Thursday, October 20, 2016

TRUYỆN TÙ & VƯỢT BIÊN - DƯƠNG DANH DY

NGUYÊN HẠNH * NỮ TÙ NHÂN

Nữ tù nhân "cải tạo" ở Z30D   |      Contributed by: phuochung  |  Views: 14.271
Nguyên Hạnh

Đã quá lâu chúng tôi không đi xe hơi đường xa, xe Molotova này do tài xế công an CS lái thả giàn, mặc cho chúng tôi ngồi sau thùng xe lắc lư nghiêng ngả, nhất là khi xe rẽ vào đường rừng vừa dốc vừa nhiều ổ gà, quanh co, khúc khuỷu, xe chạy như lăn lộn, ngoằn ngoèo làm cho chúng tôi ngất ngư, choáng váng.
Xe dừng lại khoảng giữa trưa trong một khoảng sân rộng, hai tên công an đàng trước nhảy ra gọi chúng tôi xuống xe, chuyền nhau những giỏ xách xuống theo. Trời nắng gắt, chúng tôi tìm bóng mát trước một gian nhà lợp tranh dài và cao, ngồi bệt xuống đất, dựa vào nền nhà, trong lúc chờ đợi tên công an trưởng xa chạy đi đâu đó, có lẽ đi báo cho văn phòng trưởng trại biết chúng tôi đã đến.
Đang đưa mắt nhìn quang cảnh chung quanh, một bầu trời rộng lớn bao trùm một doanh trại xa lạ, có nhiều dãy nhà tranh ngang dọc, phên là những thân tre đóng sát vào nhau, bỗng nghe trong nhà có những tiếng gọi khẽ tên mỗi chúng tôi. Giật mình xoay vào nhà chúng tôi thấy qua các khe hở lấp lánh những ánh mắt nhìn ra, không thấy được toàn mặt nên không biết là những ai trong đó. Hình như họ đang giới thiệu chúng tôi với nhau. Một toán công an theo nhau xuống nhận chúng tôi. Bọn công an gay gắt và hỗn xược hơn bên bộ đội. Việc đầu tiên là điểm danh, sau đó là lục soát "hành lý" cá nhân chúng tôi đem theo.
- Các chị bày đồ đạc ra để khám xét!
- Ai cho các chị dùng dao găm? Các chị đem theo để làm gì đây?
- Đó là những con dao rỉ sét chúng tôi lượm được ở hố rác các trại cũ dùng để làm cỏ.
- Không được! Ở đây cấm dùng. Để riêng những đồ bằng nhôm, sắt, tôn, thép ra một bên.
Chúng tôi nhìn một cách tiếc rẻ những đồ đạc bị tịch thu, những đồ đạc nghèo nàn thân thuộc đã theo chúng tôi hơn ba năm qua, đã giúp chúng tôi rất nhiều trong lao động ở năm trại trước.
- Các chị nào có dao, kéo, đồng hồ tự giác bỏ ra hết đây, khi nào chuyển trại chúng tôi sẽ trả lại.
Chúng tôi nghe mà rụng rời, thất vọng. Tại sao lại "chuyển trại" nữa mà không nói là "khi nào về"? Mới đến đây, thật là thân gái dặm trường, chẳng biết những gì sẽ chờ đợi chúng tôi, sẽ xảy đến ở nơi khỉ ho cò gáy này...
Lại những câu đón tiếp khô khan, dằn mặt thường lệ:
- Các chị đến đây phải tuyệt đối tuân theo nội quy trại, lao động tích cực, không được có những hành động chống đối, trốn trại sẽ có những biện pháp cứng rắn đối với các chị, v.v... và v.v...
Có tiếng mở khóa và tiếng dây xích rổn rảng ở đầu nhà. Họ chỉ cho chúng tôi đến đàng kia để vào nhà bằng một khung cửa hẹp. Trong nhà có hai tầng sạp toàn bằng tre, một lớp chúng tôi nằm ở sàn trên, một lớp nằm ở dưới. Rất đông người, trong số đó, toán nữ sĩ quan Cảnh Sát VNCH đi trước đều ở đây, gặp lại nhau rất mừng rỡ, lăng xăng lo lắng cho chúng tôi. Các chị sắp chỗ cho chúng tôi để đồ đạc sắp ở đầu nằm và treo lủng lẳng trước mặt móc vào phía dưới của sạp trên. Tôi thiếp đi một lúc lâu, khi tỉnh dậy, tôi mơ màng nghe chung quanh nói chuyện lao xao:
- Chị ấy rất yếu, mỗi lần chuyển trại phải di chuyển bằng xe là chị đều bị ngất xỉu.
- Khuấy cho chị ấy một ly nước chanh đi!
Trên đời có những chuyện rất nhỏ, như ly nước chanh chẳng hạn, mà chúng ta nhớ suốt đời, vì đó là một niềm an ủi thân thương trong những ngày hoạn nạn...
Tôi ngồi dậy cùng với các chị, kể cho nhau nghe về trại cũ, trại mới. Bây giờ mới biết là mình đã được chuyển đến một trại giam có phiên hiệu Z30D cạnh ngọn núi Mây Tào thuộc địa phận Hàm Tân.
Trong nhà này chúng tôi còn ở chung với nhiều chị thuộc thành phần khác, những chị nữ dân biểu, công chức cao cấp của VNCH, các chị vượt biên bị bắt, các chị mang tội phản động, có hành động chống đối, âm mưu lật đổ "Chính Quyền Cách Mạng," và cả các nữ cán bộ, đảng viên CS bị khép tội bội phản hoặc thâm lạm của công... Các chị em phản động là những phụ nữ từng làm những việc rất có lý tưởng, thường tiếp tế vào rừng cho anh em kháng chiến sau 1975, mở quán cà phê chiêu gọi thanh niên tham gia hoạt động trong các mật khu.
Về các chị em cán bộ CS thì thật là buồn cười. Họ đã từng là các mẹ, các chị của "chiến sĩ CS," nuôi ăn, che giấu, làm giao liên, trà trộn trong dân, nằm vùng ở thôn quê, ở thành thị. Trước năm 1975 bị VNCH bắt, túng quá phải khai sự thật, chỉ điểm, làm cho các tên CS bị lùng bắt. Nay "giải phóng" thành công, các con, các em biết được nên bắt các mẹ các chị vào tù lãnh án 10 năm, 15 năm.
Sau 1975, có chị được CS chiếu cố, phân công, cho lên xe Jeep VNCH để lại, oai phong lẫm liệt đến tiếp thu các quận, các tiểu khu, nào ngờ khi giở các hồ sơ còn lưu lại của chế độ cũ, thấy những tờ giấy cam kết do các chị ký tên, chứng tỏ các chị đã được chiêu hồi và hứa hẹn sẽ làm việc cho cả hai phía để cung cấp tin tức của CS, thế là các chị lãnh án vào ở chung với chúng tôi. Bây giờ họ đã mở mắt ra để thấy rõ thế nào là CS nên rất quý mến chúng tôi.
Ba năm trước đây, chúng tôi do bộ đội CS quản lý, nhà giam trống trải vì cửa bị gỡ hết, tuy gió lùa, mưa tạt, nhưng chúng tôi được đi lui đi tới trong khuôn viên trại thoải mái hơn, tuy chung quanh trại đều có vòng đai kẽm gai rất kiên cố.
Nay, lần đầu tiên ở trong nhà tù có cửa khóa, thế là kể từ đây chúng tôi chính thức ở trong chế độ giam cầm của công an CS, tù đày thật sự. Vậy mà sau đó, đến kỳ cho viết thư về nhà, tôi có câu: "Đã mấy tháng nay rồi không nhìn thấy trăng sao, mặc dầu bị tù túng nhưng vẫn cố gắng lao động tốt để được mau về.". Thư đó đã bị giữ lại, và tôi bị gọi lên Ban Chỉ Huy nghe xài xể:
- Nhà Nước nuôi các chị như vậy mà các chị gọi là ở tù à? Giữ các chị để các chị học tập trở thành con người tốt, con người mới Xã Hội Chũ Nghĩa để sống cho hợp với nếp sống văn minh, văn hóa mới mà chị cho là ở tù. Cúp thư kỳ này!"
Tất cả ở Z30D này đều quá mới lạ một cách hãi hùng đối với chúng tôi.
Trong trại không có nước, không có giếng, không có bể nước. Tắm giặt đều ở các khu suối thật xa sau giờ lao động trên đường về. Vì vậy, muốn có nước dùng để rửa mặt đánh răng, vệ sinh, chúng tôi phải đi lao động mỗi ngày, xách theo xô để lấy nước về mà dùng. Những ai bệnh hoạn không đi ra ngoài được, mấy chị em khác về chia xẻ cho một phần nhỏ nước. Chúng tôi có một cách tắm ở nhà rất ư là hà tiện, dùng một cái ly thật nhỏ để dội từng giọt.
Số nữ tù nhân "chính trị" chúng tôi ở đây có 64 người chia làm hai đội để sinh hoạt và lao động. Mỗi sáng, đến giờ kẻng đánh, hai đội nữ sắp hàng hai ra bãi ngồi xổm xuống để đội trưởng điểm danh, báo cáo số hiện diện, số người bệnh, rồi nghe gọi tên đội để lần lượt nối đuôi nhau ra khỏi cổng trại, chia đi các phía rừng để lao động.
Bãi tập hợp rộng bao la, anh em tù từ tứ phía đến hội tụ cả hàng ngàn người. Từ trên một chòi canh cao, một tên cán bộ đứng gọi loa tên từng đội. Gió lồng lộng thổi. Cảnh tượng thật bi hùng. Cả một lực lượng đáng kể tụ họp đây kia, trong chốn đọa đày lao khổ này! Nhìn các đội nam thất thểu đi ra cổng, từng hàng đôi rách rưới, áo quần vá chằng và đụp, người đi những đôi dép mòn, kẻ chân không, đội nón rách bươm, hoặc nón vải bạc thếch, hoặc đầu trần, chúng tôi liên tưởng đến các "Cái Bang"!... Những con người đó trước đây đã từng là các cấp chỉ huy ưu tú, các chiến sĩ từng xông pha chiến trận thật anh dũng hào hùng... Họ đã dâng hiến tuổi thanh xuân cho tổ quốc, cho quê hương, để đồng bào được sống yên lành trong tự do, no ấm.
Có những người tuổi đã cao, tóc đã bạc muối tiêu, thân thể gầy còm đi thất thểu trong các toán, đôi mắt không còn nét tinh anh!
Về phía chúng tôi, nào có hơn gì! Chắc chắn các anh nhìn chúng tôi cũng có những cảm nghĩ tương tự...
Từ bãi tập họp ra đến bãi lao động phải đi vào rừng sâu, cách nhà giam vài ba cây số. Chúng tôi lại cuốc đất, làm cỏ, đánh vồng trồng khoai, bắp, đậu, mồ hôi nhễ nhại. Chúng tôi lao động giáp ranh với đội nam, do đó lén nghe thì thầm nhiều tin tức mới lạ.
Đặc biệt nhất với chúng tôi là phải tắm suối. Sau giờ lao động, dọn dẹp cuốc xẻng cất vào "nhà lô" để trở về, chúng tôi được dẫn đến một bờ suối để tắm. Đi kèm chúng tôi lúc nào cũng có một nữ quản giáo và một nam cán bộ võ trang. Đến suối, tên võ trang đứng xa hơn, nữ quản giáo đứng trên bờ nhìn xuống chúng tôi để canh giữ. Chúng tôi không được bơi ra xa vì bên kia bờ suối là một gò đất có nhiều bụi cây rậm mà trước đây đã có hai cô trốn trại bơi qua đó, băng vào rừng, nhưng sau đó bị bắt lại.
Lần đầu tiên, cảnh chúng tôi tắm suối thật kinh hãi, không thể tưởng tượng nổi có ngày phải như thế! Toán chị em đã về đây từ trước nhanh nhẹn cởi quần áo để trên bờ đá, trần truồng nhảy xuống thật tự nhiên. Chúng tôi khiếp sợ! Làm sao như vậy được?! Khó quá! Chúng tôi để nguyên quần áo đi xuống nước. Thấy chúng tôi ngần ngại, các chị kêu lên:
- Cởi đại ra đi! Không kịp đâu! Chỉ có mười lăm phút vừa tắm vừa giặt. Lần đầu tụi em cũng như mấy chị, nhưng sau quen đi, không thể làm khác được.
Trời cao trong xanh, những làn mây chiều nhẹ trôi. Suối nước rất đẹp. Có những phiến đá để áo quần. Chúng tôi lúng túng. Thật xấu hổ không chịu được! Phụ nữ VN xưa nay vốn kín đáo, e ấp, thẹn thùng. Thẹn với cả trời, đất, cỏ, cây!...
- Các chị kia nhanh lên, hết giờ rồi, đi về!
Cởi dần ra dưới nước... Ngày đầu tiên tắm và giặt đều không sạch vì chậm chạp quá. Ngày thứ hai thôi đành cởi áo trước để đi xuống nước vậy, nhưng cũng không kịp. Và ngày thứ ba trở đi phải đánh liều, hễ đến suối là phải lo cởi gấp hết, nhảy ùa xuống, vừa tắm vừa giặt gấp rút mới kịp giờ. Chúng tôi có cảm tưởng như một bầy tiên nữ từ trên trời xuống trần gian bị lấy thu mất đôi cánh, như trong thời tiền sử... Thật đáng thương, thật tủi nhục không thể nào chấp nhận được! Càng tệ hại hơn, có đôi khi tắm chưa xong, chợt nhìn lên bờ cao, thấy thấp thoáng người đầu tiên của đám tù nam trên đường về sắp tới.
- Nam, nam! Các chị em la lên.
Thế là nhanh như cắt, chúng tôi nhảy lên bờ vơ vội áo quần để mặc đi về, mặt ai nấy đỏ như gấc.
Đã xong đâu! Trên đường về, đi ngang qua chiếc cầu tre, từ xa đã thấy một toán nam đang tắm dưới cầu, thế là chúng tôi phải ngẩng mặt lên nhìn trời mà đi..
Ôi! Chúng tôi đã đi lui về thời kỳ ăn lông ở lỗ...
Họ đã đối xử với chúng tôi như thế!
Có lần nữ quản giáo bệnh nghỉ, chỉ có tên võ trang đưa đi để canh gác chúng tôi lao động. Khi về đến suối để tắm, tên kia cứ đứng trên bờ cao trân trân nhìn xuống. Làm sao chúng tôi tắm được!
- Anh đi ra xa, đứng vậy làm sao chúng tôi tắm!
- Không! Các chị tắm nhanh lên!
- Thôi chúng tôi không tắm nữa, đi về!
- Có gì đâu mà không tắm? Ngày bữa gì!
- Nhất định chúng tôi không tắm.
- Thế nhỡ các chị trốn đi thì sao?
- Bảo đảm chúng tôi không trốn. Biết đường nào mà trốn?
- Không tin được!
- Đi về! Nhất định phải đi về thôi!
Chúng tôi hăng hái toan bước lên bờ đường. Tên kia nhượng bộ:
- Thôi được rồi, tôi nhìn qua phía kia. Các chị xuống tắm đi!
Tên công an võ trang ngồi xổm xuống nhìn ra phía khác.
Nhỡ anh ta quay lại thì sao?!
Đành phải xuống tắm thật nhanh mà mắt cứ phải coi chừng tên kia quay lại.
Những công việc lao động cực nhọc đến đâu, chúng tôi cũng ráng chịu được, cũng không làm chúng tôi đau khổ, bị chà đạp phẩm giá bằng cách phải đi tắm suối ở Hàm Tân (Z30D).
Thời cuộc đã làm cho chúng tôi là những kẻ sa cơ, gánh chịu vô vàn khổ nhục, nhưng vẫn tin tưởng rằng mọi hoàn cảnh đều sẽ có một lối thoát, nếu ta giữ vững được lòng tin.
Ở mỗi trại tù, mỗi sự hành hạ khác nhau. Và còn biết bao nhiêu mẩu chuyện, giai thoại về những người "Tù Cải Tạo," như những chuyện "Nghìn Lẻ Một Đêm," kể sao cho hết được!

VÕ KỲ ĐIỀN * VÂN THÂM BẤT XỨ

VÂN THÂM BẤT XỨ
  Võ Kỳ Điền

 Chiếc BL 1648 phăng phăng rẽ nước, lao vun vút tới trước như con ngựa điên hung hản bị bịt hai mắt. Tiếng máy gầm thét lẫn với tiếng sóng vỗ rì rào như vang trong gió nỗi giận hờn, bực tức. Nó đi mà không còn biết đâu là bến bờ. Bây giờ cả không gian là một khối nắng chói lòa loang loáng. Trên là trời, dưới là nước. Trời với nước phản chiếu nhau, trộn lẫn nhau, hắt cái hơi nóng hừng hực lên ghe. Mọi người đứng ngồi la liệt như đám tàn quân bại trận thảm thương, mặt mày hốc hác, quần áo nhàu nhò. Tôi nghe đầu óc váng vất. Cả đêm không ngủ rồi tâm trí căng thẳng từ sáng tới giờ, nỗi thất vọng khiến toàn thân như tê liệt, mấy bắp thịt hầu như nhão ra. Tôi đưa mắt nhìn lên phòng lái. Cái phòng vuông vức nhỏ xíu đó đông nghẹt người chen chúc. Loáng thoáng thấy tài công Hốt, tài công mặt rỗ, Quách Linh Hoạt, Dân thủy thủ, Hủ Tiếu… cùng một đám thanh niên đầu cổ bờm xờm. Người thì leo lên mui ngồi ngất ngưởng trên đống hành lý, người nắm lấy vách cột đứng cheo leo. Mặt mũi ai nấy buồn hiu.
Cái bờ biển vô tình hồi sáng, bây giờ đã mất hút trong tầm mắt. Ghe không còn chạy dọc theo bờ mà lại đâm thẳng ra khơi. Núi non cây cỏ dần dần khuất mất trong những đợt sóng. Trời, cái điệu nầy Hốt định bỏ Mã Lai rồi, chắc ‘giả’ định tìm một bến khác. Bến mới nào đây? Singapore hay Indonésia? hay Úc? Nghĩ tới những quốc gia mới nầy, lòng tôi đâm e ngại rụt rè. Có chắc gì những nơi sẽ đến, người ta nhân đạo hơn, mở rộng vòng tay đón tiếp người tỵ nạn. Rồi sẽ đi nữa, đi nữa… Hình như ở thời đại kỹ nghệ máy móc nầy, tìm một cõi lòng nhân đạo hơi khó khăn!
Bất thình lình trong lúc không mong không đợi, có một chiếc tàu sắt sơn toàn màu đen tuyền, từ đâu không biết, vụt đến chạy theo ghe. Chiếc tàu nầy lớn hơn chiếc BL 1648 chút xíu, trang bị đầy máy móc chi chít đặc nghẹt trong khoang không một chỗ chen chưn, chạy thiệt nhanh và lướt sóng thiệt khéo. Chắc là loại tàu kéo hay tàu máy của dàn khoan dầu. Trong chớp mắt nó cặp sát. Những đợt sóng do nó tạo ra đập mạnh vào thân ghe, khiến chiếc ghe chòng chành dữ dội. Lá cờ trăng lưỡi liềm với các sọc đỏ nằm ngang bay phần phật trong gió. Đúng là cờ Mã Lai. Từ trong khoang một người Mã to lớn chui ra, đưa tay ra ngoắc tài công Hốt ra dấu bảo theo, sau đó chạy trước dẫn đường. Chiếc BL 1648 như người mù mất phương hướng, bây giờ tự nhiên có người đến dắt đi, mừng rỡ bám sát.
Trên ghe niềm hy vọng làm tươi tỉnh những gương mặt rám đen héo úa. Những ánh mắt mệt mõi mắt đầu long lanh nhìn theo chiếc tàu lạ. Trưa nay gió thiệt to và sóng thiệt cao. Chiếc dẫn đường lướt sóng phăng phăng, chiếc theo sau rán hết sức để bám sát, tiếng máy gầm rú lên từng hồi. Có nhiều đợt sóng lớn đánh tạt vào mạn ghe, nước văng tung toé lên cả chỗ ngồi. Chiếc tàu nầy máy mạnh quá. Biền trưa nay động dữ dội mà trông nó vẫn vững vàng, hai cái hông bè ra đè trên sóng mà đi. Lâu lâu người thuyền trưởng Mã ló đầu ra phòng lái, cười cười tỏ dấu thân thiện rồi đưa tay chỉ về phía trước. Tôi đoán chừng chắc đâu đây có cái đảo nhỏ dành riêng chứa người tỵ nạn do Liên Hiệp Quốc bảo trợ, các đài truyền thanh ngoại quốc thường nói đến. Lạy trời cho đúng là nó. Cái đảo nhỏ bên bờ Mã Lai… niềm hy vọng của rất nhiều người và của riêng tôi. Nó là nỗi chờ đợi, trông ngóng ước mơ…
Chừng độ một tiếng đồng hồ sau tôi nhìn thấy một hòn đảo in bóng xam xám trên nền trời trong vắt. Lại gần hơn, gần hơn nữa… Đảo hiện rõ trong tầm mắt. Cây cối xanh rì, núi non chớn chở. Thằng Dân thủy thủ đứng cheo leo trên mui ghe, miệng la chói lói vang dội:
-Bà con ơi đảo dừa, đảo dừa…
Cái thằng thiệt lanh tay lẹ miệng, chưa gì hết mà đã dám đặt tên cho cái nơi sắp đến, làm như đảo nầy không có cây gì khác. Mà cũng đúng thiệt. Những ngọn dừa đã hiện rõ dưới bầu trời nắng cháy như những chiếc dù xanh non. Trên đảo chỉ thấy toàn là dừa. Dừa mọc từ bờ nước trở đi, cây nầy san sát cây kia, nhiều vô tận mọc tuốt sâu bên trong. Chỗ nào cũng thấy những thân dừa lớn như cây cột cao vút suông đuột. Người thuyền trưởng Mã tốt bụng bên chiếc tàu đen đưa tay chỉ vào đảo, rồi khoát tay từ biệt. Chỉ trong vòng vài phút ngắn ngủi chiếc tàu mất hút sau những ghềnh đá chập chồng, chênh vênh gie ra một góc biển. Ôi! giữa những cõi lòng vô tình cũng còn có những trái tim nhơn ái.
Chiếc BL 1648 từ từ tiến sát vô bờ. Bãi cát trắng phau phau. Rừng dừa xanh ngăn ngắt. Hình như là đảo hoang. Không thấy một làn khói, một mái nhà, một căn lều nhỏ, một dấu vết gì chứng tỏ có sự sinh hoạt của con người. Vậy thì cái đảo nầy đâu phải là nơi chứa người tỵ nạn. Tôi ngơ ngác tự hỏi. Nhưng dầu phải hay không, cũng không quan trọng. Cái quan trọng nhứt là được đặt chưn xuống đất rồi thủng thẳng tính nữa. Duyên cũng vừa nghĩ tới ý đó :
-Mình vô một đảo hoang, không có nhà cửa gì hết !
-Có lẽ vậy mà tốt, tạm ở vài ngày rồi tìm cách liên lạc với Hồng Thập Tự hay Liên Hiệp Quốc, chớ nơi thị tứ đông người thì thế nào cũng bị rắc rối như hồi sáng. Trên ghe đông người quá, khó xoay trở… Nhắc tới cảnh buổi sáng tôi vụt nhớ tới hai bạn Chiêu, Hiếu bị bỏ lại trên bờ đất lạ. Không biết tình trạng bây giờ ra sao? Một cảm giác buồn buồn xót thương trộn lẫn với một chút lo lắng về cái nơi sắp tới. Vô một đảo hoang? Lấy gì mà ăn. Số thực phẩm trên ghe chỉ có tám bao gạo, mấy ngàn lít nước phải chia cho ba trăm năm chục người. Cầm cự được mấy ngày?
Tôi vụt nghĩ tới rừng dừa trước mặt, yên tâm không lo nữa. Nếu hết gạo thì còn cả muôn triệu cây dừa kia, không lo đói. Nước dừa, cơm dừa, cổ hủ dừa, cái nào ăn cũng được. Trong truyện Một Ngàn Lẻ Một Đêm có chuyện anh chàng Sinh Bá lọt vô đảo của bọn người khổng lồ, được cho ăn dừa mỗi ngày để cho thiệt mập. Sau đó chúng lựa người nào mập nhứt mà ăn thịt. Hơn nữa gần đây có ông Đạo Dừa từ nhỏ tới lớn sống toàn bằng dừa. Ông ta sống được thì mình cũng sống được. Biết đâu đắc đạo mấy hồi! Tôi sẽ xin Tư Trần Hưng Đạo vài cái lưỡi câu, đi câu thêm cá tôm ngoài biển. Đảo nầy vắng vẻ chắc cá cua sò ốc nhiều.
Bãi cát trắng tinh chưa có một dấu chưn người, chạy dài tạo nên một cái vịnh hình vòng cung rất đẹp. Bờ cát thoai thoải dốc lài ra tận xa, thiệt là lý tưởng cho ghe ủi bến. Hốt thong thả từ từ lái đâm thẳng vô. Trên trời năm ba cánh hải âu chao mình liệng qua liệng lại trước mũi ghe mà nhìn xuống. Nó nhìn chúng tôi ngạc nhiên, tôi nhìn thấy nó, mừng rỡ. Anh bạn Quách Linh Hoạt từng nói, đi biển cứ mong gặp được cánh chim, biết là sắp đến được đất liền. Huống chi là đất liền trước mặt. Tôi sắp được bước chưn lên.
Dưới những tàn dừa im mát tôi sẽ che một cái lều nhỏ lợp bằng những lá dừa. Vợ chồng con cái sẽ chun vô sống qua ngày để chờ người cứu vớt, y như ngày xưa, hồi nhỏ chơi trò đám cưới lợp lều bằng lá đủng đỉnh. Bi sẽ lấy hộp lon sữa bò đi gánh nước nấu cơm, tôi sẽ đi chặt lá dừa để làm nóc làm buồng nhứt là làm một cái cổng cho đẹp. Duyên vô trong rừng hái hoa dại để trang hoàng. Tôi còn mong gì hơn…
Nhưng giấc mơ của tôi nửa chừng bị ngưng lại. Khi chiếc ghe sắp đụng bờ cát dưới những tàn dừa rậm rạp có hai người lính Mã Lai mặc quân phục rằn ri cầm súng chạy vọt ra dáng điệu hầm hừ. Ở trên ghe nhìn thấy cả hai nhỏ xíu như đứa con nít mười tuổi. Họ đưa súng bắn rầm rầm, đạn bay veo véo. Trời ơi, tụi nó bắn thẳng vào ghe. Nguy quá, mọi người sợ hãi, nằm rạp xuống sàn. Tôi vừa run, vừa lầm bầm “cái xứ gì dã man mọi rợ! Hồi sáng đánh người, bắt người chưa đủ, bây giờ lại bắn trực xạ như vậy” Sau một loạt đạn, cả hai quơ tay quơ chưn la lối đuổi ghe ra. Hốt do dự, ngừng lại. Trên bờ, họ chuẩn bị nạp hai băng đạn mới. Hốt liền cho ghe quay mũi, nổ máy lớn chạy đi luôn. Cũng may, loạt đạn đầu chúng chỉ bắn dọa, đạn bay cao trên đầu nên không ai bị thương. Tuy vậy mọi người đều bị một vết thương trong lòng. Vết thương buổi sáng chưa kịp hàn miệng thì bây giờ lại bị rách toang thêm. Ôi, đáng thương cho cái kíếp ăn đậu ở nhờ, bị người xua đuổi tàn tệ không nương tay. Tôi vừa buồn vừa tủi. Khi không bỏ nhà êm cửa ấm ra đi chầu chực xin xỏ nơi đất lạ quê người để bị đuổi xô hất hủi. Tại ai? Tại ai mà chúng tôi biến thành những kẻ đi ăn mày tình thương của kẻ khác, lang thang tận góc biển chưn trời như vầy. Không ngờ trong đời tôi lại lâm cảnh éo le, lở khóc lở cười. Chắc Hốt cũng cùng chung một tâm trạng nên tôi nghe trong tiếng máy ghe nổ ầm ầm rền vang kia có pha lẫn nỗi tức tưởi nghẹn ngào. Lại một lần nữa, chiếc ghe bỏ thêm một bến lạ mà đi…
Ghe tăng vận tốc đổi hướng vòng lên phía trên đảo. Cây cối cảnh vật chạy ngược về sau. Vừa qua một vịnh biển hình cánh cung cách đó chừng vài cây số có một cầu tàu thiệt lớn, được cất gie chồm ra ngoài bờ nước xa. Cầu xây bằng thép sơn màu xanh đậm, nguy nga đồ sộ. Bên cạnh cầu, một chiếc tàu sắt, lườn đen, thành sơn màu trắng toát. Nó lớn như một toà nhà năm sáu từng cao. Cái ống khói lớn như cây cột vĩ đại, sơn hàng chữ MING KONG theo chiều dọc từ trên xuống dưới, cùng lá cờ Singapore bay phần phật trong gió. Trên chiếc boong cao vút có mái che, sáu bảy người thủy thủ Trung Hoa quần áo màu mè, tóc đen dài phủ ót, cùng một người thuyền trưởng người da trắng to lớn, râu ria bó càm, đứng vịn lan can tò mò nhìn xuống đám người tỵ nạn đang chen chúc dưới ghe. Thấy họ thảnh thơi mà tủi thân. Cái ghe nhỏ như vầy chứa trên ba trăm người, còn cái tàu kia, nó lớn hơn gấp mấy chục lần, vậy mà chỉ chứa có mấy người trên đó. Họ tha hồ tắm rửa, ăn uống đi tới đi lui. Chiếc tàu nầy bên trong ít ra cũng có năm bảy từng, chắc có quầy rượu, sàn nhảy đầm, sân đá banh, hồ tắm… Nhìn mấy bộ bàn ghế bằng mây lớn để dọc theo lan can tàu thì biết. Y như hình chụp trong các quán rượu sang trọng… bên Tây! Tôi nghe chưn cẳng tê rần, mấy ngón ngo ngoe hết được, ngồi quá lâu bị vọp bẻ mất hết cảm giác. Đã ba ngày, ba đêm chịu cảnh bó gối như vậy, tôi thèm một khoảng trống chỉ cần đủ để ngã cái lưng ra một chút, một chút xíu thôi. Chắc ở trên đó, mấy người thủy thủ, mỗi người có giường nệm khăn lót trắng bong, có bồn rửa mặt, có tủ lạnh chứa đồ ăn, có ti vi để coi mỗi tối. Phải chi mình được lên, không cần nhiều, chỉ xin một chỗ nào đó cũng được, ngã đại cái lưng xuống sàn, nằm dài ển ngược xương sống, thẳng chưn ra một cái, nhắm mắt lim dim sảng khoái. Trời ơi! chắc là đã lắm! Bất cứ chỗ nào cũng được mà, từ đầu mũi tới cuối lái rộng thinh thinh.
Hốt cho ghe cặp sát vào hông tàu. Chiếc tàu cũng cón khá mới. Vách cao dựng ngược như vách thành sừng sững, những đốm rỉ sét ăn loang vàng ẻo. Ở các mối hàn, sơn tróc nhiều mảng lớn. Tàu chừng như đã hết hàng hóa nên đáy nổi lên cao. Nó lớn quá, nước trưa nay dâng cao sóng vỗ ầm ầm, nó vẫn im lìm thong dong, không lay động. Trong khi đó, chiếc BL 1648 nhồi lên hụp xuống muốn chóng mặt. Nhựt Bổn từ trong khoang ghe mò ra đứng trước mũi, ngước cái đầu sói lên tàu, dùng tiếng Trung Hoa để liên lạc. Ông thuyền trưởng dùng tiếng quan thoại nói khá sỏi và rành mạch. Hai bên hiểu nhau dễ dàng. Đại khái ông nói luật hàng hải không cho phép vớt người trên ghe còn tốt và đang ở trong hải phận Mã Lai. Ông chỉ có thể giúp đỡ bằng cách cung cấp nước, dầu cùng thực phẩm… Cuối cùng ông chỉ cho Nhựt Bổn vị trí đảo Bidong có trại tỵ nạn lớn lắm, từ đây đi chừng chín hải lý theo hướng ba trăm mười độ thì thấy. Từ dưới nhìn lên, thấy ông ta nói hàm râu bạc rậm rì bó quanh càm rung rung, cánh tay quơ quơ, tôi có cảm tưởng là một linh mục Tây Phương đang giảng đạo, tụi tôi là những con chiên ngoan.
-Cứ đi đi sẽ gặp Pulau Bidong dễ dàng. Ở đây tụi lính Mã Lai thấy bất tiện lắm. Có gì cần thêm thì tôi sẽ giúp cho…
Đứng cạnh ông mấy người thủy thủ quăng xuống ghe vài bịch thuốc lá, bánh ngọt, chocolat, kẹo…
Ôi! Thêm những cõi lòng nhơn ái. Nếu mọi người trên cõi đời nầy đối đãi nhau lịch sự như vậy thì quả đất nầy thiệt là thiên đường.
Tôi rán lắng tai nghe, hiểu được lỏm bỏm. Mừng quá! Pulau Bidong hải đảo nhiệt đới, Pulau Bidong miền đất lạ, nơi ước mơ của ngưởi tỵ nạn bơ vơ. Nó ở gần đâu đây, loanh quanh trong vùng biển nầy. Vài giờ nữa tôi tôi sẽ đặt chưn lên tới đó, bắt đầu những ngày sống tự do thoải mái ở vùng đất mới. Tôi sung sướng gọi nho nhỏ Pulau Bidong, Pulau Bidong. Mấy tiếng nghe thiệt êm ái như ngày nào thủ thỉ tên ai…
Nhựt Bổn sau khi hỏi thăm kỹ lưỡng đường đi nước bước, lom khom vịn mui ghe chun vô khoang. Thấy cảnh ông ta đầu sói sọi, muôn dặm lặn lội đến đây hỏi thăm đường người thuyền trưởng lạ, bất giác tôi nhớ bài thơ cổ. Bài thơ ngắn chỉ có năm chữ bốn câu:
Tùng hạ vấn đồng tử
Ngôn sư thái dược khứ
Chỉ tại thử sơn trung
Vân thâm bất tri xứ
Tạm dịch thì như vầy. Dưới gốc tùng hỏi chú tiểu đồng, thầy em đâu? Thưa rằng, thầy tôi đi hái thuốc trong núi nầy. Không xa lắm, chỉ có điều mây mù nhiều quá nên không biềt chỗ nào đó thôi. Chỉ tại thử sơn trung, vân thân bất tri xứ. Mây phủ dầy đặc nên không biết ở nơi đâu? Ôi! mây nào giăng kín bưng bưng lòng người dân Mã, mây nào mang mang lòng người tỵ nạn thê lương, mây nào mù mịt thảm sầu quê hương tù ngục? Chỉ cần vén được mây đen thì thấy được trời trong xanh ngăn ngắt. Nhưng phài làm sao để mây tan? Đó là dấu hỏi lớn cho một kiếp người.
Sau khi được chỉ dẫn rõ ràng, mọi người trên ghe hy vọng trở lại. Tài công quay mũi đổi hướng đúng theo lời dặn dò. Máy nổ mạnh khởi hành, ghe lướt sóng hăng như con ngựa đua. Bỏ lại hòn đảo Dừa, Bỏ lại chiếc cầu tàu xanh. Bỏ lại chiếc Ming Kong nhàn hạ.
Đó là buổi trưa ngày thứ ba của cuộc hành trình. Đã đi được ba ngày không ăn, chỉ uống nước cầm hơi, người người bắt đầu thấm mệt. Đã thấy đói và khát. Tuy uống nước tới đầy bụng nhưng vẫn cảm thấy muốn uống hoài, uống nữa. Hình như tất cả số lượng nước trong người đều bốc hơi bay mất. Nắng nhiệt đới nhiệt nóng bức và chói chang. Không có gì để che bớt nắng. Cũng may nhờ có gió biển nên cũng còn thở được. Hy vọng gặp được Bidong làm người ta quên mệt mõi. Chín hải lý. Khoảng cách đâu có xa. Với sức máy của ghe chỉ cần hai tiếng đồng hồ là nhiều lắm. Trời thiệt sáng và trong. Hốt vẫn cầm lái. Quách Linh Hoạt đứng trên mui. nhìn bằng ống dòm chăm chăm, thỉnh thoảng quay hết chỗ nầy tới chỗ kia,. Anh nhìn thẳng, nhìn ngang, nhìn xiên, nhìn xéo. Cái mặt bị nắng ăn đen thui. Tôi hồi hộp theo dõi từng cử chỉ, thái độ của anh. Chỉ cần anh đưa tay chỉ về phía trước là tôi thở phào nhẹ nhõm. Tôi nghĩ thầm trong bụng, chắc trời thương nên mới gặp người tốt chỉ dẫn, tìm kiếm như vầy thì con kiến cũng thấy nói gì cái đảo lớn chần dần…
Nhưng mà ở đời, có những chuyện tưởng vậy mà không phải vậy. Cái gì cũng phải trả đúng với giá của nó. Ngay cả sự tự do… Ghe đã đi nhiều hải lý, giờ giấc cũng từ từ qua. Những tia mặt trời không còn từ trên cao đâm xỉa thẳng xuống mà bây giờ đã chiếu chênh chếch. Đảo Bidong nằm ở chỗ nào, không ai thấy hết. Mặc cho Quách Linh Hoạt đưa ống dòm nhìn khắp tám hướng, nó vẫn biệt tăm mù mù. Xa chín hải lý. Hướng ba trăm mười độ. Sao không thấy gì hết! Hổng lẽ ông thuyền trưởng nói gạt. Mà ổng gạt làm chi. Hay là Hốt coi hải bàn tính sai tọa độ? Cũng không lẽ nào. Từ Việt Nam qua Mã Lai anh ta lái còn đúng được, nói chi đoạn đường còn có bấy nhiêu. Nhưng mà sao giờ nầy vẫn chưa thấy tăm hơi Bidong đâu hết. Tại sao kỳ vậy? Tôi hơi sốt ruột. Nếu không khéo chỉ còn vài giờ ngắn ngủi nữa thôi, mặt trời lặn mất thì nguy lắm. Đêm đen mịt mùng sẽ phủ kín vạn vật. Bóng tối đồng nghĩa với tối tăm, ảm đạm, bất trắc, nguy hiểm. Lại phải thêm một ngày sóng gió lênh đênh nữa. Hình như nước biển buổi chiều dâng cao hơn hồi trưa nhiều lắm. Sóng trở nên hung hãn. Từng đợt dâng lên thiệt cao rồi rút xuống thiệt nhanh. Chiếc ghe cứ chạy phăng phăng, trồi hụp theo đợt sóng. Mọi người đâm ra im lặng. Chắc cùng chung một tâm trạng lo lắng sợ sệt. Có cái gì bất thường. Tất cả đều mệt mõi quá rồi. Từ sáng sớm tới giờ chạy tới chạy lui ở bờ biển nầy cũng không đi tới đâu.
Trong làn sóng dữ dội, chiếc ghe nhỏ mong manh trồi lên hụp xuống bất ngờ một tiếng va chạm mạnh ở lườn ghe. Ầm! Chiếc ghe đương lướt ngon trớn bỗng khựng lại. Tôi cảm thấy dưới lườn có cụt đá cứng nâng chiếc ghe lên. Hồn vía tôi bay bổng. Chết rồi! ghe đụng đá ngầm. Nhìn ra xa một chút, nhiều tảng đá lớn bằng cái nhà mấp mô trên mặt nước đầy sóng bạc trắng xoá. Nhiều quá, chi chít đó đây. Đá màu gan gà, nâu tím, xám đen, nằm lắp xắp trên mặt nước như một bãi mìn. Xung quanh, rải rác, thấy sóng bạc đầu trắng xoá chứng tỏ chỗ nầy có bãi rạn. Hốt mải mê tìm kiếm Bidong ở trên trời mà quên nhìn xuống phía dười nước. Chỗ nầy nước không còn xanh thẩm nữa mà xanh lợt lợt. Đáy biển cạn quá! Sau cái đụng long trời lở đất đó, tiếng máy ghe lại nổ không bình thường. Tôi rán lắng nghe. Một thứ tiếng gì trào trạo, lột xột, trục trặc như có những mảnh sắt vụn trộn lẫn trong các trục bánh xe đang quay. Thỉnh thoảng máy gầm gừ, khục khặc, như người bịnh lên cơn suyễn. Từ hầm máy bốc lên mùi dầu dư hôi rình khét lẹt. Tôi sợ quá nhìn lên phòng lái để kiếm Hốt, thấy mặt chị Thuần, chị Điệp xám ngoét. Tư Trần Hưng Đạo, Út Trung, Dân gì đó ngồi co ro, hai mắt mở to thao láo. Không ai nói với ai tiếng nào. Một nỗi im lặng kinh hoàng, hầu như không ai dám thở mạnh nữa. Bi thì mệt lã nằm thiêm thiếp trên tay Duyên. Tôi nhìn kỹ mặt Duyên. Nàng sợ quá, khuôn mặt xác sơ, không còn một chút sinh khí.
Tôi nghĩ đến cảnh ghe bị đụng đá ngầm. Sức va chạm mạnh quá, lườn ghe bung ra bể thành lổ hổng lớn. Nước bên ngoài ùa vào, sóng vỗ tới tấp ghe lắc qua lắc lại chừng vài lần là chìm lĩm. Phải làm sao đây, tôi và Duyên đều không biết lội. Mà dầu cho biềt lội cũng không ăn thua gì. Biển cả lại bao la. Bi còn quá nhỏ. Viễn ảnh nguy vong khiến tôi muốn nghẹt thở. Trong phút chốc nỗi hối hận tràn ứ. Trời ơi! đoạn đường nguy hiểm chết sống, tại sao lại đem vợ con theo. Trên ghe lại có biết bao nhiêu anh em ruột thịt, bạn bè thân tình. Thương nhứt là Bi mới có mười chín tháng, chưa tội tình gì mà phải chấp nhận gian lao. Ôi! nếu có bề gì thì sao? Tôi ruột rối như tơ vò. Trong cái im lặng hãi hùng đó, từ trong khoang ghe có tiếng đọc kinh rì rầm. Đủ giọng Nam, giọng Bắc, nhiều nhứt là giọng mấy bà già Tàu lơ lớ. Tôi vụt tỉnh người. Tại sao mình không cầu nguyện như họ. Nghĩ xong tôi ngồi im cầu nguyện Phật Bà cứu độ. Trong lúc quính quáng sợ hãi, tôi cũng không biết phải cầu nguyện ra sao nữa. Tuy rằng nhà tôi theo đạo Phật, ba má tôi thường đi chùa nhưng thiệt tình mà nói tôi chở ông bà tới nơi, xong rồi đi chơi, tới giờ lại rước về. Tôi hầu như ít khi bước vào trong một chốn tôn nghiêm, dù là chùa hay nhà thờ, thánh thất. Có lẽ tôi sợ chốn tôn nghiêm vì xét kỹ bản thân thấy còn nhiều trần tục. Bước vào đó sợ làm ô uế cửa thiền chăng? Cho đến giờ phút nầy kề cận cái chết tôi vụt nghĩ đến cái phao thiêng liêng. Tôi bèn quên hết mọi chuyện, mặc cho tiếng sóng gào thét quay cuồng, mặc cho tiếng máy khục khặc, mặc cho cái ghe trôi nổi lắc lư, mặc cho những cục đá trơ vơ trồi lên giữa biển, tôi nghĩ tới bóng dáng Phật Bà Quan Âm mặt mày hiền từ nhân hậu đẹp đẽ, đứng trên những hoa sen giữa biển khơi cầm cành dương rảy nước cam lồ để cứu vớt chúng sinh. Tôi nhắm mắt lại nghĩ trong đầu những chữ… Nam Mô cứu khổ, cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát. Không biết tôi cầu nguyện như vậy có đúng không .. Nam Mô cứu khổ, cứu nạn…
Trong lúc tôi đang lâm râm cầu nguyện thì mũi ngửi thấy mùi khói nồng. Ai đó đã đốt giấy tiền vàng bạc để cúng. Đã cầu nguyện khấn vái rồi mà lại đốt thêm ba cái vụ nầy. Rủi cháy ghe thì sao? Bây giờ mấy bà già Tàu đọc kinh ê a thật lớn, không còn e dè gì nữa. Họ đọc líu lo, nhịp nhàng. Chắc là nước sắp tràn vô tới nơi rồi. Tôi còn quá trẻ. Duyên trẻ hơn và Bi còn nhỏ xíu. Cả đời tôi chưa hề làm một điều gì xấu xa để phải ân hận, lẽ nào trời đất không thương. Tôi đã sợ mà những người xung quanh lại làm cho tôi sợ hơn. Tôi quýnh quá nghĩ tới Trời Phật, Thánh Thần, Ông Bà Tổ Tiên, Thổ Địa, Hà Bá, Long Vương, ma quỷ… những vị khuất mày khuất mặt, ước mong một vị nào đó động lòng nhơn từ dắt chiếc ghe nầy tới chỗ yên ổn.
Trong cái nỗi sợ hãi tràn ngập đó tôi vụt trở nên tin tưởng. Không tôi không thể chết trong chuyến vượt biên nầy. Tôi mở mắt ra, xoè bàn tay mặt rồi bàn tay trái. Trong lòng bàn tay hai đường chỉ sanh đạo hiện rõ nét dài ngoằn chạy sóng đôi, một đậm một lợt không gián đoạn. Đường sanh mạng đôi tốt quá, làm sao có thể chết vào tuổi nầy được. Không tôi không thể chết! Lời cụ Diễn năm nào, bây giờ lại văng vẳng bên tai… “ Đời ông có những lúc khó khăn, nhưng chuyện gì rồi cũng vượt qua. Không phải do tài sức ông đâu, cứ bình thản đừng sợ hãi, tự nhiên khó khăn sẽ tan.”
Lạy trời cho khoa chỉ tay đúng, lạy trời cho lời cụ Diễn đừng sai. Tôi sợ quá thành ra đâm bám víu điều gì có thể bám víu được để hy vọng. Đến khi tôi mở mắt ra thì Hốt đã cho ngừng ghe lại. Dân và Cường nhảy xuống nước để coi lại chưn vịt cùng đáy ghe. Tôi nhìn lên mặt anh ta để đoán coi anh có hốt hoảng hay không. Cái mặt nắng cháy đen thui, khó đoán quá. Anh ít nói, ít cười, suốt ngày lầm lỳ. Tôi chờ nghe tiếng nước chảy rịn, cái va chạm quá lớn, thế nào lườn ghe cũng bị nứt. Nhưng may quá, đáy ghe chỉ bị trầy sơ. Hốt đứng nhìn xuống nước hồi lâu rồi quay trở về phòng lái. Tiếng máy ghe đã nổ lại nhịp bình thường, ghe quay mũi rồi trở về hướng cũ. Vùng đá ngầm càng lúc càng xa. Lườn ghe chưa nứt nên nước chưa vô được trong khoang hầm. Tôi bình tâm lại nhìn xuống nước. Nước biển đã xanh thẩm. Chỗ nầy biển sâu lắm rồi, không sợ mắc cạn nữa đâu. Tạm thời yên tâm về mặt an toàn nhưng ghe lại trở về chốn cũ. Trời! trở về chỗ hồi sáng nơi Chiêu và Hiếu bị đánh hay là về cái đảo Dừa có bọn lính hung hãn? Chiếc BL 1648 hiện đang ở cảnh tiến thoái lưỡng nan, đi tới thì e lạc đường, đảo Bidong ở đâu không thấy, về thì không có chỗ dung thân. Làm sao bây giờ. Tình cảnh của chúng tôi bây giờ lâm vào ngõ bí. Đi thì cũng dở, ở không xong.
Chèo ghe xuống biển bắt cua
Bắt cua cua kẹp, bắt rùa rùa bơi
Trời càng lúc càng tối. Lác đác trên bầu trời đã có sao mọc. Cuối cùng thì ghe cũng phải trở về hòn đảo Dừa ban trưa, đậu cặp cầu tàu. Bên trong đảo thấv có nhà, đèn điện sáng, ý định của tài công là đậu tạm để ngủ qua đêm, ngày mai sẽ khởi hành đi Singapore sớm. Mã Lai xấu quá, không thể chơi được nữa rồi. Ghe tắt máy. Sóng đánh rập rình, nó lắc lư mạnh hơn khi còn máy nổ. Tôi nhủ thầm “thôi kệ, được đậu cặp bến nầy dầu sao cũng đỡ, có gì còn bám víu lội đại vô bờ, còn hơn chạy lang thang suốt đêm ngoài khơi” Thừa lúc có người bên cạnh di chuyển, tôi lẹ làng duỗi thẳng cái chưn ra cho đỡ mõi. Nếu có một người đi nữa thì có thể nằm xuống được cho đỡ cái lưng. Tôi tưởng tượng nếu mà đêm nay có chỗ để nằm ngủ thì chắc là sướng như tiên!
Trên cầu tàu, dọc hai bên có những ngọn đèn thật lớn chiếu cái ánh sáng chấp chóa xuống mặt nước đen loang loáng. Chỗ ghe đậu khá xa nên trong khoang ghe tối mù mù. Trong cái im lặng mênh mông của biển cả chợt có tiếng nổ của động cơ một chiếc xuồng máy nhỏ lẫn trong tiếng sóng. Tiếng động cơ càng lúc càng rõ dần. Trong đảo có người đi ca nô ra liên lạc. Trời tối mờ mờ nên không nhìn rõ. Chiếc ca nô nổ máy inh ỏi trong đêm khuya, chạy xẹt thật nhanh vòng qua cầu tàu rồi đậu cặp vô ghe. Trên đó có ba người mặc thường phục nhưng có mang súng. Họ quát tháo um sùm bằng tiếng Anh. Chị Thuần ra liên lạc. Thiệt là chán hết sức. Bây giờ đậu tạm qua đêm mà cũng không cho! Tôi bực mình nên không thèm để ý nữa. Cả ngày mệt mõi, tôi dựa lưng vô thùng nước mà nghỉ ngơi. Ngày mai nầy ghe sẽ đi Tân Gia Ba, lo chi cho nhức đầu. Chỗ tôi ngồi khá xa nơi hai bên đối đáp. Trên ghe mọi người đứng vây quanh để theo dõi. Bỗng dưng nghe tiếng quát tháo thật lớn, rồi tiếng người rớt xuống nước. Có người la lên “Chị Thuần bị tụi nó đánh rớt xuống biển rồi!” Trời ơi! Cái bọn gì rừng rú quá, đánh luôn cả đàn bà con gái. Trên ghe rối rít Cương và Dân quăng phao xuống để vớt chị lên. Cũng may chị biết lội giỏi, cả người ướt như chuột lột, mặt tái xanh. Thái độ mấy người Mã trên đảo hầm hừ dữ tợn. Sau cùng thì mới biết họ cho phép đổ bộ lên đảo theo lịnh của họ. Mãi cho đến bây giờ tôi vẫn thắc mắc là cho phép đổ bộ hay là bắt buộc đổ bộ? Vì tài công đã định là đậu tạm để ngày mai đi sớm, tại sao bây giờ lại xuống đảo Dừa? Có thể là sự hiểu lầm giữa hai bên vì ngôn ngữ bất đồng. Thôi vậy cũng được còn hơn là suốt đêm ngồi trên ghe lắc lư nguy hểm. Tôi đã ngán cái cảnh sóng dập gíó dồi, nếu tiếp tục đêm nay rồi ngày mai nữa… rồi có đi tới Singapore hay Indonésia không? Như cái bong bóng xì hơi, tôi mệt mõi quá rồi, đã mấy ngày đêm ngồi bó gối, phơi mình ngoài nắng gió, không cục cựa nhúc nhích, tiêu tiểu gì cũng khó khăn hôi hám… Lên bờ đã, rồi sẽ tính sau, miễn là còn sống, đừng bị sứt mẻ gì !
Mọi người chuẩn bị đồ đạc để đổ bộ trong cảnh tối đen. Trong lúc nửa mừng nửa lo có tiếng của bọn lính Mã hét vang rân:
-Đàn bà con nít thì đi lên ngả cầu tàu. Còn đàn ông con trai chỉ được mặc quần xà lỏn nhảy xuống biển để lội vô bờ!
Trời! nhảy xuống biển để lội vô bờ! Tôi điếng người không biết phải phản ứng ra sao, từ đây vô bờ còn xa quá, không biết lội có nổi không? Đã có tiếng người nhảy xuống đùng đùng ở mũi ghe, lẫn trong tiếng sóng có tiếng la hét, quát tháo y như cảnh cai ngục đối xử với tội nhơn. Tiến ngồi kế bên nghĩ như thế nào không biết, bỗng nói:
-Chết cha rồi, cả cái đảo dừa dầy đặc, nó bắt anh em mình leo lên hái dừa, hoặc phát cho một người một cái búa lên rừng đốn củi, lao động khổ sai trong rừng sâu. Cái điệu nầy, chịu sao cho nổi. Trốn Việt Cộng lại gặp Mã Lai!
Tiến nói tới đâu tôi run tới đó. Tôi quính lên không còn toan tính gì được nữa. Ở trên ghe, đàn ông con trai đã nhảy xuống biển gần hết. Tôi lật đật cởi hai cái quần tây đang mặc cùng ba cái áo bỏ đại trên sàn ghe. Trong bụng kể như mất hết, tụi Mã Lai ăn cướp điệu nầy thì làm sao mà giấu. Trong số quần áo quăng lại đó có một ít tiền và vàng giấu bên trong, tôi quên phứt không giao lại cho Duyên.
Trên người chỉ còn cái quần cụt mỏng manh, tôi đi lần ra sau lái để kiếm chỗ nhảy xuống. Ở dưới, nhiều người đang lội lỏm bỏm vô bờ. Tiếng nhảy đùng đùng, tiếng lội lỏm bỏm, tiếng sóng rào rào, tạo thành một thứ âm thanh hồi hộp căng thẳng. Thấy có một anh bạn cầm phao đứng chờ, tôi liều gan nhảy đại. Đã quá, đã quá, làn nước mát rượi mơn man da thịt. Ba ngày ba đêm khổ sở trên ghe, nóng bức dơ dáy, nhớp nhúa, mình mẩy đầy mồ hôi, mùi ói mửa, bây giờ được dầm mình trong nước biển mát lạnh ban đêm, sảng khoái tận cùng trong kẻ tóc chưn lông. Tôi tỉnh táo hẳn ra. Chỗ nầy nước cạn, vừa trầm mình xuống, chưn đã chạm mặt cát mịn, tôi lặn hụp một hồi lâu để cho nước thấm vô tóc, vô da, rửa bớt đi lớp bụi bặm mấy ngày qua. Những lớp bụi, bùn sình, cáu ghét Cà Mau bây giờ được nước biển mặn chát ở đảo Dừa Mã Lai gột sạch. Gột thiệt sạch…
Tôi đi lần vào bờ, có một người lính Mã Lai đen thui tay cầm tiểu liên xỉa ngay vô bụng. Tôi ngoan ngoản đưa hai tay lên trời, bụng rủa thầm “Thôi mà bạn, lấy gì thì cứ lấy, cần gì phải súng ống, ghê quá!” Hắn vuốt hai tay tìm đồng hồ, cà rá, rồi rờ cổ tìm dây chuyền. Không có gì hết, hắn khoát tay ra dấu bảo lên bờ rồi xét người kế tiếp. Trên bờ, trong bóng tối tù mù, một đám người đông đảo nói chuyện xì xào di động như những bóng ma. Lần lần họ ngồi chùm nhum lại với nhau. Trời tối chập choạng không thể phân biệt người nầy với người kia, Đã độ mười giờ khuya, trời trong vắt đầy sao. Đằng kia, cầu tàu mở điện sáng trưng. Bên trong đảo là rừng dừa âm u. Tôi chợt nhớ lại lời nói của Tiến mà ớn xương sống -nó bắt tụi mình leo dừa hái trái cho nó, rồi phát mỗi người một cây búa… dừa ở đây mọc hoang hàng muôn triệu cây, phải leo tới chừng nào mới hái cho hết, thiệt tình tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa! Rừng Mã Lai toàn là rừng già, dây leo chằng chịt, lao động làm sao cho nổi?
Trong các bụi rậm, thấp thoáng có lính Mã Lai mặc quân phục rằn ri thủy quân lục chiến, súng ống hẵn hòi đứng gác. Một người lính gom các tàu dừa khô rớt rải rác đó đây lại thành một đống. Chỉ trong vài phút anh ta đã kéo được mấy chục tàu, nhiều quá. Lá dừa rụng vương vải đầy khắp. Lá khô gặp lửa bốc cháy phừng phừng. Ánh sáng chập chờn chiếu mờ mờ một góc đảo. Tụi tôi nhìn ra đựơc mặt nhau. Tô Tỷ, Út Trung, Sơn, Tư Trần Hưng Đạo… mừng rỡ ríu rít. Sơn cười ngặt nghẽo:
-Thằng lính Mã nó rờ tìm nhẫn với cà rá. Sức mấy mà tìm cho ra, tôi đeo ở ngón chưn!
Trong khi đó Út Trung mặt chầm dầm:
-Gia tài có cái Seiko Five nó lột trụi lũi…
Cả bọn ở trần trùng trục, quần ngắn ướt mem lạnh run, được gần lửa ấm mừng rỡ vây quanh để sưởi. Năm ba bẹ dừa khô cứng bắt lửa, nổ lách tách, bắn những cái tàn lửa đỏ hồng văng ra xa. Thỉnh thoảng người lính kéo vài tàu mới quăng vô thêm. Ngọn lửa bùng lên cao, tro than bay tứ tung. Những tia lửa vàng của những mảnh than vụn xẹt như pháo bông. Giống y như mỗi hè cùng học sinh đi cắm trại đốt lửa ở bãi sau Vũng Tàu, chỉ thiếu cảnh nhảy múa, tiếng hát, tiếng nhạc, tiếng trống bập bùng…
Tôi lo lắng cho mẹ con Bi và mấy đứa em, đưa mắt tìm kiếm chiếc ghe. Bây giờ thì nó được kéo về đậu cặp bên xà lan lớn sát cầu tàu. Vì ở khá xa nên không phân biệt được từng người. Tôi rán nhìn để tìm Duyên bồng con nhỏ. Thấy có một bà bồng con, tưởng là nàng. Nhè đâu sau đó có tới ba bốn bà khác cũng bồng con, không biết được bà nào là vợ mình! Tư Trần Hưng Đạo đứng cạnh bên cũng đang ngóng cổ mà nhìn. Phải cả giờ sau toán đàn bà con nít mới đi tới gặp được toán đàn ông. Duyên gặp được tôi, mừng rỡ nói huyên thiên. Tôi bồng lấy Bi, thằng nhỏ ngơ ngác ngó vô lửa sáng coi bộ thích chí. Hai con mắt láo liêng như mắt thỏ. Duyên đưa cho tôi hai cái áo và cái túi vật dụng tùy thân. Cứ tưởng đã mất hết, nào ngờ nàng còn giữ được…
Quang cảnh bờ biển lúc nầy như đêm đốt lửa trại. Ở giữa là đống lửa thiệt lớn cháy bập bùng, ngọn lửa hồng ấm áp. Xung quanh là đàn ông, đàn bà, con nít, ríu rít, quây quần, líu lo, mừng rỡ, đông nghẹt cả một vùng. Người ta kể lể, hỏi thăm, chạy kiếm nhau. Tôi gặp được lần lần các em và người thân đông đủ, không thiếu một ai, mừng quá. Cả ghe đổ bộ, tất cả đều an toàn. Tôi nhìn ra biển khơi, trời tối mịt. Trên bầu trời thăm thẳm, những vì sao dầy đặc trên cao lấp lánh. Chắc trên đó có Phật Bà Quan Âm nhìn xuống chúng tôi mỉm cười. Nụ cười thương yêu. Tự nhiên tôi cảm thấy có cái gì linh thiêng mầu nhiệm gắn bó giữa con người với con người, con người với thần thánh Trời Phật, với vũ trụ vô cùng. Cầu trời cho tất cả đồng bào tỵ nạn lênh đênh nơi chưn trời góc biển, tất cả đều gặp may mắn như mọi người trên ghe chúng tôi, đêm nay!
Bọn lính Mã Lai tách toán đàn bà con nít và toán đàn ông ra riêng. Toàn đàn ông được dồn vào cuối bãi cát, tận cùng có vách đá chắn ngang. Toán còn lại ở tại chỗ bị kiểm soát để kiếm vàng bạc châu báu. Chiếc ghe được cột chắc vô cầu tàu, một dây nữa cột vô gốc dừa mọc nghiêng trên mặt cát. Sóng đánh nó ngã qua ngã lại, đụng cái vỏ cứng vô xà lan sắt nghe rầm rầm. Bây giờ nó có bị nứt ra từng mảng đi nữa, tôi cũng không sợ. Tôi lắng nghe dòng máu trong người, mấy ngày nay hầu như nghẹt cứng bây giờ được lưu thông điều hòa. Tôi đi tới đi lui cho giãn gân giãn cốt. Trong người thiệt tỉnh táo khỏe khoắn. Một đống lửa mới to hơn đống lửa cũ được đốt lên. Vách đá chập chùng, ánh lửa chiếu sáng lắt lay, một đám người trần trụi bu quanh như trong hang động thời tiền sử. Nơi nào có lửa là có sự sống, có hy vọng tin yêu. Tôi chọn một chỗ gần sát lửa ấm, đặt thẳng cái lưng xuống làn cát phẳng phiu, nằm gối đầu trên một bẹ dừa nhỏ, nhìn những tia lửa đỏ hồng nhảy múa chập chờn. Những người khác, tất cả cùng nằm ngang nằm dọc xoay quanh đống lửa để ngủ đêm nay. Bên trên là bầu trời đầy sao sáng. Ngoài kia là sóng biển vổ vào ghềnh đá ầm ầm. Tôi ngủ mê man như chết đến nỗi không còn thấy được… chiêm bao!
Võ Kỳ Điền
Trích Pulau Bidong Miền Đất Lạ. Chương 8

Truyện-Vượt Biên



What's Related

PHỎNG VẤN DƯƠNG DANH DY VỀ BIỂN ĐÔNG

Nhà nghiên cứu Dương Danh Dy: Các nước lớn sẽ chặn TQ bành trướng Biển Đông vì lợi ích của chính họ



Email In PDF.


BienDong.Net: Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ sẽ can thiệp nếu Trung Quốc có những động thái leo thang quá mức. Các nước lớn sẽ can thiệp để bảo vệ lợi ích của chính họ ở Biển Đông chứ không phải vì ai khác, và chúng ta cần làm sao để phối hợp, hợp tác tốt với họ.

Sau phần chia sẻ về thủ đoạn mới, Trung Quốc có thể phái lính cải trang ngư dân đánh chiếm một số đảo, bãi đá của ta ở quần đảo Trường Sa cũng như một số đánh giá về phản ứng của Việt Nam, nhà nghiên cứu Dương Danh Dy tiếp tục trao đổi và phân tích xung quanh vai trò của ASEAN cũng như các cường quốc trên thế giới tại Biển Đông, cụ thể là Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ.


TRUNG QUỐC LEO THANG GÂY CĂNG THẲNG BIỂN ĐÔNG


Nhà nghiên cứu Dương Danh Dy khẳng định, Biển Đông đang trở thành vấn đề cốt lõi phản ánh sự đoàn kết cũng như khả năng thống nhất nội khối ASEAN, các thành viên ngày càng tích cực “kéo” Trung Quốc vào bàn đàm phán. Với Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ, ông Dy nhận định các nước này sẽ ngăn chặn Trung Quốc bành trướng và độc chiếm Biển Đông vì chính lợi ích của họ, Việt Nam cần hợp tác và phối hợp chặt chẽ với ASEAN cũng như các nước lớn có lợi ích và quan tâm tới Biển Đông nhằm bảo vệ chủ quyền, lợi ích hợp pháp của ta tại đây.


Nhà nghiên cứu Dương Danh Dy, Nguyên tổng lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu, TQ
- PV: Về mặt ngoại giao, ngoài việc kiên quyết phản đối các hành động leo thang gây hấn của Trung Quốc ở Biển Đông, theo ông, ta nên tận dụng sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là ASEAN như thế nào?


“Lính Trung Quốc có thể cải trang ngư dân chiếm đảo, đá ở Trường Sa”

NNC Dương Danh Dy: Tiếng nói của bạn bè quốc tế có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc ngăn chặn âm mưu, tham vọng bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông, đặc biệt là ASEAN và các nước lớn trên thế giới có lợi ích và quan tâm tới Biển Đông. Chúng ta hoàn toàn có thể và cần tận dụng tối đa sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế để ngăn chặn âm mưu bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông.


Đối với ASEAN, đang trong xu thế hình thành một cộng đồng chung thống nhất thì vấn đề Biển Đông vừa trở thành điểm nóng, vừa là mối quan tâm hàng đầu của khu vực Đông Nam Á. ASEAN có trở thành một khối thống nhất và thịnh vượng hay không được phản ánh rất lớn qua cách ứng xử cũng như quan điểm của từng nước thành viên và toàn khối đối với vấn đề Biển Đông.


Thời gian vừa qua, ASEAN đã vượt qua nhiều trở ngại, rào cản và đạt được những nhận thức chung quan trọng trong vấn đề Biển Đông, trong đó đặc biệt đáng chú ý là những nỗ lực đưa Trung Quốc quay trở lại bàn đàm phán Quy tắc ứng xử của các bên trên Biển Đông (COC) có tính ràng buộc pháp lý chặt chẽ hơn. Đây là bước tiến mới quan trọng khi Brunei đảm nhiệm ghế Chủ tịch luân phiên ASEAN năm 2013.

- PV: Tuy nhiên, trong khối ASEAN có một số nước gần như không liên quan trực tiếp đến Biển Đông. Liệu chúng ta có tìm được sự đồng thuận từ những nước này không?

NNC Dương Danh Dy: Tôi thấy cần nhấn mạnh rằng, ASEAN là một tập thể 10 quốc gia thành viên có thể chế chính trị, trình độ phát triển, văn hóa, lịch sử khác nhau. Đặc biệt, mối liên hệ của mỗi quốc gia thành viên với vấn đề Biển Đông cũng khác nhau. Hiện tại ngoài Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc, Đài Loan ở Biển Đông - Trường Sa, các nước còn lại hầu như không liên quan trực tiếp tới Biển Đông.

Vì vậy sự quan tâm của mỗi thành viên đến vấn đề Biển Đông cũng như quan điểm của họ có sự khác biệt. Đó là chưa kể đến những chiêu bài của Trung Quốc dùng tiền, dùng sức ép ngoại giao, chính trị nhằm tác động, ảnh hưởng, phân hóa các nước ASEAN trong vấn đề Biển Đông. Cho nên chúng ta không thể đòi hỏi một sự thống nhất tuyệt đối đối với tranh chấp Biển Đông của các quốc gia khác mà nên đặt mình vào vị trí của họ để lựa chọn cách ứng xử phù hợp. Không nên nghĩ ASEAN không đoàn kết, thống nhất trong vấn đề Biển Đông, mà nên tích cực khai thác những đồng thuận, những nhận thức chung của toàn khối như những gì đã đạt được trong thời gian vừa qua


Đoàn kết, thống nhất trong ASEAN nâng cao vai trò của ASEAN trong các vấn đề quốc tế. Ảnh: VGP/Nhật Bắc


- PV: Hiện tại, ngoài ASEAN còn có nhiều cường quốc trên thế giới đặc biệt quan tâm đến vấn đề Biển Đông như Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc, Nga. Theo ông điều này sẽ tác động, ảnh hưởng như thế nào đến các nước cờ tiếp theo của Trung Quốc?

NNC Dương Danh Dy: Đầu tiên phải khẳng định rằng, Biển Đông là nơi có tuyến hàng hải quan trọng, huyết mạch hàng đầu của thế giới, nó ảnh hưởng trực tiếp tới an ninh kinh tế - thương mại của các nước Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, và nhiều nước khác.
Mặt khác, Việt Nam lại có vị trí địa chính trị cực kỳ quan trọng tại Biển Đông và Đông Nam Á. Biển Đông hiện đã trở thành nơi tìm kiếm, tranh giành ảnh hưởng của các cường quốc trên thế giới, mà nổi bật là Trung Quốc Mỹ, Nhật Bản …, những nước công khai tuyên bố họ có lợi ích, lợi ích cốt lõi và mối quan tâm đặc biệt ở Biển Đông.
Đây là một thuận lợi cho ta trong việc tìm kiếm sức mạnh từ bên ngoài. Việc các cường quốc tham gia vào tiến trình giải quyết tranh chấp Biển Đông là hoàn toàn có thể, và họ sẽ can thiệp nếu Trung Quốc có những động thái leo thang quá mức. Các nước lớn sẽ can thiệp để bảo vệ lợi ích của chính họ ở Biển Đông chứ không phải vì ai khác, và chúng ta cần làm sao để phối hợp, hợp tác tốt với họ.



Đội tàu đánh cá Đam Châu (tỉnh Hải Nam, Trung Quốc) gồm 32 chiếc xuất phát từ cảng cá Bạch Mã Tỉnh bắt đầu tiến ra ngư trường Trường Sa của Việt Nam để đánh bắt hải sản sáng 6/5


- PV: Thưa ông, ta có thể tận dụng lợi thế này ra sao trong việc đối phó, ngăn chặn âm mưu của Bắc Kinh hòng độc chiếm Biển Đông?


NNC Dương Danh Dy: Đối với Mỹ, Biển Đông hiện nay là tiêu điểm tranh giành ảnh hưởng với Trung Quốc ở Đông Nam Á, là trọng tâm trong hoạt động chiến lược Châu Á - Thái Bình Dương. Từ tháng 7/2010 Mỹ đã công khai khẳng định họ có lợi ích ở Biển Đông - đó là an ninh hàng hải, và điều đó cần hiểu là không phải Trung Quốc muốn làm gì thì làm. Từ đó đến nay mặc dù Bắc Kinh luôn tỏ ra khó chịu, muốn Mỹ không "nhúng tay" vào Biển Đông, nhưng điều đó đã không hề xảy ra.


Đối với Nhật Bản và Hàn Quốc, Biển Đông là tuyến hàng hải huyết mạch của nền kinh tế, nơi rất nhiều hàng hóa xuất nhập khẩu của họ phải đi qua. An ninh Biển Đông tác động và ảnh hưởng trực tiếp tới an ninh kinh tế - thương mại của hai quốc gia này.


Thời gian qua ta đã chứng kiến những hoạt động tăng cường hợp tác quan trọng giữa Nhật Bản với các nước thành viên ASEAN, đặc biệt là với Philippines và Việt Nam. Trung Quốc đã tỏ ra lo ngại về các hoạt động này và đang ra sức tuyên truyền rằng Nhật Bản "câu kết" với các nước ven Biển Đông để "bao vây Trung Quốc"?!

Đối với Ấn Độ, một khi Trung Quốc độc chiếm Biển Đông với cái gọi là 'đường lưỡi bò' phi pháp thì không sớm thì muộn, Bắc Kinh có thể sẽ còn tuyên bố chủ quyền với cả các vùng biển trên Ấn Độ Dương chỉ vì “đô đốc Trịnh Hòa của họ đã từng đi qua khu vực này”.

Mặt khác, Biển Đông là tuyến hàng hải huyết mạch thông Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương, nơi Ấn Độ đang muốn tăng cường ảnh hưởng của mình như một cường quốc ở Châu Á, họ không thể bỏ qua. Ngoài ra, Ấn Độ cũng đang có những quyền lợi trực tiếp ở Biển Đông khi cùng với Việt Nam hợp tác khai thác dầu khí trong thềm lục địa của Việt Nam. Việc Trung Quốc bành trướng trên Biển Đông với cái gọi là "đường lưỡi bò" sẽ uy hiếp trực tiếp lợi ích của Ấn Độ.

PV: Xin chân thành cảm ơn ông!


BDN (Theo GDVN)

Tuesday, May 28, 2013

THẤT LĨNH * VỀ VỚI NHÂN DÂN

 

 Bỏ lề đảng, về phía lề dân
Thất Lĩnh (Danlambao) - Sự kiện blogger Trương Duy Nhất bị bắt vì những bài viết khách quan vạch trần mặt trái tiêu cực của xã hội, một lần nữa, chứng minh rằng làn sóng những người bỏ lề đảng về phía lề dân đang ngày càng gia tăng.
Ông Trương Duy Nhất từng làm việc cho báo Công an Quảng Nam – Đà Nẵng, sau này chuyển sang làm báo Đại Đoàn Kết. Nghe tên hai tờ báo này một người bình thường cũng dễ dàng nhân ra đây là hai tờ báo quyết liệt bảo vệ cho chủ trương chính sách nhà nước, hay nói khác hơn là công cụ để mị dân, giữ vững quyền cai trị của đảng cộng sản. Nhưng một ngày đẹp trời, ông Trương Duy Nhất đã quyết định bỏ viết báo chuyển sang viết blogg. Slogan “một góc nhìn khác” đã chứng minh mạnh mẽ quan điểm của Trương Duy Nhất sau khi bỏ báo lề đảng, đó là cái nhìn xoáy vào thực tế cuộc sống chứ không phải múa bút theo chỉ thị của đảng cộng sản. Anh không chấp nhận làm kẻ bồi bút cho nhà cầm quyền mà mạnh dạn đứng về phía người dân đang thống khổ, mất quyền con người.
Những ai am hiểu đời sống chính trị Việt Nam sẽ nhận ra “phong trào” bỏ lề đảng về phía lề dân không chỉ mới bắt đầu từ thời Trương Duy Nhất. Nhiều trước đây, Nguyễn Vũ Bình, một đồng nghiệp của Trương Duy Nhất tại báo Đại Đoàn Kết đã có nhiều bài viết cổ xúy cho dân chủ tự do và đa nguyên đa đảng đã bị cộng sản tống giam. Nhưng giờ đây, anh vẫn kiên trì đấu tranh mà không hề tỏ ra sợ hãi hay luyến tiếc.
Một nhân chứng sống động nữa là trường hợp của nhà báo Huy Đức. Trong khoảng thời gian làm cho báo lề đảng, anh được đánh giá là một cây bút sắc sảo, đầy nội lực. Dân trong nghề thường kháo nhau rằng, trong thời gian anh viết cho báo Tuổi Trẻ, những cán bộ cao cấp từ Hà Nội vô Sài Gòn phải tránh mặt Huy Đức vì anh có những câu hỏi phỏng vấn quá khó trả lời. Với tài năng và uy tín như thế, nếu chịu ngoan ngoãn theo lời đảng, Huy Đức hoàn toàn có một vị trí xã hội cao. Nhưng rồi anh đã viết nhiều bài “trái ý” đảng và nghiệp làm báo của anh bắt đầu gặp nhiều khó khăn. Đến một ngày, khi quyển truyện Bên Thắng Cuộc ra mắt, người ta hoàn toàn tin rằng Huy Đức đã đứng hẳn về phía lề dân.Blogger hay facebook của anh được xếp hạng top đối với những ai quan tâm đến vấn đề chính trị và xã hội Việt Nam.
Một nhân vật đình đám khác trong làng báo lề đảng phải nhắc đến là Huỳnh Ngọc Chênh. Anh đã từng có một vị thế khá cao trong báo Thanh Niên. Rời khỏi tờ báo này anh đã trở thành một blogger nổi tiếng với nhiều bài viết hay về tình hình Việt Nam. Phải thừa nhận rằng từ khi chuyển sang lề dân, anh nổi tiếng hơn hẳn thời còn làm báo lề đảng. Kết quả là giải thưởng quốc tế mà anh nhận được cách đây chưa lâu.
Gần hơn nữa, một cái tên nhắc đến là mọi người lập tức ồ à thán phục đó là nhà báo trẻ Nguyễn Đắc Kiên. Anh đã dũng cảm phản bác lại ý kiến phê bình những người thẳng thắn góp ý trong đợt sửa đổi hiến pháp của ông Nguyễn Phú Trọng, một người mà xét về tổng thể quyền lực ngang hàng với vua tại Việt Nam. Nhà báo trẻ này không sợ bị kết tội“phạm úy” dám lên tiếng để bảo vệ cho người dân thấp cổ bé miệng, tức giận nhưng sợ hãi không dám bài tỏ chính kiến. Hành động can đảm của anh đã thực sự góp phần thức tỉnh nhận thức về quyền con người.
Chắc chắn còn rất nhiều nhà báo lề đảng đã theo lề dân nhưng vì hiểu biết giới hạn, và vì khuôn khổ của bài viết mà người viết chỉ nêu ra những cái tên tiêu biểu kể trên. Do bài viết đề cập đến những nhà báo nên cũng xin mạn phép không nhắc đến những nhà văn tên tuổi đã tự nguyện từ bỏ đảng để viết những gì chân thật nhất về bản chất cộng sản. Vấn đề chính mà người viết muốn nêu ra ở đây là vì sao ngày càng có nhiều nhà báo bỏ đảng cộng sản?
Giống như ở bất cứ xã hội nào, những nhà báo ở Việt Nam vốn là những người nắm bắt dòng thời sự, và chuyển biến xã hội nhanh hơn nhiều đối tượng xã hội khác. Bản thân họ có nhiều cơ hội để biết và hiểu rõ những gì đã và đang xảy ra trong môi trường xã hội họ đang sống. Lúc đầu, có thể vì nỗi lo cơm áo, vì trách nhiệm họ đành chấp nhận giả điếc, giả mù để tránh rắc rối. Nhưng rồi khi đã sống quá lâu với cái xấu, những người có lương tri có cái dũng, đã cảm thấy mình cần phải làm điều gì đó để giữ lại điều tốt đẹp cho cuộc đời. Thế là họ đã lên tiếng mà bất chấp sự hiểm nguy sẽ đến với mình. Họ không thể im miệng mãi trước sự suy đồi đến mức mục rũa của chế độ. Một cách rất tự nhiên, họ đứng vào lớp người tiên phong chống lại sự cai trị độc tài, phi dân chủ và phi nhân quyền ở đất nước Việt Nam thân yêu.
Điều này cho thấy quyền con người là một nhu cầu bức thiết, mà con người dù sống trong hoàn cảnh nào, cũng phải đấu tranh để giành lấy cho bằng được.
Vì vậy, tôi tin rằng sau Trương Duy Nhất sẽ còn nhiều nhà báo lề đảng sẽ công khai đứng về phía người dân. Bởi vì, tầng lớp trí thức sẽ không bao giờ chấp nhận khuất phục trước sự bá đạo, lừa dối và phi nhân của đảng cộng sản.

NAM MINH * AI THẮNG AI?

Bắt Chiến Thuật”: Ai thắng ai?

Nam Minh


Trên trang Facebook của Hồ Hải có tấm hình chụp Trương Duy Nhất đang “hiên ngang” vào phi trường Đà nẵng để được đưa ra Hà Nội, có 2 nhân viên an ninh mặc thường phục áp tải.

Trương Duy Nhất hiên ngang trên đường vào sân bay Đà Nẵng ra Hà Nội để điều tra, nhưng những người áp giải Nhất lại cúi đầu.
Phải chăng Trương Duy Nhất bị “bắt chiến thuật” –có nghĩa là bắt để ngăn chặn những tác hại cho phe bắt trong cuộc đấu đá nội bộ hiện nay giữa phe cải cách và phe bảo thủ trên tầng cấp lãnh đặo cao nhất của đảng CSVN.
Có thể thấy được cuộc tranh chấp này qua hai vấn đề quan trọng đang đựợc đưa ra tại Quốc Hội. Vấn đề thứ nhất là bỏ phiếu tín nhiệm nhân sự của chính phủ, và vấn đề thứ hai là thảo luận về sửa đổi Hiến Pháp.
Chúng ta cần theo dõi xát việc bỏ phiếu tin nhiệm để xem phe “ba Dũng” có tiệp tục trụ lại được không, sau khi đã vượt qua được nhiều đợt bị phe NP Trọng tấn công tới tấp. Về việc sửa đổi Hiến Pháp, bản dự thảo do NP Trọng đưa ra QH, làm thất vọng nhiều người, có phải là bản mà HNTW7 đã thông qua không? Tại sao HNTW7 lại không có Nghị Quyết, mà chỉ ra Thông báo? Có Nghị Quyết mà không công bố hay không có Nghị Quyết? Việc không có NQ hay có nhưng không công bố là điều bất thường.
Những gì đang diễn ra tại QH phản ánh những tranh chấp trong ban lãnh đạo đảng CS hiện nay. Quốc hội sẽ theo phe nào? Cải cách chính trị theo hướng dân chủ, hay “vũ như cẩn”. Chấp nhận bản dự thảo do TBT NP Trọng đưa ra, theo thông lệ “đảng lãnh đạo, QH làm theo”, hay sẽ biểu quyết chấp nhận những điều sửa đổi do chính phủ NT Dũng đưa ra (9 điểm) và Chủ tịch TT Sang đưa ra. Hãy chờ xem.
Nam Minh
Hà Nội, 28.5.2013
CHUYỂN HÓA VIỆT NAM

TRẦN THÚC LÂN * CÁNH HẢI ÂU



Cánh Hải Âu

Hồi Ký – Trần Thúc Lân



Khoảng vài tuần trước ngày Quốc Hận thứ 38, tôi nhận được thư của anh Lê Minh bên Úc.
Anh Lê Minh một lần nữa lại ủng hộ Quỹ Tù Nhân Lương Tâm (http://www.tnlt.net/) bằng cách đặt tranh tôi vẽ.


Tôi thật cảm kích với hảo tâm của anh ấy vì xung quỹ với tiền công làm việc cực nhọc ở cái tuổi mà thường tình người ta chỉ mong sớm được về hưu an nghỉ.
Nhưng lần này không như thường lệ, anh không đặt chân dung cho một người hùng Chiến Sĩ Tự Do nào, mà lại đặt chân dung của ‘chúng ta’, của Thuyền Nhân !!


Lẽ dĩ nhiên tôi rất hân hạnh được nhận vẽ, nhưng tôi không khỏi nôn nao bồi hồi, phần vì hăng hái trước một dự án đối với tôi ‘lớn lao’, phần thì lại lo lắng trước sự phức tạp của chủ đề khi sức tôi mỗi ngày một yếu…


Thế là kế tiếp những đêm mất ngủ băn khoăn suy nghĩ, những ngày tìm tòi tài liệu hình ảnh …Tôi tự hứa sẽ không mang hình ảnh đến từ trong ký ức và kinh nghiệm của bản thân vì không muốn hạn chế bức tranh với những kỷ niệm riêng tư của tôi.


Phần thì phải nói, gợi lại những hình ảnh hay nói đúng hơn những ám ảnh đó quá hãi hùng, quá đau đớn cho tôi… Tôi ước muốn vẽ cho mọi Thuyền Nhân chứ không chỉ vẽ về cuộc vượt biên của riêng tôi.


Phải chăng đó chỉ là một dụng cớ để tránh nhớ lại những gì tôi đã tự hứa khóa chặt trong tâm não ?...
Tôi chú tâm tìm đọc trên mạng thật nhiều chuyện thuật lại hành trình khốn khổ của biết bao Thuyền Nhân… Lẽ dĩ nhiên, tôi không còn cứng rắn đủ như xưa kia để cầm lại nước mắt, và tự nhủ, Quốc Hận năm nay, không những mình đã tưởng niệm mà lại còn có cảm tưởng như đã để tang thật kỹ thật nhiều …


Nội dung của bức tranh từ từ hiện lên trong đầu tôi... Cả lộ trình của biết bao nhiêu người thì làm sao vẽ trong một bức được…
Vì thế phải nhiều bức ráp lại với nhau như để biểu tượng những đoạn trường phải trải qua trên lộ trình vượt biên, hay để gợi lên những mảnh đời tan nát, chia lìa cũng như những cuộc hội ngộ, đoàn tụ sau bao tuyệt vọng, những câu chuyện riêng đã in hằn trong tâm ức chung của người Việt tỵ nạn…


Và để ráp những bức đủ cỡ đó lại với nhau, tôi cần tìm một yếu tố làm cái ‘fil conducteur’, một dây nối tượng hình để gắn liền các bức tranh lại với nhau…
Và tôi tìm đựơc nó khi hồi tưởng lại câu chuyện sau đây…


Mùa thu năm 1981, lúc ấy tôi mới sang tỵ nạn tại Paris chưa được 2 năm. Tôi đi chạy hầu bàn ở nhà hàng ĐV ở quận 5.
Một chiều tối, một cặp vợ chồng Tây đã đứng tuổi, rất sang trọng bước chân vào quán. Nghe họ nói chuyện với nhau tôi cứ tưởng họ người Gia-nã-đại.


Tôi mời chào và giải nghĩa thực đơn bằng tiếng Anh, và người đàn ông lớn tuổi hỏi tôi :
« Anh không nói giọng Mỹ như nhiều người Việt tôi từng gặp ! Sao lạ thế ? ».
Tôi cười xuề xòa :
 Dạ thưa ông, không có giọng Mỹ, nhưng chắc chắn là có giọng Việt Nam chính cống ! Giọng của ông thì tôi đoan chắc là tiếng Anh của Nữ Hoàng (Queen’s english), nhưng bà nhà có phải là người Gia-nã-đại ? »


Ông ta tươi cười : « Anh chỉ đúng một nửa. Tôi là người Anh, vợ tôi đây người Bỉ. Tên tôi là Peter Townsend, tôi vừa hoàn tất một quyển sách về một hành trình của Thuyền Nhân, nên tôi đã gặp và phỏng vấn nhiều người Việt trong các trại tỵ nạn ở mọi nơi… »


Vì bàng hoàng, tôi hấp tấp hỏi ông một cách vụng về và vô duyên : «Thế thì ông có quen với Cha Hugo không ? »,
cứ như là hễ một người Anh nào mà quan tâm đến Thuyền Nhân đều phải biết linh mục này mà chính tôi lúc đó cũng chưa gặp mặt và cũng chẳng biết tên họ của linh mục này là gì.


Người ta vốn nói ‘Thánh nhân đãi kẻ khù khờ’, thì trước câu hỏi ngu ngơ của tôi ông Townsend trố mắt, ngạc nhiên đến ngớ ra :
« Làm thế nào anh biết cả con trai tôi à? ».
Đến phiên tôi giật mình và chống chế vội vã :


« Trời ơi ! Ông là bố của… Chả là con gái tôi đang đi học ở Luân-Đôn, nó thuộc về giáo sứ của Cha Hugo, và đã được Cha dẫn đến thăm trại tạm cư của các Thuyền Nhân, gần giáo sứ, ngay giữa lòng Luân-Đôn !...».


Ông Townsend gật gù và thoải mái hơn, nên đùa :
« Trong một khoảng khắc, tôi cứ tưởng là người Việt nào cũng thần giao cách cảm, đọc được trong đầu của người đối diện chứ ! »…
Sau bữa ăn, ông ta chìa cho tôi một tấm thiệp có tên tuổi và địa chỉ của ông và nói một cách rất chân tình :


« Khi nào anh có rảnh, gọi điện thoại số này cho tôi, rồi lên tôi dùng trà, tôi có một vài chuyện muốn hỏi anh để tìm hiểu thêm về Thuyền Nhân Việt Nam … ».
Tôi hân hạnh quá, được gặp rồi lại được mời đến nhà thân phụ của một linh mục Anh mà con gái tôi hết lời khen ngợi… Ngoài ra tôi không biết gì hơn về ông Peter Townsend cả, ngoài quyển sách ông vừa đề cập đến !


Thế rồi một ngày tôi lấy hết can đảm gọi điện thoại và may mắn được ông Townsend nhận ra và hẹn đến nhà ông. Tôi có cố ăn mặc chỉnh tề mà càng đến gần nhà ông lại càng cảm thấy mình như anh ngố mới ra tỉnh. Ông ở một căn lầu trong một biệt thự dưới chân tháp Eiffel lộng lẫy và khổng lồ. Tất cả trong nhà ông đều sang trọng, quý phái làm sao… Tôi tự hỏi, tại sao một người như ông ta, đáng tuổi cha, chú tôi lại muốn hỏi chuyện với một người tỵ nạn tầm thường như tôi ? Chắc cũng nhờ Cha Hugo, tôi nghĩ… Rồi trước lời chào đón vô cùng nồng nhiệt và bình dị, tôi bớt hết hồi hộp lo lắng…


Ông Townsend làm trà và mang rót cho tôi, lần đầu tiên tôi thấy sữa đổ vào tách trà. Rồi ông hỏi han về cuộc vượt biên của tôi. Tôi kể lại cho ông, đến những lúc tôi xúc động, cái tách trà cũng run lên lách cách trong tay tôi. Dù nước mắt tôi lưng tròng, tôi cũng thấy được lòng cảm thông trong ánh mắt long lanh của ông. Ông kể đã đi thăm rất nhiều trại tỵ nạn từ Mã-Lai đến Hồng-Kông, từ Thái-Lan sang Phi-Luật-Tân. 
 
Nghe kể bao nhiêu chuyện qua lời thông dịch, không làm sao trung thực hoàn toàn được nhưng cũng đủ cho ông thấu hiểu hoàn cành hãi hùng của bao mạng người nhỏ bé giữa đại dương … « Chuyện người nào tôi biết đến cũng thương tâm cả…Làm sao kể lại hết tất cả mọi chuyện… Cuối cùng tôi phải chọn lựa kể lại một chuyện mà tôi cảm thấy là ‘kinh hoàng’ (terrifying) nhất và tôi theo dõi câu chuyện đó cho đến cùng. Đó là câu chuyện của một cô bé gái đi vượt biên cùng người anh/em (brother) trên một chiếc thuyền cọc cạch, không thể nào tồn tại giữa sóng gió biển cả. Trên tàu nhiều người đã đuối sức chết vì đói khát, bệnh hoạn vì lênh đênh quá lâu, cuối cùng tàu tạt vào một bãi san hô… Hai anh em cùng vài người sống sót tập bắt chim hải âu, phơi khô để ăn…cho đến ngày chỉ còn lại có cô bé gái, một mình giữa bao xác chết, chơ vơ trên một bãi san hô mỏng manh giữa trời nước… 
 
May mắn sao, vài ngày sau đó một tàu hàng hải đã cứu vớt. Tôi muốn tìm hiểu thêm về nội tâm của cô bé cũng như sự tự tồn của một con người trong một thảm cảnh như vậy. Tôi chỉ tiếc là khía cạnh tâm lý tôi không tường thuật được đầy đủ vì ngôn ngữ và tuổi đời của cô bé không cho phép diễn tả hết được. Tôi đã bao lần suýt chết trong Thế Chiến thứ 2, nhưng tôi tự hỏi nếu tôi ở trong trường hợp cô bé gái ấy, liệu tôi có còn đủ sáng suốt để kể lại không ? Tôi muốn thuật lại qua quyển sách này một chuyện thật, để cho thế giới của tôi (my world) hiểu biết hơn về thảm cảnh của Thuyền Nhân Việt Nam, hầu cưu mang họ… Anh đừng hiểu nhầm tôi, không phải là sự tội nghiệp đã thúc đẩy tôi viết… họ khốn khó thật đấy, nhưng họ rất kiêu hãnh, cái phẩm cách của những người đã đi qua địa ngục và sống còn. Qua những ngày tháng đi tìm hiểu về họ, tôi thấy tôi cảm phục họ, họ thu hút đầu óc (fascinate) tôi trên rất nhiều khía cạnh mà tôi mong anh có thể giúp tôi hiểu rõ hơn. »


Tôi chỉ tạc ghi trong lòng từng lời ông Townsend nói, hình như tôi không còn nhớ những gì tôi đáp lại ông, như thể những câu trả lời ấy chẳng có ký-lô nào…Tôi chỉ nhớ là lúc đó tôi như mở cờ trong bụng là có những người ngoại quốc suy nghĩ như ông ta. Đây là những điều chính ông đã bày tỏ hôm đó :


. Grapevine/Truyền miệng : « Người Anh-quốc chúng tôi gọi hiện tượng này là ‘grapevine’, tin truyền miệng. Trong trường hợp của cô bé gái trong sách của tôi thì cái guồng máy ‘truyền miệng’ của cộng đồng tỵ nạn Việt Nam thật là kỳ diệu, phi thường ! Tôi theo dõi trường hợp cá nhân này và tôi phải nể phục, không thiếu phần bàng hoàng, băn khoăn tự hỏi : Họ làm cách nào hay vậy ? Một cô bé gái, một thân một minh đến trại ở một nơi xa lạ, không có một phương tiện truyền thông, truyền hình, giấy tờ hành chánh, hay bất cứ một hệ thống liên lạc tân tiến nào… thế mà chỉ qua người này nhắn đến tai người nọ mà tìm lại được cha mẹ (đi trong chuyến tàu khác, trôi dạt đến một nước khác) và cuối cùng gia đình được đoàn tụ và định cư ở Úc. Không chỉ riêng tôi, trong UNHCR (Cao ủy Tỵ Nạn LHQ) ai cũng đã một lần ngạc nhiên khi thấy cách liên lạc tìm kiếm thân nhân không cần sổ sách, giấy tờ (records) gì cả nhưng rất hữu hiệu, xuyên qua tất cả biên giới toàn cầu !?! »


. Chiến tranh, Hòa bình và Tự do : « Tôi đã từng chiến đấu để bảo vệ đất nước tôi. Và tôi đã viết sách tường thuật về mặt trận ‘Battle of Britain’ của không quân Vưong Quốc Anh (RAF) với không quân Đức Quốc Xã (Luftwaffe). Những gương can đảm tôi đã chứng kiến trong thời chiến, nhưng tôi phải nể sự can đảm của người Việt trong cuộc di dân có thể gọi là một biến cố lịch sử, nhất là khi chiến tranh đã chính thức chấm dứt! Cái gì thúc đẩy họ sẵn sàng bỏ đất nước, liều chết để ra đi ? Họ chạy trốn Cộng sản, nhưng khi hỏi thì họ đều nói họ đi tìm Tự do! 
 
Tôi có cảm tưởng như họ hãy còn sợ là thế giới bên ngoài chưa lường được đến mực nào ‘Cộng sản là đối tượng của Tự do’. Cái ý thức của họ về chữ Tự do đó mới thật là chính đáng. Khi tôi nghĩ, nước tôi đã đẻ ra cái phong trào Hippy, đưa đến phản chiến, vô tình đã đẩy đưa số phận dân miền Nam Việt Nam vào đường cùng. Cái lũ hippies thời đó chúng xuống đường đòi Tự do, chúng có hiểu Tự do là gì đâu, cái tự do của một lũ lớn lên trong thời bình, chưa biết hy sinh một ngày cho đất nước, chưa biết chiến tranh nhưng đòi hòa bình, sống với đầy đủ các quyền công dân nhưng đòi tự do, cái tự do để yêu đương, để hút sách, để đồi trụy, để hèn nhát, cái loại tự do rẻ tiền, ích kỷ, vô trách nhiệm đó có ngờ đâu đã mang lại sự mất mát của chữ Tự do cao quý của bao nhiêu người ở bên kia trái đất ! 
 
Tôi muốn gửi bọn chúng đi nghỉ hè bên kia Màn Sắt để học lại định nghĩa của chữ Tự do. Anh biết không, có một Thuyền Nhân nói vói tôi mà tôi nhớ mãi : ‘Khi nằm trên tàu trôi dạt, ai không mơ được bay lượn như cánh hải âu… Ao ước Tự do của chúng tôi đấy !’. Theo tôi, nếu cánh bồ câu tượng trưng cho hòa bình, thì hình ảnh đẹp nhất của Tự Do, phải là cánh hải âu ! Lúc đầu tôi muốn đặt tên quyển sách là The White Seagull (Con Hải Âu Trắng) nhưng sau với nhà xuất bản tôi phải đổi lại thành The Girl In The White Ship (Bé Gái Trên Chiếc Thuyền Trắng), để không nhầm với một tên sách khác đã ấn bản. »


Hơn hai mươi năm sau buổi chiều đó, giờ đây tôi có dịp cám ơn ông Townsend một lần nữa, lần này qua những giòng chữ này.
Ông đã nhắc nhở cho tôi hình ảnh Cánh Hải Âu trong bức tranh tôi đang phác họa.


Ông qua đời đã trên 15 năm rồi, và tôi cũng đã có dịp được hiểu biết tên tuổi lẫy lừng của ông, một anh hùng của Vương Quốc Anh trong Đệ Nhị Thế Chiến, người yêu oan trái của Công Chúa Margaret…Nhưng trong tôi, tôi sẽ giữ mãi hình ảnh của ông chiều hôm đó, một người quý phái nhưng bình dị, cao cả nhưng khiêm nhường, từng trải nhưng luôn băn khoăn, lạnh lùng kín đáo nhưng đầy tình cảm…và ông đã quan tâm đến Thuyền Nhân Việt Nam ! Cám ơn ông.
__._,_.___

Monday, May 27, 2013

HỒ HỒNG TUYẾN * CHÍ PHÈO

TỪ “GIÂY LÁT VỚI CHÍ PHÈO” ĐẾN “NHÂN DÂN”


1logoViet 
HỒ HỒNG TUYẾN
Gần đây, đọc bài thơ “Nhân Dân” của Nguyễn Trọng Tạo, tôi bỗng nhớ lại bài thơ “Giây lát với Chí Phèo” của Tùng Bách gần 20 năm trước. Hai bài thơ thế sự của hai nhà thơ xứ Nghệ nổi tiếng, tuy cách xa nhau về thời gian, nhưng đã gặp nhau ở “ý tưởng lớn” là đứng về phía “dân đen”. 
Lê Tùng Bách (bút danh Tùng Bách) quê Hà Tĩnh, tuổi Kỷ sửu (1949) là con trâu tự làm lấy mà ăn, vất vả, bươn chải, đúng là số lận đận. Nhưng ở tuổi này có tài, bất chấp danh vọng, sẵn sàng cởi áo từ quan để về quê đi cày. Xem ra Tùng Bách cũng đầy khí phách Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ. Nguyễn Du ngoài đời gặp hoạn quan cũng chào, nhưng trong thơ thì “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”. Nguyễn Công Trứ có một lần được các quan kính nể mời lên mâm trên ăn thịt chó, tiên sinh nói “Trên chó, dưới chó, ngồi chỗ mô cũng chó”, khiến hết thảy quan to tím mặt mà không làm gì được. Tùng Bách chưa làm quan bao giờ, nhưng thơ anh đầy biến hóa, khinh thường thói đời hợm hĩnh. Tính từ lần xuất bản đầu tiên (năm 1968) đến nay anh đã có 6 tập thơ. Thơ anh hóm, sâu sắc, đầy trăn trở chuyện nhân tình thái thế và trĩu nặng những nỗi niềm trắc ẩn. Tùng Bách nghèo về vật chất nhưng giàu về thơ. Thơ anh phần nhiều viết về thân phận của thập loại chủng sinh, khúc triết từ câu, tứ, đọc lên buồn cười mà chảy nước mắt. Phần lớn đã đi vào lòng bạn đọc qua “nhà xuất bản mồm” chuyền từ người này qua người khác. Vì thơ anh có một lối đi riêng không lẫn lộn vào ai.
Tùng Bách
Tùng Bách
Tôi thuộc bài thơ “Giây lát với Chí Phèo” qua “xuất bản mồm” trong những cuộc giao lưu vỉa hè với bạn bè văn nghệ sỹ xứ Nghệ. Ngay buổi đầu nghe nhà thơ Chu Vĩnh Phương, Trần Đức Thạch đọc bài thơ trên của Tùng Bách tôi đã say mê mệt. Đêm về tôi đọc thơ cả trong mơ… “Nhân dân không là Chí. Nhưng Chí là nhân dân. Chí- Phèo- Là- Nhân – Dân- Làng- Vũ – Đại”. Vợ tôi cầm tóc giật “Ông ! Ông ! ăn nằm với con mô mà dấu tôi”? Tôi tỉnh dậy ngơ ngác chưa biết mô tê gì thì ả tấn công “Ông tưởng nói lái “Vũ Đại” là tôi không biết gì ạ!”. Thì ra thế. Tôi phân trần cho ả nghe. Ả cười, tôi cười, cả hai nước mắt nhòe nhoẹt. Cảm ơn “Giây lát với Chí Phèo” đã cho tôi một chút kỷ niệm suốt đời không quên với bà vợ đã mất 2004. Không chỉ đọc trong mơ, ngay cả với các quan trong những chuyến công tác, khi rượu “ngọt rồi” tôi cũng đưa Chí Phèo ra đọc “Trên cao xanh, dưới đất dày, giữa nhí nhố một bầy. Dại gì không uống, tội gì không say”… Làm các quan chạnh lòng, chuyển đề tài sang hát tình ca “Khúc hát sông quê”, “Làng quan họ quê tôi” của nhạc sỹ Nguyễn Trọng Tạo. Mạnh ai nấy hát theo sở thích.
Mở đầu “Giây lát với Chí Phèo” nhà thơ Tùng Bách không né tránh, cắc bụp ngay “Chí Phèo ạ! Chí Phèo chưởi không sao. Tớ mà vậy e chừng vỡ mặt. Quan có tha thì nha cũng bắt. Kiện cáo ư, ai đời cái kiến đi kiện củ khoai”. So với bài thơ “Nhân dân” của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo thì Tùng Bách có một lối đi riêng, bắt đầu đưa cái “tôi” cá thể để qua từng cung bậc nâng dần lên cái “ta”, ý tưởng lớn. Đọc từng câu chữ “Chí… chưởi không sao, Tớ mà vậy…vỡ mặt, quan tha…nha bắt, Cái kiến…củ khoai” nghe ra như một lát trải lòng, tâm sự, hóm mà đau, nhẹ mà trĩu buồn u uất Thế đó, thời nào quan, dân, bất công, ức hiếp, cướp bóc cũng để lại trong lòng nhà thơ bao trăn trở. Còn Nguyễn Trọng Tạo lại thẳng thừng qua một triết lý và nghịch lý “Có thể thay quan, không thay được nhân dân. Thay tên nước, không thể thay Tổ quốc. Nhưng sự thật khó tin mà có thật. Không thể thay quan, dù quan đã thành sâu”. Trở lại “Anh Chí Phèo” của Tùng Bách, khổ thơ tiếp theo “Trên cao xanh, dưới sâu dày. Giữa nhí nhố một bầy. Tội gì mà không uống. Dại gì mà không say”. “Cao xanh” là Trời, nghĩa bóng nữa thì tùy kẻ nào đó tự nhận lấy, nhưng “Dưới sâu dày” (không phải đất dày) mới thật tuyệt. Thơ là thế, đọc cái này người ta nghĩ đến cái kia. Chả thế mà Lê Qúy Đôn nói: Có ba loại người thẩm thấu thơ, người ở bề da, người bề thịt, người ở xương cốt. Và xương cốt là đỉnh cao của thi nhân. Thơ của Tùng Bách dần dần hiện lên ý tưởng, hồn cốt, xương tủy “ Chí say, Chí chưởi tối ngày. Đau đầu Bá Hộ, rác tai xóm làng. Chí chưởi ra rượu uống, cơm ăn, ra vườn cây ao cá. Muôn năm cái nghề cạo mặt ăn vạ. Chỉ lo phí rượu, không lo phí đời”. “Chí Phèo làng Vũ Đại” là tác phẩm lớn của nhà văn Nam Cao, đây là tác phẩm văn học hiện thực phê phán một chế độ phong kiến thối nát, chỉ biết lo vun vén cho đầy túi tham, đẩy người dân lành vào con đường khốn khổ, bần cùng. Chí Phèo là hiện diện của tầng lớp đói khổ, cơ hàn, muốn lương thiện mà không được, đành phải liều, phải khùng. Rùng rợn và đau xót quá khi Chí phải mượn rượu, chọn nghề độc đắc vô nhị cạo mặt ăn vạ, để có cơm ăn, để tồn tại như một bản năng. Rượu say Chí không biết đau khi rạch mặt, Chí bất chấp cả cái chết nên các quan Bá Kiến, Bá Hộ phải sợ thằng khùng. Để được tồn tại Chí phải trả giá quá lớn về thân xác, tinh thần. Nhưng các quan tham giàu sụ lên, sống trong sơn hào hải vị, vợ bé vợ lớn, kẻ ăn, kẻ ở đầy nhà lại không phải làm gì hết. Bài thơ “Giây lát với Chí Phèo” qua từng cung bậc đã được đẩy lên một điểm cao mới, tầng tầng, lớp lớp, với câu từ rất dân gian, nhưng đầy cảm xúc liên tưởng. “Tiên nhân cái thằng chỉ biết ăn xôi, không hề chịu đấm”. Chí phèo chưởi thằng nào? hay nhà thơ chưởi, có thể cả hai, và cao hơn nữa đó là nhân dân, tầng lớp bị áp bức, và thằng bị chưởi chắc chắn là thằng quan. Mấy câu sau thật hay, hay vì lật ngược, lật xuôi đều đúng, đều trúng “Nhân dân không là Chí. Nhưng Chí là nhân dân. Chí – Phèo- Là- Nhân- Dân- Làng- Vũ- Đại”. Và rồi phần kết của bài thơ nghe đến gai góc, rờn rờn, nhưng nâng lên một khái quát lớn tính nhân văn và trách nhiệm. Tuy vẫn giọng điệu của anh Chí say nhè, nhưng nhà thơ rất tỉnh táo nâng tầm bài thơ cao hơn qua mấy câu kết (không thể khác) dù sau này đã phải chữa lại cho nhẹ đi. Qua điện thoại, Tùng Bách cũng nhận ra điều này, có chuyện là do bị sức ép nào thì nhà thơ không nói.
Đểu với đây thì đây đểu lại. Tưởng đây thích sống lắm à? Bao giờ dân nổi can qua…bao giờ?” Nghe nói dạo còn làm biên tập ở Hội văn nghệ Vũng Tàu nhà thơ Tùng Bách bị “đánh tơi tả” vì bài bài thơ này, ai đánh chắc không phải tìm hiểu cũng biết, vì giới văn nghệ đều quí trọng nhà thơ xứ Nghệ này lắm, rất nhiều bạn bè gọi anh là sư phụ thơ. Có lẽ đến chết tôi cũng không quên được cái tài hoa có một không hai của ông Phan Sào Nam quê Nam Đàn. Giai thoại kể rằng: Phan tiên sinh thi về bị trượt, không đi đường thẳng, mà đi tắt qua mấy cánh đồng. Có mấy cô thôn nữ đang trỉa ngô, thấy tiên sinh nho nhã liền ra câu đố trêu chọc: “Đưa chàng mấy hột ngô rang. Chàng đúc vô mô cho mọc, thiếp theo chàng từ đây”. Vế ra đầy hóc búa có lẽ Trời cũng vái, vì ngô rang chín thì đúc làm sao mọc cây được. Thấy đối phương vỗ trán, mặt nhăn nhó, mấy ả trỉa ngô bíu nhau cười chờ Tiên sinh vái thua. Bất ngờ cụ Phan tìm thấy bí ẩn của từ “đúc” (không phải trỉa) đầy nghịch ngợm, đến gần mấy ả chỉ chỉ xuống mấn (váy) một cô đối ngay: “Nơi mô mà nắng không khô, mà mưa không tới, đúc vô mọc liền”. Thật là tuyệt, tuyệt hơn cả Đế Thích giải nước cờ bí. Nhắc lại giai thoại đó để nói rằng thơ của Tùng Bách cũng có những lúc biến hóa khôn lường, làm người đọc từ nín thở rồi vỡ òa cười cùng nước mắt.
Khác với “Giây lát với Chí Phèo” của Tùng Bách, bài thơ “Nhân dân” của Nguyễn Trọng Tạo, ngay sau khi tung lên mạng, hàng trăm vị đại biểu Quốc hội xin in ra chuyền nhau đọc, mặc dù “Nhân dân” là bài thơ nhắm thẳng vào các quan tham, rất oai hùng, không né tránh. Tác giả không mượn nhân vật cụ thể nào để dẫn ý tưởng “những ông quan thanh liêm đã chết tự lâu rồi”… Mỗi câu từ của “Nhân dân” đều rất mãnh liệt “Ôi! những ông quan không dân trên chót vót đỉnh trời. Có nghe tiếng tôi kêu gào dưới đáy. Cả một tỷ tôi sao ông không nghe thấy. Vì tôi vẫn là người, mà ông đã là sâu?”. Bốn câu kết này nhà thơ đã dùng chữ “tôi” đại diện cho nhân dân, bằng nghệ thuật đối lập, không thể hòa nhập: “Chót vót đỉnh trời – dưới đáy, người – sâu, tôi – ông quan”. Còn “ Giây lát với Chí Phèo” của Tùng Bách tuy lấy Chí ra để trải lòng, trăn trở, nhưng cả hai nhà thơ đều về tới đích: Vì nhân dân, vì sự công bằng dân chủ. Đất nước đây đó đang xẩy ra nhiễu sự, quốc nạn tham nhũng len vào từng ngõ ngách, nền kinh tế thâm thủng, biển Đông đang bị cướp, dân oan đang “Đi lũ lượt, đi tràn ra đại lộ… Đi đòi lại những ông quan thanh liêm đã chết tự lâu rồi”…
Mỗi người dân Việt đều thể hiện lòng yêu nước bằng những hành động. Nhà thơ, nhà văn cũng biết xung phong: “Chở đạo bao nhiêu thuyền chẳng khẳm. Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”. Thế sự nào thì thơ, văn vậy. Cả đời làm thơ, chỉ cần một bài, hoặc vài ba câu neo lại cùng thời gian, sống mãi trong lòng bạn đọc đã là hạnh phúc lắm. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo và Tùng Bách đã có không ít những bài thơ như thế.
12.2012

GIÂY LÁT VỚI CHÍ PHÈO
.

- Chí Phèo à! Chí Phèo chửi không sao
Tớ mà vậy e chừng vỡ mặt !
Quan có tha thì Nha cũng bắt
Kiện cáo ư ? Ai đời cái kiến đi kiện củ khoai !

- Cậu còn con còn vợ
Còn cái mà tương lai Chứ ai coi thằng Chí ra gì mà thằng Chí phải coi ai ?
Trên cao xanh
Dưới sâu dày
Giữa nhí nhố một bầy
Tội gì mà không uống
Dại gì mà không say !

- Chí say Chí chửi tối ngày
Đau đầu bá hộ rác tai xóm làng
Chí chửi ra rượu uống , cơm ăn
Ra vườn cây , ao cá
Muôn năm cái nghề cào mặt ăn vạ
Chỉ lo phí rượu
Không lo phí đời !

-Tiên nhân những cái thằng chỉ biết ăn xôi
Không hề chịu đấm
Chí đâu phải thứ A Q vớ vẫn
Đây không quen xài món tinh thần

Nhân dân không là tớ
Nhưng tớ là nhân dân
Chí- Phèo- là- Nhân- dân-làng- Vũ- Đại
Đểu với đây thì đây đểu lại
Tưởng đây thích sống lắm à ?!
Thằng con nào rồi cũng ra ma
Cứ gì Chí Phèo ! Cứ gì Bá Kiến !

- Chí Phèo nhỉ
Giá ngày ấy cũng có thẩm mỹ viện

Chí Phèo đã là người lương thiện
Khỏi cần đến dao ?!

TÙNG BÁCH
About these ads

SƠN TRUNG * CHÍNH LUẬN 19

SƠN TRUNG * CHÍNH LUẬN 19
1. BẮC HÀN & TRUNG CỘNG
Tin vừa qua cho biết tàu  Bắc Hàn bắt tàu đánh cá Trung Quốc và đòi tiền chuộc. Quá quắt lắm rồi. Lần này không không phải là lần đầu.  Bắc Hàn chơi trò này đã vài lần như vậy rồi. Tục ngữ ta có câu " đánh chó phải ngó nhà chúa". Lẽ nào thằng đầy tớ lại dám đánh con chủ?
Mấy thằng du côn hùng hùng hổ hổ vậy chứ nhát lắm.  Muốn xưng hùng xưng bá, nó phải có người đỡ đầu. VIệt cộng oai hùng vì cậy thế Nga Tàu. Đến lúc cơm không lành canh không ngon thì Lê Duẩn mới ký hiệp ước với Nga rồi mới đem quân đánh Campuchia  là thằng đầy tớ của Trung Cộng. Nga Tầu đánh nhau, Việt Hoa giết nhau, Việt Nam xâm lăng Campuchia đâu có phải là đấu tranh giai cấp. Ông Marx ơi, ông dậy mà nghe thiên hạ cười cợt vào mặt ông!

A. Q. túm tóc Chí Phèo   /để hai bác lính nhà nghèo cùng thua (Nguyễn Duy)
Nay Bắc Hàn làm sao lại bắt tàu đánh cá Trung Quốc? Nó ăn mật gấu hay uống lộn thuốc đây? Đấy cũng là trò bịp để cho thế giới biết là ta đây độc lập, tự do, không phải là đầy tớ Trung Quốc! Thiêt là sai lầm. Bắc Hàn đe dọa thì cho nó vài thoi chứ sao Mỹ, Nam Hàn cũng phải yêu cầu Trung Quốc can thiệp? Bắc Hàn có phải con cháu, tôi tớ Trung Quốc đâu mà hở một tí là thiên hạ mắng vốn Trung Quốc" Không biết dạy bảo con cái..."
Các ông có lầm không? Chúng nó là " một đồng một cốt" với nhau, kẻ tung người hứng, kẻ đánh người xoa cho xôm trò. . Trung Cộng chơi trò ném đá giấu tay. . Bắc Hàn láo xược là do Trung Cộng thúc đẩy sau lưng. Mai mốt chiến tranh xảy ra cũng sẽ do Bắc Hàn làm đội quân Tiên phong còn ông chủ Trung Quốc ung dung hầu non gái đẹp!.
2. ĐÀI LOAN & PHI LUẬT TÂN
Trung Cộng vẽ bản đồ lưỡi bò nhằm thôn tính thiên hạ. Đài loan cũng diễu võ dương oai. Để rồi Đài Loan đánh giúp Trung Cộng hay cuối cùng Đài Loan và Trung Cộng đánh nhau? Lẽ nào Đài Loan lại đánh Phi Luật Tân là con nuôi của Mỹ, và như vậy là " gà  nhà bôi mặt đá nhau" hay sao? Chúng ta chờ xem hồi sau phân giải.
3, NHẬT BẢN & CHÂU Á
Nếu Trung Cộng xuất binh, Mỹ có thể chần chừ nhưng Nhật Bản thì không. Trung Cộng xâm lăng các đảo của Nhật thì Nhật sẽ trả đũa. Có lẽ Mỹ đã mệt với vai trò "sen đầm quốc tế, " muốn về hưu non,  Nhật sẽ thay Mỹ làm  cảnh sát Á Châu, bảo vệ Nhật Bản và hòa bình Á Châu. Thủ tướng Nhật đã thăm Việt Nam, đã hứa hẹn giúp Miến Điện chống Trung Cộng xâm lược. Nhật Bản đã giúp Phi Luật Tân mấy chục chiếc tàu.  Đài RFI cho biết ngày nay Ấn Độ và Nhật bắt tay trong chiến lược biển Đông.Anh Hai mệt thì có anh Ba anh Tư hợp sức chiến đấu,  thiên hạ đừng lo lắng làm gì! Riêng anh Ba cũng đủ hạ Tàu Cộng đo ván. Thêm anh Tư thì sức mạnh của phe ta nhất định thắng. (Ai theo Trung Cộng hay Trung lập thì cứ theo, tự do, dân chủ mà, nhưng coi chừng vợ con, anh em nhà sẽ chửi cho, còn nhân dân, nhất là ngư dân và dân oan sẽ cắt đầu các anh, kể cả các ông bên Tây, bên Mỹ !)
4. VIỆT NAM & TRUNG CỘNG
Tuần vừa qua, tàu Trung Công  lại đâm chìm tàu Việt Nam mà chẳng nghe quan chức Việt Nam lên tiếng.
Nó đâm một tàu chứ đâm chìm cả trăm tàu, chết hàng ngàn ngư dân, trung ương vẫn bình chân như vại. Họ đang dự dại yến, họ đang tính toán cách lầy thêm vài triệu, vài tỷ Mỹ Kim, còn mấy ngư dân thì có nghĩa lý gì? Trung ương đang ăn nhậu, trung ương đang liên hoan, trung ương đang du hí, trung ưong đang hoan lạc, thằng nào dám đến trước phòng trung ương, bộ chính trị mà kêu réo om sòm?
Đúng là :"Sống chết mặc bay Tiền thầy bỏ túi" 

Nhưng im lặng quá thì cũng kỳ. Đài RFI cho biết Ngày 27/05/2013, theo người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị, đại diện của Bộ Ngoại giao đã gặp đại diện Đại sứ quán Trung Quốc trao công hàm phản đối vụ tàu Trung Quốc tấn công gây thiệt hại nặng cho tàu cá Việt Nam hồi tuần trước, trong khi con tàu này đang hoạt động tại vùng quần đảo Hoàng Sa, mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền
.http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20130528-viet-nam-phan-doi-tau-trung-quoc-tan-cong-tau-ca-viet-nam

No comments: