Thursday, October 20, 2016

VẠN MỘC CƯ SĨ - CHÍNH LUẬN - 16 TẤN VÀNG -

VẠN MỘC CƯ SĨ * KIẾN TRÚC TÂN KỲ CỦA TRỤ SỞ NHÂN DÂN NHẬT BÁO TRUNG QUỐC

Một góc nhìn về tòa nhà nơi đặt trụ sở mới của tờ Nhân dân Nhật báo Bắc Kinh. (Nguồn: hugchina.com)
Một góc nhìn về tòa nhà nơi đặt trụ sở mới của tờ Nhân dân Nhật báo Bắc Kinh. (Nguồn: hugchina.com)


KIẾN TRÚC TÂN KỲ CỦA TRỤ SỞ NHÂN DÂN NHẬT BÁO TRUNG QUỐC 


Đầu tháng năm 2013, nhân dân Trung Quốc và nhân dân thế giới được trận cười thỏa thích về kiến trúc tân kỳ của trụ sở Nhân dân Nhật Báo Trung Quốc tại thủ đô Bắc Kinh.. Tờ Nhân Dân Nhật báo là cơ quan ngôn luận của đảng Cộng sản Trung Quốc, là nơi tập trung tinh anh của đảng về ngôn luận, về văn chương, chính trị, triết học Trung quốc chứ chẳng phải tầm thường.

Cái cơ quan trọng yếu như thế sao lại giao cho tên kiến trúc sư nào vẽ hình mà đến nỗi làm trò cười cho bốn biển năm châu! Phải chăng đây là một tên phản động chui vào đảng để phá hoại uy tín đảng? Chính y vẽ kiểu hay ai đứng đàng sau xui khiến?   Y là một tên vừa bình dân đại chúng vừa thâm nho độc hiểm. Với cái hình thù mà đài RFI và BBC đều gọi là có hình dáng" nhạy cảm" thật ra nó mang dân tộc tính và nhân loại tính. Dân tộc tính là vì dân Trung Quốc cũng như dân Việt Nam thường đem cái ấy ra chửi nhau nhưng mặt khác, người ta cũng xếp cái ấy vào bốn cái quan trọng nhất trong đời người (tứ khoái). Nói về nhân loại tính, vũ trụ tính  thì từ loài người ,vi trùng, cho đến cỏ cây đều "Có âm dương, có vợ chồng". Ngay cả thầy tu cũng đòi lấy vợ và có nhiều vợ ,  hoặc thích nhi dâm như ta đã thấy!

Tôn thờ nõn nường là tục lệ đã có từ lâu tại Ấn Độ và Việt Nam nhưng đó là thời xưa,  mà nay tại một vài công viên  người ta trưng bày ông Adam và bà Eve để  moi tiền du khách còn  nay giữa thời buổi văn minh tiến bộ, giữa thủ đô của một cường quốc mà chưng cái buồi thì quả là lạ! Xem truyện Kim Dung, ta thấy người Trung Quốc thích vẽ đầu rùa lên mặt ai đó, hoặc vẽ lên giấy, lên tường. Còn cái đám con cháu bác Phạm Văn Đồng xem hình này thế nào cũng la lên:" Tưởng Trung Quốc tân tiến ghê gớm té ra chỉ là trò " con kẹc" mà thôi!

 Cái triết lý của Trung Quốc bây giờ cũng chỉ là tứ khoái, đề cao cuộc chiến phòng the. Cái triết lý này Việt Nam có từ lâu, nhưng dân Việt Nam ta có hai mặt khác nhau. Các ông cộng sản cấm tiểu thuyết lãng mạn, cấm truyện khiêu dâm, cho nên một nhà văn Liên Xô đã phê bình văn học Việt Nam hiện đại là văn học không có "con kẹc"! Trong học đường, trong quân đội, ai ôm ấp yêu đương là bị kết tội tiểu tư sản, lãng mạn, hủ hóa và bị trừng phạt trong khi bác Ba, anh Ba Duẩn, anh Lê đức Thọ, Trần Văn Trà, Phạm Văn Trà....  tha hồ năm thê bảy thiếp!

Người Trung Quốc gian ác nhưng cũng có chút thành thật hơn Việt Nam. Mao Trạch Đông lấy hàng tá vợ, có hàng trăm mỹ nữ  trong cung điện sẵn sàng phục vụ ông mà ông đâu giấu diếm, còn bác Hồ ta cũng hàng tá nhi đồng chầu chực chăn gối, hàng tá vợ thế mà cứ muốn làm thánh, lúc nào cũng nói hy sinh hạnh phúc gia đình cho sự nghiệp cách mạng.

Biểu tượng sinh thực khí nam của tòa Nhân dân nhật báo cũng nói lên sự khao khát tình dục của dân Trung Quốc. Vì chính sách một con nên các bé gái bị giết cho nên tình trạng nữ thiếu nam thừa. Hiện nay có khoảng 20 triệu thanh niên Trung Quốc không tìm ra vợ. Không những thanh niên cần vợ mà các ông già 70-80 cũng cần cái hĩm vì bây giờ họ có nhiều tiền, họ cần hầu non, tuổi 15 còn trinh cho các cụ thưởng thức sau một thời gian theo Mao bài phong đả thực.

Cuộc chiến hiện nay là cuộc chiến do tân thực dân Trung Quốc tiến ra bên ngoài để chiếm dầu khí, lương thực, đất đai và công ăn việc làm. Trong đó cũng có mục đích là chiếm lá đa để phục vụ cho hơn 20 triệu  thanh niên không vợ. Như vậy rõ là Marx nói bậy vì sắp tới là cuộc chiến  xăng dầu, đất đai, tài nguyên và lá đa chứ không phải là đấu tranh giai cấp

 Cuộc chiến này, nếu không thắng thì cũng giải quyết được nạn nhân mãn, nạn trai thừa gái thiếu của Trung Quốc. Có thể là cuộc chiến tranh bằng bom đạn, mà cũng có thể là cuộc chiến bằng đầu buồi của các chiến sĩ Trung Quốc. Trong cuộc chiến này, Mông Cổ, Tây Tạng, Việt Nam, Miên, Lào, Thái, Ấn Độ...có thể là tầm ngắm của Hồng quân Trung Quốc.

Như đã nói ở trên, các biểu tượng của trụ sở Nhân Dân nhật báo Trung Quốc vừa là bình dân giản dị mà cũng là triết lý thâm sâu. Trên bầu trời, và xung quanh ta đều có khí. Trong vũ trụ có hai khí là âm và dương.Âm là nữ, là tiêu cực, dương là nam, là tích cực. Trụ sở này dùng biểu tượng sinh thực khí nam giới tức là ca tụng khí hào hùng, sự tích cực, lòng hăng say chiến đấu...Và con người ta thở khí trời và có sức mạnh tinh thần. Sức mạnh này là "chí khí" hay " ý chí". Nguyễn Công Trứ ca tụng cái khí "hạo nhiên" tức chí khí hào hùng của người trai:
Khí hạo nhiên chí đại, chí cương,
So chính khí đã đầy trong trời đất. 

Như vậy tay kiến trúc sư này tuy theo cộng sản nhưng y cũng hiểu thấu triết lý văn chương Trung Hoa cổ đại!


Trụ sở Nhân Dân nhật báo dùng biểu tượng cái buồi là cũng để đề cao cái" chí đại chí cương" của binh sĩ Trung Quốc, thanh niên Trung Quốc trong giấc mơ Đại Hán như Thuỵ My đài RFI đã thuật lại lời của một cư dân mạng Trung Quốc châm chọc : « Có thể nói Nhân dân Nhật báo đang vươn tới tầm cao, có hy vọng đạt được giấc mơ Trung Hoa » - ý nói câu khẩu hiệu « giấc mơ Trung Hoa » của ban lãnh đạo mới Trung Quốc, hô hào về lòng tự hào dân tộc và sức mạnh vừa tìm lại được. http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20130503-trung-quoc-tru-so-moi-cua-nhan-dan-nhat-bao-co-hinh-dang-%C2%AB-nhay-cam-%C2%BB

Biểu tượng này phải chăng là một lời kêu gọi thanh niên Trung Quốc vùng lên đem cái chí đại chí cương mà dương danh cùng  thiên hạ.  Bên kia là núi là đồi, là thế giới tươi đẹp, thanh niên Trung Quốc hãy xông lên chiếm lấy. Gái Âu Mỹ  đẹp lắm, hãy tiến lên mà làm chủ những tấm thân ngà ngọc đó. Cuộc chiến này thú vị lắm, hấp dẫn lắm, sẽ cho ta khoái lạc vô cùng của kẻ chiến thắng thẳng tay chiếm lấy các chiến lợi phẩm nõn nưỡng như một câu thơ Việt Nam đã nói về cái men say chiến thắng:
Quân ta  quỳ xuống đâm quân nó,
Nước nó giao hòa với nước ta!

 Cũng có thể biểu tượng của Nhân Dân Nhật Báo nói lên  tâm lý bị ức chế sau nửa thế kỷ dưới gông cùm Mao Trạch Đông? Phải chăng đó là tâm lý "ăn no rững mỡ" của nhà giàu Trung Quốc? Phải chăng đó cũng là biểu hiệu của bệnh cuồng dâm cho nên họ " khoe của" to dài một cách công khai?
 Phải chăng bây giờ thanh niên TRung Quốc , nhân dân Trung Quốc cũng giống thanh niên Mỹ, nhân dân Mỹ đứng lên đòi "sex is beter than war"(  tình dục tốt  hơn là chiến tranh)

Thanh niên Trung Quốc bây giờ khác hẳn thanh niên Trung quốc thời Mao. Lúc đó, hàng triệu thanh niên theo Marx, theo Mao lăn xả vào lửa đạn cho lý tưởng dân tộc và giai cấp. Thanh niên Trung Quốc bây giờ là con một, được cha mẹ nuông chiều, không cho con tập thể thao hay làm việc nặng nhọc sợ hư hao thân thể! Họ quơ cào được vài chục ngàn đô liền cho con du học Canada, Mỹ, Úc để tìm cách lấy vợ lấy chồng mà ở lại, chẳng muốn về phục vụ tổ quốc thân thương của họ. Tổ quốc của họ bây giờ nguy hiểm vô cùng, dù là họ thuộc giai cấp mới, họ cũng cảm thấy buồn nôn,  sợ hãi cho đất nước Trung Hoa của họ mà  chạy trốn. Con cái họ sang du học Canada, Mỹ, Úc khoe rằng cha mẹ họ là tỷ phú, sẽ kinh doanh Mỹ, Úc, Canada, Việt Nam....

Nhiều chàng và nàng tham của quý Trung quốc, làm hôn thú, bảo lãnh xong mới biết mình lầm mà đưa anh, đưa em sang đây! Gia thế đã thế, còn bản thân chàng và nàng Trung Quốc vì được kiều dưỡng, chẳng thiết làm việc, không biết nấu cơm, quét nhà, chỉ biết ăn xong lại nằm... Nói chung, thanh niên Trung Quốc bây giờ lười biếng, không thích tranh đấu, chỉ thích hưởng thụ. Sĩ quan, tướng tá, bộ trưởng, giám đốc là mua bán và do quyền thế cha mẹ, còn họ chỉ có gian tham, không còn tài năng nào khác. Vậy thì thanh niên Trung Quốc một lớp bỏ trốn ra ngoại quốc, một lớp bất tài, không ý chí thì lấy đâu lực lượng mà xâm lăng thế giới, thực hiện giấc mơ Đại Hán bành trướng ? .


 Họ bây giờ giống dân Mỹ đã hô to " sex is better than war". Cái hình đặc thù của tòa soạn Nhân Dân nhật báo là biểu thị cái xu hướng duy vật, hưởng lạc của nhân dân Trung Quốc ngày nay. Nhân dân như thế thì đánh đấm làm sao hỡi ông Tập Cận Bình?

 Bị người ta chửi rủa hay vẽ đầu rùa vào mặt thì chẳng nói làm chi, nay tự mình vẽ buồi vào mặt tức là mình tự chửi mình, mạ lị mình là xấu xa, đê tiện. Về tâm linh, hình tượng của Nhân Dân nhật báo là một điềm xấu báo trước sự sụp đổ của chế độ xấu xa, tồi tệ nhất trong lịch sử Trung Quốc.

Sunday, May 5, 2013

HOÀNG THÀNH TRÚC * GIẢI PHÓNG

Written By Chinh Luan on 24 tháng tư 2013 | 07:31

Kính gửi: Thầy Lê Hiển Dương! …Ngẫu nhiên, “Hiển Dương” : Như mặt trời hiển hiện bất biến – mà “sự thật như vầng thái dương” không một áng mây nào mãi che khuất được, “rất thật” chân phương đầy Nhân Cách trong chính bài viết của Thầy, như ánh sáng “mặt trời”soi rọi vào góc khuất, bóng tối, mà “người ta”quên đi Liêm Sĩ, cố tình che đậy lừa dối cả dân tộc … “GIẢI PHÓNG” NỔI KINH HOÀNG CỦA NGƯỜI DÂN VIỆT.
Tiến Sỹ Lê Hiển Dương - Ngày nay hầu như nhân loại trên khắp hoàn cầu đều lấy năm Chúa Kitô giáng sinh làm mốc định thời gian, chúng tađang ở vào năm 2010, tức là 2010 năm kể từ ngày Chúa giáng thế. Nhiều sựkiện khoa học hay lịch sử cũng được xác định dựa trên mốc thời gian này cho dù những dữ kiện đó hoàn toàn không liên quan gì đến niềm tin tôn giáo hay tín ngưỡng.
http://www.vietlist.us/Images_VN/tsLehienDuong.jpg
Tiến Sĩ Lê Hiển Dương
(Nguyên hiệu trưởng : Đại Học Đồng Tháp)
Chẵng hạn nhà toán học Pythagore sinh năm 580 và mất năm 500 trước Công Nguyên, Tề Hoàn Công trị vì từ năm 685 đến năm 643 trước Công Nguyên… Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng xảy ra năm 42 sau Công Nguyên… Các văn bản bằng tiếng Anh thì dùng BC (before Christ) hoặc AD (Anno domini) để chỉ những sự kiện xảy ra trước hoặc sau Thiên Chúa giáng thế. Riêng người Việt nam chúng ta từ trong Nam ngoài chí Bắc từ sau 30 tháng 4 năm 1975 lại có một mốc định thời gian mới: “hồi trước giải phóng” hay “hồi sau giải phóng”, tất nhiên người Việt mình nghe mãi rồi quen tai và không thấy gì “phản cảm” khi dùng hoặc nghe cụm từ này…
Nhưng khi tôi vô tình dùng nó lúc nói chuyện với một đồng nghiệp người nước ngoài rằng “…after the liberation of the south…” thì ông ta sững sốt hỏi ngay rằng “… liberation from what?…” – (Giải phóng khỏi cái gì ? ) Thì tôi mới hốt hoảng với cách dùng cụm từ này để định mốc thời gian của người Việt… bởi đối với hầu hết người Việt, nhất là người miền Nam hoặc đối với cả đồng bào miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 nữa, thì“giải phóng” là một nỗi ám ảnh trong cả đời người…
Còn nhớ ngày 30 táng 4 năm 1975, lúc đó chúng tôi còn là sinh viên của đại học sư phạm Vinh đã hồ hởi, phấn khởi hò reo meeting nhiều đêm ngày để mừng Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, bởi chúng tôi tin rằng từ đây đồng bào Miền Nam ruột thịt của chúng tôi sẽ không còn đói rách lầm than và không còn sống trong cảnh “Ngụy kềm, Mỹ kẹp” nữa… Họ đã được đảng và Bác cùng nhân dân Miền Bắc chúng tôi “giải phóng”. Và những tháng tiếp theo đó chúng tôi được tận mắt nhìn thấy hàng đàn hàng lủ bọn “ngụy quyền ác ôn” !? bị sự trừng phạt bởi chính quyền cách mạng, của nhân dân miền Bắc và của chính chúng tôi… Số là mỗi tuần một lần. chúng tôi được chính quyền và ban giám hiệu nhà trường thông báo vào những ngày giờ có những ô tô của cục quân pháp chuyển tù cải tạo là những sỹquan, “ngụy quyền ác ôn” của chính quyền Mỹ Thiệu đi ngang qua địa phương để đến các trại cải tạo ở mạn ngược. Cùng với đồng bào địa phương, mỗi sinh viên chúng tôi phải chuẩn bị đầy đủ cơ số đá trứng nhặt từ đường ray xe lửa để khiđoàn xe tù đi ngang qua là hô hào toàn dân trút những trận mưa đá lên đầu những tên “ngụy quyền” ác ôn này, bởi chúng có quá nhiều nợ máu với nhân dân, với đất nước… Và sau mỗi lần trừng trị bọn ngụy quyền ác ôn đó, chúng tôi đều có hội họp, báo công và được tuyên dương khen thửơng, được kết nạp vào đoàn, được vinh dự đứng vào hang ngũ của đảng vì đã “đả thương” được bao nhiêu sỹ quan ngụy quyền đó.!? Tất nhiên là cũng có nhiều buổi họp báo công, chúng tôi cũng bị phê bình kiểm điểm vì đã không có trường hợp thương vong nào được ghi nhận trong những vụ “tập kích” đó…??Kết thúc 4 năm đại học với vô số những cuộc tập kích để ném đá vào những xe chuyển tù, rồi chúng tôi cũng tốt nghiệp đại học, rồi được đảng và nhà nước chi viện vào miền Nam để mang “ánh sáng văn hóa” vào cho đồng bào miền Nam ruột thịt bao năm qua sống trong u tối lầm than vì cứ liên miên bị Ngụy kềm Mỹ kẹp chứ đâu có học hành gì !?
Chúng tôi thực sự choáng ngợp khi xe qua khỏi vùng chiến sự Quảng Trị, đến Huế, đến Đà Nẵng.. rồi Nha Trang, Sài Gòn rồi về Miền Tây, đến thị trấn Cao Lãnh, đâu đâu cũng lầu đài phố xá chứ có tường đất mái tranh như ở thành phố Vinh chúng tôi đâu .
Nhận xong nhiệm sở từ ty giáo dụcĐồng Tháp, chúng tôi được đưa về công tác tại trường trung học sư phạm Đồng Tháp ngay tại trung tâm của thị trấn Cao Lãnh, và tại đây, trong suốt nhiều năm liền chúng tôi được bố trí ở tại khách sạn Thiên Lợi mà chính quyền cách mạngđã tịch biên từ tên “tư sản” Thiên Lợi… Chúng tôi đi từ choáng ngợp này đến choáng ngợp khác, bởi đây là lần đầu tiên chúng tôi biết được thế nào là “Khách Sạn”, biết được thế nào là lavabo là toilet tự xả nước , bởi cả thành phố Vinh, cả tỉnh Nghệ An chúng tôi hay thậm chí cả miền Bắc XHCN lúc bấy giờ là không có, chỉ sử dụng hố xí lộ thiên, để còn dùng nguồn “phân Bắc” này để canh tác, đểtăng gia sản xuất theo sáng kiến kinh nghiệm “cấp nhà nước” của đại tướng Nguyễn Chí Thanh mà được bác Hồ khen thưởng và có thơ ca ngợi rằng:
“Hoan hô anh Nguyễn Chí Thanh
Anh về phân Bắc, phân xanh đầy nhà”…
Thậm chí ở xã Hưng Lĩnh, Hưng Nguyên quê tôi lúc bấy giờ còn có cả những vụ án các tập đoàn viên, các hợp tác xã viên “can tội trộm cắp” phân bắc từ các hố xí của láng giềng để nộp cho hợp tác xã…!? . Tôi thấm thía hơn với những câu thơ ca ngợi miền Bắc đi lên XHCN của Tố Hữu mà ngoài sinh viên học sinh chúng tôi ra thì hầu như cả nhân dân miền Bắc lúc bấy giờ ai cũng thuộc nằm lòng :
Dọn tí phân rơi nhặt từng ngọn lá
Mỗi hòn than mẩu thóc cân ngô
Hai tay ta gom góp dựng cơ đồ…”
Tôi bắt đầu nghi ngờ với cụm từ“giải phóng miền nam” … Rồi những trận đổi tiền để đánh tư sản, rồi nhiều nhà cửa của đồng bào bị tịch biên, rồi hàng triệu đồng bào bắt đầu bỏ nước ra đi, nhiều giáo sinh của trường chúng tôi cũng vắng dần theo làn sóng đi tìm tự dođó… tôi bắt đầu hiểu đích thực ý nghĩa của cụm từ “giải phóng niền nam” và bắtđầu cảm thấy xấu hổ cho bao nhiêu năm sống trong niềm ảo vọng mù quáng của bản thân… mà dù ở chừng mực nào cũng được xem là thành phần trí thức trong xã hội…Dần dần tôi hiểu sâu hơn cái sự mỉa mai chua chát của hai từ “GIẢI PHÓNG” đangđược dùng trong kho tàng Tiếng Việt của nước nhà… “Giải phóng miền nam” thực sựcó mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc vô biên và cả sự thịnh vượng nữa với gia sản có thể đột ngột tăng lên cả 16 tấn vàng ròng…( từ ngân hàng chế độ Saìgòn Miền Nam để lại) Nhưng tất nhiên chỉ cho một thiểu số trong xã hội XHCN miề Bắc, chỉ chừng 16 người trong tổng số non 50 triệu dân lúc bấy giờ thôi… Còn lại thì “giải phóng” đồng nghĩa với nhân dân miền Bắc là cảnh nhà nhà côi cút vì “sinh Bắc tử Nam” mất con, mất chồng, mất cha, mất anh mất em bởi họ đã vào chiến trường miền Nam để đi “giải phóng” và không bao giờ trở về nữa… “Giải phóng” với dân miền Nam cũng có nghĩa là tù đày, là cải tạo nơi rừng thiêng nước độc, là mất vợ.. mất con, mất nhà cửa ruộng vườn, mất bao nhiêu người thân trên biển cả và mất hết tự do dân chủ nhân quyền và mất luôn cả tổ quốc nơi mình sinh ra !
"Giải Phóng" Nổi Kinh Hoàng Của Người Dân Việt.
Rồi đến “giải phóng mặt bằng”cũng chỉ mang nguồn lợi lớn lao cho “muôn quan” địa phương, nhưng lại là nỗi ámảnh nỗi hãi hùng của “muôn dân”, bởi sau “giải phóng mặt bằng” là hàng trămđồng bào lại phải vô tù ra khám bởi tội “chống người thi hành công vụ”, bởi sau giải phóng mặt bằng là cái chết của thiếu niên Lê Xuân Dũng và Lê Hữu Nam, là thương tật của nông dân Lê thị Thanh .
Chẳng biết người dân Việt nam từnay còn dùng cụm từ “trước ngày giải phóng” hay “ sau ngày giải phóng” để định mốc thời gian nữa không… Riêng tôi, tôi cảm thấy quá căm thù nhân loại bởi đã bịa ra từ ngữ “giải phóng” và “giải phóng mặt bằng” mà chi để dân Việt chúng tôi vì nó mà phải khổ lụy đến dường này .
Đồng Tháp ngày 29 tháng 5 năm 2010
Tiến Sỹ Lê Hiển Dương
Nguyên - Hiệu Trưởng-Đại Học Đồng Tháp.
Tôi từng là một đồng nghiệp của Tiến Sỹ Lê Hiển Dương, tôi rất hiểu Tiến Sỹ Dương là người rất nhân cách, được sinhh ra và lớn lên từ chiếc nôi của truyền thống cách mạng XÔ VIẾT NGHỆ TĨNH, nên Tiến Sỹ Dương rất có đầu óc cách mạng, những lúc tra dư tửu hậu, anh Dương vẫn thường xuyên chia sẻ với chúng tôi rằng thế gian này không có cái gì là vĩnh hằng cả, phải thay cũ đổi mới thường xuyên mới hướng đến cái chân thiện mỹ được… Chỉ đáng buồn là người cộng sản ta chỉ vì quyền lợi của một sốcá nhân mà làm hại cho cả dân tộc, làm thoái hóa cả giống nòi…. Nếu đảng ta cứtiếp tục lãnh đạo đất nước thế này thì chẵng bao lâu nữa cả 86 triệu dân Việt mình trở thành vượn khỉ đười ươi hết…. Tôi hết sức tâm đắc với câu nói này của Tiến sỹ Dương và rất trân trọng những trăn trở những suy tư của tầng lớp trí thức cộng sản hiện nay. (Vừa qua trên trang web của trường Đại Học Đồng Tháp có ra thông báo rằng những bài viết ký tên Tiến Sỹ Lê Hiển Dương là có nội dung xấu, là phản động, là mạo danh, thực ra đây cũng là cái trò chữa cháy, bao biện một cách cố hữu, đê tiên và hèn hạ của đảng và nhà nước ta đó thôi!) Sinh ra tiến sỹ Lê Hiển Dương là bố mẹ của ông ấy, còn hiểu tiến sỹ Lê Hiển Dương là chúng tôi, những đồng nghiệp của ông ấy thôi !
Hoàng Hà (Bọ Hà)
Cựu Giảng Viên Tâm Lý Giáo Dục Học – Đại Học Đồng Tháp
***
Hãy chấm dứt làm những con hủi, hãy làm Người!
Kỳ Anh - Rất nhiều 'chiến sĩ tình báo' lừng lẫy một thời, nay nếu gặp lại sẽ bắt gặp ở họ chỉ có những giọt nước mắt lăn dài... Người thì đang sống trong tủi nhục, nghèo đói, người may mắn hơn có chức vụ cao trong Chế độ mới, song cũng phải sống trong tâm trạng khắc khoải, phẫn uất, hối tiếc...
Sau khi đánh bom Tòa Đại sứ Mỹ ( có lẽ thấy máu nhiều quá chăng ?) Nử đặc công Ngọc Diệp bí mật sám hồi đi tu tại chùa Quang Minh Tự (Phú Nhuận)
Trường hợp Thượng Tướng Phan Trung Kiên, người đội trưởng Biệt động Sài gòn lừng lẫy năm xưa đã từng được phong tặng danh hiệu anh hùng, cuộc đời đi theo 'cách mạng' đã đưa ông lên được đến 'lon' Thượng Tướng, vậy mà ngay khi vừa về nghỉ hưu chưa được mấy tháng ông đã phải nằm bất động bởi 'cơn nhồi máu cơ tim' do thầy trò Nguyễn Văn Hưởng bộCA gây ra bởi đơn giản ông đã nhiều lần lớn tiếng vạch mặt chỉ tên là sâu mọt “tham nhũng” , bởi ông không còn dấu nổi sự hối tiếc để rồi thốt ra miệng không phải chỉ một lần: "Nếu biết thế này thì trước đây không 'làm cách mạng'...." !
Trường hợp nữ tình báo Đặng Ngọc Ánh - Một Bác sĩ nổi tiếng tốt nghiệp Sorbone (Pháp) - đã 'lập thành tích' kinh hoàng ngày 29/6/1965: Đánh sập Tòa Đại sứ Hoa Kỳ! Vậy mà số phận của bà những năm cuối đời đến chính giới truyền thông Lề Đảng hôm nay đã phải đau đớn viết:
"Cả cuộc đời hy sinh, cống hiến cho cách mạng, cuối đời bà phải sống nương tựa vào người con tật nguyền của một nữ đồng đội mà bà hứa nhận nuôi. Để có cái ăn, bà phải tự tay lao động âm thầm ởmột bản làng vùng sâu của huyện Đức Trọng (tỉnh Lâm Đồng)."
Cả cuộc đời nữ bác sĩ xinh đẹp nàyđã hy sinh cho 'Cách mạng', đã chối bỏ ngay cả người chồng chính thức của mình, rồi lừa dối một Đại sứ Mỹ lấy làm chồng chỉ vì để đánh sập Tòa Đại Sứ cướp luôn sinh mệnh của chính ông chồng Đại sứ này...
Nữ tình báo Đặng Ngọc Ánh “ray rức,hối tiếc”cuối đời.
Có lẽ dưới con mắt 2 phía, Mỹ và CS Bắc Việt bà là một dấu khó có câu trả lời ? Chỉ còn lại là nhân quả của mình tạo ra : Từ sau ngày 30-4-1975, cuộc đời của bà Ngọc Ánh là những năm tháng dài tăm tối, tủi nhục, nghèo đói, sống lay lắt ở một vùng đồi núi....
Từ một phụ nữa xinh đẹp, tài ba, bà Ánh đã biến thành thế này đây....
Những người gặp bà đời thường đềuđược nghe những tiếng chặc lưỡi, những giọt nước mắt hối tiếc vì những điều mình đã làm...
Tất cả những người như họ mà Thượng Tướng Phan Trung Kiên, như bà Đặng Ngọc Ánh chỉ là gương mặt điển hình ... Họ đều giống nhau ở một điều: Tất cả đều nhận ra mình đã bị lừa dối, đã bị lầm lạc hy sinh cho một thứ chủ nghĩa không có thật... Đã có những năm tháng họ lầm tưởng rằng mình chiến đấu, hy sinh vì lý tưởng, vì lòng yêu nước.....
Để rồi sự thật phũ phàng cuộc đời họ là câu trả lời đầy đủ nhất: Họ đã gây tội ác không những đối với đồng loại mà đối với chính những người thân yêu của họ và gây tội ác đối với chính bản thân họ! Họ đã đánh đổi Hạnh phúc có thật của mình cho một chủthuyết, cho một Đảng mà đến hôm nay đã hiện nguyên hình chính là Đảng củađ/c X - Đảng tham nhũng, độc tài, phát xít.
Họ và hàng triệu triệu ngườiđã nằm xuống, đã hy sinh để rồi đẩy nhân dân Việt Nam vào sự thống trị của những Đồng chí X - Những 'tinh tú' của Đảng - Kẻ tham nhũng, bạo tàn, vô ơn, bội nghĩa, lấy đàn áp nhân dân làm vui, cướp bóc, làm giàu qua đêm làm lẽ sống ... - Đó chính là đặc trưng của một lý tưởng, một chủthuyết mà những Thượng Tướng Phan Trung Kiên, những Bác sĩ hoàng tộc Đặng Ngọc Ánh, những cựu chiến binh Đoàn Văn Vươn cùng hàng triệu triệu người Việt Nam khác đã lầm lạc đi theo cách mạng để đến cuối đời mới nhìn thấy 'cái mặt nạ đã rơi xuống' để lộ nguyên hình bản chất thật: MỘT ĐẢNG CS TẬP ĐOÀN ĐỒNG CHÍ X- BÈ LŨ THAM NHŨNG, ĐỘC TÀI .
(Kỳ Anh – Quanlambao)
 
--

Saturday, May 4, 2013

16 TẤN VÀNG VNCH


Có khá nhiều lời đồn xung quanh câu chuyện 16 tấn vàng suốt mấy chục năm qua. 16 tấn vàng – đó là khoản dự trữ nằm trong Ngân hàng Quốc gia Việt Nam của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa vào tháng 4-1975.  Và báo chí đã đưa tin về kế hoạch tẩu tán số vàng ấy ra nước ngoài.
Vào đầu năm 2006, Đài BBC đã “xới” lên câu chuyện này bằng một bản tin dẫn từ nguồn tài liệu của Bộ Ngoại giao Anh. Và có thậm chí có nhiều blog phản động cố tình cho rằng “16 tấn vàng của Ngân hàng quốc gia Việt Nam bị Cộng sản Hà Nội cướp vào ngày 1-5-1975″. Nay số vàng trên đã được làm rõ…


Minh họa
Sự thật ra sao?
Mới đây trang Wikileaks đã công bố Bức điện tín mật của Đại sứ quán Mỹ ngày 21/4/1975 do Đại sứ Mỹ Martin đứng tên (Canonical ID:1975SAIGON05362_b) được gửi đi từ Việt Nam đến Bộ Ngoại giao Mỹ.

Trang Wikileaks đã công bố những bức điện tín mật của Đại sứ quán Mỹ ngày 21/4/1975 (Canonical ID:1975SAIGON05362_b) được gửi đi từ Việt Nam đến Bộ Ngoại giao Mỹ.
Bức điện tín viết: “Ngân hàng Quốc gia Việt Nam cho biết Tổng tống Nguyễn Văn Thiệu đã phê duyệt vận chuyển Vàng tới Mỹ càng sớm càng tốt. Chính phủ Việt Nam Cộng hòa chờ hồi đáp của Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York, trong đó họ yêu cầu Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York bảo hiểm cho số vàng này”.

Trụ sở Ngân hàng quốc gia (nay là Ngân hàng Nhà nước VN tại TP.HCM) - nơi cất giữ 16 tấn vàng vào tháng 4-1975 - Ảnh: N.C.T.
Bức điện tín cũng ghi: “Chính phủ Việt Nam Cộng hòa yêu cầu sử dụng máy bay chuyên dụng, đặc quyền của chính Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ vận chuyển vàng”. Cùng với đó, Đại sứ quán Mỹ đã ủng hộ ngay cũng như giữ bí mật nhất để vận chuyển vàng ra nước ngoài.
Bức điện tín cũng đã ghi: “Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York trả lời nhiều lần là đã nhận được số vàng. Máy bay vận tải quân sự đã sẵn sàng ở đây, lô hàng đã được bảo hiểm ngay, lệnh của Bộ Quốc phòng đã được thực thi”.
Tài liệu này chính là câu trả lời cho những đồn đoán trước đây, cũng qua đây thấy rõ bộ mặt của những kẻ phản động đã tung tin cho rằng “16 Tấn Vàng bị Việt Cộng cướp đem về Bắc chia nhau xài”, “16 tấn vàng VNCH do Lê Duẩn chở sang Nga”…..Nhưng sự thật thì sao? số vàng trên do chính máy bay của Bộ Quốc phòng Mỹ vận chuyển đến Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York do chính Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa lúc đó phê duyệt.

Trụ sở của Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York
Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York là một trong 12 ngân hàng khu vực và là ngân hàng khu vực quyền lực nhất của Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (FED) có trụ sở tại số 33 Liberty Street, New York.
Nguyễn Anh / nguyentandung.org






Sự kiện

16 tấn vàng Lê Duẩn chở sang Nga?

Cập nhật lúc 04-05-2013 12:29:27 (GMT+1)




Câu hỏi không có lời đáp thỉnh thoảng lại nêu ra: 16 tấn vàng của nhà nước VNCH để lại năm 1975 đã bị chở đi đâu, dùng làm gì? Tuần này, Quan Làm Báo, một trang blog được suy đoán là phe của ông Chủ Tịch Nước Trương Tấn Sang, có bài “Bóng Ma lãnh tụ“ đã viết: “…

Vào thời điểm 1975 Ông Nguyễn Văn Hảo nguyên Thống đốc ngân hàng và Phó thủ tướng Việt Nam Cộng Hoà, Ông là người quyết định giữ lại 16 tấn vàng và bàn giao cho bộ đội CSVN, sau đó Lê Duẫn đã ra lệnh di chuyển số vàng đó sang Nga và ông bảo rằng trả nợ cho Nga, nhưng trên thực tế Lê Duẫn đã đưa vào một trương mục ngân hàng và để tên cho Con là Lê Kiên Thành, sau nầy Lê Kiên Thành đã bán số vàng nầy kinh doanh tại Nga sau đó đem về Việt Nam mở ngân hàng Techcombank….”


Nhà nước Hà Nội vẫn im lặng trước câu hỏi này.
PHẢI TRẢ LẠI SỰ THẬT LỊCH SỬ CHO VNCH QUA VIỆC 16 TẤN VÀNG Y CỦA NGÂN HÀNG QUỐC GIA ÐÃ BỊ CS HÀ NỘI CƯỚP VÀO NGAY 1-5-1975 Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã vĩnh viễn ra đi nhưng ý chí chống cộng quyết liệt của Ông, đã nổi bật trong những năm đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo Quốc Gia (6/1965 -4/1975) và đã chứng minh qua câu nói hùng hồn, bất hủ ‘Ðừng nghe những gì cộng sản nói, hãy nhìn những gì cộng sản làm ‘ Nhưng nhức nhối nhất vẫn là câu nói ‘Còn đất nước thì còn tất cả’ . Thật vậy từ ngày VNCH bị sụp đổ vào trưa 30-4-1975, người miền Nam VN đã mất hết theo vận mệnh của đất nước từ tài sản, mạng sống kể cả cái quyền ‘biểu tình chống chính quyền‘..mà Hiến Pháp VNCH có qui định. Tổng thống Ngô Ðình Diệm có công giữ vững VNCH trong chín năm và Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu là người đã tiếp tục lèo lái con thuyền Quốc-Gia, chiến đấu trong điều kiện vô cùng khó khăn, dầu sôi lửa bỏng trước áp lực bành trướng của cộng sản quốc tế, trong lúc đồng minh Hoa Kỳ lúc đó, không bao giờ có thực tâm yểm trợ hữu hiệu cho QLVNCH. Nhưng với quyết tâm của TT.Thiệu, chính phủ và toàn dân, cũng như sự chiến đấu anh dũng của quân lực Miền Nam. Nhờ vậy VNCH mới tồn tại được cho tới ngày 30-4-1975.





Và bây giờ dù ai có thương ghét, hoan hô hay đả đảo, thì cựu Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu cũng đã trở thành người thiên cổ vào ngày 29-9-2001, tại Boston tiểu bang Massachusetts, Hoa Kỳ hưởng thọ 78 tuổi. Ông mất để tự mình chấm dứt những oan khiên, lụy phiền chồng chất. Tất cả đều là hậu quả tất yếu của mười năm làm người lãnh đạo VNCH, chống lại cuộc xâm lăng của cộng sản Bắc Việt và bọn Việt Gian tay sai nằm vùng tại hậu phương. Ðây là một cuộc chiến bi thảm nhất của dân tộc VN, vì phải đương đầu với toàn khối cộng sản quốc tế, được tiếp tay công khai, bởi một số ít người, luôn được ưu tiên trong xã hội miền Nam lúc đó, suốt cuộc chiến. 


Chúng là thành phần ngụy hòa của VNCH, gồm đám quan quyền đa số xuất thân từ lính Tây, bị thất sũng, hay vẫn đang tại chức nhưng bất mãn vì túi tham chưa đầy. Bên cạnh đó là một bọn người vong ơn bạc nghĩa, tất cả mang mặt nạ trí thức khoa bảng nhưng trái tim và cõi hồn thì bần tiện ích kỷ. Nhưng trên hết vẫn là nỗi buồn nhược tiểu VN, trước thái độ và hành động kiêu căng của đồng minh Hoa Kỳ, luôn ỷ vào đồng đô la viện trợ, bắt buộc VNCH phải phục tùng, rồi cuối cùng vì quyền lợi riêng tư, mà trơ trẽn bán đứng bạn bè cho cộng sản Bắc Việt vào ngày 30-4-1975.


Công hay tội của những người có liên hệ tới vận mệnh Quốc Gia Dân Tộc, hiện nay có ai dám vỗ ngực nói là mình có đủ tư cách để phê phán, khen chê? tuy rằng ai cũng cho là mình có quyền nói lên sự thật, dù chỉ nghe lóm, nghe kể hay mao tôn cương sự kiện theo báo chí một chiều. Ngày nay, lịch sử hầu như đã được bật mí, nên tất cả những uẩn khúc của nhân loại đã được phơi bầy ra ánh sáng và ai cũng được đọc, biết hay nghe người khác kể. Thôi thì tất cả hãy dành cho lịch sử mai này quyết định, trong đó chắc sẽ không chừa ai, mà có luôn mấy kẻ tư cách chẳng ra gì, thế nhưng lúc nào cũng đạo đức giả. Ngoài ra còn có cả bia đá và bia miệng, cũng là một phần của lịch sử, xưa nay không hề biết thiên vị ai, dù đó là vua chúa, sử gia hay kẻ hèn nghèo trong xã hội.


Vì lịch sử không bao giờ tự bẻ cong ngòi bút và chạy theo đuôi phường mạnh, để phê phán hàm hồ. Bởi vậy mới có những câu chuyện sử về Hồ Quý Ly, Mạc Ðăng Dung.. và gần đây là Hồ Chí Minh, Phạm Văn Ðồng, Lê Khả Phiêu, Lê Ðức Anh, Ðổ Mười, Nông Ðức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng.. cùng với bè nhóm trên dưới của đảng cộng sản, đang chờ ngày đền tội trước sự quật khởi của đồng bào VN trong và ngoài nước. . khi đảng CSVN ngày nay đã công khai bán nước cho Tàu Ðỏ, cướp bốc giết hại đồng bào và chà đạp nhân quyền, tự do tôn giáo của dân tộc mà rùng rợn nhất là sự kiện quyết tâm hủy hoại Phật Giáo VNTN, Cao Ðài, Hòa Hảo và Thiên Chúa Giáo.


Bỗng dưng cảm thấy nghẹn ngào, khi nghĩ tới số phận hẳm hiu của những vị lãnh đạo quốc gia cận đại, từ Cựu Hoàng Bảo Ðại, cố Tổng thống Ngô Ðình Diệm, Trần văn Hương.. nay tới phiên cố Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Tất cả gần như không được ngủ yên nơi chín suối, chẳng những từ bộ máy tuyên truyền của kẻ thù cộng sản, mà tàn nhẫn hơn là do chính miệng của những người thường mệnh danh là sử gia, thật sư chỉ là những thợ viết không tim óc, thường mượn sự tự do quá trớn để trả thù đời, sau khi đất nước trải qua một cuộc bể dâu tận tuyệt, ông xuống hàng chó và sâu bo côn trùng thành người viết văn viết sử hay lãnh đạo chính trị ba làng, nổi danh nhờ bè nhóm bợ lưng trét phấn hằng ngày trên báo.Ba mươi bốn năm Việt Nam sống ngoi ngóp trong thiên đàng xã nghĩa, mới thật thấm thía và ý nghĩa biết bao về câu nói của người xưa, nay vẫn còn văng vẳng bên tai, hiển hiện trong mắt..


 Tóm lại điều quan trọng của chúng ta hôm nay, nhất là những sử gia hiện đại, có dám bắt chước Tư Mã Thiên hay ít nhất như Phạm Văn Sơn, Tạ Chí Ðại Trường, Nguyễn Ðức Phương, Phạm Phong Dinh, Trần Gia Phụng hay ít nhất như Tú Rua, Duyên Anh năm nào, đã gục chết trước bạo lực, khủng bố , vì dám đối diện với sự thật, để nói lên những điều tai nghe mắt thấy , qua sự hiểu biết của mình, bằng lương tri và trái tim nhân bản VN.Những tên ngụy văn, ngụy sử, nguỵ quân tử và ngụy sĩ quan công chức VNCH của một thời hỗn mang điên loạn , giờ đã không còn thời cơ lên chức trời, để lấy giấy gói lửa hay dùng tay che mặt trời. Bởi vì hiện nay, gần như tất cả các văn khố trên thế giới, kể cả Nga Sô-Trung Cộng.. cũng đang lần hồi bạch hóa nhiều tài liệu lịch sử, có liên quan tới chiến cuộc Ðông Ðương, Ðảng và các nhân vật cộng sản quốc tế VN liên hệ, trong đó có chân tướng Hồ Chí Minh mà thời gian qua nhiều trí thức trong nước, dù đang bị VC kềm kẹp kê súng vào đầu hay bịt miệng. Thế nhưng họ vẫn hiên ngang lột trần sự thật về cái gọi là ‘ huyền thoại Hồ Chí Minh ‘qua những câu chuyện thật khiến cho ai cũng ghê tởm và mở mắt.


Ðất nước hiện nay đang ngả nghiêng trong bão tố vì sự xâm lăng không tiếng súng của kẻ thù truyền kiếp Trung Cộng. Ðảng và các chóp bu cộng sản VN, qua Ðỗ Mười, Lê Ðức Anh, Nông Ðức Mạnh, Trần Ðức Lương, Phan Văn Khải, Nguyễn Khoa Ðiềm, Nguyễn Minh Triết, Lê Khả Phiêu, Nguyễn tấn Dũng…. đang theo gót đàn anh thuở trước dâng đất, bán biển, đem tài nguyên của dân tộc cống hiến cho ngoại bang, vinh thân phì gia và tìm một chỗ dựa để kéo dài quyền lực, được xây dựng trên núi xương sông máu VN, suốt bảy mươi lăm năm qua.Nhưng thời cơ đã thay đổi rồi, vận mệnh của đất nước sớm muộn gì cũng do toàn dân định đoạt mà tiêu biểu là cuộc xuống đường của người dân cả nước liên tục ngày qua ngày đòi Hà Nội phải trả lại đất đai tài sản và quyền làm người VN đã bị đảng VC cưỡng đoạt. Máu và nước mắt đồng bào đã đổ tại Tòa Khâm Sứ và Ấp Thái Hà Hà Nội cũng như qua các cuộc phản kháng chống VC bán nước cho Tàu Ðỏ khắp nơi. Ðó là sự báo hiệu ngày tàn của đảng cướp cho dù chúng có ba hoa trên báo chí quốc doanh hay đưa bộ máy công an ra kềm kệp hù dọa, thì kết cuộc sụp đổ của chế độ ‘ cướp cạn ‘ cũng không thay đổi dù sớm hay muộn.


Nên những câu chuyện ba xạo, mà đài VC hải ngoại BBC tại Luân Ðôn vừa mới phổ biến, có liên quan tới Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiêu trước và sau 1975, cho dù nói là của Văn khố Vương quốc Anh, thì cũng chẳng có ai tin, vì tất cả những gì về Cuộc chiến Ðông Dương lần 2 (1960-1975), do bọn trí thức Tây phương-Hoa Kỳ dàn dựng ngày nay, đều dựa theo các tài liệu tuyên truyền của VC.TỔNG THỐNG THIỆU : VỤ 16 TẤN VÀNG VÀ SỰ TỪ CHỨC RA KHỎI NƯỚC :Sau ngày 30-4-1975, qua phút huy hoàng ngắn ngủi cũng là thời gian mặt nạ những kẻ nằm vùng, đâm sau lưng người lính VNCH được lột, kết thúc vai trò làm hề của trí thức miền Nam. Từ đó, tất cả đều nếm chung niềm tân khổ, nhưng người dân và lính chỉ hận hờn vì đầy đoạ, trái lại người trí thức phản bội năm nào, mới là thành phần bị thiệt thòi nhất., vì vừa bị mất hết những đặc quyền đặc lợi mà chế độ cũ dành cho lớp người khoa bảng, luôn được ngồi trên đầu dân đen miền Nam, lại phải mang thêm sự bóp nát lương tâm vì hối hận và trên hết đã thấu rõ nguyên tắc của xã nghĩa :’ TRÍ THỨC THUA CỤC PHÂN VÌ VÔ DỤNG VÀ PHẢN TRẮC LẬT LỌNG.


Nhưng người trong nước thì an lòng chịu đựng, ngược lại có một số loạn thần nhanh chân chui được vào lòng máy bay Mỹ, chạy ra hải ngoại lúc đó, hay mới đây qua các diện vượt biên, đoàn tụ, tù nhân chính trị.. vẫn tiếp tục to miệng làm hề, dù rằng nay đã biển dâu, ông bà sư cố.. cũng y chang xếp hàng như me Mỹ, Ba Tàu Chợ Lớn và bần dân xóm biển.


Màn chửi rủa, đổ tội, vu khống Miền Nam vì tham nhũng bất tài nên thua VC.. được chấm dứt, khi thành đồng tổ phu Mac Lê, tan hoang, sụp nát vào năm 1990, chẳng những ở Ðông Âu, khắp năm châu , mà còn ngay tại Tổng Ðàn Nga Sô Viết. Cũng từ đó, xã nghĩa thiên đàng thu gọn tại Tàu Cộng, Viêt Cộng, Hàn Cộng và Cu Ba. Rồi các dĩnh cao tại Bắc Bộ Phủ vì cái ăn bản thân cùng sự sống của đảng, đã muối mặt, mở cửa đổi mới, trải thảm đỏ, lạy mời những kẻ thù năm nao như Mỹ, Pháp, Nhật, Nam Hàn, Ðài Loan.. kể cả Liên Xô, Âu Châu.. vào , để cùng nhau hợp sức, kết đoàn, làm nhanh sự sụp đổ của một quốc gia mang tên VN, từng liệt oanh lừng lẫy dưới trời Ðông Nam Á.


Cũng nhờ mở cửa, những tin tức bán nước hại dân và đại họa tham nhũng cả nước, từ lớn tới bé của Cộng Ðảng.. bị quốc dân phanh phui, tràn lan khắp chân trời góc biển và ngay trên mạng truyền thống quốc tế từng giờ, đã khóa kín những cái miệng thúi của bọn trí thức bợ bưng VC, vẫn còn lẫn quẫn trong tập thể người Việt hải ngoại, đợi dịp và cơ hội đâm sau lưng đồng bào, như chúng từng làm khi còn sống tại VNCH, trong cảnh no cơm ấm cật, ai chết mặc bay, vô luân vô tích sự.


Theo tin của Nguyễn Hữu từ Paris được đăng trên tờ Việt Nam Hải Ngoại, số 132 ngày 31-1-1983, thì Nguyễn Văn Hảo, nguyên phó thủ tướng dưới triều hoàng đế Dương văn Minh hai ngày, nhờ bảo vệ được ‘ 16 Tấn Vàng, tài sản của quốc dân Miền Nam’, để dâng cho tập đoàn Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ, Phạm văn Ðồng.. ngay khi chúng vào được Sài Gòn, buổi trưa ngày 30-4-1975. Theo nguồn tin từ các hàng thần VC, ngay khi vào Sài Gòn, thì 16 tấn vàng trên, cùng tiền vàng ngân phiếu chứng khoáng của VNCH được lệnh kiểm kê ngay và được Duẩn-Thọ, dùng máy bay chở về dấu tại Côn Sơn-Hải Dương. Sau đó đảng nhóm, tự chia chác ăn xài. 


Cũng nhờ công lao hãn mã trên, nên Hảo Tiến Sĩ, được VC cho xuất ngoại công khai sang Pháp. Tại Ba Lê, Y ngự trong một khách sạn sang đẹp , mà chủ nhân cũng là chủ của Nhà Hàng Ðồng Khánh tại Chợ Lớn năm nào.Sự việc Nguyễn Văn Hảo xuất ngoại bằng thông hành chính thức và liên hệ thường trực với tòa đại sứ VC tại Pháp, cho thấy Y ra ngoại quốc với sứ mạng bí mật. Hiện nay Hảo được Cao Thị Nguyệt, vợ góa của tướng Hòa Hảo Ba Cụt, bảo lãnh sang Mỹ, trước đó ở Texas.Tuy VC đã cưỡng chiếm được miền Nam gần 34 năm qua, nhưng dưới đống tro tàn của quá khứ, vẫn còn âm ỷ các sự kiện nóng bỏng của cận sử VN, trong đó ác nhất là chuyện ‘ Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, tẩu tán 16 tấn vàng y của Ngân Hàng Quốc Gia VN, khi chạy ra ngoại quốc, vào nhưng ngày cuối thàng 4-1975 ‘. Ðây là một sự kiện lớn của người Việt Quốc Gia, trong và ngoài nước. Và dù nay mọi sự đã được sáng tỏ, số vàng trên được Nguyễn Văn Hảo giữ lại và chiều ngày 30-4-1975, đem dâng cho Lê Duẩn, chở ngay về Bắc.





Theo tài liệu của Nguyễn Tiến Hưng, trong tác phẩm ‘ Bí Mật Dinh Ðộc Lập ‘, cũng là người chủ xướng trong việc, dùng 16 tấn vàng dự trữ tại Ngân Hàng Quốc Gia, theo thời giá lúc đó là 120 triệu Mỹ Kim, để mua vũ khí đạn dược, cung cấp cho QLVNCH tiếp tục chiến đấu, chờ xin viện trợ của nước khác, vì Hoa Kỳ qua đảng Dân Chủ phản chiến, đã chấm dứt giúp đỡ miền Nam theo cuộc họp báo ngày 14-4-1975 tại Hoa Thịnh Ðốn.Ai cũng biết, từ tháng 4-1975, miền Nam đã mất tinh thần, vì sự tan rã của hai quân đoàn 1 và 2 khi triệt thoái, theo lệnh của TT Nguyễn Văn Thiệu.


 Thêm vào đó là sự việc Hoa Kỳ cố ý cắt đứt hết viện trợ, trong lúc đồng minh của mình đang dần mòn thoi thóp chiến đấu trong tuyệt vọng, vì cạn kiệt đan súng, nhiên liệu. Do trên, liên tiếp qua nhiều phiên họp tại dinh Ðộc Lập, Nguyễn Tiến Hưng đề nghị dùng số vàng dự trữ, để mua súng đạn. Song song là việc tăng cường canh gác, bảo vệ trụ sở Ngân Hàng trung ương, tại Bến Chương Dương-Sài Gòn, đề phòng Cộng Sản Bắc Việt thừa dịp đánh cướp, vì tin tức các cuộc họp kín, chắc chắn đã bị điệp viên nằm vùng ngay dinh tổng thống, báo về Bắc Bộ Phủ. Và lần này, VC đã xuống tay trước, để chúng không bị hố như hồi tháng 8-1945, để mất toi số vàng bạc châu báu dự trử , tại Viện phát hành giấy bạc Ðông Dương (Institut d’Emission) ở Hà Nội.


Như vậy theo kết quả buổi họp, có đủ các tướng Thiệu, Khiêm, Viên, Quang.. số vàng trên sẽ được gởi ra ngoại quốc. Người nhận chỉ thị thi hành là Lê Quang Uyển, Thống Ðốc Ngân Hàng VNCH. Ông có nhiệm vụ thuê mướn may bay chuyên chở ( hàng không Mỹ TWA,Pan Am) và hãng bảo hiểm quốc tế Lloyd’s tại Luân Ðôn, Anh Quốc. Nhưng kế hoạch bất thành, vì tin mật bị lộ ra ngoài, với sự xuyên tạc đầy ác ý : ‘ Thiệu mang 16 tấn vàng theo ra ngoại quốc, sau khi từ chức’. Tin trên khiến các hãng máy bay cũng như công ty bảo hiểm từ chối chuyên chở, vì sợ bị phạm pháp.Cuối cùng Chính Phủ VNCH phải nhờ Bộ Ngoại Giao Mỹ, qua Ðại Sứ Martin giúp. Sự việc kéo dài tới khi TT Thiệu từ chức và Phó Tổng Thống Trần Văn Hương lên thay thế. Ngày 26-4-1975, Tòa Ðại Sứ Mỹ ở Sài Gòn, mới cho biết, đã tìm được một hãng bảo hiểm số vàng trên nhưng giá trị chỉ còn 60.240.000 Mỹ kim, mất đi một nửa nếu tính theo thời giá. Riêng việc chuyên chở, cũng phải hoàn tất trước ngày 27-4-1975 vì phi cơ đang đậu sẵn tại phi trường Clark, Manila, Phi Luật Tân, sẵn sàng tới Sài Gòn chuyển vàng.


Nguyễn Văn Hảo bấy giờ là Phó Thủ Tướng, phụ trách kinh tế, được ủy nhiệm thi hành công tác trên. Nhưng Y đoán biết VNCH sẽ thất thủ trong nay mai. Do trên đã manh tâm phản bội, thừa cơ hội lập công dâng cho VC, để mong vinh thân phì gia. Y vào gặp thẳng TT.Trần Văn Hương, hăm đoạ và áp lực đủ điều. Rốt cục Hương vì sợ trách nhiệm, nên đành giao số 16 tấn vàng trên cho Nguyễn Văn Hảo giữ lại, chờ giao nạp cho VC. Nhờ thế, sau ngày 30-4-1975, tên trí thức trở cờ, ăn cơm quốc gia lật lọng, hàm tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo, được những người chủ Rừng Xanh, trả ơn cho chức ‘ Cố Vấn Kinh Tế’, trong chính phủ Ma Miền Nam. Sau đó không lâu, tiến sĩ giấy cũng theo vận nước, tàn với mặt trận. Rồi cũng như bao kẻ khác, bò tới Mỹ, trốn nhủi tại một vùng nào đó ở TX, ôm hận và xú danh muôn thu ngàn kiếp trong sử Việt.


16 Tấn Vàng bị VC cướp đem về Bắc chia nhau xài:
Tài Liệu Trích Dẫn: Người “buôn tiền” thành bộ trưởng
Năm 1986, Lữ Minh Châu làm Bộ trưởng Tổng giám đốc Ngân hàng CSVN. Trước đó, ngày 30/4/1975, với tư cách là Trưởng ban Quân quản các ngân hàng Sài Gòn – Gia Ðịnh, đương sự là người tổ chức tiếp quản toàn bộ tiền, vàng của VNCH. Trước đó nữa, Châu cũng là một trong những người chỉ huy , đường dây buôn tiền lậu, để nuôi VC phản loạn tại NVM, qua bí danh Ba Châu.
Theo lời hắn tứa với báo chí, thì “đường dây buôn tiền”, tức là Ban Tài chính đặc biệt của Trung ương Cục là do Phạm Hùng lập ra, có Mười Phi là trưởng, còn Châu là phó.
Nguyễn Văn Thiệu không và không thể lấy được 16 tấn vàng
Nhân vừa rồi báo chí lật lại vụ Nguyễn Văn Thiệu “cuỗm” 16 tấn vàng khi bỏ chạy ra nước ngoài, chuyện này có liên hệ tới Lữ Minh Châu, vào ngày 30/4/1975, hắn được chỉ định làm Trưởng ban Quân quản các ngân hàng Sài Gòn – Gia Ðịnh.


Chuyện Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu mang theo 16 tấn vàng hồi đó được báo chí loan tin, sau này người nói có người nói không. Gần đây BBC lại đề cập đến thông tin này. Mới đây nhất Báo Tuổi Trẻ có một loạt bài dẫn lời các nhân chứng nói rằng không có chuyện đó. Nhưng cho đến nay vẫn chưa có thông tin chính thức từ phía Nhà nước về vấn đề này.

]
Còn Ba Châu thì : “Hoàn toàn không có. 16 tấn vàng vẫn còn nguyên vẹn trong kho của ngân hàng”. “Nguyễn Văn Thiệu không lấy vàng đi, tại sao lâu nay Nhà nước mình không nói lại cho rõ?”. “Mình biết rất rõ là số vàng đó vẫn còn, đã được kiểm kê cẩn thận và đưa vào tài sản quốc gia, nhưng không đính chính vì đó là tin đồn đăng trên báo chí, có ai đặt câu hỏi chính thức với Nhà nước đâu”. “Sự thật là Nguyễn Văn Thiệu có ý định lấy đi 16 tấn vàng đó không?”. “Sau này chúng ta mới biết Nguyễn Văn Thiệu có kế hoạch đưa số vàng đó đi, nhưng không đưa đi được. Lấy số vàng đó đi là không dễ chút nào hết”. “Còn tiền thì sao? Theo hồi ức của ông Huỳnh Bửu Sơn đăng trên Tuổi Trẻ thì tổng giá trị giấy bạc dự trữ trong kho lúc đó được kiểm kê hơn 1.000 tỉ đồng, gấp đôi lượng tiền lưu hành tại miền Nam…”. “Toàn bộ tiền và vàng dự trữ trong ngân hàng chúng ta tiếp quản nguyên vẹn cùng với đầy đủ hồ sơ sổ sách.



Theo thống kê thì khối lượng tiền trong lưu thông thời điểm đó là 615 tỉ, gồm tiền mặt trong lưu thông 440 tỉ, còn lại nằm trong tài khoản tiền gửi. Tôi không thể nhớ chính xác số giấy bạc dự trữ, những số liệu kiểm kê đó vẫn còn trong hồ sơ lưu trữ. Trong kho dự trữ còn có 125 tỉ tiền in theo kiểu mới chưa phát hành, riêng số giấy bạc này được lệnh phải thiêu hủy, vì đó là số giấy bạc mà chính quyền Sài Gòn chuẩn bị để đổi tiền”. “Còn châu báu, nữ trang?”. “Châu báu, nữ trang là đồ người ta gửi tại ngân hàng. Những thứ đó phải trả lại cho người gửi”.
 “Khi tiếp quản, liệu tiền, vàng có bị thất thoát không?”. “Theo tôi thì không thể. Ngân hàng của chính quyền cũ quản lý rất chặt, ta cũng chặt”. “Số vàng đó sau này đi về đâu?”. “Nó trở thành tài sản quốc gia, được quản lý theo luật pháp của chính quyền cách mạng, sau đó là của Nhà nước Việt Nam thống nhất”. “Còn tiền?”. “Tiền cũng vậy, được đưa vào lưu thông, đến năm 1976 thì đổi tiền mới”. - Hoàng Hải Vân


Mới đây vào ngày 19-12-2005, cái gọi là Ðài BBC Luân Ðôn, đưa một bản tin giựt gân, nói là dựa theo tài liệu mật, đã được Cục Văn khố Anh cho phổ biến. , trong đó có nói về sự ra đi của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, từ hơn 30 năm trước. Theo nhận xét của tất cả các nhà viết sử hiện nay cũng như những người trước đây, từng liên hệ hiểu biết về hậu trưong chính trị Nam VN trong Dinh Ðộc Lập, thì tin trên hoàn toàn láo khoét, bịa xạo và rõ ràng nhất cho thấy, đây là tài liệu của VC, đã có sẳn từ trước, nhằm bôi bác, làm mất uy tín người Việt Quốc Gia, cũng như chính quyền VNCH thời trước.



Cũng theo nguồn tin VC trên, thì TT.Thiệu đã bỏ trốn khỏi Sài Gòn vào cuối tháng 4-1975, bằng trực thăng Mỹ, chở từ đất liền ra Hạm đội 7 ngoài hải phận. Sau đó mới tới Ðài Loan với vợ con và các phụ tá.. Sở dĩ có tình trạng thúi tha này, là vì sau ngày Miền Nam bị sụp đổ, người Tây phương cũng như Việt hải ngoại, khi muốn tìm hiểu về thực trạng của cuộc chiến vừa qua, hay tới tìm tài liệu tham khảo tại các văn khố Pháp, Anh, Mỹ, các thư viện.. mà gần hết sach báo, tài liệu được sản xuất ở Bắc Bộ Phủ hay của bọn nhà văn, nhà báo thân hoặc theo cọng sản. Do trên nội dung chỉ viềt một chiều, nói tốt tất cả cho đảng và phe mình với chủ đích mạt sát những người Miền Nam VN thua trận.


Trong lúc đó những vị nguyên thủ như Trần Văn Hương, Nguyễn Văn Thiệu kể cả Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, thì im lặng lại không viết hồi ký. Còn đa số các vị tướng lãnh có lương tâm, tự cảm thấy mình có tội với đồng bào và đất nước sau ngày 30-4-1975, nên cũng không muốn viết gì về những kỷ niệm đau thương cũ, cuối cùng để cho bí mật cận sử, chôn vùi theo thân xác, tạo cớ cho bọn bồi bút, ngụy sử của cả trăm phía, hư cấu, viết xạo, nhục mạ các chiến sĩ Quốc gia, mà Ðài BBC Luân Ðôn đã làm, là một biểu tượng đáng phỉ nhổ.


Theo các nhà biên khảo về chiến tranh VN, thì tin tức có liên quan tới sự ra đi của TT.Thiệu, đầu tiên được xì ra, do Trưởng phòng CIA của Mỹ ở Sài Gòn là Frank Sneepp, viết trong ‘ Decent Interval ‘ , từ trang 434-437., xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1978. Theo đại sứ Martin, thì chính mình, thay vì nhờ cơ quan Dao giúp, lại yêu cầu Giám đốc CIA ở VN, lúc đó là Polgar, giúp đưa TT.Thiệu, Thủ tướng Khiêm đi Ðài Loan bằng chiếc DC-6 của Tòa Ðại sứ Mỹ, từ Thái Lan bay qua Sài Gòn, trong đêm 25-4-1975.. Theo Snepp viết, thì TT Thiệu đã bỏ trốn khỏi VN, vì khi ra đi, chẳng có một giấy tờ của VNCH hay Hoa Kỳ cho phép.hay chứng nhận.


Còn tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, trong sách ‘ khi Ðồng Minh tháo chạy ‘ vừa xuất bản, viết về sự ra đi của TT.Thiệu và Thủ tướng Khiêm nơi trang 391-392, cũng chỉ dựa theo tài liệu từ ‘ Decent Interval ‘ của Frank Snepp nhưng sai chi tiết, khi nói TT.Thiệu ngồi giữa tướng Timmes và một sĩ quan tùy viên VN, trong lúc đó ông ngồi giữa Polgar và Timmes.


Nhưng qua lời kể lại của một nhân chứng, đã cùng đi với TT.Thiệu và đến Mỹ vào tháng 6-1975, hiện còn sống tại Nam California, thì trước khi ra đi, TT Thiệu và người này, có tới văn phòng của TT.Trần Văn Hương, để trình một bức thư, đại ý ‘ Theo lệnh TT.Hương, cựu TT.Thiệu, Thủ tướng Khiêm sẽ hướng dẫn một Phái đoàn, tới các quốc gia Ðông Nam Á, để giải độc .. ’ ’ ’ ’Sau đó đoàn người, gồm TT.Thiệu, Thủ tướng Khiêm và tuỳ tùng, rời nhà trong Bộ TTM, lái xe chạy theo hướng Sài Gòn, Chợ Lớn, đường Nguyễn Văn Thoại, Trường đua Phú Thọ, Lăng Cha Cả.. rồi mới vào cổng Phi Long, ra phi đạo, lúc đó có mặt Ðại sứ Martin, chào tiển biệt. Như vậy, theo nguồn tin này, đã hoàn toàn khác hẳn với lời Frank Snepp, là TT Thiệu đi Ðài Loan, có giấy tờ của Chính phủ VNCH giới thiệu với nhà cầm quyền Ðài Loan, chứ không phải bỏ trốn.


Vẫn từ lời kể trên, thì chính Frank Snepp là tài xế trong chiếc xe chở TT Thiệu, ghế trước còn có Trung Tá tùy viên Tôn Thất Ái Chiêu, xe từ nhà Thủ tướng Khiêm, trong Bộ TTM tới phi trường Tân Sơn Nhất. Băng sau TT Thiệu ngồi giữa tướng Timmes và Ðại tá Chánh tuỳ viên Nguyễn Văn Ðức. Sau khi tới Ðài Loan, TT Thiệu đã xin tới Anh định cư, mà không vào Mỹ.


Sau này khi viết về cuộc chiến VN, thủ tướng sau cùng của VNCH là Nguyễn Bá Cẩn, đã có nhận xét rất xác thực, đã diển tả thái độ hờ hửng của đồng bào Miền Nam qua suốt cuốc chiến. Sỡ dỉ có sự đối xữ trên, không phải vì chính phủ VNCH, chỉ kiểm soát được 30% dân số và phần còn lại chỉ là đám lục bình trôi nổi như nhận xét của một sử gia nào đó. Thật sự Miền Nam hoàn toàn khác biệt với chế độ độc tài khủng bố của Bắc Việt. Ngoài ra hầu hết các nhà lãnh đạo của Miền Nam từ Cưu Hoàng Bảo Ðại tới các vị Tổng thống Diệm, Thiệu, Hương.. quá tự do và nhân đạo. Trong lúc đó, do cơ quan tuyên truyền của Miền Nam yếu kém, phần nửa hầu hết trình độ hiểu biết của đồng bào rất hạn hẹp, nhất là ở nông thôn, miền núi, xóm biển.. nên đã bị giặc Cộng dụ dổ, đầu độc.


 Ðã vậy dân chúng còn thờ ơ lãnh đạm với thời cuộc, hầu như chỉ muốn giao phó hết cho chính quyền, quân đội, ai chết mặc bây.
Người dân đã vậy, đất nước càng bất hạnh vì đã không có một vị lãnh đạo nào, đủ khả năng đạo đức, tầm vóc để ứng phó kịp thời với hoàn cảnh, nhìn thấu đáo toàn diện chính sách của Hoa Kỳ, để mà phối trí kịp thời lực lượng bảo vệ lãnh thổ, trong lúc khẩn cấp. Thêm vào đó, còn có các chính khách sa lông, nhiều nhà báo thân Cộng nằm vùng, luôn thừa nước đục thả câu, tìm cách phá rối xách động mọi người, chống lại chính quyền, giúp cho giặc có cơ hội cưởng chiếm đất nước. Tới khi Sài Gòn thất thủ, sau ngày 1-5-1975 , những thành phần trí thức xôi thịt trên,cũng bị VC vắt chanh bỏ võ, đào thải không thương tiếc chút công lao đã dâng hiến cho đảng.

Lịch sử VN suốt mấy ngàn năm, trang nào cũng đẵm đầy máu lệ, chứ không phải chỉ có giai đoạn đau thướng mất nuớc, dưới thời các vị TT Thiệu và Hương .Nay cũng đã hơn ba mươi ba năm (1975-2008), mà đồng bào cả nước vẫn phải sống trong hàng rào kẻm gai, trước súng đạn mã tấu dao găm, trong màn lưới vô hình rình rập của công an, bộ đội, cán bộ và ngay chính thân nhân mình.. trong thân phận của kiếp đời nô lệ, phó thường dân, ngay chính quê hưng mình, mới là điều thương tâm thống hận.
Ðiều này cho thấy đất nước tới nay vẫn đâu có kẻ hùng tài minh đức thật sự, để cầm đầu toàn dân nổi dậy, diệt tan cái đám sâu bọ lạc hậu già nua VC, vẫn còn ngồi trên đầu cả nước, chẳng những bán nước cho Tàu và bọn tư bản, mà còn bóc lột, đầy đoạ cả một dân tộc, càng lúc càng lún thúi trong ảo vọng xã họi chủ nghĩa, hiện bị nhân loại vút vào quên lãng.


Ðến nay VN còn chưa có lãnh đạo, trong lúc đất nước rối rấm như tơ vò, lãnh thổ thị bị Tàu đỏ cưởng chiếm, đồng bào cả nước hải sợ vì nạn cướp giựt công khai của đảng VC, các tôn giáo bất lực trước khủng bố tại Hà Nội.. thì những người như Ngô Ðình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Hương.qua dòng cận sử hai mươi năm tồn tại của VNCH, cho dù có bị ganh tị, bôi bác, ít ra họ cũng xứng đáng đại diện cho Nam VN trong giai đoạn lịch sử thời đó.
Cho nên nói thì ai cũng nói được vì nói là độc quyền của con người đâu có đóng thuế dù ở bẹn Mỹ hay Âu Châu.
Nguồn: Mường Giang/Aulacviet

  
 



Blog / Bùi Tín

Nhân ngày 30-4: Câu chuyện về 16 tấn vàng

CỠ CHỮ
Chuyện này xảy ra đã gần 37 năm. Từ đầu năm nay tôi  nhận được 6 điện thư từ trong nước, từ Canada và Cộng hòa Liên bang Đức hỏi về chuyện này. Đây là chuyện rất cũ, nhưng do chế độ độc đảng luôn duy trì nhiều mảng tối, không công khai minh bạch, nên có nhiều vấn đề lịch sử cần làm rõ.

Trưa 30-4-1975, trong phòng lớn của Dinh Độc lập, sau khi tôi gặp và hỏi chuyện tướng Dương Văn Minh và ông Vũ Văn Mẫu, không khí dần dần bình thản. Ông Nguyễn Văn Hảo ghé tới nói nhỏ với giọng miền Nam, «Thưa tôi là Nguyễn Văn Hảo, phó thủ tướng đặc trách về kinh tế - tài chính, có chuyện cần trình bày riêng với các ông». Tôi cùng ông Hảo đến ngồi bên chiếc bàn nhỏ gần cửa sổ. Vừa ngồi xuống, ông Hảo nói ngay: «Chúng tôi vừa trao đổi với nhau, muốn nhờ ông báo ra ngoài đó là bọn này đã giữ lại hơn 16 tấn vàng không để họ mang đi, hiện để trong ngân khố, mong ngoài đó cho người vô nhận». Tôi hỏi lại: «Ông nói sao? 16 tấn vàng trong ngân khố? Có thiệt không?». Tôi ghi vội vài chữ trên sổ tay: Ng. v Hảo, 16 tấn, ngân khố…, và nghe ông Hảo trả lời: «Thiệt chớ, bọn này chịu hoàn toàn trách nhiệm mà». Ông còn nói thêm: «Nếu các ông gửi (ông dùng tiếng Pháp «placer») ở các ngân hàng quốc tế lớn thì sau sẽ có thể thành 18 tấn, 20 tấn. Nếu cần, bọn này sẽ giúp».

Tối hôm đó tôi đi trên chiếc xe jeep của đơn vị thông tin Quân đoàn II khi được biết họ sắp vào sân bay Tân Sơn Nhất để bắt liên lạc với phái đoàn ta trong Ban Liên hợp Quân sự bốn bên (về sau là Ban LHQS hai bên) lập ra từ sau Hiệp định Paris tháng 1-1973. Tôi đã từng ở đó 60 ngày trong một khu gọi là trại Davis. Thật là may mắn không ngờ. Tôi  hướng dẫn Thiếu úy Hà lái xe vì tôi đã hàng chục lần đi con đường này hồi 1973, và đã nghiên cứu rất kỹ bản đồ Sài Gòn mấy ngày đó. Tôi vào trại Davis như về nhà. Anh Võ Đông Giang, anh Hoàng Anh Tuấn vẫn ở đó. Chào hỏi xong tôi vội xuống trạm thông tin, thì vẫn là tổ thông tin hơn 2 năm trước. Dạo ấy anh em vẫn đánh bài viết của tôi cho báo Quân đội Nhân dân. Chiều nay sau khi viết bài báo xong, tôi rất băn khoăn vì các nhà báo Pháp, Ý, Đức đều cho tôi biết là bưu điện Sài Gòn đóng cửa 2 hôm nay rồi. Điện thoại viễn liên bị cắt đứt. Họ đang bế tắc không sao gửi bài đi được. Tôi cũng sốt ruột không kém. Vì gửi bài báo ngay đêm nay để sáng mai bài báo  được in trên báo QĐND là một yêu cầu cấp bách. Thượng sỹ thông tin trẻ măng người Thái Bình tên là Hải đánh bài báo của tôi bằng tín hiệu Morse, tè tè tích tích. Bài báo gửi cho Thiếu tướng Lê Quang Đạo, phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, để chuyển cho báo QĐND. Ngay sau bài báo là mấy dòng chữ «Gửi riêng Thủ trưởng Tổng Cục Chính trị - Tuyệt mật. Hôm nay 30-4-1975 Phó thủ tướng Nguyễn Văn Hảo đặc trách kinh tế - tài chính  báo tin cho tôi là đã giữ lại trong ngân khố hơn 16 tấn vàng, mong ta cho người vào nhận. Bùi Tín».

Sau đó tôi mới thong thả gặp gỡ các anh em ta trong trại Davis, cùng ăn một nồi chào gà tuyệt trần sau một ngày cực kỳ căng thẳng, mệt nhọc.

Bài báo đăng trên báo QĐND sáng ngày 1-5-1975 là bài báo duy nhất gửỉ được từ Sài Gòn vì hồi đó chưa có điện thoại cầm tay, chưa có máy điện toán xách tay như hiện nay. Máy fax rất nặng nề. Do bài báo được chuyển bằng tín hiệu Morse tè tè tích tích, nên có 2 chữ ghi sai. Đó là khi tôi nói về thực đơn của Tổng thống Thiệu ngày 30-4 được in trên giấy đặt trên bàn làm việc của ông có 2 món là «cá thu kho mía» và «gân bò hầm sâm», một món của cao lâu Tàu  được gọi là «ngầu pín», đã bị ghi sai thành cá thu kho giá và gan bò hầm sâm. Nhiều người thắc mắc cá thu kho giá và gan bò hầm sâm thì có gì ngon và bổ. Người đánh và nhận Morse đã nhầm chữ «g» (tè-tè-tích) thành chữ «m» (tè-tè) và chữ  «â» thành «a».

Ít lâu sau đó, tôi đọc trên cuốn  A Decent Interval (Khoảng cách vừa phải) của Frank Snepp, một cán bộ CIA ở Sài Gòn trước đó, nói rằng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu  đã mang đi hàng chục tấn tài sản quý sang Đài Loan, nơi có anh ông là đại sứ Nguyễn Văn Kiểu, để đưa sang Hoa Kỳ sau đó.

Tất cả các báo chính thức ở Hà Nội hồi đó đều trích đăng cuốn sách của Frank Snepp, đoạn nói về việc ông Thiệu chở tài sản quốc gia trong đó có hơn 10 tấn vàng trong ngân khố ra khỏi nước, và ai cũng đinh ninh là chuyện này là có thật.

Ở hải ngoại nhiều bài viết cho đến nay vẫn đinh ninh chuyện ông Thiệu mang đi 16 tấn vàng là có thật, lên án ông rất nặng nề là trong tình hình cực kỳ khẩn trương ông đã chỉ lo vun vén cho cá nhân, lo chiếm đoạt tài sản công thành của riêng một cách tồi tệ.

Về phía chính quyền độc đảng ở trong nước, họ vẫn cố tình duy trì một tình hình ỡm ờ úp úp mở mở, không rõ ràng minh bạch về hơn 16 tấn vàng trong ngân khố Sài Gòn hồi ấy, với ý định không sạch sẽ là để cho mọi người hiểu lầm về chuyện này.

Năm 1994, khi tôi đã ở Paris, một bạn người Việt làm việc cơ quan nghiên cứu và lưu trữ về chiến tranh Việt Nam ở Lubbock, Tiều bangTexas, Hoa Kỳ, cho tôi địa chỉ điện thoại của ông Nguyễn Văn Hảo. Tôi gọi ngay cho ông và từ đó có dịp nói chuyện về ngày 30-4-1975. Ông cho biết ông đang ở Port-au–Prince, thủ đô nước cộng hòa Haiti, trong vùng Antilles - Caribbean, làm cố vấn kinh tế cho chính phủ Haiti. Ông cũng được biết đầu tháng 5-1975 ngoài Hà Nội đã cho riêng 1 chuyến chuyên cơ vào tiếp nhận hơn 16 tấn vàng và chở ra Hà Nội.

Đầu tháng 5-1975 tôi cũng được tướng Đào Đình Luyện, chỉ huy không quân, cho biết nguyên một chuyến chuyên cơ IL 18 đã chở số vàng thu được từ Sài Gòn ra Hà Nội.

Ông Hảo kể lại chuyện này: «Hồi đó, ông Vũ Văn Mẫu đề xuất với tướng Dương Văn Minh rồi giao cho tôi (là ông Hảo) mật báo cho đại diện của các ông, sau khi được báo là một sỹ quan cao cấp vào gặp bọn này». Ông nói thêm: «Các ổng muốn các ông hiểu rõ là bọn này đã cố giữ lại không cho họ mang đi để giữ lại tài sản quốc gia đặng giao lại cho quý ông». Ông còn cười vui: «Lẽ ra quý ông có một lời tiếp nhận và đánh giá công khai chuyện này cho đồng bào cả nước biết thì bọn này mới thật hài lòng». Lần sau gặp ông trên điện thoại, ông cho tôi biết thêm là «công bằng mà nói, đã có nhiều dự án chuyển hết số vàng trong ngân khố ra nước ngoài, qua các ngân hàng quốc tế, nhưng các cuộc thương lượng chưa ngả ngũ thì quý ông đã vô rồi. Anh em phụ trách Ngân khố quốc gia cũng tỏ rõ thái độ không để cho họ mang đi. Lẽ ra các ông nên có lời khen cho anh em đó vui lòng».

Trong các phiên họp của chính phủ, của quốc hội sau 30-4-1975, không có một chi tiết nào về hơn 16 tấn vàng được chính quyền miền Nam chính thức giao lại. Nó có thật sự nhập kho Nhà Nước đầy đủ, và được dùng vào những việc gì? Không ai biết. Đại biểu Quốc hội không ai hỏi, vì  90 % đại biểu là đảng viên, số ngoài đảng còn bảo hoàng hơn nhà vua.

Tháng 4-2010, Bộ Quốc phòng Hà Nội có cuộc họp «viết lại một cách chính thức diễn biến ngày 30-4-1975 ở Dinh Độc lập», họ không nhắc đến tên tôi, coi như nhà báo Bùi Tín không hề có mặt ở Sài Gòn ngày hôm đó, cũng không hề nhắc đến chuyện hơn 16 tấn vàng, một chi tiết không nhỏ, nhưng họ không muốn nhắc đến nữa.

Năm 1987, khi có dịp gặp ông Trường Chinh ở  Đà Lạt, tôi kể lại chuyện này, ông cho biết : « Tôi có biết chuyện này, nhưng hết sạch cả rồi, trong mấy năm khó khăn, cấu véo hết tấn này đến tấn khác, mua lương thực, nguyên liệu, nay còn gì nữa đâu!». Đây là câu duy nhất tôi nghe được về số phận của hơn 16 tấn vàng năm 1975, từ miệng một nhà lãnh đạo.

Các phiên họp Quốc hồi từ 1975 đến nay, không ai biết, cũng không ai hỏi , chiến lợi phẩm thu được ở miền Nam, số tiền hồi ấy bộ Công an có chủ trương bán bãi, bán tầu thuyền, thu vàng cho mỗi người lên tàu di tản - từ 3 lạng đến 6 lạng, có khi lên đến 12 lạng vàng mỗi đầu người -  tất cả là bao nhiêu?  Và tiền thu của người Hoa bị xua đuổi từ Cẩm Phả, Hon Gai, Hải Phòng vào đến Vũng Tàu, Chợ Lớn, Cần Thơ...là bao nhiêu? Lại còn tiền của thu được qua các chiến dịch tiêu diệt công thương nghiệp tư nhân, cái gọi là diệt gian thương  trên toàn miền Nam hồi đó, tiêu tan đi đâu cả rồi? Trong Quốc hội có Ban Kinh tế - Tài chính, nhưng có ai được biết gì đâu, có ai dám hỏi gì đâu, cả một khối mờ ám cỡ quốc gia, do đồng nhất đảng với nhà nước, đảng với quốc gia, đảng với nhân dân, tuy ba mà một.

Lại còn trong chiến dịch gọi là giải phóng Campuchia khỏi diệt chủng của Khơ-me Đỏ cuối năm 1978- đầu năm 1979, đơn vị đặc công và một sư đoàn của Quân đoàn IV được lệnh chiếm các cơ sở trong thủ đô Pnom Penh, đặc biệt là khu hoàng cung, tiền của, kho tàng, đồ cổ lớn nhỏ đã được thu về bao nhiêu? Mang về nước ta bao nhiêu? Ờ đâu, có biên bản, thống kê gì không? Tôi được biết phần lớn là giao cho Ban Tài chính - Quản trị trung ương đảng, một cơ quan kinh tế - tài chính - thương nghiệp xuất nhập khẩu - sản xuất kinh doanh riêng của đảng,  mà biên chế còn lớn hơn cả bộ Công thương và bộ Kế hoạch - Đầu tư cộng lại.

Chế độ hiện tại quan tâm đến tiền bạc, ngoại tệ, ngân khố, ngân hàng, hơn là cái gốc của nền kinh tế là sản xuất ra của cải với kỹ thuật cao, giá thấp . Họ quên chức năng cơ bản của nhà nước là phân phối, điều tiết phân phối lại thành quả phát triển cho toàn xã hội cùng hưởng.

Các bộ của chính phủ coi rất nhẹ việc quản lý về hành chính, chỉ chăm chú đến sân sau là các công ty kinh doanh để chia chác bổng lộc, mặc cho các chỉ thị thu rất hẹp lĩnh vực này.

Xin quan sát kỹ để thấy rằng ai dính đến tài chính, ngân hàng, ngân sách đều được thăng quan tiến chức nhanh nhất; thủ tướng hiện nay từng là Thống đốc Ngân hàng Nhà nước; chủ tịch Quốc hội hiện nay trưởng thành từ Cục trưởng Cục Ngân sách, rồi thứ trưởng tài chính, rồi bộ trưởng tài chính, rồi phó thủ tướng thường trực. Một phó thủ tướng hiện nay cũng từng là thứ trưởng rồi bộ trưởng bộ tài chính. Nguyên thống đốc ngân hàng Trần Đức Thúy cùng cậu con trai Trần Đức Minh và cộng tác viên thân cận là đại tá công an Lương Ngọc Anh đều là những nhân vật con cưng của chế độ, những công thần hàng đầu trong việc ngang nhiên  phân phối lại tiền của của nhân dân đổ vào ngân sách riêng của đảng. (Các bạn có thể đọc thêm bài báo «Nạn chảy máu tài nguyên quốc gia» trên VOA ngày 17-8-2011).

Lúc này giới cầm quyền trong nước cần nhớ lại lời khuyên tâm huyết của ông Lý Quang Diệu mươi năm về trước là: «Khi sẽ có nhiều khoản tiền đầu tư lớn từ nước ngoài chảy vào, hãy  giữ gìn cẩn thận, không để cho đồng tiền chỉ huy, ngự trị, làm chủ lương tâm viên chức, hãy rất cảnh giác với đồng tiền bẩn, đồng tiền phi pháp, nó sẽ phá hoại công cuộc phát triển». Cũng chính Cụ Lý - như một số người trong nước thân mật gọi – căn dặn cách phòng chống tham nhũng có  hiệu quả là: luật pháp, ngành tư pháp, tòa án phải rất nghiêm (để không ai dám tham vì sợ tù ), lương viên chức tạm đủ sống (không cần tham nhũng),  tuyên truyền giáo dục nêu gương các viên chức trong sạch sống thanh bạch, chỉ ra kẻ tham là kẻ cắp, kẻ cướp xấu xa ô nhục tàn phá rường cột của quốc gia (không ai nỡ tham nhũng vì sợ  nhục).

Có thể nói tiền nong, vàng bạc, của cải trong chế độ độc đảng đã gây nên tham nhũng, bất công kinh khủng chưa từng có trong xã hội nước ta, tiền của vàng bạc phi pháp  đã tha hóa giới cầm quyền ở mọi cấp, tàn phá đảng cộng sản Việt Nam từ gốc lên ngọn.

Hiện là thời kỳ đảng viên quan chức lao lên trước đi tiên phong để trở thành đại gia, đại điền chủ, đại trọc phú, đại tư bản đỏ, bỏ mặc nhân dân của mình nghèo đói ở phía sau, đến nỗi nhà Mác-xít Lữ Phương phải la trời rằng đảng cộng sản đã đi đầu trong xây dựng chủ nghĩa tư bản man rợ. Đó là thời kỳ các quan chức vứt hàng ngàn tỷ này đến hàng nghìn tỷ khác qua cửa sổ, chìm nghỉm dưới đáy biển, để mặc cho  hệ thống y tế và giáo dục tàn tạ, bệ rạc.

Thời đại kim tiền của các nhà cầm quyền tỷ phú  Marcos,  Suharto,  Park Chung Hy, Ceausescu, Ben Ali, Ghadafi,  Mubarak…đã kết thúc bi thảm. Gương tày liếp cho những bầy sâu chói mắt vì ánh vàng.
* Blog của Nhà báo Bùi Tín là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Bùi Tín

Nhà báo Bùi Tín hiện sống tự do ở Pháp, là một nhà báo chuyên nghiệp, một nhà bình luận thời sự quốc tế, và là cộng tác viên thường xuyên của đài VOA. Ðối tượng chính của nhà báo Bùi Tín là giới trí thức trong và ngoài nước, đặc biệt là tuổi trẻ Việt Nam quan tâm đến quê hương tổ quốc.

 http://www.voatiengviet.com/content/article-16-tan-vang-04-12-2012-147209025/1118724.html

 
 

VĂN QUANG * LỆNH ÔNG CỒNG BÀ

VĂN QUANG – Viết từ Sài Gòn

LamCamThienHaSu  Fr:BMH
Lệnh ông, cồng bà thứ nào đáng sợ hơn? Ngày xưa các cụ nhà ta có quá nhiều kinh nghiệm về quan trường, nhất là về những mối liên hệ giữa quan và dân, giữa quan bà và các doanh nghiệp. – xin nói cho rõ “quan bà” là vợ các quan, được người đời gọi là “phu nhân”– chứ không phải “đàn bà làm quan”, bởi thời đó đàn bà chưa được làm quan như thời nay. Tuy nhiên quan bà vẫn có cái cồng hay cái chiêng (một kiểu ví von là quyền hành) của quan bà vẫn to hơn quyền hành của các quan. Còn thời nay thì sao? Xin bỏ ra ngoài các bà làm quan, ở đây chỉ xin bàn về phu nhân hay bồ bịch của các quan mà thôi.


Chuyện không mới nhưng là một đề tài thảo luận mới Không phải bỗng dưng tôi mang chuyện này ra bàn với bạn đọc, trong khi còn vô số chuyện ở VN đáng bàn đến hơn. Đây là một đề tài đang “nóng” đã được Ủy ban Kiểm tra Trung ương đảng CSVN tổ chức hẳn một “hội thảo” tại Đà Nẵng, đó là: “Mối quan hệ không bình thường giữa “một bộ phận cán bộ”, đảng viên có chức, quyền với doanh nghiệp để trục lợi". Đối với người dân, chuyện này là thứ chuyện ai cũng biết, ai cũng nói tới nhưng là một đề tài để một ủy ban trung ương nghiên cứu, đánh giá, phân tích chính xác thì hoàn toàn mới lạ. Nó là một hiện tượng như cái tổ sâu đục một lỗ to tướng trên thân cây cổ thụ, ai cũng thấy nhưng chưa có ai chịu mổ xẻ tìm hiểu cặn kẽ thứ bệnh nguy hiểm có thể đục ruỗng, làm héo chết toàn bộ loại “cây đa cây đề” này. Tại “hội thảo” này, lần đầu tiên, một vấn đề rất tế nhị và khá nhạy cảm đã được hội thảo đưa ra và cảnh báo. Đó là hiện tượng “quan bà”- phu nhân các quan chức cùng làm ăn với các doanh nghiệp (DN), để DN lấy làm bình phong trục lợi. Sự trục lợi này đâu chỉ một phía. Khi mà “anh có tiền, chồng tôi có... quyền”.  
 
 
Nó không hề mới mẻ. Nhưng khi được đưa ra công khai giữa thanh thiên bạch nhật, thì mối quan hệ “đặc biệt” này đã trở nên phổ biến mang tính xã hội khiến người dân chú ý, bàn tán râm ran.Cũng chả cứ phải là quan bà dính dáng đến DN. Có khi chỉ là... “cận” quan bà, hay “bồ ruột” của quan cũng có thể làm nên “sự nghiệp” khiến xã hội phải thất kinh và bất bình.  Chính vì thế tôi đưa vấn đề này ra bàn cùng bạn đọc, phân tích khách quan để hiểu rõ hơn. Xin điểm sơ qua về những cái lệnh của ông trước rồi đến cồng bà sau.Tôi sợ các ông lắm rồi Thưa bạn, câu than phiền trên đây không phải của người viết bài này mà là của chính ông Chủ tịch Quốc Hội (QH) VN. Kết luận lại phiên họp của Ủy ban Thường vụ QH mới đây ông Nguyễn Sinh Hùng Chủ tịch QH đã dẫn chứng trường hợp Nghị định quy định về việc cấp Chứng minh nhân dân (CMND) ghi tên cha mẹ khiến người dân “bức xúc” 
 
 
nên vừa đưa ra đã phải đình lại.vq3-4 1 Dưới góc độ người dân, ông Nguyễn Sinh Hùng bất bình khi đã có CMND, nay những người làm luật lại muốn đưa ra Luật Căn cước, rồi Luật Hộ tịch...  Ông đã phải thốt lên. 
 

 “Bao nhiêu loại giấy tờ, tôi là dân tôi cũng sợ mấy ông lắm rồi”.Việc ông chủ tịch nước cũng phải “sợ” các văn bản luật pháp làm khó, làm khổ dân... thêm một lần nữa cho thấy mức độ báo động về công việc làm luật ở VN. Có thể nói, khó mà liệt kê kết những văn bản pháp quy hoặc còn dưới dạng dự thảo hay đã thuộc loại “bút sa gà chết”, khiến người dân đau đầu, xã hội ngẩn ngơ. Có thứ nghị định ban hành cho có, cho “đủ mâm đủ bát” nhưng hiệu quả, hiệu lực đến đâu, như thế nào thì “hạ hồi phân giải”. Loại này có thể thấy qua quy định cấm hút thuốc lá nơi công cộng, bán thịt trong 8 giờ, phạt thức ăn đường phố không vệ sinh, cấm vòng hoa và vàng mã trong tang lễ công chức... và mới đây là dự thảo phạt nặng việc xả rác thải nơi công cộng… không thể kể hết.Trong các bài trước, tôi đã đề cập đến “thứ bệnh đáng sợ” này. 
 
 
Có nhiều nguyên nhân khiến bệnh trở nên nặng như hiện nay song căn nguyên chính là do những cơ quan, tổ chức và cá nhân làm ra các văn bản này vẫn “bình chân như vại” cho dù việc làm, quyết định của họ có làm khổ dân và thiệt hại cho nhà nước đến đâu chăng nữa. Đấy là chưa nói đến những kiểu hành dân, những kiểu “vòi vĩnh”, những kiểu ăn hối lộ từ cấp thấp đến cấp cao… hầu như ngày nào cũng thấy xuất hiện trên các trang báo VN với những bằng chức xác thực, không thể đổ tội cho “bọn xấu” bịa đặt xuyên tạc được. Người dân đáp lễ ngay: “Bây giờ ông chủ tịch mới sợ, chúng tôi sợ từ lâu lắm rồi!”. Bạn hãy nhìn hiện tượng … không lạ sau đây tại một xã sẽ thấy “sợ” hơn nữa. Nó là một biểu hiện rõ nhất đang xảy ra ở rất nhiều địa phương khác trong toàn quốc.
 Cả họ làm quan!Ở xã Hòa Tâm, huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên hiện nay có đến hơn 2/3 cán bộ (quan chức) ở xã là bà con, dòng họ của bí thư đảng ủy. Nhiều người trong số đó không có trình độ, không có chuyên môn trong khi những người có bằng đại học lại không thể xin được việc.Người dân xã Hòa Tâm, huyện Đông Hòa hiện đang bất bình khi phần lớn cán bộ được tuyển dụng vào các chức danh ở xã đều là họ hàng của ông Đặng Tín, Bí thư Đảng ủy xã Hòa Tâm. (Bạn đã biết ông bí thư đảng ủy là người trên hết, nắm toàn bộ quyền hành trong mọi lãnh vực từ hành chánh, cai trị đến tinh thần, tư tưởng mọi người dân). 
 
Trong số 23 cán bộ xã đã có 18 người là bà con họ Đặng hoặc bà con phía vợ của vị bí thư này. Ngay Ban Thường vụ đảng ủy 3 người, có 2 người là chú cháu, gồm Bí thư Đặng Tín và Phó Bí thư Đặng Thị Dung. Ông Huỳnh Thanh Nam, một người dân ở xã Hòa Tâm, cho biết: - Dân xã tôi gọi đây là thời của họ Đặng trị. Không phải người của dòng họ này thì không có cửa vào làm cán bộ xã Hòa Tâm! Không là con cháu họ hàng của quan ông cũng phải là họ quan bà.Trong khi 100% cán bộ xã đều không có bằng đại học, một số cán bộ là họ hàng với bí thư xã còn chưa có bằng cấp 3, còn con em người dân ở xã này tốt nghiệp đại học trở về thì không thể xin được việc.Cụ thể, trường hợp anh Huỳnh Thanh Tú, tốt nghiệp Đại học Quy Nhơn chuyên ngành tài chính kế toán hơn 3 năm nay nhưng hiện phải đi phụ nuôi tôm. Anh Tú ngán ngẩm nói với phóng viên: “Tôi nghĩ mình về quê với hy vọng làm được một việc gì đó. Vậy mà đã nộp đơn rất nhiều lần vào xã nhưng rồi vẫn không được tuyển dụng. Họ chỉ tuyển bà con có liên quan đến họ Đặng, không quan tâm đến bằng cấp”.
Phải răm rắp làm theo ý kiến của bí thư, không được có ý kiến khácÔng bí thư Đặng Tín thừa nhận có nhiều cán bộ xã là bà con, dòng họ của ông nhưng “do khách quan”(?). Ông lý giải: “Ở nông thôn mà, đụng đâu cũng là bà con”. Ông còn cho rằng việc nhiều cán bộ xã là bà con, dòng họ không trở ngại gì trong điều hành công việc. Trong khi đó, Chủ tịch UBND xã Lê Văn Hoàng lại thẳng thắn nhận định: “Một số cán bộ là bà con, dòng họ Đặng được cho vào làm không đúng chuyên môn, lĩnh vực, không đáp ứng được công việc của xã, làm giảm chất lượng công việc”.Một cán bộ xã Hòa Tâm cho biết để tồn tại, cán bộ xã là người ngoài dòng họ với Bí thư đảng ủy phải răm rắp nghe theo ý kiến của bí thư, không được có ý kiến khác. 
 
 
Nếu không, sẽ bị loại khỏi bộ máy chính quyền của xã.vq3-4 2 Cụ thể là trường hợp của ông Lê Văn Thiệu, nguyên cán bộ phụ trách công tác Lao động - Thương binh - Xã hội xã Hòa Tâm. Ông Thiệu là người thường tỏ thái độ phản đối các ý kiến của ông Tín. Trong cuộc bầu cử HĐND xã vừa qua, trước khi họp lần 2, ông Thiệu được ông Tín gọi vào phòng “làm việc tư tưởng”, sau đó bị rút khỏi danh sách ứng cử viên. Thắc mắc về cách hành xử trên, ông Thiệu viết thư xin tư vấn gửi đến Sở Tư pháp tỉnh Phú Yên thì bị ông Tín cho là gửi đơn vượt cấp, buộc ông Thiệu viết kiểm điểm và bị kỷ luật buộc thôi việc. 
 
 
Vị trí ông Thiệu đảm nhận trước đây, hiện nay được giao cho cháu ông Đặng Tín là ông Đặng Văn Hằng.Bởi vậy người dân mới có câu: “nhất hậu duệ, nhì quan hệ, ba tiền tệ và thứ tư thì... mặc kệ”!Thật ra, tình trạng này đang xảy ra ở hầu hết mọi nơi, nhiều cơ quan, nhất là những cơ quan “có ăn”, có lương bổng khá, có quyền “xin cho”. Nếu không phải là người nhà của các quan ông quan bà thì đừng hòng xin vào làm dù bạn có học hành đàng hoàng, có tài năng. May ra nếu được làm thì cũng chỉ ngang hàng với dân bưng bê, để cho mấy anh dốt sai đủ thứ việc. Đúng như câu “con vua thì lại làm vua, con anh sãi chùa lại quét lá đa”.
Thái Thượng Hoàng và doanh nghiệp sân sau của các quanÔng Lê Hồng Liêm, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương (UBKTTƯ) nhận định: “Đang có những quan chức quyền hành như “thái thượng hoàng”, nói gì cấp dưới phải nghe răm rắp, tự ý bố trí nhân sự, đất nông nghiệp sờ sờ ra đó nhưng vẫn chuyển sang đất chuyên dùng để thu lợi cho DN hàng trăm tỉ đồng, còn DN thì lại quả vài căn nhà tiền tỉ cho quan chức. Có thực tế là nếu doanh nghiệp (DN) không có mối quan hệ lợi ích với một số cán bộ, đảng viên có chức, có quyền thì khó có thể nhận được các dự án. Từ đó hình thành các nhóm lợi ích không chỉ về kinh tế mà cả về chính trị.
 
 
 
 Thậm chí có DN còn bỏ tiền mua phiếu cho quan chức leo cao hơn. Hiện có tình trạng một số cán bộ có chức quyền đã lợi dụng kẽ hở của luật pháp, đặc biệt là câu kết làm “sân sau” cho một số DN để trục lợi. mối quan hệ không bình thường giữa quan chức và DN đang diễn ra dưới nhiều hình thức, thủ đoạn”. Đại diện Ngân hàng Thế giới sáng 29-3 ở TP Sài Gòn, cho biết: 44% trong tổng số 1.058 DN được khảo sát cho hay phải trả chi phí không chính thức, tức là tiền hối lộ “bôi trơn”. Kết quả khảo sát cũng cho thấy quản lý đất đai, hải quan, xây dựng và CSGT là những lĩnh vực tham nhũng nhiều nhất.Người ta còn chưa quên cái chỉ số nhận thức tham nhũng năm 2012 (CPI) đáng hổ thẹn, xót xa được Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI) công bố. Ở đó, Việt Nam đứng thứ 123/ 176 quốc gia, vùng lãnh thổ, tụt hẳn 11 bậc so với năm ngoái.Bây giờ hãy nhìn lại các quan bà có tầm vóc như thế nào trong thời buổi hiện nay.

Quan bà đi kè kè bên doanh nghiệpÔng Trần Văn Tư, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Đồng Nai, cũng cảnh báo: “Đang có hiện tượng “quan bà” – phu nhân của quan chức – cùng làm ăn với DN để DN lấy làm bình phong. Tôi thấy một số bà suốt ngày cứ kè kè bên DN. Các DN khác họ nhìn vào cũng nghi ngại, e dè vì thấy một số DN toàn đi với chị Hai, chị Ba...”.Ngoài ra còn nhiều quan chức lật tẩy mánh khóe của vợ con quan chức khi “giả vờ làm kinh tế”.Ông Nguyễn Văn Thạnh, Chủ nhiệm UBKT Thành ủy Cần Thơ, cho rằng cần phải hết sức lưu ý đến những quan chức có vợ con tham gia kinh doanh, lập DN “sân sau”. Ông Thạnh cho biết: “Nói là vợ con làm nhưng thực ra ông này điều hành là chính. 
 
 
Dạng quan chức có vợ con kinh doanh kiểu này nhiều lắm. Khi DN đứng tên vợ con, người thân thì họ dễ đưa dự án, công trình về nhà”. Các DN cũng thường săn đón các quan bà, các công tử tiểu thư con quan để gửi gắm, nhờ vả việc nọ việc kia. Mỗi khi có anh chị nào này ốm đau, sổ mũi lại đưa xe cộ đến đưa rước… Có cả trăm ngàn mánh lới giữa các DN và các “chị Hai, chị Ba”. Đôi khi còn là những chuyện tình ái vớ vẩn, “đôi bên cùng có lợi”. Chị Hai dzui dzẻ tình xuân, chú Ba vớ được cái dự án trăm tỉ. Tuy nhiên có những vụ “bể dĩa” lãng xẹt. Nhưng nhờ có vụ “bể dĩa” này, mọi người càng nhìn thấy rõ hơn những mối liên hệ lòng vòng giữa quan ông quan bà và bạn bè, tình nhân như thế nào. Quan bà lộng hành là chuyện thường thấy, còn bạn bè hay tình nhân của quan cũng lộng hành đến nơi đến chốn cũng khá nhiều, nhưng lại rất khó tìm ra chứng cứ để bắt quả tang.
“Bồ” hay “bạn” quan đầu tỉnh lộng hành vq3-4 3 Gần đây nhất và cũng bị dư luận đàm tiếu nhiều nhất là việc bà Trần Hồng Ly, nữ phó Phòng Quản lý DN - lao động Ban Quản lý Khu Kinh tế tỉnh Trà Vinh “quậy tưng” cả Văn phòng UBND tỉnh, chửi bới, thóa mạ thô tục những cảnh sát bảo vệ, được báo chí mô tả là “lộng hành khắp tỉnh, dọc ngang nào biết trên đầu có ai”. Dư luận tỉnh Trà Vinh còn thắc mắc vì sao một phụ nữ đơn thân, không nhà cửa, nghèo mạt rệp, chỉ có bằng trung cấp như bà Trần Hồng Ly lại nhanh chóng trở thành tỉ phú? 
 
 
Nhiều người cho biết ngoài căn nhà trị giá 4-5 tỉ đồng trên, bà Ly còn khoe mình có 16 tỉ đồng. vq3-4 4 Theo điều tra của Ủy ban Kiểm tra khối doanh nghiệp đã xác định bà Trần Hồng Ly có 1 ngôi nhà 3 tầng ở số 16 Nguyễn Thị Minh Khai, TP Trà Vinh; 1 nhà ở cùng nhiều phòng trọ cho thuê tại đường Bạch Đằng; 1 lô đất ở khu Nguyệt Hóa; 1 lô đất và nhà mới xây trên đường Lê Văn Tám, ấp Sâm Bua (xã Lương Hòa, huyện Châu Thành).Ngoài ra bà cón đủ thứ bằng khen, đủ thứ danh hiệu. Theo đơn tố cáo, nữ tỉ phú lắm mánh lới, nhiều chiêu trò này đã tự đề nghị các hình thức khen thưởng cho bản thân và đơn vị mình rồi lập biên bản ghi “tất cả thống nhất 100% theo ý kiến của bà Trần Hồng Ly”.
 
 
 Nhờ cách này, bà Ly nhận được bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, bằng khen của Bộ Kế hoạch - Đầu tư và tự xếp cho mình danh hiệu “Chiến sĩ thi đua”. Toàn là “lèo” cả!Đặc biệt, bà này khẳng định: “Mối quan hệ giữa tôi và anh Ba Khiêu (tức ông Trần Khiêu, chủ tịch tỉnh Trà Vinh) là tình nghĩa anh em quê hương xứ sở”. Ai cũng hiểu, chính vì “mối quan hệ tình nghĩa” đó mà từ chị thư ký nghèo mạt rệp, bỏ chồng sống tự do, mới leo lên hàng tỉ phú và dám lộng hành như thế. Dân thường làm như thế thì đi tù là cái chắc. Sau khi sự việc xảy ra, bà Ly đã biện minh, bảo vệ ông Trần Khiêu: “Có những phần tử xấu, ganh ghét, bịa chuyện nào là có thai 3 tháng, sống với nhau 15 năm, có 2 đứa con và hôm đó chở theo 1 đứa con…”.  
 
 
Tuy nhiên khi bị mời lên CA bà ly trưng ra bằng cớ bà đang mang thai lưu nên có muốn giam bà cũng không được. Lúc này mới bị kỷ luật và cho nghỉ việc. Bà có nghỉ việc thì cũng đã có một “núi của” ba đời ăn không hết.Chủ tịch tỉnh xin về hưu trước tuổivq3-4 5 Trước sự việc nữ phó phòng “quậy” lúc nửa đêm tại UBND tỉnh Trà Vinh, ông Trần Khiêu - 
 
 
Chủ tịch tỉnh này đã xin nghỉ hưu trước tuổi.Liên quan đến những nghi vấn về mối quan hệ với bà Ly, Chủ tịch tỉnh Trà Vinh phát biểu trên báo: “Về dư luận trong quan hệ tình cảm giữa tôi với Ly, thực sự là anh em rất thân nhau. Anh em với nhau như trong gia đình, rất là thân. Cũng có khi chính cái ngộ nhận như thế này… Mà không phải! Cái này, công việc của tôi có cả tập thể lãnh đạo của tỉnh quản lý, giám sát chứ. Phải chi tôi là một anh lính thì cũng có khi ít ai nhòm ngó tới. 
 
 
Nhưng công việc của mình liên quan tới xã hội cho nên đâu có phải cứ muốn làm gì là làm được đâu?"Ông chủ tịch muốn nói gì thì nói, người dân đã hiểu ngầm và lại hiểu rất rõ, mối quan hệ giữa ông và bà Ly là thế nào. Mối quan hệ chằng chịt đó chính là đổi tình lấy tiền, đổi quyền hành lấy tình và đổi bất cứ thứ gì của nhà nước lấy cái gì ông muốn, bà thích.Một chuyên gia kinh tế cao cấp thẳng thắn nói tọac ra, quyền lực đang bị ‘thương mại hóa” mạnh mẽ đến mức, các DN hiện nay phải dành rất nhiều tiền bạc và thời gian để chăm sóc các mối quan hệ với quan chức.
 Cánh tay nối dài của xã hội đenMột sự thật khác nữa là ở nhiều phường xã, ngay tại các thành phố lớn, nhỏ, lâu nay có nhiều người dân sống dưới sự thống trị ngầm của bọn xã hội đen mả bọn này lại hối lộ cho hầu hết các quan chức địa phương nên người dân đành im bặt như sống dưới ách phát xít, mặc cho bọn này lộng hành.  Người nông dân một nắng hai sương hay những doanh nghiệp làm ăn ở Khoái Châu (Hưng Yên), cuộc sống mưu sinh của họ được quyết định không phải bởi sự lao động của họ, mà bởi những kẻ giang hồ, bởi xã hội đen, rất ngang nhiên, công khai và trắng trợn.Cách làm ăn của băng nhóm xã hội đen này cũng không mới: Đó là thâu tóm địa bàn hoạt động, đòi các doanh nghiệp nộp tiền “bảo kê” hàng trăm triệu đồng cho chúng. Bên cạnh đó là các hoạt động phi pháp như tổ chức cá độ, đánh bạc, cưỡng đoạt tài sản và đòi nợ thuê... Bảo kê cho doanh nghiệp buôn lậu; hay bảo kê đối với các hoạt động mại dâm, buôn bán ma túy, gỗ lậu; hay bảo kê cho các nhóm người sử dụng đất công để trông giữ xe, mở tiệm ăn nhậu, làm đủ thứ dịch vụ.
 
 
 Đụng tới nó là “no đòn”, nguy hiểm tới tính mạng, nhà tan cửa nát ngay. Có khi chính chúng lại cho người dân lại hiểu ngầm rằng “đường dây” đó là của anh Ba chị Tư đầy quyền lực từ tuốt tận “bên trên”.Điều đáng nói, là sự cầu cứu hay đơn tố cáo của các doanh nghiệp ở địa phương này gửi lên các cơ quan chức năng có thẩm quyền của huyện đã chỉ gặp sự im lặng? Chả lẽ, chính quyền huyện Khoái Châu, các ngành chức năng của huyện này, trở thành “cánh tay nối dài” cho băng đảng xã hội đen ngang nhiên quản lý? Sự yên ổn làm ăn của các doanh nghiệp, của người dân hóa ra không phụ thuộc vào luật pháp mà phụ thuộc rất lớn vào... luật rừng.vq3-4 6  
 
 
Một tệ nạn khác, nhiều khi cảnh sát “ra quân” khám xét, kiểm tra vũ trường, quán bar hoặc triệt hạ bọn xã hội đen cũng đều bị lộ nên chẳng bắt được ai. Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát phòng chống tội phạm (Bộ Công an), thẳng thắn nói: “Đối với bọn xã hội đen, tội phạm hoạt động có tổ chức, công an triệt phá chúng không khó. Nhưng cái khó nhất là trong vụ nào cũng đều dính dáng đến cán bộ cơ sở vì đã bị “mua” nên chưa đánh đã bị lộ”!

Cồng bà vẫn nguy hiểm hơnTrên đây là những bằng chứng xác thực nhất để chúng ta có thể nhìn rõ hơn những “lệnh ông, cồng bà” thời nay biến chuyển như thế nào. Mỗi ngày nó được “khoa học hóa” nên càng tinh vi, nguy hiểm, tàn nhẫn và công khai. Có điểm hơi giống ngày xưa là “cồng bà” vẫn nguy hiểm hơn thật. Bởi nó kín đáo, được “ngụy trang” dưới nhiều lớp vỏ bọc nào là chỗ quen biết, chỗ thân tình, chỗ làm ăn buôn bán chung, chỗ con cái là bạn bè… và vô số cái chỗ có thể núp bóng được. Khi cần thì giả vờ ly dị cho “nàng” mang theo vài va li đô la, vài cục hột soàn ra nước ngoài hoặc cho con gái lấy… chủ ngân hàng Thụy Sĩ là êm re. Có bề gì, em đi trước, anh theo sau, cả gia đình ta biến hết là thượng sách. Hình như mấy anh đại gia ba Tàu ở Trung Quốc bây giờ cũng đang thực hiện chính sách này đấy, phải không bạn?
 Văn Quang – 3-5-2013

No comments: