VIỆT CỘNG THAM NHŨNG
HƠN 700 CÁN BỘ ĐẢNG VIÊN CỘNG SẢN CÓ TÀI SẢN TRÊN 500 TRIỆU ĐÔ-LA
Tin Montreal - Một tài liệu trong báo Montreal, Canada cho biết một thành viên cao cấp của Hội đồng mậu dịch Việt Mỹ tiết lộ đảng Cộng sản Việt Nam được xem là một tỉ phú hàng đầu của thế giới với tài sản ước lượng lên đến 20 tỉ đôla. Tài liệu này cho rằng hiện nay có khoảng từ 700 đảng viên có tài sản trên 500 triệu đô-la, tất cả các tỉ phú này đều là cán bộ cao cấp của đảng. Ông John Shapiro, một cựu chiến binh Hoa kỳ phát biểu rằng các ông lớn trong đảng gồm các thành viên bộ chính trị, các Bộ trưởng và Thứ trưởng, ít nhất mỗi người có vợ hay con làm chủ một công ty.
Do việc nhà nước cho phép các công ty được chuyển ngân ra nước ngoài lên
đến 500 ngàn mỹ kim, số ngoại tệ trong nước bắt đầu vơi đi. Ngoài những
người có trên 500 triệu, những đảng viên có tài sản từ 100 đến 200
triệu đô-la khoảng 2000 người. Tất cả những con số về tài sản của đảng
Cộng sản Việt Nam là do những chuyên viên thống kê của cơ quan mậu dịch
quốc tế, cho thấy tài sản của những đảng viên này được tẩu tán sang
Vancouver Canada, New York, Houston, Bắc và Nam California.
Dân chúng trong nước thì đã thấy rõ sự giàu có hiển nhiên của giới lãnh đạo Cộng sản tại Việt Nam. Họ xây nhà lầu, xài tiền như nước, xuất ngoại như đi chợ, chi tiêu một lúc hàng bó đô-la tiền mặt, trong khi các lãnh tụ thì thú nhận không diệt nổi tham nhũng. Danh sách của những tay tư bản đỏ này được liệt kê có cả Chủ tịch nhà nước Trương Tấn Sang với tài ản khoảng 1.2 tỷ mỹ kim, Thủ tướng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng 1.5 tỉ mỹ kim, Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng gần 1 tỉ mỹ kim, đa số những số tiền khổng lồ mà các quan chức cao cấp Việt Nam hiện đang sở hữu là gửi tại ngân hàng Thụy sĩ.
GIÁM MỤC NGUYỄN THÁI HỢP * PHÁT TRIỂN XÃ HỘI DÂN SỰ
Thứ năm 18 Tháng Bẩy 2013
Đức GM Nguyễn Thái Hợp : "Phải phát triển xã hội dân sự ở Việt Nam"
Đức
Giám mục Phaolô Nguyễn Thái Hợp ký tặng cho RFI Việt ngữ cuốn sách "
Công lý và Hòa bình trên Biển Đông", do CLB Phaolô Nguyễn Văn Bình vừa
phát hành năm nay.
Thanh Phương/RFI
ÂU DƯƠNG THỆ * BỌN PHẢN ĐỘNG CỘNG SẢN
Một quyết định cực kì phản động của những người cầm đầu chế độ toàn trị!
Âu Dương Thệ (Danlambao) - Tuy
Nguyễn Phú Trọng và Trương Tấn Sang đang kình chống Nguyễn Tấn Dũng để
bảo vệ quyền lợi riêng, nhưng cả ba có một mục tiêu chung là, bằng mọi
giá phải kéo dài chế độ toàn trị để phục vụ quyền lợi ích kỉ của họ. Cho
nên cả ba đều đồng ý phải tăng cường bộ máy đàn áp qua việc bắt hàng
loạt nhiều người dân chủ, văn nghệ sĩ và các Blogger trong thời gian gần
đây. Vì những người này đã dám tố cáo những sai lầm và tội ác của họ,
đặc biệt trong việc lừa dối sửa đổi Hiến pháp, sửa luật đất đai, chống
tham nhũng và cúi đầu trước Bắc kinh. Chính vì thế họ thấy phải mở rộng
bộ máy công an mật vụ và giành nhiều đặc ân cho các sĩ quan công an
trung thành. Cho nên việc thăng hàm cấp tướng đợt I ngành Công an trong
năm 2013 là nhằm mục tiêu này, trong đó sẵn sàng phong Tướng cho Đỗ Hữu
Ca, mặc dầu đã bị dư luận trong Đảng và ngoài xã hội kết án nghiêm khắc
trong vụ Tiên lãng!...
*
Ngày 13.7 Ủy viên Bộ chính trị kiêm Bộ trưởng Công an Đại tướng Trần Đại
Quang đã cho tổ chức long trọng lễ công bố thăng cấp tướng cho nhiều sĩ
quan công an cao cấp. Quyết định thăng cấp tướng này do Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng kí. Trong số những sĩ quan được thăng cấp có Đại tá Đỗ
Hữu Ca, Giám đốc Công an Hải phòng (1). Nhưng chính ông Ca hơn một năm
trước đã chỉ huy công an và bộ đội phá nhà và tịch thu trái phép ruộng
đất của anh em ông Đoàn Văn Vươn ở Tiên lãnh/Hải phòng. Việc này đã gây
phẫn uất cao và nổ ra cuộc chống đối rất mãnh liệt của nhiều giới, kể cả
nhiều cán bộ cao cấp về hưu cũng không thể im lặng được. Khiến khi đó
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã phải nhìn nhận "Ủy
ban nhân dân huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng đã có những sai phạm
trong giao đất, thu hồi đất, cưỡng chế thu hồi đất đã giao cho ông Đoàn
Văn Vươn" (2). Rồi cả Trung tướng Phạm Quý Ngọ, Thứ trưởng Bộ Công an cũng đã hứa "Bộ
Công an đặc biệt quan tâm vụ việc ở Tiên Lãng, và nhân dân hãy yên tâm,
không có chuyện vụ Tiên Lãng chìm xuồng, không bao giờ. Một khi dấu
hiệu ở Hải Phòng không khách quan, Bộ Công an vào cuộc ngay, và chỉ có
cách đó mới lấy lại niềm tin của nhân dân". (3)
Nhưng tại sao đầu tháng 4.2013 trong khi anh em gia đình Đoàn Văn Vươn
bị kết án tù nhiều năm, thì hầu hết cán bộ liên quan tới vụ tịch thu đất
ở Tiên lãng lại được tha bổng và bây giờ người chỉ huy cuộc đàn áp lại
được thăng hàm cấp Tướng? (4) Vì đâu mà chỉ trong một thời gian ngắn
những người cầm đầu chế độ đã thay thổi thái độ và quyết định 180 độ,
đẩy nạn nhân thành thủ phạm và thủ phạm thì lại thăng quan tiến chức?
Quyết định thăng chức cho ông Ca báo hiệu gì cho việc xử phúc thẩm vụ
Đoàn Văn Vươn vào cuối tháng 7 này?
Trần Đại Quang trao quyết định thăng hàm Thiếu tướng cho Đỗ Hữu Ca (5)
Trong diễn văn chúc mừng các cán bộ công an được cấp hàm cấp Tướng,
trong đó có Đỗ Hữu Ca, Trần Đại Quang đã không tiếc lời ca ngợi "phẩm chất đạo đức", "phục vụ nhân dân" và "giữ gìn đạo của người làm Tướng" đồng thời ra lệnh phải "tuyệt đối trung thành với Đảng":
"Đại tướng Trần Đại Quang đề nghị các
đồng chí được thăng cấp bậc hàm cấp Tướng tiếp tục phát huy truyền thống
vẻ vang của lực lượng CAND anh hùng; rèn luyện, giữ vững phẩm chất đạo
đức cách mạng, tuyệt đối trung thành với Đảng, hết lòng phụng sự Tổ
quốc, phục vụ nhân dân, giữ gìn "đạo" của người làm Tướng như Bác Hồ
kính yêu đã dạy: "Trí - Dũng - Nhân - Tín - Liêm – Trung"." (6)
Nhưng ai cũng biết, chính Đỗ Hữu Ca mới chỉ hơn một năm trước đã chỉ huy
hàng trăm công an và bộ đội từ Hải phòng kéo về huyện Tiên lãng ngày
5.1.2012, đúng vào dịp Tết Nhâm Thìn, phá nhà, phá đầm nuôi cá của anh
em ông Đoàn Văn Vươn – một kĩ sư, nhà nông và cựu bộ đội-, mặc dù họ đã
bao nhiêu năm đổ mồ hôi nước mắt xây dựng lên, đẩy anh em ông Vươn đã
phải dùng võ lực chống lại. Mặc dù đã có những hành động chà đạp pháp
luật như vậy của Công an Hải phòng, nhưng Đỗ Hữu Ca đã ca tụng cuộc bố
ráp đàn áp của công an và bộ đội là "hiệp đồng tác chiến cực kì hay" và "có thể viết thành sách":
"Phải nói rằng việc hiệp đồng tác chiến cực kỳ hay.
Tôi bảo, không có cuộc diễn tập nào thành công bằng cuộc diễn tập lần
này. Một là, anh em cơ động dùng thuyền để tiếp cận là chưa có bao giờ
trong giáo án, đã phải dùng thuyền nan để chèo vào, bí mật áp sát mục
tiêu đấy. Đánh mũi trực diện nghi binh ra làm sao. Rồi là tác chiến vòng
ngoài, vòng trong thế nào. Tôi nghĩ là rất hay, có thể viết thành sách.
Tôi nói với các đồng chí Thường trực rằng đây không phải kế hoạch tập
trận nhưng đúng là phải rút kinh nghiệm, cái này nó rất là hay, có sự
kết hợp giữa địa phương, giữa công an, quân đội, biên phòng rất là đẹp,
đâm ra không có gì phải phàn nàn về cái chuyện ấy cả." (7).
Ông Ca (trái) chỉ huy cuộc đàn áp cưỡng chế anh em Đoàn Văn Vươn
để chỉ huy vụ cưỡng chế năm 2012 tại Tiên Lãng. (8)
Chính thái độ và lời nói cực kì ngạo mạn của Đỗ Hữu Ca đã tạo ra bất mãn
ở rất nhiều giới khi đó. Cựu đại sứ Nguyễn Trung đã nhận định:
"Cuộc cưỡng chế dân bằng lực lượng vũ
trang ở Cống Rộc – Tiên Lãng được một trong những nhân vật điều hành chủ
chốt coi là hiệp đồng cực kỳ hay, một trận đánh đẹp, có thể viết thành
sách… Một mình câu nói này tự nó đã cho thấy: Chủ trương trấn áp này đến
từ đâu, cấp nào, quy mô hình thành ra sao, mức độ nghiêm trọng của sự
việc trấn áp... Câu nói này toát lên hơi hướng hay linh hồn của toàn bộ
công vụ cưỡng chế theo luật ở Cống Rộc - Tiên Lãng. Riêng một câu nói
này, cùng với sự chấp nhận, hưởng ứng, tán thành hay biện minh, bao
che... của các cộng sự, còn cho thấy mức độ sa đọa nghiêm trọng về phẩm
chất chính trị, tư tưởng, đạo đức và văn hóa của những cán bộ, đảng viên
có chức có quyền đã chỉ đạo hay đã nhân danh pháp luật trực tiếp thực
thi công vụ này. Sự phấn khích bột phát ra từ câu nói này thật ghê sợ và
đáng ngẫm nghĩ.
Không thể không đặt ra câu hỏi: Phẩm
chất đảng viên ĐCSVN như thế nào, đạo đức cán bộ là công bộc của dân ra
sao nằm trong phát ngôn như vậy?" (9)
Thái độ kiêu ngạo và coi thường dư luận của Giám đốc Công an Hải phòng
Đỗ Hữu Ca đã gây uất ức rất mạnh không chỉ trong nhân dân Tiên lãng mà
đã làm chấn động rất lớn trong nhiều giới như nông dân, trí thức, thanh
niên và đặc biệt cả nhiều đảng viên cao cấp đã về hưu, như Trung tướng
Nguyễn Quốc Thước, cựu Phó Thủ tướng Vũ Khoan, nguyên Phó Trưởng ban Tổ
chức Trung ương Nguyễn Đình Hương… Đặc biệt, nhiều nhân sĩ tranh đấu cho
dân chủ và nhân quyền như cũng đã công khai lên tiếng kết án, như nữ
giới có các bà Lê Hiền Đức, Võ Thị Hảo... và các ông Nguyễn Quang A,
Tiêu Dao Bảo Cự, Nguyễn Xuân Diện, Lê Hiếu Đằng, Huy Đức, Lê Hồng Hà,
Chu Hảo, Nguyễn Quang Lập, Nguyên Ngọc, Hà Sĩ Phu, Bùi Minh Quốc, Nguyễn
Minh Thuyết, Nguyễn Tường Thụy, Tô Văn Trường… Chỉ trong ít ngày "Kiến nghị khẩn cấp của Công dân VN về vụ Tiên lãng" (10)
đã có hàng ngàn người kí tên ủng hộ; trong đó có nhiều chuyên viên, trí
thức, sinh viên, nông dân, bộ đội và cả nhiều đảng viên! Đáng để ý nữa
là, trong thời gian này nhiều báo "lề Đảng" cũng tích cực đưa các bài
phản ảnh dư luận bất bình về vụ công an đàn áp nông dân ở Tiên lãng!
Trước sự phẫn uất và lên tiếng công khai của nhiều giới, kể cả các đảng
viên còn biết giữ lòng tự trọng, nên hai tuần sau (17.1) Nguyễn Tấn Dũng
đã phải ra tuyên bố là "chính Thủ tướng sẽ đích thân giải quyết vụ cực nóng này" (11) và ba tuần sau ngày 10.2.2012 ra "Kết luận của Thủ tướng về vụ việc cưỡng chế thu hồi đất tại Tiên Lãng". (12)
Trong đó ngay trong phần I của "Kết luận" này ông Dũng công khai xác nhận "Ủy
ban nhân dân huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng đã có những sai phạm
trong giao đất, thu hồi đất, cưỡng chế thu hồi đất đã giao cho ông Đoàn
Văn Vươn"
Kết luận của Thủ tướng còn nhìn nhận:
"2. Việc cưỡng chế thu hồi đất
Do quyết định thu hồi đất không đúng
với quy định của pháp luật đất đai nên Quyết định cưỡng chế thu hồi đất
cũng không đúng pháp luật. Mặt khác, việc tổ chức cưỡng chế thu hồi đất
của UBND huyện Tiên Lãng cũng có nhiều thiếu sót, sai phạm.
3. Việc phá dỡ nhà của ông Đoàn Văn Vươn
Việc Lãnh đạo chính quyền địa phương
chỉ đạo phá nhà của ông Đoàn Văn Vươn là có dấu hiệu vi phạm pháp luật
hình sự cần phải được khởi tố, điều tra làm rõ và xử lý nghiêm minh."
Trong phần II nói về các biện pháp, "Kết luận của Thủ tướng" đã nói rõ trách nhiệm của Thành ủy Hải phòng:
"5. Lãnh đạo thành phố Hải Phòng kiểm điểm làm rõ trách nhiệm về việc:
- Chấp thuận đề nghị cưỡng chế thu hồi đất không đúng pháp luật của Ủy ban nhân dân huyện Tiên Lãng.
- Khi vụ việc xảy ra chậm chỉ đạo làm
rõ đúng sai và trách nhiệm của tập thể, cá nhân; báo cáo chưa đầy đủ -
nghiêm túc với Thủ tướng Chính phủ; việc thực hiện cung cấp thông tin
chưa kịp thời, thiếu chặt chẽ gây bức xúc trong dư luận.
6. Lãnh đạo thành phố Hải Phòng kiểm
điểm rút kinh nghiệm sâu sắc qua vụ việc này và chỉ đạo rà soát, chấn
chỉnh công tác quản lý nhà nước về đất đai, kiện toàn bộ máy và nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ công chức làm công tác quản lý nhà nước về
đất đai, không để xảy ra vụ việc tương tự. Sớm ổn định tình hình mọi mặt
của huyện Tiên Lãng. Thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về
xây dựng Đảng, phát huy thành tựu to lớn và truyền thống tốt đẹp của
thành phố Hải Phòng, tập trung lãnh đạo chỉ đạo thực hiện thắng lợi Kế
hoạch phát triển KTXH 5 năm 2011-2015 mà Đại hội Đảng bộ Thành phố đã đề
ra.
Những công việc trên phải được thực
hiện khẩn trương, nghiêm túc với tinh thần trách nhiệm cao và báo cáo
Thủ tướng Chính phủ kết quả thực hiện." (13)
Để xoa dịu sự bất mãn của nhiều giới khi ấy nên Nguyễn Tấn Dũng đã sử
dụng ngôn ngữ đao to búa lớn và đưa ra những đòi hỏi rõ ràng đối với
Thành ủy Hải phòng và huyện Tiên lãng. Nhưng thực sự các giới hữu trách
từ huyện Tiên lãng tới thành phố Hải phòng đã thực hiện ra sao và đặc
biệt Nguyễn Tấn Dũng đã có thái độ thực sự như thế nào đối với thủ phạm
và nạn nhân về vụ Tiên lãng-Hải phòng?
Mới đầu tháng 4 vừa qua Tòa án Nhân dân Hải phòng đã tuyên xử Đoàn Văn
Vươn và ba thân nhân từ 2 năm tới 5 năm tù. Nhưng trong khi đó bốn trong
năm cán bộ địa phương liên hệ tới vụ hủy hoại tài sản của gia đình ông
Vươn lại được hưởng án treo, chỉ một cán bộ huyện Tiên lãng có thể bị án
30 tháng tù (14). Nhưng các đại quan trong thành ủy Hải phòng như Ủy
viên Trung ương Đảng kiêm Bí thư thành ủy Nguyễn Văn Thành vẫn không ai
dám động tới, mặc dầu chính ông đã lên tiếng bảo vệ cho việc để công an
đàn áp gia đình anh em Đoàn Văn Vươn. Như thế rõ ràng theo lệnh trên
Tòa án Nhân dân đã coi nạn nhân là thủ phạm, còn thủ phạm cấp dưới thì
được tha bổng và thủ phạm cấp trên thì nay lại được thăng Tướng!
Việc thăng hàm từ Đại tá lên Thiếu tướng cho Giám đốc Công an Hải
phòng Đỗ Hữu Ca ngày 13.7 có phải chỉ là Quyết định riêng của Nguyễn Tấn
Dũng? Nếu căn cứ vào chế độ quản lí cán bộ của chế độ toàn trị thì một
mình Thủ tướng không thể quyết định thăng hàm cấp tướng cho Đỗ Hữu Ca
được. Vì đây là những cán bộ cấp trung cao thuộc diện quản lí của Ban bí
thư Trung ương, mà người đứng đầu Ban này là Tổng bí thư Nguyễn Phú
Trọng. Nghĩa là việc thăng chức, giáng chức và thi hành kỉ luật các cán
bộ nằm trong diện này thuộc thẩm quyền của Ban bí thư. Do đó quyết định
đầu tiên thăng hàm cấp Tướng cho Đỗ Hữu Ca là từ Ban bí thư Trung ương,
sau đó để Nguyễn Tấn Dũng kí thi hành trong tư cách Thủ tướng!
Chỉ hai ngày trước khi ông Ca được thăng hàm Tướng, chính Nguyễn Phú
Trọng đã làm việc với các cán bộ chủ chốt Hải phòng (11.7), trong đó có
Giám đốc Công an Đỗ Hữu Ca (15). Đáng lưu ý nữa là, trong thời gian
qua ông Trọng đã cho phát động phong trào tự phê bình và phê bình rộng
lớn nhất trong Đảng từ trước tới nay và hứa là trừng trị bọn tham quan
suy thoái đạo đức, bất kể ở chức vụ nào! Điều cần chú ý nữa là, một
trong những trọng trách của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang là cải cách
tư pháp để chống lại những việc làm trái pháp luật của tòa án, công an
và cán bộ đảng viên. Vào đầu tháng 7 chính Trương Tấn Sang kiêm
Trưởng ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương đã làm việc với Đảng ủy
Công an Trung ương (16). Nhưng chỉ ít ngày sau thì công bố thăng hàm đợt
đầu trong năm 2013 cho các sĩ quan cao cấp Công an trong đó có Đỗ Hữu
Ca.
Đặc biệt nữa là, trong các bài tường thuật của các báo điện tử chính như
Cộng sản, Chính phủ, Công an Nhân dân, Quân đội Nhân dân… về lễ công bố
thăng hàm cấp Tướng ngày 13.7 chỉ nêu tên chính thức hai người được
thăng cấp là Giám đốc Công an Hà nội Nguyễn Đức Chung và Giám đốc Công
an Kiên giang Bùi Tuyết Minh. Chỉ có các tờ điện tử Pháp luật VN, Tuổi
trẻ và báo Hải phòng nêu tên Đỗ Hữu Ca và đăng hình Trần Đại Quang gắn
hàm cấp tướng cho ông Ca! (17) Điều này chứng tỏ nhóm cầm đầu cố tìm cách tránh né và giảm bớt sự theo dõi của dư luận biết về cách làm ám muội của họ.
***
Trong việc thăng hàm cho Đỗ Hữu Ca đã cho thấy thái độ tráo trở, quay
180 độ của những người có quyền lực cao nhất trong chế độ độc tài toàn
trị từ Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang tới Nguyễn Tấn Dũng! Xét về
nhiệm vụ của người đứng đầu Đảng, Nhà nước và Chính phủ thì rõ ràng ba
người này đã không thi hành đúng vai trò được giao phó. Họ đã đẩy nạn
nhân thành thủ phạm và bao che cho các thủ phạm. Thậm chí lại còn công
khai quyết định thăng hàm cấp Tướng cho Giám đốc công an Đỗ Hữu Ca, một
trong những người chủ chốt trong vụ đàn áp các anh em ông Đoàn Văn Vươn!
Cả ba nhân vật này biết rõ, quyết định như vậy là chà đạp pháp luật.
Như thế rõ ràng đây là một hành động cực kì phản động của những người
đang nắm quyền lực của chế độ độc tài toàn trị. Đây là một thách đố
ngang ngược coi thường nhân dân, coi thường thanh niên, trí thức và cả
các đảng viên biết quí lòng tự trọng! Tuy Nguyễn Phú Trọng và Trương Tấn
Sang đang kình chống Nguyễn Tấn Dũng để bảo vệ quyền lợi riêng, nhưng
cả ba có một mục tiêu chung là, bằng mọi giá phải kéo dài chế độ toàn
trị để phục vụ quyền lợi ích kỉ của họ. Cho nên cả ba đều đồng ý phải
tăng cường bộ máy đàn áp qua việc bắt hàng loạt nhiều người dân chủ, văn
nghệ sĩ và các Blogger trong thời gian gần đây. Vì những người này đã
dám tố cáo những sai lầm và tội ác của họ, đặc biệt trong việc lừa dối
sửa đổi Hiến pháp, sửa luật đất đai, chống tham nhũng và cúi đầu trước
Bắc kinh. Chính vì thế họ thấy phải mở rộng bộ máy công an mật vụ và
giành nhiều đặc ân cho các sĩ quan công an trung thành. Cho nên việc
thăng hàm cấp tướng đợt I ngành Công an trong năm 2013 là nhằm mục tiêu
này, trong đó sẵn sàng phong Tướng cho Đỗ Hữu Ca, mặc dầu đã bị dư luận
trong Đảng và ngoài xã hội kết án nghiêm khắc trong vụ Tiên lãng!
Trời có mắt, đất có tai, họ không được phép coi thường trí nhớ của nhân
dân. Nhiều giới, đi đầu là thanh niên và trí thức, kể cả những đảng viên
còn biết quí tự trọng, rất chia sẻ nhận định và cảnh báo chính xác của
cụ Lê Hiền Đức hơn một năm trước về tâm địa đen tối của nhóm cầm đầu
CSVN mà trong đó vụ Tiên lãng là một tiêu biểu. Khi nhận định về "Kết
luận" của Nguyễn Tấn Dũng ngày 10.2.2012 cụ Đức đã nói thẳng là làm sao
có thể ngây thơ tin vào Nguyễn Tấn Dũng:
“Kì vọng? Tôi đâu có đem “trái tim lầm chỗ để trên đầu”(1) như thế,
vì “kết luận” mới chỉ là lời nói mà tôi thì đã thấy rất rõ khoảng cách
ghê gớm giữa lời nói và việc làm của ông Dũng”. (18)
Và Cụ còn cảnh báo rất chính xác là, toàn bộ chế độ độc tài toàn trị chỉ là cái bóng của chính quyền Tiên lãng/Hải phòng:
"Chính quyền trung ương của Việt Nam vẫn chỉ như là sự phóng to của
chính quyền huyện Tiên Lãng, chính quyền thành phố Hải Phòng mà thôi!" (19)
Chia sẻ với nhận định này nhà tư tưởng Hà Sĩ Phu còn tiên liệu về tương lai của chế độ độc tài toàn trị:
“Nếu tôi là những cấp lãnh đạo, tôi sẽ cảm ơn những liều thuốc đắng. Đoàn Văn Vươn cũng là một liều thuốc đắng như vậy.
Tiếng súng hoa cải Đoàn Văn Vươn là phát pháo hiệu báo nguy của anh
bộ đội trên boong, báo cho người lái con tàu Titanic Việt Nam rằng: Phía
trước là một tảng băng ngầm.” (20)
18.7.2013
__________________________________
(1) Pháp luật VN (PLVN) 13.7
(2) Xem Toàn văn Thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ. Xem bài phân tích vụ Tiên lãng: Âu Dương Thệ, "Từ Kết luận của Bộ chính trị tới Kết luận của Thủ tướng! Vụ Tiên lãng:Nguyễn Tấn Dũng vẫn lại thùng rỗng kêu to!"
http://www.dcvapt.net/thoisu/baithoisu2012/vutienlang.htm
(3) Bauxit VN 23.2.12
(4) BBC 6 và 9.4.2013
(5) PLVN 13.7
(6) Như trên
(7) http://vnmedia.vn/NewsDetail.asp?NewsId=267361&CatId=436
(8) BBC 14.7.13
(9) Nguyễn Trung, Hội nghị Trung ương 4 – sự kiện Đoàn Văn Vươn và vấn đề sửa đổi Hiến pháp, http://www.dcvapt.net/thoisu/baithoisu2012/nt162.htm
(10) http://www.dcvapt.net/thoisu/baithoisu2012/nxd162.htm
(11) Chính phủ 17.1.2012
(12) Toàn văn Thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ
(13) Như trên
(14) BBC 6 và 9.4.
(15) Cộng sản 11.7
(16) Blog Trương Tấn Sang 2.7
(17) Xem PLVN, Tuổi trẻ, Báo Hải phòng 13.7
(18) Lê Hiền Đức, Đừng dễ tin như thế, http://www.dcvapt.net/thoisu/baithoisu2012/lhd162.htm
(19) Như trên
(20) Hà Sĩ Phu, Hãi hùng “sở hữu toàn dân”! http://www.dcvapt.net/thoisu/baithoisu2012/hsp232.htm
Mục Thời sự Tạp chí Dân chủ & Phát triển điện tử: www.dcpt.org hay www.dcvapt.net
PHẠM TRẦN * TƯ SANG
Chuyện tưởng nhỏ mà to ở Việt Nam
Phạm Trần (Danlambao)
- Ở Việt Nam thời Cộng sản năm 2013 nhiều chuyện xảy ra cho đất nước
được người Việt trong và ngoài nước quan tâm lo lắng nhưng chưa hẳn đã
là chuyện “mất ăn, mất ngủ” đối với nhiều viên chức lãnh đạo Đảng, Nhà
nước và Quốc hội. Sau đây là một chuyện đáng nói ấy:
Chuyện này thuộc về Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang, người đã “gật đầu” hay “phải đồng ý” với 10 văn kiện được gọi là “hợp tác chiến lược toàn diện” với Trung Cộng trong chuyến ông thăm Bắc Kinh và Quảng Đông từ 19 đến 21/06/2013.
Nội dung các Thỏa hiệp này được viết gọn trong Tuyên bố chung 8 điểm ai
đọc cũng thấy rất bất lợi và có thể dẫn đến nguy cơ mất toàn vẹn lãnh
thổ và chủ quyền của Việt Nam.
Tiêu biểu nhất là sự hợp tác ở biên giới, kinh tế, quốc phòng, ngoại
giao, giữa 2 đảng, 2 Bộ Công an, ở Vịnh Bắc Bộ và trên toàn cõi Biển
Đông được lồng vào chiêu bài 16 chữ vàng và tinh thần 4 tốt do người
Trung Quốc đặt ra cho đảng Cộng sản Việt Nam làm theo, đó là: “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.
Nhưng hành động giành đất, chiếm biển Việt Nam của Trung Cộng đã bắt đầu
từ thời Đặng Tiểu Bình, người đã xua trên 600,000 quân qua biên giới
tấn công 6 Tỉnh của Việt Nam tháng 2/1979, và sau đó chiếm núi Lão Sơn
(điểm cao 1509), thuộc tỉnh Hà Tuyên (nay là Hà Giang) trong cuộc chiến
tranh biên giới thứ 2 từ 1984 đến năm 1989 đem chiến thắng về cho Trung
Cộng.
Đặng Tiểu Bình cũng là người đưa ra chủ trương “Biển Đông của ta, hãy gác tranh chấp để cùng khai thác”,
nhưng các lãnh đạo Trung Cộng thừa kế sau này đã “giấu đi” mấy chữ
“Biển Đông của ta” để đánh lừa Việt Nam và các nước láng giềng mỗi khi
Bắc Kinh phải nói chuyện tranh chấp chủ quyền với các nước trong khu
vực.
Sau đó đến phiên hai Chủ tịch Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào và bây giờ là Tập Cận Bình cũng đều miệng nói hòa bình “vừa là đồng chí, vừa là anh em” nhưng trong bụng chứa đầy dao găm, hành động ngược lại, nhưng trắng trợn và hung hãn hơn người đi trước.
Thời Tập Cận Bình
Đối với Chủ tịch Tập Cận Bình, sau khi nhận chức Tổng Bí thư đảng Cộng
sản Trung Quốc tháng 11/2012 thì ông đã làm những việc như sau:
- Triệt để thi hành chính sách bảo vệ chủ quyền biển của Trung Cộng ở
Biển Đông, coi Biển Đông là “quyền lợi cốt lõi” không thể thay đổi như
đối với Tây Tạng và Đài Loan.
- Ra lệnh cho Hải quân, Thủy Quân Lục Chiến tập trận ở Biển Đông, quanh
khu vực Hoàng Sa và Trường Sa; tập đổ bộ lên các đảo ở Hoàng Sa của Việt
Nam mà Trung Cộng đã chiếm từ tay Quân lực Việt Nam Cộng Hòa tháng
1/1974.
- Tăng cường lực lượng Hải quân đến bãi cạn Scarborough/Hoàng Nham tranh chấp với Phi Luật Tân.
- Tăng cường cơ cấu chính quyền và di dân đến Hoàng Sa của Việt Nam. Sau
đó vào ngày 17/7 (2013), Trung Cộng đã chính thức cấp giấy Chứng Minh
Cư trú cho dân Thành phố Tam Sa có Tòa Thị Chính đặt tại đảo Phú Lâm
(Hoàng Sa).
- Tiếp tục thi hành lệnh cấm ngư dân đánh bắt ở Biển Đông từ tháng 5 đến
tháng 8, nhưng lại cho các tầu Hải quân Trung Cộng trá hình Hải Giám có
võ trang đi hộ tống các thuyền đánh cá của ngư dân Trung Quốc xuất phát
từ đảo Hải Nam đi đánh bắt tại các ngư trường của ngư dân Việt Nam.
- Chuẩn bị đào dầu ở Biển Đông, kể cả trong vùng đặc quyền kinh tế của
Việt Nam, bất chấp phản đối của Việt Nam, Phi Luật Tân và Mã Lai Á có
tranh chấp chủ quyền với Trung Cộng.
- Cho xây dựng các đồn Quân sự và nghiên cứu trong khu vực 8 đảo đá
ngầm, kể cả bãi Gạc Ma trong cụm Sinh Tồn mà Trung Cộng đã đánh chiếm
của Việt Nam năm 1988.
- Tiếp tục ngăn cản, bắn phá, đánh đập và cấm các thuyền đánh cá của Việt Nam đến đánh bắt ở vùng Hoàng Sa.
- Tiếp tục để tầu Trung Cộng xâm nhập sâu vào quấy phá và đánh bắt ở
vùng biển Việt Nam, kể cả khu vực biển Đà Nẵng và Hải Phòng.
- Cho tầu Hải giám đe dọa, phá rồi và cắt cáp các tầu khảo sát của Tổng
Công ty dầu khí Việt Nam hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt
Nam.
Vậy mà ông Trương Tấn Sang vẫn có thể quên đi những việc của ông Tập Cận
Bình và quên luôn cả chuyện “hình Lưỡi Bò” tự vẽ của Trung Cộng chiếm
từ 80 đến 85% diện tích Biển Đông để cùng với Chủ tịch Trung Cộng
“nhất trí cho rằng tình hữu nghị Việt - Trung là tài sản chung quý báu
của nhân dân hai nước, khẳng định sẽ tuân theo các nhận thức chung quan
trọng mà Lãnh đạo hai nước đã đạt được trong những năm qua về phát triển
quan hệ hữu nghị Việt – Trung”!
Hai nước Việt-Trung, trong chuyến đi của ông Trương Tấn Sang còn cam kết: “Trước
khi tranh chấp trên biển được giải quyết dứt điểm, hai bên nhất trí giữ
bình tĩnh và kiềm chế, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh
chấp, đồng thời sử dụng tốt đường dây nóng quản lý, kiểm soát khủng
hoảng trên biển giữa Bộ Ngoại giao hai nước, xử lý thỏa đáng các vấn đề
nảy sinh với thái độ xây dựng, không để các vấn đề này ảnh hưởng đến đại
cục quan hệ Việt - Trung cũng như hòa bình, ổn định tại Biển Đông. Hai
bên nhất trí thực hiện toàn diện, có hiệu quả “Tuyên bố về cách ứng xử
của các bên ở Biển Đông” (DOC, Declaration of Conduct), cùng nhau duy
trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông.”
Nhưng khi chữ ký của phái đoàn Trương Tấn Sang chưa ráo mực thì vào ngày
7/7 (2013) 2 tàu cá của hai ông Võ Minh Vương và Mai Văn Cường (huyện
đảo Lý Sơn) đã bị lính Trung Cộng tấn công, đánh đập dã man, bẻ cờ Việt
Nam vứt xuống biển và tịch thu lưới cụ, nhiên liệu và cướp hải sản khi
họ đang đánh bắt ở Hoàng Sa.
Hai thuyền trưởng báo cáo bị thiệt hại 400 triệu đồng nhưng mãi cho đến
ngày 17/7, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Lương Thanh Nghị mới cho
biết: “Đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam đã gặp đại diện Đại sứ quán
Trung Quốc tại Hà Nội trao công hàm phản đối hành động trên của phía
Trung Quốc, yêu cầu phía Trung Quốc nghiêm túc điều tra, xử lý nghiêm
khắc việc làm sai trái nói trên, bồi thường thỏa đáng cho ngư dân Việt
Nam và không để tái diễn các vụ việc tương tự.”
Liệu phía Trung Cộng có điều tra và bồi thường cho ngư dân Việt Nam hay
không thì chưa biết, nhưng Tuyên bố chung giữa hai nước trong chuyến
thăm của ông Sang đã xác định: “Hai bên sẽ tiếp tục thực hiện tốt
“Hiệp định hợp tác nghề cá trong Vịnh Bắc Bộ”; tích cực nghiên cứu
phương thức kiểm tra liên hợp mới tại khu vực đánh cá chung ở Vịnh Bắc
Bộ.”
Như vậy là sau khi Việt Nam đồng ý tìm kiếm dầu chung trên ranh giới
phân chia Vịnh Bắc Bộ với Trung Cộng, nhưng thực tế nằm sâu trong phần
biển của Việt Nam từ 3 đến 12 Hải lý (mỗi Hải lý dài 1,852 mét), bây giờ
hai nước lại tính chuyện “đánh cá chung” thì có phải Việt Nam đã nhượng
bộ Trung Cộng, như đã viết trong 6 Điểm được gọi là “Nguyên tắc giải quyết vấn đề trên biển Việt-Trung” được ký giữa Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch Nhà nước Trung Cộng Hồ Cẩm Đào ngày 11/10/2011?
Ngoài ra, ông Sang còn bằng lòng để cho 4 tỉnh và vùng tự trị của Trung
Cộng ở dọc biên giới gồm Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam và Vân Nam được
quyền hợp tác kinh tế, giao dịch thương mại và nhiều lĩnh vực khác với 7
tỉnh của Việt Nam gồm Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng,
Lạng Sơn, Quảng Ninh.
Hai nước, theo Tuyên bố chung, còn: “Nhất trí thực hiện nghiêm túc Kế
hoạch công tác năm 2013 của Ủy ban Liên hợp biên giới trên đất liền hai
nước; đánh giá tích cực việc hai nước thành lập Ủy ban hợp tác quản lý
cửa khẩu biên giới trong chuyến thăm lần này; đồng ý thúc đẩy việc mở và
nâng cấp các cửa khẩu biên giới giữa hai nước; tăng cường xây dựng và
quản lý cơ sở hạ tầng của các cửa khẩu biên giới, cải thiện điều kiện và
nâng cao hiệu quả thông hành cho người, hàng hóa, phương tiện qua cửa
khẩu nhằm phục vụ việc qua lại và phát triển kinh tế - thương mại giữa
hai nước.”
Nhưng nếu 7 tỉnh của Việt Nam mà chỉ đánh đổi thương mại với 4 Tỉnh của
Trung Cộng thì phần thiệt rõ ràng đã nằm trong tay Việt Nam!
Ngoài ra Trung Cộng còn thúc hối Việt Nam: “Sớm khởi động việc xây
dựng cầu Bắc Luân II Việt - Trung. Hai bên nhất trí tổ chức vòng đàm
phán mới “Hiệp định về quy chế tàu thuyền đi lại tự do tại khu vực cửa
sông Bắc Luân” và “Hiệp định về hợp tác và khai thác phát triển du lịch
khu vực thác Bản Giốc” vào nửa cuối năm nay, cố gắng sớm đạt được tiến
triển thực chất. Hai bên sẽ tăng cường trao đổi và hợp tác kỹ thuật
trong các lĩnh vực quản lý sông suối biên giới, phòng chống thiên tai lũ
lụt, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước trên sông suối xuyên biên giới.”
Mọi người đều biết “Hiệp ước về Biên giới đất liền” giữa Việt Nam
và Trung Cộng, ký dưới thời Tổng Bí thư đảng Lê Khả Phiêu, đã để mất Ải
Nam Quan và 2/3 thác Bản Giốc và nhiều ngàn mẫu đất ở biên giới, nhưng
không hiểu nổi tại sao Quốc hội và số người được chế độ gọi là “các nhà
Khoa học” đã không dám mở cuộc điều tra hay chất vấn chính phủ xem đã
mất bao nhiều đất vào tay Trung Cộng?
Giờ đây, cũng không thấy ai trong số 500 Đại biểu Quốc hội và hàng hà sa
số “các nhà khoa học” chỉ biết ngửa tay nhận lương dám hỏi ông Trương
Tấn Sang đã nhân danh ai mà dám ký 10 Thỏa hiệp “hợp tác chiến lược toàn diện” với Trung Cộng?
Cũng chả thấy ai thắc mắc hỏi tại sao Chủ tịch Sang đã không đả động gì
đến lập trường giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đảo của Việt Nam
đòi phải căn cứ vào Luật pháp Quốc tế và Luật biển 1982 của Liên Hiệp
Quốc, cũng như những chứng cứ của Lịch sử chứng minh Hoàng Sa và Trường
Sa là của Việt Nam?
Về phần mình, chỉ thấy ông Sang nói với cử tri Sài Gòn hôm 24/6 (2013) rằng: “Tranh
chấp Biển Đông là vấn đề hệ trọng, để đi đến giải quyết triệt để, dứt
điểm không phải một sớm một chiều vì lập trường hai bên hoàn toàn khác
biệt nhau. Cho nên phải bình tĩnh, xem xét kỹ vấn đề trên cơ sở giữ vững
độc lập chủ quyền, đường lối của chúng ta, chúng ta không làm phương
hại đến bất cứ quốc gia nào khác”.
“Một cuộc thăm và làm việc, một cuộc gặp gỡ đối ngoại không thể giải
quyết một cách triệt để hết được. Vùng chúng ta tuyên bố chủ quyền trên
biển khoảng 3 triệu km2, mà không phải chỉ ta với Trung Quốc mà còn
Philippines, Indonesia, Malaysia... Cho nên phải giải quyết từng bước.
Phương châm là phải làm dần dần”.
Tuy nhiên “làm dần dần” đối với Việt Nam, như đã chứng minh trong
nhiều năm gần đây là “cứ ì ra đấy”, hay “chẳng làm được gì cà”, ngoài
việc phản đối cho đỡ ngượng như Bộ Ngoại giao vẫn làm mỗi khi có các vụ
tầu cá ngư dân bị lính Tầu tấn công.
07/013
MẶC LÂM *NHÓM MỞ MIỆNG
Nhóm “Mở Miệng”:
lịch sử văn học đẫm máu sắp lập lại?
Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2013-07-20
maclam07192013.mp3
Phần âm thanh Tải xuống âm thanh
Mo-Mieng-24-10-2006-305.jpg
Nhóm “Mở Miệng”:
Từ trái sang Bùi Chát, Khúc Duy, Lý Đợi, Nguyễn Quán, ảnh chụp năm
2006.
Courtesy PhanNguyenBlog
Trong một bài viết mới nhất đăng trên tờ Quân Đội Nhân Dân có tên “Một
góc nhìn phản văn hóa và phi chính trị” tường thuật lại Hội nghị Lý
luận-Phê bình văn học lần thứ III do Hội Nhà Văn Việt Nam tổ chức xuất
hiện những bài tham luận chống lại một luận văn thạc sĩ của tác giả Đỗ
Thị Thoan, tức nhà văn Nhã Thuyên có tên “Vị trí của kẻ bên lề: Thực
hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa”. Luận văn này được phó
giáo sư TS Nguyễn Thị Hòa Bình, trưởng Khoa Văn trường Đại học Sư Phạm
Hà Nội hướng dẫn.
Luận văn thạc sĩ này thuộc chuyên ngành văn học và có lẽ do đó trong
hội nghị Lý luận-Phê bình của hội nhà văn mới xuất hiện những phê phán
gay gắt, thậm chí ác độc đối với tác giả luận văn và lây sang cả những
cây viết trong nhóm Mở Miệng.
Ba mũi giáp công
Hai người có tham luận và ý kiến trong cuộc kết án này là nhà phê bình
văn học Nguyễn Văn Lưu tức tác giả Chu Giang và Giáo sư Phong Lê, nhà
nghiên cứu phê bình lý luận văn học được cho là có uy tín hiện nay.
Cách đây hai tháng tác giả Chu Giang đã viết nhiều bài trên Văn Nghệ
Thành phố Hồ Chí Minh kết án tác giả luận văn và nhóm Mở Miệng.
Trong một thời gian dài, những bài viết này rơi vào im lặng nhưng chợt
sống lại một cách bất ngờ trong một hội nghị được gọi là Phê Bình lý
luận khiến không ít người đặt câu hỏi: Phải chăng tác động bức phá của
nhóm Mở Miệng ngày càng lan rộng trong giới sáng tác khiến cho chính hội
Nhà Văn Việt Nam sợ hãi sự bùng nổ sẽ làm tan vụn các định hướng từ bao
lâu nay trong sinh hoạt sáng tác của hội.
Tờ Quân Đội Nhân Dân trích dẫn một đoạn của Nhã Thuyên để cáo buộc tác
giả này đang có ý đồ hướng dẫn người đọc đi theo đường lối phản động của
tác giả:
Thực ra đây là biểu hiện của một khuynh hướng muốn mượn văn thơ để
làm chính trị thôi, tất nhiên không có nghệ thuật nào tách ra khỏi hệ tư
tuởng chính trị cả thế.
-Chu Giang
“Mở Miệng, ở các thực hành thơ, đã là biểu hiện của sự giải phóng, trong
nỗ lực giải phóng của nghệ thuật Việt Nam đương đại. Trong sự so sánh
với truyền thống thơ của Việt Nam, Mở Miệng là một sự chối bỏ quyết
liệt, dù tôi không muốn nhìn nhận họ như một sự đại diện cho thế hệ,
nhưng họ đã lên tiếng đòi phá nốt những thành trì kiên cố của sự chuyên
chế, khi niềm tin vào chế độ và sự tự do đang có đã tan rã…” (tr. 104).
Để rồi bài báo kết luận ngay sau đó:
“Rõ ràng “đây là một bản luận văn trá hình mang nội dung chính trị phản
động”.
Nó trá hình ở chỗ mượn cụm từ “góc nhìn văn hóa” để khảo sát một hiện
tượng văn học, nhưng thực chất để tung hô, cổ xúy cho một “thực hành thơ
bên lề” có tư tưởng chống đối cái trung tâm, cái chính thống, chống lại
định hướng, chống lại thiên chức phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân
của văn học và nhà văn.”
Thật khó mà nghĩ ra tại sao “chối bỏ quyết liệt, phá nốt thành trì
chuyên chế” lại là phản động?
Như vậy không khác gì bêu rếu rằng nhà nuớc này, nền văn học này đang
là thành trì chuyên chế hay sao?
Nhân văn giai phẩm hai?
Nói với chúng tôi nhà phê bình Chu Giang tức Nguyễn Văn Lưu nhận xét về
bài luận văn này:
“Thực ra đây là biểu hiện của một khuynh hướng muốn mượn văn thơ để làm
chính trị thôi, tất nhiên không có nghệ thuật nào tách ra khỏi hệ tư
tuởng chính trị cả thế nhưng dù sao cũng phải có cái tương đối của nó
nhưng trong luận văn của cô ấy nó hơi thô thiển không phải là một cái tư
tưởng nghệ thuật.”
Riêng Giáo sư Phong Lê, người mà bài báo mô tả: “hai lần lên diễn đàn
đề nghị các cơ quan chức năng phải làm việc nghiêm khắc và xử lý thích
đáng đối với tác giả bản luận văn cũng như hội đồng chấm luận văn” trần
tình với chúng tôi:
qdnd-250.jpg
Bài viết trên tờ QĐND hôm 7/7/2013 có tên “Một góc nhìn phản văn hóa và
phi chính trị”.
Screen capture.
“Sự thật là thế này: điều ấy tôi biết được qua thành viên chủ trì cuộc
họp đó đó là anh Chu Giang. Anh này khảo rất sâu về luận văn đó và anh
sâu ngược lên về nhiều chuyện khác nữa và anh viết trên tờ Văn Nghệ
thành phố Hồ Chí Minh anh đặt vấn đê phải kiềm tra lại khoa văn Đại học
Sư Phạm vì sao lại đào tạo ra cái luận văn như thế.
Tôi chưa được đọc trong nội dung ấy tức nhiên là phức tạp, mỗi người một
cách đánh giá nhưng tôi nói rằng nếu như nội dung ấy đúng như anh nói
thì nó phạm phải một đìêu mà tôi cho là không thể giải thiêng được và
xúc phạm đến Hồ Chí Minh, xúc phạm nhiều chân lý, nhiều điều đáng lẽ
phải tôn trọng. Đối với tôi việc giải thiêng Hồ Chí Minh thì tôi không
chấp nhận đựơc và tôi nói nếu sự thực như thế thì hội nhà văn nên kiến
nghị với Bộ Giáo dục về việc phải xem lại cái nội dung của luận văn đó
chứ tôi không bao giờ nói công an cả. Câu chuyện này tôi biết ở trên họ
đã bắt đầu “động” rồi đấy. Sắp tới báo chí nó sẽ xuất hiện.”
Theo những thông tin mà chúng tôi có thì Giáo sư Phong Lê là một thành
viên trong hội đồng xem xét trường hợp luận văn này và nó sẽ bắt đầu
trong thời gian ngắn sắp tới.
Điều mà Giáo sư Phong Lê gọi là “sắp tới” ấy được nhà báo Phạm Thành
diễn giải:
“Thật ra tâm địa của những người chơi nhóm Nhã Thuyên chúng nó còn xấu
xa đểu cáng hơn cả cái thời Nhân Văn. Tình chất của nó y chang thế thôi
bởi vì rõ ràng đây là một lĩnh vực nghiên cứu tác phẩm công bố trên một
phạm vi hẹp thế mà tự nhiên chúng nó la lên mà toàn dùng những ngôin gnữ
mật thám ngôn ngữ chó săn để định tiêu diệt người ta vì vậy tâm địa và
tính chất vụ việc nó cũng na ná như Nhân Văn Giai Phẩm.”
Từ tránh né đến nói dối
Theo bài báo thì sau khi vụ việc xảy ra Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và
Khoa Văn của nhà trường đã họp “rút kinh nghiệm”. Bài báo xác nhận trên
thực tế chưa ai bị xử lý bất kỳ hình thức kỷ luật gì. Thậm chí có người
còn phát biểu trên một số diễn đàn chính thống rằng phê phán bản luận
văn như vậy là kiểu “chụp mũ, quy kết” đã lỗi thời.
Tuy nhiên sự thật lại khác hẳn, Nhã Thuyên không được giảng dạy tại
trường và người hướng dẫn cô cũng bị mất luôn chức trưởng khoa.
Ông Chu Giang nói với chúng tôi:
“Nội bộ trong trường các cô làm với nhau thì ai mà biết được. Nhưng vừa
rồi cái khoa này có mời cô này về để chuẩn bị giảng dạy chính thức trong
trường. Chắc là cũng do hăng hái quá, phát biểu cái quan niệm của cô
quá khích cho nên sinh viên họ phản đối dữ dội thì các cơ quan pahỉ can
thiệp nên sự việc nó bị bùng ra chứ nếu không ai biết được bên trong nó
như thế.”
Nhà Báo Phạm Thành cho biết sự thật là cả hai đang trong tình trạng rất
khó khăn nhưng ông chia sẻ sự khó khăn của ngôi trường Sư phạm này khi
buộc lòng phải có biện pháp với hai người theo lệnh của Tuyên giáo:
“Mình đánh giá cao chỗ này, tức là trường đại học sư phạm nó đã đồng ý
cho Nhã Thuyên làm cái việc này và cử một giảng viên là cô Nguyễn Thị
Hòa Bình ra đề hướng dẫn cho Nhã Thuyên làm luận án tức là họ đã có cái
nhìn khoa học, và hành động cao cả. Còn bây giờ bị sức ép của tuyên giáo
mà buộc pahỉ cho thôi việc Nhã Thuyên, cách chức trưởng khoa của cô
Nguyễn Thị Hòa Bình thì cực chẳng đã phải làm. Mình đánh giá rất cao
trường Sư phạm lúc đầu đã chấp nhận cho làm cái việc này. Họ cũng muốn
đồi mới vì nghiên cứu thì không có vùng cấm.”
Nhóm Mở Miệng họ làm việc đó thật là tuyệt vời nhưng văn hóa Việt
Nam mình không chấp nhận vì đầy một lũ tiều nông.
-Phạm Thành
Theo Lý Đợi một thành viên của nhóm Mở Miệng cho biết nhóm được hình
thành từ ý tưởng của Bùi Chát, cái tên Mở Miệng lấy từ Thánh kinh: “Khởi
thuỷ là lời”, vào cuối năm 2000, nhóm xuất hiện chính thức từ năm
2001gồm có Lý Đợi, Khúc Duy, Nguyễn Quán và Bùi Chát. Lý do chính của
việc thành lập Mở Miệng là phản ứng lại vấn đề kiểm duyệt và cấp phép
xuất bản.
Sau đó, thì cả nhóm muốn bình thường hoá việc tự do ngôn luận, tự do
sáng tác và xuất bản.
Bùi Chát kể lại, trong lúc cả bốn người còn rất trẻ (ngoài 20), mới tốt
nghiệp đại học, đầy nhiệt huyết và dự định trong việc cống hiến cho xã
hội, cho nghệ thuật... khao khát Mở Miệng càng thấy rõ sự phi lý, trì
trệ, sự cam chịu đến khó hiểu trong sinh hoạt văn hoá ở Việt Nam. Không
thể nào khác được, những người trẻ này đã phải quyết tâm để Mở Miệng.
Nhà phê bình văn học Nguyễn Hoàng Đức từ Hà Nội có những nhận xét ngắn
về nhóm Mở Miệng như sau:
“Nhóm Mở Miệng tôi có thể nói theo cảm quan của tôi, thứ nhất là họ có
phản ứng với tính chất tâm lý. Ở Việt nam chúng ta sống bằng cảm xúc và
tâm lý là nhiều chứ chúng ta không sống bằng lý thuyết. Nhóm Mở Miệng
này phản ứng việc bị o ép, Mở Miệng là bung ra bật cửa bật phéc mơ tuya
đề mở cửa đề cho gió vào nhưgn họ không có một hệ lực trong hệ lý
thuyết.
Đối với tôi nhóm Mở Miệng phản ứng một cái hệ trì trệ lâu năm mà họ bật
ra bằng cảm xúc và tâm lý nhưng họ chưa có đủ một lộ trình mỹ học để
thay thế cái cũ.”
Nhà báo Phạm Thành nhận xét:
“Nhóm Mở Miệng họ làm việc đó thật là tuyệt vời nhưng văn hóa Việt Nam
mình không chấp nhận vì đầy một lũ tiều nông, đầy một lũ du hủ du thực
làm văn chương nghhệ thuật cho nên nó cứ phân khu ra chuệyn này chuyện
kia. Nó phân khu ra cái này là văn minh, cái kia là không văn minh. Nó
cũng theo gót bọn hủ nho cậy mình có chữ ba lăng nhăng coi thường cái
nghề chân tay, coi thường người nông chỉ coi chữ nghĩa trên hết mà
thôi.”
Khi Hữu Thỉnh đọc thơ Lý Đợi
Để biết thêm điều gì đã làm cho nhóm Mở Miệng bị xem là phản động và lấy
văn chương kích động người đọc ra sao, mời quý vị nghe bài thơ mang tên
“chúng nói: “sông có thể cạn, núi có thể mòn” của Lý Đợi qua giọng đọc của chủ tịch Hội Nhà Văn Việt Nam, ông Hữu Thỉnh:
“Chúng nó nói
Chúng nói Sông có thể cạn
Núi có thể mòn
Chúng nói
Sông có thể cạn
Núi có thề mòn
“Chúng nó nói
Chúng nói Sông có thể cạn
Núi có thể mòn
Chúng nói
Sông có thể cạn
Núi có thề mòn
Và tôi thấy chúng làm:
Chúng đuổi người đi đường
Chúng không cho người dân cất tiếng nói
Chúng bao vây và trấn áp người biểu tình chống xâm lăng
Chúng cho người trà trộn vào đám đông biểu tình để phá thối, gây chia rẽ
Chúng bảo chúng ta bị xúi giục
Chúng coi thường sự hiểu biết của nhân dân
Chúng bảo mất Hoàng Sa – Trường Sa không phải lo.
Hãy về nhà ngủ và tin vào Cộng sản và nhà nước.
Chúng đuổi người đi đường
Chúng không cho người dân cất tiếng nói
Chúng bao vây và trấn áp người biểu tình chống xâm lăng
Chúng cho người trà trộn vào đám đông biểu tình để phá thối, gây chia rẽ
Chúng bảo chúng ta bị xúi giục
Chúng coi thường sự hiểu biết của nhân dân
Chúng bảo mất Hoàng Sa – Trường Sa không phải lo.
Hãy về nhà ngủ và tin vào Cộng sản và nhà nước.
(Tin chúng mày để hôm nay thấy Sài Gòn & Hà Nội đầy một lũ tay sai Bắc Kinh à?)
Chúng vu khống những người yêu nước là phản động
Chúng muốn chúng ta vĩnh viễn là nô lệ
Chúng đã lăng mạ lòng tự trọng dân tộc
Chúng đã phỉ nhổ vào lịch sử
Chúng đã đập bàn thờ tổ quốc
Chúng đã ném cứt vào xương máu những người đã chết cho quê hương
Chúng tóm cổ các nhà báo tự do
Chúng muốn chúng ta vĩnh viễn là nô lệ
Chúng đã lăng mạ lòng tự trọng dân tộc
Chúng đã phỉ nhổ vào lịch sử
Chúng đã đập bàn thờ tổ quốc
Chúng đã ném cứt vào xương máu những người đã chết cho quê hương
Chúng tóm cổ các nhà báo tự do
Chúng đe doạ, đánh đập văn nghệ sĩ
Chúng khủng bố các nhà trí thức
Chúng theo dõi điện thoại, email
Chúng hiếp dâm nhân quyền...
Và chúng nói tiếp, sau khi làm:
“song chân lý ấy không bao giờ thay đổi.”
Quý vị vừa nghe ông Hữu Thỉnh đọc bài thơ của Lý Đợi. Dĩ nhiên ông đọc lên để phê phán và kết án bài thơ này trong hội nghị của Hội Nhà Văn Việt Nam nhưng có một điều nghịch lý là khi nghe bài thơ qua giọng đọc hùng hồn của ông, người ta có cảm giác ông đang khen bài thơ, khen một cách chân thành vì ngôn ngữ bài thơ sống động bất ngờ đã lái cảm xúc của ông qua một hướng khác, hướng “Mở Miệng” ra để nói những lời chân thật?
Chúng khủng bố các nhà trí thức
Chúng theo dõi điện thoại, email
Chúng hiếp dâm nhân quyền...
Và chúng nói tiếp, sau khi làm:
“song chân lý ấy không bao giờ thay đổi.”
Quý vị vừa nghe ông Hữu Thỉnh đọc bài thơ của Lý Đợi. Dĩ nhiên ông đọc lên để phê phán và kết án bài thơ này trong hội nghị của Hội Nhà Văn Việt Nam nhưng có một điều nghịch lý là khi nghe bài thơ qua giọng đọc hùng hồn của ông, người ta có cảm giác ông đang khen bài thơ, khen một cách chân thành vì ngôn ngữ bài thơ sống động bất ngờ đã lái cảm xúc của ông qua một hướng khác, hướng “Mở Miệng” ra để nói những lời chân thật?
Saturday, July 20, 2013
BS. NGỌC * THẾ LỰC THÙ ĐỊCH
Hội
chứng hoang tưởng (paranoid personality disorder, sẽ viết tắt là PPD)
là một rối loạn tâm thần với đặc điểm là người mắc bệnh hay nghi kỵ
người khác. Người mặc bệnh PPD không có khả năng tin tưởng vào người
khác, nhìn người khác như là những người thù địch. Có thể nói rằng bệnh
nhân PPD rất giống với người cộng sản.
“Thế lực thù địch” là cụm từ mới xuất hiện gần đây, nhưng đã trở
thành khá phổ biến. Chỉ cần gõ “thế lực thù địch” trong hộp tìm kiếm của
Google tôi được kết quả hơn 2 triệu kết quả trong vòng 0,26 giây. Báo
chí, đài phát thanh, đài truyền hình không ngớt lớn tiếng cảnh báo người
dân rằng thế lực thù địch đang len lỏi vào guồng máy của Nhà nước, đang
gây tác hại nghiêm trọng cho Việt Nam.
Có khi họ cảnh báo rằng thế lực thù địch đe doạ đến sự sống còn của đảng, của Nhà nước và sự an sinh của người dân. Có thể nói rằng những người làm truyền thông cho đảng đã dùng thế lực thù địch như một con ngáo ộp, kích động người dân, làm cho người dân cảm thấy bất an.
Có khi họ cảnh báo rằng thế lực thù địch đe doạ đến sự sống còn của đảng, của Nhà nước và sự an sinh của người dân. Có thể nói rằng những người làm truyền thông cho đảng đã dùng thế lực thù địch như một con ngáo ộp, kích động người dân, làm cho người dân cảm thấy bất an.
Chỉ một thời gian ngắn tiến hoá “thế lực thù địch”
đã trở thành một câu thần chú của người cộng sản. Trong bài diễn văn dài
bế mạc Hội nghị 6 gì đó của ngài tổng bí thư NPT có đoạn: “Ban Chấp
hành Trung ương đã thảo luận rất kỹ, cân nhắc toàn diện các mặt ở thời
điểm hiện nay và đi đến quyết định không thi hành kỷ luật đối với tập
thể Bộ Chính trị và một đồng chí trong Bộ Chính trị; và yêu cầu Bộ Chính
trị có biện pháp tích cực khắc phục, sửa chữa khuyết điểm; không để các thế lực thù địch xuyên tạc, chống phá”.
Trong những năm qua, dường như trong đầu óc của những người cộng sản họ chỉ nghĩ đến những thế lực thù địch. Ngay cả khi đất nước ở trong tình trạng thù trong giặc ngoài như thế mà họ chỉ nghĩ đến thế lực thù địch! “Thế lực thù địch” gần như là một câu kinh của những người cộng sản Việt Nam trong thế kỷ 21.
Trong những năm qua, dường như trong đầu óc của những người cộng sản họ chỉ nghĩ đến những thế lực thù địch. Ngay cả khi đất nước ở trong tình trạng thù trong giặc ngoài như thế mà họ chỉ nghĩ đến thế lực thù địch! “Thế lực thù địch” gần như là một câu kinh của những người cộng sản Việt Nam trong thế kỷ 21.
Nhưng ai là thế lực thù địch thì chẳng ai biết nhưng có thể đoán
được. Dù họ không nói thẳng ra ai là thế lực thù địch, nhưng ai cũng
hiểu rằng bất cứ người nào phê bình chính sách của đảng đều được xếp
trong danh sách thù địch. Mỹ và các nước phương Tây được Trung cộng xem
là thế lực thù địch. Người cộng sản Việt Nam cũng xem Mỹ và các nước
phương Tây là thế lực thù địch dù họ rất thích gửi con cháu sang đó du
học. Người dân đi biểu tình chống Trung cộng xâm lăng cũng bị xem là thế
lực thù địch, là phản động. Một điểm đáng nói ở đây là bất cứ ai mà
Trung cộng xem là thế lực thù địch thì người cộng sản VN cũng xem là thế
lực thù địch.
Vì không biết cụ thể thế lực thù địch là ai, nên chúng ta có thể tạm cho đó là một thế lực ma.
Ma là một khái niệm trừu tượng, thường đề cập đến người đã chết, nhưng
vì còn ân oán với người cõi trần nên hay hiện về để nhát. Ma không hiện
hình mà chỉ xuất hiện trong tâm tưởng của con người. Người sợ ma là
người thiếu tự tin.
Thiếu tự tin nên họ tin vào thần thánh, bùa ngải. Thiếu tự tin là một thể hiện của người bất an và thiếu học vấn. Nếu là người có tự tin và học vấn thì không ai tin vào ma quỷ, chẳng ai khấn nguyện nhờ đến thần thánh để che chở. Chỉ có người vì biết mình bất tài, biết mình thất học, biết mình làm chuyện ác ôn, nên mới cảm thấy bất an và hô toáng lên là có ma. Do đó, có thể nói rằng người cộng sản đang hô toáng thế lực thù địch cũng có nghĩa họ đang bất an.
Thiếu tự tin nên họ tin vào thần thánh, bùa ngải. Thiếu tự tin là một thể hiện của người bất an và thiếu học vấn. Nếu là người có tự tin và học vấn thì không ai tin vào ma quỷ, chẳng ai khấn nguyện nhờ đến thần thánh để che chở. Chỉ có người vì biết mình bất tài, biết mình thất học, biết mình làm chuyện ác ôn, nên mới cảm thấy bất an và hô toáng lên là có ma. Do đó, có thể nói rằng người cộng sản đang hô toáng thế lực thù địch cũng có nghĩa họ đang bất an.
Nhưng tại sao người cộng sản lại đa nghi, không tin người dân? Nghĩ
một chút tôi thấy những gì người cộng sản suy nghĩ, nói và làm rất phù
hợp với những đặc điểm của hội chứng hoang tưởng PPD hoặc hội chứng phản
xã hội. Tôi sẽ bàn về hội chứng PPD trước.
Hội chứng hoang tưởng
Triệu chứng nổi bật của người mắc chứng PPD là không tin tưởng vào
người khác, lúc nào cũng nghi ngờ người khác, nghi ngờ cả người thân và
đồng nghiệp. Người mắc bệnh PPD có những đặc tính nổi bật như thiếu tin
tưởng vào người khác, lúc nào cũng nghi kị người khác. Trong đầu của
bệnh nhân PPD là người khác lúc nào cũng tìm cách ám hại mình, bất cứ
hành động mang tính tích cực nào của người khác cũng được hiểu là có ý
đồ xấu xa.
Điều này rất đúng với người cộng sản vì họ không tin ai cả. Trong xã hội do người cộng sản điều hành và cấu tạo nên, ai cũng nghi kỵ lẫn nhau. Ngay cả trong gia đình cũng nghi kỵ lẫn nhau. Trong xã hội VN hiện nay mọi thành viên đều là những người tù dự khuyết. Bầu Kiên có thể là anh hùng hôm qua nhưng đùng một cái là tù nhân.
Một ông cựu bộ trưởng đáng kính vẫn có thể đi tù dễ dàng. Người cộng sản không tin ai cả vì chính họ cũng không tin họ nói thật. Ngoài triệu chứng chính vừa đề cập người mắc chứng PPD còn có một số biểu hiện như sau:
Điều này rất đúng với người cộng sản vì họ không tin ai cả. Trong xã hội do người cộng sản điều hành và cấu tạo nên, ai cũng nghi kỵ lẫn nhau. Ngay cả trong gia đình cũng nghi kỵ lẫn nhau. Trong xã hội VN hiện nay mọi thành viên đều là những người tù dự khuyết. Bầu Kiên có thể là anh hùng hôm qua nhưng đùng một cái là tù nhân.
Một ông cựu bộ trưởng đáng kính vẫn có thể đi tù dễ dàng. Người cộng sản không tin ai cả vì chính họ cũng không tin họ nói thật. Ngoài triệu chứng chính vừa đề cập người mắc chứng PPD còn có một số biểu hiện như sau:
Một là nghi ngờ người khác một cách vô căn cớ
Nghĩ rằng người khác đang lợi dụng mình, hãm hại mình, hay lường gạt
mình. Người cộng sản lúc nào cũng nghi ngờ người ngoài đảng. Họ xem
người ngoài đảng như tín đồ Hồi giáo xem người không theo đạo Hồi là
những kẻ ngoại đạo, đáng nghi ngờ. Chính vì suy nghĩ này mà người cộng
sản chỉ chia chác quyền lực và đặc lợi cho người trong đảng.
Nói ra thì có vẻ quá đáng như đảng Mafia cũng làm như thế. Vì nghi ngờ nên người cộng sản xem bất cứ việc làm gì của các tổ chức phi chính phủ (NGO) là những thế lực đáng ngại, cần phải theo dõi. Chính vì thói nghi ngờ và thiếu tự tin nên họ không tin vào Việt kiều. Bao nhiêu trí thức Việt kiều muốn góp một tay cho chế độ mà có được đâu. Ngay cả những người trí thức trong nước góp ý chân tình cho họ mà vẫn bị theo dõi, thậm chí bắt bớ giam cầm.
Nói ra thì có vẻ quá đáng như đảng Mafia cũng làm như thế. Vì nghi ngờ nên người cộng sản xem bất cứ việc làm gì của các tổ chức phi chính phủ (NGO) là những thế lực đáng ngại, cần phải theo dõi. Chính vì thói nghi ngờ và thiếu tự tin nên họ không tin vào Việt kiều. Bao nhiêu trí thức Việt kiều muốn góp một tay cho chế độ mà có được đâu. Ngay cả những người trí thức trong nước góp ý chân tình cho họ mà vẫn bị theo dõi, thậm chí bắt bớ giam cầm.
Hai là bị ám ảnh bởi những nghi ngờ về sự trung thành và tin cậy của bạn bè, đồng nghiệp.
Khi người khác giúp họ thật tình, họ cũng nghi ngờ sự giúp đỡ đó. Mỹ
muốn giúp đào tạo chuyên gia cho VN, nhưng người cộng sản nhìn đó như là
một thế lực đe doạ, và xem Mỹ như kẻ thù. Ngay cả trong nội bộ đảng họ
cũng có cơ chế kiểm tra hành động của đảng viên. Đi xa hơn kiểm tra hành
động là kiểm soát tư tưởng của đảng viên.
Do đó, toàn bộ đảng viên trở thành những con cừu, chỉ biết suy nghĩ và nói theo một định hướng. Những ai có suy nghĩ khác thì sống bằng cuộc sống 2 mặt. Bên Tàu có một cuốn tiểu thuyết mô tả một nhân vật sống 2 mặt rất sống động. Sáng sớm anh ra vườn sau chửi bới đảng cộng sản, chửi xong, anh thay đồ đi làm và lên lớp ca ngợi công ơn trời biển của đảng!
Do đó, toàn bộ đảng viên trở thành những con cừu, chỉ biết suy nghĩ và nói theo một định hướng. Những ai có suy nghĩ khác thì sống bằng cuộc sống 2 mặt. Bên Tàu có một cuốn tiểu thuyết mô tả một nhân vật sống 2 mặt rất sống động. Sáng sớm anh ra vườn sau chửi bới đảng cộng sản, chửi xong, anh thay đồ đi làm và lên lớp ca ngợi công ơn trời biển của đảng!
Ba là không muốn chia sẻ thông tin với người khác vì họ sợ thông tin sẽ được sử dụng để chống lại hay ám hại mình.
Người cộng sản xem thông tin là vũ khí. Mà vũ khí thì có thể dùng để
gây tác hại. Do đó, người cộng sản kiểm soát toàn bộ thông tin. Từ báo
chí, đài phát thanh, đến đài truyền hình và mạng, họ kiểm soát tất cả.
Thật ra, đây là một hành động suy bụng ta ra bụng người, bởi trong quá
khứ họ từng lũng đoạn thông tin và lợi dụng tự do thông tin để gây tác
hại đến đối phương.
Bốn là lúc nào cũng diễn dịch ý nghĩa tiềm ẩn đằng sau mỗi thông tin và sự kiện
vì họ nghi ngờ rằng thông tin được trình bày chỉ là bề mặt, còn đằng
sau là hàm ý ám hại họ. Người cộng sản rất thích nói về “bản chất và
hiện tượng”. Những gì xảy ra họ xem là hiện tượng, họ không quan tâm
mấy, nhưng họ rất quan tâm đến bản chất. Khi công an “làm việc” với ai
họ nghi là “phản động” (nghi ngờ là bản chất của họ) thì câu hỏi xoay
quanh ai đứng đằng sau việc làm của người đó.
Đây cũng là một bản chất mang tính suy bụng ta ra bụng người, bởi trong quá khứ họ đứng đằng sau xúi dục trí thức miền Nam xuống đường chống lại chế độ Mỹ-Thiệu. Tương tự, khi người dân xuống đường đòi đất, họ không quan tâm giải quyết vấn đề mà chỉ truy tìm mầm mống mà họ gọi là “phản động”.
Đây cũng là một bản chất mang tính suy bụng ta ra bụng người, bởi trong quá khứ họ đứng đằng sau xúi dục trí thức miền Nam xuống đường chống lại chế độ Mỹ-Thiệu. Tương tự, khi người dân xuống đường đòi đất, họ không quan tâm giải quyết vấn đề mà chỉ truy tìm mầm mống mà họ gọi là “phản động”.
Ông tây Hồ Cương Quyết này ăn phải bã cộng sản, giờ bẽ mặt khi xuống đường biểu tình chống tàu bị công an khó dễ. Dưới: Một
số hình ảnh mới nhất về dân oan từ Đà Nẵng ra Hà Nội khiếu kiện, bị công
an bắc loa kêu gọi những câu nghe mãi vẫn chửa chán! đại loại như:
“…không nên nghe lời kẻ xấu xúi dục…”. tin mới nhất được biết tất cả bà
con đã bị hốt lên xe và chở sang Lộc Hà, link Face Book Dân Oan Việt Nam
Năm là lúc nào cũng tỏ thái độ đố kỵ, thù hận.
Người mắc bệnh PPD không có khả năng tha thứ, họ luôn tìm cách dìm
người khác, nói xấu người khác và khi cần ám hại họ. Tha thứ không có
trong từ điển ngữ vựng của người cộng sản. Họ đày đoạ quân lính, sĩ
quan, viên chức của chế độ cũ ra sao thì chúng ta đều biết. Có thể nói
đó là một chương sử đen tối nhất của người cộng sản.
Một đặc điểm khác là người mắc chứng PPD rất huênh hoang. Họ tự xem
mình là tài giỏi nhất thế giớilà trường tồn. Đặc điểm này cũng giống với
người cộng sản. Họ tự xem mình là “quang vinh”, là tài ba nhất thiên
hạ, là “đỉnh cao trí tuệ”, là bách chiến bách thắng. Họ không ngần ngại
tuyên bố đảng của họ là “muôn năm” dù trong lịch sử nhân loại không có
chế độ nào hay đảng phái nào tồn tại muôn năm.
Tất cả những đặc điểm của chứng bệnh hoang tưởng vừa mô tả trên đều
rất phù hợp với người cộng sản. Theo y văn thì hội chứng PPD khá phổ
biến trong dân số. Trên thế giới, thống kê cho biết có khoảng 0,5 đến 3%
người mắc chứng hoang tưởng. Nam giới có khuynh hướng dễ mắc PPD hơn nữ
giới. Phần lớn những người mắc chứng PPD ở độ tuổi 40-50. Hiện nay có
khoảng 3 triệu đảng viên đảng CSVN, chiếm 3% dân số. Con số này cũng phù
hợp vối y văn thế giới. Số nam đảng viên cao hơn nữ đảng viên. Do đó,
số người mắc chứng hoang tưởng nhiều hơn trong nam giới, cũng phù hợp
với y văn thế giới.
Hội chứng phản xã hội
Một hội chứng có liên quan đến PPD là hội chứng phản xã hội
(antisocial personality disorder, viết tắt APD). Đặc điểm chính của APD
là khuynh hướng không quan tâm đến quyền lợi của người khác, hay xâm
phạm quyền lợi người khác. Hội chứng này cũng rất phù hợp với người cộng
sản vốn rất vô cảm và có khi tàn ác. Người mắc chứng APD có những triệu
chứng như sau:
Một là không sống theo chuẩn mực xã hội.
Họ không tôn trọng luật pháp, họ sống theo luật của chính họ đặt ra.
Người cộng sản một mặt nói đến luật pháp như là một khuôn mẫu về trật tự
xã hội, nhưng khi hành động thì hoàn toàn trái với pháp luật. Họ bắt
người một cách tuỳ tiện. Muốn bắt thì bắt, không cần đến luật pháp, toà
án. Họ thậm chí còn tuyên bố “luật là ta, ta là luật”. Mà đúng như thế.
Họ ngồi xổm trên luật pháp. Chúng ta thấy một mặt họ kêu gọi thắt lưng
buộc bụng, nhưng mặt khác họ sống như những bậc đế vương thời phong kiến
mà họ từng nguyền rũa.
Trong khi người dân chen chút nhau trong bệnh viện, họ có bệnh viện riêng, bác sĩ riêng, thậm chí còn có cả vườn rau riêng, đàn bò sữa riêng. Họ ra điều luật cho cán bộ cao cấp không được kết hôn với những ai có gốc gác “nguỵ”, nhưng con gái thủ tướng thì được lấy con trai của cựu thứ trưởng “nguỵ”. Con gái tổng bí thư Lê Duẩn cũng được kết hôn với người Nga, trái 180 độ với qui định do chính ông đề ra! Người cộng sản nói một đằng làm một nẻo
.
Trong khi người dân chen chút nhau trong bệnh viện, họ có bệnh viện riêng, bác sĩ riêng, thậm chí còn có cả vườn rau riêng, đàn bò sữa riêng. Họ ra điều luật cho cán bộ cao cấp không được kết hôn với những ai có gốc gác “nguỵ”, nhưng con gái thủ tướng thì được lấy con trai của cựu thứ trưởng “nguỵ”. Con gái tổng bí thư Lê Duẩn cũng được kết hôn với người Nga, trái 180 độ với qui định do chính ông đề ra! Người cộng sản nói một đằng làm một nẻo
.
Hai là lường gạt, giả dối.
Thứ trưởng Y-tế việt cộng chức thiệt mà bằng giả, Blog Khai Trí đòi
hỏi giùm cho hơn 80 triệu dân, vì sức khỏe và sinh mệnh của họ có thể
bị ảnh hưởng bởi chất lượng “tri thức” của ngài, rất cần ông trả lời
trên báo chí. Riêng Web Hà Tĩnh Mình Thương
còn đưa ra danh sách các quan đỏ nào đang xài bằng gỉả. Ôi nhân tài
như lá mùa thu ở nước ta! Mùa “Thương Khó” của các đại gia… Link Blog Mười Sáu
Người mắc chứng ADP rất hay nói dối, dùng tên giả để nói xấu người
khác. Nói dối, với người cộng sản, là một quán tính. Họ có thể biến
trắng thành đen, nói đen là trắng. Điển hình như vụ việc ở Văn Giang,
Tiên Lãng. Họ cho công an đánh dân, nhưng đài báo thì nói là “xã hội
đen”. Ai cũng biết lãnh đạo cộng sản hay dùng tên giả. Có người dùng đến
cả trăm tên giả! Thời chiến thì có thể hiểu được, nhưng thời bình họ
cũng dùng tên giả. Mỗi khi muốn nói xấu ai họ cho phóng viên ký tên giả
để tha hồ viết.
Ai cũng biết đó là một thái độ tiểu nhân, nhưng họ làm gì có quân tử tính mà chúng ta phải ngạc nhiên. Còn tính giả dối của người cộng sản thì gần như là một đặc tính tiêu biểu. Giả dối về lịch sử như vụ Lê Văn Tám. Giả dối trong khoa học. Giả dối trong giáo dục. Giả dối bằng cấp. Lĩnh vực nào cũng giả dối. Nói chung sau 37 năm thống trị, người cộng sản đã biến một xã hội lành mạnh trở thành một xã hội giả dối.
Ai cũng biết đó là một thái độ tiểu nhân, nhưng họ làm gì có quân tử tính mà chúng ta phải ngạc nhiên. Còn tính giả dối của người cộng sản thì gần như là một đặc tính tiêu biểu. Giả dối về lịch sử như vụ Lê Văn Tám. Giả dối trong khoa học. Giả dối trong giáo dục. Giả dối bằng cấp. Lĩnh vực nào cũng giả dối. Nói chung sau 37 năm thống trị, người cộng sản đã biến một xã hội lành mạnh trở thành một xã hội giả dối.
Giáo sư Phan Huy Lê, người lật mặt nạ
huyền thoại Lê Văn Tám chỉ là bịp bợm dù hiện nay công viên, trường
học “Lê Văn Tém” được xây khắp nơi.Link Blog Mười Sáu
Ba là hung hãn, hay đánh người.
Người cộng sản xem công an không phải là lực lượng bảo vệ an ninh cho
dân mà là một thanh kiếm của đảng. Kiếm thì chỉ dùng cho chuyện đâm
chém, giết người, răn đe. Nên chúng ta không ngạc nhiên khi thấy công an
là một kiêu binh thời nay. Công an bắt người vô cớ, đánh người, giết
người thoải mái. Giết người trong đồn. Giết người trên đường lộ. Dàn
cảnh gây tai nạn. Tất cả những hành động này cho thấy công an là những
người mắc bệnh phản xã hội.
Bốn là làm việc tuỳ tiện.
Sự tuỳ tiện của người cộng sản có thể nói là ghê gớm. Qua bên Hàn
Quốc thấy người ta có những tập đoàn lớn, về nhà cũng bắt chước làm theo
mà không có chiến lược gì cả. Dự án đường sắt cao tốc giá trị mấy chục
tỷ đôla chỉ có vài chục trang giấy. Hậu quả là Vinashin, Vinalines gây
tổn hại ngân sách quốc gia hàng trăm ngàn tỷ đồng. Họ quen làm việc như
thời chiến, nên không có quốc sách lâu dài nào cả.
Năm là tỏ ra vô trách nhiệm.
Ông Nguyễn Cao Kỳ lúc còn sinh tiền có lần nhận xét rằng trong hệ
thống chính quyền VN không ai chịu trách nhiệm cả. Điều này đúng vì đảng
là người đứng đằng sau chính phủ, nhưng đảng không chịu trách nhiệm.
Người cộng sản gây ra nhiều thảm hoạ chính trị và kinh tế cho đất nước.
Cải cách ruộng đất. Nhân văn giai phẩm. Trại “học tập cải tạo”.
Vinashin. Vinalines. Mất Hoàng Sa vào tay kẻ thù. Nhượng một phần thác
Bản Giốc cho kẻ thù. Chúng ta nghĩ rằng người cộng sản sẽ chịu trách
nhiệm trước toàn dân, nhưng không. Họ không nhận lỗi. Họ rất vô trách
nhiệm.
Sáu là không có cảm giác ăn năn hối lỗi và vô cảm.
Vô cảm là một đặc điểm rất nổi bậc của bệnh nhân ADP. Bệnh nhân ADP
rất bàng quang trước những gì xảy ra trước mắt họ. Thấy người ta bị nạn,
họ chỉ đứng nhìn mà không có một hành động giúp đỡ hay một lời phân ưu.
Người cộng sản cũng thế. Những cái chết trong đồn công an trong thời
gian gần đây là một minh chứng hùng hồn.
Chúng ta còn nhớ ông Trịnh Xuân Tùng trong khi bị đánh gần chết chỉ muốn uống nước mà họ cũng không cho. Bà Liêng ở Bạc Liêu tự thiêu chẳng làm cho 700 tờ báo động lòng. Trong khi đó Hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu gây ra một làn sóng câm phẫn trong dư luận báo chí thời trước 1975. Người cộng sản không ăn năn xám hối trước những cái chết như thế. Họ cũng chẳng bao giờ xin lỗi những vong hồn trong vụ Mậu Thân ở Huế hay vụ Cải cách ruộng đất. Có thể nói rằng người cộng sản rất vô cảm. Và khi họ cai trị đất nước sau 37 năm thì cả nước cũng trở nên vô cảm.
Chúng ta còn nhớ ông Trịnh Xuân Tùng trong khi bị đánh gần chết chỉ muốn uống nước mà họ cũng không cho. Bà Liêng ở Bạc Liêu tự thiêu chẳng làm cho 700 tờ báo động lòng. Trong khi đó Hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu gây ra một làn sóng câm phẫn trong dư luận báo chí thời trước 1975. Người cộng sản không ăn năn xám hối trước những cái chết như thế. Họ cũng chẳng bao giờ xin lỗi những vong hồn trong vụ Mậu Thân ở Huế hay vụ Cải cách ruộng đất. Có thể nói rằng người cộng sản rất vô cảm. Và khi họ cai trị đất nước sau 37 năm thì cả nước cũng trở nên vô cảm.
Tóm lại, những người cộng sản có lẽ đã và đang mắc chứng hoang tưởng
PPD và phản xã hội APD. Nhận ra bệnh để mà chạy chữa. Nhưng cái khó là
cả hai bệnh này đều là bệnh tâm thần, hay cũng có thể nói là bệnh liên
quan đến thần kinh, nên rất khó chữa trị.
Để tìm phương án chữa trị, cần phải biết nguyên nhân gây bệnh. Các
chuyên gia tâm thần cho rằng bệnh có nhiều nguyên nhân, trong đó có cả
nguyên nhân tương tác xã hội. Khi người ta trưởng thành một môi trường
đảng, qua tương tác, bị tiêm nhiễm những giáo điều, thói quen và suy
nghĩ của đảng, và dẫn đến bệnh.
Nếu chẩn đoán trên là đúng và nếu nguyên nhân xã hội là đúng thì có
lẽ biện pháp điều trị bệnh này là hoàn toàn có thể. Nga và các nước Đông
Âu đã điều trị bệnh này. Họ cũng đã thành công. Nếu vì sức khoẻ của đất
nước, những người cộng sản Việt Nam nên xem trường hợp Nga và Đông Âu
như là những kinh nghiệm chữa trị bệnh hoang tưởng và phản xã hội./.
Nhóm phóng viên Paltalk tổng hợp từ Nam California, Hoa Kỳ.
Links:
Blog Mười Sáu
Friday, July 19, 2013
CHUYẾN MỸ DU CỦA TRƯƠNG TẤN SANG
PHÒNG THÔNG TIN PHẬT GIÁO QUỐC TẾ
Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
E-mail : pttpgqt@gmail.com
Cơ quan Thông tin và Phát ngôn của Viện Hóa Ðạo
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
E-mail : pttpgqt@gmail.com
THÔNG CÁO BÁO CHÍ NGÀY 19.7.2013
Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ viết thư gửi Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama nhân cuộc gặp gỡ với Chủ tịch Trương Tấn Sang
2013-07-19 | | PTTPGQT
Sau đây là bản Việt dịch toàn văn thư gửi Tổng Thống Barack Obama do Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế dịch từ bản Anh ngữ :
Kính gửi Ngài Barack H. Obama
Tổng Thống Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ
Tòa Bạch Ốc
Washingtin D.C. 20500
Tổng Thống Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ
Tòa Bạch Ốc
Washingtin D.C. 20500
Saigon, ngày 14.7.2013
Thưa Tổng Thống,Tôi được tin Tổng Thống mời Chủ tịch Nước CHXHCNVN sang thăm Hoa Kỳ vào ngày 25.7.2013. Vì vậy tôi viết thư hôm nay xin Tổng Thống nhân cơ hội gặp gỡ này thúc đẩy Chủ tịch Việt Nam thực hiện nguyện vọng âm ỉ từ lâu trong tâm trí và đáy lòng người dân Việt - đó là chuyển hóa chế độ độc đảng sang một Nhà nước dân chủ, bảo đảm các quyền cơ bản, tự do và pháp quyền.
Đây cũng chính là ngưỡng vọng của Phật giáo đồ Việt Nam, đặc biệt là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất do tôi lãnh đạo, đồng thời cũng là ngưỡng vọng của toàn dân nam phụ lão ấu, bất phân thành phần xã hội, từ trí thức, sinh viên, thương gia, đến công nhân, nông dân và tín đồ các tôn giáo.
Năm 1986, khi Đảng Cộng sản mở cửa kinh tế theo chính sách “đổi mới”, nhà cầm quyền nghĩ rằng chỉ cần mở cửa kinh tế là có thể bảo đảm việc phát triển quốc gia. Chúng tôi đã biết rằng điều đó không đúng, và chẳng bao giờ thành công. Cho nên Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất cũng như toàn dân thúc đẩy nhà cầm quyền phải đồng lúc mở cửa chính trị thì mới có thể hậu thuẫn cho sự chuyển hóa kinh tế. Nhưng Nhà nước Cộng sản đã không nghe. Trái lại, nhà cầm quyền đã quy mô dập tắt mọi tiếng nói đòi hỏi cải cách chính trị. Kết quả là các nhà tù ở Việt Nam ngày nay đầy dẫy những nhà tranh đấu trẻ, các bloggers, nhà báo và các nhà bảo vệ nhân quyền mà “tội” của họ chỉ là kêu gọi mạnh mẽ cho một xã hội đa nguyên hầu khai dụng tài nguyên phong phú của con người, vốn là nguyên động lực của quần chúng, để sử dụng mọi tài năng và kỹ xảo của họ cho việc phát triển.
Chỉ nói theo tiêu chuẩn kinh tế, thì chính quyền đã thất bại. Mở rộng tự do kinh tế, mà không có sự bảo vệ của công đoàn độc lập, tự do báo chí và nền tư pháp độc lập tất nhiên phải dẫn đến căn bệnh tham nhũng, lạm quyền, phân cách giàu nghèo khủng khiếp, và những tệ nạn bất công xã hội trầm trọng.
Trong khi thành phần lãnh đạo và gia đình của giới này hưởng thụ đời sống vua chúa, thì người công nhân, nông dân bần hàn phải đối chọi hằng ngày với bao khắc nghiệt để sống còn.
Việt Nam ngày nay là thiên đường của giới tham quan ô lại và “tư bản đỏ”, nhưng lại là địa ngục cho hàng chục triệu người dân lương thiện chỉ đòi hỏi sự tối thiểu cho cơm ăn áo mặc, cho con em họ được đến trường và được chăm sóc y tế.
Giới lãnh đạo Hà Nội bám chặt một cách vô vọng vào hệ thống độc đảng để bảo vệ đặc quyền đặc lợi cho riêng họ. Tuy nhiên làm như thế, họ hy sinh quyền lợi của 90 triệu dân Việt và gây hại cho tương lai quần chúng. Khi giới trẻ yêu nước xuống đường ở Saigon, Huế, và Hà Nội để cảnh báo Trung quốc xâm lược vào chủ quyền biển và đất, chính quyền chẳng chút lưu tâm tới mối quan ngại thiết tha của giới trẻ mà còn bạo hành, đàn áp.
Thưa Tổng Thống,
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tin rằng chìa khóa giải quyết các vấn nạn Việt Nam là Dân chủ. Với những thiết chế dân chủ đa nguyên đa đảng, nhân quyền và pháp quyền thì mới có thể bảo đảm cho sự ổn định và phát triển, đồng thời gìn giữ sự vẹn toàn lãnh thổ cho đất nước. Sự kết thân hòa hảo càng thêm dễ dàng với các nước láng giềng theo thể chế dân chủ. Một nước Việt Nam dân chủ sẽ là yếu tố chủ yếu cho hòa bình và ổn định trong vùng Á châu – Thái Bình dương , và sẽ là đối tác chính trị tin cậy cho Hoa Kỳ.
Vì vậy, trong cuộc gặp gỡ với Chủ tịch Trương Tấn Sang tới đây, tôi chân thành mong mỏi Tổng Thống thúc đẩy giới lãnh đạo Việt Nam cấp tốc bước vào tiến trình cải cách chính trị. Sự chuyển hóa ôn hòa sang thể chế dân chủ để cứu khối nhân dân sống trong đau khổ, và đây cũng là con đường duy nhất bảo đảm cho tương lai xáng lạn đầy hy vọng cho Việt Nam.
Tôi cũng xin nhấn mạnh tới điều trọng thiết của Tự do Tôn giáo trong tiến trình dân chủ hóa Việt Nam, bởi vì tại Việt Nam ngày nay, các tôn giáo là những tiếng nói độc lập của xã hội dân sự, đã không ngừng suốt ba mươi tám năm qua nêu lên những ta thán, bất bình của nhân dân dưới chế độ Cộng sản.
Người viết thư thỉnh cầu Tổng Thống hôm nay là kẻ đã trực tiếp chịu đựng sự đàn áp của chính quyền. Tôi đã trải qua ba thập niên bị giam cầm, chỉ vì tôi lên tiếng đòi hỏi tự do tôn giáo và nhân quyền. Ngay giây phút này đây tôi phải sống trong cảnh quản chế tại [Thanh Minh] Thiền viện, như Đại sứ David Shear chứng kiến khi ngài đến thăm tôi năm ngoái. Vì vậy, là Tăng sĩ Phật giáo và lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, tôi thấy có bổn phận phải lên tiếng. Dù rằng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bị cấm hoạt động và bị chính quyền Cộng sản đàn áp từ năm 1975, nhưng Giáo hội vẫn không ngừng tranh đấu bằng phương pháp bất bạo động cho công bình xã hội. Giáo hội không tranh đấu trên lĩnh vực chính trị, cuộc tranh đấu này thể hiện truyền thống tâm linh và dấn thân của Phật giáo Việt Nam suốt 2000 năm qua, dựa trên lòng từ bi và khoan dung, để bảo vệ nhân dân trước mọi bất công và đàn áp. Đạo Phật là đạo hòa bình, theo bước tiền nhân chống phong kiến và chủ nghĩa ngu dân trong quá khứ, thì nay chúng tôi dấn thân cho nhân quyền và dân chủ.
Tôi hết lòng kỳ vọng vào Tổng Thống , xin Tổng Thống hãy đứng bên cạnh nhân dân Việt Nam đang lâm cảnh khốn khổ, để nói thay cho hàng triệu người dân Việt ngày nay không có tiếng nói ngay trên chính quê hương họ.
Trân trọng kính chào Tổng Thống.
Thanh Minh Thiền viện, Saigon ngày 14.7.2013
Đệ Ngũ Tăng Thống GHPGVNTN
(ấn ký)
Sa môn Thích Quảng Độ
Đệ Ngũ Tăng Thống GHPGVNTN
(ấn ký)
Sa môn Thích Quảng Độ
HT Thích Quảng Độ trả lời RFA về tâm thư gửi TT Obama
Ngày 24 tháng 7 này ông chủ tịch nước Trương Tấn Sang sẽ công du Hoa
Kỳ và điều này đã gây chú ý cho nhiều người Việt trong và ngoài nước
trong đó có Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ thuộc Giáo hội Phật giáo VN
thống nhất. Quan tâm sâu sắc tới chuyến đi này Đức Tăng Thống đã gửi một
bức tâm thư cho tổng thống Obama trước khi ông Sang lên máy bay công du
Hoa Thịnh Đốn. Phóng viên Ỷ Lan của đài chúng tôi có cuộc phỏng vấn Đức
Tăng Thống để tìm hiều thêm về nội dung bức thư.
Khuyến khích VN thay đổi
Ỷ Lan: Ngưỡng bạch Đức Tăng Thống Thích Quảng
Độ. Hôm 14.7 vừa qua, Đức Tăng Thống viết thư gửi Tổng Thống Hoa Kỳ
Barack Obama nhân chuyến viếng thăm của Chủ tịch Trương Tấn Sang tại
Washington DC. Kính xin Đức Tăng Thống hoan hỉ cho biết nội dung thư đề
cập tới việc gì?
HT Thích Quảng Độ: Nước Mỹ lâu rồi đóng vai trò
lãnh đạo của các nước dân chủ văn minh trên thế giới, có truyền thống
dân chủ từ mấy thế kỷ rồi. Bây giờ cũng vào hàng cường quốc bật nhất.
Không những về dân chủ mà cả về kinh tế. Thành ra tất cả các nước chưa
có được dân chủ tự do đều hướng về Hoa Kỳ, để may ra mà có ảnh hưởng của
Hoa Kỳ mà thực hiện được dân chủ ở nước mình.
Nhân việc ông Chủ tịch nước Việt Nam sang thăm. Rất là
hiếm hoi một ông Chủ tịch Cộng sản Việt Nam mà sang Hoa Kỳ, thì đây tôi
cho là một dịp rất hiếm hoi.
Tôi cũng mạo muội đề nghị với ông Tổng Thống Mỹ nhân dịp này khuyến khích ông Trương Tấn Sang chuyển đổi cái đường lối chính trị độc tài toàn trị bây giờ… hầu hết là mất lòng dân.
-HT Thích Quảng Độ
Trên phương diện tôn giáo tôi cũng mạo muội đề nghị với
ông Tổng Thống Mỹ nhân dịp này khuyến khích ông Trương Tấn Sang chuyển
đổi cái đường lối chính trị độc tài toàn trị bây giờ… hầu hết là mất
lòng dân, để sang một chế độ tự do, dân chủ, bớt cái sự bức hiếp và đàn
áp quần chúng đi, để cho dân tộc Việt Nam có một cuộc sống thoải mái
hơn.
Ỷ Lan: Bạch Đức Tăng Thống, Dân chủ là điều ai
cũng nói tới, ai cũng đòi hỏi. Nhưng liệu dân chủ có thể thực hiện tại
Việt Nam ngày nay không? Ông Lê Duẩn, cựu Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt
Nam, từng tuyên bố Việt Nam có nền dân chủ gấp triệu lần hơn dân chủ
Tây phương. Kính xin Đức Tăng Thống cho biết ý kiến về khẳng định này?
HT Thích Quảng Độ: Cái đó thì ông nói đúng phân
nửa còn phân nửa thì hoàn toàn sai. Trong Đảng Cộng sản hiện giờ có 3
triệu người, hiện giờ họ sống rất thoải mái, chả ai đàn áp họ.
Nhưng đối với dân thì không bao giờ có chuyện đó. Đối với dân họ phân biệt rõ rệt.
Thành ra đảng viên là cái đảng họ sống và họ làm lãnh
đạo. Mà lãnh đạo là có quyền đối với toàn dân. Bởi vậy họ bảo sao thì
dân phải nghe vậy. Không được cãi lại. Cãi lại là họ có cách họ phạt.
Chả ai đàn áp họ, mà họ toàn quyền đàn áp người khác.
Tất cả kinh tế, tài chính, cơ quan từ trên xuống đến
dưới Đảng Cộng sản nắm hết. Thành ra cái đất nước Việt Nam hiện nay là
đất nước của riêng Đảng Cộng sản, chứ 90 dân có còn gì đâu?! 90 triệu
dân họ dùng như những nô lệ, những tay sai để họ sai khiến, phục vụ cho 3
triệu đảng viên thôi. Cái đó rất nguy hiểm. Bởi vậy cho nên cái chế độ
Cộng sản Việt Nam hiện nay càng kéo dài thì 90 triệu dân Việt Nam còn
khổ.
Chống đối họ mà nói ra miệng là họ bỏ tù liền. Bây giờ
họ là chúa ngục làm chủ hết cả đất nước. Dân có còn gì đâu. Dân chỉ là
nô lệ, 90 triệu dân chỉ là nô lệ của 3 triệu đảng viên Cộng sản mà thôi.
Ỷ Lan: Đức Tăng Thống có nghĩ rằng một bức thư
thúc đẩy cho cải cách chính trị và dân chủ hóa Việt Nam như thư gửi
Tổng thống Obama là một hành động chính trị không? Đức Tăng Thống là nhà
chính trị hay nhà tôn giáo? Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất có
làm chính trị không?
HT Thích Quảng Độ: Nói đến chính trị cũng tùy thời đại. Như thời tôi học ngày xưa trong sách, thì các tác gia như ngài Khổng Tử định nghĩa rằng là Chính giả chính giã.
Có nghĩa là người làm chính trị là người sửa sang đất nước cho ngay
thẳng. Tức là các vị phải ngay thẳng, không được cong queo, không được
gian tà. Đấy, nghĩa gốc chính trị theo ngài Khổng Tử định nghĩa là như
thế.
Còn Cộng sản thì Giáo hội còn phải chịu nhiều khó khăn, phải hứng chịu nhiều khó khăn. Do đó, cho nên tôi nẩy ý như thế chứ không phải là tôi làm chính trị đâu.
-HT Thích Quảng Độ
Nhưng mà chính trị ngày nay không bao giờ có chính trị
đó. Chính trị ngày nay gọi là chính trị thủ đoạn. Họ dùng thủ đoạn, phải
hóa trái, đen mà hóa trắng, trắng hóa đen. Thành ra giờ gọi là chính
trị thủ đoạn, dối trá. Thành ra tôi nói như thế yêu cầu ông Tổng Thống
Mỹ làm việc đấy, không phải là cái người làm chính trị, mà tôi chỉ so
quan niệm chính trị cổ xưa mà nói thôi. Nói may ra thì được. Chứ các vị
Sư tu hành thì làm sao mà làm được chính trị?
Ngày xưa có Tào Tháo của Tàu cũng là một tay ghê gớm về
thủ đoạn đấy, ngày nay nhắc đến Tào Tháo ai cũng ngán. Bây giờ chính trị
nó như thế, mà các Sư mà làm chính trị thì lại tồi tệ nữa.
Thành ra tôi nói chính trị đây là thái độ chính trị thôi
chứ không phải là người làm chính trị. Đây là ý kiến, là quan điểm về
chính trị. Thái độ chính trị nó khác. Mà nếu thực hiện được chế độ dân
chủ đây thì Giáo hội thoát nạn.
Nếu bây giờ đây có chính phủ thật sự đa đảng thì Giáo hội còn vấn đề gì nữa đâu.
Còn Cộng sản thì Giáo hội còn phải chịu nhiều khó khăn,
phải hứng chịu nhiều khó khăn. Do đó, cho nên tôi nẩy ý như thế chứ
không phải là tôi làm chính trị đâu.
Ỷ Lan: Trong bức thư cho Tổng Thống Obama, Đức
Tăng Thống cho biết chính Đức Tăng Thống là nạn nhân của chính sách đàn
áp của nhà cầm quyền Hà Nội. Đức Tăng Thống có thể cho biết sơ lược về
tình trạng sinh sống của Đức Tăng Thống từ những năm vừa qua?
HT Thích Quảng Độ: Từ sau 75 đến giờ thì Giáo hội
Phật giáo Việt Nam Thống nhất luôn luôn bị nạn. Trong thời gian từ 75
đến 81, trong 2 năm đầu thì chúng tôi phải vào tù rồi. Lần đầu tiên vào
[nhà tù] Phan Đăng Lưu là mất hai năm. Thế rồi về được mấy năm thì 1982
họ lại đưa ra quản chế ở ngoài Bắc mười năm. Năm 1994 tổ chức đi cứu trợ
đồng bào bị lụt lội tại miền Nam, họ lại bắt nữa. Bắt lần này đưa ra Ba
Sao sau chuyển qua Thanh Liệt.
Nănm 98 được đặc xá cho về Thanh Minh đây. Họ bảo từ nay
trở đi ông cứ phải ở đây chứ không được đi đâu. Nhưng mà họ không cho
văn kiện, họ nói miệng thế thôi. Coi như buộc cư trú chỉ nói miệng thế
thôi chứ không có văn kiện. Họ sợ có bút tích thì đưa lên tố cáo họ,
thành ra từ ngày ấy đến nay cứ ở đây vậy. Cũng như tù lỏng.
Ỷ Lan: Xin cám ơn Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ.
Ỷ Lan, Phóng viên Đài Á châu Tự do tại Paris.
TPP và chuyến thăm Hoa Kỳ của Chủ tịch Việt Nam
Vậy nội dung này sẽ có ý nghĩa ra sao trong chuyến viếng thăm của ông Trương Tấn Sang, Vũ Hoàng trao đổi với ông Ernest Z. Bower, Cố vấn cao cấp, Giám đốc Chương trình Đông Nam Á của Trung tâm nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế Hoa Kỳ.
Quan điểm của hai nước
Vũ Hoàng: Trước hết cám ơn ông đã dành thời gian cho đài RFA, theo ông khi chủ tịch VN Trương Tấn Sang đến Hoa Kỳ liệu vấn đề TPP có phải là phần cốt lõi nhất hay không?
Earnest Bower: Quan điểm của Washington là Việt Nam ngày càng
trở thành một trong những quốc gia có tầm chiến lược trong khu vực Đông
Nam Á. Việt Nam có những cam kết cấp cao về thương mại cũng như tăng
cường sức mạnh cho khối ASEAN, vì thế, TPP có vai trò rất quan trọng
trong chuyến thăm này của chủ tịch Trương Tấn Sang tới Hoa Kỳ.
Việt Nam và Hoa Kỳ có cùng quan điểm là cần thiết phải tạo ra sự gắn
kết chặt chẽ hơn nữa trong khu vực ASEAN, và đây cũng là một trong những
nỗ lực để Trung Quốc thấy rằng khi họ tạo ra luật lệ cho các nước trong
khu vực thì họ cũng phải tuân thủ những luật đó, chứ không thể áp đặt
quan điểm của họ lên vùng chủ quyền lãnh thổ ngoài biển Đông. Tôi nghĩ
rằng điều này cũng tạo ra một cảm giác an toàn về mặt kinh tế và chính
trị trước Trung Quốc. An toàn trước Trung Quốc là những điều kiện cần
thiết cho hòa bình và thịnh vượng cho khu vực Châu Á – TBD, Hoa Kỳ và
Việt Nam đều chia sẻ quan điểm này.
Việt Nam và Hoa Kỳ có cùng quan điểm là cần thiết phải tạo ra sự gắn kết chặt chẽ hơn nữa trong khu vực ASEAN.
- Earnest Bower
Cũng trên quan điểm đó, theo tôi, các chính trị gia của cả Hà Nội và
Washington cần phải nỗ lực hơn để đưa ra những quyết định khó khăn về
TPP, để hiệp định này có thể được thông qua trong vòng 2 năm tới.
Vũ Hoàng: Báo chí cũng như nhiều luồng thông tin từ cả Việt
Nam và Hoa Kỳ cho là hai phía đang ráo riết muốn kết thúc các vòng đàm
phán vào tháng 10 năm nay. Theo ông liệu điều đó có khả thi không?
Earnest Bower: Theo tôi hiện tại Tòa Bạch Ốc đang rất muốn
hoàn tất hiệp định về TPP trong năm nay, tuy vậy, tôi không biết liệu
điều này có diễn ra vào tháng 10 năm nay hay không, là thời điểm mà Hội
nghị thượng đỉnh Đông Á sẽ được tổ chức tại Brunei. Tôi nghĩ là Tổng
thống Obama và Đại diện Thương mại mới là ông Mike Froman đang cam kết
để Hiệp định này được Quốc Hội bước đầu thông qua vào năm 2014, ngay
trước khi cuộc bầu cử giữa kỳ tại Mỹ diễn ra.
Hiện tại, thì chính phủ Hoa Kỳ, Việt Nam cũng như các nước đàm phán
khác đang nỗ lực để kết thúc các vòng đàm phán càng sớm càng tốt, đó là
mục tiêu thực sự.
Vũ Hoàng: Một trong những yếu tố thường được các đối tác
đàm phán khi nhắc tới Việt Nam là “một nền kinh tế phi thị trường”, vậy
quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào?
Earnest Bower: Tôi nghĩ ở một khía cạnh nào đó, Việt Nam đang
sử dụng TPP như một động lực để thúc đẩy hơn nữa tiến trình cải cách
kinh tế của mình, cả Chính phủ lẫn đảng Cộng sản Việt Nam đang cố gắng
đưa nền kinh tế của mình trở nên cạnh tranh hơn nữa. Thật khó để cải
cách khối doanh nghiệp Nhà nước, là khu vực đang có vai trò chi phối
trong nền kinh tế quốc gia nếu không có sự ủng hộ về mặt chính trị. Tôi
nghĩ dưới góc độ này, TPP sẽ là một đòn bẩy quan trọng để cả Đảng Cộng
sản và Chính phủ thay đổi khu vực doanh nghiệp NN trước những sức ép đòi
hỏi từ bên ngoài, kể cả việc thu hút sự quan tâm của các dòng đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam.
Khối doanh nghiệp nhà nước
Vũ Hoàng: Cũng liên quan đến chuyện này, hồi tháng 3, chúng tôi có được đọc bản tin của CSIS, ông nhận xét khá nhiều về khối doanh nghiệp Nhà nước VN, vậy, mối quan hệ của khu vực này trong việc đàm phán TPP của Việt Nam ra sao rồi thưa ông?
Earnest Bower: Các doanh nghiệp NN của Việt Nam cũng giống với
Trung Quốc là đang kéo nền kinh tế quốc gia đi xuống. Tôi nghĩ là tất
cả các nhà kinh tế Việt Nam đều cho rằng khối doanh nghiệp Nhà nước phải
đổi mới. Vì thế, một lần nữa đàm phán TPP sẽ mang lại cơ hội chiến
lược, cộng với sức ép đổi mới từ bên ngoài và những đòi hỏi đổi mới
chính trị kinh tế từ các nước đối tác đàm phán, buộc Việt Nam phải thay
đổi khối doanh nghiệp này.
Ngoài ra, thông qua TPP cũng khiến Việt Nam hội nhập hơn nữa với Châu
Á, ý tôi muốn nói là những nỗ lực về hội nhập kinh tế, đảm bảo Việt Nam
tiếp tục tiến lên chứ không bị tụt hậu, nhất là khi Việt Nam muốn trở
nên cạnh tranh hơn và đối mặt với những sức ép ngày càng tăng từ Trung
Quốc.
Vũ Hoàng: Thưa ông, TPP ngoài các điều khoản
về đàm phán “nền kinh tế thị trường” thì còn nhiều yếu tố khác nữa như
bảo vệ sở hữu trí tuệ, quyền người lao động rồi cả tham nhũng nữa. Vậy
đến lúc này, những điều khoản trên đã được đàm phán ra sao rồi?
Earnest Bower: Tôi chỉ muốn nhắc anh cũng như muốn để thính giả hiểu rằng, việc đàm phán không chỉ là giữa 2 quốc gia Việt Nam và Hoa Kỳ mà là giữa 11 quốc gia đàm phán. Tôi nghĩ các vòng đàm phán bao gồm cả những cam kết về tính minh bạch và quản lý hay giám sát để tăng cường những cam kết về lao động và môi trường nữa.
Các doanh nghiệp NN của Việt Nam cũng giống với Trung Quốc là đang kéo nền kinh tế quốc gia đi xuống. Tôi nghĩ là tất cả các nhà kinh tế Việt Nam đều cho rằng khối doanh nghiệp Nhà nước phải đổi mới.
- Earnest Bower
Nếu để ý chúng ta có thể thấy người dân Việt Nam rất quan tâm đến
việc cải thiện những lĩnh vực như chống tham nhũng, nước sạch, môi
trường, an toàn lao động, an toàn thực phẩm…và đây cũng là những mối
quan tâm giống với mọi quốc gia khác. Tôi nghĩ rằng Chính phủ Việt Nam
đã truyền tải và đưa những mối quan tâm này của người dân vào trong tiến
trình đàm phán và như vậy là chính phủ Việt Nam đang mang lại cuộc sống
tốt hơn cho người dân.
Vũ Hoàng: Vâng cám ơn lời nhắc nhở của ông về 11 nước đang
tham gia đàm phán, câu hỏi cuối cùng của chúng tôi chỉ liên quan đến 2
đối tác Hoa Kỳ và Việt Nam là: Việt Nam đặt trọng tâm nhiều đến việc đàm
phán lĩnh vực may mặc và giày dép khi xuất sang Hoa Kỳ trong khi đó,
Hoa Kỳ lại ưu tiên đến hàng nông sản khi xuất sang thị trường Việt Nam.
Vậy đánh giá của ông về việc điều hòa những khác biệt trong các ưu tiên
này ra sao?
Earnest Bower: Hoa Kỳ, Việt Nam cũng như mọi quốc gia đàm phán
khác đều có những quan tâm cụ thể đến từng lĩnh vực khác nhau, chẳng
hạn, Việt Nam quan tâm nhiều đến tiếp cận thị trường cho hàng dệt may,
giày dép và cá tra. Tôi nghĩ đặt các ưu tiên khác nhau cũng là bản chất
của quá trình đàm phán, nếu Hoa Kỳ muốn thấy được Hiệp định TPP vào mùa
thu năm nay thì Hoa Kỳ cần phải hiểu được những yêu cầu trong chính trị
nội bộ Việt Nam là họ đang cần những gì. Nói thực lòng, ngay cả tôi hay
bất cứ một người nào khác ở thời điểm này, đều không biết được khi kết
thúc đàm phán thì Hiệp định sẽ ra sao. Những người đàm phán và cả các
nhà lãnh đạo quốc gia đều hiểu rằng cả 2 phía phải có những hi sinh
nhiều hơn những gì mà họ muốn để có thể có được Hiệp định TPP thành
hình.
Vũ Hoàng: Xin cám ơn ông rất nhiều.
Suy nghĩ về chuyến đi của Chủ tịch Sang
Cập nhật: 08:29 GMT - thứ năm, 18 tháng 7, 2013
Sau chuyến thăm Trung Quốc thì
chuyến công du sắp tới của ông Chủ tịch nước là mối bận tâm của rất
nhiều người đang trĩu nặng suy tư về vận nước.
Những hoạt động ngoại giao dồn dập trong thời
gian qua càng làm cho mối bận tâm ấy thêm bức xúc trước những diễn biến
mới của thời cuộc trong nước và thế giới.
Những hoạt động đối ngoại gắn liền
máu thịt với hoạt động đối nội, mà về thực chất thì nội lực của dân tôc,
thế đứng của đất nước là nhân tố quyết định chiến lược và sách lược đối
ngoại. Tiếng chuông đánh ở nước người vang đến đâu là tùy thuộc vào sự
dồn sức, góp lực của cả toàn dân.
Đương nhiên, khôn khéo và thông minh để nắm bắt
thời cơ, khai thác và phát huy tối đa hợp lực được tạo ra từ hoạt động
đối ngoại với nhận thức rằng, bỏ lỡ thời cơ là sự bỏ lỡ đáng tiếc nhất
mà rồi cái giá mà dân tộc phải trả là không sao tính xuể! Chẳng thế mà
Nguyễn Trãi từng căn dặn "Thời! Thời! Thực không nên lỡ".
Vả chăng, chúng ta lại đang sống trong một thế giới đầy biến động.
Cuộc cách mạng thông tin với mạng lưới internet
phủ sóng khắp nơi đã khiến cho thế giới rộng lớn được thu hẹp lại trong
"ngôi nhà toàn cầu", làm cho nhất cử, nhất động của mỗi một ai đó, nhất
là của các "chính khách" đều hiện rõ mồn một trước đôi mắt tinh anh của
công luận.
Chính cái đó đem lại một sức mạnh mới, cách suy
nghĩ mới cho mỗi con người. Người ta hiểu ra rằng, kiểu tư duy tuyến
tính theo lối mòn không bắt kịp với thời đại mà chuẩn mực chính là sự
thay đổi.
Những tri thức cũ, kinh nghiệm cũ, dù quý báu
đến đâu, cũng không còn đủ cho hành trình của dân tộc đi về phía trước.
Không thể không có tri thức mới, kinh nghiệm mới để hình thành một kiểu
tư duy tương thích với nhịp sống đương đại của nền văn minh trí tuệ
đang làm cho tiến trình phát triển đưa tới những bước hợp trội, tạo ra
những đột biến không thể nào dự báo trước được.
Hiện tượng Myanmar là một ví dụ thật hấp dẫn.
Ngoài ra, những bài học trị nước và cứu nước của
ông cha ta vẫn ẩn chứa những nguyên lý ứng xử với dân với nước, với bạn
với thù theo lối "mãn chiêu tổn, khiêm thụ ích" (cái đầy gọi cái vơi,
võng xuống thì được làm cho đầy trở lại,) vẫn có ý nghĩa sâu sắc trong
hoạt động đối nội và đối ngoại.
Dòng sông cuộc sống đang đẩy con thuyền đất nước
đi vào đoạn nước xoáy, người lèo lái chỉ một chút sơ sẩy, thiếu bản
lĩnh, thiếu hiểu biết sẽ khiến cho dân tộc phải trả giá đắt. Vì xét đến
cùng, cái quyết định vẫn ở con người.
Thì chẳng thế sao? "Đại Việt Sử ký toàn thư. Kỷ
nhà Trần" có chép lời tên tướng Ô Mã Nhi nhận xét về Đỗ Khắc Chung,
người được vua Nhân Tông cử đến trại giặc dò xét tình hình: "Có thể nói
là [người này] không nhục mệnh vua. Nước nó còn có người giỏi, chưa dễ
mưu tính được".
Tên tướng Tàu này quả là biết xét đoán người và
hiểu được thời cuộc để thực thi đường lối cổ truyền nhất quán của chúng:
không khuất phục, mua chuộc được đối phương thì tìm cách mà trừ đi! Bản
lĩnh hiên ngang không biết cúi thấp đầu của Đỗ Khắc Chung là biểu hiện
khí phách dân tộc, làm nên sức mạnh Việt Nam đánh tan tác kẻ thù từng
xéo nát nhiều vùng lãnh thổ từ Á sang Âu ở thế kỷ XIII.
Người thực thi mệnh [lệnh] của nước của dân ở thế kỷ XXI này, vì thế, phải biết học cha ông, không để nhục quốc thể.
Quan hệ Nước lớn-Nước nhỏ và Bản lĩnh Dân tộc
Có một điều phải suy nghĩ thêm khi báo chí ta
gần đây hay nói đến chuyện ứng xử giữa nước nhỏ với nước lớn. Điều ấy có
cái lý của nó. Nhưng cũng lại phải thấy cho ra một điều nữa là, một
nước đứng thứ 13 thế giới về dân số, cũng đã từng được cả thế giới biết
đến như là một dân tộc từng đánh thắng những thế lực ngoại xâm khổng lồ ở
thế kỷ XIII, XV, XVIII và XX để hiên ngang tồn tại bên bờ Thái Bình
Dương rộng lớn, có một vị thế trong khối Asean, mà cứ vẫn mang tâm lý
"nước nhỏ" trong ứng xử thì e cũng có chỗ chưa thỏa đáng.
"Điều chua chát đáng nói nhất khi sử dụng khái niệm "nước nhỏ" chính là sự nếm trải vị đắng của thân phận một dân tộc từng là một quân cờ trên bàn cờ trong cuộc chơi giữa các "nước lớn"!"
Hàn Quốc với diện tích 100.032 km vuông, dân số
48 triệu người, là "nước nhỏ" nhưng xem ra thế ứng xử của họ trên trường
quốc tế thì cũng không "nhỏ" như người ta tưởng. Rồi Singapore, với
diện tích 697.7km2, chỉ bằng diện tích huyện Cần Giờ của TPHCM và dân số
chỉ 5,1 triệu người vào năm 2010 thì đúng là nhỏ, rất nhỏ. Nếu tính từ
ngày tuyên bố độc lập năm 1965 thì họ chỉ mới có gần 50 năm phát triển
từ một nước hầu như không có tài nguyên, nguyên liệu đều phải nhập từ
bên ngoài. Nhưng cũng chính vì thế, họ nhanh nhạy đi đầu trong việc
chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức và theo dự tính thì đến 2018
Singapore sẽ là một đầu mối của mạng lưới năng động trong nền kinh tế
châu Á và toàn cầu với tính đa dạng nhạy bén trong hoạt động kinh doanh.
Thế đứng của đất nước này, vì thế, đâu kém những nước diện tích lớn,
dân số đông!
Còn ta, vì sao Việt Nam ta từ đỉnh cao chiến thắng lại trở thành lạc hậu và lạc điệu với thế giới?
Đây là câu chuyện dài nhưng không thể không thẳng thắn và sòng phẳng chỉ ra nguyên nhân của nó.
Muốn thế, phải đặt vận mệnh của tổ quốc lên trên
hết và trước hết, thực hiện sự hòa giải và hòa hợp dân tộc, gạt bỏ
những mâu thuẫn về lợi ích riêng tư, chấm dứt những hành vi và thủ đoạn
tranh giành quyền lực để đồng tâm hiệp lực xây dựng đất nước. Có như vậy
mới tạo nên được một thế đứng Việt Nam trong những mối liên hệ phụ
thuộc và tác động lẫn nhau của các mối quan hệ quốc tế, vấn đề có ý
nghĩa sống còn trong hoạt động đối ngoại, tránh được nguy cơ thao túng
của nước lớn.
Điều chua chát đáng nói nhất khi sử dụng khái
niệm "nước nhỏ" chính là sự nếm trải vị đắng của thân phận một dân tộc
từng là một quân cờ trên bàn cờ trong cuộc chơi giữa các "nước lớn"!
Bản lĩnh và khí phách của dân tộc trước kẻ thù
ngoại xâm đã giục giã nhiều thế hệ Việt Nam lên đường cứu nước, không
ngại hy sinh. Máu người không phải nước lã. Và máu đã chảy thành sông,
xương đã chất thành núi từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau. Vì thế, quyết
không để cho mạng sống của người Việt, vận mệnh của tổ quốc bị lợi ích
của những nước lớn với đủ thứ "nhân danh" để biến thành những quân cờ
trong cuộc chơi của họ.
Quân cờ ấy, khi cần thiết thì người ta đánh bóng
mạ kền, hoặc thổi lên thành một chiếc bong bóng sặc sỡ sắc màu huyền
thoại để mà vui vẻ nhận lãnh những vinh quang vô ích: "Nếu lịch sử chọn
ta làm điểm tựa, Vui gì hơn làm người lính đi đầu".
Để rồi, trong "niềm vui" ấy, những núi xương,
sông máu của "người lính đi đầu" đổ ra tạo thành khoảng cách an toàn cho
Mao "đại nhảy vọt" và đến một ngày đẹp trời thì Chu (Ân Lai) vui vẻ bắt
tay Richard Nixon ở Thượng Hải để mặc cả trên đầu người bạn láng giềng
"núi liền núi, sông liền sông, chung một biển Đông" về nước cờ "thí tốt,
đẩy xe", bật đèn xanh cho B52 rải thảm Hà Nội.
Quyền lực và Tội lỗi
Chiếc bong bóng sặc sỡ kia vỡ tan, nhưng không
chỉ là một ảo ảnh tan vỡ mà là một hệ lụy lịch sử nặng nề với những vết
thương hằn sâu trong lòng dân tộc khi non sông đã quy về một mối.
Thay vì làm lành vết thương, người ta lại khoét
sâu thêm do bị chủ nghĩa giáo điều cầm tù, mà nguy hiểm nhất là tiếp tục
thực thi quan điểm"đấu tranh giai cấp là động lực của sự phát triển "
để rồi tạo ra một xã hội bất an và xáo động, hệ thống giá trị bị đảo
lộn, văn hóa dân tộc với cốt lõi là nền văn hóa làng, cái nôi của tâm
hồn Việt, bị băng hoại. Đó chính là hệ lụy nặng nề vừa nhắc đến.
Liều thuốc chữa trị cho sự bất an ấy, bi đát
thay, lại là một chế độ toàn trị phản dân chủ đang được đẩy tới ngày
càng hung hãn như không có điểm dừng. Cái gọi là "nhà nước pháp quyền"
được rao giảng là "của dân, do dân và vì dân" đang quay lưng lại với
dân. Cán cân công lý chao đảo trước vòng xoáy lợi ích của các nhóm quyền
lực với những bản án bỏ túi theo Nghị quyết. Đó là lý do giục giã những
"bàn chân nổi giận" của nông dân, của thanh niên sinh viên, của trí
thức rầm rập xuống đường bất chấp mọi thủ đoạn trấn áp và sự xuyên tạc,
lừa mị.
Chưa bao giờ người ta thấy cái nguyên lý khủng
khiếp vận hành trong xã hội từng được trí tuệ loài người đúc kết :
"Quyền lực thúc đẩy việc mở rộng vô hạn độ quyền lực, và hầu như không
có điểm dừng. Nhưng "quyền lực lại có xu hướng tham nhũng và quyền lực
tuyệt đối thì tham nhũng cũng tuyệt đối” (Power tends to corrupt and
absolute power corrupts absolutely).
"Thế giới văn minh làm sao chấp nhận một thứ luật rừng trong ứng xử với dân?"
Chế độ toàn trị phản dân chủ là nguyên nhân sâu xa cho cái chuyện "quyền lực tuyệt đối thì tham nhũng cũng tuyệt đối " ấy.
Vì vậy, nếu chỉ chĩa mũi nhọn vào một số người,
cho dù là cần thiết đi chăng nữa, thì chỉ là bôi thuốc chữa mụn ngoài da
để mong đẩy lùi căn bệnh đã ăn sâu vào lục phủ ngũ tạng. Cho nên, nỗi
bức xúc lớn đang chứa chất trong lòng xã hội là cải cách thể chế để lập
lại trật tự và thúc đẩy kinh tế phát triển, cải thiện đời sống của mọi
tầng lớp nhân dân, đặc biệt là nông dân và bà con dân tộc ở vùng sâu,
vùng xa.
Dân chủ là liều thuốc đặc trị để chống tham nhũng và các tật bệnh nói trên có hiệu quả nhất vào lúc này.
Dân chủ là phương thuốc hiệu nghiệm cho căn bệnh tưởng như vô phương cứu chữa là bộ máy nhà nước đang ngày càng phình to.
Dân chủ cũng là phương thuốc hiệu nghiệm nhất để
Đảng Cộng sản Việt Nam, lực lượng chính trị lớn nhất, có mạng lưới rộng
khắp cả nước, tự chỉnh đốn mình nhằm đáp ứng đòi hỏi bức xúc của dân và
của cả đông đảo đảng viên của Đảng.
Chuyện này chẳng có gì mới, sở dĩ phải nêu lên
đây vì chúng liên quan mật thiết với gương mặt đất nước trước thế giới.
Nói cách khác, liên quan đến sức mạnh của dân tộc, thế đứng của đất nước
trong hoạt động đối ngoại.
Thế giới văn minh làm sao chấp nhận một thứ luật
rừng trong ứng xử với dân? Làm sao xây dựng được niềm tin chiến lược
với các đối tác trên trường quốc tế khi Việt Nam tuy đã công nhận Tuyên
ngôn Quốc tế Nhân quyền là giá trị phổ dụng, đã ký cam kết tuân thủ Công
ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị,Công ước Quốc tế về các
Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa, ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên
Hiệp Quốc nhưng trong ứng xử thực tế thì làm ngược lại?
Cái chuyện nhân danh "đặc thù" của mỗi nước về
văn hóa, chính trị để phủ nhận những chuẩn mực chung về văn minh mà thế
giới tôn trọng đã trở nên kệch cỡm và lạc điệu. Cần quan niệm rằng thực
thi dân chủ, cải thiện điều kiện để quyền con người được thực hiện một
cách công khai và lành mạnh, chính là đòi hỏi của sự phát triển, tăng
cường nội lực chứ không phải là do sức ép của bên ngoài, càng không thể
là một sự áp đặt.
Bỏ lỡ Cơ hội và Lựa chọn Sai lầm
Một cơ hội bị bỏ lỡ cho việc đưa đất nước đi vào quỹ đạo của thế giới tiến bộ và văn minh là thời điểm lấy ý kiến toàn dân về sửa đổi Hiến Pháp. Biết bao tâm huyết và trí tuệ chân thành, thẳng thắn góp vào chuyện quốc gia đại sự này đã bị lãng phí một cách vô ích mà Kiến nghị của giới trí thức, nhân sĩ (gọi tắt là Kiến nghị 72) góp vào xây dựng Hiến Pháp là một bằng chứng sống động.
Phải chăng người ta muốn noi theo cách hành xử
của Tập Cận Bình khi ông ta khẳng định: "Tôi cho rằng điều kiện hiện nay
cũng giống trước kia, thời cơ vẫn chưa chín muồi. Tình hình trong và
ngoài nước hiện nay chỉ cho phép chúng ta dùng “liệu pháp giữ nguyên”,
hơn nữa duy trì được hiện trạng cũng là tốt lắm rồi, thực ra duy trì
được cũng không phải dễ dàng. Bởi vậy, tôi chỉ có thể nhắc lại “ba tin
tưởng” [tin vào đường lối, tin vào lý luận, tin vào chế độ] mà thực sự
không thể đụng tới cải cách thể chế chính trị hoặc ít nhất hiện nay
không được đụng tới".
Không được đụng tới vì chính đây là tử huyệt của chế độ toàn trị phản dân chủ đang thống trị Trung Quốc.
Nếu điều dẫn ra ở trên đúng là tư tưởng của
người giữ vai trò nguyên thủ của đất nước Trung Hoa thì rất đáng phải
suy nghĩ về tác động không nhỏ của tư tưởng này đối với một số ai đó
đang nuôi dưỡng ảo mộng "đi với Trung Quốc thì bảo vệ được đảng, giữ
được chế độ XHCN"!
Họ không dám nhìn thẳng vào sự thật là khi Trung
Quốc diễu võ dương oai bên ngoài là nhằm đánh lạc hướng những mâu thuẫn
gay gắt bên trong, nhằm che lấp những giằng xé đấu đá trong nội bộ đảng
cầm quyền, những mâu thuẫn trong xã hội, mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo
đang ngày càng gay gắt, đẩy tới nguy cơ bùng nổ. Ngoài ra, những chỉ số
giảm sút về tăng trưởng kinh tế và sự kiện hệ thống ngân hàng tiếp tục
tài trợ cho các dự án quốc doanh thua lỗ nặng đã cho thấy Trung Quốc
đang trên đà suy thoái khó lòng cứu vãn.
Như vậy, vội vã hớp lấy "liệu pháp giữ nguyên"
của Trung Quốc, để rồi "thực sự không thể đụng tới cải cách thể chế
chính trị hoặc ít nhất hiện nay không được đụng tới", chính là ngăn chặn
sự phát triển của đất nước, duy trì sự lạc hậu và lạc điệu với thế giới
để "ông bạn láng giềng"dễ bề thao túng chứ không có gì khác.
Đây là ý đồ thâm hiểm của một bộ phận trong giới cầm quyền Bắc Kinh đang thực thi âm mưu bành trướng của chủ nghĩa Đại Hán.
Nếu tìm được người cùng hội cùng thuyền, cùng
chung cái gọi là "ý thức hệ" thì "dễ mưu tính" như cách Ô Mã Nhi xưa kia
mưu toan, sẽ không phải điều binh khiển tướng hết sức tốn kém, lại phải
đương đầu với cả thế giới, nhưng vẫn tháo gỡ được cái xương đang mắc
ngang cổ họng khiến khó nuốt trôi được cả vùng tài nguyên và con đường
huyết mạch ở Biển Đông và khu vực Đông Nam Á.
Lựa chọn “liệu pháp giữ nguyên” của Trung Quốc
cũng là quên mất rằng một khi “điểm tựa duy nhất” này sụp đổ chế độ ăn
theo cũng sẽ không thể thoát khỏi cùng chung số phận.
Sinh lộ duy nhất: Dân chủ
Nếu Việt Nam quyết liệt cải cách thể chế, thực
thi dân chủ hóa, định hình một mô hình phát triển,sẽ tạo ra một nội lực
hùng hậu, nhân tố quyết định thành công của hoạt động đối ngoại và làm
phá sản thủ đoạn "bất chiến tự nhiên thành" trong mưu đồ nham hiểm của
Trung Quốc. Vì thế, Trung Quốc sẽ ra sức ngăn cản Việt Nam thực hiện
điều này.
"Chỉ có thể tạo được thế đứng khi Việt Nam thoát ra khỏi quỹ đạo của Trung Quốc, vứt bỏ cái mũ kim cô mà chủ nghĩa bành trướng Đại Hán đang cố thít chặt để dễ bề kiềm tỏa và thao túng. "
Giáo sư Tương Lai
Cho nên, nếu soi kỹ những phản ứng của họ tại Diễn đàn Shangri-La vừa rồi sẽ hiểu rõ chúng ta cần phải làm gì trong những hoạt động đối ngoại sắp tới.
Đương nhiên, không chịu làm một quân cờ trên bàn cờ quốc tế trong cuộc chơi của các nước lớn không có nghĩa là co mình lại, không dám chủ động tạo ra một thế liên kết mới trên trường quốc tế. Chính mối liên kết đó sẽ tạo nên một thế đứng Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á, Châu Á-Thái Bình Dương và trên toàn thế giới.
Chỉ có thể tạo được thế đứng ấy khi Việt Nam
thoát ra khỏi quỹ đạo của Trung Quốc, vứt bỏ cái mũ kim cô mà chủ nghĩa
bành trướng Đại Hán đang cố thít chặt để dễ bề kiềm tỏa và thao túng.
Chẳng thế mà Trung Quốc đã không úp mở vừa dụ dỗ vừa đe dọa khi Việt Nam
thiết lập một quan hệ mới với Mỹ và các nước phương Tây cho dù Việt Nam
đứng vững trên tư thế độc lập để thực thi một chính sách đối ngoại thân
thiện và bình đẳng với tất cả các nước, trong đó có Trung Quốc.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, ông cha ta
đã từng thực hiện việc "giải Hán hóa" một cách khôn ngoan để gìn giữ bản
sắc văn hóa Việt. Ấy vậy mà, đúng như Trần Quốc Vượng nhận xét, "cuộc
đấu tranh giữa mô hình dân tộc và mô hình kiểu Tàu cho đến khi phong
kiến hết thời vẫn chưa chấm dứt...". Trong cuộc đấu tranh ấy, "tìm về
dân tộc" và "thân dân" là phương cách hiệu nghiệm nhất để thực hiện việc
"giải Hán hóa", và hôm nay là việc thoát ra khỏi cái quỹ đạo Trung Quốc
để đến với thế giới văn minh, tiến bộ.
Vì thế, xin mượn cách diễn đạt (và chỉ là cách
diễn đạt thôi) của Lê Quý Đôn trong "Quần thư khảo biện" nhằm thâu tóm
những nghĩ suy và dẫn giải dài dòng trên đây nhân chuyến công du sắp tới
của ông Chủ tịch Nước để chỉ dồn vào một chữ, như Lê Quý Đôn đã viết:
"Kinh Dịch nói: Biến động trong thiên hạ chính
đáng chỉ có một [lý] thôi. Chí lý thay chữ 'một'. Lấy chữ 'một' ấy mà
xuyên suốt mọi việc thì dù bốn bể chín châu cách trở, ngàn xưa trăm đời
xa xôi, mọi trao qua đổi lại, mọi xem xét đánh giá đều vẫn rõ ràng như
bày ra trước mắt, rành rọt như trỏ bàn tay vậy"!
Chữ "một" đây chính là “DÂN CHỦ”.
Bài viết phản ánh quan điểm và văn phong riêng của tác giả, cựu Viện trưởng Viện Xã hội học Việt Nam.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2013/07/130718_gstuonglai_sangvisit.shtml
Việt Nam trước ngã ba đường
19.07.2013
Chuyến đi thăm Hoa Kỳ sắp tới của Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn
Sang, được loan báo vội vã, đã khiến truyền thông quốc tế chú ý tới
hướng đi tương lai cũng như chính sách đối ngoại của Việt Nam.
Tin của Vietnamnet hôm nay xác nhận ông Trương Tấn Sang đi thăm Hoa Kỳ từ ngày 24 tới ngày 26 tháng 7 thể theo lời mời của Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama. Mục đích của chuyến đi là để thảo luận về hướng đi tương lai của các quan hệ song phương.
Tin của Vietnamnet hôm nay xác nhận ông Trương Tấn Sang đi thăm Hoa Kỳ từ ngày 24 tới ngày 26 tháng 7 thể theo lời mời của Tổng Thống Hoa Kỳ Barack Obama. Mục đích của chuyến đi là để thảo luận về hướng đi tương lai của các quan hệ song phương.
Vietnamnet trích lời người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam Lương
Thanh Nghị hôm qua nói rằng chuyến đi Mỹ khẳng định “đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, tích
cực hội nhập quốc tế” của Việt Nam.
Trong khi đó, trên trang mạng của Đại học Yale, YaleGlobal, một nhà cựu ngoại giao Mỹ và giờ là một nhà báo, tải lên một bài viết với hàng tít “Vietnam Between Rock and a Hard Place”, nói lên vị thế rất tế nhị của Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc và Hoa Kỳ.
Tác giả David Brown nêu nghi vấn: “Liệu có phải nỗi thất vọng với Trung Quốc là nguyên do khiến Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang vội vã lên đường sang Washington?”
Trong khi đó, trên trang mạng của Đại học Yale, YaleGlobal, một nhà cựu ngoại giao Mỹ và giờ là một nhà báo, tải lên một bài viết với hàng tít “Vietnam Between Rock and a Hard Place”, nói lên vị thế rất tế nhị của Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc và Hoa Kỳ.
Tác giả David Brown nêu nghi vấn: “Liệu có phải nỗi thất vọng với Trung Quốc là nguyên do khiến Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang vội vã lên đường sang Washington?”
Ông David Brown là một nhà ngoại giao đã phục vụ tại Việt Nam trong
nhiều năm. Ông nhận định rằng các chuyến đi thăm của các nguyên thủ quốc
gia thông thường cần nhiều tháng để chuẩn bị, nhưng chuyến đi của Chủ
tịch nước Việt Nam lần này được loan báo vội vã, và sau một cuộc tiếp
xúc với lãnh đạo Trung Quốc “rõ rệt đã gây sốc” cho giới lãnh đạo tại Hà
nội.
Bài báo đặt câu hỏi phải chăng ông Trương Tấn Sang và giới lãnh đạo hàng đầu khác của Việt Nam đã quyết định “trả cái giá mà Hoa Kỳ đã đòi để thiết lập quan hệ chiến lược?”
Trong một cuộc điều trần trước một tiểu ban quốc hội Hoa Kỳ hồi đầu tháng 6, các giới chức Bộ Ngoại giao Mỹ nói việc siết chặt các quan hệ với Việt Nam, đặc biệt là việc bán vũ khí cho Việt Nam, sẽ được hoãn cho tới khi nào có những “cải thiện lâu dài, có thể chứng minh được trong tình hình nhân quyền tại Việt Nam.”
Tác giả nhận định rằng làm như thế, các giới chức chính phủ Mỹ đã công
khai ghi lại những vấn đề họ đã đặt ra trong các cuộc tiếp xúc riêng tư,
không ồn ào, với các giới chức Việt Nam trong vài năm qua.
Thông điệp đưa ra trong cuộc điều trần tại Quốc Hội Hoa Kỳ dường như không được Hà nội lắng nghe. Theo hãng tin AP, nội trong năm nay, 43 nhân vật bất đồng chính kiến đã bị bắt giữ, gấp đôi số người bị bắt giữ trong năm 2012.
Ngoài ra, còn có chứng cớ cho thấy cánh an ninh mạng của cảnh sát Việt Nam đã tung ra công nghệ theo dõi mạng FinFisher, để cài đặt phần mềm theo dõi hoạt động của dân mạng khi họ truy cập các trang blog của các nhân vật bất đồng.
Thông điệp đưa ra trong cuộc điều trần tại Quốc Hội Hoa Kỳ dường như không được Hà nội lắng nghe. Theo hãng tin AP, nội trong năm nay, 43 nhân vật bất đồng chính kiến đã bị bắt giữ, gấp đôi số người bị bắt giữ trong năm 2012.
Ngoài ra, còn có chứng cớ cho thấy cánh an ninh mạng của cảnh sát Việt Nam đã tung ra công nghệ theo dõi mạng FinFisher, để cài đặt phần mềm theo dõi hoạt động của dân mạng khi họ truy cập các trang blog của các nhân vật bất đồng.
Hà nội vẫn tỏ thái độ bực dọc trước lời kêu gọi của Hoa Kỳ, hối thúc Việt Nam cải thiện nhân quyền. Tác giả cho rằng một số thành phần trong Đảng Cộng Sản Việt Nam đã cản trở việc nới rộng các quyền dân chủ vì lo sợ mục tiêu tối hậu của Hoa Kỳ là lật đổ chế độ đương quyền.
Chiến dịch đàn áp và bắt bớ giới blogger, không ngừng gia tăng trong thời gian qua, theo ông Brown, dường như biểu hiện xu hướng ngả về Trung Quốc, trong khi giới bất đồng trong mấy năm gần đây ngày càng lớn tiếng đả kích điều mà họ cho là sự thất bại của nhà cầm quyền tại Hà nội trong việc bảo vệ các lợi ích của quốc gia trước thái độ gây hấn của Bắc Kinh trong cuộc tranh chấp chủ quyền Biển Đông.
Nhà cựu ngoại giao Mỹ nói rằng mặc dù các lực lượng không quân và hải quân của Việt Nam không phải là không đáng kể, nhưng còn lâu mới có thể được coi là đối thủ của các lực lượng hải, không quân Trung Quốc. Do đó, thay vì tăng nguy cơ xảy ra xung đột trong cuộc tranh giành lãnh thổ lãnh hải với Trung Quốc, nhà cầm quyền tại Hà nội đã tìm cách kiềm hãm thái độ khiêu khích của Trung Quốc bằng cách dựa vào các đối tác khu vực trong khối ASEAN, và thiết lập “các quan hệ chiến lược” với Hoa Kỳ và các cường quốc ngoài khu vực khác.
Tác giả nhận định kết quả của các nỗ lực ngoại giao đó của Việt Nam cho tới nay, tương đối khiêm nhường. 10 nước hội viên ASEAN vẫn chưa thành lập được một mặt trận thống nhất để đương đầu với những đòi hỏi chủ quyền quá đáng của Trung Quốc trong cuộc tranh chấp chủ quyền Biển Đông.
Trước tình hình đó, Washington và đa số các nước ASEAN khác tuyên bố “không ngả về phe nào”, và tìm cách lảng tránh, không trực tiếp thách thức tham vọng bá quyền của Trung Quốc trong các vùng biển giữa Hong Kong tới Singapore.
Trước tình hình ngày càng cấp bách, một số nhân vật ngoài Đảng và một phe phái đáng kể trong nội bộ Đảng Cộng Sản Việt Nam đã hối thúc Hà nội hãy thiết lập quan hệ kinh tế và quân sự –trên thực tế- với Hoa Kỳ.
Mặc dù nhiều giới chức cao cấp trong Đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn tỏ thái độ hoài nghi trước “những động cơ ”của Washington, nhưng trong 4 năm trở lại đây, các cuộc tham khảo giữa Hà nội với các lực lượng quân sự Mỹ đã gia tăng một cách có thể nói là ngoạn mục. Chẳng hạn, hồi tháng 6, các giới chức quân sự cấp cao Việt Nam đã đi tham quan các căn cứ quân sự Mỹ.
Ông David Brown nhận định rằng sau chuyến đi thăm Trung Quốc, ông Trương Tấn Sang đã không mang về thành quả nào, ngoại trừ lời hứa Trung Quốc sẽ đề ra những bước hành động “hiệu quả và triệt để để giải quyết sự bất quân bình trong cán cân thương mại song phương” tới 16 tỉ đôla, nghiêng về hướng có lợi cho Trung Quốc.
Tác giả gợi ý rằng quyết định của Bộ Chính Trị, gửi Chủ tịch nước Trương Tấn Sang sang Hoa Kỳ là dấu hiệu cho thấy lãnh đạo Việt Nam đã bị chấn động vì những gì Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đã nói với ông Trương Tấn Sang trong vòng riêng tư, và đó là lý do đã khiến Hà nội tỏ ra sẵn sàng hơn trong cố gắng xích lại gần Hoa Kỳ, với mục đích “thiết lập các quan hệ quốc phòng mật thiết hơn với Washington”.
Tuy nhiên tác giả cảnh báo rằng Tổng Thống Obama sẽ không hài lòng với những cử chỉ thiện chí có tính cách hời hợt, như hoãn lại vụ án xét xử một nhân vật bất đồng nổi tiếng, luật sư Lê Quốc Quân, vì như chính phủ Mỹ đã thừa nhận trước diễn đàn quốc hội hồi tháng trước, “nhân dân Hoa Kỳ sẽ không ủng hộ việc nâng cấp các quan hệ song phương với Việt Nam, trừ phi có những tiến bộ có thể chứng minh được trong lĩnh vực nhân quyền.”
No comments:
Post a Comment