Wednesday, June 12, 2013
THƠ NGUYỄN KHÔI
YẾM QUÊ
Thơ vui : NGÀY TẬN THẾ
( Tặng : Ngô Tịnh Yên)
---------
Ngày xưa là chiếc "Yếm Sồi"
Nay thì "Là Lụa" lưng phơi ngọc ngà
"Váy Đình Bảng" chùng thướt tha (1)
Diêu Bông em giấu, ai mà tơ mơ...
Sen hồng tươi đến bất ngờ
Liếc ngang gió thoảng bơ sờ tóc mai
Lưng ong đắm đuối mày ngài
Kiều thơm da thịt phô ngoài yếm đeo...
*
Ai yêu thì cứ mà yêu
Yếm quê tuột dải đêm Chèo ngày xưa.
----
(1) thơ Hoàng Cầm "Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng"
Quê Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh 7-6-2013
Nguyễn Khôi
ĐÊM PHAN THIẾT
(Tặng : Tu Prông Nym & Mã Điền Cư)
--------
Đêm Phan Thiết biển thì thầm to nhỏ
Ta tựa kề bên Phượng uống lân khân
57 năm xưa Hàn Mạc Tử
Lầu Ông Hoàng kia ngồi với mộng Cầm.
Trăng như thể thương ai đang cầu nguyện
Tháp Chàm xưa Nàng đã vắng lâu rồi
Ta đến đây uống Bia và giãi Nguyệt
Hoa Phượng buồn rơi lệ ướt đằm môi.
Ta như thể Thi nhân cuồng thời thế
Vận đỏ đen như một cốc Bia tràn
Bao mộng tưởng phút tàn như Bọt Bể
Hận ly tình cùng Vương Quốc rã tan...
Người yêu dấu ở Đô Thành ánh sáng
Ta đến đây dạo gót xứ Chiêm Thành
Cát và trăng hóa biển thuyền mộng ảo
Chơi mùa trăng rượt sóng xứ Dừa Xanh
Thôi rồi lại nhâm nhi ngồi với bạn
Đĩa Cua rang, Mực nướng nhắm mặn mòi
Thằng dân biển, thằng biên thùy xứ Thượng
Tính hào hoa về đất nắng quậy chơi...
Đêm Phan Thiết ta là chàng lãng tử
Mắt say quàng cảm vẻ đẹp của trăng
Nghe "em" hát nhớ một thời chinh chiến
Những mảnh đời vô chợ để mần ăn
Đọc thơ thấy cái điên chàng Thi sĩ
Tâm hồn ư ? ai buôn bán bao giờ
Muốn say khướt phải có gì cầm cố ?
Thơ là hồn !
Ai nào chịu mua Thơ !
Một thằng xỉn
một thằng như cà chớn
( hai "két" Bia là cả nửa năm Lương)
Đêm nay Tử nếu hóa thân hoàn vũ
Sông Cà Ty mình trút gửi linh hồn.
Còn Phan Thiết, ôi đẹp tươi Phan Thiết
Ôi Thi nhân - chàng đã biệt lâu rồi
Lầu Ông Hoàng trơ nền đồi giãi Nguyệt
Hoa Phượng ngời
trên biển dật dời trôi...
----------
Viết trong đêm say, Phan Thiết 8-6-1993
Nguyễn Khôi
Thơ vui : NGÀY TẬN THẾ
(Tặng : Nhà văn Lê Xuân Quang)
---------
"Ngày mai thế giới tàn đi cả
Giữa ngã ba đường anh với em"
-Câu hát cũ
Ngày tận thế
Nhà Độc Tài đột ngột xin "từ chức"
Hấp tấp bay ra xem Lăng mộ của mình.
Ngày tận thế
cánh Nhà Giàu tung hê tất cả
tay ôm "chân dài"
miệng nốc Whisky.
Ngày tận thế
Sướng nhất là lũ Cu Li
tha hồ nhặt Vàng-Dollar tung tóe
thoải mái vào ngự ở Villa
cùng vợ con hú hí.
Ngày tận thế
thôi Tivi
thôi báo chí
không còn phải xơi "quả Lừa"
không còn đánh nhau
không còn xâm lược...
toàn nhân loại hát ca
vui như "tết".
Trái đất sắp nổ tung :
dạt dào sóng bể
thỏa cánh chim bay...
Ôi, ngày tận thế
con người TỰ DO
thật sự.
*
Nghĩ vẩn, nghĩ vơ
NK tôi mơ "Ngày tận thế" ? !
Hà Nội 21-12-2012
Nhân đọc "Bài ca về ngày tận thế" của Czeslaw Milosz(Ba Lan)-Nobel 1980
Nguyễn Khôi
PHAN TÂM THÀNH *BAO VINH THƯƠNG NHỚ
BAO VINH THƯƠNG NHỚ
PHAN TÂM THÀNH
Ông tôi người Hà
Tĩnh, theo Cần Vương chống Pháp, mộng bất thành còn bị bắt bớ, giam cầm nên phải
đem gia đình chạy trốn.
Gia đình tôi di cư
vào Thừa Thiên tạm trú ở làng Thái Dương, rồi Địa Linh và sau đó là Bao Vinh. Về
định cư ở Bao Vinh, nhờ ơn trên ba mẹ tôi làm ăn phát đạt. Chợ Bao Vinh là nơi
tấp nập ghe đò buôn bán phồn thịnh. Từ trung tâm thành phố bạn có thể đi xích lô
hay xe đạp về Bao Vinh. Xe đò chạy từ cầu Gia Hội theo đường Huỳnh Thúc Kháng (đường
Hàng Bè) trồng nhiều cây dừa. Bên cạnh hàng dừa xanh là con sông đào Đông Ba
lững lờ chảy về Bao Vinh. Phía bên kia bờ sông qua khỏi xóm Hột Mác là ngôi chùa
Diệu Đế hồi Tết Mậu Thân nổi tiếng với mồ chôn tập thể Cộng Sản để lại. Chạy đến
chợ Đồn (đồng Mang Cá) xe dừng lại một lần nữa mới về Bao Vinh. Vừa qua cầu, bạn
sẽ thấy một cây đa thật lớn, cành lá sum suê tỏa bóng mát trên một khoảng đất
rộng. Dưới bóng mát này là quán kẹo bánh của chị Dưa. Và cạnh đó, cái miếu lên
đồng của chị. Hàng tháng, cứ đến ngày rằm và mồng một, chị ra đây mặc áo quần
thật đẹp, khăn đỏ áo vàng, quàng cổ xanh. Chị cùng chồng “hầu đồng”, la hét
tiếng Mường, tiếng Mọi, vung dao, múa kiếm khi hầu giá “quan lớn thượng ngàn”.
Sau lưng cây đa là đình Bao Vinh. Xe đò thường đậu ở đây, quay đầu vào đình làng.
Trước mặt đình là
miếu thờ ngài khai canh, hàng năm cứ đến ngày mồng bảy tháng chạp là lễ kỵ ngài
rất lớn. Hồi còn nhỏ, mỗi lần làm kỵ tôi hay chạy sang xem. Cờ ngũ hành, cờ đuôi
nheo treo phất phới, lọng che khắp nơi. Các bác các chú ăn mặc chỉnh tề đã đành,
mấy bạn học trò của tôi mặt non choẹt cũng áo đen, đội khăn đóng ra đình. Bên
mặt của đình là nhà tăng. Ngày thường nhà tăng là trụ sở làm việc của ban trị sự
làng. Ngày kỵ, ngày Tết đây là nhà ăn cho đàn bà, con gái, còn các bác các chú
thì ăn ở đình trên.
Làng Bao Vinh có
ba họ là dân chính đinh: họ Phạm, họ Ngô, họ Nguyễn. Cái cồn mồ rất lớn trên
cánh đồng Bao Vinh, tuy gọi là nghĩa trang chung, nhưng dân ngụ cư không được
chôn ở đây.
Từ đình làng đi
đến Đập là ranh giới của làng Thế Lại Thượng. Có hai dãy nhà dọc theo đường cái.
Các nhà ở phía tay trái dọc theo bờ sông, về phía phải là quận lỵ quận Hương Trà.
Cạnh quận Hương Trà là Am Đôi, thờ mẫu, bị đập phá thành bình địa sau năm 1975
nhưng cây đa sầm uất vẫn hàng ngày trơ gan cùng tuế nguyệt như thách thức trước
cảnh vật đổi sao đời.
Am Đôi linh lắm.
Dân làng phải thỉnh mẫu “ở đậu” nơi khác. Không đành lòng để đấng
thiêng liêng chịu cảnh “ở nhờ” mãi, dân làng đành viết thơ kêu gọi một vị mạnh
thường quân ở hải ngoại gởi tiền về kiến thiết xây dựng lại am thờ với phần đóng
góp công sức của dân làng. Tháng 3 vừa qua, đã thỉnh mẫu trở lại nơi thờ tự cũ.
Nghĩ cũng nực cười đến đau lòng. Cộng Sản phá đình phá chùa, phàm tục hóa
nơi thờ tự thiêng liêng; Cộng Sản bỏ bê làng xã, bần cùng hóa nhân dân gần hai
chục năm qua. Ngày nay, “đổi mới”, “giao lưu”, nhờ kiều hối, nhờ Việt kiều “khúc
ruột ngàn dặm” bỏ tiền ra kiến thiết, sửa sang tốt đẹp. Cộng Sản được tiếng là
nhà nước chăm lo cho dân, tha ho tuyên truyền công lao “Bác Đảng”, hạnh phúc
nhân dân, tự do tín ngưỡng! Chuyện Cộng Sản dân làng nói mãi không hết, hãy trở
lại với Bao Vinh làng tôi.
Từ đình làng đi
xuống chợ cũng hai dãy nhà chạy dọc theo đường quan, dãy bên mặt tiếp giáp với
bờ sông. Ghe tàu vào ra sông Bao Vinh tấp nập hàng ngày. Trước chợ Bao Vinh là
bến đò qua Tiên Nộn, về Mậu Tài, Thanh Tiên, qua khỏi chợ là chùa Bao Vinh. Chùa
nằm dọc theo dãy nhà về phía tay trái. Chùa ở gần một cái cống lớn, đây là ranh
giới Bao Vinh và làng Địa Linh.
Sau lưng đình làng
là các xóm, từ các xóm đi thẳng ra cánh đồng. Làng có 4 xóm: xóm Trên làm bún;
Xóm Giữa làm heo. Mỗi lần nghe heo kêu, tôi nhớ đến bài học giáo lý anh Phan
Cảnh Tuân và cô Hoàng Kim Cúc dạy.
“Người đồ tể mỗi
lần nghe tiếng tụng kinh của sư cụ thì dậy làm heo, khoảng 5 giờ sáng. Hôm đó
không hiểu sao sư cụ không tụng kinh nên người đồ tể không dậy giết heo. Sáng ra
thấy heo sinh được 10 con heo nhỏ. Người đồ tể nghĩ rằng sự ngủ quên của mình là
ý Trời Phật muốn cứu 10 chú bé heo”.
Xóm Dưới chuyên
nghề buôn ớt, ớt trái mua về, đem phơi khô rồi giã nhỏ, xong đem ra chợ bán lại.
Xóm Cuối chuyên
nghề bán dừa khô, từ Tam Quan, Bình Định, theo ghe chở ra. Ngoài ghe dừa, chợ
Bao Vinh tấp nập hàng chục ghe muối, ghe đường, ghe đậu xanh, nước mắm, ruốc từ
“trong Quảng” chở ra.
O Khoa chuyên buôn
muối và đường mà giàu nứt hố, đổ vách.
Bác Nguyện buôn
nước mắm, ruốc mà giàu.
Chị Xuân bán gạo
mà tiền rừng, bạc biển.
Đàn bà, con gái
Bao Vinh buôn bán giỏi lắm, “ngoại giao” hay, khôn ngoan, tháo vát nên nhiều
người thích về làm rể Bao Vinh!
Đàn ông ở Bao Vinh
có lẽ rất ít người làm công chức, nhưng rất nhiều người chọn nghề dạy học. Nghề
này ở nước ta ngày trước chỉ thua “Vua” một bậc thôi (Quân, Sư, Phụ) chứ đâu có
“đau khổ” như ở nước Mỹ này giáo chức trở thành “baby sitter” còn bị phàn nàn ta
thán đủ điều.
Ở Bao Vinh, tôi
vẫn giữ mãi một hình ảnh đẹp nhất, đó là cụ Cử, thân phụ của bác Nguyện. Cụ Cử
râu dài và bạc phơ, tóc bạc, cụ bới lại một củ nhỏ như củ hành ở trên đầu. Cụ
đeo kính trắng và mặc áo quần bằng lụa ngà, ngồi đọc sách đẹp như một ông tiên
trong truyện cổ tích. Mỗi lần đi học về, tôi thường vén bụi chè tàu trước nhà cụ,
lén nhìn hình ảnh “ông tiên” một lúc lâu mới chịu về. Tôi cũng nhớ chú Tư “Tú
Xương” nhiều lắm. Chú Tư suốt đời phong lưu một bầy mười đứa con dại mà chú
chẳng đi làm việc gì cả. Chú chỉ “đi mây về gió”, mặc cho thím Tư buôn bán vất
vả một nắng hai sương quần quật suốt năm, vừa nuôi con, vừa phải lo tiền mua
“xái thuốc” cho chú phi. Vậy mà khi nao thím cũng vui vẻ tâm sự “O nợ, trời
định phần cho mỗi người một số, tôi mắc nợ ông Tư kiếp trước quá nặng, kiếp này
phải trả”.
Quán nước chè thím
Quát, suốt cả đời thím quanh quẩn bên nồi nước chè nóng, bỏ thêm mấy lát gừng
cho thơm. Thím bán thêm dĩa cau trầu, thuốc lá, người đi chợ, ghé qua uống nước,
ăn miếng trầu, đó là vốn liếng của thím để giúp chồng nuôi con.
Còn gánh xôi, cháo
gạo của thím Thỏ. Thím bán cháo gạo với cá kho khô, và xôi đậu với muối mè. Năm
này qua năm khác, chỉ bán có chừng ấy thôi để nuôi thân, vừa nuôi một người con
gái mù lòa và một đàn cháu ngoại.
Ai đến Bao Vinh
cũng phải ăn một tô cháo lòng (cay) hay một tô dấm
nuốt của thím Vỹ. Thím nấu cháo lòng khéo lắm, nước trong và thơm phức.
Mùa hè thím bán dấm nuốt.
Ôi những món ăn
thức uống nghèo nàn của quê hương tôi, tôi nhớ quay quắt, nhớ lạ lùng.
Năm Dậu là năm đói
kém nhất ở Huế, làng Bao Vinh ruộng bị mất mùa, dân càng đói khổ hơn. Ba mẹ tôi
tình nguyện nấu cháo cho mọi người bất kỳ ở đâu đến, ăn trong mấy tháng. Nhiều
người đói quá, ăn một lần rồi chưa đủ no, sắp hàng vào ăn lại lần nữa. Có người
vào mách, mẹ tôi giả vờ không biết; bà nói rằng “ai cũng chỉ ăn đầy một bao tử
thôi! Có đói khổ mới hiểu được hoàn cảnh của họ!”.
Biến cố Tết Mậu
Thân xảy đến như một đại họa cho dân làng Bao Vinh. Bà con, đồng bào ở xa đổ xô
về đây, tưởng đâu Bao Vinh yên lành. Không dè Bao Vinh đang thoi thóp trong vòng
dây nghẹt thở của Cộng Sản trong một tháng trời. Bao nhiêu tang tóc khổ đau
người dân phải chịu đựng, tuy vậy vẫn không ai chịu rời Bao Vinh. Đời sống dân
làng gắn liền với Bao Vinh như nắm ruột đứa con gắn liền với mẹ.
Lâu lắm rồi, thể
xác tôi bên này nhưng tâm hồn vẫn hướng về làng cũ với bao nhiêu kỷ niệm vui
buồn. Ôi Bao Vinh thân thương, nhớ biết mấy làng xưa xóm cũ!
Biết đến bao giờ
mới được trở lại với Bao Vinh.
Tuesday, June 11, 2013
HỨA HOÀNH * CÁC CÔNG TỬ NAM KỲ
NHỮNG VỊ CÔNG TỬ NAM KỲ LỤC TỈNH
Cậu Hai Miêng (1858- 1899) ( Cây đắng sanh trái ngọt )
Theo Hứa Hoành
Cuộc đời Huỳnh Công Miêng, con trai Lãnh binh Huỳnh Công Tấn có nhiều nét độc đáo. Huỳnh Công Miêng là người có máu giang hồ mã thượng, thích ngao du và làm việc nghĩa, tính tình hào phóng, dám ăn thua đủ với kẻ mạnh hiếp yếu. Các hành vi nghĩa hiệp ấy được dân chúng Nam Kỳ ưa thích, truyền tụng và tôn làm “cậu” và gọi “cậu Hai Miêng”. Công tử Hai Miêng xuất hiện trước tiên ở Nam Kỳ, là “công tử” tiên phong lớp trước, mệnh danh là “miễn tử lưu linh”, có nghĩa là được miễn sưu thuế, đi đâu mặc tình, không ai được phép “hỏi giấy”... Thừa hưởng sự nghiệp đồ sộ của cha để lại, cậu Hai Miêng ăn xài huy hoắc, phá phách, coi tiền như rác. Đương thời cậu Hai Miêng ăn chơi khắp trong lục tỉnh. Ai cũng nghe danh cậu. Nếu cậu có phạm tội gì nhỏ, cũng không bị truy tố vì Pháp còn nhớ ơn thân phụ cậu. Truyền thuyết về cậu Hai Miêng kể lại rằng: “Có một lần cậu vào thăm quan tham biện Mỹ Tho (Tỉnh trưởng bây giờ) với thái độ hống hách khác thường:
Bước vô trường án(1), vỗ ván cái rầm,
Búa xua(2) ông tham biện, bạc tiền ông để ở đâu?
Hai câu trên được dân chúng truyền tụng, chứng tỏ hành vi ngang tàng của cậu, không nể bất cứ ai, kể cả viên Tỉnh trưởng người Pháp.
Năm 17 tuổi, Huỳnh Công Miêng, Trần Bá Hựu (em ruột Trần Bá Lộc) Lê Công Phụng, con nuôi của Lãnh binh Tấn, được qua Pháp du học trường La Seyne gần Toulouse. Sau 4 năm, cả ba không đỗ đạt bằng cấp gì cả, nhưng nói trôi chảy tiếng Pháp, về nước được Pháp cho làm thông ngôn, sau thăng ông Phán, Tri huyện... hàm. Đợt sau cậu Hai Miêng có Lê Công Hoàng, Nguyễn Quang Nghiêm (cô cậu với Lộc) đều đậu Tú tài, hồi hương liền được bổ làm Tri huyện ngay. Trường hợp cậu Hai Miêng lúc mới về nước, Pháp cho cậu phục vụ dưới trướng Tổng đốc Trần Bá Lộc, hy vọng cậu nối nghiệp cha, thẳng tay đàn áp các cuộc khởi nghĩa lập công. Khi Lộc đem quân ra Bình Thuận, Khánh Hoà, cậu Hai Miêng cũng có mặt trong đoàn quân thứ đó. Lần này Lộc lập kế bắt mẹ của lãnh tụ nghĩa quân tra khảo, đe doạ giết để Mai Xuân Thưởng về hàng. Kế sách ấy tuy cũ, dã man nhưng hiệu quả. Pháp kích động cậu Hai Miêng lập công, nhưng công việc ấy không hợp với bản tính hào phóng của cậu. Cậu vốn ghét những kẻ ỷ mạnh hiếp yếu, binh vực người cô thế, và rất oán ghét bọn cường hào ác bá. Chán nghề chém giết, cậu Hai Miêng xin xuất ngũ để sống cuộc đời của một kẻ “miễn tử lưu linh”, ngồi ghe hầu chu du khắp Nam Kỳ lục tỉnh. Cậu Hai Miêng sống cuộc đời ngoại hạng, vượt xa các công thức đương thời. Nghe đồn rằng cậu được Pháp cấp cho tấm giấy “miễn tử lưu linh”, đi tới đâu cũng không bị ai làm khó dễ, miễn dòng thuế thân, miễn sưu dịch, miễn lính tráng. Tuy nhiên, một nhà văn chuyên sưu tầm truyện xưa tích cũ là cụ vương Hồng Sển cũng cho biết “chỉ nghe đồn như vậy, chớ chưa thấy tận mắt tấm giấy “miễn tử lưu linh” của cậu Hai Miêng”.
Cậu Hai Miêng cũng cờ bạc cầu vui, hút thuốc phiện, bao em út ăn xài không tiếc của. Dư luận Gò Công hồi trước thường kể giai thoại về cậu Hai Miêng như sau:
Lúc mới về nước, cậu chỉ thích võ nghệ, luyện côn quyền (một loại võ khí cổ, chỉ dùng sức mạnh), múa kiếm. Cậu nổi tiếng anh hùng khắp xứ. Vì không muốn bị ràng buộc, làm tay sai cho Pháp. Cậu trả chức tước Pháp ban cho. Hàng ngày cậu đi đá gà, uống rượu, hối me (một thứ cờ bạc) thả giàn. Có lần cậu đi xuống Giồng Tháp để hốt me, nhiều đàn em theo để mang một bao bạc giấy, thứ bạc con cò, rất có giá trị hồi cuối thế kỷ 19. Cậu Hai Miêng cầm chén hốt me, có các thủ hạ là Bảy Danh, Ba Ngà, Tám Hổ lo vừa tiền và chung tiền. Sòng me nào có cậu cũng ăn thua rất lớn. Lúc sòng bạc tan, cậu ra về, đi ngang qua một vườn xoài, thấy nhiều trái xoài vừa chín ửng vàng, trông rất ngon lành, cậu kêu chủ nhà hỏi mua. Chủ nhà bằng lòng, đi lấy cây sào tới hái. Cậu cười, nói:
- Để tôi hái cho, khỏi cần sào!
Nói xong, cậu giậm chân, nhún mình, nhảy lên rứt một lượt mấy trái xoài chín cây. Ai nấy đều khen ngợi.
Trong “Thơ Cậu Hai Miêng” có đoạn mở đầu như sau:
Nam Kỳ có cậu Hai Miêng,
Con quan lớn Tấn ở miền Gò Công.
Cậu Hai là bực anh hùng,
Ăn chơi đúng bực anh hùng liệt oanh!
Nam Kỳ lục tỉnh nổi danh
Khác với cha hống hách, cậu Hai Miêng ăn ở rộng rãi với mọi người, hay chia xẻ tiện nghi với anh em, bè bạn và những kẻ dưới tay, cho nên du côn khắp xứ đều kiêng nể cậu, kính phục cậu Cậu tới đâu cũng được đồng bào ủng hộ, thương mến:
Xóm làng ai cũng đều thương,
Cậu Hai trung hậu, lòng nhân ai bì?
(Thơ Cậu Hai Miêng)
Hồi đó, trong những đám giỗ, đám cưới có dịp thức khuya, đồng bào Nam Kỳ hay kể nhiều giai thoại về cậu Hai Miêng: “Khi Pháp cho đào Ao trường đua (xung quanh là đường vòng đua ngựa), bắt dân phu trong tỉnh Gò Công phục dịch, làm sưu cực khổ. Họ cưỡng bách lao động như tù khổ sai: ban ngày đào đất, đắp lộ ban đêm ăn ngủ tại chỗ. Hết toán này tới toán khác thay phiên, còn bị cặp rằn (tức giám thị) đánh đập như súc vật vì muốn công việc mau xong. Một buổi sáng, cậu Hai Miêng đi ngang qua đó, thấy cảnh làm việc quần quật mà còn bị đánh như trâu ngựa. Nổi máu anh hùng, cậu liền thộp ngực một tên cai mã tà (cảnh sát bây giờ) hung ác, đấm đá luôn. Cai Phi, cặp rằn đều bị cậu cho ăn mấy bạt tay, rồi cậu bắt họ đội đất chạy lên chạy xuống như mấy người dân đang bị hành hạ. Ngoài ra cậu còn quất cho họ mấy roi.
- Tao đánh chúng bây coi tụi bây có đau như dân phu hay không?
Cũng từ đó, dân phu đào Ao trường đua bớt bị hà hiếp, đánh đập như từ trước đến nay. Đi ngao du tới đâu, cậu Hai Miêng cũng trừng trị bọn cường hào ác bá tới đó. Đối tượng trừng trị của cậu là bọn nhà giàu, điền chủ hống hách, các ông làng, cai tổng chuyên môn bắt nạt dân địa phương. Ngay đến cả Tây, cậu Hai Miêng cũng ương ngạnh, cứng đầu, không khuất phục. Khi hết tiền, cậu ghé dinh tham biện, chủ tỉnh “mượn đỡ” để xài. Nể tình cha cậu, các quan Tây cũng giúp đỡ ít nhiều. Hồi trước ở miền Nam, thấy ai ăn ở tánh nết ngang tàng, ông bà ta thường nói:
Cậu Hai, cậu chớ có lo,
Hết tiền, cậu cứ xuống kho lấy xài(3)
Tôi được nghe một giai thoại chính cụ Nguyễn Văn Vực kể lại: “Có một lần đoàn ghe hầu mấy chiếc của cậu Hai Miêng ngao du tới xứ Bạc Liêu. Lúc đó nhằm mùa khô, nhiều ghe chài đến “ăn lúa” tại nhà các đại điền chủ. Lúc đó, dưới bến sông, trước nhà anh em ông chủ Thời, chủ Vận diễn ra cảnh vác lúa xuống ghe rộn rịp như cái chợ. Ở địa phương này, dân chúng ai cũng ngán hai anh em chủ Thời, chủ Vận. Ông chủ Thời có một cô con gái tên là “Cô Hai Sáng”. Dân chúng khắp trong vùng này không ai dám nói đến chữ “Sáng” như “buổi sáng”, “hồi sáng mai”, mà phải nói lại “buổi sớm”, “sớm mới”... thì đủ biết thế lực hai ông ấy ra sao.
Khi mấy chiếc ghe hầu của cậu Hai Miêng do thủ hạ chèo đi ngang qua, vô tình ông chủ Thời trông thấy, kêu một đứa bạn (người ở đợ) gần đó, hỏi lòn:
- Ghe của ai đi dưới sông đó bây?
Nghe câu hỏi phách lối ấy, cậu Hai Miêng tức giận. Cậu cho ghe ghé lại. Thấy cô Hai Sáng đang đứng chơi dưới bến, cậu Hai Miêng liền cho tay chân bộ hạ bắt cô ta trói lại, và kéo lên cột buồm. Khi biết đó là cậu Hai Miêng, quan tham biện Pháp còn nể, ông chủ Thời xuống nước nhỏ, năn nỉ. Ông thương lượng với cậu Hai Miêng “xin chuộc” cô Hai Sáng bằng một bao cà ròn giấy bạc. Bao cà ròn đơn bằng đệm bàng, đáy rộng, miệng túm, hồi trước thường dựng gạo, dung lượng khoảng 10 lít (hay 1 yến), rất thông dụng ở Nam Kỳ hồi đầu thế kỷ 20. Lúc đó nhiều Hoa kiều từ miền Hoa Nam nhập cư vào miền Nam, chịu khó buôn bán lẻ. Hàng ngày, họ vác một bao cà ròn trên vai đựng cốm, kẹo, thuốc cảm mạo, kim, chỉ, thuốc hút, bánh in... đi len lỏi vào các miền quê bán dạo. Người dân quê gọi “cái chợ nhỏ lưu động ấy” là “chệt cà ròn” (cà ròn khị). Khi ông chủ Thời năn nỉ xin tha cho cô Hai Sáng, cậu Hai Miêng bằng lòng, mở trói cho cô Hai Sáng, rồi gia nhân ôm bao cà ròn đầy nhóc giấy bạc xuống ghe, chèo đi. Từ đó, ông chủ Thời, chủ Vận bớt hống hách với dân làng.
Bình thời, cậu Hai Miêng có tác phong của người bình dân, thân với tá điền, lối xóm quen lạ. Gặp lúc đương đầu với ai, cậu rất hung dữ vì có võ nghệ, dám chấp cả bọn du côn, đàng điếm chuyên ăn hiếp kẻ cô thế. Có lần cậu Hai Miêng xuống điền ông La Bách (Labast) ở Sóc Trăng, trừng trị bọn cặp rằng hà hiếp các nông dân tá điền, dân chúng địa phương còn nhắc tới cậu như một cử chỉ biết ơn.
Tuy có học bên Tây, nhưng cậu Hai Miêng cũng có ít nhiều tác phong của bọn du côn do ảnh hưởng của Thiên địa hội. Ông Cai tổng Lê Quang Chiều, người Phong Điền, Cần Thơ, là thúc phụ của bác sĩ Lê Văn Hoạch(?), có soạn quyển “Quốc âm Thi Hiệp Tuyển”, trong đó, có bài thơ ca ngợi cậu Hai Miêng:
Số hệ ai làm hỡi cậu Miêng?
Ba mươi tám tuổi du huỳnh tuyền. (1857-1895)
Sao lờ Bến Nghé xiêu người ngó,
Khói toả Cầu Kho thăm vợ hiền.
Đúng bực phong lưu trời vội dứt
Những trang hào kiệt đất không kiêng.
Cho hay khuất bóng danh còn tạc,
Nhựt báo đòi nơi đã khắp truyền.
Huỳnh Công Miêng mất năm 1895, được an táng trong một ngôi mộ lớn ở đường Nguyễn Tấn Nghiệm (nay là Trần Đình Xu). Thơ Cậu Hai Miêng là một trong những tập thơ có sức phổ biến rất mạnh ở Nam Kỳ. Thấy dân chúng hâm mộ con người ngang tàng ấy, người Pháp tìm cách ngăn cấm, nhưng không ngặt nghèo như các bài thơ khích động tinh thần yêu nước khác.
Nhiều người lớn tuổi vẫn thuộc lòng từng đoạn khác nhau. Quyển “Thơ Cậu Hai Miêng” do tác giả Văn Phước Nguyễn Bá Thời Sáng tác, nhà in Tín Đức Thư xã ấn hành năm 1928, lưu truyền lai rai, mãi đến năm 1954 mới tuyệt bản. Hai vợ chồng Huỳnh Công Tấn chỉ có 3 người con: một trai là Huỳnh Công Miêng, hai gái đều tu theo dòng kín. Thay vì sống cảnh đời trần tục để hưởng phú quý do tài sản của cha để lại, cả 3 người đều tìm một cuộc sống riêng tư. Tuy không phải là con đường phục vụ dân tộc để trả món nợ tội lỗi của cha, nhưng họ cũng không làm điều gì đáng chê trách. Vì lẽ đó, trong dư luận miền Nam có người nói rằng trường hợp Huỳnh Công Tấn “cây đắng sanh trái ngọt” không biết có đúng không?
Chú thích:
(1) Trường án: cái bàn dài; bua-rô ông chánh tham biện
(2) Búa xua: Bonjour, câu chào tiếng Pháp.
(3) Kho bạc, tức ty ngân khố
---------- Post added at 06:24 AM ---------- Previous post was at 06:18 AM ----------
Giai thoại về Công tử Bạc Liêu ( Hắc Công Tử )
Theo Phương Nghi
Công tử Bạc Liêu Trần Trinh Huy
Thời đó, thực dân Pháp đã ổn định về tổ chức của vùng đất thuộc địa Nam Kỳ. Do việc phân chia lại ruộng đất đã làm nảy sinh rất nhiều đại điền chủ ở vùng đất này. Thời đó dân gian đã có câu "nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Trạch" để chỉ 4 vị đại điền chủ giàu có nhất vùng đất Nam Kỳ. Theo phong trào khi ấy, các đại điền chủ, hào phú quyền quý khắp Nam Kỳ thường cho con lên Sài Gòn học ở các trường Pháp, thậm chí du học bên Pháp. Tuy nhiên, hầu hết các vị công tử giàu có này, ảnh hưởng bởi sự phồn hoa đô hội, sẵn tiền, nên thường đi vào con đường tay chơi để thể hiện mình. Trong số vị công tử ấy, không ai đủ sức xài tiền như các công tử Bạc Liêu. Thành ngữ "Công tử Bạc Liêu" có từ lúc ấy. Về sau, thành ngữ này chỉ dùng để chỉ công tử Trần Trinh Huy vì chẳng công tử nào sánh kịp về khả năng tài chính và độ phóng túng. Từ đó "Công tử Bạc Liêu" trở thành danh xưng riêng của Ba Huy, không một ai có thể tranh chấp.
Ngoài ra, Trần Trinh Huy còn được gọi bằng nhiều tên khác như Ba Huy, Hội đồng Ba (cách gọi của tá điền), Hắc công tử (do nước da ngăm đen và để phân biệt với Bạch công tử Mỹ Tho-Tiền Giang), trong một gia đình đại điền chủ giàu có vào bậc nhất, nhì vùng đất Nam Bộ thời kỳ đầu thế kỷ XX. Cha của Công tử Bạc Liêu là Trần Trinh Trạch (hay còn gọi là Hội đồng Trạch)-chủ sở hữu 74 sở điền với 110.000 ha đất lúa ruộng, gần 100.000 ha ruộng muối, vài chục căn phố lầu ở Bạc Liêu và nhiều biệt thự sang trọng ở Cần Thơ, Sài Gòn, Vũng Tàu, Đà Lạt....
Những giai thoại về Công tử Bạc Liêu
Ông Trạch giao cho Ba Huy việc trông coi điền sản. Đi đòi nợ các tỉnh, Ba Huy dùng chiếc Ford Vedette, còn đi chơi ông có chiếc Peugeot thể thao, sản xuất năm 1922. Loại xe đó cả miền Nam khi ấy chỉ có hai chiếc, chiếc kia là của vua Bảo Đại. Ba Huy còn thuê một người Pháp làm công cho mình. Đó là ông Henri Espérinas (em rể), chồng cô Tư Nhớt. Ông này làm quản lý, điều hành gia sản cho ông Hội đồng Trạch, dưới quyền Ba Huy. Theo hợp đồng, quản lý được hưởng 10% trên tổng số lợi tức thu được hàng năm. Chính vì vậy ông Henri mới bỏ "mẫu quốc" qua làm mướn cho bên nhà vợ, mãi đến tháng 4/1975 mới về nước. Một sự kiện chấn động cả nước khi đó là Ba Huy đi thăm ruộng bằng máy bay. Và lúc ấy cả Việt Nam cũng chỉ có 2 chiếc là của Công tử Bạc Liêu và của vua Bảo Đại. Một lần bay qua thăm điền Rạch Giá, Công tử Bạc Liêu hứng chí bay ra biển Hà Tiên chơi, cứ bay mải miết cho đến khi kim báo xăng không còn nhiên liệu, buộc lòng Ba Huy phải đáp khẩn cấp. Xuống đất, Ba Huy hoảng hốt biết mình đã bay sang tận Thái Lan. Trần Trinh Huy bị nhà cầm quyền Thái Lan bắt giữ và phạt 200.000 giạ lúa. Ông Hội đồng Trạch phải cho một đoàn ghe chở lúa thật dài qua tận Thái Lan để chuộc quý tử. Ông là người Việt Nam đầu tiên sở hữu máy bay tư nhân và sân bay tư nhân. Ba Huy sinh hoạt cực kì sang trọng và xa hoa. Ra đường là đóng bộ veston, thứ hàng đắt tiền nhất thời đó. Thói quen của Ba Huy là ăn sáng kiểu Tây, trưa ăn cơm Tàu, chiều ăn cơm Tây. Mỗi lần từ Bạc Liêu đi Sài Gòn là ông ta ngồi trên chiếc xe cáu cạnh, có tài xế lái. Khi lên Sài Gòn ít khi Công tử Bạc Liêu ở ngôi biệt thự gia đình mà vào một trong những khách sạn nổi tiếng sang trọng ở Sài Gòn. Có khi hứng chí đi dạo mát , Ba Huy thuê cả chục chiếc xe kéo, ông ta ngồi một chiếc, những chiếc còn lại chở những món đồ như mũ, gậy...
Một sự kiện đã tạo thành giai thoại Công tử Bạc Liêu là năm 1929, Bạch công tử (BCT) lập luôn hai gánh cải lương là Phước Cương và Huỳnh Kỳ, mời hai cô đào tài sắc thời đó là cô Năm Phỉ và cô Bảy Phùng Há về thủ vai chính cho hai đoàn. Một lần, đoàn Huỳnh Kỳ có cô Bảy Phùng Há về Bạc Liêu diễn, BCT mời Hắc Công Tử (HCT) đi xem. Đang xem, BCT móc thuốc hút, vô ý làm rớt tờ giấy con công (giấy bạc 5 đồng thời đó), BCT gạt chân HCT kiếm. HCT thấy vậy hỏi: Toa kiếm gì vậy?. Kiếm tờ con công. HCT mỉm cười nói: Để moa đốt đuốc cho toa kiếm. Nói rồi HCT móc tờ giấy bạc bộ lư (mệnh giá 100 đồng) châm lửa soi cho BCT kiếm (thời đó lúa chỉ có 8-9 cắc một giạ). Bị một vố quá mạng, vãn tuồng, BCT nói: Toa chơi moa một cú đau quá. Bây giờ nếu toa ngon, toa với moa cân mỗi người ký đậu xanh, rồi lấy tiền nấu, ai sôi trước người ấy thắng? HCT đâu chịu thua. Tối hôm sau, HCT cho trải thảm đỏ từ ngoài cổng vào tận thềm nhà (nay là Bảo tàng tỉnh Bạc Liêu), cứ mỗi thước cho một gia nhân cầm đuốc soi đường, nghinh đón phái đoàn của BCT. Hai nồi đậu xanh được nhắc lên bếp, hai chàng công tử lấy tiền ra đốt. Nồi đậu xanh của BCT hôm đó sôi trước. Ba Huy cũng là một kẻ mê cờ bạc, có những khi ông ta đánh một cây bài 30.000 đồng, trong khi lúa chỉ 1,7 đồng một giạ, lương của Thống đốc Nam Kỳ chưa tới 3.000 đồng một.
Về thăm Khách sạn Công tử Bạc Liêu
Có một địa chỉ mà bất cứ du khách nào khi đặt chân về Bạc Liêu cũng muốn tìm đến, nghỉ một đêm cho biết. Đó là Khách sạn Công tử Bạc Liêu. Khu nhà cổ tọa lạc ở 13 Điện Biên Phủ, phường 3, thị xã Bạc Liêu-Bạc Liêu là nơi gia đình ông Trần Trinh Huy từng trú ngụ. Ngôi nhà được xây dựng năm 1919 do kỹ sư người Pháp thiết kế và xây dựng. Nhà có tất cả 2 tầng. Tầng trệt gồm 2 phòng ngủ, 2 đại sảnh. Chính giữa là cầu thang lên lầu trên gồm 3 phòng ngủ, 2 đại sảnh, phòng ở hướng đông bắc là phòng của ông Trần Trinh Trạch, phòng đối diện là phòng của Công tử Bạc Liêu Trần Trinh Huy. Đây là căn nhà được coi là bề thế nhất không chỉ ở Bạc Liêu mà cả lục tỉnh Nam Kỳ lúc bấy giờ. Từ đó đến nay, gần một thế kỷ qua, căn nhà gần như vẫn giữ được những nét cơ bản của nó. Năm 2003, Công ty Du lịch Bạc Liêu đã đầu tư tu sửa căn nhà nhằm đưa vào kinh doanh văn hóa du lịch. Hiện nay Nhà hàng-Khách sạn Công tử Bạc Liêu được thiết kế 10 phòng nghỉ. Giá phòng từ 200.000 - 240.000đồng/ngày đêm. Chị Võ Kim Cương - Giám đốc Khách sạn Công tử Bạc Liêu cho biết: Từ ngày đưa vào hoạt động, Khách sạn công tử Bạc Liêu luôn đạt công suất khá cao gần 80%. Riêng căn phòng của Công tử Bạc Liêu (phòng 101) có giá thuê 350.000 đồng/ngày đêm, nhưng phải đặt trước từ 7-10 ngày, vì phòng này lúc nào cũng có khách, phần đông là Việt Kiều. Nhà hàng - Khách sạn Công tử Bạc Liêu hiện nay được rất nhiều người dân Bạc Liêu nhất là những đôi uyên ương chọn làm tiệc cưới. Tuy nhiên do qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau mà vật dụng trong gia đình đã thất lạc rất nhiều, nhưng với những gì còn sót lại và được bảo quản như hiện nay cũng đủ nói lên được sự giàu có của gia đình ông Hội đồng Trạch lúc bấy giờ.
---------- Post added at 06:27 AM ---------- Previous post was at 06:24 AM ----------
Bạch Công Tử ( Lê Công Phước )
ST
Bạch công tử là một tay chơi nổi tiếng ở miền Nam những năm của thập niên 1920, 1930. Cùng với Hắc công tử, tức Công tử Bạc Liêu, Bạch công tử để lại nhiều giai thoại về ăn chơi hoang phí. Bạch công tử còn là người có rất nhiều đóng góp cho nghệ thuật cải lương ở miền Nam khi đó. Ông là chồng của nghệ sĩ nhân dân Phùng Há.
Bạch công tử tên thật là Lê Công Phước, còn thường gọi George Phước. Tên Bạch công tử là để phân biệt với Công tử Bạc Liêu Ba Huy, vì có nước da đen nên được gọi Hắc công tử. George Phước là con trai thứ tư của Đốc phủ Lê Công Sủng[1], người ở làng Điều Hòa, tỉnh Mỹ Tho xưa, nay thuộc phường 3, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.
Theo các tài liệu còn ghi lại thì Đốc phủ Sủng là người gốc miền Trung, khoảng thập niên 1880 vào làm quận trưởng Châu Thành, sau làm quận trưởng Chợ Gạo và định cư tại đây. Là một trong những người có thế lực trong vùng thời bấy giờ, Đốc phủ Sủng từng đại diện cho tỉnh Mỹ Tho đi dự hội chợ bên Pháp và cũng nhờ vậy Bạch Công tử được đi du học tại Pháp vào năm 1909. Điều nầy trong Điếu Cổ Hạ Kim thi tập in năm 1909 có nhắc tới.
Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Trương Ngọc Tường thì gia đình Đốc phủ Sủng không giàu. Ông Sủng có nhiều vợ, trong đó có bà Đào Thị Linh là người ở Chợ Cũ, Mỹ Tho, có quốc tịch Pháp. Hai người kết hôn chính thức có hôn thú, nhưng nửa chửng thì chia tay nhau. Thời gian sau, khi bà Linh bị bệnh lao (bấy giờ là bệnh nan y) thì không hiểu lý do gì hai người tái hợp và kết hôn lại. Sau đó Đốc phủ Sủng thuê một căn phố ở Sài Gòn để nuôi bà Linh. Sau khi bà Linh chết khi còn rất trẻ và để lại một gia tài lớn cho cha con ông Sủng. Theo Điếu Cổ Hạ Kim thi tập năm 1915 của Nguyễn Liên Phong thì đám tang bà Linh bấy giờ được tổ chức khá ầm ĩ, có lính Tây đem dàn nhạc tới đưa tiễn
Gánh hát Phước Cương và Huỳnh Kỳ
Vốn là người rất mê cải lương, trong thời gian ở Pháp George Phước từng học về ngành sân khấu. Về nước, George Phước cùng ông Nguyễn Ngọc Cương lập gánh hát Phước Cương (tên ghép của hai người). Gánh gát quy tụ được rất nhiều đào kép nổi tiếng thời bấy giờ như Năm Phỉ, Tám Danh, Tám Mẹo... Nhưng chỉ một năm sau George Phước tách ra và lập gánh Huỳnh Kỳ với sự tham gia của Phùng Há, Ba Vân, Năm Phỉ, Tám Du, Năm Thiện, Ba Thâu, Ba Đồng, Chín Móm, Năm Kiệt, Hai Sự, Hai Nữ, Tư Bé, Tư Hélènne... Theo nhiều tài liệu ghi lại thì đây là gánh cải lương có quy mô lớn ở vùng lục tỉnh Nam kỳ. Và cô đào nổi tiếng nhất Bảy Phùng Há chính là vợ của Bạch công tử.
Trong thời gian đó, George Phước cho xây dựng rạp hát cũng với tên Huỳnh Kỳ, bên cạnh ngôi nhà của ông tại Mỹ Tho để làm nơi gánh hát biểu diễn thường xuyên. Đến khi George Phước sạt nghiệp thì cả ngôi nhà và rạp hát đều bán lại cho ông Lê Ngọc Chiếu, một người giàu có ở vùng Chợ Gạo và rạp hát sau đó được đổi tên thành rạp Lê Ngọc. Khoảng năm 1963, ông Chiếu bán lại rạp hát cho người khác và đổi tên thành rạp Viễn Trường, đến thập niên 1980 lại được đổi tên thành rạp Mỹ Tho. Rạp hát hiện vẫn còn trên đường Đinh Bộ Lĩnh, thành phố Mỹ Tho. Còn ngôi nhà sau năm 1975 được sử dụng làm trụ sở UBND phường 3, hiện nay là trụ sở Phòng Văn hóa Thông tin và Thể thao Mỹ Tho.
Bạch Công tử đã tiêu tốn rất nhiều tiền vì sự nghiệp cải lương. Thời đó những gánh hát khác đều đi bằng ghe chèo thì Bạch Công tử lại sắm một lúc tới 3 chiếc ghe có gắn máy dùng để chở đào kép đi lưu diễn và được trang bị như là du thuyền. Theo mô tả thì chiếc đi đầu chở Bạch Công tử và Phùng Há, có lầu, phía trước có cột cờ và treo cờ vàng, biểu tượng của gánh Huỳnh Kỳ. Đào kép thì đi trên chiếc ghe thứ hai, được ngăn thành nhiều phòng, nhiều ô cửa sổ, có bếp ăn, chỗ vệ sinh... Chiếc thứ ba thì chở thầy đờn, nhân viên phục vụ và cả một đội bóng. Mỗi khi gánh hát đi tới đâu, Bạch Công tử cho đào kép lên bờ đứng xếp hàng và bắt tay xã giao với chính quyền sở tại. Sau đó thì hát bản Đoàn ca, cờ vàng được kéo lên và Bạch Công tử lấy súng lục ra đưa lên trời nổ liền mấy phát. Sau đó, trong lúc đào kép lo chuẩn bị cho đêm diễn thì đội bóng thi đấu giao hữu với đội bóng của địa phương, với mục đích thu hút khán giả tối đi xem hát. Và cho dù thắng hay thua, đội bạn cũng được chiêu đãi và mời xem hát. Nhờ lưu diễn bằng ghe nên thời đó dù ở những vùng chợ quê xa xôi như Vĩnh Kim, Ba Dừa, Cái Thia... đều có gánh hát tới. Được biết trong hồi ký của nghệ sĩ Ba Vân cũng có nhắc tới việc này. Ông xem Bạch Công tử như là người ơn, vì đã có công đóng góp, tạo điều kiện cho sân khấu cải lương phát triển.
Vở tuồng ăn khách nhất của gánh Huỳnh Kỳ là Giọt máu chung tình, do Năm Thiên đóng vai Võ Đông Sơ và Phùng Há vai Bạch Thu Hà. Mỗi lần gánh hát dời đi nơi khác, Bạch Công tử lại cho kéo cờ vàng, đốt pháo và rút súng lục ra bắn. Khán giả thì đứng chen trên bờ vẫy tay chào. Không chỉ để lại dấu ấn trong lòng người dân miền sông nước, gánh Huỳnh Kỳ của Bạch Công tử còn thu hút được khán giả Sài Gòn. Trong hồi ký Nổi trôi trong ánh đèn màu, nghệ sĩ Bảy Nhiêu đã viết: "Đến 3 giờ chiều thì vé các hạng của gánh Huỳnh Kỳ đều hết. Nhiều người thất vọng đón buổi tối để mua cho được vé đêm mai". Đến năm 1930, do ảnh hưởng cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, đời sống người dân hết sức khó khăn, nhiều gánh cải lương buộc phải giải tán, trong đó có gánh Huỳnh Kỳ. Khoảng 5 năm sau, Bạch Công tử cho tái lập lại nhưng không gây được tiếng vang. Vì vậy ông cho giải thể, chấm dứt sự nghiệp theo cải lương.
Cuối đời
Lúc còn hưng thịnh, Bạch công tử từng tuyên bố ông sẽ không bao giờ nhờ vả người khác. Nếu có sạt nghiệp thì ông sẽ lái xe hơi ra Vũng Tàu và chạy thẳng xuống biển để kết liễu cuộc đời. Nhiều người cho rằng gọi là "ăn chơi" nhưng thực ra Bạch Công tử cũng chỉ lo cho gánh hát. Mặc dù vậy ông cùng với Công tử Bạc Liêu để lại khá nhiều giai thoại. Và trong giai đoạn đó, những người như Bạch Công tử, như thầy Năm Tú (người nhập cảng linh kiện từ Pháp về tổ chức lắp ráp và kinh doanh máy hát đĩa thời đó) đã có công trong việc phát triển cải lương ở Nam bộ. Vương Hồng Sển, trong hồi ký 50 năm mê hát của mình cũng viết: "Tôi có nhiều cảm tình riêng đối với Cậu Tư".
Sau khi chia tay với Phùng Há, Bạch công từ ngày càng lún sâu vào nghiện ngập. Tài sản lần lượt bán hết, người ta thấy ông lang thang ở vườn Ông Thượng (nay là Tao Đàn, thành phố Hồ Chí Minh). Mặc cho cơn nghiện và đói khát hành hạ, ông không hề ngửa tay xin xỏ hay nhờ vả ai.
Sau đó ông được một người thân mang về chăm sóc. Đó là ông Nguyễn Ngọc Phi[2], một điền chủ đất ở chợ gạo, con trai một người bạn thân của ông Lê Công Sủng, bố của Bạch công tử.
Cuối năm 1949, Nguyễn Ngọc Phi đưa Bạch công tử về về chăm sóc tại gia đình ông ở thị trấn Chợ Gạo. Nhưng vì hậu quả của nghiện ngập, Bạch công tử mất đầu năm 1950.
Theo ông Trương Ngọc Tường thì sau khi đã thành danh, nữ nghệ sĩ Phùng Há nhớ lại những người từng là ân nhân trước đây như thầy tuồng, đạo diễn, bà đã bỏ tiền ra xây mồ mả cho nhiều người. Trong đó có việc cải táng mộ Đốc phủ Lê Công Sủng và 2 người con của bà với Bạch Công tử đưa về Sài Gòn. Riêng mộ Bạch Công tử thì vẫn còn tại Chợ Gạo.
CÔNG TỬ BẠC LIÊU
Công tử Bạc Liêu
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Mục từ "công tử Bạc Liêu" dẫn đến bài này. Xin đọc về các nghĩa khác tại công tử Bạc Liêu (định hướng).
Công tử Bạc Liêu' là cụm từ dân gian ở miền Nam Việt Nam đặt ra vào cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 [1] để chỉ các công tử, con của những gia đình giàu có sống ở tỉnh Bạc Liêu, trong thời kỳ xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc[1]. Thời đó, thực dân Pháp đã ổn định về tổ chức của vùng đất thuộc địa Nam Kỳ. Do việc phân chia lại ruộng đất, đã làm nảy sinh rất nhiều đại điền chủ ở vùng đất này.[2] Theo phong trào khi ấy, các đại điền chủ, hào phú quyền quý khắp Nam Kỳ thường cho con lên Sài Gòn học ở các trường Pháp, thậm chí du học bên Pháp [3].
Tuy nhiên, hầu hết các vị công tử giàu có này, ảnh hưởng bởi sự phồn
hoa đô hội, sẵn tiền, nên thường đi vào con đường ăn chơi để thể hiện
mình. Ngày nay, Công tử Bạc Liêu trở thành một thành ngữ để chỉ những kẻ ăn chơi, tiêu tiền như nước [1][4][5] .Mục lục |
Các công tử Bạc Liêu
Trần Trinh Huy
Phan Kim Cân
Về sau, ông Cân được làm Ủy viên Tài chánh Ngân khố tỉnh Bạc Liêu cho chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa[3] và là đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam khu Tây Nam bộ [7].
Trần Trinh Đinh
Trần Trinh Khương
Huỳnh Văn Phước
Theo nhà văn Phan Trung Nghĩa, đối tượng khai sinh ra thành ngữ Công tử Bạc Liêu chính là Huỳnh Văn Phước. Tương truyền Dù Hột “chịu chơi” đến mức khi thấy có 5 chiếc xe tranh nhau chở khách bèn bao tất tần tật vì ngưỡng mộ cái thú trả tiền không cần “cân đo đong đếm”. Công tử Dù Hột cho một chiếc chở ông, chiếc chở nón, chiếc chở gậy, chiếc chở cặp da và chiếc chở mắt kiếng...[5].
Các công tử tay chơi khác
Theo nhà báo, nhà văn Phan Trung Nghĩa, tác giả quyển sách “Công tử Bạc Liêu - sự thật và giai thoại” thì thành ngữ Công tử Bạc Liêu được xã hội hóa và gọi chung cho tất cả những “địa chủ con” ... gồm những công tử có máu ăn chơi danh bất hư truyền[5]. Một số công tử cũng nổi tiếng ở những vùng khác nhau của miền nam:Công tử Mỹ Tho Lê Công Phước
Công tử Vĩnh Long Châu Văn Sanh
Châu Văn Sanh hay còn gọi là công tử Lời là một Liệt sĩ [11]Công tử Cần Thơ Dương Văn Quảng
Công tử Cần Thơ Dương Văn Quảng là con của ông Dương Lập Cang. Ông Cang được cho là người khởi công xây dựng ngôi đình Bình Thủy và nhà cổ Bình Thủy nổi tiếng [12]Chú thích
- ^ a b c d e Theo Đất Việt (19 tháng 2 năm 2010). “Những "quái nhân" của nhà công tử Bạc Liêu”. 24h.com. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2012.
- ^ a b Baobaclieu (14 tháng 12 năm 2012). “Kiểu 'đốt tiền' dị thường của đại công tử miền Nam xưa”. Yahoo! Asia Pacific Pte Ltd. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2012.
- ^ a b c Baobaclieu (25 tháng 11 năm 2011). “CÔNG TỬ BẠC LIÊU – SỰ THẬT VÀ GIAI THOẠI (kỳ 20)”. Trang thông tin chính thức của Đài PT-TH Bạc Liêu. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2012.
- ^ NGHÊ DŨ LAN (5 tháng 4 năm 2011). “Thân thế ông Trần Trinh Trạch”. Báo SÀI GÒN GIẢI PHÓNG. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2012.
- ^ a b c d Lục Tùng - Nhật Hồ. “Chuyện công tử Bạc Liêu và “đại yến gan rồng””. Cơ quan của TW Hội Khuyến học Việt Nam. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2012.
- ^ Công tử Bạc Liêu đã có máy bay riêng cách đây gần... 1 thế kỷ
- ^ Trích từ tác phẩm Dấu xưa Nam bộ - NVX Văn Nghệ 2006 (20 tháng 8 năm 2008). “Gia tộc “Công tử Bạc Liêu””. Vĩ Nhân Online. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2012.
- ^ Gia tộc “Công tử Bạc Liêu”
- ^ Hà Đình Nguyên (26 tháng 8 năm 2010). “Trần Trinh Trạch - thân phụ của công tử Bạc Liêu”. Thanh Niên Online. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2012.
- ^ “Bạch công tử - ông hoàng khi chết không có đất chôn - Phụ nữ Today”. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2012.
- ^ NGUYỄN NGỌC (2012-15-04). “Chuyện về “công tử” Vĩnh Long: Bài 2: Bạn tù của cố Tổng Bí thư Trần Phú”. Trang thông tin điện tử báo Pháp luật TP.HCM. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2012.
- ^ CHUYỆN VỀ NGÔI NHÀ CỔ 130 TUỔI Ở MIỀN TÂY - Ký của HỒNG
Trần Trinh Huy
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trần Trinh Huy | |
---|---|
Chân dung Công tử Bạc Liêu Trần Trinh Huy |
|
Sinh | Trần Trinh Quy 22 tháng 6, 1900 Bạc Liêu |
Mất | 13 tháng 1, 1974 (73 tuổi)[1] Sài Gòn |
Tên khác | Công tử Bạc Liêu, Hắc công tử |
Công việc | Tay chơi |
Mục lục |
Thành ngữ
Vốn thành ngữ "Công tử Bạc Liêu" ra đời từ những năm đầu thế kỷ 20. Thời đó, thực dân Pháp đã ổn định về tổ chức của vùng đất thuộc địa Nam Kỳ. Do việc phân chia lại ruộng đất, đã làm nảy sinh rất nhiều đại điền chủ ở vùng đất này. Thời đó dân gian đã có câu "Nhất Sỹ, Nhì Phương, Tam Xường, Tứ Trạch" để chỉ 4 vị đại điền chủ giàu có nhất vùng đất Nam Kỳ. Theo phong trào khi ấy, các đại điền chủ, hào phú quyền quý khắp Nam Kỳ thường cho con lên Sài Gòn học ở các trường Pháp, thậm chí du học bên Pháp. Tuy nhiên, hầu hết các vị công tử giàu có này, ảnh hưởng bởi sự phồn hoa đô hội, sẵn tiền, nên thường đi vào con đường tay chơi để thể hiện mình. Trong số vị công tử ấy, không ai đủ sức xài tiền như các công tử Bạc Liêu. Thành ngữ "Công tử Bạc Liêu" có từ lúc ấy. Về sau, thành ngữ này chỉ dùng để chỉ công tử Trần Trinh Huy vì chẳng công tử nào sánh kịp về khả năng tài chính và độ phóng túng đối với vị công tử này. Từ đó "Công tử Bạc Liêu" trở thành danh xưng riêng của Ba Huy, không một ai có thể tranh chấp.Công tử Bạc Liêu
Xuất thân
Trần Trinh Huy, tên thật là Trần Trinh Quy sinh ngày 22 tháng 6 năm 1900, nhưng do cho rằng cái tên "Quy" không sang trọng nên ông đổi lại thành "Huy". Ngoài tên Công tử Bạc Liêu, Trần Trinh Huy còn mang nhiều tên khác như Ba Huy, Hội đồng Ba (cách gọi của tá điền, sự thật thì Ba Huy không là thành viên trong hội đồng nào), Hắc công tử (do nước da ngăm đen và để phân biệt với Bạch công tử).Trần Trinh Huy là con trai ông Trần Trinh Trạch, tức Hội Đồng Trạch[2] một người xuất thân là thư ký làng, nhờ cưới được cô Tư, con gái của ông bá hộ Phan Văn Bì, người có đất ruộng nhiều nhất trong tỉnh Bạc Liêu, người ta tặng cho ông Bá hộ là "Vua lúa gạo Nam Kỳ". Ông Trạch là người Triều Châu lai, chỉ thích làm ăn.[3] Ông Bá hộ chọn rể cho cô con gái thứ Tư trong trường hợp đặc biệt. Hằng năm ông tới Tòa Bố (tòa Hành chánh) tỉnh đóng thuế điền địa. Trong nhiều năm ông chấm viên thư ký điền địa tên Trần Trinh Trạch là người đứng đắn đàng hoàng. Ông hỏi thăm gia thế thì biết thầy ký Trạch chưa vợ. Ông mời về nhà chơi, tạo thuận lợi cho thầy ký Trạch trông thấy cô con gái thứ tư của ông. Nhiều lần tới lui, hai bên "mến tay mến chân". Ông Bá hộ thấy hai đứa nhỏ "tình trong như đã mặt ngoài còn e" liền làm lễ cưới. Ông cho con gái và rể một sở đất để ra riêng. Thầy ký Trạch xin nghỉ làm công chức điền địa để làm chủ điền. Với trình độ văn hóa tương đối khá, lại có ông già vợ cho đất, giúp vốn nên không bao lâu thầy kỳ Trạch phất lên. Với huê lợi hàng năm, ông sắm thêm đất điền. Có điều ông Bá hộ không thích là đất ông tách bộ cho các con của ông lần lượt chạy về tay chàng rể thứ tư. Nguyên do là các con ông mê cờ bạc nên đem đất điền cầm cố nơi anh rể. Cầm cố lâu năm không chuộc kể như mất luôn. Ông Bá hộ chỉ tự an ủi là "lọt sàng xuống nia", các sở đất đó không rơi vào người ngoài, thương con gái thì phải thương rể. Nhờ vậy, Hội Đồng Trạch càng ngày càng giàu có, đồn điền ruộng lúa có thể được xếp vào hàng bậc nhất miền Nam lúc bấy giờ. Có người viết:
- Nghèo đến thằng mình còn chạy quýnh
- Giàu như ông Trạch cũng buồn thiu
Con người
Trần Trinh Huy từng đi du học ở Pháp, sau ba năm về nước không một mảnh bằng, để lại một người vợ Pháp và một đứa con ở lại Paris. Khi Ba Huy về nước ông Trạch kéo gia đình lên Sài Gòn đón quí tử. Chiếc xe Ford đang dùng tốt nhưng ông nói nhân sự kiện đặc biệt này phải sắm thêm một chiếc xe mới, cho xứng với học hàm, học vị của cậu Ba, cho rạng mặt Trần gia.Trần Trinh Huy là người cao lớn, khoảng 1,70 m, lực lưỡng nhưng không cục mịch, trái lại dáng người rất thanh thoát, sang trọng, da đen, mày rậm... người đầy sinh lực. Tính tình Huy rất dễ dãi và hào phóng. Người trong nhà lầm lỗi, Huy cũng ít rầy la. Bà con ở xa lên thăm, Huy đều cho tiền. Tá điền không thấy Huy đòi nợ ai bao giờ, ai nghèo quá, năn nỉ Huy còn bớt lúa ruộng. Cho nên tá điền Bàu Sàng ít ai oán ghét Ba Huy.
Trong các mối quan hệ, Ba Huy là người khoáng đạt, không dè dặt và mưu toan gì. Thời đó, các cậu công tử lẫn điền chủ điều chơi với người Pháp thì rất khúm núm, nịnh nọt, gọi là "chơi thế". Riêng Ba Huy thì cứ "toa toa" "moa moa"[4] sòng phẳng, ngang hàng. Nếu như trong mắt giới giang hồ tứ chiếng, Ba Huy là một người ngon nhất Nam bộ, thì trong mắt người Pháp, Huy được nể trọng vì có vợ đầm và mướn người Pháp làm công cho mình. Tánh của Ba Huy vị tha và coi tiền như rơm rác. Bút tích của Huy cho thấy tuy nét chữ bay bướm nhưng lại rất xấu, chứng tỏ đó là một con người thông minh, từng trải nhưng đường học vấn không đến nơi đến chốn.
Ba Huy cũng là người rất cởi mở, không cổ hủ, cực đoan như nhiều điền chủ khác. Ông từng ủng hộ Việt Minh một lúc 13.000 giạ lúa. Công tử Bạc Liêu còn tỏ ra là một con người tự trọng, đã hứa với Chính phủ những gì thì ông sẽ làm thế ấy. Ông đã hứa với người lãnh đạo cao nhất của Tỉnh ủy Bạc Liêu là giảm tô, không hợp tác với Pháp, gửi vải vóc thuốc men cho kháng chiến và thực hiện đúng như vậy. Thích hội hè, Ba Huy có lẽ là người tổ chức hội chợ và hội thi "Hoa hậu miệt đồng" đầu tiên ở đồng bằng sông Cửu Long.
Ba Huy có bốn người vợ và rất nhiều nhân tình. Người vợ đầu là người Pháp, trong thời gian Ba Huy đi học ở Paris. Về nước ông cưới một người vợ ở Bạc Liêu là Ngô Thị Đen. Bà này ở với Ba Huy sinh được người con gái là cô Hai Lưỡng. Sau cô Hai Lưỡng qua Pháp sống. Từ năm 1945, Ba Huy lên Sài Gòn ở hẳn. Ông lấy thêm một bà nữa (bà Nguyễn Thị Hai) và sinh được ba người con: Thảo, Nhơn, và Đức.
Bà cuối cùng, khoảng năm 1968, Ba Huy dọn về căn nhà phố đường Nguyễn Du, Sài Gòn. Mỗi sáng đứng trên lầu nhìn xuống, ông thấy một cô gái gánh nước đi qua đẹp quá. Hỏi thăm thì đựơc biết cô gái đó là con ông già làm nghề sửa xe đạp. Ba Huy đến nhà ông già xin "đổi" căn nhà đó lấy cô gái. Ông già và cô gái sau khi bàn bạc đồng ý. Và đó là người vợ cuối cùng của Ba Huy, kém ông đến 50 tuổi. Bà sống chung thủy với ông đến ngày ông qua đời. Họ có ba con trai và một con gái tên Hoàn, Toàn, Trinh và Nữ.
Ba Huy còn rất nhiều con với các nhân tình. Tuy những người đó không phải vợ chính thức nhưng con cái của họ đều được Trần gia thừa nhận. Ông mất năm 1974 ở Sài Gòn và được đưa về an táng trong phần mộ gia đình tại ấp Cái Dầy, xã Châu Hưng, huyện Vĩnh Lợi, Bạc Liêu.
Những giai thoại
Thú chơi xe
Ông Trạch giao cho Ba Huy việc trông coi điền sản. Huy đi vào các sở điền bằng xe hơi hoặc ca nô. Việc này là một sự kiện đặc biệt, Ba Huy đi đến đâu tá điền ùn ùn kéo đến xem, vì cả đời họ chưa được nhìn thấy xe hơi, ca nô bao giờ. Đi đòi nợ các tỉnh, Ba Huy dùng chiếc Ford Vedette, còn đi chơi ông có chiếc Peugeot thể thao, sản xuất năm 1922. Loại xe đó cả miền Nam khi ấy chỉ có hai chiếc, chiếc kia là của vua Bảo Đại.Thuê người Pháp làm công
Ba Huy còn thuê một người Pháp làm công cho mình. Đó là ông Henri, chồng bà Tư Nhớt, một người trong gia tộc Trần Trinh. Ông này làm quản lý, điều hành gia sản cho ông Hội Đồng Trạch, dưới quyền ba Huy. Theo hợp đồng, quản lý được hưỏng 10% trên tổng số lợi tức thu được hàng năm. Chính vì vậy ông Henri mới bỏ "mẫu quốc" qua làm mướn cho bên vợ, mãi đến tháng 4 năm 1975 mới về nước.Thú mê võ
Công tử Bạc Liêu rất mê nghề võ. Vào nửa đầu thế kỷ 20, học võ là một cái mốt với nhận thức: Học võ để nâng cao cái khí phách thượng võ của kẻ anh hào. Ba Huy không học võ Tây hay võ Ta mà học võ Xiêm. Ông ta đã cất công qua Xiêm mướn một ông thầy thượng hạng về dạy cho mình và Tám Bò, là em út của ông ta.Người Việt đầu tiên sở hữu máy bay
Một sự kiện chấn động cả nước khi đó là Ba Huy đi thăm ruộng bằng máy bay. Và lúc ấy cả Việt Nam cũng chỉ có 2 chiếc là của Công tử Bạc Liêu[5] và của vua Bảo Đại. Một lần bay qua thăm điền Rạch Giá, Công tử Bạc Liêu hứng chí tranh lái với phi công Pháp, bay ra biển Hà Tiên chơi, cứ bay mải miết cho đến khi kim báo xăng không còn nhiên liệu, buộc lòng Ba Huy phải đáp khẩn cấp. Xuống đất, Ba Huy hoảng hốt biết mình đã bay lọt sang tận nước Xiêm. Trần Trinh Huy bị Nhà nước Xiêm bắt giữ và phạt 200 ngàn giạ lúa. Ông Hội đồng Trạch phải chở một đoàn ghe chở lúa thật dài qua tận Xiêm để chuộc quí tử về. Ông là người Việt Nam đầu tiên sở hữu máy bay tư nhân và sân bay tư nhân.[6]Thú vui di chuyển
Ba Huy sinh hoạt cực kỳ sang trọng và xa hoa. Ra đường là đóng bộ veston, thứ hàng đắt tiền nhất thời đó. Thói quen của Ba Huy là ăn sáng kiểu Tây, trưa ăn cơm Tàu, chiều ăn cơm Tây. Mỗi lần từ Bạc Liêu đi Sài Gòn là ông ta ngồi trên chiếc xe cáu cạnh, có tài xế lái. Khi lên Sài Gòn ít khi Công tử Bạc Liêu ở ngôi biệt thự của Trần gia mà vào một trong những khách sạn nổi tiếng sang trọng ở Sài Gòn. Có khi hứng chí đi dạo mát Ba Huy thuê cả chục chiếc xe kéo, ông ta ngồi một chiếc, những chiếc còn lại chở những món đồ như mũ, cây "can"...Công tử Bạc Liêu là một người luôn xê dịch và rất ham vui, những cuộc ăn chơi nổ trời diễn ra, Trần Trinh Huy lặn ngụp trong những bàn tiệc với rượu sâm banh. Mỗi chủ nhật ông đều đi nghỉ cuối tuần ở Vũng Tàu, Đà Lạt hoặc về Cần Thơ. Ba Huy cũng là một kẻ mê cờ bạc, có những khi ông đánh một cây bài 30.000 đồng, trong khi lúa chỉ 1,7 đồng một giạ[7], lương của Thống đốc Nam Kỳ chưa tới 3.000 đồng một tháng.
Giao tranh Hắc - Bạch công tử
Bạch công tử là Lê Công Phước hay còn gọi là George Phước, con trai của Đốc phủ Lê Công Sủng[8], người ở làng Điều Hòa, tỉnh Mỹ Tho[9]. Phước cũng là một tay chơi nổi tiếng khi đó, da trắng nên được gọi Bạch công tử để phân biệt với Ba Huy. George Phước say mê cải lương, từng qua Pháp học về sân khấu. Về nước Phước cùng một người khác bỏ tiền lập hai gánh hát Phước Chương và Huỳnh Kỳ nổi tiếng với cô đào chánh đệ nhất tài sắc đương thời là cô Bảy Phùng Há và một cô đào tài sắc khác là Năm Phỉ. Cùng nổi tiếng ăn chơi, Bạch công tử và Hắc công tử trở thành kỳ phùng địch thủ.Tác giả Nguyễn Thiện viết:
“ | "Đang lúc cô Ba Trà, một người con gái có sắc đẹp làm xao xuyến
tâm hồn Bạch công tử, thua bài sạch túi, ông trưởng giả lớn tuổi chưa
kịp cung phụng tiền bạc tiếp để vừa lòng mỹ nhân, Bạch Công tử lù lù lái
xe lại nhà cô Ba Trà, rủ xuống Cần Thơ ăn cá cháy và đánh bài gỡ bạc. Hai người vừa xuống đến quán Bungalows ở Cần Thơ, máy xe chưa nguội thì chiếc Sport tám máy của Hắc Công Tử cũng vừa tới, thắng cái két. Cả hai lâm vào cảnh khó xử, việc chiếm được mỹ nhân chỉ còn cậy vào tài chinh phục của bản thân mình. Cả ba cùng đưa nhau vào khách sạn. Bạch Công tử lột chiếc cà rá hột xoàn trị giá 3.000 đồng vào thời đó để trên bàn trước khi vào phòng tắm. Lúc trở ra, thấy cô Ba Trà đeo thử nó trên tay, Bạch Công tử liền lên tiếng tặng luôn. Sau đó Hắc Công tử đã mua tặng cô Ba Trà một chiếc nhẫn trị giá gấp đôi..." |
” |
Đốt tiền nấu đậu xanh
Có nhiều giai thoại kể về cuộc thi đốt tiền nấu đậu xanh gữa Hắc Công Tử và Bạch Công Tử. Chuyện kể hai người thi nhau đốt tiền để nấu chín một kg đậu xanh, ai nấu chín trước thì thắng. Không rõ hai người đã đốt bao nhiêu nhưng kết quả Bạch Công Tử thắng.[10]Dấu tích "Công tử Bạc Liêu" ngày nay
Ngày nay, Công tử Bạc Liêu trở thành một thương hiệu du lịch hấp dẫn của tỉnh Bạc Liêu. Tòa biệt thự của Ba Huy khi xưa nay trở thành Khách sạn Công tử Bạc Liêu.Ngôi biệt thự của công tử Bạc Liêu được xây dựng từ năm 1919, do kỹ sư người Pháp thiết kế. Để đảm bảo độ bền và diện mạo kiến trúc, chủ nhân đã đặt hàng và cho chuyên chở toàn bộ vật liệu xây dựng như thép đúc, cửa, cẩm thạch lát nền, gạch, khung sắt trang trí từ Pháp qua. Các bù loong, ốc vít cho các chi tiết xây dựng đều được đóng dấu chìm mẫu tự P rất hoa mỹ, chứng thực sản xuất tại thủ đô Paris. Người dân Bạc Liêu gọi đây là "Nhà Lớn". Không chỉ đẹp về kiến trúc, nội thất mà nhà Hội đồng Trạch cũng qui tụ vô số đồ gỗ, sứ, đồng... quý giá. Những bảo vật đó đến nay không còn do con cháu không giữ được, do mất mát vì chiến tranh hoặc những nguyên nhân khác. Có hai món đồ quí hiện được giữ nguyên vẹn ở chùa Chén Kiểu, Sóc Trăng là chiếc giường ngủ chạm khắc tuyệt mỹ và bộ bàn ghế cũng chạm trổ công phu. Đây là hai món quà do Ba Huy hào phóng tặng nhà chùa.
Hiện nay, ngôi biệt thự đó trở thành khách sạn Công Tử Bạc Liêu (trực thuộc Văn phòng Tỉnh ủy Bạc Liêu) với 6 phòng ngủ. Trong đó 5 phòng bình thường và căn phòng Ba Huy từng ở trước đây có giá gấp đôi. "Phòng công tử" có một giường đôi, ti vi, máy lạnh, một bàn viết, một tủ áo và toilet khá rộng kế bên. Điểm độc đáo nhất của căn phòng này là chiếc máy điện thoại có từ đời Pháp thuộc đến giờ vẫn sử dụng tốt. Căn "phòng công tử" luôn đắt khách, nhất là người nước ngoài. Du khách muốn nghỉ đêm tại đây buộc phải đặt phòng trước cả tháng. Cách khách sạn Công Tử Bạc Liêu không xa, còn có một cụm khách sạn, nhà hàng khác cũng mang tên Công Tử. Nhà Công tử Bạc Liêu hiện nay được bày biện, phục tráng gần như nguyên trạng. Tuy nhiên do qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau vật dụng trong gia đình đã thất lạc rất nhiều.
Sau sự kiện 30 tháng 4, 1975, gia đình bị chính quyền tịch thu gia sản, Ba Huy mất đã 2 năm, gia đình còn lại của Ba Huy lâm vào cảnh khốn khó, anh em, con cháu trong gia đình bỏ đi tứ xứ. Một người con của Công tử bạc Liêu là ông Trần Trinh Đức phải trôi dạt lên Sài Gòn và sau khi cô con gái lớn của ông bị lừa tình và mắc nợ, bị bệnh tâm thần phân liệt, phải bán nhà trả nợ, gia đình ông làm đủ thứ nghề để mưu sinh như bán giày cũ, chạy xe ôm...[11]. Năm 2009, gia đình ông được sự giúp đỡ của các mạnh thường quân đã trở về Bạc Liêu sinh sống [12].
Cuối năm 2004, nhà văn Phan Trung Nghĩa của báo Bạc Liêu đã cho xuất bản quyển Công tử Bạc Liêu - Sự thật và giai thoại gồm nhiều câu chuyện và tư liệu sưu tầm về Trần Trinh Huy.
Tham khảo
- Công tử Bạc Liêu: Sự thật và Giai thoại, Phan Trung Nghĩa, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Bạc Liêu, năm 2009 (Số ĐKKHXB 141-2009/CXB/62-23/PĐ ngày 19/02/2009)
- Ngọc, Trảng Huỳnh; Nghìn năm bia miệng: Sự tích & giai thoại dân gian Nam bộ, Volume 2, Publisher Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1992
Chú thích
- ^ Hầu hết các tài liệu đều ghi ông mất năm 1973. Theo lời của Vũ sư Hoài Nhơn (Trần Trinh Nhơn), con trai lớn của Công tử Bạc Liêu Trần Trinh Huy thì: “Ba tôi mất ngày 21 tháng Chạp năm Quý Sửu 1973 ở Sài Gòn. Đầu năm đó, ăn cái Tết cuối cùng, ông còn lì xì tôi mặc dầu tôi đã 27 tuổi.". Tuy nhiên, ngày 21 tháng Chạp năm Quý Sửu rơi vào ngày 13 tháng 1 năm 1974.
- ^ Chính là người đứng thứ tư (Tứ Trạch) trong tứ đại phú hộ Nam Kỳ
- ^ Ngọc (1992), p. 466
- ^ Cách xưng hô ngang hàng của người Pháp: moi, toi.
- ^ Có nguồn cho rằng Ba Huy thuê máy bay và một phi công người Pháp.
- ^ Công tử Bạc Liêu đã có máy bay riêng cách đây gần... 1 thế kỷ
- ^ Về giá cả thời đó các tài liệu ghi lại còn nhiều mâu thuẫn.
- ^ Có nguồn ghi Lê Công Sảng.
- ^ Nay thuộc Phường 3, Thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang
- ^ “Sửng sốt thú chơi của "ông hoàng" khiến Công tử Bạc Liêu tâm phục”. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2012. Đã bỏ qua văn bản “ Báo Giáo dục Việt Nam” (trợ giúp)
- ^ Chuyện về một hậu duệ của công tử Bạc Liêu
- ^ Con trai Công tử Bạc Liêu trở về quê mưu sinh
Liên kết ngoài
- Gia tộc "Công tử Bạc Liêu" - những điều tôi biết trên trang Người Viễn Xứ
NHỮNG BÍ ẨN VỀ
“CÔNG TỬ BẠC LIÊU”
HỒNG HẠNH
Những câu chuyện về gia tộc Công Tử Bạc Liêu đã được nói tới khá nhiều, có chuyện ngày nay đã chìm vào quên lãng.Ngôi nhà công tử năm xưa bây giờ phủ đầy rêu phong, đứng trầm mặc bên dòng sông đỏ ngầu phù sa nước lớn, nước ròng. Tất cả đã trở thành quá khứ. Gần đây thôi, khi về lại Bạc Liêu tôi đã cùng công tử Khánh – một “hậu duệ” của Công Tử Bạc Liêu – đi thăm những ông tuần khạo cho ông Hội Đồng Trạch năm xưa, ông thì lãng tai, ông thì lẫn lộn. Tôi đã chấp nối, xâu chuỗi những sự kiện, những ký ức vỡ vụn ấy. Để rồi phải giật mình trước các sự thật tưởng chừng như là giai thoại...
Đang ngồi lúc lắc, vắt vẻo trên chiếc thùng xe lôi cọc cạch tôi chợt nghĩ: quả là duyên may khi quen (với đầy đủ ý nghĩa của từ này) công tử Khánh, dẫu tuổi tác Lão Ngoan Đồng gần gấp đôi tuổi tôi. Tôi khều nhẹ: “Nói chuyện gì nghe chơi nữa đi ông Khánh”. Ông ta nheo mắt bảo: “Úy trời! Chuyện tui nói với cô hổm rày là chuyện thiệt không đó, làm gì có chuyện chơi. Tỷ như bây giờ tui nói con gái cậu Ba tui - Trần Trịnh Huy - propiétaire foncier Bạc Liêu” hẳn hoi nghen cô một thời là tình nhân của cựu hoàng Bảo Đại. Có thể người khác thoạt đầu họ không tin, nhưng tôi chắc là cô tin vui”. Và chuyện của ông công tử cuối cùng là vậy:
BÍ ẨN XUNG QUANH MỘT PHẢ HỆ
Có một điều không thể chối cãi được là những người trong gia tộc của công tử Bạc Liêu rất sính tiếng tăm. Thiên hạ có cái gì họ phải có cái đó, thậm chí của họ còn phải lớn hơn, lừng lẫy hơn thiên hạ. Chuyện Hắc công tử, Bạch công tử đốt giấy bộ lư, giấy con công (đồng bạc Đông Dương) để nấu chè đậu xanh giựt le với người đẹp có lẽ là giai thoại. Nhưng chuyện công tử Bạc Liêu bao giàn gánh cải lương Phước Cương và cô đào danh tiếng Phùng Há về Bạc Liêu hát năm canh suốt tháng là có thật. Gánh hát này chính do Phước Georges - Bạch công tử xứ Tiền Giang làm bầu. Ngược dòng một chút, chuyện ông Hội Đồng Trạch khi đang làm thư ký hậu bổ giúp việc cho tỉnh trưởng những năm 30 bỏ tiền ra mua chức quan năm của Pháp. Có lúc tôi cho rằng, ông ta đang chơi một cú áp phe chính trị kiểu Lã Bất Vi đầy béo bở. Nhưng gẫm lại, quả là ông ta háo danh cực kỳ nhưng ông hơn người ta ở chỗ biết dựa vào cái danh ấy để làm gì. Và phải chăng từ cái máu đó mà nhiều mối quan hệ vừa danh tiếng, vừa rối rắm đã phủ lên phả hệ gia tộc này.
Ông Bá Hộ Bì cho vợ ông Hội Đồng nổi tiếng về gia sản, về số vợ mà ông có được. Nhưng tiếng tăm ấy cũng chỉ nội trong xứ Bạc Liêu. Phải nguyên dòng tộc Phan của ông Bá Hộ mới được dân lục tỉnh biết đến một cách vị nể. Ông Chín Bồ Cu – sứ Bạc Liêu gọi vậy – cháu đích tôn Bá Hộ vốn là một tay chơi có tiếng. Có điều sau một đợt hỏa hoạn thiêu cháy nhà, hàng trăm con chim bồ câu ông nuôi bỏ đi. Nhớ chim, buồn tình ông đã sống như một nhà ẩn dật. Riêng ông Phan Kim Cân, cháu nội ông Bá Hộ là một Đơn Hùng Tín, đã từng che giấu các nhà chí sĩ Nguyễn An Ninh Tạ Thu Thâu. Chẳng hiểu sao, ông Hội Đồng Trạch không chỉ vì nể vợ mình mà còn cho con gái thứ 6 - bà Sáu Đông - lập gia thất với ông Phan Kim Cân dẫu cho hai người có quan hệ huyết thống với nhau. Công tử Khánh là kết quả của mối lương duyên này. Ông Ba Hòa, cháu ngoại của Bá Hộ sau này cũng là một tuần khạo rất được ông Hội tin dùng.
Nhưng phải đến những cuộc lương duyên, những cuộc tình của các công tử mới nhuốm màu hệ lụy, bí ẩn. Bà Ba Lan con gái ông Chín Bồ cu hiện đang bán cà phê xứ nhà bảo với tôi rằng, ông Hội Đồng Trạch ít khi dùng quyền lực để bắt con gái, đàn bà về làm vợ. Có chăng là ông ta dùng tiền bạc để mua. Và các công tử con ông Hội Đồng cũng vậy. Vợ nhiều, nhưng các bà vợ đều có giang sơn riêng biệt, hầu như chưa có màn đánh ghen nào phía sau cánh cửa gia tộc Trần Trinh. Như cậu Hai - Trần Trinh Đinh dẫu bỏ ra 20 ngàn bạc Đông Dương để mua cô Ba Trà - một tài tử, một giai nhân đất Nam Vang về làm bé nhưng vẫn đối xử rất mực với vợ lớn, bà Hai Sâm. Mợ Hai tên thật là Dương Nguyệt Thanh con gái ông Bá Mậu cũng thuộc dòng dõi địa chủ xứ lục tỉnh. Người con duy nhất của cậu, mợ Hai là cô Trần Kim Liên được gả cho bác sĩ Cao Triều Lợi cũng là một dòng họ lớn ở đây. Hoặc người thường được đánh giá thấp trong dòng tộc – cậu Tám Bò, Trần Trinh Khương cũng có chuyện để nói. Dân xứ Bạc Liêu biết đến cậu Tám không chỉ vì cậu sống bên Tây, chơi với Tây mà còn vì cô con gái của cậu Tám lại là vợ ông Chánh Án Tòa Án Biên Hòa. Họ “nể” nhất chuyện cô ta đi xích lô: bất luận đoạn đường ngắn dài đều bo một tờ 100 đồng. Sáng thức giấc phải có một tách cà phê nóng trên bàn phấn mới bước khỏi giường. Hoặc cứ sầm xì mãi việc cô ăn mía không cần xước, cô có hẳn một cái máy róc mía quay tay hẳn hoi(!).
Nghe ngữ điệu thán phục, tôi chợt nghĩ giá trị chiếc xe nước mía lúc đó ắt hẳn phải cỡ lò viba chứ chẳng chơi. Nhân nhắc đến cậu Tám Bò, tôi lại nhớ đến một chuyện không dính dáng đến phả hệ nhưng khá ly kỳ. Số là thời gian cậu Tám sống bên Tây nhiều hơn bên ta. Một năm mười hai tháng cậu chỉ đáp phi cơ về xứ để thâu huê lợi từ công xi rượu. Và muôn lần như một, mỗi khi đem cơm lên hầu cậu Tám các tá điền, gia nhân đều tá hỏa khi thấy cậu “nuy” một trăm phần trăm đi tới đi lui mà than cho cái... oi bức xứ Việt(!)Có lần phởn chí, cậu Tám rước ông thầy đánh boxing bên Pháp về Bạc Liêu mở võ đài khiêu khích. Ông thầy tên là Socola thượng đài gần một tuần vẫn chưa có đối thủ xứng tay. Phút chót võ sư Sáu Cường nhận lời và đã đánh Socola ra máu miệng. Socola chết sau đó một tuần. Võ sư Sáu Cường cũng phải bỏ đi biệt xứ. Lưu dân xứ khẩn hoang thì có dịp hả hê dẫu không dám ra mặt.
TRỞ LẠI MỐI TÌNH CỦA CỰU HOÀNG BẢO ĐẠI
Nhưng đúng là chỉ có cậu Ba Huy – công tử nguyên bản – mới làm “xứng mặt” cho gia tộc. Ông Khánh bảo vợ cậu Ba có đến hàng chục, chưa kể cả tá nhân tình Tây Ta Tàu lẫn lộn. Nhưng cũng giống như cha mình, cậu Ba vẫn nể vì người vợ lớn – bà Ngô Thị Đen. Bà này vốn là em ruột Hội Đồng Điều. Theo trí nhớ của các tuần khạo thì giàu bậc nhất xứ Bạc Liêu xưa chỉ có 4 đại gia - Trần Trinh Trạch, Châu Văn Quai (Tô Quai - chủ tô muối), Chung Bá Vạn (chủ rạp hát Chung Bá) và người còn lại chính là Ngô Phong Điều.
Chẳng hiểu mai mối theo đường dây mối nhợ nào mà cô Hai Lưỡng con gái cậu Ba lại nâng khăn sửa túi cho ông Nguyễn Huy Quang – quan bí thư của cựu hoàng Bảo Đại (?). Và đây cũng là đầu dây mối nhợ cho một chuyện chẳng biết thực hư. Không biết cô Hai Lưỡng có phải bà bậc sắc nước hương trời hay không nhưng rồi một ngày nọ, vị cựu hoàng nổi tiếng háo sắc lại đâm ra mê mệt vẻ mặn mòi châu thổ của cô Hai. Hai người dan díu với nhau cỡ nào thì không rõ. Riêng bà Ba Lan quả quyết, khi biết chuyện Nam Phương hoàng hậu đã đánh ghen rầm trời, đến độ quan Toàn Quyền Đờ-Cu đã nhờ vợ mình lên Đà Lạt dàn xếp, khuyên bảo hoàng hậu. Nghe đâu, khi đến Bảo Lộc, phu nhân Đờ-Cu đã tử nạn vì tai nạn lưu thông (?). Thực hư thế nào không rõ, duy có điều sau đó không bao lâu cô Hai Lưỡng đã ly dị với ông quan bí thư triều đình với lý do ông này quá thủ cựu. Cô Hai bay qua trời Tây và lập gia thất lần hai với một... thị trưởng người Pháp (!). Chính viên thị trưởng này là người còm-măng một chiếc phi cơ và một chiếc quan tài bằng kính cho bà Hội Đồng mà bạn đọc đã biết.
“Tôi vẫn không tin lắm những chuyện này, ông Khánh a” – tôi lại khều nhẹ công tử Khánh. Ông lại tủm tỉm bảo: “Đó là quyền của cô. Nhưng chuyện này thì cô phải tin”. Điều ông Khánh buộc tôi phải tin là vầy. Số là có lần khi đi thăm ruộng miệt Trà Nho, Vĩnh Châu bằng... phi cơ, cậu Ba đã lạc tay lái đâm thẳng chiếc phi cơ xuống sình. Chắc là đi phi cơ mãi cũng chán, chẳng thèm cẩu lên, cậu Ba chơi sang bỏ luôn. Sau này, một nhà chơi đồ cổ tận xứ Phù Tang mua lại và mướn một chiếc tàu biển chở về xứ làm... lưu niệm. Tôi chợt phì cười nhưng chợt nhớ chẳng phải báo chí một thời đã đăng tải tờ hóa đơn mua máy bay của cậu Ba có chua thêm một dòng – đây là chiếc máy bay đầu tiên thuộc chủ quyền tư nhân xứ Đông Dương đó hay sao? Thôi thì thật hay giã cũng vậy, tin hay không cũng chả sao. Duy có điều, được ngồi nói chuyện lai rai với Lão Ngoan Đồng trên một chuyến xe loi cọc cạch đã là một điều thú vị nhất trần đời của tôi rồi.
No comments:
Post a Comment