Tuesday, October 25, 2016

TRƯƠNG TẤN SANG

Thursday, August 1, 2013

MỸ DU BÌNH LUẬN



 Thành quả và bất cập trong chuyến công du lớn
Việt-Long-GS Nguyễn Mạnh Hùng
2013-08-01
Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
summit-305
Hai nguyên thủ Mỹ-Việt họp báo tại toà Bạch ốc - 25-7-2013
Screen caption
Chuyến công du của Chủ tịch Nước của Việt Nam sang Hoa Kỳ được những ý kiến trong và ngoài nước nhận xét khá khác biệt, khác biệt ngay cả giữa những ý kiến từ bên ngoài Việt Nam. GS Nguyễn Mạnh Hùng trả lời cuộc phỏng vấn của Việt-Long, nói lên nhận định của một chuyên gia trong lãnh vực bang giao quốc tế. GS dạy môn bang giao quốc tế tại đại học George Mason ở Virginia, Hoa Kỳ.

Tính chất của hai hiệp ước với Trung Quốc và Hoa Kỳ

Việt-Long: Việt Nam và Hoa Kỳ ký kết thoả thuận thiết lập đối tác toàn diện, giữa những thoả ước khác về TPP, hợp tác an ninh quốc phòng, khoa học, giáo dục... trong đó có thoả thuận tăng cường hợp tác tại các diễn đàn an ninh quốc phòng khu vực. Trước đó Việt Nam đã ký với Trung Quốc một hiệp định chiến lược trong đó quy định hai nước phối hợp và điều phối với nhau trong chính sách ngoại giao. Những hiệp định này với nội dung như vậy có gì tương đồng hay mâu thuẫn về quyền lợi không?
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Hai hiệp định này khác nhau. Với Trung Quốc, Việt Nam ký hiệp ước hợp tác chiến lược toàn diện, còn với Hoa Kỳ, đó là hiệp ước đối tác toàn diện, không có từ "chiến lược", hai cái khác nhau nhiều,  không có gì mâu thuẫn. Tại Trung tâm nghiên cứu chiến lược và bang giao quốc tế CSIS ở Washington D.C. khi được hỏi liệu thoả ước giữa Mỹ với Việt Nam có anh hưởng đến bang giao với các nước khác không, ông Trương Tấn Sang đã khẳng định Việt Nam là một nước thành viên Liên Hiệp Quốc, có quyền ký kêt hiệp ước với bất kỳ thành viên nào của Liên Hiệp Quốc.
Việt-Long: GS cho biết thành quả nào quan trọng nhất trong Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ-Việt vừa qua.

Những bất cập

GS Nguyễn Mạnh Hùng: Một cách tổng quát, thành quả không đúng như dự đoán, nhưng cũng có một số điều thuận lợi. Trước hết, về những gì không đúng theo tiên đoán, hay ước vọng, thì trong hội nghị Shagri La, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đoc một diễn văn rất lớn, nói rằng Việt Nam muốn thiết lập đối tác chiến lược với tất cả các hội viên thường trực của Hội đồng Bảo An; ba năm trước đó Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton cũng nói Hoa Kỳ muốn tạo đối tác chiến lược với Việt Nam, Hai bên đều có ý muốn đó. Sau đó Việt Nam đi nhiều nước để ký các hiệp ước đối tác chiến lược. Riêng đối với Mỹ khi đến đây người ta không thấy chuyện đó.Như vậy rõ ràng đã không như tiên đoán, hay kỳ vọng.
Điểm thứ hai: Khi Bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh rồi sau đó là Tổng tham mưu trưởng Đỗ Bá Tỵ sang Mỹ trước ông Sang có một tháng thôi, có nói Việt Nam muốn thiết lập quan hệ toàn diện với Mỹ, trong đó có quan hệ quốc phòng nữa. Như vậy chuyến đi của ông Sang cũng không đưa đến những gì khác biệt với những điều như ông Tỵ đã nói, và kém với những gì mong muốn của ông Dũng.
Điểm kế tiếp, ông Thanh cùng ông Tỵ đều nói nếu bình thường hoá quan hệ quốc phòng thì dĩ nhiên phải bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương với Việt Nam, nhưng việc đó cũng không xảy ra. Vì vậy một chuyến thăm lớn mà không đạt được những kết quả đó thì không đúng với dự đoán hay ước vọng.

Những thành đạt

Tuy nhiên, ngược lại, có những điểm khác phản ảnh mối quan tâm của Việt Nam. Có một điều ít người để ý là trong bản tuyên bố chung của hai nhà lãnh đạo, thường thường có những điều khoản tôn trọng lẫn nhau, lưỡng lợi, không can thiệp nội bộ... thì lần này có câu "tôn trọng thể chế chính trị" của nhau. Điều đó phản ảnh sự quan tâm của Việt Nam. Một điểm khác cũng ít được để ý, là hai ông đều nhấn mạnh tầm quan trọng của việc học tiếng Anh ở Việt Nam để Việt Nam có thể hoạt động hữu hiệu hơn khi TPP được lập ra. Đó là mối quan tâm của hai người, và là điều ông Mỹ muốn. Trong lãnh vực hợp tác thì Việt Nam cũng được một điều là lần đầu tiên thông cáo chung nói đến vấn đề biển Đông, gọi là biển Nam Trung hoa. Trong đó Tổng thống Mỹ có ý muốn quốc tế không sử dụng võ lực; điều này đúng với lập trường của Việt Nam, hay có thể nói Mỹ thiên về lập trường của Việt Nam rõ rệt hơn trong vấn đề biển Đông.
Một điểm quan trọng nữa, là hiệp ước giữa công ty dầu khí Mỹ với Petro Vietnam. Trung Quốc thường doạ là nước ngoài không nên phát triển khai thác gần vùng tranh chấp (ở biển Đông), nay Mỹ xác nhận là những công ty này sẽ hoạt động ở (nơi đó) tại  Việt Nam. Điều này giúp Việt Nam được an tâm hơn, với sự giúp đỡ của Mỹ.
Đó là những điều tôi thấy có positive.

Vấn đề an ninh quốc phòng

Việt-Long:  Thoả thuận hợp tác an ninh quốc phòng trong hội nghị thượng đỉnh vừa rồi có quy định tiếp tục cộng tác theo tinh thần "bản ghi nhớ năm 2011 về tăng tiến hợp tác quốc phòng song phương"; vậy thoả thuận này có đem lại cho Việt Nam một bảo đảm nào về lãnh hải, lãnh thổ không?
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Không có bảo đảm nào, chỉ có tăng cường hợp tác an ninh quốc phòng thôi. Tăng cường như vậy thì đến đâu mới hay đến đó, Mỹ không bảo đảm gì cả. Chỉ có việc là năm 2008 Tổng thống Bush có cam kết trong thông cáo chung với ông Dũng , có nói là Mỹ "ủng hộ sự vẹn toàn lãnh thổ và độc lập chủ quyền của Việt Nam. Ủng hộ không có nghĩa là cam kết bảo vệ, hai cái khác nhau, thì nguyên tắc đó vẫn tiếp tục. Còn có cam kết bảo vệ nhau không thì tuỳ diễn tiến trong khi hai bên có quan hệ quốc phòng.

Lợi ích của TPP

Việt-Long: Hiệp ước  kinh tế xuyên Thái Bình Dương TPP một khi hoàn tất có đem lại lợi ích gì cho Việt Nam khi sức sản xuất của Việt Nam thua kém hầu hết các nước thành viên hiệp ước?
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Có nhiều cái lợi. Trước hết là mở được thị trường lớn của nước Mỹ. Những rào cản cản trở những gì Việt Nam làm được sẽ mở ra, có lợi cho rât nhiều. Dĩ nhiên có những rắc rối về sự đòi hỏi nguồn nhiên liệu (của hàng dệt may là một ví dụ) nhưng TTP vẫn là điều lợi hiển nhiên nếu được thực hiện. Ngoài ra còn những điều lợi khác, không thuần kinh tế mà có thể cũng gián tiếp liên quan đến kinh tế, chẳng hạn khi tham gia hiệp ước đó thì phải cải tổ rất nhiều, tức là đụng chạm đến vấn đề SOE, các công ty xí nghiệp quốc doanh, mà hiện nay như là vùng cấm kỵ. Nên Việt Nam muốn cạnh tranh, bắt buộc phải cải tổ lãnh vực đó. Và khi vào TPP thì có một initiative, có pressure, có áp lực bắt buộc cải tổ, thì đó là điều tốt cho Việt Nam.
Thêm nữa, khi Việt Nam vào TPP thì đại đa số trong đó là những nền kinh tế thị trường, nên Việt Nam đương nhiên được chấp nhận như một nền kinh tế thị trường với những quyền lợi của kinh tế thị trường mà hiện nay Việt Nam chưa có.
Trong TPP thì Việt Nam là nước Cộng Sản duy nhất, các nước khác đều là không cộng sản, họ đều là dân chủ hay bán dân chủ. Sự trao đổi này cũng có ảnh hưởng khuyến khích Việt Nam cải tổ chính trị, học Việt-Long được kinh nghiệm của các quốc gia để cải tổ cho thể chế của mình phù hợp với thể chế các nước khác, đưa đến những sự cộng tác mật thiết hơn.
Những điều lợi đó  là những điều quan trọng mà không phải là tính bằng tiền.

Vấn đề nhân quyền

Việt-Long: Trong lãnh vực nhân quyền hai bên không nói tới một trường hợp cụ thể nào, trong khi người mà Tổng thống Obama từng nhắc đích danh, lá blogger Điếu Cày, thì vẫn đang tuyệt thực. Những người khác từng được hành pháp và lập pháp Hoa Kỳ yêu cầu Việt Nam trả tự do cũng không được nhắc tới trong thông cáo chung cũng như trong buổi họp báo.  Như vậy Hoa Kỳ đã đạt được lợi ích nào về mặt ủng hộ dân chủ và nhân quyền trên thế giới, là lý tưởng và cũng là nhiệm vụ mà nước Mỹ tự gánh vác?
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Tôi đã nói nhiều lần là quyền lợi quốc gia có ba loại: chiến lược, kinh tế và quyền lợi về giá trị của mình, tức là value. Hoa Kỳ nói đến việc đó từ thời Tổng thống Carter, và càng ngày vấn đề nhân quyền càng trở thành quan trọng trong nội bộ nước Mỹ. Từ sau ông Carter nhiều định chế nhân quyền được lập ra. Đã có định chế thì người ta phải hoạt động. Vì thể nhân quyền là vấn đề không bỏ được.
Còn lần này thì thông cáo chung có nói đến vấn đề nhân quyền. Có nhấN mạnh rằng vấn đề nhân quyền rất quan trọng.

Những thành quả nhỏ, và nhãn quan tích cực

Việt-Long: GS vui lòng cho một nhận định tổng quát và toàn diện về hội nghị thượng đỉnh vừa rồi giữa Hoa Kỳ và Việt Nam.
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Về phương diện quốc gia, người ta thấy có một số điểm tiến tới giữa Việt Nam và Mỹ, nhưng tương đối nhỏ. Phải chờ xem sau khi lập ra chín cơ chế tăng cường quan hệ, người ta có làm được gì không, tiến bộ tới đâU. Nói cách khác đây là một dự án chưa hoàn thành; tuy nhiên cũng đạt được một số điểm để tiến tới đó, đó là điểm thứ nhất mà tôi thấy.
Điểm thứ hai là, không đúng như người ta tiên đoán, hay kỳ vọng, như ký được TPP, ký được đối tác chiến lược, thì chưa tới được chỗ đó.
Ngược lại có vài điểm tuy nhỏ những cũng có positive đối với (trong nhãn quan của)  người Mỹ. Ví dụ cung cách hành xử của ông Trương Tấn Sang. Ông Sang là một nguyên thủ Việt Nam đầu tiên đến phát biểu trong một thinktank hàng đầu của nước Mỹ, là Trung tâm nghiên cứu chiến lược và bang giao quốc tế CSIS (Center for Strategic and International Studies); dĩ nhiên bài nói chuyện của ông Sang thì đã được soạn sẵn, nhưng phần trả lời thì ông trả lời rất lưu loát, rất thoải mái trước một cử toạ toàn là những chuyên viên.  Và tôi đã thấy người ta vỗ tay ông ấy trong một số những câu trả lời. Điểm thứ hai, mà tôi thấy ông cũng khôn khéo, là sau cuộc gặp gỡ ở CSIS thì ông Sang đi New York, qua ngày hôm sau, sau một số buổi họp, tiếp tân, ông ấy đã đặc biệt gặp riêng ông bà Clinton. Việc này là một hành động khá khéo léo, người ta có thể gọi là "dùng hòn đá ném chết hai con chim". Thứ nhất ông ấy chứng tỏ Việt Nam cảm nhận, cám ơn vị Tổng thống đầu tiên ra quyết định dỡ bỏ hàng rào với Việt Nam, là người đầu tiên sang thăm Việt Nam khi ông (Clinton) còn tại chức. Điều thứ hai là ông tìm cách, có thể là làm thân với ba Clinton, người có thể trở thành Tổng thống Hoa Kỳ trong nhiệm kỳ tới. Đó là hành động đầu tư cho tương lai, có ý nghĩa về phương diện bang giao giữa hai nước.
Việt-Long: Xin cám ơn giáo sư đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn hôm nay.
 
Sợ Trung Quốc, Hà Nội tìm điểm tựa ở Washington
Ngoại trưởng Mỹ John Kerry và Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang, Washington DC - REUTERS /L. Downing
Ngoại trưởng Mỹ John Kerry và Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang, Washington DC - REUTERS /L. Downing
Lưu Tường Quang / Tú Anh
"Tổng thống Obama và tôi sẽ thảo luận các phương án thắt chặt quan hệ đối tác giữa hai nước trong tinh thần bảo vệ hòa bình, ổn định và an ninh hàng hải tại Biển Đông , quyền lợi và quan tâm chung của nhiều nước trong và ngoài khu vực". Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang đã trả lời như trên câu hỏi của hãng tin Bloomberg về mục tiêu chuyến công du Mỹ với trọng điểm là cuộc hội kiến tại Nhà Trắng vào hôm nay 25/07/2013.
Không hẹn mà các bài nhận định của giới phân tích quốc tế cũng như thông điệp của giới nhân sĩ trí thức, blogger tại Việt Nam nhân chuyến công du Hoa Kỳ của chủ tịch Trương Tấn Sang có cùng một nhận định : phải bắt tay với Mỹ để thoát gọng kềm Trung Quốc.
David Brown, nguyên là nhà ngoại giao từng phục vụ tại Việt Nam phân tích rằng Hà Nội đang tìm cách thoát mối đe dọa từ Trung Quốc. Sự kiện ông Trương Tấn Sang, sau từ Trung Quốc trở về, đã cấp tốc sang Mỹ là dấu hiệu Hà Nội « đã bị chấn động vì những gì mà Tập Cận Bình đã nói riêng với ông Sang » tại Bắc Kinh hồi tháng 6 vừa qua.
Chuyên gia Úc Carl Thayer nhận định lãnh đạo Việt Nam sang Mỹ để thực hiện Nghị quyết của Bộ chính trị về Hội nhập Quốc tế chủ yếu là Quan hệ đối tác xuyên Thái bình dương TPP, không có Trung Quốc.
Trong khi đó, giới nhân sĩ, chuyên gia, blogger Việt Nam kêu gọi giới lãnh đạo Việt Nam, mà đặc biệt là ông Trương Tấn Sang hãy « nắm lấy thời cơ chứng tỏ bản lãnh » đưa đất nước ra khỏi bàn tay của « chủ nghĩa Đại Hán ».
Trong bức tâm thư công bố trên mạng Bauxitvn, các nhân sĩ nhấn mạnh hiệp ước thương mại đối tác xuyên Thái Bình dương TPP do Hoa Kỳ đề xướng, là giải pháp quan trọng giúp Việt Nam « tháo gỡ » gọng kềm Trung Quốc và giải quyết những khó khăn kinh tế hiện nay song song với cởi mở chính trị.
Liệu Hà Nội cần phải nắm bắt thời cơ như thế nào để bảo vệ quyền lợi của dân và đất nước ? RFI đặt câu hỏi với nhà phân tích Lưu Tường Quang từ Sydney.
« Hà Nội đang đi tìm điểm tựa ở Washington để may ra đối trọng lại phần nào với Trung Quốc Nếu chính phía Việt Nam đề nghị gặp tổng thống Obama thì đây là một bước tiến có thể gọi là tích cực của Hà Nội nhằm tạo một môi trường mới trong việc bang giao với Bắc Kinh, tương tự như Miến Điện đã đi tìm điểm tựa ở Washington để từ bỏ cái quá khứ lệ thuộc »
 

Hậu Obama-Sang: Bao lâu cho lộ trình TPP?



CỠ CHỮ
TPP chỉ có thể sinh ra từ lòng thành chính trị, tương ứng với các điều kiện về dân chủ và nhân quyền. Bài toán gần như rõ ràng: đáp số của nó sẽ được đáp ứng khi và chỉ khi Nhà nước Việt Nam tự cam kết về thế ưu tiên trong mối tương quan “đi dây” – chọn Trung Quốc hay Mỹ.

Triển vọng lạc quan?

Trước và trong cuộc hội kiến Obama-Trương Tấn Sang ở Washington, theo quán tính chỉ đạo của Ban tuyên giáo trung ương, một số tờ báo đảng đã ồn ã trong “chiến dịch” cổ xúy cho điều được xem là “triển vọng lạc quan” của TPP, tức Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương mà Việt Nam trông ngóng bấy lâu nay.

Việt Nam sẽ là nước hưởng lợi nhiều nhất từ Hiệp định TPP - những tờ báo này “dự báo”. Một lần nữa sau sự kiện Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO vào năm 2007, giới quan chức ngoại giao và thương mại Việt Nam lại vẽ ra một bức tranh khá xán lạn cho các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu – những đối tượng đã bị biến thành một loại “con tin” của các nhóm lợi ích đầu cơ trong suốt gần ba năm suy thoái đến mức trầm uất khó tin từ đầu 2011 đến nay.

Nhưng nếu suy xét một cách tỉnh táo, giới quan sát độc lập có thể trông đợi gì về TPP cùng ánh hồng lạc quan của nó?

Giám đốc xin giấu tên của một doanh nghiệp thủy sản ở Sài Gòn không quá che đậy cảm nghĩ của bà: “Từ hồi gia nhập WTO đến giờ, kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp tôi cũng chẳng tăng được bao nhiêu. Không hẳn là thị trường Mỹ tăng sức ép cạnh tranh và làm khó doanh nghiệp Việt bằng các vụ kiện cáo bán phá giá, mà từ bộ ngành đến các cơ quan của chính quyền địa phương đều quá quan liêu trong việc hỗ trợ và bảo vệ cho doanh nghiệp, thua xa nhà nước Thái Lan. Cứ cái cung cách này mà có “tiến ra biển lớn” theo TPP thì cũng không có mấy hy vọng quen được với sóng nước. Không cẩn thận có khi còn lật thuyền cũng nên”.

Thực tế 6 năm dầm sương dãi nắng trên bàn tiệc WTO đã trở thành một trải nghiệm đắt giá cho các doanh nghiệp và cả các cơ quan quản lý kinh tế Việt Nam nếu muốn ăn chắc mặc bền với TPP. Năng lực điều hành yếu kém, công tác dự báo hoàn toàn chưa ngang tầm với một quốc gia tham gia vào các hiệp định thương mại đa phương, quá nhiều vấn đề còn tồn tại trong hoạt động quản trị vi mô tại các doanh nghiệp…đã khiến cho lượng hàng hóa và giá trị xuất khẩu từ Việt Nam đi các nước trong khu vực và trên thế giới không mấy khả quan, dù đã được dán cái mác “WTO”.

Cho tới nay, cá basa và tôm vẫn là những khúc mắc luôn bị kiện cáo và tranh chấp giữa các doanh nghiệp Mỹ và Việt Nam. Hiện trạng này cũng đóng góp cho thực trạng còn xa mới được xem là tốt của doanh nghiệp Việt khi chuẩn bị để tham gia thị trường quốc tế, trong đó không thể không nhấn nhá đến thực tế thiếu am hiểu về luật pháp quốc tế.

Phép thử bình đẳng

Lịch sử và các vận hội thương mại đã chứng minh hùng hồn là cùng với nhiều tham vọng thiếu chân đứng của Việt Nam, không phải những gì mong đợi đều có thể xảy đến một cách trọn vẹn. Khác với thái độ “ưu ái” của cơ chế WTO cách đây 6 năm, nhiều rào cản đã được thiết lập đối với lộ trình tham gia vào TPP. Kể cả nếu Việt Nam có được chấp nhận tham gia vào hiệp định này, vẫn còn nhiều rào cản khác xuất hiện.

Một trong những rào cản sâu kín nhất đối với các doanh nghiệp Việt Nam chính là vấn đề xuất xứ của hàng hóa.

Theo điều khoản về xuất xứ hàng hóa được đề xuất ở TPP, các sản phẩm xuất khẩu trong các nước thành viên phải có xuất xứ nội khối TPP mới được hưởng ưu đãi. Ngay lập tức, giới chuyên gia trong nước nhận ra rằng đây là một bất lợi vì Việt Nam chủ yếu nhập khẩu nguyên phụ liệu từ các nước bên ngoài TPP để gia công hàng xuất khẩu. Hiển nhiên, nếu không chuyển đổi được vùng nguyên liệu, hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ không được hưởng ưu đãi thuế.

Nhưng làm thế nào để chuyển đổi vùng nguyên liệu, một khi phần lớn nguyên phụ liệu lại được Việt Nam nhập khẩu chủ yếu từ Trung Nam Hải chứ chẳng phải từ địa chỉ nào khác?

Chưa hết, một số chuyên gia cũng đánh giá rằng hàng Việt Nam còn có thể phải đối mặt với các vụ kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp nhiều hơn nếu tăng được kim ngạch xuất khẩu vào các nước TPP. Bởi không giống như các hiệp định khác, TPP hướng tới một sân chơi bình đẳng, không phân biệt quốc gia phát triển hay đang phát triển nên không có chính sách ưu tiên như khi Việt Nam đàm pháp gia nhập WTO...

Hệ quả của quá khứ lại là tiền đề cho tương lai. Sau WTO, nền kinh tế Việt Nam đang chuẩn bị đối diện với một phép thử mới là TPP. Nhưng liệu các doanh nghiệp Việt Nam có rút ra được bài học nào sắc nét để cải thiện tình thế quẫn bách của họ hay không?

Phép thử này, tất nhiên, không thể không liên quan đến cuộc gặp ở Washington của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang vào những ngày cuối tháng 7/2013.

Chỉ có điều, sau gần hai năm sốt ruột, tất cả chỉ mới bắt đầu đối với người Việt.

Hai năm?

Trong các chuyến làm việc trước đây với những người chủ trì TPP, giới chức lãnh đạo Việt Nam từng tha thiết đề nghị rút ngắn lộ trình tham gia hiệp định này vào tháng 10/2013. Trương Tấn Sang là người nằm trong số đó.

Nhưng cho đến nay và sau đến 18 vòng đàm phán TPP, xem ra mọi chuyện vẫn giậm chân tại chỗ. Vẫn không có bất kỳ tín hiệu nào cho thấy những quốc gia chủ chốt của TPP, đặc biệt là Nhà trắng, sẽ động não xem xét việc kết nạp Việt Nam vào hiệp định này.

Cuộc hội kiến Obama – Sang vào cuối tháng 7/2013 lại càng trở nên mù mờ khi cảm giác nào cũng có mà thực chất lại chẳng có xúc giác nào được chứng thực. Phía sau bản tuyên bố chung Việt – Mỹ người ta không nhận ra bóng dáng một thỏa thuận chi tiết nào về TPP.

“Sẽ thông qua sớm nhất vào cuối năm 2013” – như một hứa hẹn của Tổng thống Obama cho viễn cảnh Việt Nam tham dự vào buổi tiệc đứng TPP.

Còn Ernest Z. Bower, cố vấn cao cấp và cũng là giám đốc Chương trình Đông Nam Á của Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế Hoa Kỳ, lại ám chỉ rằng lộ trình thủ tục TPP dành cho Việt Nam còn phải phụ thuộc vào Quốc hội Hoa Kỳ - cơ quan có vai trò thông qua vấn đề này vào năm 2014, và nếu mọi chuyện không có gì trắc trở, phải sau hai năm nữa tính từ thời điểm này, giới chính trị gia Việt Nam mới có thể được thỏa mãn tham vọng trở thành đối tác xuyên Thái Bình Dương của họ.

“Chúng ta vẫn còn nhiều việc phải làm với nhau” - đại diện thương mại Mỹ Michael Froman nêu ra quan điểm xuyên suốt như thế sau cuộc gặp với ông Trương Tấn Sang vào cuối tháng 7/2013.

Quãng đường vẫn còn dài, thậm chí rất dài.

Nhưng Việt Nam liệu có chờ đợi được hai năm nữa, khi bóng dáng một cuộc khủng hoảng kinh tế đang lộ diện?

Trong trường hợp xảy ra suy thoái hoặc khủng hoảng kinh tế thế giới vào những năm tới, những lô cốt cuối cùng của nền kinh tế Việt Nam sẽ có thể bị tàn phá kiệt quệ cùng nhiều hệ lụy không còn là gián tiếp. Vốn đang nằm trong xu thế không chỉ suy thoái gần như toàn diện nội lực mà còn quá kém hiệu quả trong cơ chế xuất khẩu và chịu ảnh hưởng không nhỏ từ làn sóng thoái vốn đầu tư nước ngoài, Việt Nam sẽ nhanh chóng rơi vào tình thế bĩ cực không lối thoát. Một cuộc khủng hoảng toàn diện đối với nền kinh tế Việt Nam cũng từ đó rất có thể khởi phát.

Cuộc khủng hoảng có thể như thế còn cần được tính thêm một yếu tố cộng hưởng rất “láng giềng”: Trung Quốc.

Nếu cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới kỳ vọng được bắt nguồn từ nguồn cơn suy thoái nặng nề và khủng hoảng của nền kinh tế Trung Quốc, Việt Nam sẽ phải chịu hiệu ứng kép: một do suy thoái kinh tế giai đoạn cuối, nặng nề hơn nhiều so với giai đoạn suy thoái kinh tế gần ba năm qua; và một do ảnh hưởng từ bầu không khí hỗn loạn và có thể cả động loạn xã hội ở Trung Quốc.

Lòng thành chính trị?

Muốn vượt qua cơn khủng hoảng trầm kha rất có thể diễn ra trong trung hạn, nền kinh tế Việt Nam cần có tiền và thị trường xuất khẩu. Những nguồn vốn mới và thị trường mới sẽ giúp đất nước này hồi phục phần nào năng lực sản xuất và do đó sẽ kéo giảm tỷ lệ thất nghiệp cùng nhiều hệ quả xã hội.

TPP là một trong rất ít lối thoát có thể có cho Việt Nam.

Nhưng với thái độ không cần che giấu của người Mỹ, TPP lại chỉ có thể sinh ra từ lòng thành chính trị, tương ứng với các điều kiện về dân chủ và nhân quyền. Bài toán gần như rõ ràng: đáp số của nó sẽ được đáp ứng khi và chỉ khi Nhà nước Việt Nam tự cam kết về thế ưu tiên trong mối tương quan “đi dây” – chọn Trung Quốc hay Mỹ.

Về mặt lý thuyết, cơ hội để “thoát Trung” cùng vô số nguy cơ từ an ninh biển Đông có thể được giải thoát bởi người Mỹ. Nếu tận dụng cơ hội này, với điều kiện phải thể hiện được bản lĩnh của mình trong mối giao hòa với tâm cảm của đại đa số người dân trong nước và mục tiêu chiến lược địa - chính trị của phương Tây, chính đảng cầm quyền ở Hà Nội mới có được cơ may tránh thoát một phần ảnh hưởng của Bắc Kinh. Cũng khi đó, Hà Nội sẽ nhận được sự hậu thuẫn của Washington và những thủ phủ chính của Cộng đồng châu Âu về TPP. Cuộc khủng hoảng kinh tế tiềm tàng ở Việt Nam cũng do đó có thể sẽ được khuôn hẹp với những hậu quả không quá lớn.

Trong trường hợp đó, chính đảng cầm quyền ở Việt Nam dù có phải “trả giá” bằng một cơ chế cởi mở hơn về dân chủ nhân quyền và chấp nhận sự tồn tại của một hình ảnh mang tính trang trí về một xã hội dân sự manh nha, kể cả phải thỏa hiệp với sự hình thành và vận hành của một lực lượng phản biện đối lập nào đó tại đất nước này …, họ vẫn có thể duy trì kinh tế tạm ổn định, để logic tiếp theo là vẫn tiếp tục bám giữ quyền lực một đảng chi phối và quyền lợi của giới lãnh đạo trong một thời gian nào đó.

Có lẽ, đã có những con người lãnh đạo trong chính đảng cầm quyền ở Việt Nam tâm tưởng về những kết quả kỳ lạ mà Thein Sein và Myanmar đã làm được và nhận được từ ba năm qua, về một lối thoát khả dĩ cho những chính khách khôn ngoan, biết thời thế và không cam nhận sống lưu vong hoặc mất trắng.

Mắt xích còn lại là giới lãnh đạo mang xu hướng và cả xu thời cải cách ở Việt Nam có biết biến tâm tưởng thành hành động hay không mà thôi.

Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả. Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Phạm Chí Dũng

Phạm Chí Dũng là nhà báo tự do hiện đang sinh sống tại Sài Gòn

Bốn kịch bản cho cuộc gặp Mỹ-Việt

Cập nhật: 07:01 GMT - thứ tư, 24 tháng 7, 2013
Ông Trương Tấn Sang đã đáp xuống Washington sớm ngày 24/7
Ngay sau khi cuộc gặp Obama - Trương Tấn Sang được Nhà Trắng chính thức thông báo vào ngày 11/7, không khí bình luận trong nước và quốc tế bất chợt sôi động hẳn lên. Người ta nói về và đặt câu hỏi về sự vội vã đáng hoài nghi về chuyến đi của ông Sang.
Lần thứ hai trong năm nay, sau thông báo đột ngột về cuộc diện kiến ông Tập Cận Bình ở Bắc Kinh, cuộc gặp ông Obama của ông Sang là một sự kiện có tính bất ngờ.
Cuộc gặp ở Washington này lại chỉ diễn ra sau cuộc gặp tại Bắc Kinh, và sau khi nguyên thủ hai cường quốc của hành tinh đã có tiếp xúc ở California vào đầu tháng Sáu.
Trong bối cảnh đó, liệu có một nhà lãnh đạo nào của Việt Nam đủ dũng khí để đứng ra tuyên bố sẽ ngả hẳn về phương Bắc hay sang phương Tây?
Hiện thời, chưa có ai trả lời được câu hỏi này. Nhưng nếu bạn là người Việt Nam và cảm nhận được vô số điều khó xử của giới chức lãnh đạo cao cấp ở đất nước đầy phức hợp này, có lẽ bạn sẽ không thể tìm thấy đáp số, ít ra trong ngắn hạn.
Phần đông dư luận vẫn nhìn nhận về cuộc gặp Sang – Obama như một cái gì đó có tính xã giao và có thể cả tính quảng bá – tuyên truyền cho một thế đứng chính trị trên trường quốc tế và có thể cả thế “đi dây” mang nội hàm chính thể lẫn lợi ích cá nhân.
Còn nếu nhìn từ hệ quy chiếu của Nhà Trắng, liệu có xảy đến một kịch bản tiêu cực cho cuộc hội kiến Obama – Sang?
Với những gì đã được “quy chiếu” bởi trục thương mại Mỹ - Trung với những móc xích khóa chặt giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới, cùng hai chuyến diện kiến con thoi như được mặc định của người Việt Nam, gần như chắc chắn sẽ không có kịch bản xấu, bởi điều dễ hiểu là sẽ khó có một mâu thuẫn đủ lớn, ít ra trong ngắn hạn, có thể gây tác động không tốt đến chuyến đi Washington.
Cũng sẽ chẳng có một sự quay lưng hoàn toàn nào của Hoa Kỳ đối với những nguyện vọng và cả tham vọng của Việt Nam.

Những kịch bản lạc quan

"Sẽ chẳng có một sự quay lưng hoàn toàn nào của Hoa Kỳ đối với những nguyện vọng và cả tham vọng của Việt Nam"
Cuộc gặp Việt - Mỹ năm 2007
Vài ngày trước cuộc gặp giữa hai ông Obama – Sang, một nhóm nhân sĩ, trí thức Việt Nam đã gửi thỉnh nguyện thư cho người chuẩn bị bước qua cửa Nhà Trắng.
Không thể nói khác hơn là tâm tư trong bản thỉnh nguyện thư trên, được khởi tả chủ yếu từ các nhân sĩ và trí thức trong nhóm “Kiến nghị 72”, vẫn nặng lòng với vận mệnh dân tộc và vẫn trông đợi, dù chỉ bằng một xác suất rất nhỏ, vào cơ hội “thoát Trung” từ chuyến đi Hoa Kỳ của ngài chủ tịch nước.
Một chuyên gia quốc tế còn nhận định có thể ông Trương Tấn Sang sẽ quyết định “trả một cái giá” để đổi lại sự ủng hộ của người Mỹ trong các vấn đề đối tác chiến lược toàn diện, an ninh khu vực biển Đông và cả những quyền lợi kinh tế liên quan đến Hiệp định TPP.
Một lần nữa, nhiều người lại kỳ vọng vào một sự thay đổi, sau cuộc gặp Nguyễn Minh Triết – George W. Bush cách đây sáu năm mà đã hầu như chẳng tạo ra một hiệu ứng đổi thay nào.
Tất nhiên, hy vọng vẫn là hy vọng, bởi đó là một trong số không nhiều thực tồn có thể tồn tại ở Việt Nam mà không bị đánh thuế.
Những người theo xu thế lạc quan đã vẽ ra một kịch bản tốt nhất có thể, với kết quả cuộc gặp Obama - Sang đi đến thống nhất ký kết những văn bản thỏa thuận ở cấp độ không thấp về sự hỗ trợ hải quân của Hoa Kỳ ở khu vực biển Đông, tiến trình rút ngắn thủ tục cho Việt Nam gia nhập TPP và có thể cả một văn bản hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai quốc gia – điều mà giới ngoại giao Hà Nội luôn xem là một món quà hậu hĩ.
Có lẽ phần lớn con mắt lạc quan trên thuộc về giới chức Đảng và chính phủ.
Trong trường hợp kém khả quan hơn, những văn bản trên có thể chỉ mang tính khung cảnh mà không đề cập vào chi tiết. Đây cũng là trường hợp mà như người ta thường nói, tất cả cần phải có thời gian, mà thời gian lại phụ thuộc vào sự cố gắng của không chỉ một bên mà cả hai phía.
Nếu kịch bản này xảy ra, sẽ có một chỗ giao thoa về quan điểm giữa “hai phía” khác: chính giới cầm quyền và một bộ phận giới quan sát độc và phản biện độc lập trong nước.
Nhưng bộ phận còn lại của giới phản biện độc lập trong nước, và có lẽ đa số trong giới quan sát quốc tế, lại không mấy kỳ vọng vào sự giải quyết rốt ráo những hiện tồn đang ám ảnh.
Bởi sau mọi mục đích, nội lực để đạt được mục đích lại phụ thuộc rất lớn vào lợi thế so sánh của nhà nước Việt Nam và bản lĩnh chính trị của chính khách Việt.
Vậy chính khách Việt đang có trong tay cái gì?

'Đường biểu diễn' nhân quyền

Liệu Việt Nam sẽ nhượng bộ về nhân quyền để xích gần lại hơn với Hoa Kỳ?
Một trong những hiện tồn nặng nề nhất ở Việt Nam là chủ đề “nhân quyền và dân chủ” mà người Mỹ chắc chắn sẽ đặt ra đối với nhà nước cựu thù vào lần gặp gỡ sắp diễn ra.
Quá khứ đã có thể dễ dàng gác lại, và càng có nhiều lý do để bỏ qua vào thời điểm “nhạy cảm” này, nhưng làm thế nào để những người Việt rời Sài Gòn vào ngày 30/4/1975, và trên hết là những người bất đồng chính kiến đang hiện hữu tại Việt Nam, có thể chia sẻ với chính đảng cầm quyền về hệ lụy mà phương Tây luôn căn vặn: đàn áp nhân quyền?
Với những gì mà Hà Nội đã bộc lộ từ sau cuộc đối thoại nhân quyền Việt – Mỹ vào trung tuần tháng 4/2013 đến nay, điều rõ ràng là chưa có một biểu hiện lộ diện nào về khả năng cải thiện tình hình.
Thậm chí, đường biểu diễn quyền làm người ở Việt Nam còn được chia thành hai phân đoạn khá rõ rệt trong nửa đầu năm 2013: trước và sau tháng Tư năm nay.
Ở phân đoạn trước, giới quan sát quốc tế đã chứng kiến một sự kiện chưa có tiền lệ: chuyến làm việc của Tổ chức ân xá quốc tế tại Việt Nam, lần đầu tiên từ năm 1975, với việc các quan chức của tổ chức này còn được tiếp cận những “đối tượng” do họ đề nghị đích danh. Và có thể, ý nghĩa của lần viếng thăm này còn lớn lao hơn cả một ẩn ý nào đó của chuyến “hành hương” đến Vatican của nhân vật số một trong Đảng – ông Nguyễn Phú Trọng – vào đầu năm 2013.
Cùng trong phân đoạn biểu diễn nhân quyền trên, những kiến nghị chưa từng thấy của nhóm “72” về Hiến pháp và điều 4 độc đảng đã tạo nên một xung chấn đủ mạnh trong đời sống chính trị phi chính thức ở Việt Nam – một hiện tượng tâm lý xã hội được xem như không chỉ phản ánh ý thức đối lập của người dân mà còn dắt dây sang tâm trạng “suy thoái” của một bộ phận không quá nhỏ trong khối đảng viên và công chức nhà nước.
Chỉ có điều, sau phân đoạn sôi trào không khí phản biện như thế lại là một sóng xuống khá trầm lắng.
Ngay sau khi cuộc đàm phán nhân quyền Việt – Mỹ kết thúc tại Hà Nội, trưởng phái đoàn là Dan Baer đã không làm cách nào tiếp xúc được với những nhà hoạt động nhân quyền là bác sĩ Phạm Hồng Sơn và luật sư Nguyễn Văn Đài. Cuộc gặp duy nhất mà Dan Baer đạt được chỉ là với linh mục Nguyễn Văn Lý trong nhà tù chế độ. Cha Lý lại là một con chiên nổi tiếng bất đắc dĩ với hình ảnh bị những người không mặc sắc phục bịt miệng tại tòa án.
Hình như Hà Nội vẫn chưa sẵn sàng đối thoại về nhân quyền, dù một số quan chức đã hé mở tâm trạng riêng tư của họ với ngành ngoại giao Cộng đồng châu Âu “hãy cho chúng tôi thêm thời gian”.
"Nếu thời gian đã được chứng nghiệm ở Myanmar với những cam kết đã biến thành hiện thực của Tổng thống Thein Sein ... thì ở Việt Nam lại chưa hiện ra một tinh thần tự nguyện nào."
Song nếu thời gian đã được chứng nghiệm ở Myanmar với những cam kết đã biến thành hiện thực của Tổng thống Thein Sein bằng vào lệnh thả hàng trăm tù chính trị trong hai năm 2011, 2012 và sẽ thả hết trong năm 2013, thì ở Việt Nam lại chưa hiện ra một tinh thần tự nguyện nào.

Kịch bản chiếm ưu thế?

Từ sau cuộc đối thoại nhân quyền Việt – Mỹ, làn sóng bắt bớ blogger lại trào lên. Bất kể vì lý do và động cơ gì, vì an ninh quốc gia hay một động lực riêng tư nào đó, việc bắt giữ ba blogger Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào và Đinh Nhật Uy đã làm dấy lên mối nghi ngờ chưa bao giờ kết thúc của giới nhân quyền Mỹ và châu Âu về điều chưa bao giờ được xem là “thành tâm chính trị” của nhà cầm quyền Hà Nội.
Vậy làm sao có thể hy vọng vào một kịch bản tốt đẹp, hoặc tương đối tốt đẹp, trong cuộc gặp Obama - Sang vào lần này, khi nhân quyền và dân chủ lại là đối trọng mà người Mỹ đang đặt ra như một điều kiện cần?
Chỉ có thể nghĩ đến một kịch bản khá trung dung, thậm chí rất bình thường – kịch bản thứ tư – với xác suất xảy ra lớn nhất.
Tức sẽ không có một thỏa thuận nào gây ấn tượng, dù chỉ là thỏa thuận khung, về các vấn đề TPP, an ninh khu vực biển Đông và đối tác chiến lược toàn diện. Thay vào đó, sẽ chỉ là những lời hứa hẹn trên bàn ngoại giao – một loại quỹ ngôn từ không hề thiếu thốn nếu các nhà ngoại giao thấy chưa cần thiết phải làm đầy đặn hơn nữa.
Những nhà ngoại giao Hoa Kỳ lại không hề muốn bị dư luận dân chúng Mỹ và quốc tế đánh giá về một sai lầm tiếp nối của họ, nếu họ “buông” cho Hà Nội vượt vũ môn để tiếp cận một cách quá dễ dàng với những mục đích tự thân về kinh tế và danh vọng.
WTO 6 năm về trước và Hiệp định thương mại Việt – Mỹ cách đây đúng một “con giáp” là những bài học sần sùi khó nuốt của người Mỹ.
Nếu năm 2007 đánh dấu cuộc đối thoại đầu tiên giữa hai nguyên thủ nhà nước Bush – Triết, thì trước đó một năm, nước Mỹ cũng nhấc Việt Nam ra khỏi danh sách CPC về những quốc gia cần quan ngại đặc biệt về nhân quyền và tôn giáo. Nhưng cũng kể từ thời gian đó, tình trạng nhân quyền và tôn giáo ở Việt Nam lại không có dấu hiệu khả quan hơn, nếu không muốn nói là bị đánh giá “thụt lùi sâu sắc”.
Hiển nhiên, bài học về nhân quyền khép kín không tương xứng với độ mở tối đa về kinh tế đã hằn sâu trong não trạng người Mỹ, cho tới giờ và cho cả những năm tháng trong tương lai.
Sự bất tương xứng như thế lại còn như được gia cố bởi mối quan hệ đang có chiều hướng bền vững giữa Bắc Kinh - một hậu duệ mao - ít vốn chẳng mấy quan tâm đến vấn đề quyền con người và mới đây còn bắt luôn cả một luật sư đang bào chữa cho thân chủ hoạt động nhân quyền mới bị bắt của mình - với Hà Nội.
Cái gì mang tính hệ thống luôn có thể dẫn đến chuỗi logic trong hành xử. Mối quan hệ “mười sáu chữ vàng” có thể đã hữu hảo đến mức mà người Mỹ không còn mơ hồ về việc nhà nước Việt Nam sẽ khó tránh khỏi ảnh hưởng của Trung Nam Hải về chính sách nội trị, đối với những gì và những ai không đồng nhất với ý thức hệ và quyền lợi chính trị của họ.

Lối tắt

Chủ tịch Sang và Barack Obama
Một hệ quả hầu như chắc chắn là cho dù không xảy ra kịch bản tiêu cực cho cuộc hội kiến Obama – Sang, nhưng không phải vì thế mà mọi điều khoản của TPP đều dễ dàng thuận thảo.
Nhận định gần đây của một quan chức châu Âu cho biết khác nhiều với mong muốn của Hà Nội, TPP sẽ không kết thúc lộ trình đàm phán nào vào tháng 10/2013, mà khả năng sớm nhất của hiệp định này là được thông qua bởi Quốc hội Hoa Kỳ vào năm sau. Còn nếu mọi việc thuận lợi, nền kinh tế Việt Nam chỉ có thể tìm ra lối mở qua TPP sau hai năm nữa, tức vào năm 2015.
Khoảng cách từ đây đến năm 2015 có lẽ lại là quá lâu so với thế nôn nóng của những người đang muốn gỡ gạc nền kinh tế khỏi khủng hoảng.
Mà cũng chưa biết chừng, nền kinh tế ấy hoàn toàn có thể bị hoại thư toàn phần chỉ sau hai năm nữa.
Nhưng vẫn còn một lối mở khác - ngắn hơn, cũng là một lối tắt thu rút con đường hòa hợp và hòa giải quốc tế của giới lãnh đạo Việt Nam. Không còn nhiều lựa chọn, đó phải là một hoặc những biểu hiện của lòng thành tâm chính trị - điều đã được phương Tây ghi nhận ở Myanmar, đối với Thein Sein.
Không có thành tâm chính trị, người ta sẽ không đạt được bất kỳ một mục tiêu và kịch bản tốt đẹp nào, dù cho cá nhân.
Bài phản ánh văn phong và quan điểm riêng của tác giả, nhà báo hiện sống ở TP HCM.
 

Trước giờ gặp nguyên thủ Việt - Mỹ

Cập nhật: 11:28 GMT - thứ ba, 23 tháng 7, 2013

Ông Sang là chủ tịch nước Việt Nam thứ hai vào Nhà Trắng từ sau 1975
Ít có chuyến công du của nào của lãnh đạo nhà nước Việt Nam được bình luận từ trước như chuyến đi tới Hoa Kỳ vào tuần này của Chủ tịch Trương Tấn Sang, đặc biệt đáng chú ý là từ một số học giả và nhà quan sát nước ngoài.
Jonathan London, công dân Mỹ tự nhận mình là “người bạn thân của Việt Nam”, mới đây viết trên trang Bấm blog của mình về điều mà ông gọi là “rõ ràng đây là cơ hội lịch sử” mặc dù cho biết ông “không phải là chuyên gia về quan hệ song phương”.
Theo ông London, thực trạng kinh tế “đặc biệt yếu kém” của Việt Nam, hồ sơ Biển Đông và hợp tác quân sự song phương là những mảng để người đứng đầu nhà nước Việt Nam có thể tìm kiếm sự hợp tác và hỗ trợ của Washington.
“Vấn đề cơ bản cho Ba Đình là muốn có những bước đột phá trong hai lĩnh vực quan trọng này, phải có một số thay đổi thực sự mà chưa chắc ĐCSVN có thể làm được”, ông London nhận định.
Vào chiều hôm thứ Ba 23/07 (giờ Washington), chưa đầy hai ngày trước khi Chủ tịch Sang gặp Tổng thống Obama, một nhà báo Mỹ đã đăng bài “Bấm Mr. Sang Comes to Washington”.
Ông Greg Rushford, nhà báo chuyên về phóng sự điều tra chính trị trong mậu dịch quốc tế, đánh giá liệu chính phủ Mỹ có những đề xuất gì có lợi ích thực sự cho ông Sang để ông về “chào hàng” cho Bộ Chính Trị khi trở về Hà Nội.
Bài báo này đưa ra điều mà ông Rushford gọi là những khúc mắc, nếu không muốn nói là có thể làm bẽ mặt, chẳng hạn như khả năng ông Sang phải giải thích cho người đồng nhiệm ông nghĩ rằng Việt Nam có lợi ích gì khi xử tù nhiều nhà hoạt động mà “tội” của họ chỉ là thực thi quyền tự do ngôn luận.
"Nhưng nếu cách ăn nói của ông Obama về nhân quyền làm ông Sang cảm thấy bị xúc phạm, Chủ tịch Nhà nước Việt Nam có thể nêu chủ để dioxin".
Tác giả nhận định vào thời điểm này cách “đi dây” trong chính sách ngoại giao của Việt Nam [giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ] sẽ vẫn tiếp tục.
"Và bởi vì các chủ đề và những bất đồng chia rẽ Việt Nam, Trung Quốc, và Hoa Kỳ là hết sức khó để giải quyết một cách gọn gàng, tình hình sẽ vẫn còn tiếp tục rối ren hơn nữa", tác giả nhận định.
Vấn đề của phía Mỹ là những gì họ muốn từ Việt Nam trong hiệp định TPP không may sẽ chỉ mang lại thêm sự e ngại từ Hà Nội, chẳng hạn như chủ đề quyền của người lao động, tức là Hoa Kỳ sẽ ép Việt Nam theo một cơ chế mà chính phủ Mỹ đóng vai trò giám sát như Washington đã từng làm với nhiều nước Mỹ Latinh, đó là một trong số các chi tiết đáng chú ý trong bài viết này.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho BBC, ông Rushford nói trong đàm phán TPP, chính quyền Obama gây khó khăn cho Việt Nam tiếp cận thêm thị trường hàng may mặc và giầy da của Hoa Kỳ bằng cách đặt điều kiện theo đó để không bị đánh thuế cao khi xuất hàng vào Mỹ thì doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải mua vải và sợi từ nhà cung cấp Mỹ.
Nhân quyền và vũ khí

Một số dân biểu Mỹ họp báo lên án thực trạng nhân quyền VN ngay trước chuyến thăm của Chủ tịch Sang.
Vào sáng hôm 23/07, một số dân biểu tiểu bang California trong đó có một “người bạn” quen thuộc của Việt Nam về mảng nhân quyền là bà Loretta Sanchez tổ chức họp báo tại Quốc hội.
Trước câu hỏi của BBC tại cuộc họp báo này rằng bà nghĩ gì khi báo Quân đội Nhân dân có bài cảnh báo về điều báo này gọi là thứ 'Bấm nhân quyền ngoại nhập', nữ Dân Biểu Sanchez, người cũng là thành viên cao cấp của Ủy Ban Quân Sự Hạ Viện, nói bà sẽ tiếp tục vận động để Hoa Kỳ không viện trợ quân sự, đào tạo và thao tập với quân đội Việt Nam.
Thông cáo của các dân biểu trong đó có ông Royce, Lofgren và Lowenthal biện luận rằng trong khi cuộc gặp của người đứng đầu nhà nước Hoa Kỳ và Việt Nam sẽ tập trung vào mậu dịch, chủ đề nhân quyền phải được coi là một ưu tiên trong quan hệ song phương hiện đang tiếp tục có những thành công.
Nhân quyền, trong đó có quyền thành lập công đoàn độc lập, không chỉ là chủ đề có trong các vòng đàm phán để Việt Nam gia nhập TPP mà còn là rào cản đối với lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam.
"Sửa chữa vũ khí và quân dụng cũ cho Việt Nam cũng mang lại lợi ích lớn cho Hoa Kỳ nhưng quốc hội Mỹ đã cương quyết từ chối nhiều lần"
Bác sỹ Nguyễn Quốc Quân
“Sửa chữa vũ khí và quân dụng cũ cho Việt Nam cũng mang lại lợi ích lớn cho Hoa Kỳ nhưng quốc hội Mỹ đã cương quyết từ chối nhiều lần”, bác sỹ Nguyễn Quốc Quân, nhà vận động dân chủ tại Virginia nói với BBC.
“Ở Mỹ nó không như Việt Nam, ông Obama không có quyền quyết định, quyết định tối hậu là quốc hội Mỹ”.
Trong khi đó giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, Đại học George Mason nói với BBC rằng “thực ra hành pháp có quyền quyết định bán vũ khí cho Việt Nam và không cần phải đi qua Quốc hội nhưng dĩ nhiên hành pháp phải phụ thuộc Quốc hội về ngân sách và phải trả lời các câu hỏi của Quốc hội”
“Việc mua vũ khí có tầm quan trọng chiến lược và ngoại giao rất lớn”, ông nói thêm.
 

'Chưa đủ ủng hộ để bán vũ khí cho VN'

Cập nhật: 11:20 GMT - thứ ba, 23 tháng 7, 2013

Mỹ - Việt giao lưu quân sự nhiều nhưng chưa là đồng minh
Cựu Phó Trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ Catharin Dalpino nói Mỹ vẫn sẽ chưa đồng ý bán vũ khí cho Việt Nam trong chuyến đi của Chủ tịch Trương Tấn Sang vì không đủ ủng hộ trong chính giới Mỹ.
Bà nói thêm Hiệp định thương mại tự do và đầu tư đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và động thái của Trung Quốc trên Biển Đông cũng là hai vấn đề quan trọng trong quan hệ.
Giáo sư Dalpino, hiện là Giám đốc chương trình Chất độc Da cam ở Việt Nam của Viện Aspen, cũng từng là chuyên gia nghiên cứu của Viện Brookings và chuyên về an ninh Đông Nam Á.
Bà cũng là tác giả của ba cuốn sách về chính sách của Hoa Kỳ ở Châu Á cũng như có bài đóng góp cho nhiều sách, báo khác nhau.
Trong chuyến thăm tới Nhà Trắng lần này, Chủ tịch Việt Nam dự định sẽ kêu gọi Mỹ chấm dứt lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam.
Được hãng tin Mỹ AP hỏi qua email về lệnh cấm, ông Trương Tấn Sang nói “nay là lúc để bình thường hóa đầy đủ quan hệ song phương trong mọi lĩnh vực”.
Chủ tịch Việt Nam nói thêm với AP rằng có khác biệt giữa Washington và Hà Nội về nhân quyền, nhưng điều này “hoàn toàn bình thường”.
Trước chuyến đi của Chủ tịch Việt Nam sang Hoa Kỳ, bà Dalpino trả lời ba câu hỏi của BBC qua điện thư.
BBC: Bà có ngạc nhiên trước thời điểm ông Sang thăm Mỹ không khi mà chuyến đi có vẻ diễn ra gấp gáp?
Catharin Dalpino: Tôi không coi khoảng cách ngắn giữa lúc tuyên bố được đưa ra và thời điểm chuyến thăm diễn ra là quan trọng, cho dù khoảng cách hơi ngắn hơn bình thường chút ít.
"Sau chuyến thăm của ông Sang, câu hỏi được đưa ra sẽ là: khi nào Tổng thống Obama sang thăm Việt Nam."
Thông thường các chuyến thăm của các nguyên thủ quốc gia được thảo luận trong vài tuần, thậm chí vài tháng trước khi diễn ra nhưng thời điểm chính xác sẽ không được quyết định cho tới trước khi đi một hay hai tuần.
Phối hợp lịch của hai nguyên thủ không phải là điều dễ dàng. Trong trường hợp này, lên lịch cho chuyến thăm của ông Sang vào tháng Bảy là tốt nhất. Tháng Tám là tháng nghỉ hè ở Washington.
Trong tháng Chín, các nhà lãnh đạo thế giới bay tới New York dự phiên họp Đại hội Đồng Liên Hiệp Quốc và cũng có một vài chuyến thăm chính thức nhưng mọi thứ luôn vội vã vì số lượng quá nhiều.
Tới tháng Mười Tổng thống Obama sẽ đi Bali dự hội nghị APEC và Thượng đỉnh Đông Á ở Brunei.
Như vậy cơ hội tiếp theo để tiếp Chủ tịch Sang sẽ là tháng 11.
Sau chuyến thăm của ông Sang, câu hỏi được đưa ra sẽ là: khi nào Tổng thống Obama sang thăm Việt Nam.
Từ khi trở thành tổng thống ông vẫn chưa sang Việt Nam và sẽ chịu chút sức ép phải làm như vậy trong nhiệm kỳ thứ hai.
BBC: Vấn đề nhân quyền quan trọng tới mức nào trong cuộc gặp ở Nhà Trắng? Hay là cuộc gặp sẽ tập trung vào Hiệp định thương mại tự do và đầu tư đối tác xuyên Thái Bình Dương và động thái của Trung Quốc trên Biển Đông?
Catharin Dalpino: Chính quyền Obama chắc chắn sẽ giữ vấn đề nhân quyền trong nghị trình cuộc gặp giữa Chủ tịch Sang và Tổng thống Obama.
Nhưng Hiệp định thương mại tự do và đầu tư đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và động thái của Trung Quốc trên Biển Đông cũng là hai vấn đề quan trọng trong quan hệ. Tôi nghĩ bất cứ đề cập nào tới an ninh hàng hải trong tuyên bố chính thức sẽ được đưa ra bằng lời lẽ cẩn trọng.
"...Tôi nghĩ bất cứ đề cập nào tới an ninh hàng hải trong tuyên bố chính thức sẽ được đưa ra bằng lời lẽ cẩn trọng."
Chính quyền Obama đang chịu sức ép phải kết thúc TPP (mặc dù vẫn có những phức tạp từ phía Hoa Kỳ chẳng hạn Tổng thống vẫn chưa có Thẩm quyền Thúc đẩy Thương mại), nhưng thời hạn Hoa Kỳ tự đặt ra vào tháng Mười là khá tham vọng.
Hoa Kỳ và Việt Nam chỉ là hai nước trong nhóm lớn hơn các nước đang đàm phán TPP nên cuộc gặp sẽ không giải quyết được hết mọi vấn đề nhưng sẽ là cơ hội để hai bên thảo luận các vấn đề song phương trong khuôn khổ TPP.
Về vấn đề Biển Đông, tôi cho rằng đây sẽ là đề tài được hai bên thảo luận. Nhưng ASEAN và Trung Quốc sẽ có cuộc gặp không chính thức vào tháng Tám và cuộc gặp này sẽ bị ảnh hưởng nếu tuyên bố chính thức từ cuộc gặp giữa ông Sang và ông Obama quá rõ ràng.
Bởi vậy tôi nghĩ bất cứ đề cập nào tới an ninh hàng hải trong tuyên bố chính thức sẽ được đưa ra bằng lời lẽ cẩn trọng.
BBC: Liệu hai bên có đạt được đột phá nào về quốc phòng trong tương lai gần không? Chẳng hạn như một thỏa thuận cụ thể về Cam Ranh hay bán vũ khí cho Việt Nam?
Súng máy M60 dùng trong tập trận chung giữa Hoa Kỳ và Philippines
Việt Nam coi việc bỏ lệnh cấm bán vũ khí mà Washington đang áp dụng với Hà Nội là một phần của bình thường hóa quan hệ
Catharin Dalpino: Dĩ nhiên quan hệ an ninh giữa Hoa Kỳ và Việt Nam lớn hơn Vịnh Cam Ranh hay là bán vũ khí và bao gồm cả những lĩnh vực như đào tạo cho lực lượng gìn giữ hòa bình.
Mặc dù vậy, tôi không tin rằng Hoa Kỳ dự kiến đạt thỏa thuận cụ thể về Vịnh Cam Ranh tương tự như các hiệp định gần đây với Australia (để Thủy quân lục chiến có thể luân phiên tới Darwin) hay với Singapore (để tàu chiến có thể luân phiên tới).
Việt Nam hiện vẫn mở Vịnh Cam Ranh cho hải quân nước ngoài nói chung và sẽ cho phép sử dụng cảng để sửa chữa và tôi nghi ngờ chuyện Lầu Năm Góc muốn nhiều hơn thế trong tương lai gần.
Vấn đề bán vũ khí sẽ liên quan tới cả Quốc hội và chính quyền và Quốc hội thường hay gắn bán vũ khí với nhân quyền.
Nhìn từ phía Hoa Kỳ, không có vẻ là đã có đủ ủng hộ cho việc bán vũ khí.
 

Nhận định về chuyến Hoa du và Mỹ du của ông Trương Tấn Sang

Nhà văn Huỳnh Ngọc Tuấn
RFA – 2013-07-31
000_Del439721-305.jpg
TBT Nguyễn Phú Trọng (giữa), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (phải), Chủ tịch Trương Tấn Sang bỏ phiếu bầu tại Đại hội toàn quốc lần thứ 11 của Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức tại Hà Nội hôm 17/1/2011.
AFP photo
Trước khi đi vào nhận định mục tiêu chuyến Mỹ du của ông Trương Tấn Sang chúng ta nhận định về hiện tình của đảng Cộng sản Việt Nam.
Nội tình ĐCSVN hiện nay
Đảng CSVN hiện nay đang lâm vào thế đấu đá tranh giành quyền lực giữa ba nhóm thế lực: một của ông Nguyễn Tấn Dũng, một của ông Nguyễn phú Trọng và một của ông Trương Tấn Sang.
Ba nhóm quyền lực này hình thành thế “chân vạc” trong đảng CSVN. Nhưng cả ba nhóm quyền lực này đang lâm vào thế tranh giành để độc chiếm quyền lực. Thay vì tạo sự ổn định, họ luôn luôn có xu hướng muốn thay đổi thực trạng quyền lực. Đây là điều rất thường xảy ra ở các chế độ Cộng sản, nhất là tại Trung cộng hậu Mao trạch Đông và Đặng tiểu Bình, hay ở Việt Nam hiện nay. Vì trong số những lãnh đạo đảng CSVN, không có nhân vật nào đủ uy tín độc tôn và sự hậu thuẫn của quốc tế Cộng sản cũng không còn để xác lập một trật tự ổn định như trong thời của Hồ chí Minh hay Lê Duẩn.
Nhưng phải xác định rõ là những cuộc đấu đá này mang tính tranh giành quyền lực chứ không phải do bất đồng chính kiến. Cho nên dù mâu thuẫn giữa các phe nhóm là rất sâu sắc nhưng họ vẫn thống nhất với nhau về những nguyên tắc căn bản: Duy trì và bảo vệ chế độ “XHCN” với đảng Cộng sản độc quyền lãnh đạo, không chấp nhận đa nguyên đa đảng và dân chủ hóa Việt Nam.
Chính sự định hướng này quyết định chính sách đối nội và đối ngoại của chế độ độc tài. Cho nên trong đường lối đối ngoại hay đối nội , nhất là đối ngoại, sự chỉ đạo của Bộ chính trị và Trung ương đảng là kim chỉ nam hành động của bất cứ nhân vật lãnh đạo nào.
Hoa du “kiên định” tình đồng chí
Chuyến công du của ông Trương Tấn Sang đến Trung quốc vừa qua cũng chỉ là một sự tiếp tục của đường lối chung đã được Bộ chính trị và Ban bí thư “nhất trí”. Cho nên chúng ta không lạ gì khi thấy trong Thông cáo chung Trung–Việt có đến 29 lần “nhất trí”.
Theo thiển ý của tôi với chuyến đi Trung quốc vừa qua CSVN đã xác định rõ vị trí và định hướng của mình trong quan hệ giữa hai siêu cường Mỹ- Trung, đó là, coi mối quan hệ Trung- Việt là nền tảng, giống như quan hệ Việt-Xô trước đây bất chấp một thực tế phũ phàng là Trung cộng đang từng bước thôn tính Việt Nam trên mọi lãnh vực mà mục đích cuối cùng là biến Việt Nam thành quận huyện của Tàu.
Đảng CSVN chỉ có một ưu tư duy nhất đó là làm sao để giữ vững chế độ Cộng sản, giữ vững quyền độc tôn lãnh đạo đất nước và bảo vệ khối tài sản khổng lồ mà họ và gia tộc đã thủ đắc được sau hơn nửa thế kỷ cầm quyền và sẽ tiếp tục như vậy cho đến khi….. sụp đổ!
Còn đối với Trung cộng thì họ luôn dành cho đảng CSVN sự ủng hộ “mạnh mẽ”, “kiên định” vì Trung cộng biết rằng không ai phục vụ quyền lợi cho họ tốt hơn người đồng chí CSVN trong bối cảnh Mỹ đang xoay trục chiến lược sang vùng châu Á – Thái Bình Dương.
Trung cộng không hài lòng khi thấy nội bộ đảng CSVN đang hục hặc với nhau để tranh giành thế lực. Và theo thiển ý của tôi chắc chắn là trong lần diện kiến chủ tịch nước Trung QuốcTập cận Bình vừa qua của ông Trương Tấn Sang, Trung cộng có nêu lên sự lo lắng này vì họ muốn nội tình của đảng CSVN ổn định để không phương hại đến chiến lược của Trung Quốc tại biển Đông và khu vực.
Còn đối với nhân dân và đất nước Việt Nam thì những hậu quả tai hại của chuyến công du sang Trung quốc này của ông Trương Tấn Sang khó lòng lường hết được, e rằng nó sẽ như chiếc vòng kim cô trên đầu CSVN và như  những sợi dây trói chặt thân thể Việt Nam.
Mỹ du để “đối trọng”: Vì dân, vì nước hay vì đảng?
Câu hỏi đặt ra ở đây là ông Trương Tấn Sang Mỹ du để làm gì?
CSVN đủ khôn ngoan để biết rằng nếu chỉ “thân thiện” với  Trung quốc mà không tỏ ra “biết điều” với Hoa kỳ sẽ là một sai lầm chiến lược, cho nên Bộ chính trị đảng CSVN quyết định vội vàng cho ông Trương Tấn Sang gấp rút công du Hoa Kỳ để “tái cân bằng” quan hệ quá thiên lệch mang nặng màu sắc chiến tranh Lạnh.
Bộ chính trị cử ông Trương Tấn Sang đi Mỹ để làm yên lòng đối tác Mỹ rằng: Việt Nam vẫn giữ thế “trung lập” giữa hai siêu cường. CSVN không muốn làm Mỹ thất vọng và “nổi giận”.
Nhưng định hướng ngoai giao của đảng CSVN rất rõ ràng:
- Với Trung cộng là “đồng chí”, “anh em”, là hợp tác đối tác chiến lược toàn diện trên tinh thần “16 chữ vàng” và “4 tốt”.
- Còn với Mỹ chỉ là đối tác kinh tế vì VN muốn “làm bạn với tất cả các nước” trong “quan hệ đa phương” mà thôi.
Hiện nay Hoa kỳ là thị trường lớn và đầy hứa hẹn để cân bằng cán cân thương mại bị thâm thủng nặng của Việt Nam. Trong tương lai việc gia nhập Hiệp ước Đối tác xuyên Thái bình dương TPP do Mỹ chủ xướng sẽ là cứu tinh cho nền kinh tế Việt Nam đang hụt hơi.
Với áp lực của một nền kinh tế đang xuống dốc dẫn đến nguy cơ bất ổn xã hội là một thực tế, nên CSVN rất cần Mỹ. Nhưng sẽ không có chuyện hợp tác với Hoa Kỳ để ngăn chận sự hoành hành của Trung cộng tại biển Đông vì biển Đông và chủ quyền của đất nước không bao giờ là quan trọng đối với đảng CSVN. Hơn nữa, Việt cộng ngầm hiểu rằng Biển Đông là “quyền lợi cốt lõi” của Trung cộng nên không dám đụng đến hồ sơ “tế nhị” này.
CSVN luôn ý thức rằng Trung cộng còn –Việt cộng còn, Trung cộng  mất – Việt cộng mất, cho nên họ sẽ không có bất cứ một “hợp tác” nào với Mỹ nếu nó đe dọa đến quyền lợi và mục tiêu chiến lược của Trung Quốc.
Người Mỹ không nên kỳ vọng điều này ở CSVN, nếu nước Mỹ muốn bảo vệ lợi ích chiến lược của mình thì cách duy nhất là giúp thúc đẩy tiến trình dân chủ hóa Việt Nam và khu vực để Việt Nam có cùng một giá trị với Hoa Kỳ trong mục tiêu bảo vệ hòa bình và sự thịnh vượng của nhân loại trong thế kỷ 21 này.
Hậu ý thâm độc của Việt cộng: Duy trì chế độ
Chuyến Mỹ du vừa rồi của ông Trương Tấn Sang còn nhắm đến một mục tiêu chính trị nữa, đó là nhân chuyến thăm này những người lãnh đạo Việt Nam mong muốn Tổng thống Obama sang thăm Việt Nam để lòe với dân chúng và ngầm gởi một thông điệp đến những người đấu tranh cho Dân chủ và Nhân quyền tại VN cũng như cộng đồng người Việt quốc gia khắp thế giới là họ (VC) mới là đối tác của Mỹ!!
Hồ sơ khó khăn nhất mà những người cộng sản phải giải quyết trong thời gian tới đó là hồ sơ vi phạm Nhân quyền tại VN mà người Mỹ đã đặt ra như một điều kiện để được Mỹ chấp nhận nâng tầm quan hệ ngoại giao và mở đường cho CSVN gia nhập TPP mà không bị sự phủ quyết của quốc hội Mỹ.
Chúng ta phải chờ xem nhưng theo tôi lúc này người Mỹ đã ít nhiều mất kiên nhẫn vì thái độ “nước đôi” của CSVN và sự quyết đoán của Trung cộng mỗi ngày một dữ dội hơn trên nhiều khu vực nhất là tại châu Á- Thái Bình Dương.
Xin được nhắc lại, trước chuyến Mỹ du của ông Trương Tấn Sang, tướng Đỗ bá Tỵ – Tổng tham mưu trưởng quân đội nhân dân VN cũng đã đến thăm Ngũ giác đài. Tất cả những hành động này chỉ nhằm mục đích tuyên truyền không hơn không kém nên sẽ chẳng mang lại sự “đột phá” nào như mong đợi của một số người.
Chúng ta nên nhớ rằng người dân Việt Nam vốn thực dụng và hiểu rõ sức mạnh của người Mỹ, họ luôn coi mối quan hệ với Mỹ là một “bảo đảm” cho sự thành công và vững chắc của một chế độ. Những người lành đạo cộng sản luôn biết khai thác tâm lý này.
Cuối cùng, theo tôi, chuyến Mỹ du của Trương Tấn Sang vừa qua chẳng mang lại kết quả gì to lớn cho cả hai phía Mỹ- Việt và điều gì tốt đẹp cho đất nước Việt Nam, nó chỉ phục vụ ý đồ tuyên truyền của CSVN thôi. Vì vậy quan hệ Mỹ- Việt cũng không thể tiến xa hơn được trong thời gian tới và như vậy CSVN vẫn tiếp tục lộ trình trong quỹ đạo của Trung Hoa.
Xin dẫn lời của nhà bình luận thời cuộc Elle Bork của US News để kết thúc bài này:
- “Lời mời ông Sang viếng thăm Hoa Kỳ là một quyết định thiếu khôn ngoan nếu xem xét những gì đang xảy ra ở Việt Nam. Vì cuộc gặp sẽ được diễn ra nên việc yêu cầu Tổng thống Obama chia sẻ công khai và rõ ràng với Chủ tịch Sang về vai trò của dân chủ trong chính sách châu Á của Hoa Kỳ là vô cùng cấp bách. Và sau đó Tổng thống Obama nên hành động cụ thể như những gì ông đã nói”.
- “Thực tế là dân chủ cuối cùng sẽ giúp cho ‘trục châu Á’ thành công, chứ không phải các cuộc trao đổi ‘thực tế’ với một quốc gia như Việt Nam”.
Nhà văn Huỳnh Ngọc Tuấn ởQuảng Nam. Thường có nhiều bài viết tranh đấu cho tự do, dân chủ tại Việt Nam. Ông từng bị cầm tù suốt từ năm 1992 tới năm 2002 vì gửi một số bài viết ra nước ngoài.
*****
Nguồn:
  

Ông Sang xây một, Nguyễn Thanh Sơn phá mười

Phạm Trần (Danlambao) - Chủ tịch Nước Cộng sản Việt Nam Trương Tấn Sang và Thứ trưởng Ngoại giao, Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài Nguyễn Thanh Sơn đã không biết đánh giá chính xác về sức mạnh chính trị của người Mỹ gốc Việt ở Hoa Kỳ để đưa ra những lời nói gây bất bình, đãi môi, xúc phạm, gây chia rẽ và đẩy hận thù dân tộc lên một tầm cao mới.
Trước hết, hãy nói về ông Trương Tấn Sang, trong chuyến thăm Hoa Kỳ từ ngày 24 đến 26/07 (2013).
Ông Sang được Đài Tiếng nói Việt Nam tường thuật phát biểu tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (Center for Strategic and International Studies, CSIS) chiều ngày 25/7: 

“Đối với cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ, Chủ tịch nước bày tỏ tin tưởng chắc chắn rằng, bà con Việt kiều sẽ là chiếc cầu vững chắc để thúc đẩy quan hệ hợp tác nhiều mặt giữa 2 nước, nhất là trong khuôn khổ đối tác toàn diện. Theo Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, người Mỹ gốc Việt đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình đưa quan hệ 2 nước lên một bước phát triển mới.” 
Phát biểu của ông Sang trùng hợp với tuyên bố của Tổng thống Barack Obama vài giờ trước đó tại Tòa Bạch Ốc khi ông Obama tiếp ông Sang. Nhà lãnh đạo nước Mỹ nói với báo chí sau khi họp riêng với Phái đòan Việt Nam

“Finally, we agreed that one of the great sources of strength between our two countries is the Vietnamese American population that is here but obviously has continued strong ties to Vietnam. And ultimately, it's those people-to-people relations that are the glue that can strengthen the relationship between any two countries.” 
(Tạm dịch: “Cuối cùng thì chúng tôi cũng đồng ý với nhau rằng một trong những yếu tố quan trọng trong quan hệ tốt đẹp giữa hai quốc gia là Cộng đồng người Mỹ gốc Việt tuy ở Hoa Kỳ nhưng vẫn có mối quan hệ mật thiết với quê hương mẹ Việt Nam. Và kết qủa là mối giao hảo giữa con người với con người là chất keo sơn gắn bó làm tăng sức mạnh giao hảo giữa bất kỳ hai nước nào.”)
Và cũng tại cuộc họp này, ông Sang đã nói với Tổng thống Obama, qua lời của người phiên dịch:

“I also expressed my appreciation for the care that the U.S. has extended to the Vietnamese who came to settle in the United States and now they have become American citizens and contributing to the overall development of the U.S. And thanks to the support and assistance from the U.S. government as well as the American people, the Vietnamese-American community here in the U.S. has become more and more prosperous and successful in their life as well as work.

And I also would like to take this opportunity to convey a message from our government to the Vietnamese-American community here in the U.S. that we would like to see you contributing more and more to the friendship between our two countries as well as further development of our relationship in the future.”
(Tạm dịch: “Tôi cũng bày tỏ lời biết ơn về sự cưu mang của Hoa Kỳ đã dành cho người Việt Nam định cư tại đây, và bây giờ họ đã là công dân Hoa Kỳ và đang đóng góp vào sự phát triển toàn diện của Hiệp Chủng Quốc. Tôi cũng cảm ơn vì nhờ có sự giúp đỡ của Chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ mà Cộng đồng người Mỹ gốc Việt ở đây đã giàu mạnh và thành công trong đời sống cũng như trong việc làm của họ.

Tôi cũng nhân cơ hội này gửi một lời kêu gọi của Nhà nước ta đến Cộng đồng người Mỹ gốc Việt rằng chúng tôi mong đồng bào hãy đóng góp nhiều hơn cho mối giao hải giữa hai nước, đồng thời phát triển cao hơn mối quan hệ trong tương lai.”
Tuyên bố của Tổng thống Obama mang nhiều ý nghĩa ngoại giao, nhưng cũng có nghĩa nói về vai trò của người Mỹ gốc Việt phải được quan tâm trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ ở Việt Nam.
Lời nói của ông Sang thì khác. Nó đã phản ảnh quan điểm “tự nhận về phần mình” có trách nhiệm bảo vệ người Việt Nam ở nước ngoài nói chung và người Mỹ gốc Việt nói riêng của đảng và nhà nước CSVN.
Nhà cầm quyền CSVN luôn luôn cho rằng “cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam”, nhưng họ lại quên “liên hệ máu thịt giữa đồng bào” với nhau khác với “liên hệ giữa “một bộ phận” người Việt Nam ở nước ngoài với nhà nước và đảng CSVN.”
Một bộ phận nhỏ trong tổng số lối 4 triệu người Việt sống ở bên ngoài Việt Nam, có chăng chỉ đại diện cho thành phần lao động được nhà nước Việt Nam gửi đi làm việc ở nước ngoài để giải quyết nạn thất nghiệp ở trong nước và số công nhân Việt Nam, đa phần từ miền Bắc, được gửi đi lao động ở các nước Cộng sản trong khối Liên Xô và Cộng sản Đông Âu cũ đã ở lại sau khi Chủ nghĩa Cộng sản tan rã ở các nước này từ 1989 đến 1991.
Vì vậy, nếu có thể thay mặt cảm ơn Chính phủ và nhân dân Mỹ thì ông Sang chỉ có thể nói thay cho những ai đã nhận được sự giúp đỡ của Chính phủ và đảng CSVN. Còn đối với tuyệt đại đa số người Mỹ gốc Việt từ thế hệ phải bỏ nước chạy trốn Cộng sản tìm tự do trên thế giới và tại Hoa Kỳ trước và sau ngày tàn cuộc chiến 30 tháng 04 năm 1975 thì “sự lạm dụng đại diện” của ông Sang nói trước mặt ông Obama tại Tòa Bạch Ốc là không thành thật, nếu không phải hoàn toàn bất xứng, không chấp nhận được vì ông Sang không có quyền làm như thế.
Hơn nữa khi ông Trương Tấn Sang nói những điều này với ông Obama và sau đó, với hàm ý ngoại giao tại CSIS, thì cũng đã có gần 2,000 người Mỹ, Canada và Úc gốc Việt biểu tình chống chính sách cai trị độc tài của đảng CSVN và đòi quyền con người và các quyền tự do tự do khác, trong đó có tự do tôn giáo và tự do ngôn luận phải được tôn trọng ở Việt Nam.
Tất nhiên là ông Sang không thể nhân danh những người này để cảm ơn ông Obama vì họ chống Chính phủ của ông bằng những khẩu hiệu và tiếng hát vang chống Cộng vào tận bên trong Tòa nhà Bạch Ốc.

Nguyễn Thanh Sơn hại ông Sang

Nhưng nếu những gì ông Sang đã làm cho người Mỹ gốc Việt mất cảm tình trong chuyến đi Mỹ chỉ tác hại một thì những lới nói xúc phạm có chủ ý mạ lỵ những người gốc Việt biểu tình trước Tòa Bạch Ốc hôm 25 tháng 07 (2013) của Thứ trưởng Ngoại giao, Chủ nhiệm Ủy ban người Việt Nam ở nước ngoài Nguyễn Thanh Sơn còn gây bất lợi cho chính sách hòa giải, hòa hợp dân tộc gấp ngàn lần hơn !
Hãy nghe ông Sơn nói những lời “chói tai” như thế này:

“Tôi thật sự không hiểu về cái sự cố tình đó của một số qúy vị, các bác, các anh các chị vẫn còn có tư tưởng hận thù đi ngược lại với lợi ích dân tộc... Tôi nghĩ rằng những cái hiện tượng mà còn đây đó chống đối cái chuyến thăm của chủ tịch nước Trương Tấn Sang, tức là các qúy vị, các bác, các anh các chị còn cố tình giữ trong lòng mình một cái “chút hận thù cuối cùng...”
“... Quý vị không có lý gì các vị “đứng ở ngang giữa đường các vị ngăn cản cái quan hệ Mỹ-Việt”. Điều đó chỉ làm cho các quý vị thêm khổ tâm, thêm phiền não, thêm buồn bực và rồi chính bản thân những người bạn Mỹ của chúng ta lại trách qúy vị là “cản cái con đường hội nhập của Việt Nam và cản cái quá trình quan hệ Mỹ-Việt” mà họ đang mong muốn...

“... Thì tôi cho là các bác, các anh chị - “những người đang còn có những tư tưởng như vậy hãy hết sức tĩnh tâm suy nghĩ lại để chúng ta xóa bỏ tất cả những cái hận thù... còn có những cái suy nghĩ cực đoan chống lại đất nước hoặc là có một cái suy nghĩ lệch lạc thì đó thực sự nó chỉ là ảo tưởng... hãy gác lại những cái tư thù cá nhân, hãy gác lại những cái suy nghĩ cá nhân...

“Tôi cho rằng là những cái biểu tình chống đối của bà con cô bác ở bên ngoài đối với chủ tịch nước vừa qua nó chỉ là những cái hiện tượng. Tôi nghĩ rằng là tất cả mọi người không phải ai cũng muốn như vậy. Có những người chì vì đồng tiền, có những người chì vì nhu cầu cuộc sống, có những người chỉ vì một chút thu nhập thêm mà tham gia những hoạt động đó, chứ trong lòng tôi nghĩ qúy vị cũng không có những suy nghĩ muốn phá hoại quan hệ Mỹ-Việt. (Trích phỏng vấn của Phố Bolsa TV).
Đọc những dòng chữ có “gạch dưới” để tạo chú ý đến tư duy và ý nghĩ chủ quan một chiều, cực đoan và hậu ý xấu của ông Nguyễn Thanh Sơn, hẳn sẽ thấy nổi lên không thiếu những hàm ý chỉ gây chia rẽ hận thù thêm giữa đảng CSVN và người Mỹ gốc Việt ở Mỹ.
Nhưng đây cũng là lần đầu tiên một viên chức cao cấp Bộ Ngoại giao của Nhà nước CSVN như ông Sơn đã công khai nói đến một cuộc biểu tình chống lãnh đạo Việt Nam khi đến Mỹ, một điều đã cố tình che dấu trong nhiều năm kể từ khi có cuộc thăm Hoa Kỳ của Thủ tướng Phan Văn Khải từ 19 đến 26/6/2005.
Thay vì khôn khéo lựa lời để nói thì ông Sơn đã vụng về và mất bình tĩnh để cố tình đi ra ngoài khuôn khổ của ngành ngoại giao để “đổ dầu vào lửa” đốt cho cháy hết những gì còn sót lại trên chặng đường "hòa giải, hòa hợp dân tộc" giữa nhà nước cộng sản Việt Nam với người Mỹ gốc Việt.
Vì vậy ông Sơn đã đưa mối hận thù Cộng Sản của những người phải bỏ nước ra đi sống ở xứ người lên tầm cao mới. Chẳng những thế, ông còn nhắc người Việt Nam ở nước ngoài rằng:

“Hãy nhìn vào những người đi trước, hãy nhìn vào những người cụ thể. Tôi nói ngay kể cả Nghị viên Hoàng Duy Hùng ở Houston cũng là một con người có thể nói là chống Cộng rất quyết liệt, có thể nói là một con người đã có thành tích truyền thống trong vấn đề mong muốn phá hoại cái sự đi lên của đất nước. Nhưng đến bây giờ ông Hoàng Duy Hùng cũng đã thấy rằng thì là cái biện pháp đó, cái cách thức đó nó hoàn toàn là không phù hợp với cái truyền thống của ông cha ta và nó cũng không đúng với lại cái mong muốn của nhân dân cả nước cũng như là của bà con cô bác chúng ta.”
Nhưng có ai sáng giá mà đã ngậm đắng nuốt cay cho đến cuối đời bằng “những người đi trước” như hai ông nguyên Phó Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Cao Kỳ (08 tháng 09 năm 1930 - 23 tháng 7 năm 2011) về Việt Nam nuôi hy vọng “bắc nhịp cầu hòa giải” giữa người Việt tị nạn ở nước ngoài với người Cộng Sản và Nhạc sỹ Phạm Duy (05 tháng 10 năm 1921 - 27 tháng 01 năm 2013), về Việt Nam năm 2005, cũng với hoài bão mở đường “hòa giải dân tộc”?
Cả hai ông trước khi ra đi cũng đều “tay trắng” trong “sự nghiệp hòa giải, đoàn kết và hòa hợp dân tộc” với người Cộng sản.
Ông Kỳ từng có ý nguyện khi chết được chôn xác tại Sơn Tây, nơi ông sinh ra nhưng gia đình ông đã quyết định hỏa thiêu ngay nơi ông qua đời, Kular Lumpur (Mã Lai Á), rồi đem tro cốt về một ngôi Chùa ở California.
Nhạc sỹ Phạm Duy, cây Cổ thụ của lịch sử Tân Nhạc Việt Nam, khi qua đời tại Sài Gòn, đã không có đến một vòng hoa thăm viếng của Hội Nhạc sỹ Thành phố, nói chi đến có người nhà nước đến thăm!
Đám tang ông, một nhạc sỹ tài ba nhất Việt Nam, tẻ lạnh đến não lòng chỉ vì người Cộng sản vẫn còn nuôi thù Phạm Duy đã bỏ hàng ngũ kháng chiến năm xưa, hay chỉ vì ganh ghét mà ra nông nỗi vậy?
Nếu như hai ông Nguyễn Cao Kỳ và Phạm Duy không trở về Việt Nam, một thời gian dài đã bị lợi dụng để cho nhà nước tuyên truyền, và không có những lời nói làm phật lòng nhiều người chạy trốn Cộng Sản thì đám ma các ông chắc phải linh đình ở Hoa Kỳ và được nhiều người thương tiếc và ghi ơn cho những đóng góp cho đất nước và âm nhạc.
Rất tiếc hai ông đã không làm như thế và chắc gì giờ này, những người từng vồn vã đón hai ông hồi hương về Việt Nam như ông Phạm Thế Duyệt, Ủy viên Bộ Chính trị và Chủ tịch Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam còn nhớ đến cái ngày “quay về” lịch sử ấy, nói chi đến hàng Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn?
Nhưng khi ông Sơn xỏ xiên người đi biểu tình chống Chủ tịch Nhà nước Trương Tấn Sang ngày 25/07 (2013) trước Tòa Bạch Ốc “chỉ vì đồng tiền” thì cũng chính cái ông Sơn này đã muối mặt khi nói với báo Thanh Kiên trong cuộc phỏng vấn ngày 30/4/2013: “Năm 2012, lượng kiều hối gửi về VN qua con đường chính thức đạt khoảng 10,5 tỉ USD, qua đường không chính thức ước khoảng 1/3 số đó nữa, rồi hơn 6 tỉ USD đầu tư vào các dự án trong nước… Như vậy ước tính nguồn lực kiều bào đạt tới 20 tỉ USD/năm, tương đương 1/5 GDP cả nước, bằng cả hợp tác thương mại của ta với EU.”
Như vậy thì “Việt kiều” giàu cũng cần đi biểu tình để kiếm tí tiền còm hay ông Nguyễn Thanh Sơn đã nhìn gà ra cáo đến mất khôn?
(07/013)

Phạm Trần
dannlambaovn.blogspot.com

 
 Toàn diện về cái gì?
Jonathan London
Vài ngày sau khi Việt Nam và Mỹ đã kết thúc cuộc gặp lịch sử tại Washington, và sau một vài ngày cho phép sự kiện này ‘bơi’ trong đầu của tôi, xin chia sẻ vài suy nghĩ về sự quan trọng của cuộc gặp gỡ này đối với nền kinh tế chính trị của Việt Nam, với dân Việt Nam, và với tương lai của quan hệ giữa hai nước (không chỉ là hai nhà nước) trong bối cảnh lịch sử thế giới.

Đối với nền chính trị kinh tế của Việt Nam, muốn đánh giá sự quan trọng của cuộc gặp trước hết phải hỏi quan trọng đối với cái gì?
Theo một quan điểm ban đầu, cuộc gặp gỡ này là một thành công đối với nhà nước Việt Nam vì hình như nó sẽ mang lại nhiều tiến bộ nhất định trong quan hệ song phương giữa hai bên, đặc biệt về một số lãnh vực quan trọng như hợp tác kinh tế, giáo dục, quân sự, môi trường, v.v… Tôi chưa biết chi tiết gì về kết quả cụ thể của cuộc gặp gỡ này. Thế nhưng, nếu nó tạo ra nhiều cơ hội tốt cho Việt Nam về thương mại, giáo dục, quân sự, thì tất nhiên là tốt.
Bốn tốt 
Riêng đối với giới lãnh đạo Việt Nam và cụ thể là ĐCSVN, tôi cho cuộc gặp này là ‘thành công’  trong một số khía cạnh khác nhau. Có bốn lý do chủ yếu khiến tôi nghĩ như vậy – và nếu thích chơi chữ về lịch sử ta có thể gọi là “bốn tốt”.
Một là về quốc tế: Việt Nam đã gửi thông điệp khá rõ tới Mỹ (và Bắc Kinh) về ý định muốn hợp tác một cách “toàn diện” với Mỹ (tức là chính phủ Obama nói riêng và nhà nước và cả nước Mỹ nói chung). Đây là một bước đi tốt cho một đảng mà nhiều năm qua đã vấp phải chân của chính mình trong quan hệ song phương.
Hai là cuộc gặp này rất có thể sẽ mang lại nhiều lợi ích thực sự cho nền kinh tế Việt Nam và qua đó sẽ tạo ra những cơ hội quan trọng cho nhà nước Việt Nam nói chung và ĐCSVN nói riêng, để giúp họ đối phó với một số thách thức lớn của đất nước, như thiếu vốn, công nghệ, ngành giáo dục Đại Học quá yếu., v.v.
Ba là cuộc gặp gỡ này rất có thể sẽ giảm vai vế của những thế lực bảo thủ trong đảng vốn không muốn Việt Nam cải cách. Là người Mỹ, tôi cũng đồng ý Việt Nam nên thận trọng trong mối quan hệ với Mỹ. Thế nhưng, có quan hệ tốt với Mỹ là cần thiết cho Việt Nam.
Cái tốt thứ tư của cuộc gặp này là nó là một cơ hội tốt cho lãnh đạo Việt Nam để họ nghe trực tiếp những lý luận của TT Obama về sự quan trọng của nhân quyền trong việc phát triển quan hệ với Mỹ. Dù nhiều người trong đội ngũ lãnh đạo của Việt Nam có thể phủ nhận điều đó, việc lãnh đạo Việt Nam bắt buộc phải suy nghĩ lại về hành vi trấn áp các nhân vật chống đối là một điều tốt cho toàn dân Việt Nam. (Việc chính phủ Mỹ có vấn đề với nhân quyền không phải là cớ để tiếp tục vi phạm nhân quyên tại Việt Nam. Không như ở Việt Nam, chính quyên và đảng cầm quyền ở Mỹ bắt buộc phải tôn trọng hiến pháp.)
Chẳng giải quyết gì

Thế nhưng, dù có bốn tốt, vấn đề là gặp gỡ này chẳng giải quyết gì đối với những vấn đề cơ bản của ĐCSVN. Cuộc gặp gỡ này không trực tiếp ảnh hưởng đến những căng thẳng, mâu thuẫn, và điểm yếu trong nội bộ của nền chính trị Việt Nam và cụ thể là trong ĐCSVN.
Một vấn đề cơ bản của Đảng xuất phát từ hai cái. Mô hình này không hữu hiệu. Không cho phép có một chế độ minh bạch, tránh né trách nhiệm giải trình cao đối với dân, và không cho phép phát triển của một chế độ thực sự pháp trị. Theo tôi, muốn Việt Nam thể hiện tiềm năng của đất nước, ĐCSVN phải cải cách các thể chế chính trị kinh tế một cách sâu rộng. Và theo tôi, bất kỳ ai yêu nước, dù trong hay ngoài Đảng, nên nỗ lực để nhận định đâu là mục tiêu hệ trọng của Việt Nam.
Và dân thường?
Đối với dân thường Việt Nam, sự quan trọng của cuộc gặp khó được đánh giá hơn vì phần lớn hậu quả của nó là gián tiếp. Vấn đề là những kết quả của cuộc gặp chỉ sẽ hiện rõ sau một thời gian. Nhiều khi những lợi ích mà các giai cấp bên trên được hưởng sẽ không rỉ xuống các giai cấp bên dưới (the ‘trickle down effect’ mà người Mỹ đã quá biết!). Nếu quá trình ‘hợp tác toàn diện’ làm cho Việt Nam an khang thịnh vượng hơn thì tốt.
Thông thường, kết quả của những mối quan hệ giữa Việt Nam và kinh tế thế giới đều bị các cơ chế trong nước chi phối. Như vậy, nói cho cùng, quan hệ Việt-Mỹ có cải thiện được gì hay không phụ thuộc nhiều vào việc Việt Nam có cải cách hay không và như thế nào. Những thành công và thất bại trong xã hội Việt Nam trong thời gian tới – Việt Nam  có tăng trưởng nhanh hay không, xã hội có công bằng ở mức độ nào – sẽ được quyết định bởi những diễn biến chính trị trong và ngoài ĐCSVN.
Về tương lai
Nhà nước nào cũng là sản phẩm của những quá trình cạnh tranh xã hội giữa các thế lực chính trị xã hội trong nước. Cả hai nhà nước Viêt Nam và Mỹ đều là tổ chức quan liêu. Cả hải phản ánh những giá trị của những giai cấp xã hội đã và đang cạnh tranh quyền lực với nhau. Ở Việt Nam, đó là những phe cánh trong ĐCSVN. Ở Mỹ đó là những tập đoàn tư sản lớn. Ở dưới là dân thường của cả hai nước.
Con người là con người chứ, không chỉ đơn thuần là đối tượng của những tổ chức quan liêu. (People are human beings, not merely subjects.) Hai nước Việt Nam – Mỹ đều có nhiều vấn đề phức tạp. Ở cả hai nước, trách nhiệm của mỗi công dân là đòi hỏi các đảng phái cầm quyền và nhà nước phải nghiêm túc thực hiện trách nhiệm giải trình về các chính sách của họ, phải tôn trọng nhân quyền.
Nếu “quan hệ toàn diện” với Mỹ giúp người dân Việt Nam về mực sống và cũng có tiến bộ cả về quyền chính trị lẫn nhân quyền thì mới là thành công toàn diện cho Việt Nam.
QUÊ CHOA
  

No comments: