi đi trên con đường tư bản!”, “Tôi xứng đáng bị đánh!”, “Cái đầu chó của tôi đáng bị đập vỡ!” Tại mỗi một câu, Bian phải đánh vào một cái hót rác; nếu như bà ấy nói không đủ to, các nữ sinh của bà ấy sẽ đánh bà bằng những cây gậy gắn đầy đinh. Vào lúc đầu chỉ có vài chục Hồng Vệ Binh, thế nhưng trên đường đi ngày càng có nhiều cô gái nhập bọn với họ. Chẳng bao lâu sau đó, các nữ sinh chơi một trò chơi khác. Thầy cô của họ bây giờ khuân những cái thùng rác nặng. Ai quá chậm chạp, hạ thùng xuống hay đứng lại, người đấy sẽ cảm nhận được những cây đinh.
Có lẽ đó là sự nóng nực, cũng có lẽ vì kiệt sức: chẳng bao lâu sau đó, Bian không còn có thể chịu đựng gánh nặng của mình nữa. “Tôi phải làm gì bây giờ?”, bà sợ hãi hỏi một nữ đồng nghiệp.
Các nữ sinh đánh bà, cứ đánh và đánh, như trong cơn say. Khi Bian ngã quỵ xuống, một nữ Hồng Vệ Binh đá bà bằng giày ủng quân đội của mình và hét to: “Mày không thoát khỏi tay chúng tao đâu!” Rồi các cô gái ăn kem.
Trong lúc đó, Bian phải lau chùi nhà vệ sinh. Nhưng trước khi có thể cầm lấy cái bàn chải thì bà đã ngất xỉu và quỵ xuống trên sàn gạch men.
“Mày giả vờ!”, người canh gác bà hét lên. “Mày chỉ giả vờ chết thôi!”
Các nữ Hồng Vệ Binh đổ một xô nước lạnh như băng lên người cô giáo, nhưng họ không còn có thể đánh thức bà ấy dậy được nữa. Cuối cùng, các cô gái quẳng thân thể của Bian lên một chiếc xe chở rác. Mặt thủy tinh của cái đồng hồ đeo tay của bà ấy đã vỡ. Kim chỉ giờ ngừng lại vào lúc 15 giờ 42.
Máu rịn ra từ miệng của Bian, mắt trắng dã. Nhưng bà ấy vẫn còn sống.
Mặc dù bệnh viện gần nhất chỉ cách đấy vài bước chân, mãi đến tối người ta mới mang bà ấy đến. Nhiều giờ sau khi bà ấy đã chết. “Không rõ nguyên nhân”, một bác sĩ ghi chú trên tờ khai tử.
Vào buồi tối, c cùng với một vài nữ sinh đồng học đến gặp một bí thư của Đàng ủy Bắc Kinh và tường thuật lại cho ông ấy vụ việc. “Đã thế rồi”, ông ấy nói và khuyên: “Giữ kín tin này, thế thì tác động sẽ có giới hạn thôi.”
Thế nhưng Mao không hề nghĩ đến việc ngăn chận bạo lực lại. “Hãy tin vào quần chúng”, ông yêu cầu ba ngày sau đó trong một phiên họp toàn thể của Trung ương Đảng. “Trong bất cứ trường hợp nào cũng đừng sợ sự lộn xộn. Một cuộc cách mạng không phải là một buổi tiệc chiêu đãi khách, không phải là viết luận văn, không phải là vẽ tranh hay thêu khăn. Nó không thể được tiến hành một cách có chừng mực, có phép tắc, lịch sự và nhân từ. Một cuộc cách mạng là một cuộc nổi dậy, một hành động bạo lực mà qua đó một giai cấp lật đổ một giai cấp khác.”
Đó chính tờ tuyên bố cho phép toàn quyền hành động.
Trong phiên họp, Mao cũng tiếp tục cuộc chiến trả thù các đối thủ của ông: trong lần bầu cho Bộ Chính trị, Lưu Thiếu Kỳ rơi lại xa ở phía sau trong hệ thống cấp bậc của Đàng. Lâm Bưu tiến lên thành số hai mới. Bành Chân bị chính thức cách chức – và tổng bí thư Đặng ngay sau đấy cũng bị tước quyền lực.
Chậm nhất là sau lần xuất hiện này của Mao, đối thủ của ông ấy câm lặng – hay còn biến đổi trở thành những người ủng hộ cuộc cách mạng mới. Không ai còn an toàn nữa.
(Còn tiếp)
Bài: Walter Saller; Ảnh: Li Zhensheng
Phan Ba dịch
Cuộc chiến của những đứa trẻ con (phần 6)
Phan Ba dịch từ chuyên san lịch sử “Trung Quốc của Mao Trạch Đông” do GEO Epoche xuất bản
Bây giờ, người Chủ tịch bắt đầu giai đoạn kế tiếp của cuộc Cách mạng Văn hóa của mình. Vào ngày 18 tháng 8, Mao, Giang và Lâm xuất hiện trên “Quảng trường Thiên An Môn”. Một triệu học sinh đã tụ về để nhìn thần tượng của họ. Họ vẫy quyển Sách Đỏ nhỏ và họ gọi to “Chủ tịch muôn năm!” Và: “Phương Đông hồng!”
Trong số các Hồng Vệ Binh được phép gặp cá nhân Mao cũng có một người 18 tuổi. Tống Bân Bân.
Chính người dẫn đầu nhóm vệ binh đã hành hạ Biện Trọng Vân cho tới chết đó đã đeo cho Mao một cái băng tay của Hồng Vệ Binh. Và qua đó đã nhận ông ấy làm thành viên danh dự trong đội ngũ của họ.
Báo chí tường thuật, rằng Mao đã yêu cầu cô con gái đó, người mà tên của cô ấy có nghĩa là “dịu dàng và lịch sự”, hãy đổi tên mình thành “muốn chiến tranh”. Chỉ qua đên, Tống Yêu Vũ, như cô ta bây giờ thường được gọi, đã trở thành một người nổi tiếng khắp thế giới. Cả trường trung học của cô ấy cũng được đổi tên – thành “Trường Quân sự Đỏ”.
Ở Bắc Kinh, khủng bố đỏ bùng nổ sau lần xuất hiện của Mao, và đội Vệ Binh lên đường để lan truyền nó đi trong các thành phố của Trung Quốc. Các cuộc biểu tình cũng kéo qua trên các đường phố của những thị trấn nhỏ hơn. Với trống, đuốc và pháo. Giới thanh thiếu niên thực hiện nhiệm vụ của Mao giao, xây dựng một xã hội mới và xóa đi “bốn cái cũ”: lối suy nghĩ cũ, văn hóa cũ, thói quen cũ, phong tục cũ.
Đường phố và các tòa nhà công cộng được đổi tên, biển bị đập tan bằng búa và được thay thế bằng biển mới: như “Đường của bốn sự hài hòa” được Hồng Vệ Binh đổi thành “Đường của bốn cái mới”. Bây giờ Mao cũng xúi giục thanh thiếu niên chống lại các nghệ sỹ, “trí thức” và người khá giả. Và ông ấy ra lệnh cho cảnh sát và quân đội phải tiếp tục để cho đội Vệ Binh hành động.
Người nước ngoài bị rượt đuổi xuyên qua thành phố, ni cô bị trục xuất, nhà ngoại giao bị đánh đập. Ai để tóc dài sẽ bị Hồng Vệ Binh cạo trọc.
Trong cuộc đấu tranh của họ chống những cái được cho là tiêu khiển “tiểu tư sản”, giới thanh thiếu niên quá khích đã thành lập một đất nước không có niềm vui. Họ cấm chơi cờ, trồng hoa và trình diễn múa ba lê, thêm vào đó là sưu tập tem, taxi, quảng cáo bằng đèn neon, ô tô xa xỉ, ảnh của các cô gái, trang sức, nước hoa, áo váy dạ hội – cũng như đi chơi trong vườn bách thú, vì “thú có hại ở đấy ăn những thịt có thể phục vụ cho nhân dân như là thức ăn.”
Họ đẩy những đôi yêu nhau ra khỏi ghế trong công viên, vì những người đấy có một ai đó khác với Mao trong con tim. Và cấm đóng dấu lên trên những tem thư có hình đầu của Mao. Họ xông vào nhà ở, đốt sách, cắt vụn tranh và dẫm nát đĩa nhạc và các loại nhạc cụ. Chỉ riêng ở Bắc Kinh trong tháng 8 và tháng 9 năm 1966 đã có 34.000 căn hộ bị phá tan hoang và 1772 người bị giết chết.
Ở Sơn Đông, các vệ binh đã làm ô uế ngôi đền tại nơi sinh của Khổng Tử, nhà triết học tượng trưng cho nền văn hóa nhiều ngàn năm của Trung Quốc.
Có nhiều thanh thiếu niên được yêu cầu đi trộm cắp để phục vụ cho nước Cộng hòa Nhân dân. Vì vàng, trang sức, tiền bạc bị cướp về sẽ được trưng thu vào công quỹ – cổ vật, sách, thảm, tranh được bán ra nước ngoài. Madame Mao lấy một chiếc đồng hồ bằng vàng 18 carat từ những thứ thu được, vị chủ tịch tự lấy tròn 1000 quyển sách cổ cho thư viện cá nhân của mình. Thường Hồng Vệ Binh nhận được các địa chỉ trực tiếp từ Đảng.
Vào ngày 23 tháng 8 năm 1966, một nhóm xông vào nhà của Hội Nhà văn và bắt giữ hai mươi tác giả – trong đó có Lão Xá, một “nghệ sĩ nhân dân” 69 tuổi. Các Hồng Vệ Binh dùng dây treo những tấm bảng xỉ nhục lên cổ nạn nhân của họ. Rồi họ đánh những người bị làm nhục cho tới một ngôi đền. Ở đấy, họ bị thanh thiếu niên, nhiều người trong số này là thiếu nữ, hành hạ và chửi mắng trước một ngọn lửa.
Những người khác bị đám côn đồ giết chết ngay trong căn hộ của họ, bị hành hạ trong các phòng tra tấn được dựng riêng lên cho việc này trong nhà hát, sân vận động và rạp chiếu bóng. Họ tổ chức những cuộc duyệt binh hạ nhục với họ và hành hạ họ bằng những phương pháp mà họ gọi là “vị trí máy bay”, “xúp ớt”, “băng ghế cọp Nhật”.
Hay họ đẩy họ đến chỗ tự vẫn: trong tháng 9, người ta cho rằng chỉ riêng trong Thượng Hải đã có 704 vụ tự tử vì lý do chính trị. Con cái tố giác cha mẹ và qua đó đẩy họ vào chỗ chết. Và ngay những người con cũng bị bắt buộc phải đến xem hành hình.
Có những tấn bi kịch tàn nhẫn đã xảy ra. Như việc nữ bác sĩ nọ đã dùng dao mổ cắt động mạch máu cổ cha của bà theo lời khẩn nài của ông ấy: để cuối cùng ông ấy cũng có thể được giải thoát khỏi cảnh bị khủng bố và hành hạ. Hia ngày liền, ông ấy đã bị thanh thiếu niên hành hạ trong nhà của ông ấy. Vì ông ấy cho thuê một căn phòng nên đối với họ, ông ấy là một “tư sản”.
Bây giờ, nhiều người Trung Quốc tự tiêu hủy toàn bộ sở hữu của họ. Vì cung cách hành xử của đội Vệ Binh ngày càng hà khắc hơn. Họ tự ý bắt giam “kẻ thù giai cấp”: người bán dạo, xin ăn, cán bộ Đảng, nhân viên nhà nước, phụ nữ nội trợ – hay bất cứ ai họ gặp.
Nguyên do nhỏ nhất cũng đủ là bằng chứng cho “quan điểm phản cách mạng”: vì người ta sở hữu trò chơi mạt chược, sách, bình hoa bằng cẩm thạch hay quần áo cổ truyền; vì người ta không thuộc một lời trích dẫn của vị Đại Chủ tịch, treo một tấm ảnh Mao đã hư hỏng lên hay vô ý dẫm lên một tờ truyền đơn có lời nói của Mao.
Đã từ lâu, sự tôn sùng người Chủ tịch đã có những hình thái lố bịch: chẳng bao lâu sau, mỗi một người Trung Quốc đều phải có một quyển “Mao Chủ tịch ngữ lục”. Tổng cộng có tám tỉ ảnh chân dung, huy hiệu và phù hiệu với hình của ông ấy đã được sản xuất.
Ngay cả trên đồng hồ báo thức hay chén ăn cũng có gương mặt tròn của người Chủ tịch Vĩ đại. Phim tuyên truyền ca ngợi suy nghĩ của Mao như là “quả bom nguyên tử tinh thần”, vâng, còn là phương pháp trị liệu cho bệnh điếc. Mỗi buổi sáng, hàng triệu người Trung Quốc cúi mình ba lần trước bức ảnh của người đứng đầu Đảng và xin chỉ thị của ông ấy cho ngày đấy.
Một vài học sinh thảo luận, liệu bất cứ người Trung Quốc nào cũng phải cần nhận họ của Mao hay không. Những người khác bãi bỏ giao thông bên phải trên một vài đường phố; trong tương lai người ta phải đi ở bên trái, bên của “giai cấp vô sản”. Nhưng những người theo Mao phải từ bỏ ý tưởng đó: có quá nhiều tai nạn.
Giới thanh thiếu niên cách mạng đối xử với quá khứ của Trung Quốc bằng cuốc, xà beng và búa, như đập vỡ đầu một bức tượng Phật trong vườn của khu dinh thự mùa Hè của các hoàng đế ngày xưa. Chỉ riêng ở Bắc Kinh, trong số 6843 di tích lịch sử tồn tại qua được cuộc cách mạng đã có 4922 cái bị phá hủy – từ cổng thành cho tới dinh thự.
Bảo tàng và thư khố cháy rụi. Đền thờ và nhà thờ cũng vậy. Nhà thờ Hồi giáo biến thành chuồng nuôi heo.
Trong tháng 12, trước hàng chục ngàn Hồng Vệ Binh đang la hét, người thị trưởng mới của Bắc Kinh đã thóa mạ hàng trăm cán bộ Đảng như là “cặn bã của Đảng và loài người” – trong số đó có Bành Chân, người tiền nhiệm của ông ấy và Ngô Hàm, tác giả của vở kịch “Hải Thụy bãi quan” (Bành sẽ sống sót qua được cuộc Cách mạng Văn hóa, Ngô ngược lại chết trong tù năm 1969).
Vào ngày 22 tháng 1 năm 1967, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Than, một kẻ thù của Giang Thanh, đã bị một đám đông giận dữ truy đuổi. Với những con dao nhỏ, Hồng Vệ Binh đã cứa nát da của ông ấy, đeo lên cổ của ông ấy một cái lò than nặng, cái kéo ông ấy xuống đất, cuối cùng đánh chết ông ấy.
Bây giờ, cuộc Cách mạng Văn hóa cũng lan đến giới vô sản thành thị. Đặc biệt ở Thượng Hải đã thành hình nhiều nhóm nổi loạn trong nhà máy. Công nhân yêu cầu tăng lương, điều kiện làm việc tốt hơn – và những chuyến đi nghỉ mát được trả tiền, để thu thập kinh nghiệm cách mạng.
Chẳng bao lâu sau đó họ còn cùng với Hồng Vệ Binh chiếm lấy quyền lực trong thành phố lớn này. Trong các thành phố khác, những người nổi loạn đi theo gương mẫu đấy.
(Còn tiếp)
Bài: Walter Saller; Ảnh: Li Zhensheng
Phan Ba dịch
Cuộc chiến của những đứa trẻ con (phần 7)
Phan Ba dịch từ chuyên san lịch sử “Trung Quốc của Mao Trạch Đông” do GEO Epoche xuất bản
MAO HÂN HOAN VUI MỪNG. Ông ấy đã mơ ước về cuộc Cách mạng Văn hóa và cuộc đấu tranh giai cấp như thế. Nhưng rồi bạo lực bùng phát trong các tỉnh. Vì trong sự lộn xộn cách mạng, ai cũng có thể tuyên bố mình là người nổi loạn. Học sinh, công nhân, những người theo các cán bộ cũ, sinh viên từ những gia đình trung thành với chính sách và con cái của các gia đình tiểu tư sản. Và ngay Hồng Vệ Binh cũng chia rẽ. Các phân nhóm nhanh chóng rơi vào những cuộc cãi vả với nhau.
Bây giờ cuộc cách mạng đã thoát khỏi sự kiểm soát của Mao. Vì cả trong các thành phố, những người quá khích thường chống lại các nhóm ôn hòa, là những người bảo vệ các cán bộ được yêu mến hay có nhiều thành công. Cuối tháng 1 năm 1968, Trung Quốc đứng trước một cuộc nội chiến.
Chỉ quân đội là có thể chấm dứt được cảnh lộn xộn. Vì người của Lâm luôn luôn đoàn kết trong hàng ngũ của họ, lúc nào cũng đi theo Mao.
Nhưng nói chung là cuộc cách mạng cần phải đi đến đâu? Có những sĩ quan nào đó bây giờ hoài nghi về chính sách quá khích của Mao. Để ngăn chận sự sụp đổ của nhà nước và nền kinh tế, nhiều người trong giới quân đội nghiên về phía của những người ôn hòa. Và họ nắm lấy quyền chủ động.
Vẫn còn trong tháng 1, giới lãnh đạo quân đội trong tỉnh Hắc Long Giang đã thành lập một “ủy ban cách mạng” bao gồm các chuyên gia có nhiều kinh nghiệm và một vài Hồng Vệ Binh như là chính phủ địa phương.
Chậm nhất là trong mùa Xuân, Mao, người trước đó gần một năm đã gây ra sự lộn xộn này, cũng nhận thấy chính mình bị đe dọa bởi việc này. Ông ấy lo sợ lực hút của một bạo lực vô chính phủ, cái có thể kéo phăng đi tất cả. Cả ông ấy, người Chủ tịch Vĩ đại. Vì thế mà bây giờ ông ấy đồng ý đi đến sự chừng mực.
Vào ngày 10 tháng 3 năm 1967, giới lãnh đạo quân đội với sự đồng ý của ông ấy đã tuyên bố rằng trong tương lai tất cả các tỉnh cần phải được điều hành bởi một ủy ban cách mạng. Đấy là lúc quân đội bắt đầu chiếm lấy quyền lực một cách hầu như không che đậy. Vì các ủy ban cách mạng thường do sĩ quan lãnh đạo, được hỗ trợ bởi những cán bộ Đảng có thâm niên. Phe “cánh tả” hầu như không tham gia.
Trong lúc đấy, những cuộc đấu tranh ác liệt của các phe phái với hàng trăm ngàn người tham gia vẫn tiếp tục diễn ra, như ở Thượng Hải, nơi trên 100.000 người “cánh tả” theo chỉ thị của Mao đã bao vây khoảng 25000 đối thủ đang tụ tập trong khu đất của một nhà máy và dùng cây sắt để đánh đập họ. Có hàng trăm người bị thương nặng và chết.
Mao nhận thấy rằng ông ấy không thể thành lập những nhóm cánh tả ở khắp nơi. Cũng chính vì hiện giờ trong một vài vùng không còn ai có thể nói được rằng nhóm nào trong số những nhóm đang tranh dành quyền lực thuộc “cánh tả” và nhóm nào thuộc “cánh hữu”.
Bây giờ, quân đội tái lập trật tự: họ dần dần chiếm lĩnh các tỉnh nổi loạn.
Trong tháng 10 năm 1967, Mao cảm ơn Hồng Vệ Binh: họ đã đập tan các cấu trúc quan liêu cũ và qua đó đã làm tròn nhiệm vụ của họ. Nhưng bây giờ ông ra lệnh cho họ tiếp tục đi học ở trường học và đại học – và là với cùng những nhà sư phạm đó, những người trước đây đã bị học sinh phê phán và tấn công.
“Thầy cô phần lớn là tốt”, theo như một chỉ thị. Cả “những người đã phạm lỗi cũng được phép tiếp tục làm việc, nếu như họ sửa đổi cách đối xử của họ”.
Nhưng những cuộc đấu đá lẫn nhau trong giới thanh thiếu niên không để cho người ta chấm dứt một cách đơn giản như thế. Nhiều người vẫn tiếp tục chống lẫn nhau, kịch liệt và thường cả với vũ khí.
Trong tháng 5 năm 1968, con trai cả của Đặng, Phác Phương, bị Hồng Vệ Binh bắt và bị bịt mắt dẫn đến trường Đại học Bắc Kinh. Ở đó, anh ấy phải “nhạo báng” người cha của mình trước một tòa án. Thế nhưng người con trai 24 tuổi khước từ, cuối cùng có thể trốn thoát được và rơi từ cửa sổ xuống – bị liệt nửa người, anh ấy nằm lại trên sân trường. Mãi ba năm sau đó anh ấy mới được phép về Giang Tây, nơi cha mẹ của anh ấy bị lưu đày đến đó, và là nơi mà từ đấy trở đi anh ấy được cha chăm sóc cho mình.
Để làm dịu bớt tình hình, chỉ riêng ở các trường trung học và đại học Bắc Kinh, bây giờ Mao dùng 30.000 công nhân và quân lính. Tuy vậy, những cuộc đấu tranh vẫn thường xuyên bùng nổ trở lại.
Vào ngày 28 tháng 7 năm 1968, ông ấy triệu tập những người dẫn đầu có nhiều ảnh hưởng của Hồng Vệ Binh vào Nhân dân Đại Hội đường. Ông ấy gay gắt khiển trách họ: “Tôi gọi các người đến đây là để chấm dứt bạo lực trong các trường đại học. Trong một vài cơ sở đào tạo cao cấp vẫn còn có xung đột bạo lực. Nếu như có một vài người nào đó không để cho người khác khuyên can mình, thì họ là kẻ cướp. Nếu họ cứ tiếp tục ngoan cố chống lại thì phải tiêu diệt họ.”
Lời đe dọa hết sức rõ ràng: ai bây giờ không tuân lệnh sẽ bị trừng phạt nặng nề. Người Chủ tịch Vĩ đại không còn muốn biết gì về đạo quân đi bộ của cuộc Cách mạng Văn hóa của mình nữa.
Vài tháng sau đó, Mao ra lệnh cho giới thanh thiếu niên “trí thức” của Trung Quốc rời nơi ở của họ và đi về nông thôn – để học hỏi người nông dân, người ta nói thế. Nhưng thật ra thì ông ấy muốn dứt bỏ đám tay sai làm loạn của ông ấy. Hồng Vệ Binh phân tán ra trên khắp miền đất nước Trung Quốc.
Trong khi trật tự dần dần trở lại trong Bắc Kinh, ở các tỉnh vẫn còn luôn xảy ra những cuộc chiến ác liệt giữa những người nổi loạn và quân đội cũng như lực lượng dân quân dưới quyền của họ. Ví dụ như trong vùng Quảng Tây ở miền Nam Trung Quốc, nhiều phần lớn của thành phố Nam Ninh đã bị phá hủy bởi xe tăng. Quân đội Giải phóng Nhân dân tàn phá thành phố Ngô Châu bằng pháo binh và napalm, rồi những người chiến thắng hành hình hàng ngàn người nổi loạn.
Chỉ riêng ở Quảng Tây đã có hơn 70.000 người nổi loạn và thường dân chết, cũng như 30.000 người lính và dân quân. Bằng cách này, Hồng Vệ Binh đã bị đập tan trong tất cả các vùng đất của Trung Quốc. Đó là một cuộc nội chiến đẫm máu mà trong đó không phải những người nổi loạn và Hồng Vệ Binh gây ra những cuộc thảm sát tàn nhẫn nhất, mà là quân đội của Lâm Bưu. Mãi đến mùa Xuân 1969, quân đội cũng chiến thắng trong các tỉnh.
Vào ngày 1 tháng 4, một đại hội của ĐCS tuyên bố rằng cuộc Cách mạng Văn hóa đã “giành được một chiến thắng lớn lao”. Tuy vậy, Lâm Bưu vẫn yêu cầu các đại biểu hãy cảnh giác, vì “giai cấp chiến bại sẽ tiếp tục chiến đấu”.
Mao được tuyên bố trở thành chủ tịch suốt đời, Lâm Bưu là người kế thừa ông ấy. Và Giang Thanh là người phụ nữ đầu tiên được cử vào trong Bộ Chính trị.
Sau ba năm bạo lực khủng bố, người Chủ tịch Vĩ đại lại đứng đầu nước Cộng hòa Nhân dân trong mùa Xuân 1969. Trong liên minh với những kẻ quan liêu và sĩ quan cũ.
(Còn tiếp)
Bài: Walter Saller; Ảnh: Li Zhensheng
Phan Ba dịch
Cuộc chiến của những đứa trẻ con (hết)
Phan Ba dịch từ chuyên san lịch sử “Trung Quốc của Mao Trạch Đông” do GEO Epoche xuất bản
Với “Chiến thắng lớn” của Mao, giai đoạn chiến đấu của cuộc Cách mạng Văn hóa đã chấm dứt – thời gian của những vụ hạ nhục ở nơi công cộng và của cuộc nội chiến. Nhưng thời của những cuộc truy lùng, của những lời kết tội và bắt bớ tùy tiện thì không. Ví dụ như Bộ An ninh Công cộng vẫn còn điều tra mười triệu người cho tới giữa những năm 1970, 3,5 triệu người bị bắt giam. Vì người ta cho rằng họ là những người phản cách mạng hay người thiên tả.
Cố gắng của Mao, tiêu diệt những người đồng hành ngày xưa và tạo một xã hội mới, đã khiến cho khoảng ba triệu người chết – thầy cô giáo, học sinh, cán bộ Đảng và Hồng Vệ Binh. Đảng của thời Vạn lý Trường Chinh không sống sót qua được thời hỗn loạn: khi cuộc Cách mạng Văn hóa được tuyên bố chấm dứt vào năm 1976, hàng trăm ngàn cán bộ Đảng đã chết, bị lưu đày hay bị tước quyền lực.
Nền văn hóa cũ của đất nước cũng không còn tồn tại nữa: nhiều tượng hình và đền thờ đã mất đi vĩnh viễn. Cả một thế hệ Trung Quốc lớn lên trong bầu không khí khinh rẻ nghệ thuật, học vấn, kiến thức và lịch sử. Con người mặc áo khoác đồng phục màu xanh nước biển, họ bị cấm mang bất cứ thứ trang sức nào.
Mao chuẩn bị một kết thúc tàn nhẫn cho đối thủ lớn nhất của mình, Lưu Thiếu Kỳ. Người Chủ tịch nước nhiều lần bị hạ nhục công khai. Đích thân ông Chủ tịch đã cho người viết những lời xỉ vả bằng những hàng chữ to lớn lên trên nhà của Lưu; rồi hàng ngàn thanh thiếu niên cắm trại ở nhà của ông ấy, cuối cùng bắt giữ ông ấy và bắt buộc ông ấy phải “tự phê bình”.
Bắt đầu từ năm 1967, ông ấy ốm nặng trong tù biệt lập, bị đói khát và thiếu ngủ hành hạ. “Lưu đánh răng bằng lược và xà phòng, mặc tất lên trên giày và quần lót ra ngoài quần dài”, những người canh gác ông ấy viết cho Mao, người thường xuyên để cho báo cáo về tình trạng sức khỏe của ông ấy.
Tháng 10 măm 1968, khi Lưu không còn có thể tự ăn uống được nữa, Mao để cho Trung ương Đảng khai trừ ông ấy ra khỏi Đảng và tước chức vụ chủ tịch nước. Một năm sau đó, Lưu qua đời trong tình trạng lẫn trí.
Cả Lâm Bưu cũng là nạn nhân của cuộc cách mạng đó, cái mà ông ấy luôn luôn hỗ trợ nó. Năm 1971, ông ấy qua đời trong một vụ rơi máy bay mà cho đến nay vẫn chưa được làm sáng tỏ; lâu nay ông ấy đã có quá nhiều quyền lực đối với người sếp của Đảng.
Ngược lại, một kẻ thù của Mao lại được phục hồi: Đặng Tiểu Bình, người cùng với vợ đã bị lưu đày về tỉnh Giang Tây trong tháng 10 năm 1969 và làm việc trong một nhà máy chế tạo xe máy kéo ở đó. Sau cái chết của Lâm Bưu, ông ấy xin phép được trở về Bắc Kinh.
Trong tháng 3 năm 1973, người Chủ tịch thực sự đã gọi ông ấy trở về và để cho làm phó thủ tướng. Vì Mao cần một chính trị gia có năng lực và vẫn còn được coi trọng trong Đảng.
Giới thanh thiếu niên bị đày đi nông thôn sau cơn say cách mạng trải qua sự thất vọng của một “thế hệ bị đánh mất”. Tổng cộng có tròn 16 triệu người Trung Quốc trẻ tuổi phải sống năm đến mười năm trong những vùng hẻo lánh của đất nước họ. Nhiều người trong số họ không được đào tạo tốt, hầu như không có ai trong số đó học đại học. Phần lớn sau này phải kiếm sống bằng những công việc được trả lương thấp hay hoàn toàn không có việc làm.
Nhiều cựu Hồng Vệ Binh cho tới nay vẫn không nói về những hành động của họ – cũng như Đảng. Tuy ĐCS đã lên án cuộc Cách mạng Văn hóa năm 1981, nhưng họ không muốn làm rõ các tội phạm. Cuối cùng thì cũng có nhiều con cái của các quan chức cao cấp và trung cấp đã tham gia.
Để không phải tìm nguyên nhân và những người phạm tội, nhiều người Trung Quốc cho tới ngày nay vẫn hiểu điều cấm kỵ lớn nhất trong nước Cộng hòa Nhân dân như là một dạng thảm họa thiên nhiên, như một cơn động đất chính trị đã lay động Trung Quốc dữ dội. Nhưng một trận động đất là số phận.
Trong các thập niên tới đây, họ sẽ không sợ gì bằng một lần lập lại của cuộc Cách mạng Văn hóa. Ngay đến những cuộc biểu tình vô hại đối với họ bây giờ cũng giống như những báo hiệu trước của một hỗn loạn về chính trị.
TỐNG BÂN BÂN, một trong các nữ Hồng Vệ Binh ở trường trung học nữ sinh trên đường Erlong ở Bắc Kinh – trường mà cô giáo Biện Trọng Vân đã bị giết chết ở đấy vào ngày 5 tháng 8 năm 1966 –, rời Trung Quốc năm 1980 để đi học đại học ở Phương Tây. Cô ấy là một trong những người phụ nữ đầu tiên được phép đi học ở một trường đại học Mỹ. Sau này, cô làm việc cho một cơ quan Mỹ. Trong một cuốn phim tài liệu, cô ấy giải thích rằng ngay từ lúc đầu, cô ấy đã chống lại bạo lực, đã không tham gia vào các cuộc khám xét nhà ở.
Trong thời gian từ 1978 đến 1989, Wang Jingyao, chồng góa của Biện Trọng Vân, cố gắng lôi những người có tội trong cái chết của vợ ông ấy ra chịu trách nhiệm trước tòa. Nhưng không thành công.
Trong một cái va li, người giáo sư vẫn còn giữ cho tới ngày nay bộ quần áo mà vợ của ông ấy mặc trong ngày cuối cùng: chiếc áo bị trét đầy mực, quần lốm đốm máu. Trong một cái hộp nhỏ, ông ấy giữ cái đồng hồ đeo tay đã vỡ của bà ấy.
Wang muốn bảo quản các vật đó cho tới chừng nào mà người Trung Quốc rồi cũng bắt đầu nói – về cảnh khủng khiếp đã bắt đầu vào ngày 5 tháng 8 năm 1966 đó.
Bài: Walter Saller; Ảnh: Li Zhensheng
Phan Ba dịch
Giới thiệu tài liệu: Roderick MacFarquhar, Michael Schoenhals, “Mao’s Last Revolution”, Belknap Press: cô đọng một cách xuất sắc 40 năm nghiên cứu về chiến dịch cuối cùng của Mao chống lại chính người dân của ông ấy. Li Zhensheng, “Roter Nachrichtensoldat” ["Người lính truyền tin đỏ"], Phaidon: quyển album ảnh cá nhân của một nhiếp ảnh gia.
No comments:
Post a Comment