Wednesday, August 22, 2012
THƠ TRẦN HỒNG CHÂU
Biển Oan khiên
Trần Hồng Châu
Trần Hồng Châu
biển vẫn biển quê hương
nối dài muôn trùng sóng
hồ khoan vẫn bắc cầu vồng nhớ nhung
lửa tiếp sức vẫn từ lòng đất mẹ...
nhưng dưới sâu
sâu nữa
vạn hồn thuyền nhân
sớm đi tối về
vẫn oan khiên
ngập tràn biển đông!
nước biển có giải oan
trắng tinh hồn nhược tiểu?
nước biển có mặn chát
vạn niềm đau ?
nước biển có rửa sạch
ý thức hệ đen
đồ thán
chất ngất trời xanh ?
sóng vật vờ
sóng thành đỉnh Hy Mã
sóng thành vực A tỳ
thuyền lá tre vút lên lời nguyện cầu
đỏ thương đau
một hạt cát trong vô cùng sa mạc
một giọt nước trong vô cùng đại dương
đoàn hải khấu
ác điểu đen
bỗng đổ sập xuống một trời bóng tối
nữ tu, thôi hết nữ đồng trinh
nghĩa phu thê, thôi lời vĩnh biệt
em gái nhỏ, thôi nhé
dẫm nát một búp hồng non!
mắt loạn thị
đầu hoang tưởng
nhãn ngư, ngư nhãn
điệu hồ khoan, ơ hờ!
ta đã đi đến tận cùng của chịu đựng
đi! cho ta nắm bàn tay tuyệt diệu
cho ta vào lòng biển sâu
vào giấc ngủ vô thường...
dưới sâu vẫn vô vàn cánh bay
dằng dặc
dây xích oan khiên
về lòng đất
ai đây tiêp dẫn
chúng sinh hồn trầm lạc ?
Trần Hồng Châu
( Nhớ Đất Thương Trời )
NGÀY RẰM THÁNG BẢY
Vu-lan
Vu-lan | |
---|---|
Lễ Vu-lan tại chùa Quảng Hóa, Bắc Kinh |
|
Tham gia | phật tử, Đạo giáo |
Ngày | Sáng 15 tháng 7 Âm lịch |
Mục lục
Từ nguyênVu-lan (chữ Hán: 盂蘭; sa. ullambana) là từ viết tắt của Vu-lan-bồn (盂蘭盆), cũng được gọi là Ô-lam-bà-noa (烏藍婆拏), là cách phiên âm Phạn-Hán từ danh từ ullambana. Ullambana có gốc từ động từ ud-√lamb, nghĩa là "treo (ngược) lên". Thế nên các dịch giảTrung Quốc cũng dùng từ Đảo huyền (倒懸), "treo ngược lên" cho từ Vu-lan, chỉ sự khổ đau kinh khủng khi sa đoạ Địa ngục[1].Truyền thuyếtXuất phát từ truyền thuyết về Bồ tátMục Kiền Liên đại hiếu đã cứu mẹ của mình ra khỏi kiếp ngạ quỷ. Vu Lan là ngày lễ hằng năm để tưởng nhớ công ơn cha mẹ (và tổ tiên nói chung) - cha mẹ của kiếp này và của các kiếp trước[1].Theo kinh Vu Lan thì ngày xưa, Mục Kiền Liên đã tu luyện thành công nhiều phép thần thông. Mẫu thân ông là bà Thanh Đề đã qua đời, ông tưởng nhớ và muốn biết bây giờ mẹ như thế nào nên dùng mắt phép nhìn khắp trời đất để tìm[1]. Thấy mẹ mình, vì gây nhiều nghiệp ác nên phải sanh làm ngạ quỷ, bị đói khát hành hạ khổ sở, ông đã đem cơm xuống tận cõi quỷ để dâng mẹ. Tuy nhiên do đói ăn lâu ngày nên mẹ của ông khi ăn đã dùng một tay che bát cơm của mình đi không cho các cô hồn khác đến tranh cướp, vì vậy khi thức ăn đưa lên miệng đã hóa thành lửa đỏ[1]. Mục Liên quay về tìm Phật để hỏi cách cứu mẹ, Phật dạy rằng: "Dù ông thần thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông đâu. Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu được. Ngày rằm tháng bảy là ngày thích hợp để cung thỉnh chư tăng, hãy sắm sửa lễ cúng vào ngày đó". Làm theo lời Phật, mẹ của Mục Liên đã được giải thoát. Phật cũng dạy rằng: chúng sanh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng theo cách này (Vu-Lan Bồn Pháp). Từ đó, ngày lễ Vu-lan ra đời[1]. Truyền thống lễ nghiTrong một số nước Á Đông, ngày lễ này thường được tổ chức vào ngày 15 tháng 7 (Âm lịch), để tỏ hiếu với cha mẹ, ông bà và cũng để giúp đỡ những linh hồn đói khát. Ở Nhật Bản ngày lễ này được tổ chức vào ngày 15 tháng 7, hay là ngày 15 tháng 8 (tính theo Âm lịch) để tỏ những ước nguyện của mình, người ta viết ước nguyện rồi treo vào cây trúc với mong ước điều ước đó sẽ trở thành hiện thực.Tại Việt Nam, việc cúng Rằm tháng Bảy bao giờ cũng phải cúng ở chùa (thờ Phật) trước, rồi mới đến cúng tại gia[2]. Lễ này thường được làm vào ban ngày, tránh làm vào ban đêm, khi Mặt Trời đã lặn[2][3]. Vào ngày này, mọi gia đình đều cúng hai mâm: cúng tổ tiên tại bàn thờ tổ tiên và cúng chúng sinh ở sân trước nhà hoặc trên vỉa hè (nếu đường rộng), thời gian cúng có thể là vào buổi sáng, trưa hoặc chiều[2]. Trên mâm cúng tổ tiên, gia đình bày đặt một mâm cỗ mặn, tiền vàng và cả những vật dụng dành cho người cõi Âm làm bằng giấy tượng trưng từ những vật truyền thống (giống như đồ thật) như quần áo[4][5], giày dép, tivi, tủ lạnh, máy giặt, ngựa, phương tiện giao thông[5], mũ kepi, người giúp việc [6]... đến những vật hiện đại: nhà cao tầng, quạt điện, điều hòa, di động, IPhone...[7][5][4] để cho người cõi Âm có được một cuộc sống tiện nghi giống như người Dương trần.[3] Những đồ lễ đó thường được làm tại một cơ sở sản xuất rồi được xe máy chở đi khắp các tỉnh thành[5][7]. Trên mâm cúng chúng sinh thì lễ vật gồm có: quần áo chúng sinh với nhiều màu sắc (xanh lam, xanh lá mạ, vàng, hồng...), các loại bỏng ngô, chè lam, kẹo vừng, kẹo dồi, bánh quế, cháo, tiền vàng, cốc nước lã hoặc rượu (có thể thêm nước ngọt, bia nếu có điều kiện), cốc gạo trộn lẫn với muối (cốc này sẽ được rắc ra vỉa hè hoặc sân nhà về bốn phương tám hướng sau khi cúng xong), ngô, khoai lang luộc, cháo hoa... và những lễ vật khác dành cho những cô hồn, ma đói không nơi nương tựa. ở chùa khi cúng chúng sinh xong người ta thường gọi những đứa trẻ xung quanh đến rồi cho chúng cùng nhảy vào tranh cướp những vật cúng: như bỏng, oản...Tượng trưng cho những cô hồn...[3] Xem thêmTham khảoCúng Cô hồn ngày Rằm tháng Bảy
21/08/2012
06:03:27
- Tục xưa cho rằng tháng Bảy cửa ngục mở ra, âm cung xóa tội vong nhân,
hồn người chết ở cõi âm được về gặp người sống ở cõi dương gian.
Tục cúng cô hồn thể hiện tinh thần nhân hậu
Về vấn đề cúng Cô hồn, thực ra giáo lý Phật giáo
không đề cập đến một cõi sống nào có tên là Cô hồn cả. Cô hồn chỉ là
cách gọi của dân gian mà thôi.
Tuy nhiên, cúng Cô hồn, theo quan điểm Phật giáo, là bố thí cho những
chúng sinh đang đói khát. Người con Phật luôn phát tâm từ bi, thương xót
mọi loài chúng sinh, đồng thời nguyện tu tạo phước báo bằng cách bố thí
và cúng dường.
Theo tín ngưỡng cổ truyền tin rằng con người có hai
phần: hồn và xác. Khi chết, hồn lìa khỏi xác, xác bị phân hủy còn hồn
sẽ tiếp tục tồn tại. Hồn có thể về trời hoặc đầu thai kiếp khác (làm
người hoặc vật - PV) hoặc bị đày xuống địa ngục tùy theo những điều lành
hay dữ mà người đó làm khi còn sống.
Riêng với người Trung Quốc, gọi cúng Cô hồn là
Phóng diệm khẩu, tức là cúng để bố thí và cầu nguyện cho loài quỷ đói
miệng lửa nhưng dân gian thì hiểu rộng ra thành cúng Cô hồn. Tức là cúng
thí cho những vong hồn vật vờ, không có ai là thân nhân trên trần gian
cúng bái.
Vì thế, ngoài việc bố thí cho người nghèo khổ, súc
sinh đói khát thì hàng Phật tử được khuyến khích bố thí cho Cô hồn được
no đủ, bớt đói khổ, nhằm tăng trưởng phước báo cho tự thân.
Do vậy, nếu thực hành cúng thí Cô hồn đúng pháp thì
được tăng phần phước báo. Nếu không cúng Cô hồn thì cũng chẳng sao vì
bố thí là do tự tâm của mỗi người, không ai bắt buộc chúng ta bố thí
cả.
Rằm tháng Bảy, ngày “xá tội vong nhân” ngoài cúng
lễ tổ tiên, ông bà, cha mẹ quá vãng, mọi người thường thí thực cho Cô
hồn. Bởi cúng Cô hồn là một việc mang tính nhân đạo, để cứu giúp những
linh hồn khốn khổ, thể hiện tinh thần nhân hậu, thương xót kẻ bất hạnh
của tổ tiên người Việt.
Đa dạng lễ cúng cho Cô hồn
Các món đem cúng thường có hương, hoa, đèn, gạo,
muối, nước lã... Trong chùa hoặc tại các gia đình có truyền thống Phật
giáo, người ta cúng bằng các món ăn chay.
Cúng chúng sinh bằng: kẹo, bánh, khoai, oản khảo,
xôi nắm, chuối, muối, gạo, trầu cau, vàng mã… Theo tập tục cổ truyền,
mâm cỗ cúng Cô hồn này sẽ được đặt trước cửa nhà, chùa, đình. Đồ cúng
thường được bày trong một nia lớn.
Nhưng một món đặc biệt hay gặp trong mâm cỗ cúng Cô
hồn là món cháo loãng. Bởi vì người ta tin rằng: món này dành cho những
linh hồn bị đày đọa phải mang một thực quản nhỏ hẹp không thể nuốt được
thức ăn thông thường.
Tại các đình, chùa lễ cúng cháo được tổ chức qui mô
hơn, có lập đàn tràng cầu siêu cho các vong linh trước khi thí cháo.
Tại đây, cháo được đựng trong các bồ đài lá mít cắm dọc theo hai bên vệ
đường dẫn vào lễ đài.
Người ta còn vẩy cháo ra hai ven đường để những cô
hồn già cả ốm yếu cũng nhận được chút phần. Của ít, lòng nhiều, các bài
văn cúng chúng sinh nhắc đến trăm nghìn kiểu chết từ chiến tranh đến
trộm cướp, sát phạt nhau vì tiền, vì tình cho đến ốm đau bệnh tật,
nghiệp chướng…
Các tư gia, ngoài lễ cúng Thổ Công, cúng gia tiên
cũng có cúng cháo cho các Cô hồn. Họ bày cúng ở trước cửa nhà. Ðồ lễ đặt
trên một cái mẹt thường gồm có cháo hoa, những nắm cơm nhỏ, hoa quả,
bánh bỏng, trầu cau, xôi chè cùng với đồ mã.
(Bài viết có sử dụng tài liệu của Thư viện Hoa sen)
|
Thích Thiện Siêu
Thứ nhất, ngày Phật hoan hỷ. Ngày
rằm tháng bảy gọi là ngày đức Phật hoan hỷ, bởi lẽ trong thất chúng đệ tử của
Phật, chúng Tỳ kheo là chúng đệ tử gần gũi nhất, chúng thừa đương Phật pháp để
truyền bá giáo hóa cho chúng sinh, chúng mang hình dáng của Phật làm gương mẫu
ở thế gian, chúng mà trong ba tháng an cư kiết Hạ đã viên mãn và kết thúc vào
ngày rằm tháng bảy âm lịch. Thông thường, khi chư Tăng thọ giới pháp xong là tu
niệm, nhưng vì Phật sự đa đoan nên sự tu niệm ấy không được chuyên cần bằng ba
tháng an cư. Ba tháng an cư theo Luật Phật chế, chúng Tỳ kheo phải cấm túc ở
yên, Hạn chế tối đa sự đi lại, một là vì phong thổ Ấn Độ lúc bấy giờ mùa Hạ là
mùa mưa, các loại côn trùng sinh sản ra nhiều, mà chúng Tăng đi khất thực sẽ
dẫm đạp lên nhiều loại côn trùng, làm tổn thương đến lòng từ bi tế vật. Thứ hai
là, chúng Tăng đi khất thực thì y, áo, bình bát sẽ bị thấm ướt, mất trang
nghiêm, nên thế gian có phần chê trách. Vì vậy, nên đức Phật dạy chúng Tỳ kheo
trong ba tháng mùa mưa phải cấm túc an cư, hạn chế việc đi ra ngoài để tập
trung vào sự tu niệm, củng cố sự sống trong thanh tịnh hòa hợp, cảnh tỉnh thân
tâm để tinh tấn trong con đường đạo hạnh. Cho nên một khi đệ tử của Phật tu
hành trong ba tháng viên mãn thanh tịnh, kết thúc ba tháng an cư, đức Phật vui
mừng lắm. Mừng cho đệ tử của mình đã hoàn thành ba tháng an cư thanh tịnh, cho
nên gọi là ngày Phật vui mừng.
Thứ hai, ngày Tăng Tự tứ. Ngày chúng
Tăng sau ba tháng an cư tu tập nghĩ rằng: Tuy mình đã gắng tu như thế nhưng
không chắc đã tránh hết lỗi lầm, nên ngày rằm tháng bảy cùng nhau tập trung
lại, cầu mong những vị có giới đức thanh tịnh hơn mình chỉ lỗi lầm cho. Nếu mình
tự thấy mắc phải lỗi lầm đó, phải phát lộ sám hối. Đó là một việc hết sức đặc
biệt trong ngày Tự tứ.
Thông thường, mỗi khi có lỗi là tìm cách né
tránh, tìm cách che dấu kẻo sợ người khác biết thì xấu hổ, hoặc sợ nếu biết lỗi
của mình thì lần sau mình không làm lại được nữa, cho nên thường thường là che
dấu, không bộc lộ, trừ khi có ai hỏi đến, kẹt lắm mới nói tới có phạm, có vấp
lỗi nọ lỗi kia. Hoặc giả, có phát lộ sám hối chăng thì cũng phát lộ âm thầm
trước ngôi Tam Bảo, chớ ít khi công khai nhờ người chỉ lỗi cho mình ra giữa Đại
chúng. Nhưng theo đạo Phật, ba tháng Hạ an cư xong rồi, đức Phật dạy hàng Tỳ
kheo phải cầu người khác chỉ lỗi cho mình, nghĩa là không phải để đợi người
khác chỉ mà tự mình phải cầu người khác tự do chỉ cho, mình phải đối trước
người đó mà thưa: "Thưa Đại đức, ngày nay chúng Tăng Tự tứ, tôi cũng Tự
tứ, tôi có điều gì sai phạm mà Đại đức thấy, nghe hoặc nghi, xin Đại đức thương
xót chỉ cho, nếu tôi thấy có phạm thì xin như Pháp sám hối." Nói như vậy
ngầm ý rằng: Tôi không phàn nàn, không thắc mắc và tôi không có oán trách chi
Đại đức hết! Đó chánh là ý nghĩa mà mình phát tâm cầu mong được thanh tịnh,
không có chút nào che dấu, thành tâm cầu người khác tự do nói không e dè chi
hết, nếu thấy có lỗi thì cứ chỉ cho. Đó là một thái độ rất cao thượng cởi mở để
làm cho mình hết sạch tội lỗi. Vì vậy trong ngày đó gọi là ngày Tăng Tự tứ. Tự
tứ nghĩa là cầu người khác không ngần ngại chỉ lỗi mình ra, để cho mình biết mà
sám hối, nên gọi là Tăng Tự tứ.
Thứ ba, ngày Tăng Thọ tuế. Thọ tuế là
nhận tuổi. Theo thế gian, nếu Cha Mẹ sinh ra đủ năm 12 tháng thì mới gọi là
tròn một tuổi. Nhưng trong Luật Phật chế, hàng xuất gia thọ giới của đức Phật
không tính tuổi theo năm tháng kiểu thế gian trên mà tính tuổi theo Hạ lạp.
Nghĩa là năm nào có an cư kiết Hạ được trọn vẹn thì được tính một tuổi. Thí dụ:
Vị nào an cư kiết Hạ từ 15 - 4 âm lịch đến 15 - 7 âm lịch là mãn Hạ, như vậy
được tính một năm Hạ, tức một tuổi Hạ. Ai đã thọ Cụ túc giới nhưng không an cư
thì không tính tuổi Hạ, còn ai kiết Hạ an cư liên tục thì được tính nhiều tuổi
Hạ.
Cho nên chúng ta thường nghe ở các Chùa khi
đọc tiểu sử của một vị Tăng nào viên tịch, thường nhắc đến tuổi đời và Hạ lạp.
Thí dụ vị đó 80 tuổi đời và 60 Hạ lạp, nghĩa là vị đó có tuổi Cha Mẹ sinh là 80
năm, còn tuổi Hạ là 60 Hạ lạp. Hạ lạp được tính và ngày rằm Tự tứ, sau khi đã
tu hành tròn ba tháng Hạ. Tuy nhiên, cũng có trường hợp, đúng theo Luật Phật
chế, 20 tuổi thì được thọ giới Tỳ kheo, nhưng vì thiếu duyên, có vị 25 tuổi mới
thọ giới Tỳ kheo và sau khi thọ giới mỗi năm đều có kiết Hạ. Nếu vị ấy viên
tịch vào tuổi 70, thì vị ấy được 45 tuổi Hạ và 70 tuổi đời. Nếu một vị Tỳ kheo
thọ giới rồi mà không an cư lần nào cả thì coi như vị ấy hoàn toàn không có
tuổi Hạ, khác với Cha Mẹ sinh ta ra, dù ta có làm hay không làm gì đi nữa hoặc
giả có ngủ cả năm đi nữa thì tròn một năm cũng vẫn được tính tuổi từng năm một.
Trái lại, vị Tỳ kheo thì phải có kiết giới an cư thì mới nhận tuổi, còn không
an cư, thì không tính Hạ lạp cũng gọi là giới lạp, pháp lạp. Đó là ý nghĩa của
ngày Phật hoan hỷ, Tăng Tự tứ và Tăng Thọ tuế.
Thứ tư, ngày Vu Lan xá tội vong
nhân. Vu Lan là ngày cầu siêu độ cho tiền nhân quá cố của người con Phật. Tích
Vu Lan bắt nguồn từ việc báo hiếu của Tôn giả Mục Kiền Liên. Tích này được chép
trong kinh Vu lan bồn. Chữ Vu lan bồn phiên âm từ chữ Sanskrit (Phạn) là
Ulambana. Người Trung Hoa dịch nghĩa là Giải đảo huyền (Giải cái tội bị treo
ngược). Câu chuyện trên ý nói rằng, những người nào tạo tội ác thì phải thọ quả
báo nơi địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, chịu sự hành hạ thống khổ cùng cực giống
như người bị treo ngược. Nghĩ đến công ơn Cha Mẹ, khi ngày Vu Lan đến, Phật tử
thường đem tâm chí thành, chí hiếu sắm sửa vật dụng cúng đường Tam Bảo để cầu
nguyện cho thân nhân, tiền vong của mình thoát khỏi cảnh khổ đau cùng cực y như
giải tội bị treo ngược.
Như vậy, ngày Vu Lan là ngày của Phật tử
đền ơn đáp nghĩa bằng cách đến Chùa cầu thỉnh chư Tăng sau ba tháng ăn cư thanh
tịnh, chú nguyện cho vong nhân của mình thoát khỏi cảnh đọa đày tăm tối của địa
ngục, ngạ quỉ và súc sinh, đồng thời cầu nguyện cho tất cả người khác cũng
thoát khỏi tội khổ đau cùng cực như Tôn giả Mục Kiền Liên đã làm khi cứu Mẹ.
* Tích Mục Kiền Liên Cứu Mẹ
Tôn giả Mục Kiền Liên là vị đệ tử xuất
chúng của đức Phật. Tôn giả đã chứng được Lục thông:
Thiên nhãn thông: Được con mắt như mắt
Trời, thấy khắp tất cả.
Thiên nhĩ thông: Được lỗ tai như tai Trời,
nghe thấy khắp tất cả.
Tha tâm thông: Với tâm của mình biết được
tâm của người khác muốn gì, ưa gì.
Túc mạng thông: Là biết đời trước của mình ...
Thần túc thông: Được Thần thông đi dưới đất
hay bay trên không đều tự tại vô ngại. Cũng gọi là Thần cảnh thông.
Lậu tận thông: Dứt trừ mọi lậu hoặc, vượt
thoát ra khỏi vòng sanh tử.
Ngoài ra Tôn giả còn chứng được tuệ nhãn
(trong ngũ nhãn là nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhã và Phật nhãn) tức
là con mắt, thấy được sự vật và tự tính của nó. Chúng sinh chỉ có con mắt thịt,
chỉ thấy những cái trước mắt, vừa tầm, còn những cái xa quá, nhỏ quá, lớn quá
không thấy được. Khi Tôn giả chứng được lục thông và tuệ nhãn liền nhớ đến Cha
Mẹ mình, Tôn giả dùng tuệ nhãn nhìn khắp bốn phương, xem vong mẫu của mình hiện
đang ở đâu? Khi thấy vong mẫu của mình đang ở trong loài ngạ quỷ hết sức đau
khổ và đói khát, Tôn giả buồn bã vô cùng. Tôn giả liền bưng bát cơm đến dâng
Mẹ, nhưng Mẹ Tôn giả vì tâm xan lẫn từ kiếp trước quá nặng nề khởi lên, sợ
người khác trông thấy mà đến giành giựt hoặc xin bớt, cho nên bà một tay che
bát cơm lại, một tay bốc ăn. Nhưng cơm đưa tới miệng đã hóa thành than lửa
không thể nào ăn được. Tôn giả thấy vậy, vô cùng đau xót, không biết làm sao
cứu vớt Mẹ được, bèn về bạch với đức Phật. Ngài dạy: Tội lỗi của Mẹ ngươi, dù
có Thần thông phép lạ của hàng thiên Thần địa kỳ cũng không cứu được đâu! Duy
chỉ có dùng Thần lực của chúng Tăng sau ba tháng an cư, tinh tấn tu hành thanh
tịnh tập trung chú nguyện cho, may ra mới chuyển hóa được nghiệp lực của Mẹ
ngươi, thì Mẹ ngươi mới được thoát khổ cảnh mà thôi.
Nghe vậy, Tôn giả Mục Kiền Liên thưa với
đức Phật: Bạch Thế Tôn, con nay làm sao mà mời chư Tăng mười phương cúng dường
một lúc như vậy được? Đức Phật dạy rằng: Trong ngày Vu Lan là ngày Tự tứ của
chư Tăng, ông nên sắm các thứ cúng dường chư Tăng trong ngày Tự tứ, ngày đó dầu
các vị trong thiền định, hay thọ hạ kinh hành, hay hóa độ nhơn gian, cũng tập
trung lại để Tự tứ và cầu nguyện cho Mẹ ngươi, thì Mẹ ngươi sẽ được thoát khổ,
rồi Tôn giả thực hành theo lời dạy của đức Phật và chính trong ngày đó, Mẹ Tôn
giả thoát được cảnh ngạ quỷ mà hưởng phước báu chư Thiên.
Do vậy, Tôn giả hết sức vui mừng và thưa
với đức Thế Tôn, nếu sau này có chúng sanh nào muốn phát tâm hiếu để mà cầu
nguyện cho Cha Mẹ thoát khổ được vui thì có làm như con được không? Đức Phật
dạy là có thể làm được trong ngày Tự tứ. Do đó, mà trong Phật giáo truyền lại
một Pháp cứu độ cho tiền nhân trong ngày Tăng Tự tứ.
Tôn giả Mục Kiền Liên làm như vậy đã nêu
một tấm gương chí hiếu lớn lao cho tất cả Phật tử noi theo muôn đời.
Tôn giả không những có hiếu trong đời Phật
hiện tại mà Tiền thân Ngài cũng đã là một người con chí hiếu. Trong một Tiền
kiếp, Tôn giả sinh trong một gia đình nông dân. Cha Mẹ chỉ có Tôn giả là con
trai độc nhất, nên vô cùng thương yêu chìu chuộng, và Tôn giả cũng thương yêu
Cha Mẹ không kém. Tôn giả biết Cha Mẹ chỉ sinh có một mình Ngài là con duy
nhất, Tôn giả nghĩ đến ngày Cha Mẹ tuổi già, không biết trông cậy vào ai, nên
Tôn giả nguyện ở độc thân suốt đời để phụng thờ Cha Mẹ, chứ không muốn lập gia
đình. Nhưng trong khi đó Cha Mẹ lại vì thương con không muốn con ở như vậy, sợ
con cô độc, sau này không có ai giúp đỡ lúc trở về già, nên luôn luôn ép con
lập gia đình. Trước sự thúc ép ấy, Tôn giả đành chìu ý Cha Mẹ.
Không may khi lập gia đình, Tôn giả gặp một
người vợ không tâm đầu ý hiệp, nàng ta không phải là mẫu người phụ nữ thuần
lương. Lúc mới cưới nàng về, Tôn giả dạy vẽ cho vợ thay mình hầu hạ Cha Mẹ hôm
sớm, cơm nước dâng lên Cha Mẹ đầy đủ như khi Tôn giả vẫn thường làm. Lúc đầu
người vợ ngoan ngoãn tuân theo, nhưng một thời gian sau nàng tỏ ra lạnh nhạt và
thờ ơ với Cha Mẹ chồng. Vì lẽ, thói thường con trong ruột sinh ra đôi khi còn
chưa thương Cha Mẹ ruột một cách hết lòng huống gì là con dâu, làm sao thương
ông bà gia như thương Cha Mẹ ruột! Ngài vì sinh kế phải đi làm ăn, nàng ở nhà
càng tỏ ra chểnh mảng trong việc hầu hạ Cha Mẹ chồng. Khi đã chểnh mảng, muốn
từ bỏ thì phải tìm kế, lập mưu. Một hôm, Tôn giả đi làm về thấy nước đổ lênh
láng giữa nhà và hỏi nước đâu vậy? Người vợ bèn chỉ vào ông già mà nói rằng:
Ông chướng quá, tôi bưng nước lên dâng ông, ông vung văng, chê nước nóng nước
lạnh không chịu uống rồi vung tay đổ cả ra giữa nhà như vậy đó, tôi chịu hết
nổi!
Rồi một bữa khác, Tôn giả đi làm về thấy
cơm vãi ra giữa nhà và hỏi: Cơm đâu vung vãi ra đầy nhà như vậy? Người vợ liền
chỉ vào bà già trả lời, bà đó, bà chướng quá, tôi nấu cơm để cho nguội, xới
dâng lên cho bà, nhưng bà chê cơm trưa cơm sớm rồi vung vãi ra cùng nhà như vậy
đó, tôi chịu hết nổi! Cứ một điệp khúc ấy bà vợ tỉ tê mãi, riết rồi chồng cũng
phải xiêu lòng nghe theo. Tôn giả nghĩ rằng như thế thì Cha Mẹ mình quá chướng
nên nói với vợ: "Thôi được, ta sẽ có cách"!
Hôm sau, Tôn giả thuê một
chiếc xe ngựa, nói dối với Cha Mẹ rằng, mấy lâu nay Cha Mẹ không về thăm Từ
đường bên ngoại, nay mời Cha Mẹ về thăm một chuyến, để sau này già yếu có nhắm
mắt cũng khỏi ân hận. Cha Mẹ nghe có lý nên đồng ý đi. Tôn giả cầm dây cương
cho xe ngựa lên đường, khi đi đến một đoạn vắng, đường gồ ghề, Tôn giả nhảy
xuống ngựa và nói dối với Cha Mẹ hãy cầm cương hờ để con đi sau bảo vệ kẻo chỗ
này cướp bóc nhiều lắm. Nhưng thật ra, Tôn giả chẳng bảo vệ gì, mà cốt ý lấy
roi quất vào Cha Mẹ mà nói: "Đã chừa chưa? hết chướng chưa? hết chướng
chưa?" Dẫu bị đánh như vậy, nhưng Cha Mẹ không nghĩ là mình bị đánh mà lại
chỉ nghĩ đến con, mà la lên: "Con ơi, lo chạy đi kẻo nó đánh chết, lo chạy
đi con ơi!" Chính trong khi bị đánh mà Cha Mẹ không nghĩ đến mình đau lại
cứ nghĩ con bị đánh chết mà la lên, nên hai chữ con ơi, khi ấy nó đã đánh thức
Tôn giả. Khiến Tôn giả nghe hai tiếng đó nó thiêng liêng, mặn nồng, tha thiết
trìu mến và thắm thiết một cách lạ kỳ. Tôn giả sực tỉnh ra là mình bất hiếu quá
sức! Cha Mẹ thương mình như vậy mà mình lại bất nhân, thiếu đức, nên Tôn giả
liền hồi tâm và vội vã cho xe quay về và sám hối Cha Mẹ. Khi về tới nhà Tôn giả
quyết định cho vợ về quê của nàng và nguyện sống ở độc thân như vậy suốt đời
với Cha Mẹ. Đó là một tiền kiếp của Tôn giả.
Còn kiếp hiện tại, Tôn giả có tên là Mục
Kiền Liên, một người con chí hiếu, muốn thực hiện sự báo hiếu cho Cha Mẹ mà lúc
ở nhà chưa thực hiện được. Nên trong đời sống xuất gia, Tôn giả quyết tâm thực
hiện để đưa Cha Mẹ mình đến cảnh an vui.
Câu chuyện của Tôn giả Mục Kiền Liên trong
quá khứ và hiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con
còn biết có Mẹ có Cha. Phần nhiều ai cũng có lòng hiếu với Cha Mẹ, nhưng vì
không được un đúc, nhắc nhở, không gặp thầy hay bạn tốt nên có khi tâm bị lung
lay trở thành bất hiếu. Có trường hợp bất hiếu vì nghe theo bạn ác, có khi nghe
theo danh lợi, quyền thế, nghe theo cờ bạc, rượu chè, hoặc có khi làm nên ông
này bà nọ rồi lên mặt với Cha Mẹ, anh em, coi thường bà con cô bác, láng giềng
mà trở thành bất hiếu. Chẳng hạn có một anh nọ gặp may trở thành một quan chức
lớn. Lúc đó chưa có xe đưa rước, về nhà Cha Mẹ nói đâu dạ đó. Nhưng khi làm một
chức quan to rồi thì không thèm dạ như xưa nữa sợ mất thể diện ông quan. Như
vậy là vì nghe theo quyền thế mà trở nên bất hiếu.
Lại có người mù quáng học đòi theo thói văn
minh vật chất tự do ích kỷ, mà không biết đến văn minh đạo đức hiếu để cho nên
trở thành bất hiếu.
Như vậy, sự tích của Tôn giả Mục Kiền Liên
là một gương quí nhắc nhở chúng ta vun bồi lòng hiếu thảo của mình, đừng để
lòng hiếu thảo bị các thứ khác làm vẩn đục, làm cho mù quáng, mà đánh mất đi.
Trong kiếp quá khứ, Tôn giả Mục Kiền Liên
thiếu cảnh tỉnh nên trở thành bất hiếu chỉ vì nghe theo lời vợ. Trong xã hội
xưa cũng như nay, có những người con rất có hiếu với Cha Mẹ, nhưng khi chung
đụng với xã hội, gặp hoàn cảnh không tốt, ít thân cận bạn hiền, bị tác động bởi
sự xấu xa nên khi trở về nhà, Cha Mẹ nói không nghe, anh chị khuyên bảo không
chịu, lại còn cãi lại, Cha không hiểu chi, Mẹ không biết chi, còn mình đây mới
hiểu, mới sáng suốt, mới có học. Đó là một thái độ thiếu cảnh tỉnh nên bất
hiếu.
Do đó, cho nên ai có gần gũi bạn lành, lo
tinh tấn tu niệm thì mới trở thành nhũng người con có hiếu. Trong Kinh Trường A
hàm, đức Phật có chỉ cho chúng ta cách báo hiếu tốt nhất là: Nếu gia đình nào
có những người con mà biết Bố thí, biết Ái ngữ, biết Lợi hành và biết Đồng sự
thì Cha Mẹ mới nhận được sự hiếu kính của con. Nếu người con nào không biết Bố
thí, không biết Ái ngữ, không biết Lợi hành và không biết Đồng sự thì Cha Mẹ
không hưởng được sự hiếu kính của con.
Thứ nhất là bố thí. Kinh A hàm dạy
người hiếu kính Cha Mẹ là người biết tu Hạnh Bố thí. Người biết bố thí thì luôn
luôn đem tâm hoan hỷ bố thí cho mọi người, dù chỉ là một nụ cười, một cử chỉ
cung kính. Nụ cười ấy, cử chỉ cung kính ấy, sự dịu dàng ấy, cách ăn nói ôn hòa
ấy là của mình, nhưng nếu mình không làm, không thể hiện là không có bố thí.
Khi mình làm và thể hiện thì sẽ đem an vui đến cho mọi người, chứ không nhất
thiết phải hạn cuộc ở bố thí tiền bạc. Đôi lúc một nụ cười khiến cho người ta
tiêu tan đau khổ, trong khi mình đem một túi tiền cho họ chưa chắc họ đã hết
đau khổ. Như vậy, người con biết bố thí thì Cha Mẹ mới hưởng được sự hiếu kính
của con, còn nếu con chỉ biết quí tiền của, xan tham, chỉ muốn bòn rút của Cha
Mẹ, thì chắc chắn Cha Mẹ không hưởng được sự hiếu kính của con.
Đã có trường hợp như sau. Một bà Mẹ thiếu
thốn, già yếu, người con không thèm hỏi tới. Khi Mẹ đau ốm mặc kệ, ăn ngủ không
được cũng chả hề quan tâm. Người Mẹ buồn chán đi ở với bà con hàng xóm. Hàng
ngày, bà đi bán nước chè và đi mót lúa giành dụm mua được tấm vé số, khi dò may
sao bà trúng. Khi nghe Mẹ trúng số thì người con lật đật tới nói với Mẹ:
"Thôi Mẹ về ở với con cho vui, con ở xa nhớ Mẹ, đêm hôm đau ốm không ai lo
cho Mẹ!" Như vậy người con khi thấy Mẹ thiếu thốn không có thì hất hủi,
khi thấy Mẹ có rồi thì hỷ hả, vì sao? Vì người con thiếu tu, xem của cải, miếng
ăn nặng hơn ơn sinh thành dưỡng dục của Cha Mẹ. Cho nên trong một gia đình, nếu
vì tâm bỏn xẻn, anh em giành nhau, nghi nhau, không có tâm bố thí thì Cha Mẹ sẽ
không hưởng được sự ích lợi từ con cái. Và ngược lại, con cái có tâm bố thí thì
sẽ đem lại an lạc cho Cha Mẹ. Đó là lợi ích của bố thí.
Thứ hai là ái ngữ. Ái ngữ là một
điều hết sức cần thiết, nó cũng rất dễ làm mà cũng rất khó làm. Ái ngữ là nói
dịu dàng, thân ái. Có người cho rằng: Lời nói dịu dàng có chi đâu mà khó làm.
Thế nhưng khó vô cùng, nếu không tu không thể nói ái ngữ được, như câu chuyện
sau đây:
Ngày xưa, một người chỉ nuôi sống gia đình
với một con ngựa đi chở thuê, nhờ nó mà hàng ngày gia đình có ăn có mặc. Ngày
kia, người ta đem đồ đến thuê chở trễ quá, anh ta nóng lòng chờ đợi đến chiều
mới có đồ người ta thuê chở về. Sẵn bực tức trong lòng, nên vừa bỏ đồ lên xe
ngựa, anh liền đánh con ngựa một cái và nói: Đồ nhãi ranh, đi, đi, đồ ăn hại,
đồ chết bằm. "Nghe vậy, con ngựa ì ra đó, không đi, đánh mấy cũng cứ ì ra
đó. Anh đành chịu và xuống xe. Một hồi sau, cơn nóng giận trôi qua, anh dịu
dàng đến vuốt ve con ngựa, âu yếm nói với nó: "Thôi gắng đi đi con, còn ít
giờ nữa là về nhà, giúp ta chở về nhà đi con.” Con vật nghe vậy, nó nhẹ nhàng
dùng sức kéo chiếc xe đi ngay. Con vật mà cũng biết được giá trị của ái ngữ
huống chi là người ta. Do đó, đối với Cha Mẹ, ta phải dùng ái ngữ, nếu không sẽ
trở thành bất hiếu.
Thứ ba là lợi hành. Lợi hành là làm
việc lợi ích. Khoan nói lợi ích cho xóm làng, cho xã hội mà nói lợi ích cho
mình, cho gia đình mình. Có những người con coi việc gia đình mình như việc ai
đâu, không liên quan đến mình, không thèm sờ tay tới, thậm chí như bưng chén
nước chén cơm cho Cha già Mẹ yếu cũng không hề làm tới. Đó là những việc lợi
hành mà không làm, không làm như vậy thì Cha Mẹ làm sao hưởng được sự hiếu kính
của con!
Thứ tư là đồng sự. Cùng làm chung
với nhau, cùng làm lụng đồng sự với nhau, gây cảm tình thương yêu vui vẻ lẫn
nhau, còn không thì không làm sao gây tình cảm hiếu kính với Cha Mẹ được. Cho
nên Phật dạy một cách thấm thía rằng: Người nào biết Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành
và Đồng sự thì Cha Mẹ mới hưởng được sự hiếu kính của người con.
Như vậy, báo hiếu Cha Mẹ bằng cách biết
công ơn Cha Mẹ sâu dày như non cao bể cả, mà tiền nhơn của chúng ta đã nhắc
tới:
"Công Cha như núi ngất Trời,
Nghĩa Mẹ như nước ở ngoài biển đông,
Núi cao biển rộng mênh mông,
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi.”
Tiền nhân chúng ta nói thiết tha lắm; cù
lao chín chữ ghi lòng con ơi, cốt ghi chín chữ cù lao là chúng ta có hiếu rồi.
Nhưng báo hiếu Cha Mẹ bằng hình thức chưa đủ mà còn phải báo hiếu bằng tinh
Thần.
Trong kinh đức Phật dạy rằng: Cha Mẹ chưa
an trú trong Chánh Pháp, làm sao giúp đỡ, dắt dẫn Cha Mẹ an trú trong Chánh
Pháp, Cha Mẹ chưa an trú trong điều Lành thì làm sao cho Cha Mẹ an trú trong
điều Lành, Cha Mẹ chưa Quy y Tam Bảo thì nên đưa Cha Mẹ an trú trong Quy y Tam
Bảo. Như vậy, Cha Mẹ không những hưởng được phúc lạc vật chất bên ngoài mà còn
hưởng được phúc lạc trong tâm hồn, giải thoát bớt phiền trược, xa lánh được thế
gian chấp trước, vọng tưởng luân hồi sanh tử, mà đức Phật đã nhắc nhở. Khi Cha
Mẹ giải thoát, an vui thì sự báo hiếu của người con mới thành tựu. Nên cổ đức
có câu: "Phụ mẫu đắc ly trần, hiếu đạo phương thành tựu.” (Cha Mẹ được
giải thoát, lìa khỏi trần ai thì người con mới tròn hiếu đạo).
Là người Phật tử, hãy ghi nhớ lời Phật dạy
như vậy để hàng ngày tu niệm, hàng ngày hồi hướng công đức về cho tiền nhân của
mình, nhất là trong ngày lễ Vu Lan, thành tâm chí kính, niệm Phật, tụng Kinh,
lạy Phật, cúng đường Tam Bảo, cúng dường chư Tăng Tự tứ, để cầu mong sự chú
nguyện của Chư Tăng cho tiền vong của mình thoát khỏi u đồ mà siêu sanh lạc
quốc. Đó mới tạm gọi là con hiếu, là người Phật tử thuần hành trong mùa báo
hiếu.
Gởi bởi: tkl
Cách cúng rằm tháng bảy tại nhà | ||
Cúng rằm tháng bảy hay còn gọi cúng Tết Trung Nguyên, cúng Vu
Lan báo hiếu tại nhà thường có 4 lễ: cúng Phật, cúng thần linh, cúng gia
tiên, và cúng thí thực cô hồn.
1. Cúng Phật
Trước
tiên, đó là ngày lễ Vu Lan, xuất phát từ tích kể đức Mục Kiền Liên xả
thân cứu mẹ. Ta sắp một mâm cơm chay hoặc đơn giản hơn là mâm ngũ quả để
cúng Phật rồi thụ lộc tại nhà.
Khi
cúng, tốt nhất là đọc một khoá kinh - Kinh Vu Lan - để hiểu rõ về ngày
này, hồi hướng công đức cho những người thân trong quá khứ được siêu
sinh. Kinh Vu Lan khá dài, nhưng không đến mức quá dài, lại thuộc thể
thơ song thất lục bát nên đọc cũng nhanh thôi.
2. Cúng thần linh và gia tiên
Ngày
Rằm tháng Bảy, theo tín ngưỡng dân gian, còn là ngày mở cửa ngục, các
vong nhân được xá tội nên có lễ cúng Cô Hồn (vào buổi chiều) cho các
vong linh không nhà cửa, không nơi nương tựa.
Một
số người Việt Nam tin rằng Lễ Xá tội vong nhân bắt nguồn từ công việc
đồng áng của người nông dân trước kia. Hằng năm, cứ đến tháng 6-7 âm
lịch là vào vụ thu hoạch mùa màng. Để công việc được may mắn, không gặp
trắc trở, người dân thường cầu xin thần linh, thổ địa... bắt giam những
yêu ma, oan hồn lại cho khỏi quấy nhiễu.
Đến
đúng ngày 15/7, mọi việc phải được hoàn tất, đó cũng là lúc "ông thần
tha ma, chủ nhà tha thợ cấy", "mở cửa ngục xá tội vong nhân". Và cũng
vào ngày này, người ta thường làm một lễ cúng tạ ơn các thần linh, và
một mâm tưởng nhớ ông bà tổ tiên để cầu nguyện cho các vong hồn siêu
thoát và cầu bình an cho gia đình. Vì vậy nên đa phần các gia đình
thường cúng cơm mặn, nhưng cúng chay tốt hơn.
a. Văn khấn cúng thần linh tại gia rằm tháng 7
Nam mô A Di Đà Phật
Kính
lạy: Ngài Kim niên Đương cai Thái tuế Chí đức Tôn thần, ngài Bản cảnh
Thành hoàng chư vị đại vương, ngài Bản xứ Thần linh Thổ địa, ngài Bản
gia Táo quân vàChư vị thần linh cai quản xứ này.
Hôm nay là ngày rằm tháng 7 năm Kỷ Sửu (2009)
Tín
chủ chúng con tên là: … ngụ tại nhà số …., đường …., phường (xã) ….,
quận (huyện) …, tỉnh (thành phố) …. Thành tâm sắm sửa hương hoa, lễ vật
và các thứ cúng dâng, bày lên trước án.
Chúng
con thành tâm kính mời: Ngài Kim niên Đương cai Thái tuế Chí đức Tôn
thần, ngài Bản cảnh Thành hoàng chư vị đại vương, ngài Bản xứ Thần linh
Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân và tất cả các vị thần linh cai quản trong
khu vực này. Cúi xin các ngài giáng lâm án tọa, soi xét chứng giám.
Nay
gặp tiết Vu Lan, ngày vong nhân được xá tội, chúng con đội ơn Tam bảo,
Phật trời phù hộ, thần linh các đấng chở che, công đức lớn lao nay không
biết lấy gì đền đáp.
Do
vậy, chúng con kính dâng lễ bạc, bày tỏ lòng thành, nguyện xin nạp thọ,
phù hộ độ trì cho chúng con và cả gia đình chúng con, người người khỏe
mạnh, già trẻ bình an hương về chính đạo, lộc tài vương tiến, gia đạo
hưng long.
Giải tấm lòng thành cúi xin chứng giám.
b. Văn tế khấn Tổ tiên ngày rằm/7
Nam mô A Di Đà Phật
Kính lạy Tổ tiên nội ngoại họ … và chư vị hương linh.
Hôm nay là rằm tháng bảy năm Kỷ Sửu
Gặp
tiết Vu Lan vào dịp Trung nguyên, nhớ đến Tổ tiên, ông bà, cha mẹ đã
sinh thành ra chúng con, gây dựng cơ nghiệp, xây đắp nền nhân, khiến nay
chúng con được hưởng âm đức. Vi vậy cho nên nghĩ, đức cù lao không báo,
cảm công trời biển khó đền. Chúng con sửa sang lễ vật, hương hoa kim
ngân và các thứ lễ bày dâng trước án linh tọa.
Chúng
con thành tâm kính mời: Các cụ Cao tằng Tổ khảo, Cao tằng Tổ tỷ, Bá
thúc đệ huynh, cô dì tỷ muội và tất cả hương hồn trong nội tộc, ngoại
tộc của họ … (Nguyễn, Lê, Trần …)
Cúi
xin thương xót con cháu, linh thiêng giáng lâm linh sàng chứng giám
lòng thành, thụ hưởng lễ vật, phù hộ cho con cháu khỏe mạnh, bình an,
lộc tài vượng tiến, gia đạo hưng long, hướng về chính đạo.
Tín
chủ lại mời: các vị vong linh y thảo phụ mộc, phảng phất ở đất này,
nhân lễ Vu Lan giáng lâm linh tọa, chiêm ngưỡng tôn thần, hâm hưởng lễ
vật, độ cho tín chủ muôn sự bình an, sở cầu như ý.
Giải tấm lòng thành cúi xin chứng giám.
4. Cúng thí thực cô hồn (hay còn gọi cúng chúng sinh – theo Phật giáo miền Bắc)
Mâm
cúng cô hồn thường có: quần áo chúng sinh gỡ ra từng món, rải xuống
dưới mâm, một ít vàng tiền cũng làm như vậy, vài chén cháo trắng loãng, 1
đĩa muối, 1 đĩa gạo, 1 ít bỏng gạo và kẹo bánh các loại, ngô/khoai/sắn
luộc rồi cắt thành khúc nhỏ v.v...
Ta
có thể khấn nôm na, đơn giản, hoặc tụng nghi thức cúng thí thực cô hồn
(cúng chúng sinh) trong Kinh Nhật tụng có sẵn tại các chùa..
Thích Minh Trí
|
NGUYỄN DU * VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH
NGUYỄN DU * VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH
Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi may lạnh buốt xương khô,
Não người thay buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng.
Đường bạch dương bóng chiều man mác,
Ngọn đường lê lác đác sương sa,
Lòng nào là chẳng thiết tha,
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.
Trong trường dạ tối tăm trời đất,
Có khôn thiêng phảng phất u minh,
Thương thay thập loại chúng sinh,
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người.
Hương khói đã không nơi nương tựa,
Hồn mồ côi lần lữa đêm đen,
Còn chi ai quí ai hèn,
Còn chi mà nói ai hiền ai ngu?
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Nước tĩnh bình rưới hạt dương chi
Muôn nhờ đức Phật từ bi,
Giải oan, cứu khổ, hồn về tây phương.
Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh,
Chí những lăm cướp gánh non sông,
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau.
Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở
Khôn đem mình làm đứa sất phu,
Lớn sang giàu nặng oán thù,
Máu tươi lai láng, xương khô rã rời.
Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
Quỷ không đầu than khóc đêm mưa
Cho hay thành bại là cơ
Mà cô hồn biết bao giờ cho tan!
Cũng có kẻ màn lan trướng huệ,
Những cậy mình cung quế Hằng Nga,
Một phen thay đổi sơn hà,
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?
Trên lầu cao dưới cầu nước chảy
Phận đã đành trâm gãy bình rơi,
Khi sao đông đúc vui cười,
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.
Đau đớn nhẽ không hương không khói,
Luống ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.
Thương thay chân yếu tay mềm
Càng năm càng héo, một đêm một rầu.
Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn bút son thác sống ở tay,
Kinh luân găm một túi đầy,
Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.
Thịnh mãn lắm oán thù càng lắm,
Trăm loài ma mồ nấm chung quanh,
Nghìn vàng khôn đổi được mình
Lầu ca, viện hát, tan tành còn đâu?
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước
Biết lấy ai bát nước nén nhang?
Cô hồn thất thểu dọc ngang,
Nặng oan khôn nhẽ tìm đường hóa sinh.
Kìa những kẻ bài binh bố trận
Đem mình vào cướp ấn nguyên nhung.
Gió mưa sấm sét đùng đùng,
Dãi thây trăm họ nên công một người.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc,
Bãi sa trường thịt nát máu rơi,
Bơ vơ góc bể chân trời,
Nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao?
Trời thăm thẳm mưa gào gió thét,
Khí âm huyền mờ mịt trước sau,
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,
Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?
Cũng có kẻ tính đường trí phú,
Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn,
Ruột rà không kẻ chí thân
Dẫu làm nên để dành phần cho ai?
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ,
Của phù du dẫu có như không,
Sống thời tiền chảy bạc ròng,
Thác không đem được một đồng nào đi.
Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm
Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm
Ngẩn ngơ trong quảng đồng chiêm,
Nén hương giọt nước, biết tìm vào đâu?
Cũng có kẻ rắp cầu chữ quý
Dấn mình vào thành thị lân la,
Mấy thu lìa cửa lìa nhà,
Văn chương đã chắc đâu mà trí thân?
Dọc hàng quán phải tuần mưa nắng,
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng,
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng,
Anh em thiên hạ láng giềng người dưng.
Bóng phần tử xa chừng hương khúc
Bãi tha ma kẻ dọc người ngang,
Cô hồn nhờ gửi tha phương,
Gió trăng hiu hắt, lửa hương lạnh lùng.
Cũng có kẻ vào sông ra bể,
Cánh buồm mây chạy xế gió đông
Gặp cơn giông tố giữa dòng,
Đem thân vùi rấp vào lòng kình nghê.
Cũng có kẻ đi về buôn bán,
Đòn gánh tre chín dạn hai vai,
Gặp cơn mưa nắng giữa trời,
Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?
Cũng có kẻ mắc vào khóa lính,
Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan,
Nước khe cơm ống gian nan,
Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời.
Buổi chiến trận mạng người như rác,
Phận đã đành đạn lạc tên rơi.
Lập lòe ngọn lửa ma trơi,
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.
Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp,
Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa,
Ngẩn ngơ khi trở về già,
Đâu chồng con tá biết là cậy ai?
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa,
Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?
Cũng có kẻ nằm cầu gối đất,
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi,
Thương thay cũng một kiếp người,
Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan!
Cũng có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi mình vào chiếu rách một manh.
Nắm xương chôn rấp góc thành,
Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi?
Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé,
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha.
Lấy ai bồng bế vào ra,
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.
Kìa những kẻ chìm sông lạc suối,
Cũng có người sẩy cối sa cây,
Có người leo giếng đứt dây,
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.
Người thì mắc sơn tinh thủy quái
Người thì sa nanh sói ngà voi,
Có người hay đẻ không nuôi,
Có người sa sẩy, có người khốn thương.
Gặp phải lúc đi đường lỡ bước
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
Hồn xiêu phách tán biết đâu bây giờ?
Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi,
Hoặc là nương ngọn suối chân mây,
Hoặc là bụi cỏ bóng cây,
Hoặc nơi quán nọ cầu này bơ vơ.
Hoặc là nương thần từ, Phật tự
Hoặc là nơi đầu chợ cuối sông
Hoặc là trong quãng đồng không,
Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre.
Sống đã chịu nhiều bề thảm thiết,
Gan héo khô dạ rét căm căm,
Dãi dầu trong mấy mươi năm,
Thở than dưới đất, ăn nằm trên sương.
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn,
Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra,
Lôi thôi bồng trẻ dắt già,
Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.
Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ,
Phóng hào quang cứu khổ độ u,
Rắp hòa tứ hải quần chu,
Não phiền rũ sạch, oán thù rửa không.
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại,
Chuyển pháp luân tam giới thập phương,
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương,
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh,
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao,
Mười loài là những loài nào?
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.
Kiếp phù sinh như hình bào ảnh,
Có chữ rằng: "Vạn cảnh giai không"
Ai ơi lấy Phật làm lòng,
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo,
Của có chi bát cháo nén nhang,
Gọi là manh áo thoi vàng,
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.
Ai đến đây dưới trên ngồi lại,
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu.
Phép thiêng biến ít thành nhiều,
Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sình.
Phật hữu tình từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có không không.
Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng
Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài.
Toát hơi may lạnh buốt xương khô,
Não người thay buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng.
Đường bạch dương bóng chiều man mác,
Ngọn đường lê lác đác sương sa,
Lòng nào là chẳng thiết tha,
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.
Trong trường dạ tối tăm trời đất,
Có khôn thiêng phảng phất u minh,
Thương thay thập loại chúng sinh,
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người.
Hương khói đã không nơi nương tựa,
Hồn mồ côi lần lữa đêm đen,
Còn chi ai quí ai hèn,
Còn chi mà nói ai hiền ai ngu?
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Nước tĩnh bình rưới hạt dương chi
Muôn nhờ đức Phật từ bi,
Giải oan, cứu khổ, hồn về tây phương.
Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh,
Chí những lăm cướp gánh non sông,
Nói chi những buổi tranh hùng
Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau.
Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở
Khôn đem mình làm đứa sất phu,
Lớn sang giàu nặng oán thù,
Máu tươi lai láng, xương khô rã rời.
Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
Quỷ không đầu than khóc đêm mưa
Cho hay thành bại là cơ
Mà cô hồn biết bao giờ cho tan!
Cũng có kẻ màn lan trướng huệ,
Những cậy mình cung quế Hằng Nga,
Một phen thay đổi sơn hà,
Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?
Trên lầu cao dưới cầu nước chảy
Phận đã đành trâm gãy bình rơi,
Khi sao đông đúc vui cười,
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.
Đau đớn nhẽ không hương không khói,
Luống ngẩn ngơ dòng suối rừng sim.
Thương thay chân yếu tay mềm
Càng năm càng héo, một đêm một rầu.
Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn bút son thác sống ở tay,
Kinh luân găm một túi đầy,
Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu.
Thịnh mãn lắm oán thù càng lắm,
Trăm loài ma mồ nấm chung quanh,
Nghìn vàng khôn đổi được mình
Lầu ca, viện hát, tan tành còn đâu?
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước
Biết lấy ai bát nước nén nhang?
Cô hồn thất thểu dọc ngang,
Nặng oan khôn nhẽ tìm đường hóa sinh.
Kìa những kẻ bài binh bố trận
Đem mình vào cướp ấn nguyên nhung.
Gió mưa sấm sét đùng đùng,
Dãi thây trăm họ nên công một người.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc,
Bãi sa trường thịt nát máu rơi,
Bơ vơ góc bể chân trời,
Nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao?
Trời thăm thẳm mưa gào gió thét,
Khí âm huyền mờ mịt trước sau,
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,
Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?
Cũng có kẻ tính đường trí phú,
Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn,
Ruột rà không kẻ chí thân
Dẫu làm nên để dành phần cho ai?
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ,
Của phù du dẫu có như không,
Sống thời tiền chảy bạc ròng,
Thác không đem được một đồng nào đi.
Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm
Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm
Ngẩn ngơ trong quảng đồng chiêm,
Nén hương giọt nước, biết tìm vào đâu?
Cũng có kẻ rắp cầu chữ quý
Dấn mình vào thành thị lân la,
Mấy thu lìa cửa lìa nhà,
Văn chương đã chắc đâu mà trí thân?
Dọc hàng quán phải tuần mưa nắng,
Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng,
Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng,
Anh em thiên hạ láng giềng người dưng.
Bóng phần tử xa chừng hương khúc
Bãi tha ma kẻ dọc người ngang,
Cô hồn nhờ gửi tha phương,
Gió trăng hiu hắt, lửa hương lạnh lùng.
Cũng có kẻ vào sông ra bể,
Cánh buồm mây chạy xế gió đông
Gặp cơn giông tố giữa dòng,
Đem thân vùi rấp vào lòng kình nghê.
Cũng có kẻ đi về buôn bán,
Đòn gánh tre chín dạn hai vai,
Gặp cơn mưa nắng giữa trời,
Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?
Cũng có kẻ mắc vào khóa lính,
Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan,
Nước khe cơm ống gian nan,
Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời.
Buổi chiến trận mạng người như rác,
Phận đã đành đạn lạc tên rơi.
Lập lòe ngọn lửa ma trơi,
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.
Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp,
Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa,
Ngẩn ngơ khi trở về già,
Đâu chồng con tá biết là cậy ai?
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa,
Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?
Cũng có kẻ nằm cầu gối đất,
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi,
Thương thay cũng một kiếp người,
Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan!
Cũng có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi mình vào chiếu rách một manh.
Nắm xương chôn rấp góc thành,
Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi?
Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé,
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha.
Lấy ai bồng bế vào ra,
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.
Kìa những kẻ chìm sông lạc suối,
Cũng có người sẩy cối sa cây,
Có người leo giếng đứt dây,
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.
Người thì mắc sơn tinh thủy quái
Người thì sa nanh sói ngà voi,
Có người hay đẻ không nuôi,
Có người sa sẩy, có người khốn thương.
Gặp phải lúc đi đường lỡ bước
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
Hồn xiêu phách tán biết đâu bây giờ?
Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi,
Hoặc là nương ngọn suối chân mây,
Hoặc là bụi cỏ bóng cây,
Hoặc nơi quán nọ cầu này bơ vơ.
Hoặc là nương thần từ, Phật tự
Hoặc là nơi đầu chợ cuối sông
Hoặc là trong quãng đồng không,
Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre.
Sống đã chịu nhiều bề thảm thiết,
Gan héo khô dạ rét căm căm,
Dãi dầu trong mấy mươi năm,
Thở than dưới đất, ăn nằm trên sương.
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn,
Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra,
Lôi thôi bồng trẻ dắt già,
Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.
Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ,
Phóng hào quang cứu khổ độ u,
Rắp hòa tứ hải quần chu,
Não phiền rũ sạch, oán thù rửa không.
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại,
Chuyển pháp luân tam giới thập phương,
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương,
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh,
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao,
Mười loài là những loài nào?
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.
Kiếp phù sinh như hình bào ảnh,
Có chữ rằng: "Vạn cảnh giai không"
Ai ơi lấy Phật làm lòng,
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo,
Của có chi bát cháo nén nhang,
Gọi là manh áo thoi vàng,
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.
Ai đến đây dưới trên ngồi lại,
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu.
Phép thiêng biến ít thành nhiều,
Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sình.
Phật hữu tình từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có không không.
Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng
Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài.
No comments:
Post a Comment