TRẦN THỊ HẢI Ý * SO SÁNH GIẤY BẠC
Giấy bạc của hai nước Việt Nam
TIN TỨC PHẬT GIÁO
THÔNG CÁO BÁO CHÍ NGÀY 4.9.2013
2013-09-04 | | PTTPGQT
PARIS, ngày 4.9.2013 (PTTPGQT) - Kể từ khi Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế phát hành Cáo Bạch từ nhiệm chức Tăng Thống của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ
hôm 1.9.2013, sự chấn động âu lo, sững sờ dâng ngập tâm tư người Phật
tử từ trong ra ngoài nước, từ chư Tăng Ni đến đồng bào Phật tử và đồng
bào các giới. Như ngọn sóng lớn chồm lên trên nỗi tiếc thương và tuyệt
vọng trước tình hình đen tối của đất nước và sự ngửa nghiêng của Giáo
hội.
Từ khuya ngày 1.9 cho đến suốt ngày 2.9, Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế đã chuyển trình Đức Tăng Thống tất cả những phản ứng hay thỉnh nguyện thư cầu thỉnh Ngài bỏ ý định từ chức của chư Tăng Ni và đồng bào hải ngoại. Tổng cộng trên một trăm trang.
Nhiều Hòa thượng ở miền Trung lặn lội về Saigon đến Thanh Minh Thiền viện đảnh lễ xin Ngài nghĩ tới cuộc vận động Giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn chưa thành, lãnh thổ lãnh hải bị ngoại nhân xâm chiếm, nhân tâm ly tán, phân hóa, đồng bào trong nước sống cảnh đói nghèo, thiếu tự do, nhân quyền, chế độ độc tài toàn trị vẫn còn thống trị, để van nài Ngài trở lại lèo lái con thuyền Giáo hội trên phong ba bão táp. Chẳng hạn như Hòa thượng Thích Như Đạt, Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) kiêm Tổng vụ trưởng Tổng vụ Tăng sự, Hòa thượng Thích Thanh Quang, Tổng Thư ký Viện Hóa Đạo kiêm Tổng vụ trưởng Tổng vụ Thanh Niên, Huynh trưởng Lê Công Cầu, Vụ trưởng Gia Đình Phật tử Vụ Viện Hóa Đạo (là tổ chức trẻ của Giáo hội), v.v…
Vào lúc 9 giờ sáng ngày 3.9, một số chư Tăng giáo phẩm thuộc Viện Hóa Đạo do Hòa thượng Thích Viên Định dẫn đầu, y hậu chỉnh tề, đến Thanh Minh Thiền Viện ở Saigon, ba lần đảnh lễ Đức Tăng Thống xin sám hối đã không khâm tuân việc xử lý nội bộ của Đức Tăng Thống trước đây, và xin Ngài đảm nhiệm trở lại việc lãnh đạo tối cao Giáo hội. Đồng thời xin hứa khâm tuân bất cứ quyết định gì của Đức Tăng Thống, đặt biệt là việc cách chức Hòa thượng Thích Chánh Lạc ra khỏi Giáo hội vì lý do đức hạnh.
Cùng thời gian này, Hòa thượng Thích Viên Lý, cũng điện thoại về xin đảnh lễ Đức Tăng Thống, sám hối với Ngài và rút lại ý định lưu nhiệm Hòa thượng Thích Chánh Lạc trong chức Chủ tịch Văn phòng II Viện Hóa Đạo hoặc Cố vấn.
Đức Tăng Thống đã mủi lòng trước sự thỉnh cầu tha thiết của Hòa thượng Viện trưởng Viện Hóa Đạo Thích Viên Định đại diện chư Tăng, cũng như Ngài đã mủi lòng trước đây khi đọc gần 100 trang Thỉnh nguyện thư hay các bài viết do Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế chuyển trình về thỉnh cầu Ngài tiếp tục lãnh đạo Giáo hội.
Khoảng 11 giờ trưa giờ Paris cùng ngày (3.9), Đức Tăng Thống gọi điện sang cho Cư sĩ Võ Văn Ái, Phát ngôn nhân Giáo hội và Giám đốc Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế, về cuộc gặp gỡ với phái đoàn chư Tăng Viện Hóa Đạo. Chúng tôi ngỏ ý xin Ngài cho phép loan tải ngay tin mừng này để chia sẻ với đồng bào hải ngoại đang sống trong cảnh âu lo, buồn thảm, hoang mang suốt mấy ngày qua.
Nhưng Ngài dặn hãy chờ một vài hôm. Chớ vội vã. Vì Ngài bảo để xem Quyết định Ngài sắp ban hành về việc truất chức Chủ tịch Văn phòng II Viện Hóa Đạo của HT Chánh Lạc có đạt sự đồng thuận của các ngài trong Hội động Lưỡng Viện như đã hứa hay không.
Hôm nay ngày 4.9, Đức Tăng Thống cho chuyển sang Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế để phổ biến bản Quyết định thành phần nhân sự Văn phòng II Viện Hóa Đạo là cơ quan lãnh đạo Giáo hội ở hải ngoại. Qua Quyết định này, Hòa thượng Thích Chánh Lạc không còn giữ chức vụ gì trong Giáo hội, đặc biệt chức Chủ tịch kiêm Tổng Ủy viên Hoằng pháp. Chúng tôi sẽ cho scan bản Quyết định 2 trang do Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ ấn ký gửi kèm bản Thông cáo báo chí hôm nay. Dưới đây là danh sách thành phần nhân sự Văn phòng II Viện Hóa Đạo (xem bản scan toàn văn Quyết định đính kèm) :
From : ThonVyDa
Sent : Monday, September 02, 2013 12 :13 PM To : undisclosed recipients :
Subject : Thỉnh nguyện thư thỉnh cầu HT Quảng Độ tiếp tục vai trò Tăng Thống
Kính thưa quý đồng hương, Phật tử :
Mấy ngày qua, chúng ta sững sờ trước thông bạch từ nhiệm của Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ.
Bao nhiêu năm qua, Ngài đã cùng Đức Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang đẩy mạnh công cuộc vận động Giải trừ Quốc Nạn và Pháp nạn. Trong khi mọi người hoang mang không biết phải làm gì và tin ai thì chính Ngài là ngọn đuốc soi đường. Hình ảnh Ngài là niềm hy vọng và sự tin tưởng cho người con Phật ưu tư về tiền đồ Đạo Pháp và Dân tộc khắp năm châu.
Xin quý đồng hương Phật tử ký vào thỉnh nguyện thư thỉnh cầu Ngài tiếp tục vai trò Tăng Thống của GHPGVNTN.
Trân trọng,
ThônVỹDạ
Chúng con, những Phật tử hải ngoại ưu tư cho mạng mạch và tiền đồ của Giáo Hội nói riêng và cho công cuộc vận động giải trừ Pháp nạn và Quốc nạn nói chung trước quyết định từ nhiệm của Ngài. Vì tiền đồ của Phật giáo và Dân tộc, chúng con cúi đầu thỉnh cầu Ngài tiếp tục ngôi vị Tăng Thống của Giáo hội. Được vậy là phước duyên lớn cho quê hương đất nước. Chúng con cầu nguyện Hồng ân Chư Phật, Chư Lịch Đại Tổ Sư, Chư Thánh Tử Đạo gia hộ Ngài pháp thể khang an, Phật sự viên thành và hạnh nguyện viên mãn. Phật tử hải ngoại
Đồng ký tên : Michael Bui Garden Grove, California USA - Thanh Nguyen-Brem, Germany - Lam Nguyen Tampa, Florida USA – Nguyễn Duy Thông, Montpellier, France - Tuan Hoang Sachse, Texas USA - Túc Trương Dallas, Texas USA - Que Nguyen Lawrenceville, Georgia USA - Hồng Yến Trần Norkesville, Virginia USA - Chanh Nhan Laurel, Delaware USA – Lac Tieu Brooklyn, New York USA - Hiến Tống Garden Grove, California USA - Huy Nguyen Grand Prairie, Texas USA – Sum Ngoc Duong Denver, Colorado USA - Sa Phan Dallas, Texas USA - Tam Tran Dallas, Texas USA - Anh Hoang Santa Ana, California USA - Co Cao Sacramento, California USA - Terry Phan Houston, Texas USA - Hien Cao Allen, Texas USA - Thao Dam Garland, Texas USA - Davis Nguyen Sacramento, California USA - Anh Pham Garden Grove, California USA – Vu Trong Khai, Tuệ Mỹ, Australia – Ton Nu Hoang Hoa Tampa, Florida USA – Tan Vinh Ho, Australia - Freedom VietNam Manchester, United Kingdom - Qui Nguyen Santa Ana, California USA – Huong Nguyen Sugarland, Texas USA - Diệu Thúy Vo Murphy, Texas USA - Hien Pham Thornton, Colorado USA - Be Tran Houston, Texas USA - Ngoan Le San Jose, California USA - Am Tran Stockton, California USA - Thanh Luong San Diego, California USA - Dan Le San Jose, California USA - Giang Phu Plano, Texas USA - Huong Nguyen Thornton, Colorado USA - Kelly Pham Thornton, Colorado USA - Minh Tam Tran Morrow, Georgia USA - Victor Pham Plano, Texas USA - Bryant Pham Thornton, Colorado USA - Anh Tâm Nguyễn Khắc Florisant, Missouri USA - Nguyet Le Lawrenceville, Georgia USA - Minh Lam Denver, Colorado USA - Bao Kim Vu Springfield, Virginia USA - Can Khong Denver, Colorado USA - Thanh Le Chicago, Illinois USA - Dang Nguyen Toronto, Canada - Hai quang Pham Tornto, Canada - Hưng Lâm Mobile, Alabama USA - Vinh Ho, Australia - Ai Ton Garland, Texas USA - Amos Pham the Houston, Texas USA - Khiem The Tran Yukon, Oklahoma USA - Peter Nguyễn New Orleans, Louisiana USA - Vinh Cao Fountain Valley, California USA - Bac Tran Pearland, TX 77584, Texas USA - Đức Ly Bùi Seattle, Washington USA - Tho Le Centennial, Colorado USA - Mai Xuan Portland, Oregon USA - Trach Ha, San Jose, California USA - Dan Vo Pháp danh : Tâm Thành, Sanjose, California USA - Nguyen Thinh, Australia - Son Tran San Diego, California USA - Can Bui Minneapolis, Minnesota USA - Minhhung Khuong USA - Cang Nguyen Orlando, Florida USA - Nhu Thuy Le Littleton, Colorado USA - QUE NGUYEN El Monte, California USA – Khanh Le, Colleyville, Texas USA - Giac Ha San Jose, California USA - Thanh Phan Tacoma, Washington USA - Nhut Tran San Jose, California USA - Hoa Nguyen Houston, Texas USA - Sanh Dang Mesquite, Texas USA - Hanh Ha Aurora, CO 80013, Colorado USA - Chanh Dinh Aurora, Colorado USA - Dieuvien Tran Garland, Texas USA - Helena Vu Denver, Colorado USA – Brian Vo Stockton, California USA - Trung Ung Le, Germany - Dung Nguyen Vancouver, Canada - Luyen Nguyen Wichita, Kansas USA - MINH NGUYEN, Australia - Luan Nguyen Bruxelles, Colorado USA - Hoi Nguyen Hyde Park, Massachusetts USA - Truong Luu Gaithersburg, Maryland USA – Dinh Van Ho Kansas City, Missouri USA - Huong Bui Littleton, Colorado USA - Dien Hoang Odense, Denmark - An Nguyen St.Paul, Minnesota USA - Vinh Nguyen Westminster, Colorado USA - Văn Đáo Nguyễn Amersfoort, Utah USA - Thanh Nguyen Broomfield, Colorado USA - Hoang Nguyen Denver, Colorado - Ngoc Quang Le Westminster, Colorado USA - Kim Tran Monterey, California USA - Minh Ngoc, Australia – Tan Pham San Jose, California USA - Thiet Trương Dallas, Texas USA - Lanthanh Nguyen Mission Viejo, California USA - Phung Nguyen San Jose, California USA - Lu Dam San Jose, California USA - David Ha Houston, Texas USA - Loan Nguyen Denver, Colorado USA - Thanh Truong Olympia, Washington USA - Kiều Túy Nguyen Bellevue, Washington USA - Mai Huong Tran Thi Philadelphia, Pennsylvania USA - Thuan Do Anaheim, California USA - Cuong Nguyen Los Angeles, California USA - Be V. Huynh Houston, Texas USA - Ham Tran Seal Beach, California USA - Giang Le, Australia - Dai Vo Houston, Texas USA - Khac Nguyen, Australia - Amrin Hồ Seattle, Washington USA – Quốc Việt Khối 8406 Hoa Kỳ Nguyen San Jose, California USA - Hung Nguyen Santa Ana, California USA - Ban Bui Littleton, Colorado USA - Nathan Nguyen Westminster, California USA - Kha Nhan Nguyen Littleton, Colorado USA – Lang Nguyen Portland, Oregon USA - LongDuc Mach Saigon Việt Nam - Edward Laurson Denver, Colorado USA - Amy Nguyen Littleton, Colorado USA - Phuong Nguyen Santa Ana, California USA - Khong Bach Littleton, Colorado USA - Thanh Lam Nguyen Littleton, Colorado USA - Vien Ha Midway city, California USA – Duyen Đoan Portland, Oregon USA – Tuyet Ta Houston, Texas USA - Anh Nguyen Yukon, Oklahoma USA - Thuc Vu Seattle, Washington USA - Kim Truong Calgary, Canada - Tri Nguyen Aurora, Colorado USA - Tony Ho Santa Ana, California USA - Long Hoang Co San Jose, California USA - Son Bui Westminster, Colorado USA - Henrik Nguyen sacramento, California USA - Cat Le, Australia - Le Thanh Nguyen, Australia – Lieu Do Dang, Australia - Hang Huynh Mobile, Alabama USA - Niệm Trần Marlton, New Jersey USA - David Hoang Denver, Colorado USA - Tony Hoang Denver, Colorado USA.
From : YungKrall
Sent : Monday, September 02, 2013 3 :16 AM
Subject : Đại lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ từ nhiệm chức vụ Tăng thống....
Kính thưa các bạn,
30 tháng Tư năm 1975 chúng ta mất Miền Nam Vietnam vào tay Cộng sản.
1 tháng 9, 2013 Phật tử Viêt Nam mất Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
Là con của Phật, xin anh chị em dìu dắt nhau nuôi dưỡng Bi Trí Dũng trong tâm để vượt qua mọi thử thách trong những tháng ngày sắp tới.
Xin cầu nguyện cho Đại Lão Hoà Thượng Thích Quảng Độ và sát cánh cùng Ngài trong công cuộc giải trừ Quốc nạn và Pháp Nạn.
Với lòng thành kính.
Đặng Mỹ Dung
(tức Yung Krall, tác giả sách “The thousands Tears” Việt dịch «Ngàn giọt lệ rơi)
----- Original Message -----
From : Huong Tran
Sent : Sunday, September 01, 2013 7 :02 PM
Subject : Kính gửi chư Tôn Đức, qúy vị trong hàng lãnh đạo GHPGVNTN VP 1, 2 VHĐ v/v - Dai lao Hoa thuong Thich Quang Do tu nhiem chuc Tang Thong
Trước hết, con xin kính đãnh lễ và xin vấn an qúy Ngài thân tâm luôn an lạc, Đạo Pháp viên thành, dìu dắt chúng sanh vượt qua bể khổ về bến Giác.
Thưa qúy chư Tôn Đức,
Đọc bản Cáo bạch từ Hội đồng lưỡng viện GHPGVNTN gửi ra về việc Ngài Tăng Thống Thích Quảng Độ từ nhiệm. Qua bản thông bạch này, không những một mình con mà con nghĩ đây là một tin khiến cho toàn thể Phật Tử khắp nơi trên thế giới phải bị hụt hẫng và lo lắng cho vận mệnh tương lai của GHPGVNTN trong và ngoài nước.
Như chúng ta đều biết, Ngài Tăng Thống Thích Quảng Độ là vị Cao tăng được Quốc Tế biết tới nhiều nhất, hơn cả Nhất Hạnh, nhờ vào đó, tiếng nói của Phật Giáo GHPGVNTN trong nước mới được Quốc Tế lắng nghe và để ý tới. Nay Ngài ra thông bạch từ nhiệm và nếu Giáo Hội để Ngài từ nhiệm thì đây không phải chỉ là sự thiệt thòi cho GHPGVNTN Văn phòng I Viện Hóa Đạo mà cả GHPGVNTN Văn phòng II Viện Hóa Đạo cũng bị ảnh hưỡng, như vậy không phải là cái phước cho Phật Giáo.
Biết rằng sự từ nhiệm của Ngài Tăng Thống bắt nguồn từ biệt nghiệp của một cá nhân tu sĩ trong Giáo Hội, nhưng con vẫn mong các Ngài hãy vì Phật Giáo, vì Giáo Hội mà đưa ra một giải pháp tốt nhất để cứu vãn vấn đề. Có lẽ các Thầy nghĩ rằng con không là gì để đưa ra lời khuyên và mong cầu đối với sự việc quyết định của các Thầy trong Giáo Hội, nhưng xin các Thầy hãy vì Đạo Pháp, vì Phật Giáo GHPGVNTN Văn phòng I và II Viện Hóa Đạo để suy nghĩ lại (…)
----- Original Message -----
From : HT Bao Vuong
To : PTTPGQT (IBIB) ; queme.democracy@gmail.com ; bao ve chanh phap ; chutonthanhviengiaohoi@googlegroups.com Sent : Monday, September 02, 2013 5 :37 AM
Subject : Kính gởi HT Thích Quảng Độ Đệ Ngũ Tăng Thống GHPGVNTN Tại Việt Nam
Kính Bạch Hòa Thượng Tăng Thống,
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
Chúng Tôi,
HT Thích Huyền Tôn
Thành viên Hội Đồng Chứng Minh.
Tăng Giáo Trưởng Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hải ngoại Úc Đại lợi – Tân Tây lan ; và HT Thích Như Huệ
Thành Viên Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương
Hội Chủ Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTN Hải ngoại Úc Đại lợi – Tân Tây lan
Từ phương xa Úc Châu Khẩn thiết yêu cầu kính bạch Hoà Thượng :
Sau khi đọc lời Cáo Bạch số 06 /VTT/TT Ngày 30 tháng 8 năm 2013 của Hòa thượng phát ra từ Thanh Minh Thiền Viện ở Sàigòn Việt Nam, thật vô cùng chới với và lo cho tiền đồ của GHPGVNTN !!!
Nên cấp tốc, bất luận thế nào xin mạn phép cáo bạch với Hoà Thượng những điều cần phải giải quyết ngay trong vòng 24 giờ để cứu vãn tình trạng nguy cấp như Cáo bạch đã phát ra của Hoà Thượng.
- Thứ nhất : Hoà Thượng Phải vững trụ ở cương vị TĂNG THỐNG. để bảo toàn cho GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT. Là Tăng Thống Ngài Từ chức với ai ??? Bao năm tù ngục và đức kiên nhẫn của Hòa thượng là vì ai ? Không phải vì Giáo Hội hay sao ?
- Thứ Hai : Hoà Thượng Tăng Thống xin cấp tốc ra Giáo Chỉ Bãi bỏ “Cáo Bạch số 06/VTT/TT (…)
----- Original Message -----
From : Gop gio
Sent : Sunday, September 01, 2013 8 :19 PM
Subject : [GiongLacHong] Đức Tăng Thống THÍCH QUẢNG ĐỘ từ nhiệm - VÌ ĐÂU NÊN NỖI ?
VÌ ĐÂU NÊN NỖI ?
Sáng hôm nay 1-9-2013, chúng tôi đọc được bản Cáo Bạch của Đại Lão Hoà Thượng Thích Quảng Độ, đương kim Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhứt, Ngài quyết định “lui về tịnh tu để trưởng dưỡng tâm thân” --tức rút lui khỏi chức vụ “Tăng Thống Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhứt, kể từ ngày 30-8-2013.
Đây quả là một TIN SẤM SÉT làm cho không những giới Phật tử bàng hoàng lo âu… mà đối với những người có thiện cảm, gắn bó với Giáo hội cũng hoang hoang (…)
Võ Văn Sáu Báo GÓP GIÓ, Hoa Kỳ
----- Original Message -----
From : NGUYEN DUY
To : PTTPGQT (IBIB) Sent : Sunday, September 01, 2013 8 :56 PM
Subject : RE : [PTTPGQT] - Dai lao Hoa thuong Thich Quang Do tu nhiem chuc Tang Thong
Nam Mô A Di Đà Phật,
Chúng con, Phật Tử Nguyễn-Duy Thông và gia đình, xin được phép ghi tên vào danh sách thỉnh cầu Ngài tiếp tục giữ chức vụ Đệ Ngũ Tăng Thống để hướng dẫn tín đồ Phật giáo trong thời mạt pháp hiện nay. Chúng con tin chắc rằng tất cả tín đồ Phật giáo trong nước cũng như hải ngoại chỉ tin vào Ngài mà thôi.
Thật là kỳ lạ !! Đúng là thời Mạt Pháp !! Chúng con hoàn toàn đồng ý tuân theo Quyết định của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ.
Ngài thật xứng đáng làm Đệ Ngũ Tăng Thống. Chúng con hoàn toàn đồng ý tuân theo Quyết định của Ngài. Các vị Tăng sĩ chống lại Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, không xứng đáng để con kính phục.
Nguyễn -Duy Thông, Giáo sư Đại học Montpellier, Pháp Quoc.
----- Original Message -----
From : Chau Nguyen
Sent : Monday, September 02, 2013 2 :07 AM Subject : Cung kính Thỉnh Nguyện.
Chúng con,những thành viên và thân hữu Khuôn Hội PhậtGiáo Đôn Hậu,vùng South Bay Nam Los Angeles, cung kính toàn tâm, toàn ý, hổ trợ và khâm tuân ý chỉ của Đức Tăng Thống, Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ. (…)
Chúng con rất là bất an và ưu tư lo lắng cho mạng mạch và tiền đồ của Giáo hội nói riêng và cho công cuộc vận động giải trừ Pháp nạn và Quốc nạn nói chung, trước quyết định từ nhiệm Giáo Vụ Tăng Thống của Đức ngài Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ.
(…) Chúng con thỉnh cầu quí ngài Giáo Phẩm vì tiền đồ của Phật Giáo và Dân Tộc hãy cung thỉnh Đức Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ tiếp tục Giáo Vụ Tăng Thống GHPGVNTN bằng cách cung thừa ý chỉsáng suốt và trí tuệ "Cắt bỏ ung nhọt" của Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ.
Được vậy là phước duyên lớn cho Quêhương Đất nước và cho con thuyền của Giáo hội đang trong cơn phong ba bảo táp của vô minh ác trị, bạo ngược và tham tàn.
Đại diện Khuôn Hội Đôn Hậu.
Chánh Hồng,Nguyễn Thanh Châu.
----- Original Message -----
From : Di Tran
To : vovanai Sent : Monday, September 02, 2013 9 :25 PM
Subject : Thinh nguyen thu
Chúng con là Phật Tử thuộc các Khuôn hội Huyền Quang tại Đức Quốc xin đê đầu đảnh lễ Đức Đệ Ngũ Tăng Thống, chư vị Hòa Thượng trong hàng Giáo Phẩm, cùng Chư Tôn Đức thuộc GHPGVNTN.
Chúng con vô cùng bàng hoàng kèm nỗi đau đớn, thất vọng không bút mực nào tả xiết khi đọc được bản tin từ nhiệm của Đức ĐệNgũ Tăng Thống được đăng trên bản tin Quê Mẹ.
Tuy là hàng Phật Tử nhỏ nhoi nhất trong GHPGVNTN, nhưng chúng con xin mạo muội đạo đạt thỉnh nguyện lên Đức Đệ Ngũ Tăng Thống.
Chúng con trộm nghĩ dù tình hình hiện nay có như thế nào chăng nữa cũng không bằng bao hiểm nguy cá nhân Ngài Đệ Ngũ Tăng Thống cũng như Quý Ngài Tăng Thống tiền nhiệm đã nguyện hứng chịu.
Đó cũng là sự thật bi tráng từ bao đời lịch sử xa xôi đến hôm nay, đạo Phật từ bi trên đất nước Việt Nam luôn hứng chịu và có cùng số phận với vận mạng Dân Tộc và Tổ Quốc. Đại Lão Hòa Thượng đã không màng hiễm nguy đến mạng sống, như một đấng Từ Phụ luôn dẩn dắt Phật Tử từng suy nghĩ, từng bước đi, dù trong vòng lao lý vẫn luôn kề cận cùng chúng con trong mọi tình huống hung hiễm của Giáo Hội, kèm chung với họa mất nước !
Chúng con đồng lập nguyện kính xin Đức Đệ Ngũ Tăng Thống hồi tâm chuyển ý, tiếp tục mạnh mẽ lấy lại sự trong sáng của Giáo Hội và vì non sông Tổ Quốc Việt Nam thâu hồi lại Sắc Lệnh, chúng con xin lạy sám hối từ nay đến mãn kiếp.
Đức quốc, ngày 2 tháng năm 2013
Ký tên : Nhật Quang Trần Di Nhơn
Đại diện Khuôn hội Huyền Quang Frankfurt a.M
kiêm Chủ tịch Ủy ban Điều hợp
Minh Hải Đặng Ngọc Sơn
Đại diện Khuôn hội Huyền Quang München
Thiện Thủy Phan Thị Thanh Vân
Đại diện Khuôn hội Huyền Quang Rhein-Main
-------------------------
Chúng con Phật Tử của Đạo Tràng Tam Bảo, Oakland Tiểu Bang California. kính cẩn đê đầu đảnh lễ Ngài. Chúng con rất đau khổ, không những nước mắt chảy, mà máu con tim của chúng con cuồn cuộn khi đọc bản Cáo Bạch của Ngài.
Kính Bạch Ngài, hơn 38 năm qua, Ngài cùng với Ngài Đệ Tứ Tăng Thống đã vì mạng mạch của Phật Đà, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất nói riêng và toàn dân Việt Nam nói chung, các Ngài đã Dũng Mãnh nói lên những tiếng nói chung cho toàn dân Việt trước bạo quyền Cộng Sản, lèo lái con thuyền của Giáo Hội qua không biết bao nhiêu là phong ba. Nếu không có sự hy hiến cao cả của Quí Ngài thì ngày nay danh xưng GHPGVNTN đã không còn.
Hành trạng “Bồ Tát vì chúng sanh khổ đau mà gạt lệ nhảy vào ; vì biết chúng sanh cùng với mình là MỘT THỂ” của Quí Ngài bút mực không thể tả hết được.
Bản thân của chúng con trước khi Xuất Gia là “Anh Lính Việt Nam Cộng Hòa”, chúng con đã đi trên quê hương điêu tàn đỗ nát không biết bao nhiêu năm. Vì nhận thức rằng : Chính Trị, Kinh Tế, Khoa Học không thể đem lại Hòa Bình Chân Chính cho nhân loại ; chỉ có nền Giáo Dục Từ Bi, Trí Tuệ của Phật Đà mới cứu khổ nhân loại và đem lại đời sống Chân Thiện Mỹ cho chúng sanh. Do đó, chúng con đã đổi màu áo hoa rừng và được phước báo khoát lên người chiếc Ca Sa của Phật, Học Phật và Nguyện theo con đường của Chư Phật Như Lai cùng Lịch Đại Tổ Sư.
Kính Bạch Ngài, ngày nay nếu GHPGVNTN “không có Huyền Quang, không có Quảng Độ” thì Giáo Hội này thuộc về ai ? Có phải là đã hiến mình theo ước mong của Đảng Cộng Sản VN hay chăng ?!
Chúng con là toàn thể Phật Giáo Đồ, Quân Dân Cán Chánh Miền Nam Việt Nam Tỵ Nạn Cộng Sản tại Vùng Bắc California, kính xin đê đầu thành tâm đảnh lễ dưới chân Ngài. Ngưỡng mong Ngài hãy thương xót chúng con, 90 triệu người Việt Nam trên quê hương ta và GHPGVNTN truyền thừa trên 2,000 năm mà Lịch Đại Tổ Sư cùng với Tín Đồ đã hy hiến đời mình gìn giữ. Chúng con đã xa quê hương, mất tất cả, chỉ còn lại MỘT CON THUYỀN GHPHVNTN để nuôi sống tâm linh. Con Thuyền này đã được Hai Ngài lèo lái cho đến ngày đến bờ đến bến. Giờ đây nếu Ngài bỏ chúng con, chúng con còn ai để nương tựa ? Ngài đã thương xót chúng con kính xin Ngài hãy thương cho trọn.
CHÚNG CON ĐÊ ĐẦU ĐẢNH LỄ DƯỚI CHÂN NGÀI. KÍNH CUNG THỈNH NGÀI HÃY Ở LẠI NGÔI VỊ ĐỆ NGŨ TĂNG THỐNG ĐỂ LÈO LÁI CON THUYỀN GHPHVNTN.
Khể Thủ,
Tây Hữu Đệ Tử
Thích Kiến Chơn cùng toàn thể Phật tử và Đồng Hương Vùng Đông Vịnh.
----------------------------
Ngưỡng bạch Đức Đệ Ngũ Tăng Thống
Con và đại chúng đạo tràng chùa Thường Quang, là thành viên của GHPGVNTNHN tai Hoa Kỳ Văn Phòng II Viện Hoá Đạo.
Sau khi đọc Cáo bạch của ngài, chúng con như bị sét đánh ngang tai, cảm thấy hụt hẫng, rồi nghĩ đến, mà ưu tư cho mạng mạch và tiền đồ của Giáo hội nói riêng và cho công cuộc vận động giải trừ Pháp nạn và Quốc nạn nói chung, trước quyết định từ nhiệm Giáo Vụ Tăng Thống của Ngài.
Chúng con đồng loạt xin noi gương chư Tăng Giáo Phẩm trong Văn Phòng II Viện Hoá Đạo, xin thành tâm đảnh lễ và cúi xin ngài lưu lại trong Giáo vụ Tăng Thống, chỉ có trí tuệ tuyệt luân của ngài mới lèo lái con thuyền chánh pháp qua khúc quanh gồ ghề nầy. Chúng con xin nguyện khâm tuân mọi hướng dẫn và quyết định của ngài.
Kính thư,
Con
Thích Nữ Tịnh Thường
Và đại chúng đạo tràng chùa Thường Quang
----- Original Message -----
From : anhdung nguyen
To : PTTPGQT (IBIB)
Subject : Re : [PTTPGQT] - Thinh nguyen thu cua 12 thanh vien VP2 VHD gui Duc Tang Thong
Kính gởi Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế,
Trong suốt ngày hôm qua, lòng người Phật Tử tại hải ngoại như nằm trên lửađỏ vì khiđọc Cáo bạch củaĐức Tăng Thống Thích QuảngĐộ, nước mắt cứ chực trào ra. Nayđọcđược Thông cáo báo chí nầy của quý 12 vị trong Văn phòng II Viện Hóa Đạođồng ký tên thỉnh nguyệnĐức Tăng Thống bỏýđịnh từ chức, mong rằng Bồ Tát sẽ giải cơn Pháp nạn nầy vàĐức Tăng Thống sẽ bỏýđịnh từ chức.
Thiện Bửu Nguyễn Anh Dũng
KINH TIẾNG GẦM SƯ TỬ
(…) Đối với tôi, chẳng những tôi bình thản trước tin Hòa Thượng Thích Quảng Độ từ nhiệm Hội đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN, mà tôi còn kính trọng Hòa Thượng Thích Quảng Độ nhiều hơn nữa, tin tưởng vào Phật Giáo một cách mạnh mẽ hơn nữa.
Đức Phật thường nói nếu người tu hành giữ gìn giới luật một cách nghiêm minh, thì sự sinh tồn của đạo Phật có thể kéo dài cho tới vài ngàn năm. Tôi thấy trong khi một vài đạo giáo khác có hàng ngàn tu sĩ phạm giới tình dục bị đưa ra tòa án xét xử, thì đạo Phật chỉ có một người phạm giới tình dục bị đưa ra tòa án xét xử ;
Tôi thấy trong khi một vài lãnh đạo các tôn giáo khác tìm mọi cách để che đậy việc phạm giới của người trong đạo của mình, thì lãnh đạo tối cao của GHPGVNTN là người phơi bày ra ánh sáng những người phạm giới trong đạo của mình ; tôi thấy trong khi những người lãnh đạo tối cao của một vài tôn giáo khác âm thầm từ nhiệm gây ra không biết bao nhiêu câu hỏi trên thế giới, thì người lãnh đạo tối cao của GHPGVNTN dõng dạc từ nhiệm một cách danh chính ngôn thuận mà không ai có thể mở miệng hỏi bất cứ một câu gì trên thế giới…
Và hơn tất cả, lời tuyên bố từ nhiệm của Hòa Thượng Thích Quảng Độ là tiếng gầm của một con Sư tử chúa, mong cho chúng ta sớm ý thức được giáo lý Duyên sinh mà chấm dứt tranh chấp nội bộ.
Trong tiếng gầm này pháp âm của Đức Phật vẫn còn vang dội… Chúng con xin nguyện học hỏi và thực hành tiếng gầm của con Sư tử chúa của Ngài. Xin cúi đầu đảnh lễ và cầu nguyện Đức Phật gia hộ cho Ngài trong suốt quảng đường còn lại…
(2-9-2013)
Duyên Sinh
AI CHỐNG ĐỐI VỚI MA VƯƠNG CỘNG SẢN ĐÂY ?
Những nhận định và quyết định thanh tịnh hóa Giáo hội của Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ là hoàn toàn chính xác. Không làm như thế Phật giáo sẽ bị diệt vong. Cần phải tự bỏ nạn Bé phái và cần vâng lời Đức Tăng Thống để cứu Giáo hội.
Phật giáo đồ Việt Nam trên toàn thế giớixin đứng sau lưng Ngài để chấn chỉnh Giáo hội và đối phó với Ma vương Cộng sản.
Ngài từ nhiệm vì lý do nội bộ, nhưng Ngài quên một điều : Ai đối phó với Ma vương Cộng sản đây ?
Ngài dứt áo ra đi trước một nội bộ Bè phái và Bất vâng lời, cũng do Bè phái. Nhưng còn hàng triệu Phật tử sau lưng và một sứ mạng Đối phó Ma vương Cộng sản và Bắc phương để cứu Đạo pháp và Dân tộc. Ngài ra đi thì ai lo đây ? Ngài ra đi có khác gì tự động bàn giao Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất cho Cộng sản, và Cộng sản thì sẽ tự động bàn giao đất nước cho Tàu phù trong vài năm nữa !
Xin Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ ở lại để chống chọi với cơn sóng dữ phủ trùm lên Đạo pháp và Dân tộc.
Kính cẩn,
Thay mặt Diễn Dàn Quốc tế các phong trào dân chủ Việt Nam
Nguyễn Bá Long, Canada
From : Hoang Nguyen
Subject : Thỉnh nguyện thư của GĐPT Nguyên Thiều
Chúng con những Huynh trưởng, Giáo viên Phật Pháp, Việt ngữ và Phụ huynh ký tên dướiđây thuộc Gia Đình Phật tử Nguyên Thiều, trực thuộc Ban Hướng dẫn Trung ương, dưới sự hướng dẫn của HT Thích Huyền Việt, Tổng vụ Thanh Niên, GHPGVNTN Hải ngoại tại Hoa Kỳ, Văn phòng II Viện Hóa Đạo.
Chúng con tha thiết cung kính cúi xin Ngài hoan hỷ lưu lại ngôi vịĐức Tăng Thống GHPGVNTNđể tiếp tục lãnh đạo chúng con trong công cuộc giải trừ Pháp nạn và Quốc nạn cũng như lèo lái con thuyền GHPGVNTN qua khỏi cơn bảo táp hiện nay.
Cung kính thỉnh nguyện, đồng ký tên : Không Hiến – Nguyễn Thế Vinh – Nguyên An Hiến Phạm – Không Lỗi Hoàng Hùng – Thị Huy Nguyễn Hoàng – Không Lực Phạm Viết Hùng – Nguyên Trinh Lê Như Thủy – Nhuận Quý Bùi Văn Hòa - Không Triết- Nguyễn Thị Lành - Không Bạch- Nguyễn Xuân Thanh - Không Bảo- Trần Thị Minh Ngọc - Không Yến- Trần Thị Minh Hằng - Không Kiều- NguyễnThịThanh Thảo
----- Original Message -----
From : Duong Le
To : pttpgqt@gmail.com
Sent : Wednesday, September 04, 2013 6 :17 PM
Subject : THU THINH NGUYEN
Phật lịch 2557- Sep.01.13
Ngưỡng bạch Đức Tăng Thống,
Chúng con xin đãnh lễ Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất,
Qua Cáo Bạch số 06/ VTT/TT ngày 30.08.2013, chúng con được biết Đức Đệ Ngũ Tăng thống, vì lý do bất khả kháng, có ý định lui về tịnh tu. Chúng con bàng hoàng, rã rời, buồn đau, lo lắng…
Trong nỗi niềm xót xa đó, chúng con xin được dâng lên Ngài thỉnh cầu sau đây :
Ngài hiện thân là bóng mát che chở, là ngọn đuốc rực sáng trong giai đoạn đầy khó khăn thử thách mà Giáo hội đang góp phần giải trừ Pháp nạn và Quốc nạn.
Do đó chúng con xin thành kính đãnh lễ và thành tâm cúi xin được góp phần thỉnh cầu Đức Tăng Thống tiếp tục vai trò Lãnh Đạo tối thượng của Giáo Hội.
Chúng con nguyện cầu Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ Pháp Thể khinh an chúng sanh dị độ và tiếp tục lèo lái con thuyền giáo hội vượt qua bảo táp phong ba.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Đính kèm danh sách hộ trì Tam Bảo gồm 72 Phật tử thành viên Hội PGVN-TTGA.
Từ khuya ngày 1.9 cho đến suốt ngày 2.9, Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế đã chuyển trình Đức Tăng Thống tất cả những phản ứng hay thỉnh nguyện thư cầu thỉnh Ngài bỏ ý định từ chức của chư Tăng Ni và đồng bào hải ngoại. Tổng cộng trên một trăm trang.
Nhiều Hòa thượng ở miền Trung lặn lội về Saigon đến Thanh Minh Thiền viện đảnh lễ xin Ngài nghĩ tới cuộc vận động Giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn chưa thành, lãnh thổ lãnh hải bị ngoại nhân xâm chiếm, nhân tâm ly tán, phân hóa, đồng bào trong nước sống cảnh đói nghèo, thiếu tự do, nhân quyền, chế độ độc tài toàn trị vẫn còn thống trị, để van nài Ngài trở lại lèo lái con thuyền Giáo hội trên phong ba bão táp. Chẳng hạn như Hòa thượng Thích Như Đạt, Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) kiêm Tổng vụ trưởng Tổng vụ Tăng sự, Hòa thượng Thích Thanh Quang, Tổng Thư ký Viện Hóa Đạo kiêm Tổng vụ trưởng Tổng vụ Thanh Niên, Huynh trưởng Lê Công Cầu, Vụ trưởng Gia Đình Phật tử Vụ Viện Hóa Đạo (là tổ chức trẻ của Giáo hội), v.v…
Vào lúc 9 giờ sáng ngày 3.9, một số chư Tăng giáo phẩm thuộc Viện Hóa Đạo do Hòa thượng Thích Viên Định dẫn đầu, y hậu chỉnh tề, đến Thanh Minh Thiền Viện ở Saigon, ba lần đảnh lễ Đức Tăng Thống xin sám hối đã không khâm tuân việc xử lý nội bộ của Đức Tăng Thống trước đây, và xin Ngài đảm nhiệm trở lại việc lãnh đạo tối cao Giáo hội. Đồng thời xin hứa khâm tuân bất cứ quyết định gì của Đức Tăng Thống, đặt biệt là việc cách chức Hòa thượng Thích Chánh Lạc ra khỏi Giáo hội vì lý do đức hạnh.
Cùng thời gian này, Hòa thượng Thích Viên Lý, cũng điện thoại về xin đảnh lễ Đức Tăng Thống, sám hối với Ngài và rút lại ý định lưu nhiệm Hòa thượng Thích Chánh Lạc trong chức Chủ tịch Văn phòng II Viện Hóa Đạo hoặc Cố vấn.
Đức Tăng Thống đã mủi lòng trước sự thỉnh cầu tha thiết của Hòa thượng Viện trưởng Viện Hóa Đạo Thích Viên Định đại diện chư Tăng, cũng như Ngài đã mủi lòng trước đây khi đọc gần 100 trang Thỉnh nguyện thư hay các bài viết do Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế chuyển trình về thỉnh cầu Ngài tiếp tục lãnh đạo Giáo hội.
Khoảng 11 giờ trưa giờ Paris cùng ngày (3.9), Đức Tăng Thống gọi điện sang cho Cư sĩ Võ Văn Ái, Phát ngôn nhân Giáo hội và Giám đốc Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế, về cuộc gặp gỡ với phái đoàn chư Tăng Viện Hóa Đạo. Chúng tôi ngỏ ý xin Ngài cho phép loan tải ngay tin mừng này để chia sẻ với đồng bào hải ngoại đang sống trong cảnh âu lo, buồn thảm, hoang mang suốt mấy ngày qua.
Nhưng Ngài dặn hãy chờ một vài hôm. Chớ vội vã. Vì Ngài bảo để xem Quyết định Ngài sắp ban hành về việc truất chức Chủ tịch Văn phòng II Viện Hóa Đạo của HT Chánh Lạc có đạt sự đồng thuận của các ngài trong Hội động Lưỡng Viện như đã hứa hay không.
Hôm nay ngày 4.9, Đức Tăng Thống cho chuyển sang Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế để phổ biến bản Quyết định thành phần nhân sự Văn phòng II Viện Hóa Đạo là cơ quan lãnh đạo Giáo hội ở hải ngoại. Qua Quyết định này, Hòa thượng Thích Chánh Lạc không còn giữ chức vụ gì trong Giáo hội, đặc biệt chức Chủ tịch kiêm Tổng Ủy viên Hoằng pháp. Chúng tôi sẽ cho scan bản Quyết định 2 trang do Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ ấn ký gửi kèm bản Thông cáo báo chí hôm nay. Dưới đây là danh sách thành phần nhân sự Văn phòng II Viện Hóa Đạo (xem bản scan toàn văn Quyết định đính kèm) :
Chủ tịch : HT Thích Viên Lý
Phó chủ tịch : HT Thích Trí Lãng
Phó chủ tịch : HT Thích Trí Minh
Tổng thư ký : HT Thích Chơn Trí
Tổng Ủy viên Kế hoạch : Pháp sư niên trưởng Thích Giác Đức
Tổng Ủy viên Hoằng pháp : HT Thích Thiện Hữu
Tổng Ủy viên Truyền Thông : TT Thích Giác Đẳng
Tổng Ủy viên Thanh niên : HT Thích Huyền Việt
Tổng Ủy viên Tài chánh kiêm Đặc trách Liên lạc Úc châu : HT Thích Phước Nhơn
Tổng Ủy viên Từ thiện Xã hội kiêm Đặc trách Liên lạc Canada : HT Thích Thiện Tâm
Tổng Ủy viên Ngoại vụ : Cư sĩ Võ Văn Ái
Tổng Ủy viên Đặc trách Liên lạc Quốc tế : Cư sĩ Hồng Chi Ỷ Lan
Tổng Thủ bổn : Sư Bà Thích Nữ Nguyên Thanh
Thỉnh Nguyện Thư do Thôn Vỹ Dạ phát động lấy chữ ký trên Internet trong ngày 2.9 và đã thu được 147 chữ ký :
From : ThonVyDa
Sent : Monday, September 02, 2013 12 :13 PM To : undisclosed recipients :
Subject : Thỉnh nguyện thư thỉnh cầu HT Quảng Độ tiếp tục vai trò Tăng Thống
Kính thưa quý đồng hương, Phật tử :
Mấy ngày qua, chúng ta sững sờ trước thông bạch từ nhiệm của Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ.
Bao nhiêu năm qua, Ngài đã cùng Đức Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang đẩy mạnh công cuộc vận động Giải trừ Quốc Nạn và Pháp nạn. Trong khi mọi người hoang mang không biết phải làm gì và tin ai thì chính Ngài là ngọn đuốc soi đường. Hình ảnh Ngài là niềm hy vọng và sự tin tưởng cho người con Phật ưu tư về tiền đồ Đạo Pháp và Dân tộc khắp năm châu.
Xin quý đồng hương Phật tử ký vào thỉnh nguyện thư thỉnh cầu Ngài tiếp tục vai trò Tăng Thống của GHPGVNTN.
Trân trọng,
ThônVỹDạ
Chúng con, những Phật tử hải ngoại ưu tư cho mạng mạch và tiền đồ của Giáo Hội nói riêng và cho công cuộc vận động giải trừ Pháp nạn và Quốc nạn nói chung trước quyết định từ nhiệm của Ngài. Vì tiền đồ của Phật giáo và Dân tộc, chúng con cúi đầu thỉnh cầu Ngài tiếp tục ngôi vị Tăng Thống của Giáo hội. Được vậy là phước duyên lớn cho quê hương đất nước. Chúng con cầu nguyện Hồng ân Chư Phật, Chư Lịch Đại Tổ Sư, Chư Thánh Tử Đạo gia hộ Ngài pháp thể khang an, Phật sự viên thành và hạnh nguyện viên mãn. Phật tử hải ngoại
Đồng ký tên : Michael Bui Garden Grove, California USA - Thanh Nguyen-Brem, Germany - Lam Nguyen Tampa, Florida USA – Nguyễn Duy Thông, Montpellier, France - Tuan Hoang Sachse, Texas USA - Túc Trương Dallas, Texas USA - Que Nguyen Lawrenceville, Georgia USA - Hồng Yến Trần Norkesville, Virginia USA - Chanh Nhan Laurel, Delaware USA – Lac Tieu Brooklyn, New York USA - Hiến Tống Garden Grove, California USA - Huy Nguyen Grand Prairie, Texas USA – Sum Ngoc Duong Denver, Colorado USA - Sa Phan Dallas, Texas USA - Tam Tran Dallas, Texas USA - Anh Hoang Santa Ana, California USA - Co Cao Sacramento, California USA - Terry Phan Houston, Texas USA - Hien Cao Allen, Texas USA - Thao Dam Garland, Texas USA - Davis Nguyen Sacramento, California USA - Anh Pham Garden Grove, California USA – Vu Trong Khai, Tuệ Mỹ, Australia – Ton Nu Hoang Hoa Tampa, Florida USA – Tan Vinh Ho, Australia - Freedom VietNam Manchester, United Kingdom - Qui Nguyen Santa Ana, California USA – Huong Nguyen Sugarland, Texas USA - Diệu Thúy Vo Murphy, Texas USA - Hien Pham Thornton, Colorado USA - Be Tran Houston, Texas USA - Ngoan Le San Jose, California USA - Am Tran Stockton, California USA - Thanh Luong San Diego, California USA - Dan Le San Jose, California USA - Giang Phu Plano, Texas USA - Huong Nguyen Thornton, Colorado USA - Kelly Pham Thornton, Colorado USA - Minh Tam Tran Morrow, Georgia USA - Victor Pham Plano, Texas USA - Bryant Pham Thornton, Colorado USA - Anh Tâm Nguyễn Khắc Florisant, Missouri USA - Nguyet Le Lawrenceville, Georgia USA - Minh Lam Denver, Colorado USA - Bao Kim Vu Springfield, Virginia USA - Can Khong Denver, Colorado USA - Thanh Le Chicago, Illinois USA - Dang Nguyen Toronto, Canada - Hai quang Pham Tornto, Canada - Hưng Lâm Mobile, Alabama USA - Vinh Ho, Australia - Ai Ton Garland, Texas USA - Amos Pham the Houston, Texas USA - Khiem The Tran Yukon, Oklahoma USA - Peter Nguyễn New Orleans, Louisiana USA - Vinh Cao Fountain Valley, California USA - Bac Tran Pearland, TX 77584, Texas USA - Đức Ly Bùi Seattle, Washington USA - Tho Le Centennial, Colorado USA - Mai Xuan Portland, Oregon USA - Trach Ha, San Jose, California USA - Dan Vo Pháp danh : Tâm Thành, Sanjose, California USA - Nguyen Thinh, Australia - Son Tran San Diego, California USA - Can Bui Minneapolis, Minnesota USA - Minhhung Khuong USA - Cang Nguyen Orlando, Florida USA - Nhu Thuy Le Littleton, Colorado USA - QUE NGUYEN El Monte, California USA – Khanh Le, Colleyville, Texas USA - Giac Ha San Jose, California USA - Thanh Phan Tacoma, Washington USA - Nhut Tran San Jose, California USA - Hoa Nguyen Houston, Texas USA - Sanh Dang Mesquite, Texas USA - Hanh Ha Aurora, CO 80013, Colorado USA - Chanh Dinh Aurora, Colorado USA - Dieuvien Tran Garland, Texas USA - Helena Vu Denver, Colorado USA – Brian Vo Stockton, California USA - Trung Ung Le, Germany - Dung Nguyen Vancouver, Canada - Luyen Nguyen Wichita, Kansas USA - MINH NGUYEN, Australia - Luan Nguyen Bruxelles, Colorado USA - Hoi Nguyen Hyde Park, Massachusetts USA - Truong Luu Gaithersburg, Maryland USA – Dinh Van Ho Kansas City, Missouri USA - Huong Bui Littleton, Colorado USA - Dien Hoang Odense, Denmark - An Nguyen St.Paul, Minnesota USA - Vinh Nguyen Westminster, Colorado USA - Văn Đáo Nguyễn Amersfoort, Utah USA - Thanh Nguyen Broomfield, Colorado USA - Hoang Nguyen Denver, Colorado - Ngoc Quang Le Westminster, Colorado USA - Kim Tran Monterey, California USA - Minh Ngoc, Australia – Tan Pham San Jose, California USA - Thiet Trương Dallas, Texas USA - Lanthanh Nguyen Mission Viejo, California USA - Phung Nguyen San Jose, California USA - Lu Dam San Jose, California USA - David Ha Houston, Texas USA - Loan Nguyen Denver, Colorado USA - Thanh Truong Olympia, Washington USA - Kiều Túy Nguyen Bellevue, Washington USA - Mai Huong Tran Thi Philadelphia, Pennsylvania USA - Thuan Do Anaheim, California USA - Cuong Nguyen Los Angeles, California USA - Be V. Huynh Houston, Texas USA - Ham Tran Seal Beach, California USA - Giang Le, Australia - Dai Vo Houston, Texas USA - Khac Nguyen, Australia - Amrin Hồ Seattle, Washington USA – Quốc Việt Khối 8406 Hoa Kỳ Nguyen San Jose, California USA - Hung Nguyen Santa Ana, California USA - Ban Bui Littleton, Colorado USA - Nathan Nguyen Westminster, California USA - Kha Nhan Nguyen Littleton, Colorado USA – Lang Nguyen Portland, Oregon USA - LongDuc Mach Saigon Việt Nam - Edward Laurson Denver, Colorado USA - Amy Nguyen Littleton, Colorado USA - Phuong Nguyen Santa Ana, California USA - Khong Bach Littleton, Colorado USA - Thanh Lam Nguyen Littleton, Colorado USA - Vien Ha Midway city, California USA – Duyen Đoan Portland, Oregon USA – Tuyet Ta Houston, Texas USA - Anh Nguyen Yukon, Oklahoma USA - Thuc Vu Seattle, Washington USA - Kim Truong Calgary, Canada - Tri Nguyen Aurora, Colorado USA - Tony Ho Santa Ana, California USA - Long Hoang Co San Jose, California USA - Son Bui Westminster, Colorado USA - Henrik Nguyen sacramento, California USA - Cat Le, Australia - Le Thanh Nguyen, Australia – Lieu Do Dang, Australia - Hang Huynh Mobile, Alabama USA - Niệm Trần Marlton, New Jersey USA - David Hoang Denver, Colorado USA - Tony Hoang Denver, Colorado USA.
Một vài Thỉnh nguyện thư hay bài viết tiêu biểu trong số gần 100 trang chuyển trình Đức Tăng Thống hôm 2.9.2013 :
From : YungKrall
Sent : Monday, September 02, 2013 3 :16 AM
Subject : Đại lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ từ nhiệm chức vụ Tăng thống....
Kính thưa các bạn,
30 tháng Tư năm 1975 chúng ta mất Miền Nam Vietnam vào tay Cộng sản.
1 tháng 9, 2013 Phật tử Viêt Nam mất Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
Là con của Phật, xin anh chị em dìu dắt nhau nuôi dưỡng Bi Trí Dũng trong tâm để vượt qua mọi thử thách trong những tháng ngày sắp tới.
Xin cầu nguyện cho Đại Lão Hoà Thượng Thích Quảng Độ và sát cánh cùng Ngài trong công cuộc giải trừ Quốc nạn và Pháp Nạn.
Với lòng thành kính.
Đặng Mỹ Dung
(tức Yung Krall, tác giả sách “The thousands Tears” Việt dịch «Ngàn giọt lệ rơi)
----- Original Message -----
From : Huong Tran
Sent : Sunday, September 01, 2013 7 :02 PM
Subject : Kính gửi chư Tôn Đức, qúy vị trong hàng lãnh đạo GHPGVNTN VP 1, 2 VHĐ v/v - Dai lao Hoa thuong Thich Quang Do tu nhiem chuc Tang Thong
Trước hết, con xin kính đãnh lễ và xin vấn an qúy Ngài thân tâm luôn an lạc, Đạo Pháp viên thành, dìu dắt chúng sanh vượt qua bể khổ về bến Giác.
Thưa qúy chư Tôn Đức,
Đọc bản Cáo bạch từ Hội đồng lưỡng viện GHPGVNTN gửi ra về việc Ngài Tăng Thống Thích Quảng Độ từ nhiệm. Qua bản thông bạch này, không những một mình con mà con nghĩ đây là một tin khiến cho toàn thể Phật Tử khắp nơi trên thế giới phải bị hụt hẫng và lo lắng cho vận mệnh tương lai của GHPGVNTN trong và ngoài nước.
Như chúng ta đều biết, Ngài Tăng Thống Thích Quảng Độ là vị Cao tăng được Quốc Tế biết tới nhiều nhất, hơn cả Nhất Hạnh, nhờ vào đó, tiếng nói của Phật Giáo GHPGVNTN trong nước mới được Quốc Tế lắng nghe và để ý tới. Nay Ngài ra thông bạch từ nhiệm và nếu Giáo Hội để Ngài từ nhiệm thì đây không phải chỉ là sự thiệt thòi cho GHPGVNTN Văn phòng I Viện Hóa Đạo mà cả GHPGVNTN Văn phòng II Viện Hóa Đạo cũng bị ảnh hưỡng, như vậy không phải là cái phước cho Phật Giáo.
Biết rằng sự từ nhiệm của Ngài Tăng Thống bắt nguồn từ biệt nghiệp của một cá nhân tu sĩ trong Giáo Hội, nhưng con vẫn mong các Ngài hãy vì Phật Giáo, vì Giáo Hội mà đưa ra một giải pháp tốt nhất để cứu vãn vấn đề. Có lẽ các Thầy nghĩ rằng con không là gì để đưa ra lời khuyên và mong cầu đối với sự việc quyết định của các Thầy trong Giáo Hội, nhưng xin các Thầy hãy vì Đạo Pháp, vì Phật Giáo GHPGVNTN Văn phòng I và II Viện Hóa Đạo để suy nghĩ lại (…)
----- Original Message -----
From : HT Bao Vuong
To : PTTPGQT (IBIB) ; queme.democracy@gmail.com ; bao ve chanh phap ; chutonthanhviengiaohoi@googlegroups.com Sent : Monday, September 02, 2013 5 :37 AM
Subject : Kính gởi HT Thích Quảng Độ Đệ Ngũ Tăng Thống GHPGVNTN Tại Việt Nam
Kính Bạch Hòa Thượng Tăng Thống,
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
Chúng Tôi,
HT Thích Huyền Tôn
Thành viên Hội Đồng Chứng Minh.
Tăng Giáo Trưởng Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hải ngoại Úc Đại lợi – Tân Tây lan ; và HT Thích Như Huệ
Thành Viên Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương
Hội Chủ Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTN Hải ngoại Úc Đại lợi – Tân Tây lan
Từ phương xa Úc Châu Khẩn thiết yêu cầu kính bạch Hoà Thượng :
Sau khi đọc lời Cáo Bạch số 06 /VTT/TT Ngày 30 tháng 8 năm 2013 của Hòa thượng phát ra từ Thanh Minh Thiền Viện ở Sàigòn Việt Nam, thật vô cùng chới với và lo cho tiền đồ của GHPGVNTN !!!
Nên cấp tốc, bất luận thế nào xin mạn phép cáo bạch với Hoà Thượng những điều cần phải giải quyết ngay trong vòng 24 giờ để cứu vãn tình trạng nguy cấp như Cáo bạch đã phát ra của Hoà Thượng.
- Thứ nhất : Hoà Thượng Phải vững trụ ở cương vị TĂNG THỐNG. để bảo toàn cho GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT. Là Tăng Thống Ngài Từ chức với ai ??? Bao năm tù ngục và đức kiên nhẫn của Hòa thượng là vì ai ? Không phải vì Giáo Hội hay sao ?
- Thứ Hai : Hoà Thượng Tăng Thống xin cấp tốc ra Giáo Chỉ Bãi bỏ “Cáo Bạch số 06/VTT/TT (…)
----- Original Message -----
From : Gop gio
Sent : Sunday, September 01, 2013 8 :19 PM
Subject : [GiongLacHong] Đức Tăng Thống THÍCH QUẢNG ĐỘ từ nhiệm - VÌ ĐÂU NÊN NỖI ?
VÌ ĐÂU NÊN NỖI ?
Sáng hôm nay 1-9-2013, chúng tôi đọc được bản Cáo Bạch của Đại Lão Hoà Thượng Thích Quảng Độ, đương kim Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhứt, Ngài quyết định “lui về tịnh tu để trưởng dưỡng tâm thân” --tức rút lui khỏi chức vụ “Tăng Thống Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhứt, kể từ ngày 30-8-2013.
Đây quả là một TIN SẤM SÉT làm cho không những giới Phật tử bàng hoàng lo âu… mà đối với những người có thiện cảm, gắn bó với Giáo hội cũng hoang hoang (…)
Võ Văn Sáu Báo GÓP GIÓ, Hoa Kỳ
----- Original Message -----
From : NGUYEN DUY
To : PTTPGQT (IBIB) Sent : Sunday, September 01, 2013 8 :56 PM
Subject : RE : [PTTPGQT] - Dai lao Hoa thuong Thich Quang Do tu nhiem chuc Tang Thong
Nam Mô A Di Đà Phật,
Chúng con, Phật Tử Nguyễn-Duy Thông và gia đình, xin được phép ghi tên vào danh sách thỉnh cầu Ngài tiếp tục giữ chức vụ Đệ Ngũ Tăng Thống để hướng dẫn tín đồ Phật giáo trong thời mạt pháp hiện nay. Chúng con tin chắc rằng tất cả tín đồ Phật giáo trong nước cũng như hải ngoại chỉ tin vào Ngài mà thôi.
Thật là kỳ lạ !! Đúng là thời Mạt Pháp !! Chúng con hoàn toàn đồng ý tuân theo Quyết định của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ.
Ngài thật xứng đáng làm Đệ Ngũ Tăng Thống. Chúng con hoàn toàn đồng ý tuân theo Quyết định của Ngài. Các vị Tăng sĩ chống lại Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, không xứng đáng để con kính phục.
Nguyễn -Duy Thông, Giáo sư Đại học Montpellier, Pháp Quoc.
----- Original Message -----
From : Chau Nguyen
Sent : Monday, September 02, 2013 2 :07 AM Subject : Cung kính Thỉnh Nguyện.
Chúng con,những thành viên và thân hữu Khuôn Hội PhậtGiáo Đôn Hậu,vùng South Bay Nam Los Angeles, cung kính toàn tâm, toàn ý, hổ trợ và khâm tuân ý chỉ của Đức Tăng Thống, Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ. (…)
Chúng con rất là bất an và ưu tư lo lắng cho mạng mạch và tiền đồ của Giáo hội nói riêng và cho công cuộc vận động giải trừ Pháp nạn và Quốc nạn nói chung, trước quyết định từ nhiệm Giáo Vụ Tăng Thống của Đức ngài Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ.
(…) Chúng con thỉnh cầu quí ngài Giáo Phẩm vì tiền đồ của Phật Giáo và Dân Tộc hãy cung thỉnh Đức Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ tiếp tục Giáo Vụ Tăng Thống GHPGVNTN bằng cách cung thừa ý chỉsáng suốt và trí tuệ "Cắt bỏ ung nhọt" của Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ.
Được vậy là phước duyên lớn cho Quêhương Đất nước và cho con thuyền của Giáo hội đang trong cơn phong ba bảo táp của vô minh ác trị, bạo ngược và tham tàn.
Đại diện Khuôn Hội Đôn Hậu.
Chánh Hồng,Nguyễn Thanh Châu.
----- Original Message -----
From : Di Tran
To : vovanai Sent : Monday, September 02, 2013 9 :25 PM
Subject : Thinh nguyen thu
Chúng con là Phật Tử thuộc các Khuôn hội Huyền Quang tại Đức Quốc xin đê đầu đảnh lễ Đức Đệ Ngũ Tăng Thống, chư vị Hòa Thượng trong hàng Giáo Phẩm, cùng Chư Tôn Đức thuộc GHPGVNTN.
Chúng con vô cùng bàng hoàng kèm nỗi đau đớn, thất vọng không bút mực nào tả xiết khi đọc được bản tin từ nhiệm của Đức ĐệNgũ Tăng Thống được đăng trên bản tin Quê Mẹ.
Tuy là hàng Phật Tử nhỏ nhoi nhất trong GHPGVNTN, nhưng chúng con xin mạo muội đạo đạt thỉnh nguyện lên Đức Đệ Ngũ Tăng Thống.
Chúng con trộm nghĩ dù tình hình hiện nay có như thế nào chăng nữa cũng không bằng bao hiểm nguy cá nhân Ngài Đệ Ngũ Tăng Thống cũng như Quý Ngài Tăng Thống tiền nhiệm đã nguyện hứng chịu.
Đó cũng là sự thật bi tráng từ bao đời lịch sử xa xôi đến hôm nay, đạo Phật từ bi trên đất nước Việt Nam luôn hứng chịu và có cùng số phận với vận mạng Dân Tộc và Tổ Quốc. Đại Lão Hòa Thượng đã không màng hiễm nguy đến mạng sống, như một đấng Từ Phụ luôn dẩn dắt Phật Tử từng suy nghĩ, từng bước đi, dù trong vòng lao lý vẫn luôn kề cận cùng chúng con trong mọi tình huống hung hiễm của Giáo Hội, kèm chung với họa mất nước !
Chúng con đồng lập nguyện kính xin Đức Đệ Ngũ Tăng Thống hồi tâm chuyển ý, tiếp tục mạnh mẽ lấy lại sự trong sáng của Giáo Hội và vì non sông Tổ Quốc Việt Nam thâu hồi lại Sắc Lệnh, chúng con xin lạy sám hối từ nay đến mãn kiếp.
Đức quốc, ngày 2 tháng năm 2013
Ký tên : Nhật Quang Trần Di Nhơn
Đại diện Khuôn hội Huyền Quang Frankfurt a.M
kiêm Chủ tịch Ủy ban Điều hợp
Minh Hải Đặng Ngọc Sơn
Đại diện Khuôn hội Huyền Quang München
Thiện Thủy Phan Thị Thanh Vân
Đại diện Khuôn hội Huyền Quang Rhein-Main
-------------------------
Oakland, CA ngày 02 tháng 09 năm 2013.
CUNG THỈNH NGUYỆN THƯ.
CUNG THỈNH NGUYỆN THƯ.
Chúng con Phật Tử của Đạo Tràng Tam Bảo, Oakland Tiểu Bang California. kính cẩn đê đầu đảnh lễ Ngài. Chúng con rất đau khổ, không những nước mắt chảy, mà máu con tim của chúng con cuồn cuộn khi đọc bản Cáo Bạch của Ngài.
Kính Bạch Ngài, hơn 38 năm qua, Ngài cùng với Ngài Đệ Tứ Tăng Thống đã vì mạng mạch của Phật Đà, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất nói riêng và toàn dân Việt Nam nói chung, các Ngài đã Dũng Mãnh nói lên những tiếng nói chung cho toàn dân Việt trước bạo quyền Cộng Sản, lèo lái con thuyền của Giáo Hội qua không biết bao nhiêu là phong ba. Nếu không có sự hy hiến cao cả của Quí Ngài thì ngày nay danh xưng GHPGVNTN đã không còn.
Hành trạng “Bồ Tát vì chúng sanh khổ đau mà gạt lệ nhảy vào ; vì biết chúng sanh cùng với mình là MỘT THỂ” của Quí Ngài bút mực không thể tả hết được.
Bản thân của chúng con trước khi Xuất Gia là “Anh Lính Việt Nam Cộng Hòa”, chúng con đã đi trên quê hương điêu tàn đỗ nát không biết bao nhiêu năm. Vì nhận thức rằng : Chính Trị, Kinh Tế, Khoa Học không thể đem lại Hòa Bình Chân Chính cho nhân loại ; chỉ có nền Giáo Dục Từ Bi, Trí Tuệ của Phật Đà mới cứu khổ nhân loại và đem lại đời sống Chân Thiện Mỹ cho chúng sanh. Do đó, chúng con đã đổi màu áo hoa rừng và được phước báo khoát lên người chiếc Ca Sa của Phật, Học Phật và Nguyện theo con đường của Chư Phật Như Lai cùng Lịch Đại Tổ Sư.
Kính Bạch Ngài, ngày nay nếu GHPGVNTN “không có Huyền Quang, không có Quảng Độ” thì Giáo Hội này thuộc về ai ? Có phải là đã hiến mình theo ước mong của Đảng Cộng Sản VN hay chăng ?!
Chúng con là toàn thể Phật Giáo Đồ, Quân Dân Cán Chánh Miền Nam Việt Nam Tỵ Nạn Cộng Sản tại Vùng Bắc California, kính xin đê đầu thành tâm đảnh lễ dưới chân Ngài. Ngưỡng mong Ngài hãy thương xót chúng con, 90 triệu người Việt Nam trên quê hương ta và GHPGVNTN truyền thừa trên 2,000 năm mà Lịch Đại Tổ Sư cùng với Tín Đồ đã hy hiến đời mình gìn giữ. Chúng con đã xa quê hương, mất tất cả, chỉ còn lại MỘT CON THUYỀN GHPHVNTN để nuôi sống tâm linh. Con Thuyền này đã được Hai Ngài lèo lái cho đến ngày đến bờ đến bến. Giờ đây nếu Ngài bỏ chúng con, chúng con còn ai để nương tựa ? Ngài đã thương xót chúng con kính xin Ngài hãy thương cho trọn.
CHÚNG CON ĐÊ ĐẦU ĐẢNH LỄ DƯỚI CHÂN NGÀI. KÍNH CUNG THỈNH NGÀI HÃY Ở LẠI NGÔI VỊ ĐỆ NGŨ TĂNG THỐNG ĐỂ LÈO LÁI CON THUYỀN GHPHVNTN.
Khể Thủ,
Tây Hữu Đệ Tử
Thích Kiến Chơn cùng toàn thể Phật tử và Đồng Hương Vùng Đông Vịnh.
----------------------------
Sacramento ngày 2 tháng 9 năm 2013
Thỉnh nguyện thư kính trình Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Đại Lão Hòa Thượng thuợng Quảng hạ Độ
Thỉnh nguyện thư kính trình Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Đại Lão Hòa Thượng thuợng Quảng hạ Độ
Ngưỡng bạch Đức Đệ Ngũ Tăng Thống
Con và đại chúng đạo tràng chùa Thường Quang, là thành viên của GHPGVNTNHN tai Hoa Kỳ Văn Phòng II Viện Hoá Đạo.
Sau khi đọc Cáo bạch của ngài, chúng con như bị sét đánh ngang tai, cảm thấy hụt hẫng, rồi nghĩ đến, mà ưu tư cho mạng mạch và tiền đồ của Giáo hội nói riêng và cho công cuộc vận động giải trừ Pháp nạn và Quốc nạn nói chung, trước quyết định từ nhiệm Giáo Vụ Tăng Thống của Ngài.
Chúng con đồng loạt xin noi gương chư Tăng Giáo Phẩm trong Văn Phòng II Viện Hoá Đạo, xin thành tâm đảnh lễ và cúi xin ngài lưu lại trong Giáo vụ Tăng Thống, chỉ có trí tuệ tuyệt luân của ngài mới lèo lái con thuyền chánh pháp qua khúc quanh gồ ghề nầy. Chúng con xin nguyện khâm tuân mọi hướng dẫn và quyết định của ngài.
Kính thư,
Con
Thích Nữ Tịnh Thường
Và đại chúng đạo tràng chùa Thường Quang
----- Original Message -----
From : anhdung nguyen
To : PTTPGQT (IBIB)
Subject : Re : [PTTPGQT] - Thinh nguyen thu cua 12 thanh vien VP2 VHD gui Duc Tang Thong
Kính gởi Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế,
Trong suốt ngày hôm qua, lòng người Phật Tử tại hải ngoại như nằm trên lửađỏ vì khiđọc Cáo bạch củaĐức Tăng Thống Thích QuảngĐộ, nước mắt cứ chực trào ra. Nayđọcđược Thông cáo báo chí nầy của quý 12 vị trong Văn phòng II Viện Hóa Đạođồng ký tên thỉnh nguyệnĐức Tăng Thống bỏýđịnh từ chức, mong rằng Bồ Tát sẽ giải cơn Pháp nạn nầy vàĐức Tăng Thống sẽ bỏýđịnh từ chức.
Thiện Bửu Nguyễn Anh Dũng
KINH TIẾNG GẦM SƯ TỬ
(…) Đối với tôi, chẳng những tôi bình thản trước tin Hòa Thượng Thích Quảng Độ từ nhiệm Hội đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN, mà tôi còn kính trọng Hòa Thượng Thích Quảng Độ nhiều hơn nữa, tin tưởng vào Phật Giáo một cách mạnh mẽ hơn nữa.
Đức Phật thường nói nếu người tu hành giữ gìn giới luật một cách nghiêm minh, thì sự sinh tồn của đạo Phật có thể kéo dài cho tới vài ngàn năm. Tôi thấy trong khi một vài đạo giáo khác có hàng ngàn tu sĩ phạm giới tình dục bị đưa ra tòa án xét xử, thì đạo Phật chỉ có một người phạm giới tình dục bị đưa ra tòa án xét xử ;
Tôi thấy trong khi một vài lãnh đạo các tôn giáo khác tìm mọi cách để che đậy việc phạm giới của người trong đạo của mình, thì lãnh đạo tối cao của GHPGVNTN là người phơi bày ra ánh sáng những người phạm giới trong đạo của mình ; tôi thấy trong khi những người lãnh đạo tối cao của một vài tôn giáo khác âm thầm từ nhiệm gây ra không biết bao nhiêu câu hỏi trên thế giới, thì người lãnh đạo tối cao của GHPGVNTN dõng dạc từ nhiệm một cách danh chính ngôn thuận mà không ai có thể mở miệng hỏi bất cứ một câu gì trên thế giới…
Và hơn tất cả, lời tuyên bố từ nhiệm của Hòa Thượng Thích Quảng Độ là tiếng gầm của một con Sư tử chúa, mong cho chúng ta sớm ý thức được giáo lý Duyên sinh mà chấm dứt tranh chấp nội bộ.
Trong tiếng gầm này pháp âm của Đức Phật vẫn còn vang dội… Chúng con xin nguyện học hỏi và thực hành tiếng gầm của con Sư tử chúa của Ngài. Xin cúi đầu đảnh lễ và cầu nguyện Đức Phật gia hộ cho Ngài trong suốt quảng đường còn lại…
(2-9-2013)
Duyên Sinh
AI CHỐNG ĐỐI VỚI MA VƯƠNG CỘNG SẢN ĐÂY ?
Những nhận định và quyết định thanh tịnh hóa Giáo hội của Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ là hoàn toàn chính xác. Không làm như thế Phật giáo sẽ bị diệt vong. Cần phải tự bỏ nạn Bé phái và cần vâng lời Đức Tăng Thống để cứu Giáo hội.
Phật giáo đồ Việt Nam trên toàn thế giớixin đứng sau lưng Ngài để chấn chỉnh Giáo hội và đối phó với Ma vương Cộng sản.
Ngài từ nhiệm vì lý do nội bộ, nhưng Ngài quên một điều : Ai đối phó với Ma vương Cộng sản đây ?
Ngài dứt áo ra đi trước một nội bộ Bè phái và Bất vâng lời, cũng do Bè phái. Nhưng còn hàng triệu Phật tử sau lưng và một sứ mạng Đối phó Ma vương Cộng sản và Bắc phương để cứu Đạo pháp và Dân tộc. Ngài ra đi thì ai lo đây ? Ngài ra đi có khác gì tự động bàn giao Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất cho Cộng sản, và Cộng sản thì sẽ tự động bàn giao đất nước cho Tàu phù trong vài năm nữa !
Xin Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ ở lại để chống chọi với cơn sóng dữ phủ trùm lên Đạo pháp và Dân tộc.
Kính cẩn,
Thay mặt Diễn Dàn Quốc tế các phong trào dân chủ Việt Nam
Nguyễn Bá Long, Canada
From : Hoang Nguyen
Subject : Thỉnh nguyện thư của GĐPT Nguyên Thiều
VĂN PHÒNG II VIỆN HÓAĐẠO
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT HẢI NGOẠI TẠI HOA KỲ
TỔNG VỤ THANH NIÊN - GIAĐÌNH PHẬT TỬ VỤ
BAN HƯỚNG DẪN TRUNGƯƠNG
GIAĐÌNH PHẬT TỬ NGUYÊN THIỀU – CHÙA NHƯ LAI
Đoàn quán : 2630 W Iliff Ave., Denver, CO 80219
THỈNH NGUYỆN THƯ
Ngưỡng BạchĐứcĐệ Ngũ Tăng Thống
Đại Lão Hòa Thượng Thích QuảngĐộ
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT HẢI NGOẠI TẠI HOA KỲ
TỔNG VỤ THANH NIÊN - GIAĐÌNH PHẬT TỬ VỤ
BAN HƯỚNG DẪN TRUNGƯƠNG
GIAĐÌNH PHẬT TỬ NGUYÊN THIỀU – CHÙA NHƯ LAI
Đoàn quán : 2630 W Iliff Ave., Denver, CO 80219
THỈNH NGUYỆN THƯ
Ngưỡng BạchĐứcĐệ Ngũ Tăng Thống
Đại Lão Hòa Thượng Thích QuảngĐộ
Chúng con những Huynh trưởng, Giáo viên Phật Pháp, Việt ngữ và Phụ huynh ký tên dướiđây thuộc Gia Đình Phật tử Nguyên Thiều, trực thuộc Ban Hướng dẫn Trung ương, dưới sự hướng dẫn của HT Thích Huyền Việt, Tổng vụ Thanh Niên, GHPGVNTN Hải ngoại tại Hoa Kỳ, Văn phòng II Viện Hóa Đạo.
Chúng con tha thiết cung kính cúi xin Ngài hoan hỷ lưu lại ngôi vịĐức Tăng Thống GHPGVNTNđể tiếp tục lãnh đạo chúng con trong công cuộc giải trừ Pháp nạn và Quốc nạn cũng như lèo lái con thuyền GHPGVNTN qua khỏi cơn bảo táp hiện nay.
Cung kính thỉnh nguyện, đồng ký tên : Không Hiến – Nguyễn Thế Vinh – Nguyên An Hiến Phạm – Không Lỗi Hoàng Hùng – Thị Huy Nguyễn Hoàng – Không Lực Phạm Viết Hùng – Nguyên Trinh Lê Như Thủy – Nhuận Quý Bùi Văn Hòa - Không Triết- Nguyễn Thị Lành - Không Bạch- Nguyễn Xuân Thanh - Không Bảo- Trần Thị Minh Ngọc - Không Yến- Trần Thị Minh Hằng - Không Kiều- NguyễnThịThanh Thảo
----- Original Message -----
From : Duong Le
To : pttpgqt@gmail.com
Sent : Wednesday, September 04, 2013 6 :17 PM
Subject : THU THINH NGUYEN
VĂN PHÒNG II VIỆN HÓA ĐẠO
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT HẢI NGOẠI TẠI HOA KỲ
Hội Phật Giáo Việt Nam Trung Tâm Georgia
CHÙA VIÊN THÔNG
3064 Oakcliff Rd, Doraville, GA 30340
770-457-7253, 404-667-2664
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT HẢI NGOẠI TẠI HOA KỲ
Hội Phật Giáo Việt Nam Trung Tâm Georgia
CHÙA VIÊN THÔNG
3064 Oakcliff Rd, Doraville, GA 30340
770-457-7253, 404-667-2664
Phật lịch 2557- Sep.01.13
THƯ THỈNH NGUYỆN
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
Ngưỡng bạch Đức Tăng Thống,
Chúng con xin đãnh lễ Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất,
Qua Cáo Bạch số 06/ VTT/TT ngày 30.08.2013, chúng con được biết Đức Đệ Ngũ Tăng thống, vì lý do bất khả kháng, có ý định lui về tịnh tu. Chúng con bàng hoàng, rã rời, buồn đau, lo lắng…
Trong nỗi niềm xót xa đó, chúng con xin được dâng lên Ngài thỉnh cầu sau đây :
Ngài hiện thân là bóng mát che chở, là ngọn đuốc rực sáng trong giai đoạn đầy khó khăn thử thách mà Giáo hội đang góp phần giải trừ Pháp nạn và Quốc nạn.
Do đó chúng con xin thành kính đãnh lễ và thành tâm cúi xin được góp phần thỉnh cầu Đức Tăng Thống tiếp tục vai trò Lãnh Đạo tối thượng của Giáo Hội.
Chúng con nguyện cầu Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ Pháp Thể khinh an chúng sanh dị độ và tiếp tục lèo lái con thuyền giáo hội vượt qua bảo táp phong ba.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Hoa kỳ, tiểu bang Georgia, thành phố Doraville,
01 tháng 9-2013
TM. Ban Điều Hành Hội Phật Giáo Việt Nam Trung Tâm Georgia- Chùa Viên Thông
Tâm cung Lê Văn Dương, XLTV. Hội Trưởng,
01 tháng 9-2013
TM. Ban Điều Hành Hội Phật Giáo Việt Nam Trung Tâm Georgia- Chùa Viên Thông
Tâm cung Lê Văn Dương, XLTV. Hội Trưởng,
Đính kèm danh sách hộ trì Tam Bảo gồm 72 Phật tử thành viên Hội PGVN-TTGA.
GS. PHẠM CAO DƯONG * VIỆT NAM ĐÃ VÀ ĐANG MẤT NƯỚC
“Nếu ngươi dám đem một thước, một tấc đất của Thái Tổ làmmồi cho giặc, thì tội phải tru di.” Vua Lê Thánh Tông dụ bọn Kiến Dương Bá Lê Cảnh Huy, năm 1473
“Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái lan, Miến Điện, Ma-lai-xi-a và Xin-ga-po. Một vùng như Đông-nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản..xứng đáng với sụ tốn kém cần thiết để chiếm lấy…Sau khi giành được Đông-nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô- Đông Âu, gió đông sẽ thổi bạt gió tây.”
“Chúng ta phải chinh phục trái đất. Mục tiêu của chúng ta là toàn thể trái đất.”
Mao Trạch Đông tuyên bố trước Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc, năm 1959
Nói về hiện tình đất nước ở vào thời điểm 2013 mà không nói tới tham vọng và cuộc xâm lăng của người Tàu, cuộc xâm lăng mới nhất, đang xảy ra trên lãnh thổ của nước ta là một điều vô cùng thiếu sót. Vì vậy thay vì góp thêm nhận định về hiện trạng kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục ở trong nước hiện tại, tôi xin phép Ban Tổ Chức và toàn thể quý vị cho tôi được nói đôi chút về đề tài nóng bỏng này, đề tài tôi tạm gọi là “ Chúng Ta đã và Đang Mất Nước”.
Vì thời giờ có hạn, tôi chỉ xin nói ra những điểm chính. Sau buổi hội thảo ngày hôm nay tôi sẽ xin ghi lại những chi tiết đầy đủ hơn và sẽ xin gửi tới quý vị sau. Cũng vì thì giờ có hạn, tôi sẽ không nói tới hay đúng ra không nói nhiều về Biển Đông với các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và Đường Lưỡi Bò của Trung Cộng và những gì đế quốc mới này đã và đang làm ở trong vùng biển này như thành lập Thành Phố Tam Sa, thiết lập các cơ cấu hành chánh, chánh trị, quân sự, đưa các tàu hải tuần xuống đe dọa các quốc gia liên hệ chặn bắt, các tàu đánh cá của ngư dân, đặc biệt là ngư dân Việt Nam…Lý do là vì tất cả đã trở thành đề tài thời sự thế giới, được nói tới gần như hàng tuần và luôn cả hàng ngày trên các đài phát thanh, các đài truyền hình quốc tế cũng như các đài phát thanh, đài truyền hình của người Việt, trên các trang mạng từ nhiều năm nay và đương nhiên trong những buổi gặp gỡ giữa anh em, bạn bè chúng ta.
Tôi cũng không nói hay nói rất ít về bản “Tuyên Cáo về việc Nhà Cầm Quyền Trung Quốc Liên Tục Có Những Hành Động Gây Hấn, Xâm Phạm Nghiêm Trọng Chủ Quyền Toàn Vẹn Lãnh Thổ Việt Nam Trên Biển Đông”, ngày 25 tháng 6 năm 2011 và bản “Kiến Nghị Về Bảo Vệ Và Phát Triển Đất Nước Trong Tình Hình Hiện Nay” của các nhân sĩ, trí thức nổi tiếng ở trong nước gửi Quốc Hội Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và Bộ Chính Trị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày 10 tháng 7 cùng năm và nhiều kiến nghị khác mà mọi người đều biết trước là sẽ không bao giờ được trả lời hay chỉ được trả lời quanh co hay gián tiếp.
Tôi cũng không nói hay nói rất ít về lối trả lời gián tiếp các nhà trí thức kể trên của Đảng CSVN xuyên qua một bài báo đăng trên tờ Đại Đoàn Kết theo đó những người cầm quyền ở Việt Nam hiện tại đã tỏ ra vô cùng lúng túng trước câu hỏi về bản công hàm của Phạm Văn Đồng nhân danh Thủ Tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà gửi Chu Ân Lai, Chủ Tịch Quốc Vụ Viện nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, ngày 14 tháng 9 năm 1958. Đây là lần đầu tiên những người cầm đầu Đảng Cộng Sản Việt Nam, đã thừa nhận là họ đã lựa chọn nhường các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Cộng để đổi lấy sự giúp đỡ của Trung Cộng trong cuộc xâm chiếm Miền Nam bằng vũ lực của họ sau đó. Đây cũng là lần đầu tiên họ, những người cầm đầu Đảng Cộng Sản Việt Nam, công nhận các chính phủ Quốc Gia Việt Nam thời Quốc trưởng Bảo Đại và sau đó là Việt Nam Cộng Hòa là những chính phủ hợp pháp có trách vụ quản trị các quần đảo này theo Hiệp Định Genève cũng như những nỗ lực không thể chối cãi mà những chính phủ quốc gia này đã làm để bảo vệ các quần đảo này trong suốt thời gian các chính phủ này tồn tại.
Lý do chính yếu khiến tôi không nói hay chỉ nói rất it về những sự kiện kể trên là vì tất cả hiện thời ở Biển Đông và các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mới chỉ là diện, là bề ngoài, là mới chỉ là bắt đầu. Tất cả rồi cũng sẽ được giữ nguyên trạng trong một thời gian dài và dù muốn hay không Hoàng Sa cũng đã mất rồi, còn Trường Sa thì cũng mất nhiều phần, còn nhiều thế hệ nữa Việt Nam mới có thể lấy lại được hay có cơ hội lấy lại được. Trung Hoa Cộng Sản trong mọi hoàn cảnh cũng đã chiếm được và giữ được những phần quan trọng kể từ sau khi họ chiếm Hoàng Sa từ trong tay Việt Nam Cộng Hòa hồi tháng Giêng năm 1974 trong sự im lặng, đồng lõa của chính quyền Cộng Sản Hà Nội. Cái giá để cho Đảng CSVN xâm chiếm miền Nam và thống nhất đất nước ta bằng võ lực phải nói là quá đắt cho dân tộc Việt Nam và cho chính họ.
Hoàng Sa, Trường Sa hay rộng hơn Biển Đông chỉ là những gì nổi bật bề ngoài, là cái diện ai cũng có thể thấy được trong tiến trình mất nước của dân tộc Việt Nam đầu Thế Kỷ 21 này. Vậy thì cái điểm nằm ở đâu? Thưa quí vị, nó nằm ngay trên đất liền, trên lãnh thổ của chính quốc Việt Nam. Nó nằm rải rác ở khắp lãnh thổ nước ta chứ không riêng ở biên giới phía bắc, đành rằng ở biên giới phía bắc, người ta đã ghi nhận những sự nhổ và lui cột mốc, sự mất ba phần tư Thác Bản Giốc, những sự chiếm giữ các cao điểm có tính cách chiến lược từ trước và sau trận chiến 1979 giữa hai đảng Cộng Sản Á Châu và có thể từ xa hơn nữa, từ đầu thập niên 1950, khi CSVN mở cửa biên giới phía bắc để nhận viện trợ của Trung Cộng nhằm tiếp tục cuộc chiến tranh chống Pháp và gián tiếp chống lại chính quyền Quốc Gia Việt Nam lúc đó đã được thành lập bởi Cựu Hoàng Bảo Đại.
Những thắc mắc về sự mất mát này cho tới nay vẫn chưa được hoàn toàn giải toả dầu cho đã được nhiều người đòi hỏi. Tôi sẽ nói thêm ở phần cuối về vấn đề này. Có điều là đến giờ thì hai bên đã ký kết những thỏa ước và những cột mốc mới đã khởi sự được “cắm” rồi. Những điểm này tuy nhiên chỉ là ở dọc vùng biên giới. Quan trọng hơn và nguy hiểm hơn, bức thiết hơn là những điểm, mà không phải là điểm hiểu theo ý nghĩa đen của danh từ, nằm sâu ngay trong lãnh thổ của tổ quốc Việt Nam, dưới quyền quản lý của chính quyền Cộng Sản hiện tại nhưng vượt ra ngoài sự kiểm soát của chính quyền này. Những điểm vừa cố định, nằm nguyên một chỗ, vừa di động khắp nơi trên lãnh thổ, điển hình là những mỏ bauxite trên cao nguyên, những khu rừng đầu nguồn nằm ở cửa ngõ của những vùng biên giới Việt-Trung và Lào-Việt , những khu vực trúng thầu, những địa điểm thu mua các nông sản, những vùng nông dân bỏ trồng lúa, trồng khoai, những trại nuôi cá, điển hình là trại nằm không xa quân cảng Cam Ranh là bao nhiêu mà các nhà cầm quyền địa phương sau cả gần chục năm không hề biết, những khu phố kiểu Đông Đô Đại Phố ở Bình Dương … Tất cả đã trở thành những “thực dân địa” của người Tầu ngay trong lòng của lãnh thổ Việt Nam, nơi những ủy ban nhân dân vẫn còn làm chủ. Nói cách khác, theo lời của các tác giả của Bản “Kiến Nghị Về Bảo Vệ Và Phát Triển Đất Nước …” ngày 10 tháng 7 năm 2011 mà tôi đã dẫn trên đây thì “…mặt trận nguy hiểm nhất đối với nuớc ta mà Trung Quốc muốn dồn quyền lực và ảnh hưởng để thực hiện, đó là: thâm nhập, lũng đoạn mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá của nước ta.
Đó là mặt trận vừa uy hiếp, vừa dụ dỗ nước ta nhân danh cùng nhau gìn giữ ý thức hệ xã hội chủ nghĩa, gây chia rẽ giữa nhân dân ta và chế độ chính trị của đất nước, vừa lũng đoạn nội bộ lãnh đạo nước ta, làm suy yếu khối đại đoàn kết thống nhất của dân tộc ta, làm giảm sút khả năng gìn giữ an ninh và quốc phòng của nước ta. Đánh thắng nước ta trên mặt trận nguy hiểm nhất này, Trung Quốc sẽ đánh thắng tất cả.” Nói cách khác đó là chiến lược dùng quyền lực mềm thọc sâu vào lãnh thổ Việt Nam để nhẹ ra là đưa Việt Nam đến chỗ phụ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc, còn nặng ra là chiếm luôn cả nước. Đến lúc đó thì Hoàng Sa, Trường Sa và Đường Lưỡi Bò đương nhiên sẽ trở thành biển đảo của Trung Quốc.
Hãy tưởng tượng ngay trên Cao Nguyên Miền Nam, địa diểm chiến lược quan trọng nhất đã chi phối toàn bộ an ninh của miền nam Việt Nam và sự thống nhất của lãnh thổ quốc gia trong quá khứ, trong một khu vực rộng lớn, nằm ngoài sự kiểm soát của cả chính quyền trung ương lẫn chính quyền địa phương của người Việt, là một khu vực dành riêng cho người Tầu, không ai được nhòm ngó, không ai được ra vào. Họ được tự do mang người của họ vô, mang người của họ ra, được chở đồ của họ vô, chở đồ của họ ra một cách tự do, thong thả không qua một sự kiểm soát nào. Những người này là những người nào? những đồ này là những đồ gì ? Làm sao biết được, ai mà biết được… cho đến biến cố tầy trời nổ ra? Cũng vậy, ở những khu rừng đầu nguồn và ở những địa điểm của những công trình xây cất có tính cách căn bản nhằm cung cấp điện năng, khoáng sản, dầu khí…những lãnh vực thuộc loại tối quan trọng liên hệ tới an ninh của quốc gia. Hãy nhìn vào con số 90% các “gói thầu” thuộc loại này được mở ra ở trong nuớc đã lọt vào tay các nhà thầu Trung Cộng.
Nhiều gói lên tới hàng tỷ Mỹ kim với những món tiền lót tay không phải là nhỏ, từ 10% đến 15% tiền thầu. Hậu quả là những công trình do họ thực hiện phần lớn có phẩm chất kém, thời gian thi công kéo dài trong khi các nhà thầu Việt Nam, vì không đủ vốn, không đủ thế lực chỉ còn bất lực, đứng bên lề các đại công trường trên đất nước mình. Nhưng nguy hiểm hơn hết vẫn là nạn nhân công người Tầu do chính các chủ thầu người nước họ mang sang để lao động thay vì các nhân công bản xứ. Ở khắp nơi, từ Quảng Ninh, Hải Phòng, Đồ Sơn đến Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, đến Đà Nẵng rồi vô tới Bình Dương và Cà Mau…chỗ nào có nhân công người Tầu đều có những khu cư xá riêng cho họ, kèm theo là các chợ búa, các cửa hàng, các trung tâm dịch vụ, các nhà nghỉ, các quán cà phê, karoke mang chữ Tàu… để phục vụ cho họ. Người Việt Nam không riêng chỉ có thể đứng nhìn mà còn trở thành nạn nhân của tất cả những tệ hại do họ gây ra như ăn uống, nhậu say không trả tiền, phá phách, tiểu bậy, trêu gái, đánh lộn , kéo hàng trăm người đánh hội đồng người bản xứ khi có tranh chấp…
Những người Tầu được gửi sang Việt Nam để lao động kể trên thuộc thành phần nào? Họ có phải thuần túy là dân lao động có tay nghề hay là những quân nhân thuộc những đơn vị đặc biệt, những đặc công tình báo được gửi sang để thực hiện một mưu đồ hiểm độc lâu dài hơn? Hiện tại chưa có gì là rõ ràng mà chỉ là ức đoán. Có điều là họ hiện diện ở khắp nơi trên toàn quốc Việt Nam mà các nhà cầm quyền từ trung ương đến địa phương đều đã không kiểm soát được hay làm lơ không kiểm soát. Mặt khác, nếu nhìn vào những gì Trung Cộng đã làm ở Tân Cương, ở Mông Cổ và luôn cả ở Tây Tạng trong thời gian gần đây thì không ai là không khỏi lo ngại. Tỷ lệ số người gốc Hán ở các xứ này đã tăng gia dáng kể và sự cạnh tranh cũng như kỳ thị với sự thiên vị của nhà cầm quyền đã gây nên những cuộc bạo loạn trầm trọng. Liệu Việt Nam có thể tránh khỏi tình trạng đang xảy ra cho các nước này hay không?
Ta không được biết, nhưng chỉ nhìn vào miền cao nguyên với các công trình khai thác bauxite, với lượng nhân công gốc Tầu đông đảo, phần lớn là những thanh niên chưa có hay không có vợ, hậu quả của nạn giới hạn hai con của chính quyền Trung Cộng người ta không thể không lo ngại cho tương lai của miền đất chiến lược quan trọng bậc nhất của đất nước Việt Nam này, miền đất mà Hoàng Đế Bảo Đại coi trọng đặc biệt với danh xưng Hoàng Triều Cương Thổ. Những thanh niên này sẽ lấy các thiếu nữ Thượng, sẽ sinh con đẻ cái và tất cả sẽ trở thành công dân xứ Thượng. Nếu điều này xảy ra thì rất là êm thắm, chỉ trong vòng hai thế hệ hay ba chục năm, chưa tới năm mươi năm, thời gian thuê các rừng đầu nguồn với giá rẻ mạt, những người Thượng gốc Tàu sẽ trở thành chủ nhân của các cao nguyên và qua một cuộc đầu phiếu êm ả và hợp pháp, miền đất rộng lớn, nhiều tài nguyên này sẽ trở thành của Tầu và biết đâu qua một tiến trình tương tự toàn bộ cả nước Việt Nam sẽ trở thành một tỉnh mới của nước Tầu, tỉnh Quảng Nam rộng trên ba trăm ngàn cây số vuông hay hơn nữa nếu bao gồm cả hai nước Lào và Căm bốt, sau hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, biên giới phía nam nước Tầu sẽ được mở rộng tới Vịnh Thái Lan về phía nam và về phía tây, tới bờ sông Cửu Long.
Đó chính là ước mơ của những người tự nhận là Đại Hán mà suốt một ngàn năm vừa qua họ không đạt được. Điều này không phải là không thể đến cho dân tộc Việt Nam, dân tộc Lào và dân tộc Căm-pu-chia trong nửa thế kỷ tới. Tất cả sẽ có thể xảy ra một cách bất ngờ “trước khi người lính của chúng ta được quyền nổ súng” nói theo lời của một tướng lãnh của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam trong một đoạn video được phổ biến rất rộng rãi và trong một thời gian dài trước đây. Chỉ tiếc là tính cách chính xác của đoạn video này cho tới nay chưa được phối kiểm. Vị tướng lãnh này là Trung Tướng Phạm Văn Di, Chính Ủy Quân Đoàn 7 của quân đội này.
Những gì tôi kể ra trên đây chỉ là những gì dễ thấy và được nhiều người thấy. Còn có nhiều hiện tượng khác tiềm ẩn hơn, thâm độc hơn do người Tàu cố ý gây ra như nạn hàng hóa rẻ tiền, thiếu phẩm chất của họ tràn ngập Việt Nam trong đó có những hàng độc hại, những thực phẩm có chứa các hóa chất gây bệnh chết người hay làm hại cho sức khoẻ cho loài người nói chung mà ảnh hưởng sẽ kéo dài trong nhiều thế hệ. Việc người Tàu xây hàng loạt nhiều đập trên thượng nguồn sông Cửu Long và sông Hồng Hà đe dọa sự an toàn và phong phú của các đồng bằng châu thổ của các sông này, từ đó đe dọa cuộc sống của nhiều chục triệu người dân ở đây cũng là những hiện tượng người ta cần chú ý. Chưa hết, chuyện Trung Cộng tung tiền ra và đứng sau hai nước ở phía tây Việt Nam là Căm Bốt và Lào cũng đã và chắc chắn sẽ còn gây ra rất nhiều khó khăn cho Việt Nam mà những gì Căm Bốt đã làm trong Hội Nghị Thượng Đỉnh ASEAN vừa qua là một bằng cớ, y hệt những gì Cộng Sản Bắc Việt đã gây ra cho Việt Nam Cộng Hoà trong cuộc chiến tranh vừa qua.
Trên đây mới chỉ là hiểm họa do người Tàu từ phương bắc đem tới. Còn có những hiểm họa khác do chính những người lãnh đạo ở Việt Nam hiện tại vì tham lam, vì trình độ hiểu biết kém cỏi, vì kiêu căng, vì mang bệnh thành tích… đã và đang gây ra cho chính dân tộc mình. Tôi muốn nói tới việc xây dựng bừa bãi và cẩu thả các đập thủy điện ở khắp nơi mà Sông Tranh 2 chỉ là một trường hợp điển hình. Nguy hiểm hơn nữa là việc xây dựng các nhà máy phát điện hạch tâm, khởi đầu là ở Phan Rang, bất chấp những kinh nghiệm khủng khiếp của người Nga ở Chernobyl, người Nhật ở Fukushima hay những sự thận trọng của người Pháp, người Đức, người Mỹ khi những người này quyết định cho đóng cửa hay ngưng hoạt động các lò điện này ở nước họ.
Nga, Nhật, Mỹ, Pháp, Đức… là những nước giàu có, tiền bạc nhiều, lại có những nền khoa học và kỹ nghệ cao, những chuyên viên giỏi, những người thợ có kinh nghiệm và vững tay nghề mà còn thận trọng tối đa như vậy, còn Việt Nam mình thì mặc dầu còn kém cỏi về đủ mọi mặt nhưng đã bất chấp tất cả. Người ta đã không đếm xỉa gì đến sự cảnh cáo của dư luận quốc tế cũng như quốc nội, Giáo Sư Phạm Duy Hiển ở trong nước, Giáo Sư Nguyễn Khắc Nhẫn ở bên Pháp, những chuyên viên thượng thặng của người Việt đã hết lời can ngăn và đã viết nhiều bài điều trần với những lời lẽ vô cùng thống thiết nhưng không ai để mắt, để tai tới…cho đến khi đại họa xảy ra thì mọi sự đã quá muộn. Nên nhớ là với Fukushima, người Nhật chỉ riêng để làm sạch miền biển liên hệ đã phải bỏ ra nhiều tiền bạc, công sức và dự trù sẽ phải để ra bốn mươi năm mới thực hiện nổi. Tham nhũng và nhất là bệnh thành tích phải chăng là nguồn gốc của đại nạn này? Việt Nam phải là nhất, là cái gì cũng có, nhất là ở thời đại Hồ Chí Minh, Đỉnh Cao Của Trí Tuệ Loài Người. Cuối cùng chỉ tội nghiệp cho người Chàm vì địa điểm thiết lập những nhà máy này chỉ cách Tháp Chàm có năm cây số. Nếu chuyện gì xảy ra, con số hơn một trăm ngàn người còn sót lại của một dân tộc đã một thời hùng cứ ở miền trung và miền nam Trung Phần Việt Nam, có thời đã đánh bại người Việt, tràn ngập kinh đô Thăng Long, với một nền văn hoá giàu về hình tượng, nơi xuất thân của Nhạc Sĩ Từ Công Phụng, Ca Sĩ Chế Linh và nhiều người khác … sẽ một lần nữa bị tiêu diệt và lần này chắc chắn là lần chót. Nên biết thêm là nhà cầm quyền ở Việt Nam hiện dự trù sẽ thiết lập tổng cộng từ 8 đến 10 nhà máy điện hạch tâm, phần lớn là ở miền Trung mà Phan Rang chỉ là khởi đầu với 2 nhà, mỗi nhà 2 lò.
Tất cả đều là mua của Nhật, Nga và luôn cả Đại Hàn sau các cuộc thăm viếng của các nhà lãnh đạo Đảng và chính phủ. Họ viện cớ là các nhà sản xuất đều nói là các lò họ làm là an toàn một trăm phần trăm nhưng ai mà tin được những kẻ ở giữa ăn huê hồng từ những hợp đồng tính từ 3 tỷ, 5 tỷ, 10 tỷ Mỹ Kim trở lên. Nểu chẳng may những vụ rì rỏ hay phát nổ của các lò xảy ra như ở Chernobyl hay Fukushima xảy ra thì một phần ba dân số cả nước, phần ba dân số bị coi là có quê hương “đất mặn đồng chua”, là “đất cày lên sỏi đá” , là “nghèo lắm ai ơi” với “mùa đông thiếu áo, hè thời thiếu ăn”, nơi “Trời làm cơn lụt mỗi năm, khiến đau thương lan tràn, ngập Thuận An…”, bây giờ lại bị đe dọa có thêm một đại nạn mới do chính các nhà lãnh đạo của nước mình gây ra treo sẵn trên đầu.
Trên đây chỉ là một số những gì đã và đang xảy ra trên đất nước Việt Nam của chúng ta mà mọi nguời ít nhiều còn quan tâm tới quê hương của mình, của ông cha mình đều nhận thấy. Còn rất nhiều chuyện khác lớn hơn, quan trọng hơn và có tính cách chiến lược hơn như sự lệ thuộc về chính trị, về kinh tế và luôn cả về văn hóa của Việt Nam vào Trung Quốc, nhất là việc cấm đoán người dân không được tỏ thái độ dù cho chỉ là để bày tỏ lòng yêu nước của mình, giam cầm, bắt bớ hành hạ, không cho họ biết tới những gì đã thực sự xảy ra liên hệ tới sự thịnh suy, tồn vong của quê hương và dân tộc họ. Đa số người dân đều mù tịt và vì mù tịt nên đa số đều dửng dưng, nếu không nói là vô cảm. Nhiều người đã ví giai đoạn mất nước và luôn cả diệt vong của dân tộc Việt Nam như một người đang hấp hối với cái chết từ bàn chân đã lên tới đầu gối và đang từ từ lên dần cho đến khi miếng bông đặt trên mũi đương sự không còn chuyển động nữa.
Câu hỏi được đặt ra là những người đang lãnh đạo đất nước ta hiện tại có biết rằng, như một truyền thống ngàn đời, Đảng Cộng Sản Trung Quốc hay ít ra là những người lãnh đạo của đảng này ngay từ những ngày đầu đã nuôi mộng làm chủ thiên hạ giống như Tần Thủy Hoàng ngày trước hay không? Hay là họ vẫn tin tưởng vào “mười sáu chữ vàng” và “bốn tốt” mà Cộng Sản Tàu đã tặng họ để tự lừa dối và lừa dối dân mình? Câu trả lời là có.
Bằng cớ là năm 1979, khi hai đảng cơm không lành, canh không ngọt, môi không theo răng bị răng cắn bật máu, Cộng Sản Việt Nam không những chỉ tố cáo trước người dân ở trong nước mà còn trước dư luận thế giới qua những tài liệu do chính họ xuất bản từ Hà Nội, theo đó Mao Trạch Đông ngay từ giữa thập niên ba mươi của thế kỷ trước đã nuôi mộng theo chân Tần Thủy Hoàng muốn làm bá chủ của cả thế giới, bắt đầu là Đông Nam Á. Trong hai tài liệu nhan đề Sự Thật về Quan Hệ Việt Nam-Trung Quốc Trong 30 Năm Qua bằng tiếng Việt do Nhà Xuất bản Sự Thật ấn hành năm 1979 và tái bản năm 1980, và Chinese Aggression Against Vietnam, Dossier do Vietnam Courrier chủ biên, xuất bản ỏ Hà Nội năm 1979, ngay từ những trang đầu, người ta có thể đọc được những chi tiết như sau:
Ngay từ năm 1939, trong tài liệu nhan đề Cách Mạng Trung Quốc và Đảng Cộng Sản Trung Quốc do chính ông viết, Mao Trạch Đông đã nhận định: “Sau khi dùng chiến tranh đánh bại Trung Quốc, các nước đế quốc đã cướp đi nhiều nước phụ thuộc và một bộ phận lãnh thổ của Trung Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận, Anh chiếm Miến Điện, Bu-tan, Nê-pan và Hương Cảng, Pháp chiếm An Nam…” Tiếp đến, một bản đồ trong một sách giáo khoa đã vẽ nhiều lãnh thổ của các nước trong vùng biển Đông Nam Á và Biển Hoa Đông là thuộc Trung Hoa. Sau đó, năm 1959, trong một buổi họp của Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc, khi nói về bang giao quốc tế, Mao Trạch Đông phát biểu rõ hơn nữa về tham vọng thống trị toàn cầu của mình. Lãnh tụ này nói: “Chúng ta phải chinh phục trái đất.
Mục tiêu của chúng ta là toàn thể trái đất” hay hạn hẹp hơn và kế hoạch hơn: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái lan, Miến Điện, Ma-lai-xi-a và Xin-ga-po. Một vùng như Đông-nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản..xứng đáng với sụ tốn kém cần thiết để chiếm lấy…Sau khi giành được Đông-nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió đông sẽ thổi bạt gió tây.”
Về sự lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam ở biên giới Trung Việt, qua tài liệu Chinese Aggression Against Vietnam , Cộng Sản Hà Nội tố cáo Trung Quốc vi phạm các Công Ước 1887 và 1895 ký kết giữa Nhà Thanh và nước Pháp, lấn chiếm 60 địa điểm trên lãnh thổ Việt Nam ngay từ trước năm 1949, sau đó, từ sau năm 1949, bất chấp sự xác nhận lại các công uớc này bởi Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà vào năm 1957-1958, Cộng Sản Bắc Kinh lại sáp nhập thêm trên 90 địa điểm khác ở biên giới giữa hai nước.
Chưa hết, cũng theo tài liệu này, từ sau năm 1974 con số các cuộc xâm nhập lại tiếp tục gia tăng mạnh mẽ hơn với 179 vụ năm 1974, 294 vụ năm 1975, 812 vụ năm 1976, 873 vụ năm 1977 và 2.175 vụ năm 1978. Cuối cùng ngày 10 tháng 2 năm 1979, hai tiểu đoàn chính quy Trung Cộng đã tiến sâu 2 cây số vào lãnh thổ Việt Nam, chiếm đồn kiểm soát Thanh Loa, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Vẫn chưa hết, trong trận chiến biên giới Hoa Việt lần thứ hai 1984-1987, sau một trận đánh ác liệt ở núi Lão Sơn, mà người Việt quen gọi là Núi Đất hay tọa điểm 1502, thuộc xã Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang, quân Trung Cộng đã chiếm được núi này, 3.700 lính phòng thủ Việt Nam đã hoàn toàn bị tiêu diệt, xác của họ đã bị đơn vị chống hóa chất của bên địch thiêu hủy không còn vết tích. Lão Sơn không phải là tọa điểm duy nhất bị quân Trung Cộng đoạt mà còn nhiều tọa điểm khác như các tọa điểm 1030, 852, 211, 138, 156, 166, 167, 168… nằm sâu trong lãnh thổ Việt Nam. Sau trận này Việt Nam đã mất thêm từ 600 đếm 1000 cây số vuông lãnh thổ về tay Trung Quốc. Có điều lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam đã giấu nhẹm không cho dân chúng biết gì về trận chiến bi thảm này cho mãi đến khi Trung Cộng phổ biến phần nào trên các mạng của họ. Điều nên biết là trong thời gian này Trung Cộng luôn luôn dùng thủ đoạn cho di dân của mình sang khai thác đất đai hay cư ngụ trên lãnh thổ thuộc Việt Nam dọc biên giới, rồi sau đó áp lực bắt Việt Nam phải công nhận những vùng đất này là thuộc nước họ. Sự kiện này giải thích tại sao lại có chuyện điều đình và sửa lại các công ước mà trước Nhà Thanh đã ký với Pháp mà nội dung đã được hai phía làm sáng tỏ không lâu, trong các năm 1957, 1958 trước đó, như tôi đã nói ở trên qua các hiệp ước 1999, 2000.
Chiến thuật này đang được họ dùng ở Biển Đông trên một quy mô rộng rãi hơn, lớn hơn qua việc họ chiếm Hoàng Sa và một số đảo thuộc Quần Đảo Trường Sa rồi tìm cách hợp thức hóa sau này. Việt Nam giấu nhẹm nhưng Trung Cộng thì coi là quan trọng và quảng bá rộng rãi. Họ đã cho công bố hình ảnh Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương tới thăm địa điểm Lão Sơn này, kèm theo hình ảnh những công sự và đường sá mà họ thiết lập sau đó, nhắm về phía Việt Nam. Những sự kiện này khiến cho những ai quan tâm đến sự sống còn của đất nước không khỏi không liên tưởng tới sự kiện Giang Trạch Dân đã bay thẳng từ Trung Quốc đến bơi ở biển Mỹ Khê, Đà Nẵng như là biển nhà của mình thay vì phải qua Hà Nội gặp chủ nhà trước hay Hồ Cẩm Đào đến bơi ở biển Hội An khi đến dự Hội Nghị OPEC, hay chuyện Đảng Cộng Sản Việt Nam cho phép và bảo vệ các thanh niên người Hoa rước đuốc thế vận qua Saigon và các đảo trong khi mọi cuộc tụ tập của người Việt đều bị đàn áp, cấm đoán.
Trước tình trạng cực kỳ nguy hiểm kể trên, câu hỏi được đặt ra là khả năng đề kháng của người Việt Nam như thế nào và những người có trách nhiệm bảo vệ đất nước và sự tồn vong của dân tộc đã có thái độ ra sao và đã làm gì? Để trả lời cho câu hỏi này, có lẽ chúng ta còn cần có nhiều buổi hội thảo khác với những đóng góp của nhiều thuyết trình viên khác. Tạm thời tôi chỉ xin mời quý vị đọc lại bản kiến nghị mà tôi đã đề cập đến trong phần đầu của bài thuyết trình hay những bức thư mà Hòa Thượng Thích Quảng Độ hay những bài viết của nhiều vị nhân sĩ, trí thức như Thiếu Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu Đại Sứ Việt Nam ở Trung Quốc và nhiều người khác ở trong nước viết trong ít năm gần đây.
Trước khi ngưng lời, tôi xin được trích dẫn lời của Thiếu Tướng Lê Duy Mật, nguyên Phó Tư Lệnh kiêm Tham Mưu Trưởng Quân Khu 2, Chỉ Huy Trưởng Mặt Trận Hà Giang trong thời gian chiến tranh biên giới, khi ông trả lời Biên Tập Viên Mặc Lâm của Đài Á Châu Tự Do, RFA, ngày 17 tháng 2 năm 2013 về sự kiện là “nhiều gia đình liệt sĩ của cuộc chìến 1979 đã không biết hài cốt con em mình nằm tại đâu vì sau đợt cắm mốc biên giới thì phần đất Việt Nam chôn hài cốt liệt sĩ đã thụt sâu về phía Trung Quốc. Thiếu Tưóng có nghĩ rằng nhà nước phải làm một điều gì đó để mang lại công bằng cho những người này hay không?” Nguyên văn câu trả lời của Tướng Lê Duy Mật như sau:
“Nhà nước ta lệ thuộc không dám nói gì với Trung Quốc, nếu không phải bàn với ngoại giao Trung Quốc, quân đội Trung Quốc, nhà nước Trung Quốc thì mới có thể giải quyết được.”
Câu trả lời của Tướng Mật là về các liệt sĩ đã hy sinh trong trận chiến Việt Trung 1979 và 1984-1987, nhưng nội dung của nó đã bao gồm toàn bộ các vấn đề liên hệ đến bang giao Trung-Việt trong hiện tại. “Nhà nước ta lệ thuộc không dám nói gì với Trung Quốc” là nguồn gốc của tất cả. Đó là lý do tôi lựa chọn đề tài cho buổi thuyết trình ngày hôm nay, chưa kể tới tình trạng vô cảm của không ít người Việt trước hiện tình vô cùng nguy hiểm của đất nước, sự mất tin tưởng của đa số người dân và sự bất lực của giới trí thức và sự bất cập không đối phó được với tình thế mới trong mọi sinh hoạt từ chính trị đến kinh tế, xã hội và luôn cả văn hóa ở Việt Nam sau 38 năm Cộng Sản làm chủ toàn thể đất nước, và 27 năm đổi mới .
Lãnh đạo cấp cao của hai đảng Cộng Sản đã thỏa hiệp với nhau những gì trên đầu người dân Việt Nam từ sau cuộc chiến biên giới Trung-Việt, từ sau Hội Nghị Thành Đô 1990, từ sau những buổi gặp gỡ của Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh và sau này Nguyễn Phú Trọng và Trương Tấn Sang với các nhà lãnh đạo Trung Quốc? Chỉ có những người này mới biết được nhưng không bao giờ và sẽ chẳng bao giờ họ nói ra cả. Về điểm này, tôi xin được nhắc lại lời Vua Lê Thánh Tông dụ bọn các ông Thái Bảo Kiến Dương Bá Lê Cảnh Huy năm Hồng Đức thứ tư, 1473, nguyên văn như sau:
“Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ điều ngay lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước, một tấc đất của Thái Tổ làm mồi cho giặc, thì tội phải tru di.”
Lịch sử đã được chép, đang đuợc chép và sẽ còn được chép dù cho môn sử học, vì lý do nào đó, trái với truyền thống của dân tộc, trái ngay cả với nhận định “dân ta phải biết sử ta” của Hồ Chí Minh và ngược lại với chương trình giáo dục của bất cứ quốc gia độc lập và có chủ quyền nào, kể cả các quốc gia tiền tiến về khoa học và kỹ thuật, không còn được coi là quan trọng trong chương trình giáo dục của Việt Nam hiện tại. Đây cũng là một lý do khác đã và đang làm cho chúng ta mất nước.
Xin cảm ơn Quý Vị đã kiên nhẫn lắng nghe hay đã đọc và đọc lại bài thuyết trình này.
Xin kính chào Quý Vị.
Phạm Cao Dương
Chú thích:
Đây là nguyên văn bài thuyết trình tác giả đọc tại buổi hội thảo mang chủ đề “38 Năm Nhìn Lại: Hiện Tình và Tương Lai Việt Nam” do Hội Ái Hữu Bưởi-Chu Văn An Nam California tổ chức ngày 14 tháng 7 năm 2013 tại Coatline Community College, Thành Phố Westminster, California.
www.vietthuc.org
Nói về hiện tình đất nước ở vào thời điểm 2013 mà không nói tới tham vọng và cuộc xâm lăng của người Tàu, cuộc xâm lăng mới nhất, đang xảy ra trên lãnh thổ của nước ta là một điều vô cùng thiếu sót. Vì vậy thay vì góp thêm nhận định về hiện trạng kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục ở trong nước hiện tại, tôi xin phép Ban Tổ Chức và toàn thể quý vị cho tôi được nói đôi chút về đề tài nóng bỏng này, đề tài tôi tạm gọi là “ Chúng Ta đã và Đang Mất Nước”.
Vì thời giờ có hạn, tôi chỉ xin nói ra những điểm chính. Sau buổi hội thảo ngày hôm nay tôi sẽ xin ghi lại những chi tiết đầy đủ hơn và sẽ xin gửi tới quý vị sau. Cũng vì thì giờ có hạn, tôi sẽ không nói tới hay đúng ra không nói nhiều về Biển Đông với các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và Đường Lưỡi Bò của Trung Cộng và những gì đế quốc mới này đã và đang làm ở trong vùng biển này như thành lập Thành Phố Tam Sa, thiết lập các cơ cấu hành chánh, chánh trị, quân sự, đưa các tàu hải tuần xuống đe dọa các quốc gia liên hệ chặn bắt, các tàu đánh cá của ngư dân, đặc biệt là ngư dân Việt Nam…Lý do là vì tất cả đã trở thành đề tài thời sự thế giới, được nói tới gần như hàng tuần và luôn cả hàng ngày trên các đài phát thanh, các đài truyền hình quốc tế cũng như các đài phát thanh, đài truyền hình của người Việt, trên các trang mạng từ nhiều năm nay và đương nhiên trong những buổi gặp gỡ giữa anh em, bạn bè chúng ta.
Tôi cũng không nói hay nói rất ít về bản “Tuyên Cáo về việc Nhà Cầm Quyền Trung Quốc Liên Tục Có Những Hành Động Gây Hấn, Xâm Phạm Nghiêm Trọng Chủ Quyền Toàn Vẹn Lãnh Thổ Việt Nam Trên Biển Đông”, ngày 25 tháng 6 năm 2011 và bản “Kiến Nghị Về Bảo Vệ Và Phát Triển Đất Nước Trong Tình Hình Hiện Nay” của các nhân sĩ, trí thức nổi tiếng ở trong nước gửi Quốc Hội Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và Bộ Chính Trị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày 10 tháng 7 cùng năm và nhiều kiến nghị khác mà mọi người đều biết trước là sẽ không bao giờ được trả lời hay chỉ được trả lời quanh co hay gián tiếp.
Tôi cũng không nói hay nói rất ít về lối trả lời gián tiếp các nhà trí thức kể trên của Đảng CSVN xuyên qua một bài báo đăng trên tờ Đại Đoàn Kết theo đó những người cầm quyền ở Việt Nam hiện tại đã tỏ ra vô cùng lúng túng trước câu hỏi về bản công hàm của Phạm Văn Đồng nhân danh Thủ Tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà gửi Chu Ân Lai, Chủ Tịch Quốc Vụ Viện nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, ngày 14 tháng 9 năm 1958. Đây là lần đầu tiên những người cầm đầu Đảng Cộng Sản Việt Nam, đã thừa nhận là họ đã lựa chọn nhường các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Cộng để đổi lấy sự giúp đỡ của Trung Cộng trong cuộc xâm chiếm Miền Nam bằng vũ lực của họ sau đó. Đây cũng là lần đầu tiên họ, những người cầm đầu Đảng Cộng Sản Việt Nam, công nhận các chính phủ Quốc Gia Việt Nam thời Quốc trưởng Bảo Đại và sau đó là Việt Nam Cộng Hòa là những chính phủ hợp pháp có trách vụ quản trị các quần đảo này theo Hiệp Định Genève cũng như những nỗ lực không thể chối cãi mà những chính phủ quốc gia này đã làm để bảo vệ các quần đảo này trong suốt thời gian các chính phủ này tồn tại.
Lý do chính yếu khiến tôi không nói hay chỉ nói rất it về những sự kiện kể trên là vì tất cả hiện thời ở Biển Đông và các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mới chỉ là diện, là bề ngoài, là mới chỉ là bắt đầu. Tất cả rồi cũng sẽ được giữ nguyên trạng trong một thời gian dài và dù muốn hay không Hoàng Sa cũng đã mất rồi, còn Trường Sa thì cũng mất nhiều phần, còn nhiều thế hệ nữa Việt Nam mới có thể lấy lại được hay có cơ hội lấy lại được. Trung Hoa Cộng Sản trong mọi hoàn cảnh cũng đã chiếm được và giữ được những phần quan trọng kể từ sau khi họ chiếm Hoàng Sa từ trong tay Việt Nam Cộng Hòa hồi tháng Giêng năm 1974 trong sự im lặng, đồng lõa của chính quyền Cộng Sản Hà Nội. Cái giá để cho Đảng CSVN xâm chiếm miền Nam và thống nhất đất nước ta bằng võ lực phải nói là quá đắt cho dân tộc Việt Nam và cho chính họ.
Hoàng Sa, Trường Sa hay rộng hơn Biển Đông chỉ là những gì nổi bật bề ngoài, là cái diện ai cũng có thể thấy được trong tiến trình mất nước của dân tộc Việt Nam đầu Thế Kỷ 21 này. Vậy thì cái điểm nằm ở đâu? Thưa quí vị, nó nằm ngay trên đất liền, trên lãnh thổ của chính quốc Việt Nam. Nó nằm rải rác ở khắp lãnh thổ nước ta chứ không riêng ở biên giới phía bắc, đành rằng ở biên giới phía bắc, người ta đã ghi nhận những sự nhổ và lui cột mốc, sự mất ba phần tư Thác Bản Giốc, những sự chiếm giữ các cao điểm có tính cách chiến lược từ trước và sau trận chiến 1979 giữa hai đảng Cộng Sản Á Châu và có thể từ xa hơn nữa, từ đầu thập niên 1950, khi CSVN mở cửa biên giới phía bắc để nhận viện trợ của Trung Cộng nhằm tiếp tục cuộc chiến tranh chống Pháp và gián tiếp chống lại chính quyền Quốc Gia Việt Nam lúc đó đã được thành lập bởi Cựu Hoàng Bảo Đại.
Những thắc mắc về sự mất mát này cho tới nay vẫn chưa được hoàn toàn giải toả dầu cho đã được nhiều người đòi hỏi. Tôi sẽ nói thêm ở phần cuối về vấn đề này. Có điều là đến giờ thì hai bên đã ký kết những thỏa ước và những cột mốc mới đã khởi sự được “cắm” rồi. Những điểm này tuy nhiên chỉ là ở dọc vùng biên giới. Quan trọng hơn và nguy hiểm hơn, bức thiết hơn là những điểm, mà không phải là điểm hiểu theo ý nghĩa đen của danh từ, nằm sâu ngay trong lãnh thổ của tổ quốc Việt Nam, dưới quyền quản lý của chính quyền Cộng Sản hiện tại nhưng vượt ra ngoài sự kiểm soát của chính quyền này. Những điểm vừa cố định, nằm nguyên một chỗ, vừa di động khắp nơi trên lãnh thổ, điển hình là những mỏ bauxite trên cao nguyên, những khu rừng đầu nguồn nằm ở cửa ngõ của những vùng biên giới Việt-Trung và Lào-Việt , những khu vực trúng thầu, những địa điểm thu mua các nông sản, những vùng nông dân bỏ trồng lúa, trồng khoai, những trại nuôi cá, điển hình là trại nằm không xa quân cảng Cam Ranh là bao nhiêu mà các nhà cầm quyền địa phương sau cả gần chục năm không hề biết, những khu phố kiểu Đông Đô Đại Phố ở Bình Dương … Tất cả đã trở thành những “thực dân địa” của người Tầu ngay trong lòng của lãnh thổ Việt Nam, nơi những ủy ban nhân dân vẫn còn làm chủ. Nói cách khác, theo lời của các tác giả của Bản “Kiến Nghị Về Bảo Vệ Và Phát Triển Đất Nước …” ngày 10 tháng 7 năm 2011 mà tôi đã dẫn trên đây thì “…mặt trận nguy hiểm nhất đối với nuớc ta mà Trung Quốc muốn dồn quyền lực và ảnh hưởng để thực hiện, đó là: thâm nhập, lũng đoạn mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá của nước ta.
Đó là mặt trận vừa uy hiếp, vừa dụ dỗ nước ta nhân danh cùng nhau gìn giữ ý thức hệ xã hội chủ nghĩa, gây chia rẽ giữa nhân dân ta và chế độ chính trị của đất nước, vừa lũng đoạn nội bộ lãnh đạo nước ta, làm suy yếu khối đại đoàn kết thống nhất của dân tộc ta, làm giảm sút khả năng gìn giữ an ninh và quốc phòng của nước ta. Đánh thắng nước ta trên mặt trận nguy hiểm nhất này, Trung Quốc sẽ đánh thắng tất cả.” Nói cách khác đó là chiến lược dùng quyền lực mềm thọc sâu vào lãnh thổ Việt Nam để nhẹ ra là đưa Việt Nam đến chỗ phụ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc, còn nặng ra là chiếm luôn cả nước. Đến lúc đó thì Hoàng Sa, Trường Sa và Đường Lưỡi Bò đương nhiên sẽ trở thành biển đảo của Trung Quốc.
Hãy tưởng tượng ngay trên Cao Nguyên Miền Nam, địa diểm chiến lược quan trọng nhất đã chi phối toàn bộ an ninh của miền nam Việt Nam và sự thống nhất của lãnh thổ quốc gia trong quá khứ, trong một khu vực rộng lớn, nằm ngoài sự kiểm soát của cả chính quyền trung ương lẫn chính quyền địa phương của người Việt, là một khu vực dành riêng cho người Tầu, không ai được nhòm ngó, không ai được ra vào. Họ được tự do mang người của họ vô, mang người của họ ra, được chở đồ của họ vô, chở đồ của họ ra một cách tự do, thong thả không qua một sự kiểm soát nào. Những người này là những người nào? những đồ này là những đồ gì ? Làm sao biết được, ai mà biết được… cho đến biến cố tầy trời nổ ra? Cũng vậy, ở những khu rừng đầu nguồn và ở những địa điểm của những công trình xây cất có tính cách căn bản nhằm cung cấp điện năng, khoáng sản, dầu khí…những lãnh vực thuộc loại tối quan trọng liên hệ tới an ninh của quốc gia. Hãy nhìn vào con số 90% các “gói thầu” thuộc loại này được mở ra ở trong nuớc đã lọt vào tay các nhà thầu Trung Cộng.
Nhiều gói lên tới hàng tỷ Mỹ kim với những món tiền lót tay không phải là nhỏ, từ 10% đến 15% tiền thầu. Hậu quả là những công trình do họ thực hiện phần lớn có phẩm chất kém, thời gian thi công kéo dài trong khi các nhà thầu Việt Nam, vì không đủ vốn, không đủ thế lực chỉ còn bất lực, đứng bên lề các đại công trường trên đất nước mình. Nhưng nguy hiểm hơn hết vẫn là nạn nhân công người Tầu do chính các chủ thầu người nước họ mang sang để lao động thay vì các nhân công bản xứ. Ở khắp nơi, từ Quảng Ninh, Hải Phòng, Đồ Sơn đến Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, đến Đà Nẵng rồi vô tới Bình Dương và Cà Mau…chỗ nào có nhân công người Tầu đều có những khu cư xá riêng cho họ, kèm theo là các chợ búa, các cửa hàng, các trung tâm dịch vụ, các nhà nghỉ, các quán cà phê, karoke mang chữ Tàu… để phục vụ cho họ. Người Việt Nam không riêng chỉ có thể đứng nhìn mà còn trở thành nạn nhân của tất cả những tệ hại do họ gây ra như ăn uống, nhậu say không trả tiền, phá phách, tiểu bậy, trêu gái, đánh lộn , kéo hàng trăm người đánh hội đồng người bản xứ khi có tranh chấp…
Những người Tầu được gửi sang Việt Nam để lao động kể trên thuộc thành phần nào? Họ có phải thuần túy là dân lao động có tay nghề hay là những quân nhân thuộc những đơn vị đặc biệt, những đặc công tình báo được gửi sang để thực hiện một mưu đồ hiểm độc lâu dài hơn? Hiện tại chưa có gì là rõ ràng mà chỉ là ức đoán. Có điều là họ hiện diện ở khắp nơi trên toàn quốc Việt Nam mà các nhà cầm quyền từ trung ương đến địa phương đều đã không kiểm soát được hay làm lơ không kiểm soát. Mặt khác, nếu nhìn vào những gì Trung Cộng đã làm ở Tân Cương, ở Mông Cổ và luôn cả ở Tây Tạng trong thời gian gần đây thì không ai là không khỏi lo ngại. Tỷ lệ số người gốc Hán ở các xứ này đã tăng gia dáng kể và sự cạnh tranh cũng như kỳ thị với sự thiên vị của nhà cầm quyền đã gây nên những cuộc bạo loạn trầm trọng. Liệu Việt Nam có thể tránh khỏi tình trạng đang xảy ra cho các nước này hay không?
Ta không được biết, nhưng chỉ nhìn vào miền cao nguyên với các công trình khai thác bauxite, với lượng nhân công gốc Tầu đông đảo, phần lớn là những thanh niên chưa có hay không có vợ, hậu quả của nạn giới hạn hai con của chính quyền Trung Cộng người ta không thể không lo ngại cho tương lai của miền đất chiến lược quan trọng bậc nhất của đất nước Việt Nam này, miền đất mà Hoàng Đế Bảo Đại coi trọng đặc biệt với danh xưng Hoàng Triều Cương Thổ. Những thanh niên này sẽ lấy các thiếu nữ Thượng, sẽ sinh con đẻ cái và tất cả sẽ trở thành công dân xứ Thượng. Nếu điều này xảy ra thì rất là êm thắm, chỉ trong vòng hai thế hệ hay ba chục năm, chưa tới năm mươi năm, thời gian thuê các rừng đầu nguồn với giá rẻ mạt, những người Thượng gốc Tàu sẽ trở thành chủ nhân của các cao nguyên và qua một cuộc đầu phiếu êm ả và hợp pháp, miền đất rộng lớn, nhiều tài nguyên này sẽ trở thành của Tầu và biết đâu qua một tiến trình tương tự toàn bộ cả nước Việt Nam sẽ trở thành một tỉnh mới của nước Tầu, tỉnh Quảng Nam rộng trên ba trăm ngàn cây số vuông hay hơn nữa nếu bao gồm cả hai nước Lào và Căm bốt, sau hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, biên giới phía nam nước Tầu sẽ được mở rộng tới Vịnh Thái Lan về phía nam và về phía tây, tới bờ sông Cửu Long.
Đó chính là ước mơ của những người tự nhận là Đại Hán mà suốt một ngàn năm vừa qua họ không đạt được. Điều này không phải là không thể đến cho dân tộc Việt Nam, dân tộc Lào và dân tộc Căm-pu-chia trong nửa thế kỷ tới. Tất cả sẽ có thể xảy ra một cách bất ngờ “trước khi người lính của chúng ta được quyền nổ súng” nói theo lời của một tướng lãnh của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam trong một đoạn video được phổ biến rất rộng rãi và trong một thời gian dài trước đây. Chỉ tiếc là tính cách chính xác của đoạn video này cho tới nay chưa được phối kiểm. Vị tướng lãnh này là Trung Tướng Phạm Văn Di, Chính Ủy Quân Đoàn 7 của quân đội này.
Những gì tôi kể ra trên đây chỉ là những gì dễ thấy và được nhiều người thấy. Còn có nhiều hiện tượng khác tiềm ẩn hơn, thâm độc hơn do người Tàu cố ý gây ra như nạn hàng hóa rẻ tiền, thiếu phẩm chất của họ tràn ngập Việt Nam trong đó có những hàng độc hại, những thực phẩm có chứa các hóa chất gây bệnh chết người hay làm hại cho sức khoẻ cho loài người nói chung mà ảnh hưởng sẽ kéo dài trong nhiều thế hệ. Việc người Tàu xây hàng loạt nhiều đập trên thượng nguồn sông Cửu Long và sông Hồng Hà đe dọa sự an toàn và phong phú của các đồng bằng châu thổ của các sông này, từ đó đe dọa cuộc sống của nhiều chục triệu người dân ở đây cũng là những hiện tượng người ta cần chú ý. Chưa hết, chuyện Trung Cộng tung tiền ra và đứng sau hai nước ở phía tây Việt Nam là Căm Bốt và Lào cũng đã và chắc chắn sẽ còn gây ra rất nhiều khó khăn cho Việt Nam mà những gì Căm Bốt đã làm trong Hội Nghị Thượng Đỉnh ASEAN vừa qua là một bằng cớ, y hệt những gì Cộng Sản Bắc Việt đã gây ra cho Việt Nam Cộng Hoà trong cuộc chiến tranh vừa qua.
Trên đây mới chỉ là hiểm họa do người Tàu từ phương bắc đem tới. Còn có những hiểm họa khác do chính những người lãnh đạo ở Việt Nam hiện tại vì tham lam, vì trình độ hiểu biết kém cỏi, vì kiêu căng, vì mang bệnh thành tích… đã và đang gây ra cho chính dân tộc mình. Tôi muốn nói tới việc xây dựng bừa bãi và cẩu thả các đập thủy điện ở khắp nơi mà Sông Tranh 2 chỉ là một trường hợp điển hình. Nguy hiểm hơn nữa là việc xây dựng các nhà máy phát điện hạch tâm, khởi đầu là ở Phan Rang, bất chấp những kinh nghiệm khủng khiếp của người Nga ở Chernobyl, người Nhật ở Fukushima hay những sự thận trọng của người Pháp, người Đức, người Mỹ khi những người này quyết định cho đóng cửa hay ngưng hoạt động các lò điện này ở nước họ.
Nga, Nhật, Mỹ, Pháp, Đức… là những nước giàu có, tiền bạc nhiều, lại có những nền khoa học và kỹ nghệ cao, những chuyên viên giỏi, những người thợ có kinh nghiệm và vững tay nghề mà còn thận trọng tối đa như vậy, còn Việt Nam mình thì mặc dầu còn kém cỏi về đủ mọi mặt nhưng đã bất chấp tất cả. Người ta đã không đếm xỉa gì đến sự cảnh cáo của dư luận quốc tế cũng như quốc nội, Giáo Sư Phạm Duy Hiển ở trong nước, Giáo Sư Nguyễn Khắc Nhẫn ở bên Pháp, những chuyên viên thượng thặng của người Việt đã hết lời can ngăn và đã viết nhiều bài điều trần với những lời lẽ vô cùng thống thiết nhưng không ai để mắt, để tai tới…cho đến khi đại họa xảy ra thì mọi sự đã quá muộn. Nên nhớ là với Fukushima, người Nhật chỉ riêng để làm sạch miền biển liên hệ đã phải bỏ ra nhiều tiền bạc, công sức và dự trù sẽ phải để ra bốn mươi năm mới thực hiện nổi. Tham nhũng và nhất là bệnh thành tích phải chăng là nguồn gốc của đại nạn này? Việt Nam phải là nhất, là cái gì cũng có, nhất là ở thời đại Hồ Chí Minh, Đỉnh Cao Của Trí Tuệ Loài Người. Cuối cùng chỉ tội nghiệp cho người Chàm vì địa điểm thiết lập những nhà máy này chỉ cách Tháp Chàm có năm cây số. Nếu chuyện gì xảy ra, con số hơn một trăm ngàn người còn sót lại của một dân tộc đã một thời hùng cứ ở miền trung và miền nam Trung Phần Việt Nam, có thời đã đánh bại người Việt, tràn ngập kinh đô Thăng Long, với một nền văn hoá giàu về hình tượng, nơi xuất thân của Nhạc Sĩ Từ Công Phụng, Ca Sĩ Chế Linh và nhiều người khác … sẽ một lần nữa bị tiêu diệt và lần này chắc chắn là lần chót. Nên biết thêm là nhà cầm quyền ở Việt Nam hiện dự trù sẽ thiết lập tổng cộng từ 8 đến 10 nhà máy điện hạch tâm, phần lớn là ở miền Trung mà Phan Rang chỉ là khởi đầu với 2 nhà, mỗi nhà 2 lò.
Tất cả đều là mua của Nhật, Nga và luôn cả Đại Hàn sau các cuộc thăm viếng của các nhà lãnh đạo Đảng và chính phủ. Họ viện cớ là các nhà sản xuất đều nói là các lò họ làm là an toàn một trăm phần trăm nhưng ai mà tin được những kẻ ở giữa ăn huê hồng từ những hợp đồng tính từ 3 tỷ, 5 tỷ, 10 tỷ Mỹ Kim trở lên. Nểu chẳng may những vụ rì rỏ hay phát nổ của các lò xảy ra như ở Chernobyl hay Fukushima xảy ra thì một phần ba dân số cả nước, phần ba dân số bị coi là có quê hương “đất mặn đồng chua”, là “đất cày lên sỏi đá” , là “nghèo lắm ai ơi” với “mùa đông thiếu áo, hè thời thiếu ăn”, nơi “Trời làm cơn lụt mỗi năm, khiến đau thương lan tràn, ngập Thuận An…”, bây giờ lại bị đe dọa có thêm một đại nạn mới do chính các nhà lãnh đạo của nước mình gây ra treo sẵn trên đầu.
Trên đây chỉ là một số những gì đã và đang xảy ra trên đất nước Việt Nam của chúng ta mà mọi nguời ít nhiều còn quan tâm tới quê hương của mình, của ông cha mình đều nhận thấy. Còn rất nhiều chuyện khác lớn hơn, quan trọng hơn và có tính cách chiến lược hơn như sự lệ thuộc về chính trị, về kinh tế và luôn cả về văn hóa của Việt Nam vào Trung Quốc, nhất là việc cấm đoán người dân không được tỏ thái độ dù cho chỉ là để bày tỏ lòng yêu nước của mình, giam cầm, bắt bớ hành hạ, không cho họ biết tới những gì đã thực sự xảy ra liên hệ tới sự thịnh suy, tồn vong của quê hương và dân tộc họ. Đa số người dân đều mù tịt và vì mù tịt nên đa số đều dửng dưng, nếu không nói là vô cảm. Nhiều người đã ví giai đoạn mất nước và luôn cả diệt vong của dân tộc Việt Nam như một người đang hấp hối với cái chết từ bàn chân đã lên tới đầu gối và đang từ từ lên dần cho đến khi miếng bông đặt trên mũi đương sự không còn chuyển động nữa.
Câu hỏi được đặt ra là những người đang lãnh đạo đất nước ta hiện tại có biết rằng, như một truyền thống ngàn đời, Đảng Cộng Sản Trung Quốc hay ít ra là những người lãnh đạo của đảng này ngay từ những ngày đầu đã nuôi mộng làm chủ thiên hạ giống như Tần Thủy Hoàng ngày trước hay không? Hay là họ vẫn tin tưởng vào “mười sáu chữ vàng” và “bốn tốt” mà Cộng Sản Tàu đã tặng họ để tự lừa dối và lừa dối dân mình? Câu trả lời là có.
Bằng cớ là năm 1979, khi hai đảng cơm không lành, canh không ngọt, môi không theo răng bị răng cắn bật máu, Cộng Sản Việt Nam không những chỉ tố cáo trước người dân ở trong nước mà còn trước dư luận thế giới qua những tài liệu do chính họ xuất bản từ Hà Nội, theo đó Mao Trạch Đông ngay từ giữa thập niên ba mươi của thế kỷ trước đã nuôi mộng theo chân Tần Thủy Hoàng muốn làm bá chủ của cả thế giới, bắt đầu là Đông Nam Á. Trong hai tài liệu nhan đề Sự Thật về Quan Hệ Việt Nam-Trung Quốc Trong 30 Năm Qua bằng tiếng Việt do Nhà Xuất bản Sự Thật ấn hành năm 1979 và tái bản năm 1980, và Chinese Aggression Against Vietnam, Dossier do Vietnam Courrier chủ biên, xuất bản ỏ Hà Nội năm 1979, ngay từ những trang đầu, người ta có thể đọc được những chi tiết như sau:
Ngay từ năm 1939, trong tài liệu nhan đề Cách Mạng Trung Quốc và Đảng Cộng Sản Trung Quốc do chính ông viết, Mao Trạch Đông đã nhận định: “Sau khi dùng chiến tranh đánh bại Trung Quốc, các nước đế quốc đã cướp đi nhiều nước phụ thuộc và một bộ phận lãnh thổ của Trung Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận, Anh chiếm Miến Điện, Bu-tan, Nê-pan và Hương Cảng, Pháp chiếm An Nam…” Tiếp đến, một bản đồ trong một sách giáo khoa đã vẽ nhiều lãnh thổ của các nước trong vùng biển Đông Nam Á và Biển Hoa Đông là thuộc Trung Hoa. Sau đó, năm 1959, trong một buổi họp của Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc, khi nói về bang giao quốc tế, Mao Trạch Đông phát biểu rõ hơn nữa về tham vọng thống trị toàn cầu của mình. Lãnh tụ này nói: “Chúng ta phải chinh phục trái đất.
Mục tiêu của chúng ta là toàn thể trái đất” hay hạn hẹp hơn và kế hoạch hơn: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái lan, Miến Điện, Ma-lai-xi-a và Xin-ga-po. Một vùng như Đông-nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản..xứng đáng với sụ tốn kém cần thiết để chiếm lấy…Sau khi giành được Đông-nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió đông sẽ thổi bạt gió tây.”
Về sự lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam ở biên giới Trung Việt, qua tài liệu Chinese Aggression Against Vietnam , Cộng Sản Hà Nội tố cáo Trung Quốc vi phạm các Công Ước 1887 và 1895 ký kết giữa Nhà Thanh và nước Pháp, lấn chiếm 60 địa điểm trên lãnh thổ Việt Nam ngay từ trước năm 1949, sau đó, từ sau năm 1949, bất chấp sự xác nhận lại các công uớc này bởi Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà vào năm 1957-1958, Cộng Sản Bắc Kinh lại sáp nhập thêm trên 90 địa điểm khác ở biên giới giữa hai nước.
Chưa hết, cũng theo tài liệu này, từ sau năm 1974 con số các cuộc xâm nhập lại tiếp tục gia tăng mạnh mẽ hơn với 179 vụ năm 1974, 294 vụ năm 1975, 812 vụ năm 1976, 873 vụ năm 1977 và 2.175 vụ năm 1978. Cuối cùng ngày 10 tháng 2 năm 1979, hai tiểu đoàn chính quy Trung Cộng đã tiến sâu 2 cây số vào lãnh thổ Việt Nam, chiếm đồn kiểm soát Thanh Loa, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Vẫn chưa hết, trong trận chiến biên giới Hoa Việt lần thứ hai 1984-1987, sau một trận đánh ác liệt ở núi Lão Sơn, mà người Việt quen gọi là Núi Đất hay tọa điểm 1502, thuộc xã Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang, quân Trung Cộng đã chiếm được núi này, 3.700 lính phòng thủ Việt Nam đã hoàn toàn bị tiêu diệt, xác của họ đã bị đơn vị chống hóa chất của bên địch thiêu hủy không còn vết tích. Lão Sơn không phải là tọa điểm duy nhất bị quân Trung Cộng đoạt mà còn nhiều tọa điểm khác như các tọa điểm 1030, 852, 211, 138, 156, 166, 167, 168… nằm sâu trong lãnh thổ Việt Nam. Sau trận này Việt Nam đã mất thêm từ 600 đếm 1000 cây số vuông lãnh thổ về tay Trung Quốc. Có điều lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam đã giấu nhẹm không cho dân chúng biết gì về trận chiến bi thảm này cho mãi đến khi Trung Cộng phổ biến phần nào trên các mạng của họ. Điều nên biết là trong thời gian này Trung Cộng luôn luôn dùng thủ đoạn cho di dân của mình sang khai thác đất đai hay cư ngụ trên lãnh thổ thuộc Việt Nam dọc biên giới, rồi sau đó áp lực bắt Việt Nam phải công nhận những vùng đất này là thuộc nước họ. Sự kiện này giải thích tại sao lại có chuyện điều đình và sửa lại các công ước mà trước Nhà Thanh đã ký với Pháp mà nội dung đã được hai phía làm sáng tỏ không lâu, trong các năm 1957, 1958 trước đó, như tôi đã nói ở trên qua các hiệp ước 1999, 2000.
Chiến thuật này đang được họ dùng ở Biển Đông trên một quy mô rộng rãi hơn, lớn hơn qua việc họ chiếm Hoàng Sa và một số đảo thuộc Quần Đảo Trường Sa rồi tìm cách hợp thức hóa sau này. Việt Nam giấu nhẹm nhưng Trung Cộng thì coi là quan trọng và quảng bá rộng rãi. Họ đã cho công bố hình ảnh Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương tới thăm địa điểm Lão Sơn này, kèm theo hình ảnh những công sự và đường sá mà họ thiết lập sau đó, nhắm về phía Việt Nam. Những sự kiện này khiến cho những ai quan tâm đến sự sống còn của đất nước không khỏi không liên tưởng tới sự kiện Giang Trạch Dân đã bay thẳng từ Trung Quốc đến bơi ở biển Mỹ Khê, Đà Nẵng như là biển nhà của mình thay vì phải qua Hà Nội gặp chủ nhà trước hay Hồ Cẩm Đào đến bơi ở biển Hội An khi đến dự Hội Nghị OPEC, hay chuyện Đảng Cộng Sản Việt Nam cho phép và bảo vệ các thanh niên người Hoa rước đuốc thế vận qua Saigon và các đảo trong khi mọi cuộc tụ tập của người Việt đều bị đàn áp, cấm đoán.
Trước tình trạng cực kỳ nguy hiểm kể trên, câu hỏi được đặt ra là khả năng đề kháng của người Việt Nam như thế nào và những người có trách nhiệm bảo vệ đất nước và sự tồn vong của dân tộc đã có thái độ ra sao và đã làm gì? Để trả lời cho câu hỏi này, có lẽ chúng ta còn cần có nhiều buổi hội thảo khác với những đóng góp của nhiều thuyết trình viên khác. Tạm thời tôi chỉ xin mời quý vị đọc lại bản kiến nghị mà tôi đã đề cập đến trong phần đầu của bài thuyết trình hay những bức thư mà Hòa Thượng Thích Quảng Độ hay những bài viết của nhiều vị nhân sĩ, trí thức như Thiếu Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu Đại Sứ Việt Nam ở Trung Quốc và nhiều người khác ở trong nước viết trong ít năm gần đây.
Trước khi ngưng lời, tôi xin được trích dẫn lời của Thiếu Tướng Lê Duy Mật, nguyên Phó Tư Lệnh kiêm Tham Mưu Trưởng Quân Khu 2, Chỉ Huy Trưởng Mặt Trận Hà Giang trong thời gian chiến tranh biên giới, khi ông trả lời Biên Tập Viên Mặc Lâm của Đài Á Châu Tự Do, RFA, ngày 17 tháng 2 năm 2013 về sự kiện là “nhiều gia đình liệt sĩ của cuộc chìến 1979 đã không biết hài cốt con em mình nằm tại đâu vì sau đợt cắm mốc biên giới thì phần đất Việt Nam chôn hài cốt liệt sĩ đã thụt sâu về phía Trung Quốc. Thiếu Tưóng có nghĩ rằng nhà nước phải làm một điều gì đó để mang lại công bằng cho những người này hay không?” Nguyên văn câu trả lời của Tướng Lê Duy Mật như sau:
“Nhà nước ta lệ thuộc không dám nói gì với Trung Quốc, nếu không phải bàn với ngoại giao Trung Quốc, quân đội Trung Quốc, nhà nước Trung Quốc thì mới có thể giải quyết được.”
Câu trả lời của Tướng Mật là về các liệt sĩ đã hy sinh trong trận chiến Việt Trung 1979 và 1984-1987, nhưng nội dung của nó đã bao gồm toàn bộ các vấn đề liên hệ đến bang giao Trung-Việt trong hiện tại. “Nhà nước ta lệ thuộc không dám nói gì với Trung Quốc” là nguồn gốc của tất cả. Đó là lý do tôi lựa chọn đề tài cho buổi thuyết trình ngày hôm nay, chưa kể tới tình trạng vô cảm của không ít người Việt trước hiện tình vô cùng nguy hiểm của đất nước, sự mất tin tưởng của đa số người dân và sự bất lực của giới trí thức và sự bất cập không đối phó được với tình thế mới trong mọi sinh hoạt từ chính trị đến kinh tế, xã hội và luôn cả văn hóa ở Việt Nam sau 38 năm Cộng Sản làm chủ toàn thể đất nước, và 27 năm đổi mới .
Lãnh đạo cấp cao của hai đảng Cộng Sản đã thỏa hiệp với nhau những gì trên đầu người dân Việt Nam từ sau cuộc chiến biên giới Trung-Việt, từ sau Hội Nghị Thành Đô 1990, từ sau những buổi gặp gỡ của Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh và sau này Nguyễn Phú Trọng và Trương Tấn Sang với các nhà lãnh đạo Trung Quốc? Chỉ có những người này mới biết được nhưng không bao giờ và sẽ chẳng bao giờ họ nói ra cả. Về điểm này, tôi xin được nhắc lại lời Vua Lê Thánh Tông dụ bọn các ông Thái Bảo Kiến Dương Bá Lê Cảnh Huy năm Hồng Đức thứ tư, 1473, nguyên văn như sau:
“Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ điều ngay lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước, một tấc đất của Thái Tổ làm mồi cho giặc, thì tội phải tru di.”
Lịch sử đã được chép, đang đuợc chép và sẽ còn được chép dù cho môn sử học, vì lý do nào đó, trái với truyền thống của dân tộc, trái ngay cả với nhận định “dân ta phải biết sử ta” của Hồ Chí Minh và ngược lại với chương trình giáo dục của bất cứ quốc gia độc lập và có chủ quyền nào, kể cả các quốc gia tiền tiến về khoa học và kỹ thuật, không còn được coi là quan trọng trong chương trình giáo dục của Việt Nam hiện tại. Đây cũng là một lý do khác đã và đang làm cho chúng ta mất nước.
Xin cảm ơn Quý Vị đã kiên nhẫn lắng nghe hay đã đọc và đọc lại bài thuyết trình này.
Xin kính chào Quý Vị.
Phạm Cao Dương
Chú thích:
Đây là nguyên văn bài thuyết trình tác giả đọc tại buổi hội thảo mang chủ đề “38 Năm Nhìn Lại: Hiện Tình và Tương Lai Việt Nam” do Hội Ái Hữu Bưởi-Chu Văn An Nam California tổ chức ngày 14 tháng 7 năm 2013 tại Coatline Community College, Thành Phố Westminster, California.
www.vietthuc.org
Friday, September 6, 2013
HUỲNH NGỌC CHÊNH * TRUY BỨC ĐẾN BA ĐỜI?
TRUY BỨC ĐẾN BA ĐỜI?
Đứa bé một tháng tuổi và người mẹ trẻ nầy là tội phạm quốc gia cần phải trừng trị? Thời phong kiến, vua tự cho mình là con trời, ai có ý gì không đồng tình với vua liền bị ghép vào tội phản nghịch, bị tru di đến ba họ và xử trảm đến ba đời.
Tưởng cái thời mông muội ấy đã qua, đất nước đi vào thời kỳ văn minh dân chủ, quyền con người được tôn trọng như pháp luật đã ghi, người dân có quyền nói lên bất kỳ ý kiến nào của mình, dù cho tiếng nói ấy có khác với đường lối của bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào, miễn không vi phạm pháp luật.
Ấy vậy mà không phải như thế. Ông Huỳnh Ngọc Tuấn vì những bài viết đi ngược lại chủ trương đường lối của đảng cầm quyền cách đây trên mươi năm, đã phải bị đi tù.
Tưởng rằng chỉ mình ông làm thì ông chịu (dù không đúng). Nhưng không, các con ông đều bị liên lụy. Con gái lớn của ông là Huỳnh Thục Vy đã không vào được đại học, phải tự học ở nhà rồi sau đó bị biết bao điều phiền nhiễu kể ra không hết. Con trai ông là Huỳnh Trọng Hiếu, mới đây bị cấm đi ra nước ngoài một cách bất ngờ, khi đã ra đến sân bay, mà không cần có lý do chính đáng. Rồi mới đây nhất, con gái út của ông là Huỳnh Khánh Vy, được học bổng đi Úc thì bị gây cản trở một cách khó hiểu để rồi phải bỏ học.
Nhưng vẫn chưa hết, việc trả thù còn được đẩy đến tận cùng của sự ti tiện mà ngay cả quan lại nhũng nhiễu thời phong kiến thối nát cũng không thể nào hạ tư cách của mình xuống thấp hơn nữa để gây ra. Khi Huỳnh Khánh Vy lập gia đình, hai vợ chồng trẻ không dám ở trong nhà của ông Tuấn, nơi liên tục bị quấy nhiễu, bèn thuê một căn phòng tạm trú tại Đa Nẵng để tìm sự yên ổn cho sự ra đời của đứa con đầu lòng.
Thế nhưng thế hệ thứ ba của gia đình họ Huỳnh nầy vẫn không được yên ổn kể từ lúc chưa sinh ra đời. Chủ nhà cho đôi vợ chông trẻ thuê và đôi vợ chồng trẻ liên tục bị hạch sách quấy nhiễu. Đứa bé trong bụng mẹ phải liên tục theo mẹ di chuyển chỗ ở, từ khi thụ thai cho đến lúc chào đời, đến 5 lần.
Cuối cùng khi bé chào đời, hai vợ chồng trẻ phải đành đưa cháu về Tam Kỳ, nhà ông ngoại Tuấn để trú ẩn vì không còn chỗ nào để thuê được nhà dù biết về đây cũng chẳng an toàn gì.
Mắm thối được tạt vào ngôi nhà của thế hệ thứ nhất: Nhà ông Huỳnh Ngọc Tuấn
Dọn dẹp đến 4g sáng vẫn chưa hết mùi thối
Nước thối chảy ra khắp đường
Jane Hoang
4 tháng 4
Rứa là hết cả bao dủ dẻ của em gái mình. Người quê mình khi sinh đẻ xong hay uống thứ nước nấu từ thân cây dủ dẻ để bổ sung chất sắt. Đó là loại nước uống dân gian lâu đời và cũng rất thơm ngon. Nhưng cả bao dủ dẻ đã bị nước cá thối đổ vào tối hôm qua. Ba mình, em rể, em trai và cả chồng mình đã mất hai ngày để đi chặt những cây dủ dẻ hiếm hoi còn sót lại ở vùng quê mình đem về để dành. Cái nôi e m bé chưa kịp nằm cũng ướt đẫm nước bẩn. Giờ cái phòng ba mình còn nguyên cái mùi như mùi tanh hôi như cái mùi ở những bến cảng cá. Ai đã từng sống gần những bến cá này mới biết được. Khổ kinh! Mình không tức giận, chỉ thấy buồn nôn. Cái mùi cá thối, tôm chết giống y như mùi của chế độ cộng sản. Cả nhà mình đang chuẩn bị tinh thần để chờ đón những đợt sách nhiễu tiếp theo. Xin cô chú bác, anh chị em yểm trợ tinh thần.
Phải di chuyển chỗ trọ 5 lần từ ngày mang thai đến ngày sinh
Thế hệ thứ 2 và thứ 3: Cậu và cháu không lúc nào được yên thân
Jane Hoang
Ngay 9 tháng 4
Nguồn: Huỳnh Ngọc Chênh
NGUYỄN THIÊN-THỤ * NGÀY CUỐI CÙNG CỦA HỒ CHÍ MINH
NGÀY CUỐI CÙNG CỦA HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thiên -Thụ
I. VIỆT CỘNG DỐI TRÁ CHE ĐẬY
Năm 2008, GS Hồ Tuấn Hùng, người Đài Loan hoàn thành cuốn "Hồ Chí Minh
Sinh Bình Khảo" (Tìm hiểu về cuộc đời Hồ Chí Minh), sách được Nhà xuất
bản Bạch Tượng Văn Hóa ấn hành
tại Đài Loan vào ngày 01/11/2008 (mã số ISBN: 9789866820779). Hồ Tuấn
Hùng sinh năm 1949 (có tài liệu nói là sinh năm 1948), tại
Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan, là cháu ruột Hồ Tập Chương
(mà ông khẳng định chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh).
Theo Giáo sư Hồ Tuấn Hùng, Hồ Chí Minh xuất thân là người thuộc sắc tộc
Khách Gia (Hakka, người Việt gọi là Hẹ ) tại huyện Miêu Lật,
địa khu Đồng La, Đài Loan. Tài liệu của Sophie Quinn Judge (Ho Chi Minh:
The Missing Year), và tài liệu của Hồ Tuấn Hùng cho biết Nguyễn Tất
Thành, là kẻ mạo danh Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh cũng là kẻ mạo bí
danh Hồ Chí Minh của nhà cách mạng Việt Nam Hồ Học Lãm cũng như Nguyễn
Ái Quốc- đã mạo nhận Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh hội của Hồ Học Lãm.
Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh đã bị cảnh sát Anh quốc bắt
gian, bị ho lao rồi chết. Có tin đồn Hồ Chí Minh đã được cảnh sát Anh
quốc thả nhưng với bịnh lao thời đó, sống trong khí hậu lạnh lẽo của
vùng Trung Quốc và Nga, lại chưa có Penecilin thì e khó sống. Nếu sống
được, Hồ Chí Minh cũng khó thoát bàn tay của Stalin trong thời đại khủng
bố. Quốc Tế III cùng Trung Cộng đêm Hồ Tập Chương thay Hồ Chí Minh về
làm chủ tịch nước VNDCCH đệ tiện việc xâm lăng Việt Nam và thế giới.
Hồ Tuấn Hùng quả quyết :"từ năm 1933 đến năm 1938, người lưu lại tại Mạc Tư Khoa là Hồ Tập Chương chứ không phải Nguyễn Ái Quốc.... "Những cấp cao của đảng CS quốc tế, Trung Cộng và Việt Cộng một mặt toàn lực che đậy những hoạt động của HCM (Hồ tập chương) từ năm 1929 đến 1933, một mặt không ngừng truyền tin giả rằng HCM tức là Nguyến Ái Quốc để làm NAQ sống lại trên sân khấu lịch sử ". (Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo)
Tài liệu này làm chấn động học giới nhưng cộng sản Việt Nam im lặng.Trong bài này, chúng tôi nói về ngày cuối của Hồ Chí Minh.
Hồ Tuấn Hùng quả quyết :"từ năm 1933 đến năm 1938, người lưu lại tại Mạc Tư Khoa là Hồ Tập Chương chứ không phải Nguyễn Ái Quốc.... "Những cấp cao của đảng CS quốc tế, Trung Cộng và Việt Cộng một mặt toàn lực che đậy những hoạt động của HCM (Hồ tập chương) từ năm 1929 đến 1933, một mặt không ngừng truyền tin giả rằng HCM tức là Nguyến Ái Quốc để làm NAQ sống lại trên sân khấu lịch sử ". (Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo)
Tài liệu này làm chấn động học giới nhưng cộng sản Việt Nam im lặng.Trong bài này, chúng tôi nói về ngày cuối của Hồ Chí Minh.
Từ trước đến nay, nhiều tài liệu khác nhau viết về giờ cuối của HCM. Trước
tiên là báo Việt Nam nói về phút cuối của HCM. Họ đề cao HCM yêu dân
ca, yêu nước Việt Nam . Nghệ sĩ ưu tú Quỳnh Hoa (?) viết rất "chân thành
sâu sắc" trong bài"Tình yêu Bác Hồ giành cho những khúc dân ca".
Đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều
bài báo, lời ca, câu truyện… ngợi ca vẻ đẹp con nguời Hồ Chí Minh - đó
là vẻ đẹp của sự hoàn mỹ nhưng không xa lạ, vĩ đại mà gần gũi thân
thương, toả sáng mà ấm áp hiền hoà. Bản thân Người, cuộc đời của Người
là nguồn đề tài bất tận cho tất thảy những ai khao khát mong muốn cái
đẹp “gieo mầm cho sự sống”.. . Và trước muôn vàn câu truyện kể về
Người, trái tim tôi lại trào lên xúc cảm trước những phút giây cuối cùng
trong cuộc đời Bác – đó là câu truyện về tình yêu của Người dành cho
những khúc hát dân ca. Vào buổi sáng ngày 2/9/1969, đây là buổi sáng
cuối cùng trong cuộc đời 79 mùa xuân của Bác. Bởi sau 9 giờ sáng hôm ấy
Người thực sự bước vào “ cuộc trường chinh nhẹ cánh bay”, để lại cho
nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới một niềm đau thương, mất mát
không thể nào diễn tả nổi bằng mọi ngôn từ.
Không gian của câu truyện cũng chỉ thu nhỏ trong căn nhà A67. Căn phòng này cách ngôi nhà sàn của Bác chỉ vài chục bước chân. Trước đó, theo lời đề nghị của bác sỹ, để tiện cho việc theo dõi, chăm sóc sức khoẻ của Người, ngày 18/8/1969, các đồng chí trong Bộ Chính trị và những đồng chí trực tiếp chăm sóc Bác đã chuyển Bác xuống ở căn phòng này.
Sau gần 20 ngày chống chọi với bệnh tật, Bác đã yếu lắm. Nhưng hễ tỉnh lại là ngay lập tức, Người hỏi thăm tình hình chiến đấu ở miền Nam, tình hình lũ lụt ở miền Bắc. Người còn dặn các đồng chí trong Bộ Chính trị phải làm sao tổ chức ngày lễ Quốc khánh thật long trọng để nhân dân vui, phải bắn pháo hoa cho nhân dân phấn khởi. Trong những giây phút cuối cùng, đứng giữa ranh giới mong manh của sự sống và cái chết, đối diện với quy luật nghiệt ngã của sự tồn vong Bác vẫn luôn nghĩ cho đồng bào, cho đất nước mà “ nâng niu tất cả chỉ quên mình”. Nằm trên giường bệnh, sáng 2/9, lúc này Người đã rất mệt, mong muốn cuối cùng của Người là được gặp và thăm đồng bào miền Nam không thực hiện được, hơi thở của người mỗi lúc một yếu dần. Các đồng chí trong Bộ Chính trị và các bác sỹ không ai nỡ rời xa Người dù chỉ là một phút. Lần đầu tiên tỉnh lại sau cơn đau, Người nhìn xung quanh rồi hỏi:
Không gian của câu truyện cũng chỉ thu nhỏ trong căn nhà A67. Căn phòng này cách ngôi nhà sàn của Bác chỉ vài chục bước chân. Trước đó, theo lời đề nghị của bác sỹ, để tiện cho việc theo dõi, chăm sóc sức khoẻ của Người, ngày 18/8/1969, các đồng chí trong Bộ Chính trị và những đồng chí trực tiếp chăm sóc Bác đã chuyển Bác xuống ở căn phòng này.
Sau gần 20 ngày chống chọi với bệnh tật, Bác đã yếu lắm. Nhưng hễ tỉnh lại là ngay lập tức, Người hỏi thăm tình hình chiến đấu ở miền Nam, tình hình lũ lụt ở miền Bắc. Người còn dặn các đồng chí trong Bộ Chính trị phải làm sao tổ chức ngày lễ Quốc khánh thật long trọng để nhân dân vui, phải bắn pháo hoa cho nhân dân phấn khởi. Trong những giây phút cuối cùng, đứng giữa ranh giới mong manh của sự sống và cái chết, đối diện với quy luật nghiệt ngã của sự tồn vong Bác vẫn luôn nghĩ cho đồng bào, cho đất nước mà “ nâng niu tất cả chỉ quên mình”. Nằm trên giường bệnh, sáng 2/9, lúc này Người đã rất mệt, mong muốn cuối cùng của Người là được gặp và thăm đồng bào miền Nam không thực hiện được, hơi thở của người mỗi lúc một yếu dần. Các đồng chí trong Bộ Chính trị và các bác sỹ không ai nỡ rời xa Người dù chỉ là một phút. Lần đầu tiên tỉnh lại sau cơn đau, Người nhìn xung quanh rồi hỏi:
- Trong các chú có ai biết hò Huế không?
Mọi người lúng túng nhìn nhau, quả là một tình huống không ai chuẩn bị trước. Thường ngày, Người vẫn thường nói “ miền Nam luôn ở trong trái tim tôi”, thêm vào đó Huế vốn là mảnh đất gắn bó cùng Người suốt một thời gian dài tuổi thơ. Giờ đây, trong những phút cuối cùng, có lẽ Người mong muốn mang hình ảnh miền Nam yêu thương, hình ảnh núi Ngự, sông Hương với những kỷ niệm buồn đau theo mình vào cõi vĩnh hằng bất tử. Nỗi niềm ấy của người dường như ai cũng thấu hiểu, nhưng tìm nghệ sỹ hò Huế lúc này thật khó.
Lần thứ hai tỉnh lại, Người lại hỏi. Lúc này giọng người đã yếu hơn nhiều:
- Trong các chú, ai có thể hát cho Bác nghe một làn điệu ví dặm Nghệ Tĩnh được không?
Thêm một lần nữa sự im lặng và bối rối bao trùm căn phòng. Câu ví dặm câu hát dân ca xứ Nghệ đã bao bọc và nuôi dưỡng tâm hồn Người từ thủa lọt lòng. Ngươì lớn lên và đi ra thế giới từ chiếc nội văn hoá quê hương mặn mòi tình nghĩa ấy. Trước giây phút sắp biệt ly Người khao khát được nghe, được sống trong hơi ấm quê hương.
Lần thứ ba tỉnh lại, Người ngỏ ý muốn nghe một khúc dân ca quan họ Bắc Ninh, lần này thật may mắn khi cô y tá bé nhỏ Ngô Thị Oanh tiến lại gần Bác: “Thưa Bác, cháu xin hát cho Bác nghe ạ”. Với chất giọng trong trẻo của người con gái Vĩnh Phúc, chị cất lời hát “ Ngươì ở đừng về”.. Căn phòng nhỏ chìm trong tiếng hát. tiếng hát hay tiếng lòng! Không ai phân biệt được. Chỉ biết rằng lời quan họ sâu lắng, tha thiết quá. “ Người ơi, người ở đừng về. Mà người ơi, người ở đừng về” đã nói hộ lòng người. Cô y tá càng hát càng ngẹn ngào, những người xung quanh không ai cầm được nước mắt. 9 giờ 47 phút ngày 2/9/1969 trái tim vĩ đại của Bác Hồ đã ngừng đập, để lại muôm vàn tình thưong yêu cho đồng bào cả nước. Sinh ra và lớn lên từ trong câu hát dân ca, từ điệu ví dặm ầu ơ ngọt ngào đằm thắm của mẹ, cuối cùng Ngươì thanh thản nhẹ nhàng bước vào cuộc trường sinh bằng âm hưởng tiếng hát dân ca.
Sau này, trong một bài báo tôi còn đựơc biết chị Ngô Thị Oanh, cô y tá viện quân y 108, người hát khúc hát dân ca “ Ngươì ở đừng về” vào những giây phút cuối cùng của cuộc đời Bác kể lại: Sau khi chị hát xong, Bác Hồ nhìn chị, chị cảm giác như Bác đang mỉm cười. Người còn bảo lấy bông hoa hồng bạch trên bàn mang tặng chị. Cử chỉ nhỏ mà ý nghĩa thật to lớn. Cho đến phút cuối đời, quên cả nỗi đau đang vò xé, Người vẫn giành trọn niềm yêu thương, sự quan tâm đặc biệt cho mỗi người, đặc biệt là phụ nữ. Và bông hoa hồng nhỏ bé ấy chị đã ép khô để luôn giữ và xem nó là vật kỷ niệm thiêng liêng theo chị suốt cả cuộc đời. (HCM, XXIV)
Mọi người lúng túng nhìn nhau, quả là một tình huống không ai chuẩn bị trước. Thường ngày, Người vẫn thường nói “ miền Nam luôn ở trong trái tim tôi”, thêm vào đó Huế vốn là mảnh đất gắn bó cùng Người suốt một thời gian dài tuổi thơ. Giờ đây, trong những phút cuối cùng, có lẽ Người mong muốn mang hình ảnh miền Nam yêu thương, hình ảnh núi Ngự, sông Hương với những kỷ niệm buồn đau theo mình vào cõi vĩnh hằng bất tử. Nỗi niềm ấy của người dường như ai cũng thấu hiểu, nhưng tìm nghệ sỹ hò Huế lúc này thật khó.
Lần thứ hai tỉnh lại, Người lại hỏi. Lúc này giọng người đã yếu hơn nhiều:
- Trong các chú, ai có thể hát cho Bác nghe một làn điệu ví dặm Nghệ Tĩnh được không?
Thêm một lần nữa sự im lặng và bối rối bao trùm căn phòng. Câu ví dặm câu hát dân ca xứ Nghệ đã bao bọc và nuôi dưỡng tâm hồn Người từ thủa lọt lòng. Ngươì lớn lên và đi ra thế giới từ chiếc nội văn hoá quê hương mặn mòi tình nghĩa ấy. Trước giây phút sắp biệt ly Người khao khát được nghe, được sống trong hơi ấm quê hương.
Lần thứ ba tỉnh lại, Người ngỏ ý muốn nghe một khúc dân ca quan họ Bắc Ninh, lần này thật may mắn khi cô y tá bé nhỏ Ngô Thị Oanh tiến lại gần Bác: “Thưa Bác, cháu xin hát cho Bác nghe ạ”. Với chất giọng trong trẻo của người con gái Vĩnh Phúc, chị cất lời hát “ Ngươì ở đừng về”.. Căn phòng nhỏ chìm trong tiếng hát. tiếng hát hay tiếng lòng! Không ai phân biệt được. Chỉ biết rằng lời quan họ sâu lắng, tha thiết quá. “ Người ơi, người ở đừng về. Mà người ơi, người ở đừng về” đã nói hộ lòng người. Cô y tá càng hát càng ngẹn ngào, những người xung quanh không ai cầm được nước mắt. 9 giờ 47 phút ngày 2/9/1969 trái tim vĩ đại của Bác Hồ đã ngừng đập, để lại muôm vàn tình thưong yêu cho đồng bào cả nước. Sinh ra và lớn lên từ trong câu hát dân ca, từ điệu ví dặm ầu ơ ngọt ngào đằm thắm của mẹ, cuối cùng Ngươì thanh thản nhẹ nhàng bước vào cuộc trường sinh bằng âm hưởng tiếng hát dân ca.
Sau này, trong một bài báo tôi còn đựơc biết chị Ngô Thị Oanh, cô y tá viện quân y 108, người hát khúc hát dân ca “ Ngươì ở đừng về” vào những giây phút cuối cùng của cuộc đời Bác kể lại: Sau khi chị hát xong, Bác Hồ nhìn chị, chị cảm giác như Bác đang mỉm cười. Người còn bảo lấy bông hoa hồng bạch trên bàn mang tặng chị. Cử chỉ nhỏ mà ý nghĩa thật to lớn. Cho đến phút cuối đời, quên cả nỗi đau đang vò xé, Người vẫn giành trọn niềm yêu thương, sự quan tâm đặc biệt cho mỗi người, đặc biệt là phụ nữ. Và bông hoa hồng nhỏ bé ấy chị đã ép khô để luôn giữ và xem nó là vật kỷ niệm thiêng liêng theo chị suốt cả cuộc đời. (HCM, XXIV)
II. TRUNG QUỐC BẬT MÍ
Cũng viết về giờ phút cuối của HCM, báo Trung Quốc trong bài "CỰU ĐẠI SỨ
TQ TỪNG NHƯ THƯ KÝ RIÊNG VÀ Ở BÊN HỒ CHÍ MINH ĐẾN CUỐI ĐỜI". (Bài
này được báo Quân Đội Nhân Dân Việt Nam dịch và đăng lên báo, chắc
chắn là nguồn tin của đảng ta chứ chẳng phải Mỹ ngụy xuyên tạc)
Người đó là Trương Đức Duy,phiên dịch tiếng Việt có thâm niên của nước ta, sinh năm 1930 ở Quảng Đông, từng là Hoa kiều học tập tại Việt Nam.Năm 1954, tham gia thành lập Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam, phụ trách phần phiên dịch và điều tra nghiên cứu, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Trung Quốc tại Việt Nam.
Năm 1967, Hồ Chí Minh bị bệnh đến Trung Quốc nghỉ dưỡng, Trương Đức Duy làm phiên dịch theo suốt cả thời gian này. Trong khoảng thời gian 2 năm sau đó, Trương Đức Duy luôn ở bên Hồ Chí Minh cho đến khi Hồ Chí Minh qua đời. ...
Trị liệu được hơn 2 tháng, hiệu quả chữa trị rõ, Hồ Chí Minh rất hài lòng, vì nhớ đến cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước của Việt Nam, nên ngày 1 tháng 7 năm 1967 đã rời Quảng Châu quay về Hà Nội."
It lâu, HCM bị bệnh, lại được đưa qua Trung Quốc, nằm tại Nhà điều dưỡng Trung ương Ngọc Tuyền Sơn ở Bắc Kinh dưỡng bệnh trong hơn nửa năm.
Trong khoảng thời gian 2 năm tiếp đó, Tổ chăm sóc y tế còn từng 3 lần đến Hà Nội chữa bệnh cho Hồ Chí Minh. Mùa hè năm 1969, Hồ Chí Minh muốn để cho Tổ chăm sóc y tế được về Trung Quốc nghỉ phép 1 tháng, tiện thể nhờ Trương Đức Duy mang thư đến cho Thủ tướng Chu Ân Lai luôn.
Vào trung tuần tháng 8 năm đó, Hồ Chí Minh ra ngoài đi thị sát đột nhiên bị cảm, dẫn đến viêm phế quản cấp, từng bị choáng mất một lúc. Cả bệnh tim và bệnh mạch máu não cùng phát, tiếp đến viêm phế quản chuyển thành viêm phổi cấp.
Bắt đầu từ ngày 25 tháng 8, Bắc Kinh điều sang thêm liên tiếp 2 tốp chuyên gia và đội chăm sóc y tế Đông, Tây y…, mang theo các loại thuốc cấp cứu và dụng cụ đáp chuyên cơ tới Hà Nội. Các thầy thuốc Trung Quốc thay phiên túc trực ngày đêm bên giường bệnh Hồ Chí Minh, đã dùng một loạt các biện pháp trị liệu, nhưng đều không thấy có hiệu quả.
“Tôi còn nhớ rất rõ, trong những ngày tháng cuối cùng ấy, ông cụ tỏ ra rất yên lặng”. Trương Đức Duy nói, ông luôn ở trước giường Hồ Chí Minh, có lần Hồ Chí Minh bị hôn mê khi tỉnh lại, nhìn thấy hộ lý Trung Quốc đứng bên giường còn yêu cầu các cô hát.
Hai cô hộ lý liền khẽ hát bài hát “Ca ngợi xã hội chủ nghĩa” đã quen thuộc với mọi người.
Hồ Chí Minh nghe xong mỉm cười gật đầu, mãn nguyện chìm vào giấc ngủ.
Rạng sáng ngày 2 tháng 9, Hồ Chí Minh đã không còn tự chủ được hơi thở, tim ngừng đập hoàn toàn. Các bác sĩ Trung Quốc đã sử dụng mọi loại thiết bị, nhưng cuối cùng vẫn không thể hồi phục được nhịp tim cho ông cụ.
Ba tốp chuyên gia chăm sóc y tế do Chu Ân Lai lệnh điều thêm vào ngày hôm đó còn chưa kịp tới Hà Nội thì tử thần đã cướp đi mất sinh mạng của Hồ Chí Minh. Đồng hồ điểm đúng 9 giờ 47 phút ngày 2 tháng 9 năm 1969, Hồ Chí Minh đã không vượt qua nổi cái mốc 79 tuổi. (Nguồn: “Báo Pháp chế buổi chiều”) (HCM, XXIII )
Gần đây, một người lớn lên trong thiên đàng XHCN đã viết cảm xúc của mình trong ngày " bác đi xa" . Đó là Mẹ Nấm trong bài "Đâu Mới Là Sự Thật?"
Trong năm học cuối cấp 2, mình có một buổi ngoại khóa tìm hiểu về dân ca - ca dao Việt Nam, cô giáo mình đã hát và giới thiệu bài hát "Lời Bác dặn trước lúc đi xa" - của nhạc sỹ Trần Hoàn - để làm ví dụ minh họa cho giá trị tinh thần vô giá của kho tàng ca dao - tục ngữ - dân ca Việt Nam.
Khi Internet xuất hiện, mình có đọc ở đâu đó bản tin về việc "nghe nhạc trên giường bệnh của Hồ Chí Minh, nó hoàn toàn trái ngược với những gì mình được nghe, được học. Mình nhớ là mình có đem việc này trao đổi với vài người lớn và họ bảo mình thật là vớ vẩn khi đi tin vào mấy tờ báo "phản động".
Khi search trên Google sự ra đời của nhạc phẩm "Lời Bác dặn trước lúc đi xa" nó ra thế này:
“Chuyện kể rằng trước lúc Người đi xa... Bác muốn nghe một đôi làn quan họ. Ôi may sao bỗng có em gái nhỏ... Rồi căn phòng xao động trong nước mắt. Những lời ca nức nở tái tê, rằng Người ơi Người ở đừng về...” - Những ca từ trong bài hát: “Lời Bác dặn trước lúc đi xa” của nhạc sỹ Trần Hoàn mỗi khi cất lên đã làm lay động hồn người bao thế hệ kể từ khi Bác Hồ đi xa mãi mãi. Nhưng hẳn nhiều người còn chưa rõ, nhân vật “em gái nhỏ” ngoài đời đó là ai?...
Hạnh phúc bất ngờ
Chúng ta đều biết rằng, ngày 2-9-1969, Bác Hồ - vị Cha già của dân tộc đã vĩnh biệt đồng bào, đồng chí, mãi mãi đi vào cõi vĩnh hằng. Những giây phút cuối cùng bên giường bệnh của Người là một câu chuyện thật giàu chất nhân văn, mỗi lần nghe đến, ai cũng thấy nao lòng. Một trong những câu chuyện lịch sử thật cảm động này là nguồn cảm hứng cho nhạc sĩ Trần Hoàn sáng tác ca khúc “Lời Bác dặn trước lúc đi xa”. Trong ca khúc của Trần Hoàn có nhân vật “em gái nhỏ” đã hát khúc dân ca trong một hoàn cảnh đặc biệt, chính là chị Ngô Thị Oanh, quê ở vùng đất bãi Yên Lạc - Vĩnh Phúc, nguyên y tá Viện Quân y 108 (nay là Bệnh viện Trung ương Quân đội 108).
Về những giờ phút cuối cùng bên Người, chị Ngô Thị Oanh kể, năm đó, chị vừa tròn 20 tuổi, là y tá công tác tại khoa phòng mổ Bệnh viện 108. Ngày 22-8-1969, Chính uỷ Viện 108, Lê Đình Lý gọi 4 người, gồm có bác sĩ chủ nhiệm khoa Nguyễn Xuân Bích, bác sĩ Lê Phúc và 2 y tá Trần Thị Quý và Ngô Thị Oanh chuẩn bị đi làm nhiệm vụ đặc biệt. Khoảng 18 giờ ngày 23-8, cả đoàn lên chiếc xe hồng thập tự đi làm nhiệm vụ mà không biết đi đâu. Vào đến Phủ Chủ tịch, mọi người mới biết được vinh dự vào chăm sóc sức khoẻ Bác. Một lát sau, đồng chí Vũ Kỳ, thư ký của Bác Hồ đến nói với mọi người trong tổ công tác: “Mấy hôm nay Bác mệt, cấp trên yêu cầu các cô, các chú đến chăm sóc sức khoẻ Bác”.
Nghe đồng chí Vũ Kỳ phổ biến về nhiệm vụ chăm sóc sức khoẻ Bác Hồ thì chị Oanh và mọi người... run lên vì hạnh phúc đến quá bất ngờ. Đêm đầu tiên tại Phủ Chủ tịch, mọi người không ai ngủ được vì niềm hạnh phúc sắp được ở bên người Cha kính yêu của dân tộc. Sáng hôm sau, đồng chí Vũ Kỳ đưa đoàn vào gặp Bác. Bác mệt, nằm trên chiếc giường gỗ. Đồng chí Vũ Kỳ vẫy hai chị em gồm Oanh và Quý đến bên giường, giới thiệu với Bác: “Đây là hai y tá của Bệnh viện Quân đội 108 vào chăm sóc sức khoẻ Bác”.
Bác xua tay nói: “Chú đừng làm phiền đến các cháu. Còn chiến tranh, để các cháu phục vụ thương bệnh binh. Sức khoẻ Bác chưa đến nỗi...”. Nhưng hai nữ y tá Oanh, Quý vẫn được ở lại phục vụ Bác thường xuyên, cho đến ngày Người ra đi...
“Những lời ca nức nở, tái tê...”
Chị Oanh còn nhớ, sáng sớm 2-9, Đại tướng Võ Nguyên Giáp vào thăm Bác. Bác hỏi: “Sáng nay các chú tổ chức đồng bào mít-tinh thế nào?” Một lần, Bác đang hỏi chuyện về vùng quê Yên Lạc, Vĩnh Phúc của chị thì đồng chí Vũ Kỳ đi vào. Là người giúp việc Bác từ những ngày đầu cách mạng, nên đồng chí Vũ Kỳ hiểu được tâm nguyện của Bác lúc này. Ông nói với chị Oanh: “Cô có biết hát thì hát Bác nghe?” Tuy chưa bao giờ hát đơn ca, chỉ thỉnh thoảng tham gia văn nghệ quần chúng ở đơn vị, nên chị Oanh có vẻ ngập ngừng. Thấy vậy đồng chí Vũ Kỳ động viên: “Cô cứ mạnh dạn lên”.
Chị Oanh thoáng nghĩ điều hạnh phúc được vào phục vụ Bác, giờ lại được hát cho Bác nghe, hạnh phúc càng được nhân lên. Chị mạnh dạn xin phép Bác hát bài: “Chiến sĩ quân y làm theo lời Bác” của nhạc sỹ Đỗ Niệm. Hát xong, đồng chí Vũ Kỳ động viên: “Cô có thuộc bài dân ca nào thì hát tiếp đi nhé!...”. Lần này, mạnh dạn hơn, chị Oanh hát bài dân ca quan họ Bắc Ninh: “Người ơi, người ở đừng về”. Trong tâm trạng bùi ngùi, lo lắng trước sức khoẻ của Người, chị Oanh chẳng thể hát trọn khúc dân ca, nhưng vẫn được Bác động viên, vỗ tay và bảo đồng chí Vũ Kỳ lấy bông hồng đang cắm trong lọ tặng chị. Được Bác tặng hoa, chị Oanh sung sướng và hạnh phúc vô cùng, cứ đứng ngây ra, ấp úng mãi mới nói được nên lời cảm ơn Bác...
Sau này, trong một lần nhạc sĩ Trần Hoàn được nghe đồng chí Vũ Kỳ kể câu chuyện về cô y tá hát dâng Bác khúc dân ca quan họ “Người ơi người ở đừng về”, tâm hồn người nghệ sĩ bỗng dâng trào cảm hứng sáng tác. Không lâu sau đó bài hát “Lời Bác dặn trước lúc đi xa” ra đời với những cảm xúc thiết tha, lay động lòng người. Điều đáng nói là dù giai điệu mà hầu như người dân nước Việt nào cũng thuộc lòng: “Bác muốn nghe một đôi làn quan họ. Ôi may sao bỗng có em gái nhỏ... Rồi căn phòng xao động trong nước mắt. Những lời ca nức nở tái tê, rằng Người ơi Người ở đừng về...” mà Nhạc sĩ Trần Hoàn sáng tác ra khi mới chỉ nghe kể về cô gái, chưa một lần gặp mặt. Một thời gian sau, ông quyết định đi tìm cô gái để thoả mãn lòng mong mỏi của khán thính giả nghe nhạc. Và nhạc sĩ đã gặp cô tại Viện Quân y 108 trong trang phục nữ chiến sĩ áo trắng...
Bông hồng trắng buổi ấy cùng một vài kỷ vật khác trong những ngày cuối cùng bên Bác, chị Ngô Thị Oanh giữ gìn như báu vật. Cho đến tận bây giờ, mỗi lần nghe ca khúc của nhạc sĩ Trần Hoàn, chị lại chan chứa nước mắt..."
http://bbp.bienphong.com.vn/nd5/detail/trang-nhat/ho-so-tu-lieu/chuyen-ke-rang-truoc-luc-nguoi-di-xa/36888.001055.html
Người đó là Trương Đức Duy,phiên dịch tiếng Việt có thâm niên của nước ta, sinh năm 1930 ở Quảng Đông, từng là Hoa kiều học tập tại Việt Nam.Năm 1954, tham gia thành lập Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam, phụ trách phần phiên dịch và điều tra nghiên cứu, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Trung Quốc tại Việt Nam.
Năm 1967, Hồ Chí Minh bị bệnh đến Trung Quốc nghỉ dưỡng, Trương Đức Duy làm phiên dịch theo suốt cả thời gian này. Trong khoảng thời gian 2 năm sau đó, Trương Đức Duy luôn ở bên Hồ Chí Minh cho đến khi Hồ Chí Minh qua đời. ...
Trị liệu được hơn 2 tháng, hiệu quả chữa trị rõ, Hồ Chí Minh rất hài lòng, vì nhớ đến cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước của Việt Nam, nên ngày 1 tháng 7 năm 1967 đã rời Quảng Châu quay về Hà Nội."
It lâu, HCM bị bệnh, lại được đưa qua Trung Quốc, nằm tại Nhà điều dưỡng Trung ương Ngọc Tuyền Sơn ở Bắc Kinh dưỡng bệnh trong hơn nửa năm.
Trong khoảng thời gian 2 năm tiếp đó, Tổ chăm sóc y tế còn từng 3 lần đến Hà Nội chữa bệnh cho Hồ Chí Minh. Mùa hè năm 1969, Hồ Chí Minh muốn để cho Tổ chăm sóc y tế được về Trung Quốc nghỉ phép 1 tháng, tiện thể nhờ Trương Đức Duy mang thư đến cho Thủ tướng Chu Ân Lai luôn.
Vào trung tuần tháng 8 năm đó, Hồ Chí Minh ra ngoài đi thị sát đột nhiên bị cảm, dẫn đến viêm phế quản cấp, từng bị choáng mất một lúc. Cả bệnh tim và bệnh mạch máu não cùng phát, tiếp đến viêm phế quản chuyển thành viêm phổi cấp.
Bắt đầu từ ngày 25 tháng 8, Bắc Kinh điều sang thêm liên tiếp 2 tốp chuyên gia và đội chăm sóc y tế Đông, Tây y…, mang theo các loại thuốc cấp cứu và dụng cụ đáp chuyên cơ tới Hà Nội. Các thầy thuốc Trung Quốc thay phiên túc trực ngày đêm bên giường bệnh Hồ Chí Minh, đã dùng một loạt các biện pháp trị liệu, nhưng đều không thấy có hiệu quả.
“Tôi còn nhớ rất rõ, trong những ngày tháng cuối cùng ấy, ông cụ tỏ ra rất yên lặng”. Trương Đức Duy nói, ông luôn ở trước giường Hồ Chí Minh, có lần Hồ Chí Minh bị hôn mê khi tỉnh lại, nhìn thấy hộ lý Trung Quốc đứng bên giường còn yêu cầu các cô hát.
Hai cô hộ lý liền khẽ hát bài hát “Ca ngợi xã hội chủ nghĩa” đã quen thuộc với mọi người.
Hồ Chí Minh nghe xong mỉm cười gật đầu, mãn nguyện chìm vào giấc ngủ.
Rạng sáng ngày 2 tháng 9, Hồ Chí Minh đã không còn tự chủ được hơi thở, tim ngừng đập hoàn toàn. Các bác sĩ Trung Quốc đã sử dụng mọi loại thiết bị, nhưng cuối cùng vẫn không thể hồi phục được nhịp tim cho ông cụ.
Ba tốp chuyên gia chăm sóc y tế do Chu Ân Lai lệnh điều thêm vào ngày hôm đó còn chưa kịp tới Hà Nội thì tử thần đã cướp đi mất sinh mạng của Hồ Chí Minh. Đồng hồ điểm đúng 9 giờ 47 phút ngày 2 tháng 9 năm 1969, Hồ Chí Minh đã không vượt qua nổi cái mốc 79 tuổi. (Nguồn: “Báo Pháp chế buổi chiều”) (HCM, XXIII )
Gần đây, một người lớn lên trong thiên đàng XHCN đã viết cảm xúc của mình trong ngày " bác đi xa" . Đó là Mẹ Nấm trong bài "Đâu Mới Là Sự Thật?"
Trong năm học cuối cấp 2, mình có một buổi ngoại khóa tìm hiểu về dân ca - ca dao Việt Nam, cô giáo mình đã hát và giới thiệu bài hát "Lời Bác dặn trước lúc đi xa" - của nhạc sỹ Trần Hoàn - để làm ví dụ minh họa cho giá trị tinh thần vô giá của kho tàng ca dao - tục ngữ - dân ca Việt Nam.
Khi Internet xuất hiện, mình có đọc ở đâu đó bản tin về việc "nghe nhạc trên giường bệnh của Hồ Chí Minh, nó hoàn toàn trái ngược với những gì mình được nghe, được học. Mình nhớ là mình có đem việc này trao đổi với vài người lớn và họ bảo mình thật là vớ vẩn khi đi tin vào mấy tờ báo "phản động".
Khi search trên Google sự ra đời của nhạc phẩm "Lời Bác dặn trước lúc đi xa" nó ra thế này:
“Chuyện kể rằng trước lúc Người đi xa... Bác muốn nghe một đôi làn quan họ. Ôi may sao bỗng có em gái nhỏ... Rồi căn phòng xao động trong nước mắt. Những lời ca nức nở tái tê, rằng Người ơi Người ở đừng về...” - Những ca từ trong bài hát: “Lời Bác dặn trước lúc đi xa” của nhạc sỹ Trần Hoàn mỗi khi cất lên đã làm lay động hồn người bao thế hệ kể từ khi Bác Hồ đi xa mãi mãi. Nhưng hẳn nhiều người còn chưa rõ, nhân vật “em gái nhỏ” ngoài đời đó là ai?...
Hạnh phúc bất ngờ
Chúng ta đều biết rằng, ngày 2-9-1969, Bác Hồ - vị Cha già của dân tộc đã vĩnh biệt đồng bào, đồng chí, mãi mãi đi vào cõi vĩnh hằng. Những giây phút cuối cùng bên giường bệnh của Người là một câu chuyện thật giàu chất nhân văn, mỗi lần nghe đến, ai cũng thấy nao lòng. Một trong những câu chuyện lịch sử thật cảm động này là nguồn cảm hứng cho nhạc sĩ Trần Hoàn sáng tác ca khúc “Lời Bác dặn trước lúc đi xa”. Trong ca khúc của Trần Hoàn có nhân vật “em gái nhỏ” đã hát khúc dân ca trong một hoàn cảnh đặc biệt, chính là chị Ngô Thị Oanh, quê ở vùng đất bãi Yên Lạc - Vĩnh Phúc, nguyên y tá Viện Quân y 108 (nay là Bệnh viện Trung ương Quân đội 108).
Về những giờ phút cuối cùng bên Người, chị Ngô Thị Oanh kể, năm đó, chị vừa tròn 20 tuổi, là y tá công tác tại khoa phòng mổ Bệnh viện 108. Ngày 22-8-1969, Chính uỷ Viện 108, Lê Đình Lý gọi 4 người, gồm có bác sĩ chủ nhiệm khoa Nguyễn Xuân Bích, bác sĩ Lê Phúc và 2 y tá Trần Thị Quý và Ngô Thị Oanh chuẩn bị đi làm nhiệm vụ đặc biệt. Khoảng 18 giờ ngày 23-8, cả đoàn lên chiếc xe hồng thập tự đi làm nhiệm vụ mà không biết đi đâu. Vào đến Phủ Chủ tịch, mọi người mới biết được vinh dự vào chăm sóc sức khoẻ Bác. Một lát sau, đồng chí Vũ Kỳ, thư ký của Bác Hồ đến nói với mọi người trong tổ công tác: “Mấy hôm nay Bác mệt, cấp trên yêu cầu các cô, các chú đến chăm sóc sức khoẻ Bác”.
Nghe đồng chí Vũ Kỳ phổ biến về nhiệm vụ chăm sóc sức khoẻ Bác Hồ thì chị Oanh và mọi người... run lên vì hạnh phúc đến quá bất ngờ. Đêm đầu tiên tại Phủ Chủ tịch, mọi người không ai ngủ được vì niềm hạnh phúc sắp được ở bên người Cha kính yêu của dân tộc. Sáng hôm sau, đồng chí Vũ Kỳ đưa đoàn vào gặp Bác. Bác mệt, nằm trên chiếc giường gỗ. Đồng chí Vũ Kỳ vẫy hai chị em gồm Oanh và Quý đến bên giường, giới thiệu với Bác: “Đây là hai y tá của Bệnh viện Quân đội 108 vào chăm sóc sức khoẻ Bác”.
Bác xua tay nói: “Chú đừng làm phiền đến các cháu. Còn chiến tranh, để các cháu phục vụ thương bệnh binh. Sức khoẻ Bác chưa đến nỗi...”. Nhưng hai nữ y tá Oanh, Quý vẫn được ở lại phục vụ Bác thường xuyên, cho đến ngày Người ra đi...
“Những lời ca nức nở, tái tê...”
Chị Oanh còn nhớ, sáng sớm 2-9, Đại tướng Võ Nguyên Giáp vào thăm Bác. Bác hỏi: “Sáng nay các chú tổ chức đồng bào mít-tinh thế nào?” Một lần, Bác đang hỏi chuyện về vùng quê Yên Lạc, Vĩnh Phúc của chị thì đồng chí Vũ Kỳ đi vào. Là người giúp việc Bác từ những ngày đầu cách mạng, nên đồng chí Vũ Kỳ hiểu được tâm nguyện của Bác lúc này. Ông nói với chị Oanh: “Cô có biết hát thì hát Bác nghe?” Tuy chưa bao giờ hát đơn ca, chỉ thỉnh thoảng tham gia văn nghệ quần chúng ở đơn vị, nên chị Oanh có vẻ ngập ngừng. Thấy vậy đồng chí Vũ Kỳ động viên: “Cô cứ mạnh dạn lên”.
Chị Oanh thoáng nghĩ điều hạnh phúc được vào phục vụ Bác, giờ lại được hát cho Bác nghe, hạnh phúc càng được nhân lên. Chị mạnh dạn xin phép Bác hát bài: “Chiến sĩ quân y làm theo lời Bác” của nhạc sỹ Đỗ Niệm. Hát xong, đồng chí Vũ Kỳ động viên: “Cô có thuộc bài dân ca nào thì hát tiếp đi nhé!...”. Lần này, mạnh dạn hơn, chị Oanh hát bài dân ca quan họ Bắc Ninh: “Người ơi, người ở đừng về”. Trong tâm trạng bùi ngùi, lo lắng trước sức khoẻ của Người, chị Oanh chẳng thể hát trọn khúc dân ca, nhưng vẫn được Bác động viên, vỗ tay và bảo đồng chí Vũ Kỳ lấy bông hồng đang cắm trong lọ tặng chị. Được Bác tặng hoa, chị Oanh sung sướng và hạnh phúc vô cùng, cứ đứng ngây ra, ấp úng mãi mới nói được nên lời cảm ơn Bác...
Sau này, trong một lần nhạc sĩ Trần Hoàn được nghe đồng chí Vũ Kỳ kể câu chuyện về cô y tá hát dâng Bác khúc dân ca quan họ “Người ơi người ở đừng về”, tâm hồn người nghệ sĩ bỗng dâng trào cảm hứng sáng tác. Không lâu sau đó bài hát “Lời Bác dặn trước lúc đi xa” ra đời với những cảm xúc thiết tha, lay động lòng người. Điều đáng nói là dù giai điệu mà hầu như người dân nước Việt nào cũng thuộc lòng: “Bác muốn nghe một đôi làn quan họ. Ôi may sao bỗng có em gái nhỏ... Rồi căn phòng xao động trong nước mắt. Những lời ca nức nở tái tê, rằng Người ơi Người ở đừng về...” mà Nhạc sĩ Trần Hoàn sáng tác ra khi mới chỉ nghe kể về cô gái, chưa một lần gặp mặt. Một thời gian sau, ông quyết định đi tìm cô gái để thoả mãn lòng mong mỏi của khán thính giả nghe nhạc. Và nhạc sĩ đã gặp cô tại Viện Quân y 108 trong trang phục nữ chiến sĩ áo trắng...
Bông hồng trắng buổi ấy cùng một vài kỷ vật khác trong những ngày cuối cùng bên Bác, chị Ngô Thị Oanh giữ gìn như báu vật. Cho đến tận bây giờ, mỗi lần nghe ca khúc của nhạc sĩ Trần Hoàn, chị lại chan chứa nước mắt..."
http://bbp.bienphong.com.vn/nd5/detail/trang-nhat/ho-so-tu-lieu/chuyen-ke-rang-truoc-luc-nguoi-di-xa/36888.001055.html
Hôm qua, được đọc một bài báo cũng nói về "hoàn cảnh nghe nhạc" trước lúc ra đi của Hồ Chí Minh, trên trang Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, mình thấy phân vân quá.
Ba lần Bác cười trước lúc đi xa
QĐND - Thứ Hai, 25/01/2010, 20:33 (GMT+7)
“...Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã rời xa chúng ta, nhưng hình ảnh ba lần nhìn thấy nụ cười hiền hậu của Người mãi khắc sâu trong tôi. Sự nhẹ nhàng thanh thoát, những ngôn ngữ, cử chỉ thân thiết của Người, tôi luôn mang theo suốt cuộc đời...”.
Là y tá trưởng của Bệnh viện Bắc Kinh, từ những năm 60 của thế kỉ trước, tôi làm công tác chăm sóc sức khỏe bên cạnh Thủ tướng Chu Ân Lai. Tiếp nhận chỉ thị của Thủ tướng Chu Ân Lai, tôi được phân công vào đội ngũ chăm sóc sức khỏe Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngày 24-8-1969, trời Bắc Kinh oi nồng, không một chút gió. Đêm xuống, tôi giội ào một cái cho mát, chuẩn bị lên giường đi ngủ. Đột nhiên nghe tiếng gõ cửa dồn dập. Tôi vội dậy mở cửa. Thì ra là người của bệnh viện tới, nói rằng: “Có việc khẩn, lập tức lên đường”.
.......
Bác mỉm cười sau khúc hát của tôi
Ngày 31-8-1969, bệnh tình của Bác đột nhiên tăng lên. Hôn mê không tỉnh. Các chuyên gia bình tĩnh, kịp thời đưa ra biện pháp cấp cứu phù hợp. Bác sĩ Hồ Húc Đông xuyên kim vào tim Bác để bơm thuốc trợ lực tim. Thành công rồi! Chủ tịch Hồ Chí Minh từ từ tỉnh lại, Bác mở mắt ra, nhìn khắp một lượt các y, bác sĩ trong phòng. Mọi người cảm động không nói nên lời. Tổ trưởng Trương Hiếu lại gần bên Bác, khẽ gọi: "Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh, Người thấy trong mình hiện giờ thế nào? Còn chỗ nào chưa thấy thoải mái?". Bác khẽ lắc đầu, một lúc sau Bác ra hiệu muốn ăn một chút.
Chiều hôm đó sức khỏe của Bác đã có chuyển biến tốt lên một chút, Bác nói muốn nghe một câu hát Trung Quốc. Các đồng chí đề nghị tôi hát. Tôi nói thật là hát cũng không tốt lắm, nhưng để vui lòng Bác, vì tình hữu nghị Trung-Việt, tôi đã hát một bài hát mà nhiều người thuộc và hát được, bài hát có nội dung chính là ra khơi xa phải vững tay chèo. Bác nghe xong rất vui, Bác nở nụ cười hiền từ. Bác nắm nhẹ tay tôi, tặng tôi một bông hoa biểu thị cảm ơn. Đó là lần thứ ba tôi thấy Bác cười. Và đó cũng là nụ cười cuối cùng của Người.
Sáng ngày 2-9-1969, trái tim Chủ tịch Hồ Chí Minh ngừng đập. Người đã vĩnh viễn đi xa. Chúng tôi không cầm được nỗi buồn, nước mắt tuôn trào. Đứng bên giường bệnh của Người, vô cùng buồn thương… và từ biệt Người. Ngày 9-9-1969, toàn bộ tổ chữa trị đã cùng lãnh đạo và nhân dân Việt Nam tham gia lễ truy điệu được cử hành tại Hội trường Ba Đình. Hai ngày sau chúng tôi rời Hà Nội về nước. Để ghi nhận công lao của các bác sĩ, y tá trong các tổ y tế đã tham gia chữa trị cho Bác Hồ, Chính phủ Việt Nam đã tặng nhiều huân chương cao quý cho thành viên trong tổ y tế.
* Vương Tinh Minh, y tá trưởng Bệnh viện Bắc Kinh, thành viên Tổ bác sĩ Trung Quốc sang Việt Nam chữa bệnh cho Bác Hồ, tháng 8-1969.
NGUYỄN HÒA biên dịch
http://www.qdnd.vn/QDNDSite/vi-VN/61/43/242/242/242/101538/Default.aspx
(HCM, XXV)
Qua các tài liệu trên, chúng ta sẽ thấy vô cùng phức tạp. HCM giờ cuối nghe nhạc Việt hay nhạc Tàu? Tại sao người Trung Quốc "săn sóc" HCM cho đến phút cuối? Điều này cho ta biết Hồ Chí Minh là người Trung Quốc cho nên luôn luôn được Trung Quốc, săn sóc, bảo vệ để khỏi tiết lộ bí mật. Vì ông Hồ là người Trung Quốc cho nên Vũ Kỳ cũng là người Trung Quốc. Quân Trung Quốc , người Trung Quốc bao vây xung quanh Hồ Chí Minh rất chặt chẽ nhất là giờ phút cuối. Bác sĩ Việt Nam ư?Y tá Việt Nam ư?Đừng có sờ vào cái móng chân ông Hồ. Ai cho phép bọn nô lệ Việt Nam lại gần? BS Tôn Thất Tùng, Dương Bạch Mai,.. chỉ là những con bù nhìn. Có thể sau khi ông Hồ từ trần, các xác của ông đã được đem về Trung Quốc. Các xác ở Ba Đình không biết là của ai. Tại sao Việt Nam lại nói khác?Vì họ cũng phải giấu diếm. Việt Nam ta lúc này sống trong lãnh đạo tập thể, làm ăn tập thể cho nên nói dối cũng là tập thể! Cả một tập thể dối trá từ HCM, Trần Hoàn, Vũ Kỳ cũng như Trường Chinh, Tố Hữu, Sơn Tùng, Chế Lan Viên, đều là những bon gian manh, dối trá, mà Quỳnh Hoa,Ngô Thị Oanh cũng chỉ là những con ma, những người giả việc giả.Họ nói dối để che đây hành vị bán nước của họ. Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Tố Hữu, Trần Hòan.. lẽ nào không biết từ lâu chúng đã tôn một người Trung Cộng lãnh đạo nước ta?Họ đã đồng mưu với Hồ Chí Minh dâng đất cho Trung Quốc và cam phận nô lệ, phản bội công lao tiền nhân.
III. TIN ĐÀI LOAN- CHÁU HỒ CHÍ MINH VỀ THĂM ĐẤT TỔ ĐÀI LOAN:
Cháu Nội Hồ Chí Minh Thăm Đài Bắc
Đăng ngày: 04:52 24-01-2010
TAIPEI (VB, Trần Đông Đức) Hồ Chí Minh có vợ con, không phải là chuyện bí mật đối với các sở tình báo Trung Quốc, Đài Loan, Liên Xô. Điều này đã được viết trong nhiều sách và tài liệu, mặc dù còn bị bưng bít ở VN. "Cháu nội của Hồ Chí Minh thăm viếng Đài Loan" là bản tin đặc biệt của nhà văn Trần Đông Đức, dịch từ công báo Đài Bắc Huyện Phủ, Trung Ương Xã Đài Loan. Toàn văn bản tin như sau.
Lời giới thiệu: Trong lúc dân Việt Nam trong nước chưa được quyền bàn tới những bí ẩn về chuyện Tổng bí thư ĐCS Việt Nam Nông Đức Mạnh là con của Hồ Chí Minh, thì tại Đài Loan - Nhân chuyến viếng thăm của Trần Phương, con ruột của Nông Đức Mạnh hiện đang làm trưởng uỷ hội dân tộc thiểu số, xử lý thường vụ quốc tế được báo chí Đài Loan đưa tin "Trần Phương, cháu nội của lãnh tụ Hồ Chí Minh" một cách rất bình thản.
Thông tin này coi cá nhân của Trần Phương như là một yếu nhân của Việt Nam đã đến Đài Loan hai lần và người đó là con của Nông Đức Mạnh.
Có dư luận cho rằng Nông Đức Mạnh cũng đã từng để báo chí ngoại quốc "bắn tiếng" giùm có quan hệ cha con với Hồ Chí Minh và sử dụng lá bài huyền thoại tinh thần để đạt được mục tiêu chính trị. Đến đời con cháu cũng làm tương tự.
Báo chí Đài Loan không để ý hoặc cố ý nhấn mạnh chuyện Nông Đức Mạnh là con ngoại hôn của Hồ Chí Minh. Chúng tôi xin dịch bản tin này lưu trữ lại trong website của huyện phủ Đài Loan từ tháng trước. Mọi suy đoán về nhân vật Trần Phương, dụng ý và tham vọng của cha con Nông - Trần xin giành cho độc giả. Chúng tôi hy vọng có nhiều nhân sĩ trong nước sẽ kiểm chứng được thông tin về con cái của Nông Đức Mạnh và chức vụ họ đang nắm tại Việt Nam.
Khi dịch bản tin chúng tôi không có tư liệu để rà soát tên chính xác của bộ phận cơ quan và chức vụ mà Trần Phương đang nắm giữ, chỉ mô phỏng địa vị theo bản tin Hoa Ngữ.
Bản tin của Trung Ương Xã, do ký giả Hoàng Húc Thăng tại Đài Bắc Huyện Phủ báo đề ngày 24/09/2004.
Cháu nội của Hồ Chí Minh, Trần Phương tới thăm Huyện Phủ Đài Bắc quan sát sự phát triển thành thị.
Trần Phương, xử lý trưởng uỷ ban dân tộc thiểu số, xử lý thường vụ quốc tế của Việt Nam hôm nay (09/24/2004) đã tới thăm huyện phủ Đài Bắc. Phó huyện trưởng Tăng Tham Bảo tiếp đón và giới thiệu kinh nghiệm phát triển của huyện Đài Bắc. Trần Phương là con của hiện nhiệm tổng bí thư Nông Đức Mạnh, là nhân viên tiếp ban chính trị góp ý trợ giúp cho phụ thân của mình. Ông nội của Trần Phương là Hồ Chí Minh, lãnh tụ tinh thần của Việt Nam. [Tha đích tổ phụ thị Việt Nam tinh thần lãnh tụ Hồ Chí Minh].
Trần Phương nói rằng vài năm gần đây, người ngoại quốc đầu tư tại Việt Nam như thương nhân Đài Loan tỉ lệ rất cao. Ông ta nói rằng chính phủ Việt Nam đặc biệt chú ý đến ba hạng sản nghiệp như cơ giới, điện tử và nông nghiệp. Đối với hoàn cảnh đầu tư tại Việt Nam, cần nhà cầm quyền tại Đài Loan có lòng tin, và Trần Phương còn có ý muốn mời thủ trưởng huyện phủ Đài Bắc đến viếng thăm Việt Nam.
Trần Phương đến Đài Loan lần này là lần thứ hai. Ông ta nói: làng thôn Việt Nam còn quá bần cùng, so với sự giàu có của nông dân Đài Loan. Cho nên đặc biệt tới đất này để quan sát tận mắt.
Tăng Tham Bảo kể rằng, trước kia còn làm trong bộ kinh tế, ông ta đã từng tới Việt Nam, đối với hoàn cảnh đầu tư ổn định (tại Việt Nam), trước mắt (Đài Loan) đã có nhiều dự án rất thành công.
Qua những lời giới thiệu, Trần Phương hiểu rõ khái lược về huyện phủ Đài Bắc, chuyến đi này theo ông là tới Đài Loan cốt để học hỏi. Sau khi về nước, sẽ dự tính tuyển chọn một thành thị nào đó học tập theo hướng đi của Đài Bắc huyện phủ.
***Ghi chú của người dịch: Huyện Phủ Đài Bắc bao gồm cả thành phố Đài Bắc, thủ đô của Trung Hoa Dân Quốc tại Đài Loan. Việt Nam cũng như nhiều nước không có ngoại giao với Đài Loan mà thừa nhận Đài Loan là bộ phân của Trung Quốc theo sức ép của Trung Cộng
http://vn.360plus.yahoo.com/theodore-roosevelt/article?mid=26&fid=-1
SBTN: Đài Loan Loan Tin Cháu Nội Hồ Chí Minh Thăm Đài Bắc
Date: Aug 05,2010 06:20 pm
Tin Đài Bắc - Hồ Chí Minh có vợ con, không phải là chuyện bí mật đối với các sở tình báo Trung Cộng, Đài Loan, Liên Xô. Điều này đã được viết trong nhiều sách và tài liệu, mặc dù còn bị bưng bít ở Việt Nam. Trong tuần qua tờ Công báo Đài Bắc đã loan một tin cho biết cháu nội của Hồ Chí Minh thăm viếng Đài Loan, khi cho rằng Trần Phương là con ruột của Nông Đức Mạnh hiện đang làm trưởng uỷ hội dân tộc thiểu số, xử lý thường vụ quốc tế đã đến thăm đảo quốc này, mà báo chí Đài Loan gọi họ Trần là cháu nội của lãnh tụ Hồ Chí Minh một cách rất bình thản.
Báo chí Đài Loan không để ý hoặc cố ý nhấn mạnh chuyện Nông Đức Mạnh là con ngoại hôn của Hồ Chí Minh, chỉ nói Trần Phương tới thăm Huyện Phủ Đài Bắc quan sát sự phát triển thành thị, và đã được Phó huyện trưởng Tăng Tham Bảo tiếp đón và giới thiệu kinh nghiệm phát triển của huyện Đài Bắc. Bài báo viết rõ ông nội của họ Trần là Hồ Chí Minh, lãnh tụ của đảng Cộng sản Việt Nam. Họ Trần tuyên bố vài năm gần đây, người ngoại quốc đầu tư tại Việt Nam như thương nhân Đài Loan tỉ lệ rất cao, và nói nhà cầm quyền Việt Nam đặc biệt chú ý đến ba hạng sản nghiệp như cơ giới, điện tử và nông nghiệp.
Đối với hoàn cảnh đầu tư tại Việt Nam, cần chính phủ Đài Loan có lòng tin, và Trần Phương còn có ý muốn mời thủ trưởng huyện phủ Đài Bắc đến viếng thăm Việt Nam. Trần Phương đến Đài Loan lần này là lần thứ hai. Mới đây một người con khác của Nông Đức Mạnh là Nông Quốc Tuấn đã được đưa lên làm Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Bắc Giang, phụ trách công tác xây dựng Đảng. Đây là khu vực đã diễn ra cuộc biểu tình của hàng chục ngàn người chống lại Công an, khi chúng lợi dụng quyền lực đã đánh chết một thanh niên tại địa phương chỉ vì lái xe không đội nón an toàn. (HCM, XXXVI )
IV. KẾT LUẬN:
Hồ Chí Minh là người Tàu cho nên được người Tàu bảo vệ. Không đời nào một đại sứ Trung cộng lại làm thư ký, làm đầu bếp cho một tên Việt Nam. Hơn nữa giờ chót, ông Hồ rõ là thích nghe điệu ca tiếng Hoa chứ không yêu điều hò Huế, hay dân ca Thanh Nghệ Tĩnh... Báo chí Trung Quốc,. kể cả tin tức Đài Loan tất nhiên đáng tin cậy hơn là những tay gian nịnh, bợ đỡ như Trần Hoàn,Nghệ sĩ Quỳnh Hoa..
Điều này là bí mật của cộng sản nhưng Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Trần Độ, Nguyễn Kiến Giang, Bủi Tín... đều không dám tiết lộ. Nhưng bàn tay không che nổi mặt trời..
Tin này đã được đài SBTN và các blog loan báo, trong khi đảng Cộng sản Việt Nam im lặng. Năm 2008, Hồ Tuấn Hùng tiết lộ rằng Hồ Chí Minh là Hồ Tập Chương người Miêu lật Đài Loan được Trung Cộng đưa về làm lãnh tụ đảng Cộng sản để tiện bề thôn tính VIệt Nam. Việt cộng lúc đó cũng im lậng. Nếu thiên hạ nói sai thì bọn họ mồm năm miệng mười chửi bới um sùm. Cũng như lần trước, GS Lê Hữu Mục tố cáo bác "cầm nhẩm" Ngục Trung Nhật Ký của một ai đó mà họ im lặng rất lâu.Cổ nhân nói " Danh bất chính tắc ngôn bất thuận". Dối trá nhưng khi bể mánh thì rất ngượng ngùng, khó nói.....
Trich Nguyễn Thiên Thụ
HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ
HỒ CHÍ MINH MYTHS AND MASKS,
HỒ CHÍ MINH, THE LAST DAY
In 2008, in a book entitled "胡志明生平考 Hú zhì míng sheng píng kăo (Hồ Chí Minh' Life), 胡俊熊 Hú jùn xióng affirmed that Nguyễn Ái Quốc had died, and Hồ Chí Minh was a Chinese named Hồ Tập Chương 胡集璋 Hújízhang. He belonged to the 客家 kè jia ( Hakka) race, a minoriry in Miêu Lật 苗栗 miáo lì,Đồng La 銅鑼 tóngluó in Taiwan, and he was the same family with Hú jùn xióng .
Vietnamese Communists kept silent , but they tried many times to prove that Ho Chi Minh was a Vietnamese in the news about The last day of Hồ Chí Minh.
I. VIETNAMESE COMMUNISTS TOLD LIE
+ Ms Quỳnh Hoa wrote an article entitled " Uncle Hồ 's love for the Vietnamese folksongs" : In the last day, Hồ wanted to hear the folk songs, so Ms. Ngô Thị Oanh, a nurse, sang a song of Quan Họ, "Người ơi người ở đừng về" (Please stay here, don't leave us"! (HCM, XXIV)
II. CHINESE NEWSPAPER REVEALED THE SECRET
A Chinese newspaper recounted the last day of Hồ Chí Minh in an article entitled "Former Chinese Ambassador and Individual Secretary of Ho Chí Minh lived with Hồ to the end of his life ". This person was Trương Đức Duy who worked beside Hồ Chí Minh as a translator, and a cook from 1967 to the end of Hồ's life.He followed Hồ from Vietnam to Chinese hospital in Peking. The group of Chinese physicians and nurses always stood near Hồ 's bed. Hồ asked a Chinese nurse sing a song. She sang " Praising Socialist scociety".After hearing that song, Hô died.(HCM,XXIII )`.
In an article entitle" Where is the truth", Mẹ Nấm recited her state of mind when she was a school girl, and hear the song entitled " Uncle Hô sayings before he goes away" by Trần Hoàn . This song had rooted from a story:" Before Uncle Hồ died, he wanted to hear a folksong, consequently, Ms. Ngô Thị Oanh sang the song " Người ơi người ở đừng về" with happiness and tears!
http://bbp.bienphong.com.vn/nd5/detail/trang-nhat/ho-so-tu-lieu/chuyen-ke-rang-truoc-luc-nguoi-di-xa/36888.001055.html
But later, she read an article entitled "Three times Uncle laughed before he went away" in the Journal of People Army:"I am a head nurse in an hospital in Peking, in charge of care for the health of Chou En-lai. Later I was in charge of care for Hồ Chí Minh. Unfortunately, Hồ 's health became worse. At the last time, he said he wanted to hear a song. Everybody pushed me, so I sang a song...After hearing that song, he smiled and hold my hand and said thank you. That was the third time and the last he smiled.
http://www.qdnd.vn/QDNDSite/vi-VN/61/43/242/242/242/101538/Default.aspx (HCM, XXV)
Those news gave us a lot of useful information.
+Vietnamese communists were the liars.
+At the end of his life, Hồ heard a Chinese song, not a Vietnamese song. And at the end of Hồ 's life, he was surrounded by a lot of Chinese, especially Hồ was served by a Chinese ambassador . That event proved that Hồ Chí Minh was a Chinese, so he was protected to the end of his life by the Chinese government in order to keep their secrecy. Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Trần Hoàn surely knew the truth.
III. About Hồ Chí Minh grandchildTaipei 04:52 24-01-2010: A grandchild of Hồ CHí Minh, Trần Phương, cam to Taipei to visit his family.
http://vn.360plus.yahoo.com/theodore-roosevelt/article?mid=26&fid=-1
http://www.sbtn.net/default.aspx?LangID=38&tabId=193&ArticleID=51194&Page=1 (HCM, XXXVI )
With those events and a lot of evidence, we can conclude that Hồ Chí Minh was a Chinese. It was a plot arranged by the Chinese communist party and the Komintern in order to occupy Vietnam. Its consequence was clear when Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng signed the agreements selling our country to China.
The body of Hồ Chí Minh also had trouble. In the war, Vietnamese communists had to move it into the mountain. How about this body in such condition? If it was destroyed, so the body in Ba Đình was a body of another man, a Chinese or a Vietnamese? or a fake corpse made of wax?
In future, by the study with DNA, the study of appearance, characters, and the memoir of the senior communists, we will understand the total truth.
No comments:
Post a Comment