Thursday, October 27, 2016

HỒ CHÍ MINH LÀ NGƯỜI TÀU?- SẤM KÝ - ÂM NHẠC

PHẠM QUẾ DƯƠNG * HỒ CHÍ MINH LÀ NGƯỜI TÀU?

Đề nghị làm sáng tỏ vụ việc:

 Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Việt Nam hay Đài Loan

Phạm Quế Dương (Danlambao) - Gần đây, dư luận sôi động về việc Đài Loan xuất bản cuốn sách “Tìm hiểu về cuộc đời Hồ Chí Minh” (Hồ Chí Minh sinh bình khảo), do nhà xuất bản Bạch Tượng Văn Hóa ấn hành ngày 01-11-2008. Tác giả là Hồ Tuấn Hùng, giáo sư đã từng dạy học hơn 30 năm, tốt nghiệp trường Đại Học Quốc Lập Đài Loan, khoa lịch sử. Người dịch ra tiếng Việt Nam là Thái Văn (không biết là người Việt Nam hay Trung Quốc).
Sách chủ yếu nói về Nguyễn Ái Quốc. Sau vụ án Hương Cảng, 1931 cụ sang Liên xô nhưng bị lao phổi và chết ở Liên xô từ năm 1932. Sau đó, Quốc tế Cộng sản phân công Hồ Tập Chương, người Đài Loan cùng hoạt động với cụ Nguyễn Ái Quốc thay cụ Nguyễn Ái Quốc làm cách mạng ở Việt Nam. Ông Hồ Tập Chương lấy tên là Hồ Chí Minh. Tác giả Hồ Tuấn Hùng là người Đài Loan và là cháu ruột của Hồ Tập Chương. Sách gồm 6 chương, dày 342 trang khổ 15x21 cm.
Nguyên văn lời tựa như sau:
“Thay lời tựa
Màn đầu bóc gỡ tấm mạng che huyền bí
Tấm mạng huyền bí che mặt Hồ Chí Minh”.
Các nhà lãnh đạo nổi tiếng trong lịch sử hiện đại, ít nhiều đều có những bí mật riêng giống như tấm mạng che mặt. Những bí mật này rất ít khi được công khai minh bạch, trong đó, Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của Việt Nam là một trường hợp điển hình. Cho dù hiện giờ đã là thiên niên kỷ thứ hai, kỹ thuật truyền thông hiện đại có mặt khắp nơi, Hồ Chí Minh yên nghỉ trong quan tài thủy tinh tại lăng Ba Đình Hà Nội đã bốn mươi năm, nhưng hoàn cảnh gia đình, lịch trình học tập, khả năng ngôn ngữ, lý tưởng động cơ cách mạng, thực trạng hôn nhân, quá trình hoạt động tại Quốc tế cộng sản, thậm chỉ ngày sinh và ngày mất cũng vẫn còn tồn tại rất nhiều nghi vấn. Mặc cho các tác giả viết truyện ký tìm mọi cách lắp ghép tư liệu, cuối cùng, vẫn không thể nào dựng lại được và trình bày một cách thuyết phục chân dung lịch sử Hồ Chí Minh.
Hai người này là một?
Nhà sử học Việt Nam, giáo sư Nguyễn Thế Anh, tiến sĩ văn học và nhân văn Đại học Sorbonne, Paris, Pháp, từng là giám đốc Đại học Thuận Hóa, chủ nhiệm khoa Văn Sử Đại học Sài Gòn, giáo sư thỉnh giảng Đại học Harvard Hoa Kỳ, chủ nhiệm khoa Lịch sử văn hóa Đông Dương, Đại học Sorbonne, đã dày công nghiên cứu về Hồ Chí Minh và có những kiến giải độc đáo. Trong tác phẩm "Con đường chính trị của Hồ Chí Minh", Nguyễn giáo sư từng nói:
"Cho dù không thiếu những tác phẩm viết về Hồ Chí Minh, cho dù ông đã mất từ lâu, nhưng vẫn còn tồn tại khá nhiều nghi vấn và mâu thuẫn trong cuộc đời nhân vật chính trị này. Do ông có thói quen che giấu quá khứ và những hoạt động của mình, cố ý xóa sạch các dấu vết, vì thế, mọi cố gắng tìm hiểu những chi tiết chân thực trong cuộc đời hoạt động của ông chẳng khác gì đứng trong đám mây mù vần vụ mà thưởng hoa vậy. Vì thế, ta chỉ có thể suy đoán mà thôi. Hồ Chí Minh có đến 3 cái tên giả, tự mình kể chuyện về mình đầy tràn sắc thái thần bí với nhiều sự hàm hồ, vô vàn tình tiết nghi hoặc, chẳng những không thể phân tích rõ ràng, mà còn bỗng nhiên tự tâng bốc mình với mục đích tuyên truyền cho sự nghiệp chính trị hoặc là một thánh nhân. Tuy vậy, các nhà sử học đã trường kỳ nghiên cứu, nỗ lực bóc gỡ dần lớp màn che phủ vốn làm chân dung Hồ Chí Minh bị biến dạng hoặc bị tô vẽ thái quá qua các tác phẩm truyện ký, chỉ có điều là vẫn chưa tìm ra điểm mấu chốt."
Nhà sử học Hoa Kỳ, giáo sư William J. Duiker, là một học giả trác việt chuyên nghiên cứu về Hồ Chí Minh. Thời kỳ chiến tranh Việt Nam, William J. Duiker làm việc ở Đại sứ quán Hoa Kỳ, trước sau có gần ba mươi năm nghiên cứu về Hồ Chí Minh, đã được một số Quỹ và Hội học thuật Hoa Kỳ tài trợ. William J. Duiker cũng thông thạo các tiếng Anh, Pháp, Nga và Việt, đã vào đọc hầu hết các thư viện lớn nhỏ châu Á, châu Âu và châu Mỹ, trong đó có nhiều lần cùng đi với các quan chức chính quyền Việt Nam sưu tầm tư liệu có liên quan đến Hồ Chí Minh, và đã tìm được những tài liệu quý hiếm.
Vào năm 2000, William J. Duiker hoàn thành tác phẩm "Truyện Hồ Chí Minh", xuất bản bằng tiếng Anh, dày 700 trang, tuy nhiên chính ông cũng phải thừa nhận, không thể nào tìm được những tài liệu ở cơ quan đầu não, bởi luôn có sự ngăn cản việc tìm ra sự thật. William J. Duiker nói: 

"Những tài liệu nằm ở Trung tâm Lưu trữ Hà Nội đều không cho người Việt Nam và người nước ngoài thâm nhập tìm hiểu, nghiên cứu. Cũng như vậy, ta không thể tìm những tài liệu có liên quan đến Hồ Chí Minh ở Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa. Nhà cầm quyền Trung Quốc và Liên Xô hầu như ít khi để lộ những thông tin thuộc loại này."
Học giả Anh Quốc Sophie Quinn- Judge cũng là một chuyên gia nghiên cứu về Hồ Chí Minh, từng được Quỹ Mike và Viện nghiên cứu Trung ương Đại học London tài trợ. Bà đã đến Việt Nam, các nước Đông Nam Á và Nga Xô, tìm được những chứng cứ mới nhất trong hồ sơ của Quốc tế cộng sản và tình báo Pháp làm cơ sở cho công trình nghiên cứu về Hồ Chí Minh. Năm 2002, Sophie Quinn - Judge đã xuất bản tại London cuốn sách "Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1919-1941". Trong lời đầu, tác giả nói rõ, lấy "truyền kỳ về con người hai mặt" làm tiêu đề, bởi vì, đối với Hồ Chí Minh còn rất nhiều điều nghi vấn, đặc biệt tiêu đề chương sáu, dùng sự kiện "Chết ở Hương Cảng, mai táng ở Mạc Tư Khoa", coi đó là câu đố về chuyện sinh tử của Hồ Chí Minh, đồng thời đặt dấu hỏi nghi ngờ.
Vì ông Hồ Chí Minh cố tình che giấy tung tích của mình đã đưa 

đến nghi vấn ông có phải Hồ Tập Chương người Đài Loan hay không.

Trong phần giới thiệu tóm tắt ở trang 6, Sophie Quinn-Judge viết: 
"Hồ Chí Minh tìm mọi cách để giấu đi quá khứ của mình. Nhiều năm qua, những thứ mà ông đã cung cấp toàn là loại "dật sự", thường là mâu thuẫn nhau, không mấy liên quan đến cuộc đời thực. Đầu tiên là tập tự truyện xuất bản vào năm 1949 tại Trung Quốc, năm 1950, được xuất bản bằng tiếng Pháp tại Paris, mấy năm sau lại xuất bản tại Việt Nam với nhan đề "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch".
Qua cuốn sách, người đọc biết rất rõ là, tất cả cái gọi là sự thật ấy đều do Hồ Chí Minh bịa đặt. (Tác giả nhận xét, "Truyện Hồ Chí Minh", bút danh Trần Dân Tiên, bản Trung văn, "Ba Nguyên thư ốc" Thượng Hải xuất bản năm 1949. Năm 1958, cuốn sách đổi tên là "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch", xuất bản bằng tiếng Việt tại Hà Nội).
Năm 1962, nhà Việt Nam học Bernard Fall phỏng vấn Hồ Chí Minh, có hỏi đến những chi tiết mập mờ trong cuộc đời của ông, Hồ Chí Minh trả lời: "Các ông già khi vui vẻ thường tự tạo ra cho mình một chút thần bí. Tôi cũng bắt chước người xưa làm ra vẻ thần bí một chút, chắc ngài có thể hiểu được". Việc này chẳng biết Bernard Fall có hiểu được hay không, nhưng William J. Duiker trong cuốn sách nổi tiếng "Truyện Hồ Chí Minh" đã viết: "Không khí thần bí bao bọc xung quanh Hồ Chí Minh luôn luôn được duy trì, chí ít ra là trong các tác phẩm tự truyện như thế này".
Hồ Chí Minh có phải đến từ Đài Loan?
Vì sao cho đến lúc qua đời Hồ Chí Minh vẫn không tự nói ra những bí mật của mình? Chấp nhận nằm trong quan tài thủy tinh để lại cho người đời biết bao câu hỏi nghi ngờ? Vì sao các tư liệu có liên quan đến Hồ Chí Minh trong hồ sơ lưu trữ tại các nước Pháp, Anh Quốc (bao gồm cả Hương Cảng), Mỹ... đến nay từng bước đã được giải mật, vậy mà nhà nước Việt Nam, Trung Quốc và Nga vẫn xếp vào loại tuyệt mật, cất giữ trong hòm kín? Các chuyên gia, học giả nghiên cứu về Hồ Chí Minh nhận thấy rất rõ, trong hồ sơ giản lược về cuộc đời ông, trước sau đều phát sinh mâu thuẫn, nhưng không biết làm cách nào tìm được cách giải thích hợp lý. Hàng loạt những sự kiện nghi vấn trên dường như tạo hứng thú cho người ta bỏ nhiều thời gian, công sức tìm tòi tư liệu để viết về thân thế Hồ Chí Minh. Việc này cũng giải thích vì sao, giới lãnh đạo cao cấp Việt cộng, Trung cộng và Quốc tế cộng sản, phàm là các sử liệu có liên quan đến Hồ Chí Minh, đều nhất loạt được che giấu, tô vẽ hoặc ngụy tạo.
Nhiều năm trước, một người bạn thương gia Đài Loan đã nói với tôi: "Hồ Chí Minh là người họ Hồ ở Miêu Lật, Đồng La, ông có biết không?". Tin đồn về Hồ Chí Minh thuộc Hồ tộc ở Miêu Lật, Đồng La đã hai lần tôi trực tiếp nghe được. Thông tin này làm tôi vừa nghi ngờ vừa phấn khởi. Đây phải chăng là dự báo về thân phận Hồ Chí Minh sắp được giải mật? Có một người họ Hồ, nhân viên Đảng vụ Quốc dân đảng, thuộc dân tộc Khách Gia Quảng Đông, sinh vào năm Dân Quốc thứ năm mươi, trong dịp về tế tổ họ Hồ ở Miêu Lật có hỏi thân phụ tôi: "Hồ Chí Minh với ông là như thế nào mà có tin đồn ông ta cũng là người Miêu Lật?"

 Một người nữa là thày thuốc họ Hà kể lại, năm 1945, ông đã theo quân đội Quốc dân đảng đến Hà Nội có nghe một người Hoa làm nghề buôn thịt lợn nói rằng, Hồ Chí Minh là người đến từ Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan. Người anh họ của tôi cũng bảo: "Năm Dân Quốc thứ sáu mươi, anh cùng ông chú đến Bộ Ngoại giao Đài Bắc hỏi thăm tung tích Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương) cùng những vấn đề liên quan đến thân phận ông, nhưng không có được câu trả lời cụ thể". Thời gian gần đây tôi đã hai lần được nghe từ miệng một thương nhân Đài Loan ở Việt Nam nói rõ, Hồ Chí Minh là người Miêu Lật, Đồng La, nhưng không thể kiểm chứng được nguồn gốc thông tin, bởi không một lãnh đạo chóp bu nào của Việt Nam chịu tiết lộ bí mật.
Từ Việt Nam, tin đồn Hồ Chí Minh là người thuộc họ Hồ sinh quán ở Miêu Lật, Đồng La truyền về Đài Loan, khiến tâm trạng tôi vốn dĩ trầm lặng bỗng nhiên như cháy bùng lên. Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam là người Đài Loan! Như vậy, lời khẩu truyền được lưu trong ký ức gia tộc họ Hồ ở Miêu lật, Đồng La thực ra chẳng phải là bí mật của Ông Trời, vấn đề là, chưa tìm được chứng cứ đủ sức thuyết phục mà thôi. Trước đây ít năm, gia tộc có phát hành nội bộ cuốn sách "Giải nghĩa 'Nhật ký trong tù' của Hồ Chí Minh".

Qua sơ bộ nghiên cứu tư liệu thì Hồ Chí Minh đúng là người họ Hồ ở Miêu Lật, Đồng La. Đại thể là, không có lửa làm sao có khói, chỉ tiếc sức lực có hạn, không tìm được chứng cứ để liên kết các sự kiện. Mấy năm nay, các loại sách báo, tranh ảnh lưu hành rất tiện lợi. Mạng Internet phát triển nhanh chưa từng thấy. Các sử liệu liên quan đến Hồ Chí Minh lần lượt xuất hiện. Tin đồn Hồ Chí Minh là người Đài Loan từng bước được lịch sử xác nhận qua các phương pháp giám định khoa học. Vì thế, để tìm hiểu xem Hồ Chí Minh có phải là người Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan hay không, cần phải khẳng định hai sự kiện sau:
1 - Hồ Chí Minh thời kỳ (1890 - 1932) là Nguyễn Ái Quốc của Việt Nam.
2 - Hồ Chí Minh thời kỳ (1933 - 1969) là Hồ Tập Chương của Đài Loan.

Nói cách khác, truyền kỳ về Chủ tịch nước Việt Nam Hồ Chí Minh, nửa đời trước là lãnh tụ cộng sản Việt Nam Nguyễn Ái Quốc, nửa đời sau là nhân sĩ Quốc tế cộng sản Hồ Tập Chương đến từ Đài Loan. Hai người cùng có quá trình sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng đạt được những thành tựu trong cuộc đời hoạt động.

Nguyễn Ái Quốc là lãnh tụ sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng là đại biểu Quốc tế cộng sản. Do đảng viên cộng sản Pháp Joseph Ducroix, bí thư Công hội Thái Bình Dương, Quốc tế cộng sản bị bắt tại Singapore, sau khi truy vấn, cảnh sát đã bắt được hai phái viên của Cục Viễn Đông Quốc tế cộng sản là Hilaire Noulens ở Thượng Hải và Nguyễn Ái Quốc ở Hương Cảng. Không may, vào mùa thu năm 1932, Nguyễn Ái Quốc trên đường trốn chạy từ Hương Cảng đến Thượng Hải bị mắc bệnh lao phổi qua đời.
Mùa hè năm 1929, Hồ Tập Chương từ Đài Loan đến Thượng Hải, được Cục Viễn Đông phái đến làm việc tại "Liên minh mậu dịch Thái Bình Dương". Cũng bởi có liên quan đến vụ án Hilaire Noulens, ông phải trốn đến Quảng Châu rồi lại chạy sang Quảng Tây, Xiêm La, cuối cùng về Hạ Môn. Đầu năm 1933, Hồ Tập Chương từ Hạ Môn đến Thượng Hải để đi Mạc Tư Khoa. Lúc này, chủ quản bộ phận Việt Nam Quốc tế cộng sản là Vera Vasilieva đặt kế hoạch cho Hồ Tập Chương 5 năm học tập cải tạo để biến thành Nguyễn Ái Quốc, nhằm phủ định sự thật Nguyễn Ái Quốc đã chết, thay thế ông này, bước lên vũ đài lịch sử, diễn vở kịch truyền kỳ Hồ Chí Minh "thật giả kiếp người".

Ông này là ai? Hồ Chí Minh hay Hồ Tập Chương người Đài Loan?

Hồ Chí Minh nửa đời về sau (1933 - 1969) là Hồ Tập Chương, người Đài Loan. Tuy nhiên, sự kiện động trời này chưa từng được lịch sử biết đến, khiến các cho các chuyên gia nghiên cứu hoặc độc giả có hứng thú với nhân vật Hồ Chí Minh vừa sửng sờ vừa nghi vấn. Các chứng cứ của luận điểm này? Độ tin cậy của thông tin như thế nào? Nguồn gốc của tư liệu ở đâu? Mối quan hệ nhân quả về thời gian, không gian và tính logic của vấn đề?
Về trình tự làm cuốn sách, trước hết là trình bày việc lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam và chết bởi bệnh lao phổi vào mùa thu năm 1932. Phần tiếp theo sẽ chỉ ra, Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc không phải là một người, cuối cùng nói đến nửa phần đời sau của Hồ Chí Minh chính là Hồ Tập Chương đến Từ Đài Loan. Nội dung cuốn sách này hoàn toàn đảm bảo tính khách quan và tính hợp lý với mục đích chỉ để làm rõ một tiên đề giả thiết Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc không phải là một người.

Trong quá trình khảo cứu, tôi đã tìm hiểu, so sánh, đối chiếu cẩn trọng các tư liệu liên quan đến cuộc đời Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh, muốn làm một việc công bằng là trả lại sự thực vốn có cho lịch sử, đồng thời để tìm ra lời giải câu đố "Sự bí ẩn trong chuyện sinh tử của Nguyễn Ái Quốc". Từ sự bí ẩn về thân phận Hồ Chí Minh, tôi đề xuất 5 luận chứng đồng thời cũng là nhan đề của 5 thiên trong "Tìm hiểu cuộc đời Hồ Chí Minh" như sau:

1 - "Hài kịch tráo rồng đổi phượng" (Nguyễn Ái Quốc chết mà sống lại).
2 - "Ve sầu thoát xác, thật giả kiếp người" (Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh cùng lên vũ đài lịch sử).
3 - "Cuộc sống lưu vong phiêu bạt" (Hồ Chí Minh ở Liên Xô và Trung Quốc).
4 - "Khúc bi ca về tình yêu và hôn nhân" (Sự thật về tình yêu, hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh).
5 - "Nhật ký trong tù và Di chúc" (Làm rõ khả năng Hán văn của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh).
Từ cách nhìn lịch sử ở những góc độ khác nhau, lật lại sự kiện Nguyễn Ái Quốc chết bệnh vào năm 1932, và Hồ Chí Minh của năm 1933 là Hồ Tập Chương đến từ Đài Loan tiếp tục tiếp tục đăng đài thực hiện nhiệm vụ Quốc tế cộng sản giao phó, rất mong được các chuyên gia học giả cùng bạn đọc chỉ giáo.

Thời đại internet hiện đại, nên sách được loan tải trên mạng rất rộng rãi. Nhiều người đến trao đổi với tôi, hầu hết là những người từng trực tiếp tham gia kháng chiến, là bộ đội, là cán bộ tuyên huấn... Một số người phản đối, cho cuốn sách là bịa đặt, “đổi trắng, thay đen”. Một số người thì bảo chuyện này cũng đã được nghe từ lâu. Và tin lời tác giả. Họ dẫn chứng: năm 1957, cụ Hồ Chí Minh về thăm quê ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An mà không ra thắp hương mộ thân mẫu là cụ Hoàng Thị Loan. Năm 1945, khi bắt đầu làm Chủ tịch nước, bà chị là Nguyễn Thị Thanh ở quê ra thăm, cụ Hồ tránh mặt, không dám gặp, chỉ cử 2 cán bộ cao cấp tiếp.

Bản thân tôi rất kính trọng Chủ tịch Hồ Chí Minh, tự hào đã 45 năm là “Lính Bác Hồ”, “Bộ đội Bác Hồ.” Khi làm Tổng biên tập báo Phòng Không-Không Quân, ba lần được tiếp xúc với Chủ Tịch khi Chủ Tịch thăm Quân chủng và trận địa tên lửa, viết bài về Chủ Tịch. Nhiều lần về thăm quê Chủ Tịch và thắp hương lễ mộ cụ Hoàng Thị Loan, vào Sài Gòn đến Cảng Nhà Rồng thăm nơi “Bác Hồ đi tìm đường cứu nước.” Nhiều lần vào lăng viếng Bác.
Kính mong nhà cầm quyền, Đảng và Nhà nước Việt Nam cử giới khoa học lịch sử làm rõ sự thật vụ việc này. Nếu tác giả bịa đặt thì đưa ra tòa án quốc tế xét xử, làm rõ sự thật. 
Ngày 25/8/2013
Đ/C: 37 – Lý Nam Đế - Hà Nội
ĐT: 627 00002
Nguồn: Tập san TỔ QUỐC số 164

Chia sẻ bài viết:

VÔ CHIÊU * NÚI LANGBIANG SẠT LỞ


Núi Lang Biang sạt lở, điềm suy tàn của chế độ


Lời thầy dạy - Vạn vật vô thường, đổi thay là quy luật của tạo hóa. Luật này không miễn trừ cho bất cứ ai hoặc định chế nào. Quy luật huyền biến của vũ trụ, sự vật thịnh rồi lại suy, suy rồi lại thịnh, nên mới tiến bộ theo thời, cái mới ra đời thay thế cái cũ lạc hậu phải ra đi. Nhưng trước khi sự việc thay đổi xảy ra đều có hiện tượng báo trước mà nhiều khi con người không để ý. Hiện tượng đó được gọi là “Điềm”.

"Điềm" là hiện tượng bất thường dẫn đến một suy nghiệm tiên tri, hoặc chứng nghiệm về một sự kiện sẽ xảy đối với cuộc sống con người được xác định đúng trong tương lai.

Có hai yếu tố xác quyết liên quan đến khái niệm "Điềm" như sau:

1- Phải có yếu tố dự đoán về một sự kiện sẽ xảy ra trong tương lai và được chứng nghiệm đúng.

Thí dụ như, vài tuần trước khi xảy ra trận động đất và sóng thần năm 2011, các ngư dân tại các vùng phía Đông Bắc nước Nhật phát hiện nhiều con cá Oarfish dính trong lưới. Họ cho là “Điềm gở” và dự đoán nước Nhật sẽ gặp chuyện chẳng lành.

Đúng như dự đoán, ngày 11/03/2011, một trận động đất có tâm chấn cách thủ đô Tokyo 382 km về phía Đông Bắc đã xảy ra. Với cường độ 9 độ Richter, trận động đất dữ dội nhất trong lịch sử nước Nhật, gây ra nhiều cơn sóng thần khủng khiếp tàn phá miền Đông Bắc nước Nhật, làm cho 19.000 người thiệt mạng, các ngôi làng gần biền bị tàn phá hoàn toàn.

Sau khi nghiên cứu dự đoán của các ngư dân, cơ quan truyền thông Iore của Nhật loan báo, Oarfish là loại cá hiếm, mình dẹp và có chiều dài như rắn, chỉ sống ở độ sâu vài trăm thước dưới mặt nước, tập trung trong các đường nứt của vòng đai lửa, loại cá này đã bị đẩy lên mặt nước bởi các chấn động thông thường trước khi trận động đất lớn xảy ra.

2- Có thể hiện tượng bất thường xảy ra không có dự đoán, nhưng sau khi sự kiện đã xảy ra thì có sự liên hệ đến hiện tượng bất thường trước đó.

Thí dụ như, sau trận động đất 7 độ Richter ở Tứ Xuyên vào ngày 12/5/2008, dân cư trong vùng mới nhớ đến một hiện tượng bất thường xảy ra trước đó, là ếch nhái rời bỏ chỗ ở di cư hàng loạt ra khỏi Tứ Xuyên. Hiện tượng bất thường này được coi là “Điềm”.

Như vậy, “Điềm”dấu hiệu báo trước sự kiện bất thường sắp xảy ra. Nó được phân ra hai loại:

- Điềm lành báo trước sẽ gặp sự việc tốt đẹp. Chẳng hạn như cây thiên tuế trước nhà trổ hoa hay trong sân vườn có cây hoa đẹp nở nghịch mùa thì chủ nhà sắp được tài lộc.

Điềm gở báo trước sự việc chẳng lành sắp đến. Như mưa sao băng, núi bị sạt lở, bầu trời không có mây đen (chuyển mưa) mà có sấm động (sấm sét), cột cờ gẫy trước khi ra chiến trận, mực nước tại bãi biển tự nhiên bị rút ra xa…

Trong cuốn “Những ngày cuối cùng của Mao Trạch Đông”, viết theo lời kể của Tiểu Mạch (người chăm sóc sức khỏe cho Mao suốt 20 năm), thuật lại câu chuyện xảy ra vào những ngày cuối đời Mao như sau:

“Chiều thứ Tư ngày 10/3/1976, cô thư ký đọc báo cho Mao nghe, vào ngày thứ Hai 8-3-1976 có một thiên thạch rơi với tốc độ lớn vào khí quyển địa cầu, cháy sáng như một quả cầu lửa khổng lồ rồi phát nổ trên vùng trời ngoại ô Cát Lâm. Thiên thạch nổ bắn ra khắp nơi, tạo thành trận mưa thiên thạch. Trong đó có 3 tảng lớn rơi xuống tạo thành hố sâu. Tảng lớn nhất nặng gần 1.8 tấn.

Mao nghe xong, nhờ người đỡ ngồi dậy ra đứng bên cửa sổ nhìn ra ngoài, rồi trầm ngâm nói: "Trung Hoa có một thuyết gọi là Thiên Nhân Cảm Ứng, ngụ ý nói nếu nhân gian sắp xảy ra một biến cố lớn thì thiên nhiên sẽ có những điềm báo trước. Trời long, đất lở, đá lớn từ trên không rơi xuống là điềm gở. Trong Tam Quốc diễn nghĩa, trước khi Gia Cát Lượng, Triệu Vân, Quan Công qua đời đều xảy ra các hiện tượng bất thường như sao rụng, đá rơi".

Sau hơn 4 tháng, vào ngày 28/7/1976, trận động đất kinh hoàng xảy ra tại Đường Sơn (Hà Bắc) làm thiệt mạng hơn 240 ngàn người và 160 ngàn người bị thương. Không biết chuyện thiên thạch rơi và cơn động đất có tác động gì đến sức khỏe của Mao không, nhưng đến ngày 9/9/1976 thì Mao qua đời. Dư luận cho rằng, 3 tảng thiên thạch lớn rơi xuống đất là điềm báo hiệu đảng CS Trung Quốc mất 3 nhân vật cao cấp trong năm 1976, đó là Tổng tư lệnh quân đội Chu Đức, Thủ tướng Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông”.

Năm 1976 là năm có 3 tháng dương lịch 1, 2, 3, ngày dương lịch đều trùng với ngày âm lịch. Từ ngày 1-1-1976 (mùng 1 tháng Chạp năm Ất Mão) đến ngày 30-3-1976 (30 tháng Hai năm Bính Thìn).

Và đầu năm 1997, sau cơn sao bang, một tảng thiên thạch lớn rơi xuống tỉnh Sơn Đông, 4 ngày sau, Đặng Tiểu Bình chết lúc 9 giờ tối thứ Tư ngày 19-2-1997. Đặng Tiểu Bình là người gây ra cuộc chiến tranh Trung-Việt vào năm 1979, đã đẩy 300 ngàn quân tấn công Việt Nam để cũng cố quyền lực cá nhân. Đặng cũng chính là người đã nói câu “Việt Nam là bọn côn đồ, phải dạy cho bọn chúng một bài học” trong chuyến viếng thăm mấy nước Á châu vào tháng 12 năm 1978.

Còn Sấm ký là những dự báo hợp lý, được đưa ra trước để tiên tri những điều sẽ xảy ra trong tương lai, nhưng rất khó bàn. Như Sấm Trạng Trình là cuốn sách ghi lại những lời tiên tri của cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm về các biến cố chính của nước Việt Nam trong khoảng hơn 500 năm (từ năm 1509 đến năm 2019).

Chẳng hạn như câu Sấm “Bao giờ trúc mọc qua sông, Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây” nói về thời Tây Sơn, Tôn Sĩ Nghị đem quân xâm chiếm nước Nam. Khi đến thành Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị cho quân bắc một cây cầu nổi bằng tre ngang sông Hồng. Sau khi dẹp được giặc Thanh ở trận Ðống Ða vào năm Kỷ Dậu (1789), đức Nguyễn Huệ lên ngôi xưng là Quang Trung Hoàng Ðế (từ trúc để chỉ tre và non Tây là nhà Tây Sơn).

Sấm giảng là quyển sách ghi lại những lời dạy dỗ về đạo pháp của một bậc thầy, khuyên người đời làm lành lánh dữ và trong đó có nhiều lời tiên tri về một số các biến cố chính trị của đất nước sắp xảy ra. Như quyển “Khuyên người đời Tu niệm” của đức Huỳnh Phú Sổ, giáo chủ đạo Hòa Hảo viết vào năm 1939 (Kỷ Mão).

Cơ bút là nghi lễ cầu cơ chấp bút, là nền tảng của đạo Cao Đài. Cơ bút được cho là đã khai sinh ra và là phương tiện truyền giảng đạo pháp của tôn giáo này. Cầu cơ và chấp bút là những phương pháp thông linh, đạo Cao Đài gọi là những phương pháp Thông Công.

Con hãy phân biệt và ghi nhớ.
*
Lang Biang

Lang Biang là hai ngọn núi nằm cách thành phố Đà Lạt khoảng 12 km, thuộc địa phận huyện Lạc Dương tỉnh Lâm Đồng. Đỉnh Lang Biang nằm ở độ cao 2167 m so với mặt biển.

Ngày xưa người Thượng (dân tộc thiểu số) sống trong vùng này gọi một ngọn núi là Klăng (núi Ông) và ngọn núi kia là Biêng (núi Bà), ghép chung thành Klăng Biêng. Về sau người Pháp phiên âm là Lang Biang, sau đó người Kinh đổi thành Lâm Viên, gọi vùng cao nguyên này là cao nguyên Lâm Viên.

Lang Biang được ví như “nóc nhà” của Đà Lạt và được xem như một biểu tượng của thành phố này. Trên núi có thể nhìn thấy Suối VàngSuối Bạc và toàn cảnh Đà Lạt với mây trắng và sương mù.
Do nằm ở độ cao, Lang Biang được xem là một trong những ngọn núi cao nhất vùng, hiện nay được xem là khu du lịch, nơi tìm hiểu nét văn hóa dân tộc thiểu số và còn là điểm thu hút du khách thích mạo hiểm chinh phục đỉnh cao.

Đà Lạt

Thành phố Đà Lạt nằm trên cao nguyên Lang Biang, phía bắc tỉnh Lâm Đồng. Bắc giáp với huyện Lạc Dương. Đông và Đông Nam giáp với huyện Đơn Dương. Tây và Tây Nam giáp với hai huyện Lâm Hà và Đức Trọng. Hàng trăm năm trước, Đà Lạt là địa phận cư trú của người Lạch và người Cil. Thành phố Đà Lạt có diện tích hơn 400 km², bao bọc bởi các ngọn núi cao và nhiều dãy núi liên tiếp:

- Phía Bắc và Tây Bắc giới hạn bởi dãy Chorơmui, Yô Đa Myut (1816 m).

- Tây Bắc dựa vào chân dãy núi Chư Yang Kae (1921 m), thuộc quần sơn Lang Biang mà đỉnh cao nhất là Chư Yang Sinh (1408 m).

- Phía Đông là chân dãy núi Bi Doup (2278 m), dốc xuống cao nguyên Dran.

- Phía Đông Nam chắn bởi dãy Cho Proline (1629 m).

- Phía Nam và Tây Nam có dãy núi Voi (1.754 m) và Yàng Sơreng bao bọc.

Đà Lạt có nhiều nhiều dinh thự và biệt thự đẹp xây cất theo kiểu kiến trúc của người Pháp. Nơi cao nhất trong trung tâm thành phố là Bảo Tàng Viện và nơi thấp nhất là thung lũng Nguyễn Tri Phương.

Bác sĩ Alexandre Yersin

Trước năm 1893, cao nguyên Lang Biang là nơi cư trú của các sắc tộc người Thượng. Người Kinh đầu tiên muốn khám phá vùng rừng núi Nam Trung Bộ là Nguyễn Thông, nhưng do nhiều khó khăn, nên mãi đến cuối đời ông vẫn không thực hiện được ý định.
- Năm 1880 và 1881, bác sĩ Hải quân Paul Néis và trung úy Albert Septans có những chuyến thám hiểm đầu tiên vào vùng cao nguyên này. Họ được xem là người đầu tiên đặt chân đến Lang Biang, mở đường cho nhiều chuyến đi về sau của A. Gautier (năm 1882), L. Nouet (1882), Humann (1884).

- Ngày 3/8/1891, bác sĩ Alexandre Yersin thực hiện chuyến thám hiểm đầu tiên với ý định tìm đường núi từ Nha Trang vào Sài Gòn, nhưng chuyến đi này thất bại.

Năm sau, Yersin thực hiện một cuộc thám hiểm từ Nha Trang, băng qua vùng cao nguyên Đắc Lắc đến Stung Treng, nằm bên bờ sông Mekong (địa phận Miên).

- Tháng 1/1893, Yersin nhận nhiệm vụ từ toàn quyền Jean Marie Antoine de Lanessan, 3 lần đi khảo sát bằng đường bộ từ Sài Gòn xuyên vào vùng người Thượng. Nhiệm vụ của Yersin là tìm hiểu tài nguyên về lâm sản, khoáng sản... Và chiều ngày 21/6/1893, Yersin đã phát hiện ra Lang Biang, nên Yersin được xem là người đầu tiên tìm ra vùng đất này.

- Ngày 1/1/1899, Doumer ký nghị định thành lập tỉnh Đồng Nai Thượng ở Trung Kỳ, với 2 cơ quan hành chính được thiết lập tại Tánh Linh và cao nguyên Lang Biang.

- Ngày 20/4/1916, vua Duy Tân ra đạo dụ thành lập khu thị tứ cho tỉnh Lâm Viên.

Trong hai thập niên 1900 và 1910, người Pháp đã xây dựng hai tuyến đường từ Sài Gòn và từ Phan Thiết lên Đà Lạt. Hệ thống giao thông thuận lợi giúp Đà Lạt nhanh chóng phát triển.

- Ngày 30/10/1920, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định chuẩn y đạo dụ ngày 11/10 của vua Khải Định về việc thành lập thành phố Đà Lạt cùng với tỉnh Đồng Nai Thượng nhằm biến Đà Lạt thành một trung tâm nghỉ mát ở Đông Dương.

- Năm 1941, Đà Lạt trở thành tỉnh lỵ của tỉnh Lâm Viên tân lập. Thị trưởng Đà Lạt kiêm chức Tỉnh trưởng tỉnh Lâm Viên.

- Ngày 10/11/1950, vua Bảo Đại ký dụ số 4 QT/TD ấn định địa giới thị xã Đà Lạt.

Theo Địa phương chí Đà Lạt (Monographie de Dalat) năm 1953, thị xã Đà Lạt là thủ phủ của Hoàng triều Cương thổ, có diện tích là 67 km² với dân số 25.041 người.

Sau Hiệp định Genève năm 1954, dân số Đà Lạt tăng nhanh bởi lượng người di cư từ miền Bắc, Đà Lạt được phát triển như một trung tâm giáo dục và khoa học.

- Năm 1957, Đà Lạt trở thành tỉnh lỵ của tỉnh Tuyên Đức. Nhiều trường học, huấn luyện và viện nghiên cứu được thành lập như: Viện Đại học Đà Lạt (1957), Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt (1959), Thư viện Đà Lạt (1960), Trường Đại học Chiến tranh Chính trị (1966), Trường Chỉ huy và Tham mưu (1967)...

- Sau năm 1975, dân số gia tăng bởi số lượng cán bộ và dân miền Bắc nhập cư lên khoảng 86 ngàn người. Và vào những năm đầu thập niên 1990, hàng loạt khách sạn, nhà hàng được sửa chữa, nhiều biệt thự được đưa vào dịch vụ du lịch... Đà Lạt trở thành một thành phố du lịch quan trọng của Việt Nam.

- Tháng 2/1976, tỉnh Tuyên Đức, tỉnh Lâm Đồng và thị xã Đà Lạt xác nhập lại thành tỉnh Lâm Đồng.

Những vụ sạt lở núi

Sạt lở núi Cấm

Ngày 5/5/12, đoạn gần Vồ Đầu trên tuyến giao thông nối từ chân núi với đỉnh núi Cấm, xã An Hảo (huyện Tịnh Biên) đã xảy ra vụ sạt lở vách núi kinh hoàng. Tảng đá lớn nặng khoảng 10 tấn đã lăn từ độ cao khoảng 300m xuống, đè bẹp chiếc xe 7 chỗ ngồi, làm thiệt mạng 6 người. Đây là tai nạn thảm khốc lần đầu tiên xảy ra tại vùng Núi Cấm.

Sạt lở núi tại Nghệ An

- Ngày 11/7/2013, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An xảy ra vụ sạt lở núi khiến 5 người thương vong.

- Ngày 29/8/2013, đoạn đường qua xã Chiêu Lưu, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An có hàng chục nơi sạt lở nghiêm trọng, khiến đất đá từ trên núi đổ xuống quốc lộ 7A, làm cho giao thông bị tắc nghẻn.

Sạt lở núi tại Điện Biên

Ngày 23/8/2013, quốc lộ 279, đoạn đường từ huyện Tuần Giáo đi thành phố Điện Biên Phủ bị tắc nghẽn giao thông nghiêm trọng do sạt lở núi. Khu vực sạt lở được xác định tại đoạn qua xã Nà Nhạn, huyện Điện Biên. Cả một vạt núi 50 m, dài 150 m đã sạt xuống lấp ngang quốc lộ 279. Khối lượng đất đá ước khoảng 60 ngàn m3. Đây là vụ sạt lở được ghi nhận là nghiêm trọng nhất trên địa phận tỉnh Điện Biên từ xưa đến nay.

Sạt lở núi tại Yên Bái

Ngày 25/8/13 hàng trăm tấn đất đá sạt lở trên quốc lộ 32, thuộc địa phận giáp ranh giữa huyện Than Uyên và huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái, gây tắc nghẽn giao thông.

Sạt lở núi Lang Biang

Ngày 25/8/2013, núi Lang Biang có độ cao 2167m bị sạt lở tạo thành một vệt dài rộng từ đỉnh xuống chân núi.

Anh Bon Đing Đim, sống dưới chân núi cho biết trong đêm 25/8/13, âm thanh ầm ầm như sấm trời kéo dài 20 phút. Sáng ra, anh thấy ngọn núi Lang Biang như bị xẻ đôi.

Vị trí sạt lở xuất phát từ gần đỉnh núi, một lượng đá khổng lồ tuột xuống núi khoảng 500 thước, làm cho nhiều cây cổ thụ bị cuốn ngã theo tạo thành một vết đỏ dài giống như núi bị nứt đôi.

Theo cư dân địa phương, vào năm 1970, núi Lang Biang bị sạt lở một lần. Sau 43 năm, núi Lang Biang lại bị sạt lở thêm một lần nữa và lần này nghiêm trọng hơn lần trước.

Theo nhạc sĩ Krajan Plin, một vị cao niên trong làng sống lâu năm dưới chân núi cho biết, tất cả dân chúng sống ở vùng Nam Tây Nguyên đều coi ngọn Lang Biang là núi thần. Ông nhận định: "Sạt lở núi Lang Biang lần này sụp lở là hoàn toàn do thiên nhiên, bởi độ cao rất hiểm trở, chỗ sạt lở thì không ai có thể phá hoại bằng dụng cụ lao động hay máy móc".

Theo truyền thuyết, ngọn núi này là công trình tạo dựng cuối cùng của thần linh và được ví như một cái rốn trời. Núi Lang Biang được xem là nơi linh thiêng như núi Cấm (Thất sơn) vì có nhiều truyền thuyết. Các tộc người Lạch, Cil cư trú dưới chân núi đều cho rằng núi Lang Biang có một sức mạnh mà không có biến cố nào có thể làm thay đổi được. Trong cuộc sống hằng ngày, để nói đến những điều không tưởng, dân làng có câu nói: "Nếu làm được như thế, thì núi LangBiang cũng phải sụp lở". Vì vậy, khi thấy ngọn núi bị lở, nhiều người Lạch và Cil bàn tán cho rằng, núi Lang Biang sụp lở là do thần linh đang tỏ thái độ không vừa lòng với chế độ và hiện tượng này báo hiệu một điều gì bất thường sắp xảy ra.

Sấm và điềm tiên đoán

a. Những câu Sấm và “Điềm” đã được công nhận là đúng.
* Sấm dự đoán chủ nghĩa CS tan rã

“Bao giờ đá nổi, lông chìm.
“Hồ khô, đồng cạn, búa liềm ra tro”.

Người dân cho là sấm này của cụ Trạng Trình, đoán về sự lien hệ tồn vong giữa chủ nghĩa CS và bốn nhân vật cao cấp Việt-Tàu: Tưởng, Mao, Hồ, Đồng. Tưởng Giới Thạch mất ngày 5 tháng 4 năm 1975, được chôn trên núi ở Đài Bắc (đá nổi). Mao chết ngày 9 /9/1976 (lông chìm). Hồ Chí Minh chết ngày 2/9/1969, xác bị ướp lộng kiếng (hồ khô). Phạm Văn Đồng chết ngày 29/4/2000 (đồng cạn). Lời sấm ký hiệu nghiệm, chủ nghĩa CS tan rã khắp nơi, còn lại 4 nước cố bám con đường “xã hội chủ nghĩa” là Tàu, Việt, Bắc Hàn và Cuba. Riêng Cuba chỉ là thứ CS nửa vời!

* Điềm suy tàn của nền “Đệ nhị Cộng Hòa”

Ở vùng quê Ninh Hải, tỉnh Phan Rang, có ngọn núi Đá Chồng. Trên núi có ba tảng đá lớn chồng lên nhau có hình thù rất dữ tợn, dân địa phương gọi là núi Mặt Quỷ. Cách núi Mặt Quỷ khoảng 1 cây số, ở chóp Bắc, có một tảng đá lớn hình tam giác nhọn, chiều ngang cỡ 6 m, cao 3m nhìn giống như con dao, nên được gọi là hòn Đá Dao. Dân chúng xứ này có câu nói “Mặt Quỷ kỵ Đá Dao” với ngụ ý, Đá Dao còn thì quỷ không thể xuất hiện.

Vào buổi chiều năm 1974, từ lưng chừng núi, ngọn Đá Dao bị sạt lở, lăn xuống chân núi... Và đến mùa xuân năm 1975, toàn vùng Văn Sơn, Bình Sơn, Khánh Hải, Ninh Chữ đột nhiên xảy ra một hiện tượng lạ chưa từng thấy. Hàng đàn sâu bọ, nhất là sâu róm màu vàng xuất hiện dầy đặc, tràn qua đường lộ và cầu Lăng Ông, tàn phá các loại hoa màu, ruộng lúa. Sâu bò đầy đường, đầy đất, nên nhiều gia đình phải di tản...

Dân miền Trung cho rằng, hiện tượng ngọn Đá Dao bị sạt lở và sâu vàng tràn ngập là “Điềm gở”, sau đó không lâu, chế độ Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ vào ngày 30/4/1975.

* Sấm ký Vô Vi

Vào hai năm 1977-1978 tại vùng Thất Sơn, từ Tịnh Biên dài đến Vĩnh Gia, Vĩnh Điều, dân cư ngụ đều nghe hai câu Sấm của đạo Vô Vi ở núi Trà Sư, được phổ biến bởi các đồng nhi:

Chừng nào núi cấm đá rơi,
Là ngày ma quỷ hết thời quang vinh.

Đến khi núi Cấm bị sạt lở vào ngày 5 tháng 5 năm 2012, người viết mới nghiệm được nghĩa của hai câu này. Thì ra, chữ Cấm viết hoa và từ ngữ “quang vinh” là từ ngữ mà chế độ CS thường dùng, như khẩu hiệu “đảng CSVN quang vinh”.

Sau tháng 4 năm 1975, các ủy ban của CS mọc ra như nấm như ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố. Người đứng đầu được gọi là tỉnh ủy, thành ủy... người dân đọc chữ “ủy” thành ra “quỷ”. Quá đúng, sau tháng 5 năm 2012, phong trào đấu tranh chống Tàu cộng đã bộc phát mạnh với những diễn biến làm cho đảng CSVN phải hoảng sợ. Từ chỗ đàn áp điên cuồng những người yêu nước đến những những trò hề... và thói quen bịp bợm, lọc lừa xảo trá, cho thấy đảng CSVN đã hết thời quang vinh, đúng như câu Sấm ký.

b. Những câu tiên tri, Sấm và Điềm đang chờ được công nhận là đúng

* Lời tiên tri của cụ Diễn

Trước tháng Tư 1975, ở Sài Gòn có cụ Diễn, một nhà Dịch học tài giỏi, đã tiên tri chính xác nhiều chuyện quốc gia đại sự, đã đoán trước sự nghiệp và số phận của nhiều nhân vật quan trọng. Cụ Diễn tiết lộ, CS sẽ chiếm Miền Nam sau khi HCM chết và rồi chúng sẽ tan rã sau cái chết của Võ Nguyên Giáp. Hiện Võ Nguyên Giáp đã sống được 102 tuổi, mọi người đang chờ ngày ông ta “đi theo” Hồ Chí Minh để kiểm nghiệm lời tiên tri của cụ Diễn.

* Năm Tỵ trong Sấm Trạng Trình
Trước khi nói đến năm Tỵ, xin nhắc lại những câu Sấm Trạng Trình mà nhiều người suy ra thấy ăn khớp với tình hình Việt Nam từ năm 1975 trở đi, khi CS xâm chiếm miền Nam, xưng là "đỉnh cao trí tuệ", áp dụng chính sách độc tài toàn trị, chà đạp nhân quyền, áp bức tôn giáo. 
"...Ai còn khoe trí khoe năng,

Cấm kia bắt nọ hung hăng với người.
Chưa từng thấy nay đời sự lạ,
Chốc lai mòng gá vạ cho dân! 
Muốn bình sao chẳng lấy nhân? 

Muốn yên sao lại bắt dân ghê mình?" 
Lời bàn của Nhất Nguyên:

* Câu 1: Ai còn khoe trí khoe năng
CS luôn vỗ ngực cho mình là "đỉnh cao trí tuệ".
* Câu 2: Cấm kia bắt nọ hung hăng với người
CS cấm và bắt dân biểu tình chống Tàu cộng.
* Câu 3: Chưa từng thấy nay đời sự lạ
- Chiếm đoạt miền Nam mà gọi là giải phóng miền Nam.

- Nhà thương Từ Dũ đổi tên thành xưởng đẻ.
- Thay đổi tên nhiều con đường mang tên của những anh hùng dân tộc bằng những tên bị CS lợi dụng.
- Đặt tên quái thai "Kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa".

* Câu 4: Chốc lai mòng gá vạ cho dân! 

CS vu oan giá họa cho dân, bắt người yêu nước vì phạm vào hai điều trong bộ luật hình sự: điều 79 (âm mưu lật đổ chế độ) và điều 88 (tuyên truyền chống nhà nước). Điển hình là thủ đoạn dùng “bao cao su” giá họa cho LS Cù Huy Hà Vũ.

* Câu 5: Muốn bình sao chẳng lấy nhân?

CS giao đất đai, biển đảo cho Tàu cộng để đổi lấy an bình, không biết thu phục nhân tâm.

* Câu 6: Muốn yên sao lại bắt dân ghê mình?
CS đàn áp tôn giáo, chiếm đoạt đất đai nhà cửa. Già trẻ yêu nước đều bị tống vô tù, làm cho người dân hiền lành ghê sợ chế độ.
Nói đến năm Tỵ, Sấm viết:

"Hùm gầm khắp nẻo gần xa,
Mèo kêu rợn tiếng, quỷ ma tơi bời.
Rồng bay năm vẻ sáng ngời,
Rắn qua sửa soạn hết đời Sa Tăng.
Ngựa lồng, quỷ mới nhăn răng,
Cha con dòng họ thầy tăng hết thời".
Lời bàn của Nhất Nguyên:
- Câu 7: Hùm gầm khắp nẻo gần xa 
Năm Canh Dần (2010), những con hổ Á Châu gầm thét do suy thoái kinh tế và khủng hoảng tài chánh khắp nơi trong khu vực, ảnh hưởng đến thế giới. Nhân đó, những tên CS có tiếng tăm ở Hà Nội đã lên tiếng đòi cải tổ chính trị làm cho đảng CS phải lo đối phó.
- Câu 8: Mèo kêu rợn tiếng, quỷ ma tơi bời
Rồi qua năm Tân Mão (2011), các cuộc đấu tranh của tôn giáo tại miền Nam và miền Trung, dân oan khiếu kiện, chống cưỡng chế đất đai, những cuộc biểu tình chống Trung Cộng xâm lăng... làm nhà cầm quyền Cộng sản đứng ngồi không yên.
- Câu 9: Rồng bay năm vẻ sáng ngời 
Năm Nhâm Thìn (2012), các phong trào đấu tranh trong nước của năm giới (sĩ, nông, công, thương, binh) bắt đầu nổi dậy. 
- Câu 10: Rắn qua sửa soạn hết đời Sa tăng
Qua năm Quý Tỵ (2013), nền kinh tế tiếp tục bị suy thoái, những cuộc đấu đá để tranh giành quyền lực ở Bắc Bộ Phủ là một điều mà mọi người tiên đoán là chế độ sắp tàn.

- Câu 11: Ngựa lồng quỷ mới nhăn răng

Đến năm Giáp Ngọ (2014), chế độ Cộng sản mới suy sụp.

- Câu 1: Cha con dòng họ thầy tăng hết thời.

Đến đây thì những tôn giáo quốc doanh do CS dàn dựng và chỉ đạo như Cao Đài quốc doanh, Hòa Hảo quốc doanh, Phật giáo quốc doanh, Công giáo quốc doanh... sẽ biến mất vì người dựng ra mình không còn tồn tại!

Nhận định

1. Chế độ CS sụp đổ vì mất văn hóa

Văn hóa là linh hồn của một dân tộc. Đối với nhân loại yếu tố tinh thần này cũng quan trọng ngang với yếu tố vật chất là giống nòi và đất đai. Lịch sử nền văn minh của một dân tộc là lịch sử của sự phát triển về văn hóa. Tự phá hủy nền văn hóa sẽ dẫn tới sự diệt vong của dân tộc đó. CSVN đã và đang phá hủy nền văn hóa của dân tộc Việt bằng cách:

- Bỏ môn học Công dân Giáo dục và Việt sử (anh hùng dân tộc).

- Đưa tiếng Tàu vào chương trình giáo dục.

- Phổ biến rộng rãi văn hóa Tàu trên khắp các tỉnh thành.  

- Tiếp tay cho hàng hóa Trung Quốc lũng đoạn thị trường kinh tế VN.

- Làm ngơ trước sự hiện hiện của vài trăm ngàn người Tàu đang sống bất hợp pháp tại VN.

Vì vậy, nền văn hóa Việt ngày càng suy đồi, đưa đến tệ nạn mất đạo đức.

Trước đây, cụ Lê Quí Đôn cho rằng có 5 nguy cơ làm hỏng đất nước, làm hỏng cả xã hội, đó là: “Trẻ không kính già, trò không trọng thầy, binh kiêu tướng thoái, tham nhũng tràn lan, sĩ phu ngoảnh mặt".

Xã hội Việt Nam hiện nay có đủ cả 5 nguy cơ này. Và hơn nữa, tình trạng đàn áp dân chúng ngày càng gia tăng, tuổi trẻ yêu nước chống Tàu cộng bị tống vào tù, tuổi già trung với nước tham gia biểu tình cũng bị bắt giam và đày ải. Đây là triệu chứng suy tàn và là “Điềm” báo trước sự sụp đổ của chế độ mất văn hóa.

2. Chế độ CS sụp đổ vì tàn ác

Sấm Trạng Trình Toàn tập (Nguyễn Thiên Thụ), phần XXV, trang 65 có ghi:

“Đồng giao đã có câu rằng,
57. Non xanh mà mọc trắng răng mấy kỳ.
Bấy giờ quét sạch thử ly,
Xin ai nhớ lấy sấm ghi kẻo lầm.
Đương khi sấm chớp ầm ầm,
Chẳng qua khó số để găm trị bình,
Thất phu dám chống thư sinh,
Sông ô chấp cả mấy anh thuỷ hoàng.
Nực cười những lũ bàng quan,
59. Cờ tàn lại muốn toan đường đấm xe.
Thôi thôi mặc lũ thằng hề,
Gió mây ta lại đi về gió mây”.

Lời bàn:

- Non xanh mà mọc trắng răng mấy kỳ
Ngụ ý nói, khi nhiều ngọn núi xanh bị sạt lở.

- Bấy giờ quét sạch thử ly
Thử ly là hồ ly, loài chồn cáo. Y nói đảng của Hồ Chí Minh. Ngụ ý cho biết, đã đến lúc người dân nổi dậy giải thể chế độ CS.

- Thất phu giám chống thư sinh
Thất phu là côn đồ. Thư sinh là học sinh, sinh viên. Công an cho côn đồ hành hung tuổi trẻ yêu nước.

- Sông ô chấp cả mấy anh thuỷ hoàng
Dù là nhóm nhỏ, đấu tranh ô hợp thiếu tổ chức, nhưng vẫn hiên ngang trước bạo lực. Thủy hoàng là Tần Thủy Hoàng.

- Nực cười những lũ bàng quan
Cán bộ cao cấp biết rõ sự việc đàn áp dã man của cấp dưới nhưng không hề lên tiếng, chỉ cần tham nhũng kiếm thêm tiền là tốt.

- Cờ tàn lại muốn toan đường đấm xe
Biết chế độ sắp sụp đổ, nhưng muốn đàn áp phong trào đấu tranh.

- Thôi thôi mặc lũ thằng hề
- Gió mây ta lại đi về gió mây

Hai câu này có hàm ý nói, việc mưu hại những người yêu nước như trò hề, đường ta ta cứ đi, tiếp tục đấu tranh thì chế độ CS sẽ sụp đổ.  

3. Chế độ CS sụp đổ do thiên định.

*Một đoạn cơ bút của bà chúa Liễu Hạnh tiên tri về vận nước Việt Nam (1938)

“Khỉ về Gà gáy oa oa,
Khắp nơi lại dấy can qua kinh trời. Quỷ Ma đến lúc đi đời, 
Phụ Nguyên Trời đã định ngôi sẵn sàng.
Chó mừng tân chủ rõ ràng, 
Bốn phương tấp nập lên đàng hồi hương”.
Lời bàn:

Hai câu đầu nói, sẽ có chiến tranh trong 2 năm Bính Thân (2016) và Đinh Dậu (2017).

Hai câu kế tiếp cho biết, CS (Quỷ ma là CS) sụp đổ do trời đã định sẵn.

Hai câu chót báo, năm Mậu Tuất (2018) nước Việt sẽ có vị nguyên thủ tài đức xuất hiện và nhiều người Việt hải ngoại sẽ trở về quê hương xứ sở.

* Câu Sấm miền Trung

Cùng thời với núi Đá Dao sụp lở, hai câu thơ đã xuất hiện từ miền Trung:

Bao giờ ngọn núi Lâm Viên,
Tách đôi hai miếng là điềm cộng tan.

Lời bàn:

Thời gian qua, có ai nghĩ đến núi Lâm Viên tách đôi? Và chữ cộng, mọi người đều tưởng là dấu cộng, tách ra hai miếng thì đâu còn là cộng. Có ai biết chữ cộng viết hoa là Cộng sản?

Vì vậy, hiện tượng núi Lang Biang sạt lở (đường lở như tách ngọn núi làm đôi) cùng với vụ sạt lở núi ở tỉnh Điện Biên (nơi CS thắng Pháp) và các vụ sạt lở núi tại Nghệ An (quê của Hồ Chí Minh) đều là “Điềm gở” báo hiệu sự suy tàn của chế độ.

* Sạt đình Lại Đà

Mưa to trút xuống trong tháng 4 vừa qua, làm sạt hẳn tường đình làng Lại Đà (cách Hà Nội 28 km về hướng Tây Bắc), nơi nổi tiếng xuất thân nhiều khoa bảng và là quê của Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư đảng CSVN. Theo sử sách thì việc sạt đình hay sạt tường đình chưa bao giờ được xem là điềm lành, mà đó chỉ là điềm gở, báo hiệu quyền lực bị suy sụp.

4. Đảng CS sụp đổ do vận nước.

Theo Tam Nguyên Cửu Vận thì Đảng Cộng Sản VN cướp chính quyền vào năm 1945, nằm trong vận 5 (1944-1963) thuộc hành Thổ. Đến nay là vận 8 (2004-2023) cũng thuộc hành Thổ (đang thịnh) thì hành Thổ của vận 5 đã hết “vận khí” nên suy sụp. Do hết “vận khí” nên đảng Cộng Sản sắp sửa bị sụp đổ, vì vậy nhà cầm quyền CSVN bị dân chúng chống đối vì bán đất, dâng biển đảo cho Tàu cộng, cướp đất đai và đàn áp dân lành. Nền kinh tế ngày càng suy thoái, lụn bại. Tệ nạn tham nhũng và cướp bóc xảy ra khắp nơi. Nên người viết nhận định, ngày tàn của đảng Cộng Sản Việt Nam không còn bao lâu nữa, chỉ sớm hay muộn trong khoảng từ năm Giáp Ngọ (2014) đến năm Đinh Dậu (2017) mà thôi.



THANH PHƯƠNG * ÂM NHẠC

Thanh Phương
Nhạc càng hay nhờ tài người phối
Nhạc sĩ Thanh Phương sẽ tham gia đêm diễn tại Pháp ngày 07/09 (DR)
Nhạc sĩ Thanh Phương sẽ tham gia đêm diễn tại Pháp ngày 07/09 (DR)
Đức Bình
Lâu nay, khi nghe qua một ca khúc, phản ứng đầu tiên mà công chúng yêu nhạc thường quan tâm đến, đó là giọng hát ca sĩ, đôi khi tìm hiểu thêm về người sáng tác, nhưng ít ai để ý rằng đoạn nhạc dạo đầu cũng như âm nền toàn bộ ca khúc, là do nhạc sĩ hòa âm phối khí sáng tác dựa trên văn bản của nhạc sĩ viết ca khúc.
Để phối một ca khúc hay, ngoài năng khiếu và lòng say mê, điều kiện cần thiết trước tiên đối với một người nhạc sĩ hòa âm phối khí, đó là họ còn phải biết chơi thành thạo ít nhất một nhạc cụ, trình độ nhạc lý vững vàng, được đào tạo bài bản về môn hòa âm, biết rõ tính năng, âm vực, kỹ năng sử dụng từng nhạc cụ. Và quan trọng hơn cả vẫn là cảm xúc.
Trước khi hòa âm, người nhạc sĩ phải nghiên cứu rất kỹ ca khúc, bởi có rất nhiều thủ pháp khác nhau để hòa âm. Những khúc dạo đầu, nhiều khi có thể dựa trên nét nhạc của tác giả gốc, rồi biến tấu thêm, dựa vào lời của ca khúc để viết thành đoạn nhạc, có ngôn ngữ âm nhạc tương ứng, trên tinh thần của ca khúc.
Nhưng đôi khi, đó cũng có thể là một phiên bản nhạc sáng tác hoàn toàn mới, xuất phát từ chính những cảm xúc, và mức độ thẩm thấu ca khúc của người nhạc sĩ hòa âm, để rồi viết thành đoạn nhạc có chất liệu mới, khiến cho ca khúc được cảm nhận đa dạng nhiều chiều hơn.
Một bài phối hay sẽ làm ca khúc thêm thăng hoa, bay bổng, ca sĩ sẽ thể hiện bài hát sâu sắc, tình cảm hơn và dễ tìm sự đồng cảm ở người nghe. Vì thế, công việc sáng tác của các nhạc sĩ hòa âm phối khí, đôi khi không phải nhạc sĩ viết ca khúc nào cũng làm được.
Ở Việt Nam, kể từ khi nhạc nhẹ lên ngôi, không hiểu do vô tình hay cố ý, nhiều khi chúng ta đã bỏ quên vai trò của người nhạc công. Chỉ có ca sĩ, nhạc sĩ sáng tác ca khúc, ca từ, giai điệu, hay giọng hát... là được nói tới, trong khi đó thì người đóng góp một phần thành công không nhỏ của một bài hát, chính là những nhạc công thể hiện, thì dường như bị lãng quên.
Có một số nhạc sĩ hòa âm phối khí, mà nếu chỉ cần nghe một vài khúc nhạc dạo đầu thôi, là cũng có thể nhận ra ngay được dấu ấn của họ. Thanh Phương là một trong số đó. Được trang bị 15 năm kiến thức âm nhạc guitar cổ điển tại Nhạc viện Hà Nội, tuy nhiên, sau này Thanh Phương lại chuyển sang gắn bó với nhạc nhẹ và thiên về phần hòa âm, phối khí.
Tên tuổi của Thanh Phương ngay từ ban đầu cũng đã gắn liền với những thành công của những giọng ca Việt như : Thanh Lam, Ngọc Anh, và đặc biệt là Trần Thu Hà, hay thế hệ ca sĩ trẻ hơn như: Đoan Trang, Hiền Thục, Tùng Dương, Hà Anh Tuấn.
Quả thật khi nhắc đến Guitarist Thanh Phương, nay còn có thêm vai trò là nhà sản xuất âm nhạc, sẽ không hề quá, khi người yêu nhạc xem anh như một chiếc cầu nối quan trọng, giữa nhạc sĩ sáng tác - ca khúc và ca sĩ.
Nhân dịp ngày 07/09/2013 tới đây, nhạc sĩ Thanh Phương sẽ tham gia đảm trách phần hòa âm phối khí, trong một đêm nhạc diễn ra tại thành phố Bourg La Reine, thuộc vùng phụ cận Paris, với sự góp mặt của nam ca sĩ Đức Tuấn (đến từ Việt nam) và ca sĩ Trần Thu Hà (đến từ Mỹ), Thanh Phương đã dành cho thính giả của tạp chí âm nhạc - đài RFI một buổi phỏng vấn.
TỪ KHÓA : Âm nhạc - Tạp chí - Văn hóa
 

No comments: