Thursday, September 6, 2012
ĐIỆN HÒN CHÉN, HUẾ
Đồng bóng với điện Hòn Chén – Phanxipăng
Là một tín ngưỡng dân gian cổ truyền, khi công khai, khi lén lút, đồng bóng, còn gọi đạo Mẫu hoặc Thiên Tiên Thánh giáo, hiện hữu khắp mọi tỉnh thành ở nước ta.
Trong các am, miếu, đền, phủ, vào những ngày mùng 1, 14, rằm, 29 hoặc 30 hằng tháng âm lịch, thêm các lễ vía nữa, con nhang đệ tử tụ tập cúng cầu, hầu giá, số lượng thường chỉ dăm bảy người, nhiều lắm cũng chỉ vài mươi. Một số di tích đặc thù – như phủ Dầy ở Nam Định, phủ Tây Hồ ở Hà Nội, đền Bà Đế ở Hải Phòng, đền Mẫu ở Hưng Yên, đền Sòng ở Thanh Hoá, đền Cờn ở Nghệ An, điện Hòn Chén / điện Huệ Nam ở Huế, tháp Bà ở Nha Trang, núi Bà ở Tây Ninh, miếu Bà Chúa Xứ ở Châu Đốc - thì đều đặn mỗi năm có đôi vài nhật điểm thu hút hàng nghìn ông đồng bà cốt gần xa nô nức đổ về trẩy hội với bao nghi thức hết sức lạ thường.
Ông lên, ông nhảy lom xom
Bạn chứng kiến hiện tượng hầu đồng bao giờ chưa?Năm 1915, một người Pháp là H. Délétie đã
tường thuật trong bài La fête du Ruoc-sac de la Déesse Thiên-Y-A-Na au temple Huê-Nam-diên / Lễ rước sắc của nữ thần Thiên Y A Na ở điện Huệ Nam đăng trên Bulletin des Amis du Vieux Hué (BAVH: Tập san Đô Thành Hiếu Cổ). Cảnh tượng ấy diễn ra hồi đầu thế kỷ XX cũng chẳng khác hôm nay bao nhiêu. Thoạt tiên thì xông trầm, đốt nhang, hiến cúng lễ vật, tuyên đọc sớ điệp, sì sụp bái lạy và “lầm rầm khấn vái nhỏ to”. Dàn bát âm – gọi là cung văn – bắt đầu sửa soạn nhạc cụ: đàn nhị, đàn nguyệt, kèn sona, trống bản, sênh tiền. Sau khúc tiền tấu đầy kích động, đồng cô bóng cậu nhập vào một con nhang đệ tử nào đấy rồi, tức thì cung văn chuyển giọng ừ ứ ư:
Bạn chứng kiến hiện tượng hầu đồng bao giờ chưa?Năm 1915, một người Pháp là H. Délétie đã
tường thuật trong bài La fête du Ruoc-sac de la Déesse Thiên-Y-A-Na au temple Huê-Nam-diên / Lễ rước sắc của nữ thần Thiên Y A Na ở điện Huệ Nam đăng trên Bulletin des Amis du Vieux Hué (BAVH: Tập san Đô Thành Hiếu Cổ). Cảnh tượng ấy diễn ra hồi đầu thế kỷ XX cũng chẳng khác hôm nay bao nhiêu. Thoạt tiên thì xông trầm, đốt nhang, hiến cúng lễ vật, tuyên đọc sớ điệp, sì sụp bái lạy và “lầm rầm khấn vái nhỏ to”. Dàn bát âm – gọi là cung văn – bắt đầu sửa soạn nhạc cụ: đàn nhị, đàn nguyệt, kèn sona, trống bản, sênh tiền. Sau khúc tiền tấu đầy kích động, đồng cô bóng cậu nhập vào một con nhang đệ tử nào đấy rồi, tức thì cung văn chuyển giọng ừ ứ ư:
Khói hương nghi ngút án tiền,
Mời cô Bơ giáng hạ, giã non Tiên, cô về.
Cô Bơ linh hiển ai bì…
Cô
Bơ là cách gọi kiêng cô Ba, hồn thiêng đồng nữ ở cõi “tứ phủ công
đồng”. Có nhiều cô Ba lắm: cô Ba Ngoại Cảnh này, cô Ba Chín Suối này, cô
Ba Thoải / Thuỷ Phủ này, v.v. Đó là 1 trong 12 giá phụ, sau các giá
chính gồm “ngũ vị thánh bà” và “lục vị tôn ông”. Vì thế, ốp đồng còn
được gọi hầu giá hoặc hầu bóng.
Người
lên đồng, dù nam hay nữ, đều phục trang cực kỳ đặc biệt. Áo mớ ba mớ
bảy nhiều màu. Thắt lưng kim tuyến. Quần thắt chẽn ống. Giày vải hoặc
hài nhung. Tóc chít khăn xếp xanh đỏ. Vai khoác lụa là. Tai, tay, cổ và
cả cườm chân đều đeo vàng bạc ngọc ngà lấp lánh. Mặt nhồi phấn. Môi tô
son. Mắt kẻ chì. Có trường hợp phải bôi mặt đen sì, vai quàng dây leo,
eo đóng khố, tay cầm khèn hoặc quấn luôn con… rắn (làm giả bằng rễ cây)
nếu nhập vai ông Bảy hay ông Chín Thượng Ngàn. Lại có lúc họ còn đội lốt
cọp để làm Hạ Ban, tức thần Hổ.
Trong
ánh sáng đèn nến, hương khói trầm nhang và lời ca tiếng nhạc, xác đồng
ngồi trước án thờ, đầu và mặt trùm khăn che kín. Chợt xác đồng rùng
mình, lắc qua lắc lại rồi đột ngột đứng phắt dậy, thét vang một tiếng
cùng lúc giật bỏ chiếc khăn trùm và nhảy cà tưng. Ví như đó là nữ đệ tử
hầu giá cô Ba thì sao? Chân cô nhún. Tay cô múa. Vai cô giật giật. Ngực
cô phập phồng. Cô đánh mắt lúng liếng nhìn quanh và nhoẻn miệng cười,
chao ôi là tình tứ. Lát sau, cô tiến sát án thờ, rút chiếc quạt cầm tay,
vừa nhảy, vừa phe phẩy. Lập tức, cung văn hát bài múa quạt:
Đôi tay phấp phới ánh hồng,
Quạt cô yểu điệu mát lòng tôi con.
Quạt cô, chiếc quạt vàng son,
Miệng cô chúm chím, cô giòn, cô xinh.
Bỗng
cô trao quạt cho các đệ tử chầu rìa. Đoạn, cô rút mái chèo và khoắng ào
ào trong không khí. Cung văn chuyển sang lời ca chèo đò:
Bỏ quạt, cô múa chèo loan,
Thuyền trôi nhè nhẹ, cô khoan thai chèo.
Buông mái chèo, cô cầm nón mà ngắm nghía, rồi uốn éo lượn lờ theo bài hát chầu văn múa nón:
Tay cô cầm nón bài thơ,
Nón nhân, nón ngãi, nón chờ đợi ai?
Cô thơm như thể hoa nhài…
Nói
cho đúng thì các cung văn phải theo bóng đồng mà ứng tác lời ca và điều
chỉnh nhịp phách thích hợp. Điều này hoàn toàn trái ngược với khiêu vũ:
người không nhảy theo nhạc, mà nhạc phải nhót theo người. Thật ra, các
cung văn chuyên nghiệp đã thủ sẵn cả kho tàng văn nghệ dân gian để vừa
tận dụng vốn cũ, vừa cải biên hoặc sáng tác mới, kịp thời bám sát các vũ
điệu khá quen thuộc của quý ông bà cô cậu: múa quạt, múa nón, múa bài
bông, múa độc kiếm, múa song kiếm, múa thiết bản, múa chuỳ, phi ngựa,
bắn cung, v.v.
Một
vũ điệu khá phổ biến trong hầu giá là múa mồi: dùng tay kẹp ống giấy
tròn nhỏ đã tẩm sẵn paraffin / paraffine / thạch chá, đốt cháy phừng
phừng, mà uốn éo. Trò múa lửa này trông khá ngoạn mục, nhất là về đêm,
tuy nhiên chính nó là nguyên nhân gây ra không ít vụ hoả hoạn làm thiêu
rụi miếu đền nhà cửa!
Con
nhang đệ tử phần đông là dân thợ thuyền và giới tiểu thương, chưa học
qua vũ đạo cùng quyền cước lẫn binh khí gì cả, do đó mỗi người lên đồng
thì nhảy một kiểu, miễn sao hao hao các vũ điệu những kẻ khác nhập đồng.
Sau các màn múa, tuỳ từng giá đồng, người hầu bóng sẽ cất tiếng dạy bảo
đủ điều cho các “thằng nam con nữ” tham dự buổi lễ. Nếu ông Chín Thượng
Ngàn thì hú hét quát tháo ầm ĩ. Còn cậu Hoàng Mười lại răn đe từ tốn,
nhẹ nhàng. Lắm phen hứng khởi, vai đồng lấy các vật phẩm cúng trên án
thờ như hoa quả, bánh kẹo, xôi chè, kể cả tiền thật để ban lộc cho quan
khách. Thậm chí có tay mới xoá nạn mù chữ nhưng nhập đồng rồi là cầm bút
son vẽ ngoằn ngoèo và viết cả Hán tự (sai bét!) lẫn Pháp ngữ (trật
lất!) mí lị Anh văn (hỏng toét!) lên giấy, bảo đấy là bùa, phát cho
thiên hạ đem về dán trước cửa hoặc trong nhà nhằm trừ ma yểm quỷ!
Tôi
sở dĩ biết khá tỉ mỉ những chuyện trên nhờ ấu thời từng nhiều phen cùng
lũ bạn nhóc tì lân la am này phổ nọ xem thiên hạ ốp đồng. Chẳng những
được thưởng thức hát múa miễn phí mà thỉnh thoảng còn được chén ê hề lộc
thánh. Dù nghe con nhang đệ tử đồn thổi bao chuyện thần tiên linh hiển,
nếu ai đó thiếu nghiêm cẩn trong ngôn ngữ hoặc hành vi thì sẽ bị các
đấng vô hình trừng phạt, cả bọn “nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò” nào
có ngán gì. Thoạt đầu là trêu ghẹo cung văn bằng cách kiếm me hoặc khế
chua chấm muối ớt, nhai nhóp nhép chọc thèm, khiến tay thổi kèn nhểu
nước bọt, không hoạt động nổi, còn gã chầu văn thì ngắc ngứ cà lăm! Tiếp
theo là tương kế tựu kế để các thứ vàng mã, hình nộm cúng trong buổi lễ
bùng cháy bất ngờ, làm Xích Lân tiên nữ hốt hoảng quăng cả kiếm cung mà
kêu la í oé! Một thằng nhãi tinh mắt phát hiện ra rằng thánh thần sao
cũng bất công, hễ ngài ban lộc thì con cháu xác đồng hưởng lắm quà cáp
ngon lành, trong khi người dưng chỉ nhận lèo tèo quả ổi xanh hoặc chùm
dâu chua lét. Thế là hắn bí mật dùng dây câu nguyên con gà luộc béo múp
ngay giữa án thờ, đem đãi cả bọn chúng tôi một chầu thoả thích. Lại có
vị người lớn bày cho mấy bài ca dao châm chích. Lũ trẻ khoái chí tập hát
theo làn điệu chầu văn rồi chĩa loa đồng ca oang oang buộc cậu Bốn cô
Ba chưa kịp giáng đã phải thăng. Hát rằng:
Ông lên, ông nhảy lom xom,
Bà lên, bà nhảy trúc om nước chè.
Ông lên, ông… đái xè xè,
Bà lên, bà tưởng nước chè, bà xơi.
Thiên Tiên Thánh giáo
Những trò nghịch ngợm tuổi thơ rồi cũng qua. Vì nhiều lý do, tôi nay lại muốn tìm hiểu hiện tượng đồng bóng với thái độ và góc độ khác. Một số câu hỏi được đặt ra: Tín ngưỡng này đã phát sinh và phát triển như thế nào? Sự nhập đồng có thật không và mang ý nghĩa gì? Trong đời sống xã hội hiện đại, việc hành lễ của con nhang đệ tử là tích cực hay tiêu cực?Chưa xác định rõ thời điểm hình thành các nghi thức cúng quảy nhảy vọt. Trong tác phẩm Thượng kinh ký sự, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720 – 1791) từng thuật lại một buổi lên đồng mà ông tình cờ quan sát tại xã Kim Khê (hiện thuộc TP. Vinh, Nghệ An) trên đường ra Thăng Long vào năm Tân Sửu 1781. Trước đó, năm Quý Sửu 1553, Dương Văn An soạn Ô châu cận lục đã ghi nhận sinh hoạt hiến tế có chầu văn tại đoạn sông Kim Trà, tức sông Hương ở Huế ngày nay. Có ý kiến cho rằng việc đồng bóng xuất xứ từ đền Sòng ở Thanh Hoá, nơi thờ thánh mẫu Vân Hương – tên gọi khác của công chúa Liễu Hạnh, một nhân vật huyền thoại trong truyện cổ dân gian Việt Nam. Thực tế thì bà chúa Liễu được dân ta phụng thờ nhiều nơi, như phủ Dầy / Dày / Giầy / Giày ở xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định và phủ Tây Hồ ở phường Quảng An, quận Tây Hồ, TP. Hà Nội.
Những trò nghịch ngợm tuổi thơ rồi cũng qua. Vì nhiều lý do, tôi nay lại muốn tìm hiểu hiện tượng đồng bóng với thái độ và góc độ khác. Một số câu hỏi được đặt ra: Tín ngưỡng này đã phát sinh và phát triển như thế nào? Sự nhập đồng có thật không và mang ý nghĩa gì? Trong đời sống xã hội hiện đại, việc hành lễ của con nhang đệ tử là tích cực hay tiêu cực?Chưa xác định rõ thời điểm hình thành các nghi thức cúng quảy nhảy vọt. Trong tác phẩm Thượng kinh ký sự, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720 – 1791) từng thuật lại một buổi lên đồng mà ông tình cờ quan sát tại xã Kim Khê (hiện thuộc TP. Vinh, Nghệ An) trên đường ra Thăng Long vào năm Tân Sửu 1781. Trước đó, năm Quý Sửu 1553, Dương Văn An soạn Ô châu cận lục đã ghi nhận sinh hoạt hiến tế có chầu văn tại đoạn sông Kim Trà, tức sông Hương ở Huế ngày nay. Có ý kiến cho rằng việc đồng bóng xuất xứ từ đền Sòng ở Thanh Hoá, nơi thờ thánh mẫu Vân Hương – tên gọi khác của công chúa Liễu Hạnh, một nhân vật huyền thoại trong truyện cổ dân gian Việt Nam. Thực tế thì bà chúa Liễu được dân ta phụng thờ nhiều nơi, như phủ Dầy / Dày / Giầy / Giày ở xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định và phủ Tây Hồ ở phường Quảng An, quận Tây Hồ, TP. Hà Nội.
Tiếp
xúc với ông đồng bà cốt tại nhiều tỉnh thành, tôi biết họ rất sùng kính
mẫu và chư vị. Theo quan niệm dân gian, mẫu / Mẫu là 1 trong 4 vị thánh
bất tử, gồm Tản Viên sơn thần, Phù Đổng thiên vương, Chử Đồng Tử, và
công chúa Liễu Hạnh.
Tương
truyền Mẫu vốn là công chúa Quỳnh Nương, nữ thần hàng đầu trên thiên
cung, vì lỡ tay làm vỡ chén ngọc nên bị Ngọc Hoàng thượng đế đầy giáng
trần. Cũng theo lời kể, Mẫu từng hiển hiện ở nhiều địa phương và thi
triển nhiều phép lạ, do đó được triều đình nhà Lê tôn vinh “Thượng đẳng
phúc thần” và sắc phong “Mã Cái công chúa” (Mã Cái nghĩa là mẹ) rồi được
thăng “Chế Thắng Hoà Diệu đại vương”. Riêng sử sách nhà Nguyễn còn ghi
rõ: năm Thiệu Trị thứ VI, tức Ất Tị 1845, nhà vua đã ban cho Mẫu chức
“Thần hoàng nhất phẩm”.
Mẫu
đây cũng còn là Thiên Y A Na, nữ thần vĩ đại của dân tộc Champa với tên
gọi Po Nagar hoặc Muk Juk, bấy nay được thờ tại Tháp Bà ở Nha Trang. Sự
tích Thiên Y tiên nữ đã được nhiều thư tịch ghi chép, chẳng hạn Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn.
Trong
quá trình Nam tiến, người Việt kế tục việc thờ cúng của cư dân Chăm bản
địa và tôn làm “thượng đẳng thần”. Năm Nhâm Tuất 1802, ngay sau khi lên
ngôi, vua Gia Long tấn phong cho Mẫu danh hiệu “Thiên Y A Na Diễn Ngọc
Phi”. Dân gian quen gọi bà chúa Ngọc, bà chúa Xứ, ngắn gọn là Mẫu, và
lập phủ, điện, am, miếu để cung thỉnh phụng thờ.
Điều
buồn cười là phần đông ông đồng bà cốt và con nhang đệ tử chẳng mấy ai
rành rẽ sự tích Mẫu, dẫu họ tự nhận là tín đồ thuần thành của Thiên Tiên
Thánh giáo. Khác nhiều người nghĩ, với tên gọi này, Thiên chẳng phải
trời, Tiên chẳng phải nhân vật yên vui và có nhiều phép mầu. Chuyên luận
Tín ngưỡng dân gian Huế của Trần Đại Vinh (NXB Thuận Hoá, Huế,
1995) ghi nhận: “Cách đặt tên Thiên Tiên Thánh giáo được giải thích là:
Thiên là huyện Thiên Bản, Tiên là làng Tiên Hương, tức thôn Vân Cát,
làng An Thái, là nơi giáng trần lần thứ hai của Liễu Hạnh công chúa. Hai
chữ Thánh giáo thể hiện một nguyện vọng của Tổng hội xin thừa nhận tín
ngưỡng này như một tôn giáo thiêng liêng.”
Mấy địa danh mà sách vừa nêu đều thuộc tỉnh Nam Định. Theo Địa chí Nam Định
của nhiều soạn giả (NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2003) thì huyện
Thiên Bản đã đổi thành huyện Vụ Bản từ cuối thời Nguyễn. Ở huyện này, 2
làng Tiên Hương và Vân Cát nay là 2 thôn tại xã Kim Thái, nơi quần thể
phủ Dầy toạ lạc, trong đó có lăng mộ Liễu Hạnh, đã được Bộ Văn hoá và
Thông tin công nhận di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia ngày
21-2-1975. Sách Phủ Dầy và tín ngưỡng Mẫu Liễu Hạnh của Bùi Văn Tám (NXB Văn Hoá Dân Tộc, Hà Nội, 2001) còn cho hay rằng xã An Thái cũ là thôn Tiên Hương bây giờ,
Thực
chất, Thiên Tiên Thánh giáo chẳng được tổ chức quy củ như đạo Phật, đạo
Hồi, đạo Kitô. Thiên Tiên Thánh giáo lại chẳng có kinh điển cùng luật
lệ chính thức. Sinh hoạt của tín đồ Thiên Tiên Thánh giáo mang tính tự
phát, tự túc, tự nguyện. Dăm bảy hoặc vài chục người họp thành phổ, cứ
đến ngày 14, rằm, 30, mùng 1 âm lịch mỗi tháng thì tới một am miễu nhất
định để dâng lễ, cúng cầu, hầu giá. Xong, ai về nhà nấy, tiếp tục làm
lụng sinh nhai như tất cả chúng ta. Khác chăng là họ cữ kiêng vài loại
thực phẩm vì “ăn sợ mắc tội”: thịt chó, thịt trâu, bồ câu, cá chép / cá
gáy.
Có
lúc, có nơi, do áp lực của dư luận xã hội hoặc chủ trương của chính
quyền sở tại, đệ tử của Mẫu phải lên đồng âm thầm lén lút. Chẳng hạn
thời gian Nhà nước phát động phong trào “bài trừ mê tín dị đoan” khá rầm
rộ tại Huế, mà đỉnh cao là việc triệt phá am miếu diễn ra vào năm 1985,
đố đồng cô bóng cậu nào dám cóc cheng nhảy nhót công khai. Từ năm 1986
đến nay, nhờ công cuộc bảo tồn và phát huy di sản văn hoá dân tộc, cùng
với nhiều lễ nghi truyền thống được phục hồi như xuân tế lẫn thu tế đình
làng, cầu ngư, cúng tổ ngành nghề, v.v., thì tín đồ Thiên Tiên Thánh
giáo lại sửa am, lập miếu, thoải mái chầu văn, ốp đồng.
Thiên
Tiên Thánh giáo thường được xã hội gọi “đạo nhảy vọt”, còn giới nghiên
cứu lại gọi “tín ngưỡng tứ phủ” vì hàng tín đồ quan niệm rằng tiên,
thánh, thần ở 4 cõi: thượng tiên, trung thiên, thượng ngàn, thuỷ phủ.
Cũng theo họ, cả 4 cõi kia liên kết nhau chi phối cõi người. Và cõi nào
cũng được cơ cấu tương tự một triều đình quân chủ chuyên chế có quyền
lực vạn năng, gồm: đế vương, thánh mẫu, chư tiên, hoàng tử, công chúa,
khâm sai, giám sát, thập nhị triều quận, thập nhị triều cô, ngũ hổ đại
tướng, âm binh bộ hạ, v.v. Tất nhiên, bà chúa Liễu và bà chúa Ngọc ngự
trị cõi thượng thiên chót vót. Ngoài ra, Thiên Tiên Thánh giáo còn thờ
Phật A Di Đà, Bồ Tát Quán Thế Âm, thờ cả Quan Công cùng Sơn Tinh, Thuỷ
Tinh lẫn Đức Thánh Trần tức Hưng Đạo đại vương!
Khi
hầu giá, xác đồng nhập vai một vị nào đấy cả nam lẫn nữ thuộc “tứ phủ
công đồng”. Đàn bà con gái thì Mộc Tinh thánh nữ, Ngũ Hành tiên nương,
Đào Huê công chúa, cô Năm Ngoại Càn, v.v. Đàn ông con trai thì Linh Hầu
thái tử, Sơn Tiêu Độc Cước, quan Lớn Tuần Tranh, Bô Bô động chủ, v.v.
Nhạc sĩ Phạm Duy nhận xét khá chí lý trong Đặc khảo về dân nhạc Việt Nam
(NXB Hiện Đại, Sài Gòn, 1972): “Lên đồng là một hiện tượng hoá thân,
người phụ nữ Việt mượn đồng bóng để thể hiện những nguyện vọng thầm kín
của mình. Ai cũng biết trong dĩ vãng, người đàn bà Việt Nam chịu thua
thiệt đủ điều. Lên đồng giúp họ một ảo tưởng ăn chơi như ông hoàng bà
chúa. Khi bóng cô bóng cậu nhập vào người lên đồng thì cuộc sống thần
tiên bắt đầu.”
Quả
là hàng tín đồ Thiên Tiên Thánh giáo đều có đủ nam nữ, song rõ ràng
phái yếu chiếm số lượng đông hơn hẳn. Cũng cần thêm rằng tuy có nhiều
điểm khác biệt về nghi thức, hiện tượng ốp đồng không chỉ tồn tại ở Việt
Nam mà còn diễn ra tại nhiều nơi khác trên hoàn cầu.
Tôi
tò mò muốn ốp đồng thử một phen cho biết. Nhờ quen với tay chủ am nọ
nơi xã Thuỷ Biều, ngoại thành Huế, tôi được trùm khăn ngồi trước án thờ
nghi ngút khói nhang trong lúc cung văn chơi “liên khúc” từ Xuân phong,
Long hổ, Lưu thủy, Hành vân, sang Cổ bản, Đăng đàn cung, Phú lục, rồi
Tẩu mã. Lạ thay! Thiên hạ chỉ ngồi tí tì ti liền “nhập” ì xèo, còn cái
thằng tôi cứ “trơ như đá, vững như đồng”, nóng bức và ngột ngạt tưởng
chịu hết xiết! Tay chủ am giải thích:
- Chậc… Mạng anh không có “chân lính”. Chịu thôi!
Tôi
cũng lấy làm lạ vì rất hiếm thấy ông đồng bà cốt “giáng lâm” vỗ ngực
xưng danh nhị vị thánh mẫu tối cao là Liễu Hạnh và Thiên Y A Na. Họ sợ
hãi hay khiêm cung nhỉ?
Được
biết trong quá khứ, dù mang quốc tịch Chiêm Thành hay Đại Nam, Mẫu đều
đã thị hiện trên núi Ngọc Trản thuộc làng Hải Cát ven bờ sông Hương,
cách trung tâm thành phố Huế khoảng 10km về phía thượng lưu. Tại đó có
điện Hòn Chén thờ Mẫu cùng chư vị, xuân thu nhị kỳ thường niên đều long
trọng tổ chức đại lễ hội.
Núi Ngọc huyền bí
Lênh đênh theo thuyền rồng ngược dòng Hương, tôi đã đến núi Ngọc. Cũng có thể tới đây bằng đường bộ băng qua Kim Long, Hương Hồ, Ngọc Hồ.Núi nguyên tên Ngọc Trản, gọi nôm na là Hòn Chén. Dân gian kể rằng do biến âm từ Hoàn Chén, bởi vua Minh Mạng từng đến đây và lỡ tay đánh rơi chén bằng đá quý xuống sông Hương, tưởng chẳng cách gì lấy lại được, bỗng một con rùa to lớn nổi lên, miệng ngậm chén ngọc trả lại nhà vua.
Núi Ngọc huyền bí
Lênh đênh theo thuyền rồng ngược dòng Hương, tôi đã đến núi Ngọc. Cũng có thể tới đây bằng đường bộ băng qua Kim Long, Hương Hồ, Ngọc Hồ.Núi nguyên tên Ngọc Trản, gọi nôm na là Hòn Chén. Dân gian kể rằng do biến âm từ Hoàn Chén, bởi vua Minh Mạng từng đến đây và lỡ tay đánh rơi chén bằng đá quý xuống sông Hương, tưởng chẳng cách gì lấy lại được, bỗng một con rùa to lớn nổi lên, miệng ngậm chén ngọc trả lại nhà vua.
Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn còn ghi nhận một tên khác là núi Hương Uyển và viết: “Mạch núi do các núi ở phía tây bắc trùng trùng điệp điệp, như rồng đi hổ phục, chạy dài chênh chếch về phía nam, đến phía tây sông Hương thì dừng lại, nổi vọt lên một ngọn vừa tròn vừa đẹp như hình cái chén nên gọi tên ấy. Sườn núi có đền thiêng. Chân núi kề vực sông, nước rất trong ngọt, người ta phải gọi là nước Ngọc Trản và thường lấy dâng ngự dụng.”
Trong sách Nguyễn triều cố sự
(Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1956), Bửu Kế lưu ý thuyết cho rằng tên
Ngọc Trản chỉ là một lối dùng mỹ từ mà thôi, vì bên kia có địa danh Ngọc
Hồ / bầu ngọc thì bên này có Ngọc Trản / chén ngọc để được cân đối.
Tương
truyền bà chúa Ngọc lẫn bà chúa Liễu từng giáng hạ nơi đây nên dân làng
Hải Cát dựng đền thờ phụng và tôn sùng mẫu như đấng khai canh. Có lẽ
tiền thân của đền là điểm thờ nữ thần Po Nagar của cư dân Chăm bản địa
rồi được người Kinh kế tục cúng bái. Dần dần, các chúa Nguyễn phong tặng
sắc thần và chính thức hoá việc thờ cúng. Đến năm Nhâm Thìn 1832, niên
hiệu Minh Mạng thứ XIII, nhà vua đã cho trùng tu, mở rộng ngôi đền. Đó
là đền Hàm Long hoặc đền Ngọc Trản. Một năm sau khi lên ngôi, Bính Tuất
1886, vua Đồng Khánh đổi tên thành điện Huệ Nam.
Dân
chài quanh vùng nói rằng khúc sông ngay trước điện Hòn Chén sâu nhất
dòng Hương, thợ lặn khoẻ mấy cũng không tài nào mò tới đáy. Nhiều kẻ tin
rằng thánh mẫu Thoải (tức bà Thuỷ, tương truyền là con của Long Vương ở
hồ Động Đình, có đền thờ chính ở Tuyên Quang) chuyên trị vì nước ấy. Đại Nam nhất thống chí
chép rằng tại đây “có con rùa lớn bằng tấm chiếu, mỗi khi nổi lên tất
có sóng dữ, người ta trông thấy gọi là sứ giả của Hà Bá”. Nghe đồn con
rùa quý hiếm kia hiện vẫn còn và được các đệ tử của mẫu kính cẩn gọi “cố
trạnh”.
Thuở
sinh thời, ba tôi có kể một giai thoại về khúc sông này. Rằng xưa,
thuyền đò ngang qua đấy thì ai nấy đều phải im lặng thắp nhang tỏ lòng
thành kính. Chỉ cần một người nẩy suy nghĩ xúc phạm mẫu là thuyền đắm
ngay tức khắc, do đó nạn nhân chết đuối tại chỗ ngày càng như rạ. Biết
chuyện, vua Tự Đức ngự giá lên điện Hòn Chén, đeo vào tay mẫu chuỗi hạt
bồ đề, rồi lệnh: “Thôi hí! Tu đi!”. Từ đó, tai nạn không còn.
Điều
kỳ lạ là thái độ hết mực tôn sùng Mẫu của vua Đồng Khánh mà sử sách vẫn
thường nhắc. Theo nguyên tắc xưa, khi đã lên ngôi thiên tử, vị vua nào
cũng đứng trên mọi bậc thánh thần. Riêng vua Đồng Khánh tự nhận đồ đệ
của Mẫu, lễ phép thưa Mẫu bằng “chị”, và đưa cả lễ hội thường niên điện
Hòn Chén vào hàng quốc lễ. Vì sao?
Cảnh
Tông Thuần hoàng đế, tức vua Đồng Khánh, vn xuất thân là công tử Ưng
Thị, con trưởng của Kiên Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và Thái vương
phi Bùi Thị Thanh. Năm Ất Sửu 1865, mới 2 tuổi, ngài đã được vua Tự Đức
chọn làm dưỡng tử. Đến giai đoạn trưởng thành, gặp thời kỳ lịch sử éo
le, ngài chờ đợi mãi vẫn chưa được nối ngôi, bèn nhờ mẹ ruột lên điện
Hòn Chén cầu đảo. Trong một buổi hầu đồng, Mẫu phán: năm Ất Dậu 1885,
ngài sẽ toại nguyện, song chỉ ngất ngưởng cửu trùng hơn 3 năm thôi, đến
cuối năm Mậu Tý 1889 thì ngài thăng hà! Nếu thực tế Mẫu đã tiên tri như
thế, rõ xứng danh Hoằng Huệ Phổ Tế Linh Ứng Diệu Thông Mặc Tưởng
Trang Huy Ngọc Trản Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi Dực Bảo Trung Hưng Thượng
Đẳng Thần đúng y thần hiệu mà vua Đồng Khánh ngay sau khi tức vị đã
tôn phong Mẫu. Vua còn sắc phê: “Phong cảnh Ngọc Trản thực là chốn tiên
nữ linh sơn sáng đẹp muôn đời, trông rõ hình thể như con sư tử uống
nước sông, quả là nơi chân cảnh thần tiên. Đền Ngọc Trản nhờ đắc linh
khí, các phúc thần đầy quyền uy ngự trị cứu người độ đời, giúp dân giữ
nước. Vậy trẫm cho đổi đền ấy làm điện Huệ Nam (nghĩa là ban ân huệ cho
nước Nam và vua Nam) để biểu hiện ơn nước trong muôn một”. (Đại Nam thực lục chính biên – Đệ lục kỷ). Theo Nguyễn triều cố sự
(sđd) thì chính vua Đồng Khánh thân hành trông nom việc tái thiết điện
Huệ Nam khang trang đồng thời với việc xây Tư lăng gần núi Thiên Thai ở
phía bên kia sông Hương. Bởi tin tưởng tuyệt đối vào lời tiên đoán của
mẫu nên nhà vua phải sớm lo liệu nơi an nghỉ cuối cùng cho bản thân. Năm
Đinh Hợi 1888, mẹ ruột cùng em trai Ưng Đậu và em gái Như Cư của vua
Đồng Khánh còn đúc đại hồng chung dâng cúng Mẫu ở điện Huệ Nam nữa.
Vua
và cả hoàng thân quốc thích đã vậy thì hàng ngũ quan lại triều thần
cùng đông đảo nhân dân cả nước càng sùng tín Mẫu; càng tin rằng núi Ngọc
chính là thánh địa để cúng cầu, hầu lễ, hành hương.
Mặc dù Tổng hội Thiên Tiên Thánh giáo chính thức thành lập vào năm 1965, trụ sở đặt tại 252 đường Chi Lăng, TP. Huế, song có thể khẳng định tín ngưỡng này hưng thịnh nhất lại là cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Nhiều vị bô lão bảo:
Mặc dù Tổng hội Thiên Tiên Thánh giáo chính thức thành lập vào năm 1965, trụ sở đặt tại 252 đường Chi Lăng, TP. Huế, song có thể khẳng định tín ngưỡng này hưng thịnh nhất lại là cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Nhiều vị bô lão bảo:
-
Hồi đó, mỗi lần trẩy hội điện Hòn Chén, khách thập phương dồn về kín kịt
cả khúc sông Hương suốt một tuần liền, tưng bừng náo nhiệt khôn tả.
Tưởng
cũng nên biết thêm: giai đoạn ấy, nước ta chịu ách đô hộ của thực dân
Pháp, thiên tai và dịch bệnh xảy ra liên tục, dân chúng nghèo khốn và
lạc hậu luôn rơi vào trạng thái bất an nên hằng trông chờ sự phù trợ từ
cõi vô hình. Còn theo BAVH, “những người Tây cứng đầu” dám táo tợn gọi
điện Hòn Chén là “la Pagode de la Sorcière / ngôi chùa của mụ phù thuỷ”,
cớ sao họ vẫn béo tốt phây phây?
Ngồi
trước mũi thuyền rồng giữa dòng Hương, hoặc leo lên đồi Vọng Cảnh bên
hữu ngạn, tôi cũng như nhiều du khách thảy đều thừa nhận rằng phong cảnh
quanh núi Ngọc hữu tình và hùng vĩ làm sao. Đúng như mấy vần thơ chữ
Hán của Nguyễn Đức Quân treo trong nội điện đã mô tả:
Đệ lâm bích thuỷ, long lai viễn,
Nhất vọng thanh sơn, hổ cứ hùng.
Phan Thuận An, trong sách Kiến trúc cố đô Huế (NXB Thuận Hoá, Huế, 1995), dịch:
Bên dòng nước biếc như rồng lượn,
Ở chốn non xanh tựa cọp ngồi.
Toàn
bộ các công trình kiến trúc xinh xắn của điện Hòn Chén đều toạ lạc lưng
chừng sườn đông nam núi Ngọc. Trung tâm là Minh Kính Đài có diện tích
mặt bằng 255m², được chia làm 3 cung. Cao nhất là Minh Kính cao đài đệ
nhất cung, còn gọi Thượng cung hay Thượng điện, dùng để thờ thánh mẫu
Thiên Y A Na, thánh mẫu Vân Hương và… vua Đồng Khánh cùng một số thánh
thần thượng đẳng khác. Kế tiếp là Minh Kính trung đài đệ nhị cung, còn
gọi Cung Hội đồng, thờ Phật và hàng chục thần thánh, dùng làm nơi thiết
trí loạt tự khí dùng để rước sắc. Sau rốt là Minh Kính tiểu đài đệ tam
cung, còn gọi Tiền điện, là chỗ đặt trống chuông, là nơi cử hành tế lễ.
Nội thất Minh Kính Đài thuộc diện “tuyệt đối trang nghiêm, bất khả xâm
phạm”, nên không phải ai ai cũng được vãng lai dịp đại lễ hội, kể cả
đông đảo tín đồ Thiên Tiên Thánh giáo.
Nhờ
sự giúp đỡ sốt sắng của các nhân viên bảo vệ thuộc Trung tâm Bảo tồn di
tích cố đô Huế – cơ quan hiện đang giữ nhiệm vụ quản lý và duy tu điện
Hòn Chén – nên ngay kỳ thu tế, tôi được lọt vào Minh Kính Đài để “xem
tận mắt, sờ tận tay” nhiều đồ tự khí được chế tác tự xửa xưa: hàng loạt
bài vị và tượng thần thánh cùng cờ quạt, tàn lọng, phụng liễn, long
đình. Trên Thượng điện có cái mão chạm trổ cửu long bằng vàng ngọc rất
cầu kỳ, đang được thờ trong hộp kính. Một nhân viên bảo vệ giới thiệu
với tôi rằng đó là mão của vua Đồng Khánh lưu lại. Nhìn quanh, tôi còn
thấy nhiều di vật của vị vua nổi tiếng “thích chuyện huyền bí và hết sức
tôn sùng Đức Thiên Y A Na tại điện Hòn Chén” (theo Nguyễn Phúc tộc thế phả
– NXB Thuận Hoá, Huế, 1995, trang 377). Đó là những bức hoành, câu đối,
thơ phú do vua ngự bút tôn vinh Mẫu; và một số tranh ảnh do ngài thành
tâm cúng dường. Tôi hết sức lạ mắt trước những đao kiếm sơn son thếp
vàng cùng các đồ thờ dành cho lễ rước sắc: nào kiệu, nào ngai, nào võng
song loan. Hầu hết cổ vật ở đây được trưng bày rất bề bộn nhưng lại gây
hiếu kỳ cho bất kỳ ai có dịp mục kích.
Bên
phải Minh Kính Đài là nhà Quan Cư, viện Trinh Cát, chùa Thánh. Bên trái
là dinh Ngũ Hành tiên nương, bàn thờ Các Quan, động thờ ông Hạ Ban tức
Thần Hổ. Lại có miếu thờ Quan Thánh Đế Quân và miếu thờ vị tiền nhân họ
Lê khai canh làng Hải Cát. Rải rác còn có một số am và bệ thờ nhỏ, như
am cô Ngọc Lan, am Trung Thiên. Dưới chân núi, sát bờ sông, có miếu Thuỷ
Phủ thờ Thuỷ Long tôn thần.
Du
khách ghé Huế, thăm viếng Kinh thành, cung điện, chùa chiền, lăng tẩm,
v.v., thảy đều bắt gặp con rồng xuất hiện với tần số cao trong các hoạ
tiết trang trí nội ngoại thất. Ghé điện Hòn Chén sẽ thấy khác. Ở đây,
chim phượng hoàng lại chiếm ưu thế. Bờ nóc, bờ quyết Minh Kính Đài cùng
các viện, dinh, am, miếu, và nhiều hiện vật tại khu di tích này đều được
đắp, khắc, hoặc vẽ phượng hoàng vì loài chim này tượng trưng cho phái
nữ. Phải thôi, nơi thờ Mẫu mà lị! Nếu leo lên đỉnh núi Ngọc, khách sẽ
thấy một ngọn núi uy nghi vươn lên cách đó không xa. Được xem là chủ sơn
của đất Phú Xuân, ngọn núi cao 427m ấy cũng mang tên loài chim phượng
hoàng: núi Kim Phụng.
Điện
Hòn Chén là 1 trong 16 công trình kiến trúc triều Nguyễn ở Huế được
UNESCO công nhận di sản văn hoá thế giới vào ngày 11-12-1993. Điện Hòn
Chén cũng được Bộ Văn hoá và Thông tin công nhận là di tích cấp quốc gia
theo quyết định số 2009/1998 QĐ/BVHTT ban hành ngày 26-9-1998.
Khi ông đồng bà cốt hành hương
Tháng bảy vía cha, tháng ba vía mẹ. Con nhang đệ tử mọi miền đều nhắc nhau thế để nhớ 2 kỳ đại lễ hành hương về điện Hòn Chén hằng năm. Có thể suốt 4 mùa, do bận mưu sinh, họ không tới phổ hầu giá được, nhưng nhất thiết 2 vía trọng này thì chẳng bỏ qua.Thật ra, theo bản 51 lễ vía thường niên do Tổng hội Thiên Tiên Thánh giáo quy định thì ngày 2 tháng 3 âm lịch là vía huý nhật, ngày 5 và 6 tháng 3 âm lịch là vía sinh nhật thánh mẫu Vân Hương tức bà chúa Liễu. Còn 2 ngày tốt thượng tuần tháng 7 âm lịch lại là rước sắc nữ thần Thiên Y A Na đến đình làng Hải Cát làm lễ thu tế. Trước kia, khách trẩy hội điện Hòn Chén dịp tháng 7 nghìn nghịt từ 5 ngày đến 1 tuần liền; nay chỉ còn 3 ngày: mùng 8 tới mùng 10.
Khi ông đồng bà cốt hành hương
Tháng bảy vía cha, tháng ba vía mẹ. Con nhang đệ tử mọi miền đều nhắc nhau thế để nhớ 2 kỳ đại lễ hành hương về điện Hòn Chén hằng năm. Có thể suốt 4 mùa, do bận mưu sinh, họ không tới phổ hầu giá được, nhưng nhất thiết 2 vía trọng này thì chẳng bỏ qua.Thật ra, theo bản 51 lễ vía thường niên do Tổng hội Thiên Tiên Thánh giáo quy định thì ngày 2 tháng 3 âm lịch là vía huý nhật, ngày 5 và 6 tháng 3 âm lịch là vía sinh nhật thánh mẫu Vân Hương tức bà chúa Liễu. Còn 2 ngày tốt thượng tuần tháng 7 âm lịch lại là rước sắc nữ thần Thiên Y A Na đến đình làng Hải Cát làm lễ thu tế. Trước kia, khách trẩy hội điện Hòn Chén dịp tháng 7 nghìn nghịt từ 5 ngày đến 1 tuần liền; nay chỉ còn 3 ngày: mùng 8 tới mùng 10.
Ông Lê Văn Ngộ – phó ban tổ chức đại lễ thu tế điện Hòn Chén – cho tôi biết:
-
Ban bảo trợ điện Huệ Nam đứng ra xin tổ chức lễ hội truyền thống này
dưới sự chỉ đạo của Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Thừa Thiên –
Huế, sự giúp đỡ của Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế. Dịp lễ năm nay,
hàng ngũ tín đồ gần xa đăng ký về dự gồm 31 bằng án và 35 châu án. Còn
số lượng cụ thể bao nhiêu lượt người thì chúng tôi không tài nào nắm
chính xác nổi!
Bằng
án là thuyền kết đôi kết ba. Châu án là thuyền đơn. Trên thuyền có lập
bàn thờ Mẫu và chư vị. Trước thuyền, người ta treo biển đề tên am, tên
phổ, chẳng hạn: Kim Đồng Tiên Nữ, Thiên Thai Thuỷ Cảnh, Đài Minh Cảnh,
Linh Sơn Điện, Linh Dược Điện, Tân Đức Điện, Hoằng Hoá Điện, Sòng Sơn
Vọng Từ. Khá nhiều am phổ từ Quảng Trị, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi,
Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Đăklăk, Lâm Đồng. Cũng thấy am phổ từ Hà
Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Hà
Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Ninh Thuận, Bình
Thuận, Đồng Nai, Bình Dương, Tây Ninh, TP.HCM, Long An, Đồng Tháp, Cần
Thơ, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau. Hầu như toàn bộ thuyền rồng
du lịch sông Hương đều được thuê mướn suốt 3 ngày đêm. Không đủ thuyền
rồng thì người ta thuê cả đò chở cát sạn hoặc đò chài lưới để kết bằng
án, châu án.
Từ trung tâm thành Huế, các bằng án và châu án treo cờ xí, giăng đèn đóm, nổ máy bơi ngược dòng Hương lên điện Hòn Chén. Trên mỗi chiếc, con nhang đệ tử luân phiên cúng bái và hầu giá trong lời ca tiếng nhạc của cung văn được khuếch đại âm lượng qua dàn thiết bị điện tử. Người ta đua nhau tung vàng mã xuống mặt nước, ban đêm còn thả thêm hoa đăng. Con sông vốn dĩ tĩnh lặng nay bỗng sôi động hẳn với muôn hồng ngàn tía và thập cẩm âm thanh.
Tôi
thử đếm cả dãy bằng án, châu án đậu san sát mép sông quanh chân núi
Ngọc, đã thấy vượt quá số đăng ký chính thức. Tính bình quân mỗi chiếc
chứa 25 người thì lượng ông đồng bà cốt trẩy hội đã xấp xỉ 3.000 người.
Lại còn hàng trăm đò nghe chở con nhang đệ tử cặp kè theo các bằng án,
châu án. Ấy là chưa kể lớp lớp du khách dồn về theo đường thuỷ lẫn đường
bộ. Ước tính không dưới 1 vạn lượt người đến điện Hòn Chén trong đại lễ
hội này. Như nhiều danh thắng khác, mỗi người cứ đặt chân vào cổng điện
đều phải mua vé tham quan. Gía mỗi vé hiện nay (Canh Dần 2010): khách
nước ngoài 20.000 đồng, khách trong nước 10.000 đồng. Chà chà, phen này
Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế “trúng quả đại chang” nhé!
Như
đã nói, đại đa số đệ tử của Mẫu thuộc giới thợ thuyền hoặc tiểu thương
mà chiếm tỉ lệ cao luôn là phái nữ. Trong đội ngũ cô Năm cô Ba lụa là
son phấn, không ít nàng trẻ đẹp hệt người mẫu thời trang. Qua tìm hiểu,
tôi được biết một số trường hợp con nhang cả nữ lẫn nam thuộc nếp nhà
khá giả, có kẻ là học sinh, sinh viên, thậm chí giáo viên. Đặc biệt, rất
dễ nhận ra sự hiện diện của một số ca sĩ cùng diễn viên sân khấu và
điện ảnh thuộc hàng “sao” nữa!
Tôi
ngạc nhiên vô cùng khi bất ngờ thấy một ông đồng áo khăn đỏ choét, hú
hét om sòm, và ngoáy tít đại đao. Ngại mình nhìn nhầm, tôi cố nhận diện
thật kỹ. Đúng rồi! Trúng ngay chóc! Không ai khác, đích thị Phó Giám đốc
một cơ sở tư doanh ở TP.HCM. Hễ có dịp, gã này luôn rôm rả nói chuyện
bài trừ… mê tín dị đoan! Thật hết biết!
Lễ
chính là rước sắc thánh mẫu Thiên Y A Na từ Minh Kính Đài lên đình làng
Hải Cát bằng đường thuỷ. Một đám rước chưa từng thấy. Đầy đủ hoa hương,
chuông trống, cờ quạt, kiếm cung, tiền hô hậu ủng. Dẫn đầu là thần Hổ
với các ông Bảy, ông Chín Thượng Ngàn.
Lần
nữa, tôi gặp may: được quá giang ngay trên bằng án chính cung nghinh
Mẫu. Thuyền đến đâu đều thấy trên bờ, dưới nước, lớp lớp trẻ già chấp
tay vái lạy theo rần rần.
Một thể nữ mắt phượng, mày ngài, đứng hầu kiệu, bỗng dưng khều tay tôi. Nàng chúm chím cười và nói:
- Số anh sướng lắm, luôn được Mẫu đoái thương!
Đôi điều thiển nghĩ
Đình làng Hải Cát cũng nằm ven tả ngạn dòng Hương, cách điện Hòn Chén chừng 2km về phía thượng nguồn. Lúc cả đoàn cung nghinh Mẫu vượt sóng nước tới nơi thì trời vừa sụp tối. Người ta thắp điện đèn sáng rực, long trọng thỉnh Mẫu vào chính điện để tiến hành lễ thu tế, nguyện cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hoà, nhà nhà sung túc.Và suốt đêm ấy, trên hàng chục bằng án lẫn châu án đỗ dài trước bến đình, các đồng cô bóng cậu lại cóc cheng nhảy vọt phép phù, mệt thì thay nhau nghỉ ngơi, ăn uống. Mai lại rước Mẫu hồi loan, trở về núi Ngọc.
Đôi điều thiển nghĩ
Đình làng Hải Cát cũng nằm ven tả ngạn dòng Hương, cách điện Hòn Chén chừng 2km về phía thượng nguồn. Lúc cả đoàn cung nghinh Mẫu vượt sóng nước tới nơi thì trời vừa sụp tối. Người ta thắp điện đèn sáng rực, long trọng thỉnh Mẫu vào chính điện để tiến hành lễ thu tế, nguyện cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hoà, nhà nhà sung túc.Và suốt đêm ấy, trên hàng chục bằng án lẫn châu án đỗ dài trước bến đình, các đồng cô bóng cậu lại cóc cheng nhảy vọt phép phù, mệt thì thay nhau nghỉ ngơi, ăn uống. Mai lại rước Mẫu hồi loan, trở về núi Ngọc.
Đêm
ấy, lang thang với vài đồng nghiệp trên bãi sông trước đình làng Hải
Cát, nhiều điều liên quan Thiên Tiên Thánh giáo, gọi gọn là đạo Mẫu,
khiến tôi băn khoăn suy nghĩ.
Trẩy
hội điện Hòn Chén và xuân tế lẫn thu tế đình làng Hải Cát quả là phong
tục cổ truyền mang đậm bản sắc văn hoá độc đáo của địa phương vùng Huế
nói riêng, của đất nước Việt Nam nói chung. Tương tự loạt lễ hội ở đền
Mẫu Đồng Đăng (Lạng Sơn), đền Bảo Hà (Lào Cai), đền Đuông (Vĩnh Phúc),
đền Bà Đế (Hải Phòng), đền Sinh và đền Hoá (Hải Dương), đền Mẫu (Hưng
Yên), phủ Tây Hồ (Hà Nội), phủ Dầy (Nam Định), đền Sòng (Thanh Hoá), đền
Cờn (Nghệ An), tháp Bà (Khánh Hoà), núi Bà Đen (Tây Ninh), miếu Bà Chúa
Xứ (An Giang), v.v. Xét nghi thức hành lễ liên quan những di tích ấy,
rõ ràng đồng bóng đóng vai trò chủ đạo. Gắn chặt với đồng bóng đích thị
chầu văn / hát văn / hát bóng, một hình thức lễ nhạc dân gian rất lý thú
với nhịp ngoại / đảo phách thể hiện qua lưu không / nhạc không lời và
13 điệu / lối hát: bỉ, miễu, thổng, phú bình, phú chênh, phú nói, phú
rầu, đưa thơ, vãn, dọc, cờn, hãm, dồn. Tham dự Liên hoan Giọng hát vàng
ASEAN 2008, NSƯT Hồng Ngát trình diễn hát văn Hầu xá thượng và đoạt Huy chương vàng quá xứng đáng.
Tuy
nhiên, đồng bóng lại là hủ tục, là mê tín quàng xiên! Trong thời đại
phát triển khoa học kỹ thuật ngày nay, hỏi còn gì lạc hậu cho bằng việc
phòng và chữa bệnh theo liệu pháp nhảy lom xom, dán bùa chú, uống tàn
nhang nước thải? Còn gì mê lầm cho bằng kiểu trấn an tâm lý theo lối
“thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay” cực kỳ phung phí?
Dĩ
nhiên, muốn hạn chế và dần dần xoá bỏ tệ mê tín đã hằn sâu vào nếp nghĩ
dân chúng tự bao đời, không thể áp dụng cứng nhắc các biện pháp hành
chính cực đoan, mà phải bằng hệ thống tác động lâu dài toàn diện, như ý
kiến của nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh từng đề xuất trong chuyên luận Tín ngưỡng dân gian Huế
(sđd). Báo chí cùng các thể loại văn học nghệ thuật chắc chắn đã, đang,
và sẽ góp phần hữu hiệu trong nỗ lực trường chinh đầy gian khó này.
Một
mai, đời sống vật chất lẫn tinh thần của toàn xã hội được nâng cao, tri
thức khoa học tiên tiến được phổ biến sâu rộng và cập nhật đến tận thôn
cùng xóm vắng. Lúc ấy, con người tự giải phóng mình khỏi “vòng kim cô”
hủ tục; đồng thời biết trân trọng kế thừa, nỗ lực phát huy những phong
tục dân tộc truyền thống với tinh thần văn hoá và nhân bản.
Nguồn trích đăng: http://chimvie3.free.fr/43/phanxipn_dongbong.htm
Wednesday, September 5, 2012
ĐIỆN HÒN CHÉN, HUẾ
CHẦU THÁNH TẠI
ĐIỆN HÒN CHÉN
Cộng sản là một thứ con buôn. Chúng lợi dụng chiến tranh buôn xương máu
dân Việt Nam để chúng đưọc làm quan to, giàu lớn. Ngày xưa chúng tiêu
diệt tôn giáo, bách hại các tôn giáo và phá hủy đền miếu. Ngày nay chúng
làm ngược lại. Chúng sửa sang đền thờ, chúng phát triển các lễ hội vì
ba lý do mà chung quy vì tiền.
-Thứ nhất: ăn tiền UNESCO Liên Hiêp quốc.
-Thứ nhì: phát triển du lịch
-Thứ ba :buôn thần bán thánh đặc biệt là chùa Hương.Xã có cơ sở kinh
doanh của xã, huyện có kinh tài của huyện, Tỉnh uỷy có băng đảng của
tỉnh ủy, công an có em út của công an...và đảng cũng có chân rết của
đảng, ai cũng có lợi nhuận, ai cũng vui vẻ.
Nay ở điện Hòn Chén chúng cũng kêu gọi đăng ký kinh doanh trong lễ hội. Đó cũng là một cách làm tiền.
-
thuyền rồng trên sông Hương
Nhiều ngày trước đó du khách đến Huế tìm mướn thuyền rồng khó
như hái sao trên trời vì phải cần 2 đến 3 ngày trang trí cho mỗi
thuyền.
Lễ vật hành-hương.
Gởi xe ở rìa đường trước lăng Thiệu-Trị, trên đường vào bến thuyền,khách hành-hương gặp chừng 20 gian hàng cung cấp lễ vật như thế này. Ngoài ra lễ vật trên các 'bằng" thì đa dạng hơn và nhiều hơn.
Gởi xe ở rìa đường trước lăng Thiệu-Trị, trên đường vào bến thuyền,khách hành-hương gặp chừng 20 gian hàng cung cấp lễ vật như thế này. Ngoài ra lễ vật trên các 'bằng" thì đa dạng hơn và nhiều hơn.
Môn sáp vàng, đặt sản vùng Cư-Chánh.
Không phải là lễ vật, được bày bán trên đường xuống bến thuyền khách hành-hương vẫn mua mang theo vì món này không phải dễ có. Thức ăn này trước đây cũng bán trên xe lửa, xe đò cho du khách ăn.
Không phải là lễ vật, được bày bán trên đường xuống bến thuyền khách hành-hương vẫn mua mang theo vì món này không phải dễ có. Thức ăn này trước đây cũng bán trên xe lửa, xe đò cho du khách ăn.
Bên kia sông là điện Hòn-Chén. Vì nhiều lý do, khách hành-hương có thể từ bờ sông đối diện cúng vọng qua.
Đò Bến-Than. Để an toàn cho khách sang sông, mỗi chuyến đò chỉ chở 30 người dưới sự giám sát của công-an.
Phần nhô ra của núi Ngọc-Trản, phía xa là núi Kim-Phụng.
Ngọc-Trản và Hòn-Chén ngày hội.
Ngọc-Trản và Hòn-Chén ngày hội. Nhìn từ giữa dòng Hương. Đẹp vô cùng.
Áo, mão khách hành-hương dâng cúng mẫu Thiên Y A Na.
Bàn thờ Mẫu được tôn trí ở thượng điện.
Cúng từ ngoài sông.
bàn thở mẫu ở thượng điện
Trong khói nhang mờ mịt, người hành-hương cầu và xin.
Sau đó chen nhau đặt tờ sớ lên bàn thờ Mẫu.
Điện Hòn-Chén có chừng 10 công trình lớn, nhỏ thờ cúng các vị thánh thần khác nhau.
Đã tới điện thì đều cúng khắp mọi nơi.
Thay vì phải chen lấn, anh chị này chọn nơi đây để cúng
Gờ đá nhô ra cũng không sao, cúng cũng được.
Ông
"ba mươi" bằng đá được đặt trong một hộc xi-măng thò đầu ra ngài, được
khách hành-hương chiêm bái, sau đó tưới nước lên đầu ông rồi dùng tay
thấm nước thoa lên da mặt.
Gian hàng may sẳn, phục vụ các 'đồng".
Thuyền cung nghinh linh vị thánh mẫu.
Ngoài
"bằng" của những am điện tại TT-Huế, lễ hội còn có sự góp mặt của nhiều
địa phương miền Bắc và miền Nam. Chiếc "bằng" xịn này được dựng bởi
nguyên bộ nhà rường cổ.
Là nơi hầu đồng của " đồng cậu" nghệ sĩ Việt-kiều Hoài-Linh thuê khi về nước tham gia lễ hội ( nghe noái, chưa chộ ).
Là nơi hầu đồng của " đồng cậu" nghệ sĩ Việt-kiều Hoài-Linh thuê khi về nước tham gia lễ hội ( nghe noái, chưa chộ ).
Các tụ điểm kinh doanh của đảng và bọn thủ hạ
Các "bằng" tuy hẹp nhưng đều dành diện tích thích ứng để tôn trí bàn thờ Mẫu.
Đây là các cửa hàng của đảng và bọn thủ hạ
Nhiều lễ vật cổ truyền cũng như hiện đại được dâng cúng Mẫu.
lễ vật gồm thịt heo. bia
Các "đồng" bắt đầu "lên".
Đồng đang lên
"lên" càng sung với bó nhang đỏ lữa.
Lộc "đồng" ban có khi là miếng cau trầu, lon bia, hoa, quả hay những tờ tiền mệnh giá nhỏ.
" Đồng" cô.
đồng bà
đồngcậu
đồng đạo ngự
đồng teen
đồng ông
đồng ông
đồng miền núi
đồng miền núi
Trong ảnh là lễ cung nghinh linh vị thánh mẫu về lại điện Hòn-Chén lúc 9g 26/8.
HÌNH ẢNH BÊN LỀ
Ước có chừng hai vạn lượt người tham gia lễ hội. Số tiền thu được không hề nhỏ chút nào.Nhờ mê tín dị đoan, đảng cộng sản và bọn phản dân hại nước tha hồ thu tiền bỏ túi. Bọn Việt cộng ngoài Hà Nội cũng cho đàn em vào làm ăn nơi đây! Có ai dám phê phán đảng buôn thần bán thánh?
Cheo leo vách núi.
Chen lấn như chàng trai này thì thánh thần cũng phải nể!
Cộng đảng ra sức thu tiền nhưng chẳng chút quan tâm đến việc giải quyết ô nhiễm môi trường!
trẻ con thu chiến lợi phẩm
vàng mã tung khắp mặt đất
vàng mã thả dưới sông
No comments:
Post a Comment