Thursday, October 27, 2016

THICH QUẢNG ĐỘ - QUANG DŨNG - BẾN XE MIỀN ĐÔNG

TIN PHẬT GIÁO

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/reverend-tqdo-resigns-09022013085802.html

Hòa thượng Thích Quảng Độ đảm nhận lại chức vụ

Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok
2013-09-04
Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ tại Thanh Minh Thiền Viện
Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ tại Thanh Minh Thiền Viện
RFA files
Nghe bài này

Đệ ngũ Tăng thống Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, đại lão hòa thượng Thích Quảng Độ, vào ngày 3 tháng 9 chấp thuận trở lại đảm nhận trách nhiệm đứng đầu giáo hội sau khi quyết định từ nhiệm hồi ngày 30 tháng 8 vừa qua.
Gia Minh hỏi chuyện hòa thượng Thích Không Tánh, trụ trì chùa Liên Trì ở Sài Gòn về tin đó, và trước hết vị hòa thượng này cho biết.

Hòa thượng Thích Không Tánh: Sáng ngày hôm qua, hòa thượng Viện trưởng Viện Hóa Đạo cùng chư tôn đức trong Hội đồng Giáo Phẩm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất cùng đến Thanh Minh Thiền Viện cùng đến để vấn an cũng như đảnh lễ, dâng lời tác bạch để thỉnh cầu Ngài Thích Quảng Độ, đệ ngũ Tăng Thống tiếp tục trọng nhiệm Tăng Thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, cũng xin cung thỉnh Ngài vì tiền đồ của Đạo Pháp, Dân tộc Ngài lèo lài con thuyền của Giáo hội và công cuộc giải trừ pháp nạn và quốc nạn cho đến thành công viên mãn.
Khi các chư tôn đức Hội Đồng Viện đều đến đảnh lễ, thỉnh an Ngài; sau ba lần thỉnh cầu, Ngài đệ ngũ Tăng Thống đã hoan hỷ và hứa sẽ lãnh đạo để lo Phật sự của giáo hội.

Có một số quí Phật tử, thân hữu nóng lòng trước tin từ nhiệm của Ngài, nên chúng tôi gửi tin đó đi để Phật tử trong cũng như ngoài nước được an tâm, đồng thời cùng nhau cầu nguyện để tiếp tục hộ trì cho giáo hội trong công cuộc để làm sao đất nước Việt Nam có được sự đa đảng, đa nguyên cũng như dân chủ, tự do nhân quyền thực sự, đích thực và sớm giải trừ quốc nạn cũng như pháp nạn.
Khi các chư tôn đức Hội Đồng Viện đều đến đảnh lễ, thỉnh an Ngài; sau ba lần thỉnh cầu, Ngài đệ ngũ Tăng Thống đã hoan hỷ và hứa sẽ lãnh đạo để lo Phật sự của giáo hội
Hòa thượng Thích Không Tánh
Gia Minh: Lâu nay sự quản chế đối với Ngài có gây ra trở ngại gì trong vấn đề thực hiện trọng trách của Ngài đối với giáo hội?

Hòa thượng Thích Không Tánh: Xuyên suốt từ bao nhiêu chục năm qua, kể từ thời của Ngài Đệ tứ Tăng Thống- Đại lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang cho đến bây giờ là Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ, giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất bị chế độ Cộng sản tước đoạt pháp lý sau khi họ chiếm miền nam Việt Nam. Họ tiến hành triệt tiêu cho được Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất.
Lập trường của giáo hội lúc nào cũng gắn liền với quê hương, đất nước và đạo pháp; thành ra họ lập nên một giáo hội Phật giáo Việt Nam là giáo hội thừa sai để điều khiển, đồng thời chịu dưới hệ thống Mặt Trận Tổ Quốc cũng như Ban Tôn giáo của Nhà Cầm quyền. Quí Ngài vì đất nước, vì đạo pháp nên đã dấn thân cố gắng nhiều lần đòi hỏi, yêu cầu nhà cầm quyền Việt nam phải trả lại pháp lý, tài sản của giáo hội.
Có nhiều ban đại diện tại nhiều tỉnh cũng đã phục hoạt với giáo hội nhưng rồi chế độ vẫn đàn áp. Chính vì vậy quí Ngài vì lãnh đạo giáo hội nên phải hy sinh lúc nào cũng bị quản thúc, quản chế, tù đày. Trước đây cũng đã đày ải đưa đi giam cầm ở những nơi phương xa, sau này vẫn tiếp tục bị quản chế, cô lập, canh gác, bao vây. Nhưng các Ngài vẫn nhất quyết dốc một lòng cho đạo pháp và dân tộc.
Tuy bị cô lập, canh gác, bao vây như vậy nhưng các Ngài vẫn một lòng làm việc. Làm việc trong âm thầm và trong sự cố gắng trước gọng kìm của chế độ. Các ban đại diện cũng bị đàn áp, khủng bố nhưng các chư tôn đức cũng vẫn cố gắng bằng cách này hay bằng cách khác nói lên tiếng nói của mình để góp phần xây dựng, đóng góp cho dân tộc, đất nước.
Đương nhiên phải gặp nhiều khó khăn. Nhiều người nói các Ngài bị quản chế, canh gác vậy mà sao vẫn làm việc, điều hành. Tuy bị canh gác, bao vây, nhưng một số chư tôn đức vẫn cứ liên lạc, thăm viếng, vấn an, thăm hỏi dưới sự theo dõi, kèm sát của công an. Như ngày hôm qua ngài Viện trưởng Viện Hóa Đạo Thích Viên Định cũng như chúng tôi và quí chư tôn đức trong Hội đồng Viện đến vấn an Ngài, khi đi cũng bị công an đi theo, giám sát tạo sự sách nhiễu. Tuy nhiên quí Ngài vẫn cứ con đường chánh đạo Phật sự mình cứ làm thôi.
Nhiều người tuyên truyền nếu nói bị bao vây mà sao vẫn làm việc được, như thế chứng tỏ cộng sản đâu có đàn áp. Sự thực vẫn có đàn áp, bao vây, cô lập nhưng quí Ngài vẫn cố gắng để thừa hành Phật sự của giáo hội bằng cách này hay bằng cách khác như qua văn thư, điện thoại, cũng có thể là thăm viếng. Việc bao vậy, cô lập sau này lịch sử sẽ biết rõ.
Gia Minh: Trong muôn vàn khó khăn như thế, và đây có phải là dịp để làm thanh sạch giáo hội thêm nữa không thưa Hòa Thượng?
Hòa thượng Thích Không Tánh: Ngài Tăng thống có uy tín và đạo đức. Trước những dư luận, những thỉnh nguyện thư, cáo giác; trong thời gian qua Ngài Tăng Thống muốn giáo hội khỏi phải tai tiếng để giáo hội có sự trong sạch và uy tín đối với thế giới cũng như quần chúng Phật tử. Ngài luôn kêu gọi lấy đạo đức, giới luật lên làm đầu để tạo sự trang nghiêm cho giáo hội; chính vì vậy trong tương lai Ngài sẽ có những quyết định, hay giáo chỉ cho toàn thể quí Phật tử và các cấp của giáo hội để thực hiện.
Gia Minh: Cám ơn hòa thượng Thích Không Tánh.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/th-a-do-revok-resigna-09042013081525.html


 

VŨ TỪ TRANG * NHÀ THƠ QUANG DŨNG


 

NHÀ THƠ QUANG DŨNG, NHƯ TÔI  BIẾT 
 

    Hồi  ấy, gia đình ông ở căn phòng gác ba ngôi nhà cuối đường Bà Triệu. Lối lên gác là cầu thang nhỏ. Đã thế, nhà đông hộ, nhiều chai lọ, rổ rá xếp dọc lối lên, thành ra cầu thang càng nhỏ hẹp. Tôi không hình dung nổi, cứ nửa đêm, ông xuống nhà xách hai thùng nước ở góc sân tầng một, dáng ông to lớn thế, đi lên làm sao được?.
    Không chỉ những người ở chung số nhà, mà cả mấy ông bà hàng xóm cũng phải khen ông chịu khó. Ngày ngày, tờ mờ sáng, đã thấy ông chạy bộ vào công viên tập thể dục. Đi tập thể dục, ông cầm theo cái bao tải cũ. Chả là, tập xong, ông  quét lá khô lèn chặt bao tải to kềnh, vác về nhà làm đồ đun. Ngày đó, Hà Nội còn đun bếp dầu, than tổ ong, chứ chưa có bếp điện, bếp ga như thời nay. Nhà ông đông con, lại nghèo, lấy đâu tiền để mua đủ dầu đun. Ông quây góc nhỏ sân thượng thành cái bếp. Đến bữa, ông bà lúi húi đun nấu ở đó. Lá quét về, có lá khô lẫn lá tươi,  bếp khói mù mịt, nước mắt giàn giụa. Nhưng vẫn thấy ông hồn nhiên cười. Theo ông, có lá đủ đun cơm, đã là hạnh phúc lắm rồi.
 
    Xong việc vặt giúp gia đình, ông tiếp tôi trên tấm phản gỗ đặt trệt trên sàn nhà. Tấm phản dùng lâu, lên nước đen bóng. Ông nói là của thừa tự. Trên tấm phản ấy, đã mấy kiếp người đi qua. Từ đời ông nội, đến cụ thân sinh ra ông, rồi ông và các con ông dùng. Ông quý tấm phản đó lắm. Nó là đồ vật xem ra có giá nhất nhà, cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Nó giúp ông nằm nghỉ, ngồi uống nước, làm nơi tiếp khách. Ông thường gò lưng xuống tấm phản này làm bàn viết. Bao câu thơ, đoạn văn, tranh vẽ... mà theo ông, thì đấy là "trò chơi vui" đã được diễn ra trên tấm phản này. Của đáng tội, hồi đó thì có vẻ quý. Chứ ngày nay, xét giá trị vật chất, nó chẳng đáng bao. Mặt ván ghép đôi ghép ba, có góc hình như đã bị mọt ăn hoặc chó mèo gặm. Tuy vậy, nhớ ông, tôi lại nhớ tấm phản gỗ ấy. Không biết  bây giờ, gia đình ông còn giữ được không, hay đã thất tán đường nào rồi.
    Ông mời tôi bát nước chè xanh ủ khéo. Cái bát uống nước là bát ăn cơm phân phối bao cấp. Men rất xấu, nhưng độ ấy là quý rồi. Ông có tài ủ chè xanh. Nom to lớn như ông Tây, vậy mà ông lại thích uống nước chè xanh, uống nước vối và thích ăn khoai lang, khoai sọ, hạt mít luộc. Nếu uống nước chè xanh, có thêm thanh kẹo lạc, hoặc cái kẹo bột thì sướng vô cùng. Đời người khác, nhiều thứ cao lương mỹ vị, chứ với ông, thú vui ẩm thực giản dị và đạm bạc có vậy thôi.
    Ngày ấy, Hội văn nghệ Hà Nội làm tập thơ tuyển, nhà thơ Hoài Anh đi tập hợp bài vở. Bài thơ "Những làng đi qua" của ông chép nhoè nhoẹt, được Hoài Anh mang về in vào tập thơ tuyển. Thế là bài thơ được công bố sau thời gian dài ngủ yên trong sổ tay của ông. Với ông, in hay không in, không quan trọng. Thú, thì viết. Viết cho mình đọc, là thú rồi.
    Nhờ sự ngẫu nhiên này, bạn đọc được biết thêm một tác phẩm hay của ông. Bài thơ có rất nhiều câu thần thái. Nó  phác hoạ được Hà Nội những năm kháng chiến với những nét đáng yêu.
 
    Tôi hỏi ông với ý muốn được đọc tiếp các bài thơ khác trong sổ tay của ông. Ông cười rất lành. Ông cũng không có cả cuốn sổ tay riêng để chép thơ. Đôi ba bài thơ được ông ghi lẫn vào sổ mua gạo, mua mắm, hoặc sổ ghi công việc cơ quan. Ông lại là người không có thói quen thuộc thơ của mình. Viết thơ, viết hết mình, rồi lại quên đi. Thỉnh thoảng, bạn bè thân có chép lại, hoặc nhẩm thuộc, là lưu lại được. Ông viết văn cũng vậy, cứ dập dập xoá xoá. Viết rất kỹ. Rồi gửi báo, hoặc nhà xuất bản, chứ không lưu giữ cho mình bản nào. Ông có thú vui vẽ tranh. Vẽ sông núi, con đường, vệt nắng, con trâu, con bò ngẩn ngơ bên sườn đê... Tôi nhớ là ông có bức tranh vẽ cây gạo rất đẹp. Cây gạo già nua đứng giữa cánh đồng quạnh hiu, tưng bừng nở hoa đỏ. Xem tranh, tôi liên tưởng tới sức sống lặng lẽ, mà quyết liệt của một thân phận con người. Không biết bức tranh ấy bây giờ ở đâu? Ai  giữ bức tranh này?.
    Ông vốn nghèo. Không có tiền mua sơn dầu hoặc chất liệu đắt tiền. Ông chỉ vẽ bằng bột màu, màu nước, loại chất liệu rẻ tiền cho các hoạ sỹ nghèo. Ấy thế, tranh của ông vẫn có vẻ đẹp lung linh đến lạ.
    Vẽ tranh, với ông cũng chỉ là thú chơi. Có chút gì đó tài tử. Nhưng qua tranh, đã giải toả tinh thần ông rất nhiều.
    Tôi còn nhớ, ông Thuật - một người bán sách cũ tinh đời ở Hà Nội ( giới văn chương chữ nghĩa, một thời, nhiều người biết ), có lần nói về văn thơ của ông Quang Dũng: "Cái ông ấy, viết chữ nào ra chữ ấy. Nó như kẹo bột, như nước chè xanh, đố mà lẫn được!".
    Tôi thuộc bài thơ "Mắt người Sơn Tây" từ rất lâu, trước khi được gặp ông. Bài thơ do một anh bạn làm thơ cùng quê Kinh Bắc chép tặng. Thời đó, bài thơ đâu có được in công bố. Nhưng chính với bài thơ ấy, tôi phải quyết đi tìm gặp ông. Thơ ông, đôi lúc, làm chấn động đời sống tinh thần của tôi.
*
*            *
    Xét về sự xuất hiện trên văn đàn, có thể xếp Quang Dũng vào lớp nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp (mặc dù, Quang Dũng là người sáng tác thơ rất sớm, từ những năm 1937 - 1938).
    Đặc điểm chung của thơ ca trong thời kỳ chống Pháp, là hào hứng phản ánh không khí sục sôi của cách mạng. Dòng chảy cách mạng đã cuốn hút mạnh mẽ cảm xúc các nhà thơ. Lý tưởng cao cả của nhà thơ là phục vụ cho sự nghiệp đấu tranh của dân tộc. Với nội dung phản ánh mới mẻ, thơ ca đã có những hình thức biểu hiện mới.
    Tuy nhiên, trong những năm đầu cách mạng, thơ còn mang tính ước lệ. Thơ ca lúc này, vừa mang  cảm hứng dào dạt của cách mạng thắng lợi  , lại vừa mang không khí bỡ ngỡ của những con người vừa từ tăm tối choàng ra ánh sáng. Thơ giai đoạn này còn thiếu những hình ảnh cụ thể về cuộc sống và con người mới.
    Dần dần, hình ảnh người chiến sĩ ngoài mặt trận, người du kích, người dân công, bà mẹ kháng chiến, , em bé giao liên đã được ghi đậm nét trong thơ qua các thời kỳ kháng chiến. Tình quân dân, tình đồng đội , tình đồng chí, đồng bào... đã dần trở thành những đề tài thường gặp .
    Thơ thời kỳ kháng Pháp thường hướng về cái chung, cái chúng tôi, ít đề cập đến cái tôi, cái cá nhân. Trong thơ thường thấy ùng oàng súng đạn, thấy bước hành quân rầm rập, thấy tiếng hát hò... mà ít thấy nỗi niềm, tâm trạng. Cái mạnh của thơ ca thời kỳ này, là sự có mặt kịp thời, động viên cổ vũ kịp thời. Cái sôi nổi, hào hùng thì có, nhưng cái suy tư, lắng đọng thì ít.
    Ngay thời kỳ đầu xuất hiện, Quang Dũng đã tìm cho mình cách thể hiện riêng. Bên cạnh cái chúng tôi, chúng ta, nhà thơ đã mạnh dạn khai thác cái tôi cái ta. Con người cá nhân thường hiện rõ trong thơ của ông. "Tây Tiến" là bài thơ viết về cái chung, nhưng nó lại có tâm trạng rất riêng. Đó là cuộc hành quân oai hùng và gian khổ. Nhà thơ đã phác hoạ vẻ đẹp hào hùng và bi tráng, niềm vui và nỗi buồn của người chiến sĩ.   Khi các nhà thơ mới chỉ khai thác vẻ đẹp hào hùng của công việc, thì Quang Dũng đã khai thác tâm lý, tình cảm của con người trước công việc.
      Ông không viết thơ chính luận, không đưa triết lý cao siêu vào thơ. Cái mạnh của thơ Quang Dũng, là cảm xúc mạnh và nồng ấm. Ngôn ngữ thơ ông giản dị, mộc mạc; nhưng lấp lánh, hào hoa. Thơ Quang Dũng là dòng thơ hướng nội. Ông ít quan tâm đến cách tân hình thức, không chủ trương tạo sự cầu kỳ rắc rối ngôn từ. Nhưng thơ ông vẫn trẻ, vẫn mới.
    Thơ Quang Dũng thường nghiêng về tả. Qua tả, để giãi bày cái tình của mình. Ông có biệt tài về tả. Bài thơ "Những làng đi qua" của ông là bức tranh thật đẹp về quê hương những ngày kháng chiến: Bằng con mắt quan sát tinh tế, chân mộc và chứa chan cảm xúc.
          Nhớ  buổi trung đoàn ta ra đi
          Tháng chạp màn sương trùm đất nước
          Gió  mùa, chết héo mạ non xanh
          Sương muối thấm vào bao đạn ướt
    Cảnh trong thơ Quang Dũng không phải là cảnh khô cứng, nó có sức sống cuồn cuộn ở bên trong:
          Những làng trung đoàn ta đi qua
          Tiếng quát dân quân đầu vọng gác
          Vàng vọt trăng non đêm tháng chạp
          Nùm rơm - khói thuốc - bạch đầu quân
          Tự vệ xách đèn chai lối xóm
          Khuya về chân khoả vội cầu ao
          Nghe tiếng sung rơi miệng chiến hào
          Bờ tre cây rơm thôi tịch mịch
          Vỡ lá bàng khô bước du kích
    Đây là khổ thơ tài hoa của ông. Ông là người yêu làng quê, hiểu nếp sống và tập tục của người dân các xóm làng. Nùm rơm, đèn chai, cầu ao… Đó là những vẻ đẹp của làng quê thuần Việt. Ở cái làng quê đẹp và yên bình kia, cuộc sống vẫn cuộc chảy dồn dập. Dân quân ngoài trạm gác, các cụ bạch đầu quân  ngồi bên nùm rơm hút thuốc lào. Cô tự vệ đi tuần về, tay xách đèn chai (thứ đèn làm bằng thân cái chai, che gió rất tốt ) ra cầu ao khoả chân. Sau cái sôi động, dồn dập kia, vẻ đẹp thanh bình của thôn xóm lại hiện ra. Tiếng quả sung chín rơi rụng bên chiến hào. Tiếng bước chân du kích đi về trên ngõ đầy lá rụng "Vỡ lá bàng khô bước du kích". Phải thấm sâu hồn quê, thấm sâu hồn kháng chiến như thế nào, ông mới vẽ nổi bức tranh đẹp và quý như vậy.
          Những làng trung đoàn ta đi qua
          Lều chợ bay tro đêm lửa trại
          Rạ thui bò khét cổng làng sau
          Gạo thổi cơm sôi thơm ngõ ruối
    và: 
          Buồng chuối tiễn quân em mới cắt
          Nhựa cây còn tuôn như sữa vắt.
    Đây là những câu thơ kỳ tài. Nó hay, không chỉ ở cái vẻ đẹp bên ngoài,  mà còn bởi hồn vía bên trong các con chữ.
          Những là trung đoàn ta dừng lại
          Tiếng nêu đưa khánh dưới mưa phùn
          Hương đen ngũ quả, màu tranh Tết
          Câu đối mực tàu bay xạ ngát
          Cột nhà tre trúc giãi gan vàng
 
          Mang câu đối đỏ niềm son sắt.
     Sinh thời, nhắc đến "Những làng đi qua" nhà thơ Quang Dũng rất tâm đắc với hai câu:
          Chiều đến loa vang tin chiều sự
          Khêu bấc đèn con họp tiểu đoàn
    Ông thường nói: Cuộc chiến đấu ngày đó gian nan, vất vả, nhưng rất đẹp. Con người nhiệt tình, trong sáng, không biết thơ ca có thể hiện được điều ấy không?.
*
*      *
        Bài thơ " Mắt người Sơn Tây " của ông, thấy hiện diện rất rõ cái tôi của người viết:
          Tôi từ chinh chiến cũng ra đi...
          …Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm.
          …Tôi nhớ một thằng con bé nhỏ
          …Bao giờ tôi gặp em lần nữa
          …Còn có bao giờ em nhớ ta
    Bài thơ "Tây Tiến" không có một từ tôi hoặc ta nào, nhưng người đọc vẫn nhận rất rõ con người tác giả. Cái tôi và cái ta ở đây đã hoá thân trong cảm xúc, trong từng câu chữ. Một con người giàu cảm xúc, ý chí ngang tàng trước cái sống và cái chết, sự cứng rắn trước công việc và sự yếu mềm trước tình cảm... Cái tôi của tác giả, có pha màu “tiểu tư sản”, nó có đặc trưng rất riêng của Quang Dũng.  Chính vì thế, ở thời điểm đó, nhiều người không chấp nhận được dòng thơ này. "Tây Tiến" của Quang Dũng, "Ngày về" của Chính Hữu, một thời đã bị phê bình mạnh mẽ, là do vậy.
    Nếu lịch sử có nhiệm vụ ghi chép sự kiện của xã hội, thì thơ ca có sứ mệnh phản ánh tâm trạng của xã hội. Nhà thơ lớn, là người phản ánh được tâm trạng xã hội trong tác phẩm của mình.
                                                                 *
                                                              *     *
      Thơ Quang Dũng rất giàu nhạc điệu, giầu nét tạo hình. Mở đầu bài "Tây Tiến", ông viết:
          Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
          Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
          Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
    Ba câu thơ đầu là lối nói thật, giọng điệu giản dị. Nhưng câu thơ thứ tư "Mường Lát hoa về trong đêm hơi" thì thấy cái thần thái của nhà thơ. Khổ thơ tiếp theo, có âm điệu trập trùng, như nhịp đi của đoàn quân.
          (a) Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
          (b) Heo hút cồn mây súng ngửi trời
          (c) Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
    Câu thơ thứ tư của khổ thơ, như nhịp đi của đoàn quân xoải bước dài trên con đường bằng phẳng.
          (d) Nhà ai Phă Luông mưa xa khơi
    Đem giải mã khổ thơ này theo dấu bằng (-) trắc (/), thấy:  
                                   
          (a) /  
          (b)__   
          (c)__ /
          (d)__ __ __ __ __ __ __
    Mô hình biểu thị bằng trắc của khổ thơ, như biểu đồ mặt cắt của con đường hành quân. Khi trập trùng lên xuống, lúc xoãi ra bằng phẳng, nhịp nhàng.
    Thơ Quang Dũng,  mang nhiều tính lượng tượng hình.
          Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
          Kìa em xiêm áo tự bao giờ
          Khèn lên mang điệu nàng e ấp
          Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
          Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
          Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
          Có thấy dáng người trên độc mộc
          Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
    Thơ ở đây, như hoà quyện: nhạc, hoạ và vũ điệu.
          Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
          Quân xanh màu lá dữ oai hùng
          Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
          Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
    Sau cái khốc liệt, dữ dội, dồn nén của chiến tranh, để rồi lại bung ra chất lãng mạn rất người của lớp bộ đội kháng Pháp. "Tây Tiến" là bài thơ ngợi ca khí phách của một lớp người dấn thân quên mình cho Tổ quốc. Đó là tráng ca về những chàng dũng sĩ có lý tưởng. Bài thơ mang phong cách riêng biệt của nhà thơ.                                                        
                                                           *
*    *
    Sở trường của Quang Dũng, là viết thơ theo thể tự do. Trong tập thơ "Mây đầu ô" không có một bài thơ lục bát nào. Thơ của ông thường có dáng dấp thể hành, bài thơ thường dài, giọng điệu ngang tàng. "Tây Tiến" là bài thơ rõ nét nhất phong cách này.
    Ông có cách nói ngược rất duyên và tạo ra phong cách rất Quang Dũng. Ví dụ:
          Gió mùa chết héo mạ non xanh
    (Nhẽ ra, nếu nói thuận, thì :Mạ non chết héo vì gió mùa )
          Sương suối thấm vào bao đạn ướt
    (Nếu nói thuận, thì: Bao đạn thấm ướt vì sương muối).
          Tiếng quát dân quân đầu vọng gác
    (Nếu nói thuận, thì: Đầu vọng gác vang tiếng quát của dân quân).
    Câu thơ Quang Dũng thường ngắn gọn, xúc tích. Ông là người ít chú ý đến vần điệu. Nhưng thơ ông lại rất giàu hình ảnh. Hình ảnh trong thơ ông luôn gợi mở tâm trạng. Thử đọc khổ thơ “Chiều mưa núi” của ông:
          Kỳ Sơn mây kéo nặng
          Hoa trẩu rụng đầy đường
          ....
          Mưa dăng màn triền miên
                           ……
          Mưa bao giờ cho yên.
    Hoặc là cảnh thu quê:
          Ngồi đây vời tưởng đường quê hương
          Lúa đã xanh xanh mấy nẻo đường
          Cốm đã thơm mùi, hồng đã chín
          Ao sau vườn cũ nước xanh trong
    
          Long lanh bóng núi in sông biếc
          Buồn nhớ thương ai lòng hiu hiu
                                                                       
    Tâm hồn Quang Dũng khoáng đạt. Tuy là  người chỉnh chu hết mực với công việc, với gia đình, nhưng ông lại rất sợ sự gò bó, khuôn phép, máy móc. Ông là thi sĩ thích sự mênh mang, xê dịch.
          Mây ở đầu ô mây lang thang
          Ôi chật làm sao
          Góc phố phường
          Mây ở đầu ô
          Hẹn những chân trời xa lạ
    Một tâm hồn nồng hậu, luôn yêu cái đẹp bình dị:
          Xe ngựa bình yên leo dốc đỏ
          …Đình đổi quán sậy dựng phên lau
          …Tơi nón trung du em về đâu?
              "Bố Hạ"
    Có người nói thơ Quang Dũng ít tính thời sự. Nhưng thử hỏi tính thời sự trong thơ là gì? Nó là những con số, những sự kiện? Hay là những cảm xúc, trạng thái của con người mang dấu ấn xã hội trong mỗi giai đoạn? "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây", "Những làng đi qua"... chẳng đầy tính thời sự đó sao?!.
    Có người nói thơ Quang Dũng nặng về sự u buồn, hơn là cái tươi vui. Nhận định này không chính xác. Thơ Quang Dũng có bài lắng, trầm và gợi buồn. Nhưng không tiêu cực, uỷ mị.  "Người ta có quyền buồn, có quyền xài cái xa xỉ ấy, nhưng không có quyền bi quan". Câu nói của Nadim Hitmét rất đúng với thơ Quang Dũng. Viết chiến tranh khốc liệt, nhưng "Tây Tiến" không bi quan, mà luôn hướng về niềm tin cao đẹp.
    Quang Dũng làm thơ rất sớm. 16 tuổi,  đã sáng tác "Chiêu quân", 19 tuổi,  viết "Cố quận". Nếu ông có ý thức lưu danh, gửi đăng những bài thơ này kịp thời, thì chắc ông đã được xếp vào đội ngũ các nhà thơ trước cách mạng, như Xuân Diệu, Huy Cận, Tế Hanh... Ông không được may mắn trong việc in ấn, công bố, công nhận. Viết thơ năm 16 tuổi. Nổi tiếng với bài thơ "Tây Tiến" năm 28 tuổi. Nhưng xuất bản tập thơ riêng đầu tiên "Mây đầu ô" (Nhà xuất bản Tác phẩm mới, 1986) khi ông đã 65 tuổi. Trớ trêu thay, tập thơ này in xong, ông đã mắc bệnh nằm liệt giường, không thể đọc lại được những dòng thơ mình trên trang in, không còn ký tặng sách cho bạn bè được nữa.
    In ấn, công bố ít. Không đăng đàn diễn thuyết trước công chúng. Vậy mà thơ Quang Dũng vẫn được nhiều người biết đến.
     Nhờ không khí văn nghệ đổi mới và dân chủ, những sáng tác văn học của Quang Dũng được đánh giá lại đúng đắn và khoa học hơn. Nhà xuất bản Văn học, năm 1988, đã xuất bản tuyển tập văn thơ của Quang Dũng. Sau ngày Quang Dũng mất, Nhà xuất bản Hội Nhà văn đã xuất bản tập sách chuyên đề về Quang Dũng. Báo chí  in nhiều bài viết về sự nghiệp sáng tác của ông theo tinh thần khách quan.
    Những tác phẩm của ông, như "Tây Tiến", " Mắt người Sơn Tây" , cũng như những bài thơ "Bên kia sông Đuống" của Hoàng Cầm, như "Mầu tím hoa sim" của Hữu Loan…một thời bị coi là thứ thơ uỷ mị, tiểu tư sản. Nhưng đến nay, người đọc càng quý trọng và  đánh giá đúng giá trị của nó. Các tác phẩm này, đã được xếp hạng cùng các bài thơ hay của thời kỳ kháng Pháp, như "Tình sông núi" của Trần Mai Ninh, "Lên Cấm Sơn" của Tân Sắc, "Nhớ" của Hồng Nguyên…
    Thơ  ca, vốn ngợi ca cái đẹp bất tử của con người. Đó là tình yêu, sự sống, cái chết... Tuy vậy,  thơ Quang Dũng lại luôn quan tâm đến đè tài cụ thể. Một con đường mới mở, mùa trồng rừng, ngày giao quân... Những việc tưởng cụ thể và thô thiển, vậy mà vào thơ ông vẫn lung linh màu sắc. Ông ít viết thơ ngợi ca lãnh tụ. Nhưng ông lại có những khổ thơ với tình cảm thật đẹp.
          Nhớ buổi trung đoàn ta ra đi
          Trung ương còn đóng quanh Hà Nội
          Giầy vải Bác Hồ phơi bờ ao.
    Hiếm có nhà thơ nào viết về người lãnh tụ của dân tộc lại có cái nhìn giản dị và cao đẹp như thế. Giầy vải Bác giặt, phơi bên bờ ao, chi tiết giản đơn, nhưng vào thơ, nó đã khái quát tính cách người lãnh tụ. Quang Dũng có tài quan sát, tài phát hiện và tài biểu hiện. Nên thơ ông có nhiều câu thơ phát sáng như vậy.
    Nếu nói thơ ca hay ở giá trị chân thiện mỹ, thì thấy thơ Quang Dũng đã hướng về những giá trị đó. Ông sáng tác không chút vụ lợi. Quang Dũng không viết giả dối, không làm xiếc trên các con chữ. Ông viết bằng tấm lòng, bằng xúc cảm của ông. Chính vậy, những tác phẩm của ông đã sống với thời gian, lắng  sâu trong tâm trí người đọc.
    Cuộc đời nghệ sĩ vốn chấp nhận sự thăng trầm. Trong đời sống, Quang Dũng  nhiều phen chấp nhận sóng gió, chấp nhận sự không may mắn. Nhưng thơ lại ông luôn lấp lánh niềm tin trong sáng, yêu đời và lạc quan. Ham sống, ham đi, ham viết vẽ. Đó là tính cách của ông.
          Mũ hãy ngả cho nắng vàng mái tóc
          Túi bên vai trời hửng núi lên rồi
          Cột giây thép gió lùa qua rào rạo
          Hát lên đường, muôn dặm đường xa xôi.
     Quang Dũng không viết nhiều. Nhưng ông lại có nhiều tác phẩm sống vượt thời gian.
                                                               *
                                                            *      * 
    Tôi có được ở Mai Châu một đêm cuối thu. Mảnh trăng cuối tháng vằng vặc nổi chìm trong khí lạnh của núi rừng. Bản Mai Châu vẫn còn đầy vẻ thơ mộng và kỳ vĩ như bóng dáng câu thơ của ông thưở nào.
      Tôi lan man nghĩ, giá ngã ba đường vào bản Mai Châu, gắn biển chỉ đường với câu thơ Mai Châu mùa em thêm nếp xôi, hẳn làm xôn xao bao lòng du khách.
       Nhớ về ông, lại nhớ kỷ niệm ngày ông  về quê tôi chơi. Làng tôi, cái làng cổ vùng Kinh Bắc với nhiều tập tục lề lối cổ và nặng nề. Mấy bác cháu đạp xe đạp về đầu làng. Những mảng tường gạch rêu, những mái ngói thâm u, những con đường lát gạch nghiêng thập thững bước chân trâu, làm xôn xao cảm xúc trong ông. Nhưng niềm hứng khởi đó chưa được mấy phút, là bất ngờ đến với cả mấy bác cháu. Vào ngõ nhỏ dẫn về nếp nhà, thấy lốn nhốn người mặc áo xô trắng, chít khăn tang trắng. Nhà tôi có tang đột ngột ư? Không phải. Đó là đám tang cụ già hàng xóm. Tập tục quê tôi, nhà có việc hiếu, là ngồi nhờ cả mấy nhà sát kẽ ngạch. Ông trưởng nam nhà đám, vốn là dân trí thức theo cách mạng từ thời kháng Pháp, thuộc nhiều thơ Quang Dũng. Được gặp nhà thơ, dù đang đứng đáp lễ bên linh cữu người mẹ, ông đã vội chạy tới vái nhà thơ Quang Dũng ba vái. Bất ngờ thấy người vái mình, nhà thơ Quang Dũng cũng khiêm nhường cúi đầu vái lại. Ông trưởng nam liền đọc mấy câu thơ của nhà thơ, mà ông  thuộc từ thưở mặc áo lính:
                 Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
                 Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm…
    Giây phút ấy, mọi người và tôi  đứng cạnh, cảm động vô chừng . 
                                                                                          V.T.T


Bản tác giả gửi Phongdiep.net

Gửi email trang này cho bạn bè

VIỆT NAM NGÀY NAY * BẾN XE MIỀN ĐÔNG

Nạn "chặt chém" ở bến xe Miền Đông

Nhóm phóng viên tường trình từ VN
2013-09-02
Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
news-vn-305.jpg
Bến xe Miền Đông TPHCM
RFA photo


Người ở quê lên phố, chân ướt chân ráo, thường mang tâm lý sợ những chỗ sang trọng, sợ những quán ăn sạch sẽ, thoáng mát vì nghĩ rằng vào những quán đó sẽ không đủ tiền để trả và họ tìm đến những quán tạm bợ, quán lụp xụp bên vỉa hè với niềm tin là ít tốn tiền hơn. Nhưng trên thực tế, các quán dã chiến, lụp xụp gần bến xe Miền Đông, Sài Gòn có thể là cái lò chém khách bất kỳ giờ nào, đó là chưa muốn nói đến nguy cơ đang rình rập họ, bị ma cô, móc túi, cướp giật và cuối cùng trắng tay về quê.

Chặt chém không thương tiếc
Ông Trân Văn Hà, người Mộ Đức, Quảng Ngãi, đưa con vào Sài Gòn để chuẩn bị nhập học ở trường đại học kinh tế Sài Gòn, ngậm ngùi kể với chúng tôi rằng ngày hôm đó, sau khi bị chặt chém ở quán, chưa kịp hồi tỉnh thì phát hiện mình không còn thứ gì trong túi, mười một triệu đồng mang theo để trang trải và nộp học phí cho con đã không cánh mà bay, ông thiếu điều muốn tự tử, cũng may nhờ vợ con an ủi nên đã nguôi ngoai đôi chút.
Đó là cái ngày kinh hoàng nhất của ông Hà, cha con ông ra khỏi bến xe Miền Đông, đi lang thang tìm một quán ăn nhỏ để gọi hai dĩa cơm, trong dĩa cơm có một đùi gà và mấy cọng dưa cải. Đùi gà bị hôi thiu nặng, ông không thể ăn được, ông lấy một ít nước mắm trong lọ trên bàn chan vào cơm để ăn qua bữa. Ăn xong, gọi tính tiền, chủ quán là một phụ nữ trạc bốn mươi lăm tuổi, gương mặt dữ tợn, mi mắt xăm đen đậm, đến đưa cho ông tờ giấy ghi số tiền, ông tá hỏa vì trên đó ghi 240 ngàn đồng. Hai dĩa cơm nuốt không vào nhưng lại phải trả giá đắt bằng hai luống cải ông chăm bón cả tháng trời.
Ông thắc mắc, hỏi có tính nhầm hay không thì bị một đám ma cô kéo đến gây sự, chúng giằng co với ông chừng vài phút, sau đó bỏ đi. Ông móc ví ra trả tiền thì phát hiện chiếc ví đã không còn đồng nào. Lúc này, ông muốn ngất xỉu. Chủ quán nhìn ông một lúc rồi lên giọng đạo đức rằng thấy ông tội nghiệp nên cho luôn dĩa cơm, khỏi cần trả tiền cũng được.
khachrakhoiquananvoidangnaone-250.jpg
Một người khách vừa bước ra khỏi quán ăn khu vực BXMĐ. RFA photo
Ông bước ra đường Xô Viết Nghệ Tĩnh, đi lang thang như người mất hồn, một anh xe ôm đồng hương Quảng Ngãi thấy ông tội nghiệp, chở cha con ông về nhà nghỉ ngơi. Sau đó người đồng hương này cho ông mượn tiền trở về quê và hứa sẽ giúp con ông duy trì việc học trong giai đoạn đầu. Người đồng hương này nói thêm là anh ta đã nhìn thấy đám ma cô móc ví ông, lấy tiền rồi lại bỏ ví vào túi ông trong lúc gây sự, nhưng anh ta không dám nói, vì nếu nói ra, anh sẽ mất đường làm ăn và vợ con anh sẽ gặp nguy hiểm.

Tương tự trường hợp ông Hà, bà Nguyệt, người Tuy Phước, Bình Định, cũng đưa con vào Sài Gòn nhập học, đến bến xe Miền Đông, vì nghĩ rằng các quán nhỏ ven đường trong khu vực bến xe sẽ là nơi bán cho người lao động nghèo nên bà và con gái vào ăn cơm. Bà gọi bốn món ăn và hai phần cơm trắng, thức ăn không tài nào nuốt nổi vì ôi thiu. Đến khi tính tiền, chủ quán đưa cho bà tờ giấy ghi tổng số tiền là 390 ngàn đồng. Bà tá hỏa rút tiền ra trả gấp và bỏ đi. Cũng may cho bà Nguyệt không thắc mắc gì, nếu không, có khi đã rơi vào tình trạng giống như ông Hà.

Xe ôm, ma cô và công an khu vực đồng lõa với nhau
Một tài xế xe taxi hãng Mai Linh, tên Hoạt, thường đậu xe ở bến xe Miền Đông để đón khách, cảnh báo với chúng tôi rằng nạn chặt chém, cướp giật và chạy xe ôm đểu ở bến xe Miền Đông đã đến mức báo động đỏ, cần phải cẩn thận trước những ông tài xe ôm không có chân trong hợp tác xã vận tải Miền Đông, hay nói khác đi là không thuộc đội xe ôm bến xe Miền Đông, không mặc áo và đội mũ có gắn logo của bến xe Miền Đông.
Đã có nhiều người vào các quán cơm gần bến xe, bị chặt chém giá trên trời, sau đó bị móc túi hoặc bị xe ôm lừa chở đến các hẻm vắng rồi trấn lột. Thường thì những trường hợp này mất cả chì lẫn chài. Vì khi bị mất, nạn nhân tìm đến báo công an khu vực, đến đây, công an hứa sẽ điều tra, tìm cho ra đối tượng cướp giật, trấn lột và sẽ chấn chỉnh địa bàn. Công an khu vực cũng làm các thủ tục biên bản như thường lệ. Chỉ có một điều là mọi thủ tục này sẽ xếp vào tủ và bỏ cho mối xông, họ chẳng bao giờ ra tay điều tra hay chấn chỉnh gì cả.
Người tài xế taxi này cho biết thêm là công an khu vực đã toa rập với bọn ma cô, đầu gấu, bỏ lơ cho chúng mặc sức hoành hành, đến khi nào cần thi đua, khen thưởng gì đó thì bắt vài đứa chiếu lệ để lấy thành tích, đương nhiên việc bắt này chỉ dừng ở những đứa ma cô không có số má, thuộc hạng tép riu trong làng ma cô, có bị nhốt vài ngày rồi cũng được thả ra. Thường thì tất cả các quán ăn chặt chém khách và các ma cô đều có chung chi cho công an khu vực mỗi tháng, thế nên chúng lộng hành, không sợ ai cả vì đã được công an che chở, bảo kê.
tuoitre-250.jpg
Nạn chèo kéo khách khu vực Bến xe miền đông
Một tài xế taxi khác tên Hưng, thuộc hãng taxi Vinasun khuyên chúng tôi chớ bao giờ bước vào những quán cơm trong khu vực bến xe Miền Đông, vì phần lớn các quán cơm này bán thức ăn không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, chặt chém khách không thương tiếc và có thể gây sự, tranh thủ lúc cãi nhau để móc ví, lấy sạch tiền của khách. Sở dĩ có hiện tượng này vì công an khu vực ở đây đã cố tình làm ngơ cho nhóm bất lương này hoạt động để chia phần, hưởng tỉ lệ.
Những hàng quán này đã hoạt động khá lâu, những nhóm bất lương đầu trộm đuôi cướp cũng thế, nhưng chúng ít khi nào bị công an sờ gáy. Thường thì có một công an nào mới chuyển công tác đến khu vực này, các nhóm bất hảo tổ chức họp mặt, mời nhân viên công an này đến tham dự và nhét phong bì vào tay, gọi là lần chào gặp mặt đầu tiên. Những nhân viên từ chối quà của nhóm sẽ gặp nhiều khó khăn trong công tác, sẽ bị cấp trên, đồng nghiệp cô lập vì họ không xem là người cùng hội cùng thuyền. Chính vì thông lệ quái gở này mà hầu như 100% công an khu vực không sớm thì muộn cũng biến thành nhà bảo kê cho các nhóm bất hảo.
Đóng vai khách đi đường, chúng tôi ghé vào một quán cơm nằm hơi chéo phía đối diện cửa ra vào bến xe miền Đông, gọi ba dĩa cơm, đúng như lời đồn, thức ăn ôi thiu ngửi không chịu được. Vờ có điện thoại gọi đi gấp, yêu cầu tính tiền, chủ quán mang tờ giấy có ghi số tiền 360 ngàn đồng lên đưa chúng tôi. Mất 360 ngàn đồng để xác minh nguồn tin, xem như giá cũng không đắt lắm.
Bến xe Miền Đông là bến xe lớn nhất khu vực phía Nam, mỗi năm có hàng triệu lượt khách đến và đi qua bến xe này. Phần đông những khách đi qua bến xe là dân lao động nghèo, sự lớ ngớ, thiếu tự tin và luôn sợ những hàng quán khang trang vì giá đắt của họ vô hình trung trở thành điểm yếu để các nhóm bất hảo bày trò lừa gạt. Một khi đã dính vào các nhóm ma cô này, chỉ có một nước chạy duy nhất: Về quê cày ruộng, chắt chiu từng đồng để bù vào khoản đã mất và nỗi đau mất của.

No comments: