Thursday, October 20, 2016

BẢO ÂN -ĐỖ KẾ GIAI - DI TẢN

HUY PHƯƠNG * HOÀNG TỬ BẢO ÂN

 
 Huy Phương
Tư liệu của gia đình ông Bảo Ân

Gian nan những chuyến đi


Khoảng cuối năm 1975, bà Phi Ánh vào Tòa Ðại Sứ Pháp tại Sài Gòn, yêu cầu xin cho toàn gia



đình (gồm cả chồng, con riêng và con của cựu hoàng) được đi Pháp. Ít lâu sau, qua ông đại sứ Pháp, Cựu Hoàng Bảo Ðại chỉ chấp thuận cho bà Phi Ánh và hai con sang đoàn tụ và tòa đại sứ đã nhanh chóng cấp Laissez-Passer cho bà Phi Ánh, Phương Minh và Bảo Ân. Tuy nhiên, Phương Minh đã có thời gian sống ở Pháp, nói rằng đời sống ở Pháp rất khó khăn, và tuy vì tình thương con, cựu hoàng thật ra không đủ khả năng bảo trợ nuôi dưỡng ba người. Mặt khác gia đình của bà Phi Ánh không thể chia cắt như thế, và Bảo Ân cũng không thể bỏ vợ con ở lại, nên chuyện ra đi không thành.

Ông Bảo Ân và Thứ Phi Mộng Ðiệp trước tranh vẽ Cựu Hoàng Bảo Ðại (Paris 2004).

Năm 1978, người chồng sau của bà Phi Ánh vượt biên sang Mỹ thành công, gửi giấy bảo lãnh về, nhưng lúc ấy Bảo Ân đã có gia đình, không đủ điều kiện ra đi. Trong khi chờ đợi đi Mỹ, bà Phi Ánh mắc bệnh ung thư và qua đời năm 1984.
Năm 1985, bà Phương Minh và các con riêng của bà Phi Ánh đi định cư ở Mỹ.

Mãi đến năm 1992, gia đình ông Bảo Ân được gia đình bên vợ bảo lãnh, sang Mỹ và định cư tại quận Cam từ đó đến nay. Những năm đầu tiên, cũng như bao nhiêu người mới sang khác, bà Bảo Ân phải ngồi shop may suốt ngày, ông làm trong một hãng in áo T-shirt và về sau sang làm cho một hãng Nhật chuyên sản xuất CD tại Garden Grove.
Con trai ông Bảo Ân, cháu đích tôn của Cựu Hoàng Bảo Ðại, Nguyễn Phước Quý Khang tốt nghiệp UCI về ngành thương mãi và hiện làm cho một công ty ngoại quốc ở Sài Gòn.
Xây mộ cho phụ hoàng
Gia đình Bảo Ân đến Mỹ năm 1992 nhưng vì thất lạc hồ sơ nên đến năm 2005 gia đình mới có quyền công dân. Cầm passport trong tay, quốc gia đầu tiên mà ông muốn đến là Pháp, để thăm mộ cha, điều mà ông mơ ước từ lâu, nhưng chưa có cơ hội thực hiện. Ông Bảo Ân đã liên lạc với một người bạn ở Paris là Ðặng Văn Phụng, nhờ vợ chồng người này đi xem thử tình trạng ngôi mộ của Vua Bảo Ðại hiện nay tại nghĩa trang Passy thuộc hạt Trocadero Paris 16e ra sao. Theo lời kể của ông Bảo Ân, người bạn này suốt một ngày đi tìm, đọc hết các tấm bia mộ mà không không thấy, nghi ngờ rằng cựu hoàng không được chôn cất tại đây. Ông Bảo Ân gợi ý cho người bạn là nên đi tìm người gác nghĩa trang để hỏi, mặc dầu với bản sơ đồ trong tay, cuộc tìm kiếm cũng không kết quả. Một lần khác, trong khi đang đứng gần ngôi mộ của cựu hoàng, người bạn này tình cờ gặp và hỏi một người cảnh sát già về ngôi mộ của “Sa Majesté Bảo Ðại,” thì ông này chỉ ngay vào ngôi mộ gần đó. Ðó là một ngôi mộ không có bia, không khắc tên, chỉ trơ trọi hai tấm “đan” xi măng sần sùi, với mấy chậu hoa đã quá cũ kỹ qua thời gian. Người bạn của anh nhìn xuống ngôi mộ mà bật khóc. Nơi yên nghỉ của một ông vua mà như thế này sao?

Ông Bảo Ân hồi tưởng: “Nghe anh kể mà tôi khóc nức nở, thật là tội nghiệp cho cha tôi, cha nằm đó lạnh lẽo như một kẻ vô danh đã 8 năm rồi, không ai biết để thắp một nén nhang cho cha ấm lòng.”

Ông Bảo Ân ngậm ngùi trước ngôi mộ đơn sơ của cha.

Nghĩa trang Passy ở Paris là một nghĩa trang nổi tiếng được xây dựng từ đầu thế kỷ XIX, nơi chôn cất nhiều nhân vật lừng danh của thế giới như tài tử phim hài Fernandel (1903-1971,) nhà văn Virgil Gheorghiu (1916-1992,) họa sĩ Edouard Manet (1832-1883,) người sáng lập công ty xe hơi Marcel Renault (1872-1903,) Tổng Thống Pháp Alexandria Millerand (1859-1943)... Cũng theo lời kể của ông Bảo Ân, Vua Bảo Ðại không tiền và cũng không có thế lực để được chôn cất tại đây, đây là phần mộ của một thương gia giàu có ở Paris, rất kính trọng cựu hoàng, khi nghe ông qua đời đã hiến phần đất này cho ngài.
Về việc xây mộ cho Cựu Hoàng Bảo Ðại, khi ông từ trần ở Paris, chỉ có người vợ cuối cùng của ông là bà Monique Baudot, người Pháp ở bên cạnh, và trên pháp lý, chỉ có bà Monique, người vợ có hôn thú còn sống mới có quyền xây mộ cho ngài.
Theo sự hiểu biết của ông Bảo Ân, bà Thứ Phi Mộng Ðiệp và các con tuy có tiền nhưng lại không muốn giao cho bà Monique xây mộ. Lúc sinh thời, Thái Tử Bảo Long không làm được, gia đình bên các công chúa không làm được, phía Nguyễn Phước Tộc cũng không làm được vì không có sự đồng ý của bà Monique, thậm chí hội này có quyên góp và giao lại cho bà Monique một số tiền để xây mộ nhưng không có kết quả... Nhiều người giàu có muốn xây mộ cho Vua Bảo Ðại để lấy tiếng cũng bị bà Monique cản trở.

Ông Bảo Ân rất xúc động và đau lòng khi nghe người bạn từ Paris mô tả những gì về ngôi mộ này, nên muốn nhờ người bạn đi kiếm người làm một tấm plaque khắc tên Vua Bảo Ðại đặt trên ngôi mộ và sau này có thể xúc tiến việc xây mộ cho ngài. Người bạn tìm đến ông Nguyễn Duy Hiệp, một người Việt, có dịch vụ chuyên lo về thủ tục mai táng của thành phố Paris. Ông này khi nghe nói đến có một người con cựu hoàng hiện ở Mỹ có quan tâm đến ngôi mộ, ông rất cảm kích và ngỏ ý ông sẽ liên lạc với bà Monique để có thể tiến hành việc xây mộ. Ông Nguyễn Duy Hiệp giải thích là bà Monique có nhờ ông quyên tiền để xây mộ cho cựu hoàng, nhưng trong ba năm, ông chỉ nới quyên được 1,200 Euros, vậy nếu “Mệ” Bảo Ân có khả năng làm được, “thì mời sang Paris, chúng ta sẽ bàn tiếp”.

Một chủ công ty mộ bia ở Paris là ông Cridel thấy hoàn cảnh của Cựu Hoàng Bảo Ðại đáng thương nên đã gặp bà Monique, và điều đình với bà, nếu bà bằng lòng thì ông sẽ thực hiện bản vẽ và ông sẽ giúp 50% phí tổn xây cất. Ông Nguyễn Duy Hiệp cũng góp lời thuyết phục, cuối cùng bà Monique đồng ý và giao cho ông Hiệp gây quỹ trong bà con cộng đồng Việt Nam.
 
Ông Bảo Ân và con trai, Quý Khang, cháu đích tôn của Cựu Hoàng Bảo Ðại bên ngôi mộ mới vừa hoàn thành.
Gây quỹ
Tốn phí cho công trình xây mộ ước tính ban đầu là khoảng 25,000 Euros. Công ty Cridel chịu 50%, ông Nguyễn Duy Hiệp quyên được 3,000 và cá nhân ông đóng thêm 1,000, chùa Tịnh Ðộ đóng góp 1,000, các vị đạo hữu Cao Ðài cho được 400. Số tiền còn lại do các vị trong cộng đồng Việt Nam đóng góp. Xúc động nhất là có 1 cháu gái gởi tới 5 Euros kèm theo bức thư đại ý là cháu còn đi học không có nhiều tiền nhưng thấy thương ông vua của mình quá nên xin được đóng góp để xây mộ cho ngài. Như vậy còn thiếu khoảng 9,000 Euros cho nên việc xây mộ đã chờ đợi hơn 3 năm nay rồi mà không thực hiện được.
Sau sự tường trình của ông Nguyễn Duy Hiệp, ông Bảo Ân hứa sẽ cung cấp số tiền còn lại. Ông Bảo Ân cũng cho chúng tôi biết, qua Mỹ phải làm ăn vất vả, không có tiền, tuy vậy ông đã “cà” tất cả thẻ “credit” ông có mới có đủ tiền xây mộ cũng như trang trải tốn phí cho những chuyến đi sang Pháp.

Năm 2005, ông Bảo Ân qua đến Pháp, việc đầu tiên là đến gặp ông Cridel để xem bản vẽ, để xem có cần sửa chữa gì không? Ghi khắc tên tuổi của cựu hoàng trên bia đá như thế nào? Ðể khắc chữ bằng vàng trên bia mộ, phải tốn thêm 2,200 Euros. Sau khi bà Monique chấp thuận, ông Cridel sẽ cho xúc tiến xây mộ ngay lập tức, và khi nào hoàn tất, ông sẽ báo cho ông Bảo Ân trở qua Pháp để tổ chức lễ tưởng niệm và cầu siêu cho cựu hoàng.

Khi được thông báo công việc êm xuôi, cuối năm 2006, ông Bảo Ân trở lại Paris. Ông “chạm trán” bà Monique tại phần mộ của cựu hoàng. Bà Monique nổi tiếng là khó khăn, câu nói đầu tiên của bà Monique khi nhận ra Bảo Ân là “mắng” ông sao sang Paris mà không đến thăm viếng bà theo phép lịch sự, trong khi đó lại đến thăm bà Mộng Ðiệp. Ông Bảo Ân đành lấy lý do ông không rành tiếng Pháp và không biết đường sá.

Bà Monique cũng than phiền là các con Vua Bảo Ðại “làm phiền bà quá nhiều!”

Việc ông Bảo Ân xây được mộ cho cựu hoàng cũng là do duyên định, hình như vua cha dành cho ông vinh dự này vì gần 10 năm nay, không ai có thể thuyết phục được bà Monique để cho họ xây mộ của Vua Bảo Ðại, trong khi chính bà lại không có tiền hay không muốn xây mộ.


Bốn chữ “Bảo Ðại Sắc Tứ” được khắc trên đầu bia mộ.

Ngoài các dòng chữ do ông Bảo Ân soạn khắc trên bia mộ, bà Monique đã quyết định là khắc thêm hình ảnh kim khánh bốn chữ “Bảo Ðại Sắc Tứ”(*) khắc trên tấm bia, mà có lẽ những người làm bia mộ, không ai biết ý nghĩa của nó.
Trước ngày khánh thành, ông Bảo Ân cho bà Monique hay là ông sẽ đem lá cờ vàng ba sọc đỏ vào treo trước ngôi mộ, vì đây là lá cờ ngày 2 Tháng Sáu năm 1948, chính phủ của Quốc Trưởng Bảo Ðại (với Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuân) đã chính thức dùng làm quốc kỳ của quốc gia Việt Nam. Cuộc thương thảo bất thành vì bà Monique không bằng lòng và de dọa sẽ gọi cảnh sát can thiệp nếu ông Bảo Ân đem lá cờ VNCH vào lễ khánh thành.

Con trai của cựu hoàng phản đối bằng cách không đến tham dự lễ khánh thành ngôi mộ của cha, và bài diễn văn soạn sẵn, với tư cách là đại diện của gia đình Vua Bảo Ðại, để cám ơn các quan khách và hội đoàn người Việt tại Paris, sẽ không bao giờ còn cơ hội để đọc nữa.

Ngày khánh thành mộ cựu hoàng có đủ các chức sắc thành phố, các hội đoàn người Việt ở Paris, nhưng lại vắng bóng các “Mệ” con của Vua Bảo Ðại, ngoài lý do trên của Bảo Ân, không ai muốn gặp mặt bà Monique. Ông Bảo Ân cho biết lý do, nếu ai đến, tức là đã công nhận bà Monique trong vai trò người vợ chính thức của nhà vua, đó lại là điều tất cả mọi người không ai muốn. ___

Kỳ tới: Sau khi bị truất phế, tài sản của toàn gia đình Quốc Trưởng Bảo Ðại (kể cả vợ không hôn thú) và của các ông Vĩnh Cẩn, Nguyễn Ðệ đều bị tịch thu. Thân mẫu của Quốc Trưởng Bảo Ðại, Ðức Từ Cung phải dọn ra khỏi Cung An Ðịnh.
Ghi chú:

(*) Theo nhà biên khảo Võ Hương An, 4 chữ “Bảo Ðại Sắc Tứ” khắc trong kim khánh trên bia của lăng Vua Bảo Ðại tại nghĩa trang ở Paris, nhìn thì đẹp nhưng không có nghĩa. Hai chữ sắc tứ (hay có khi là ân tứ) được dùng khi vua ban thưởng một vật gì đó cho bầy tôi; ở đây, Vua Bảo Ðại đã là vua rồi thì không viết “Bảo Ðại Sắc Tứ” được. Nếu muốn trang trí thì nên ghi “Bảo Ðại Hoàng Ðế”.

Trong bài báo này chúng tôi dùng tiếng “mộ” để chỉ nơi an nghỉ của Cựu Hoàng Bảo Ðại. Nhưng theo sách vở triều Nguyễn, mộ của Hoàng Ðế, Hoàng Hậu, Thái Hậu được gọi là “lăng,” còn ngoài ra, dân thường và quan lại, dù đến nhất phẩm triều đình cũng chỉ được gọi là “mộ.”


 

Hoàng tử Bảo Ân  từ  cướp ngôi đến tịch biên gia sản

Wed, April 10, 2013 5:28:30 PM


Bài: Huy Phương
Hình: Tài liệu gia đình ông Bảo Ân


Những đoạn đời gian truân ( Hoàng tử Bảo Ân hiện đang sống cùng gia đình tại Nam California .)
Ông Bảo Ân nhớ lại: Nếu không có chuyện tịch thu tài sản và nhà cửa của bà Phi Ánh, mẹ ông, thì không có cảnh gia đình tan tác, mẹ con mỗi người mỗi ngả và lâm cảnh túng bấn.


Hai cháu nội Phương Minh và Bảo Ân về Huế thọ tang, đang túc trực bên quan tài của Ðức Từ Cung (1980).
“Cuộc đời đôi khi giống như một vở kịch.” Ông Bảo Ân tâm sự: “Ngày hôm đó thật là một ngày buồn thảm đáng ghi nhớ, trời đã tối rồi mà ba mẹ con chúng tôi vẫn chưa tìm ra chỗ để dung thân, đi tới đâu ai cũng khéo léo từ chối, không ai còn muốn dính dáng tới chúng tôi nữa. Ông ngoại nói với dì Phi Hoa để cho chúng tôi tạm trú, mặc dầu gia đình bà cũng đang lâm vào hoàn cảnh khó khăn vì có liên hệ đến Quốc Trưởng Bảo Ðại như chúng tôi.

Một thời gian khi thấy tình hình bên ngoài tạm yên, Me tôi quyết định cho chúng tôi đi học lại. Me tôi nhờ ông ngoại đến trường ghi danh cho chúng tôi, nhưng ông ngoại tới đâu, sau khi xem ‘lý lịch’ họ đều khéo léo từ chối, mà không nói lý do. Chị em chúng tôi đành phải ở nhà chơi một năm không đến trường. Sau đó chúng tôi phải tìm giải pháp là làm lại giấy khai sinh, lấy họ mẹ, từ dòng dõi nhà Nguyễn đổi thành con cháu họ Lê. Chúng tôi đã trở thành con người mới, không còn dính líu gì đến chế độ cũ nữa, có thể gọi là ‘chối bỏ nguồn gốc để tồn tại!’”

Trong thời gian này, bà Phi Ánh cũng không dám liên lạc với Ðức Từ Cung vì sợ bị lộ tung tích, vì dầu sao Bảo Ân cũng là giọt máu của cựu Hoàng Bảo Ðại duy nhất đang sống tại Việt Nam .

Ông Bảo Ân tiết lộ, tên thật của ông do bà Từ Cung đặt cho ông khi mới sinh ra đời là Bảo Khương. Khi làm lại giấy khai sinh, ông đã đổi tên Bảo Ân và lấy họ mẹ. Sau này khi bà Từ Cung và cựu Hoàng Bảo Ðại biết chuyện này, cũng đã rất thông cảm.

Năm 1964, bà Từ Cung đem Bảo Ân ra Huế ở với bà để đi học, cho đến năm 1968, khi biến cố Mậu Thân xảy ra, sau khi Việt Cộng rút ra khỏi Huế, bà Phi Ánh lo sợ cho con, nên đã nhờ một người trong Nguyễn Phước Tộc là ông Bửu Nghi, xin với Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ một chiếc trực thăng để đưa Bảo Ân từ sân Phú Văn Lâu lên phi trường Phú Bài, và từ đây ông đi theo máy bay C.130 chở tử sĩ và thương binh về Sài Gòn. Hai năm sau, 1980, “Mệ” Bảo Ân và chị là Phương Minh đã trở lại Huế để thọ tang bà nội là Ðoan Huy Hoàng Thái Hậu, tức là Ðức Bà Từ Cung.

Việc tịch thu tài sản của gia đình Quốc Trưởng Bảo Ðại


Nhiều người biết chuyện Quốc Trưởng Bảo Ðại bị ông Ngô Ðình Diệm truất phế trong cuộc “trưng cầu dân ý” vào ngày 23 Tháng Mười năm 1955, nhưng ít ai biết đến việc tài sản của toàn gia đình những người liên hệ với Quốc Trưởng Bảo Ðại (kể cả vợ không hôn thú) và của các ông Vĩnh Cẩn, Nguyễn Ðệ đều bị tịch thu. Thân mẫu của Quốc Trưởng Bảo Ðại, Ðức Từ Cung phải dọn ra khỏi Cung An Ðịnh.
Câu hỏi của chúng tôi đối với ông Bảo Ân là, phải chăng việc tịch thu tài sản này là do cấp dưới, tùy tiện, “lấy điểm” mà không phải do chủ trương, chính sách của cấp trên?
Công báo VNCH ngày 22 Tháng Ba 1958.


Ông Bảo Ân đã cho chúng tôi xem một tài liệu cũ mà ông đã lưu giữ từ 56 năm qua, tờ Công Báo Việt Nam Cộng Hòa ngày Thứ Bảy 22 Tháng Ba 1958, ấn hành bởi tòa tổng thư ký Phủ Tổng Thống, “bảng phụ đính vào quyết định số 400.BTC/DC ngày 14 Tháng Ba 1958 của ông bộ trưởng tài chánh chỉ định những tài sản của Bảo Ðại và bộ-hạ đặt dưới đạo luật số 17/57 và 16-2-1957 và sắc lệnh số 122-TC ngày 27-02-1958 chỉ định tài sản tịch thu” của:
- Vĩnh Thụy tức Bảo Ðại.
- Marie Jean Nguyễn Hữu Hào, tức Nguyễn Thị Lan, tức Nam Phương Hoàng Hậu, vợ chính thức của Bảo Ðại.
- Bùi Thị Mông Ðiệp hay Bùi Mộng Ðiệp, vợ không chính thức của Bảo Ðại.
- Lê Thị Phi Ánh hay Lê Phi Ánh, vợ không chính thức của Bảo Ðại.
- Hoàng Thị Lang (hay Lan) tức Wong Y Lang, tức Jenny, vợ không chính thức của Bảo Ðại.
- Vĩnh Cẩn (anh em chú bác và là người thân cận với cựu hoàng, thường được gọi là Hoàng Tùng Ðệ) và vợ chính thức là Nguyễn Hữu Thị Bích Tiên.
- Nguyễn Ðệ (đổng lý văn phòng quốc trưởng ở Paris ) và vợ là Bùi Thị Mão.
Tài sản bị chỉ định tịch thu gồm có bất động sản như nhà cửa, lâu đài, biệt điện, đồn điền, các sở đất, các kho chứa hàng, tất cả khí mãnh, dụng cụ trang bị cho các cơ sở trên, số tồn khoản tại các nhà băng, các cổ phần trong các công ty, các số nợ cho người khác vay, các loại xe hơi...

An Ðịnh Cung, bên bờ sông An Cựu, số 97 Phan Ðình Phùng, Huế được Vua Khải Ðịnh xây dựng xong năm 1919.



Chúng ta cũng biết là sau khi Quốc Trưởng Bảo Ðại bị truất phế, An Ðịnh Cung, diện tích 16,584 m2, tọa lạc tại bờ sông An Cựu Huế, tư sản của Vua Khải Ðịnh, không phải của triều đình nhà Nguyễn, đã bị chỉ định là tài sản tịch thu của “Vĩnh Thụy tức Bảo Ðại”. Thoạt đầu Ðức Từ Cung phải dọn qua tạm trú tại nhà thờ Kiên Thái Vương, trong khuôn viên Cung An Ðịnh Cung, và sau đó ra ở tại ngôi nhà ở địa chỉ 79D Phan Ðình Phùng, gần chợ An Cựu cho đến khi bà qua đời.


Đón xem kỳ cuối: Vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn sống lưu vong, chết trong nghèo khó và cô đơn. “Hoàng Tử” Bảo Ân xin hai chữ “công bình” cho phụ hoàng.

.Nhật báo Người Việt On Line , ngày Tuesday, April 09 , 2013 và luôn ngày Wednesday , April 10-2013 trong mục cộng đồng nói về câu chuyện Hoàng tử Bảo Ân thuật lại chế độ gia đình trị Ngô Đình Diệm tàn ác , vô luân . Hạng ăn cháo đái bát là năn nỉ Quốc trưởng bảo Đại tại Paris Pháo , để xin về Saigon làm Thủ tướng , sau đó truất phế Bảo Đại rồi tự động lên ngôi Tổng thống muôn năm. Thời gian sau đó ra lệnh cho bộ hạ tịch biên gia sản của dòng họ Bảo Đại . Xua đuổi người già cả là Bà Cựu Chánh Hậu Từ Cung ra khỏi nhà của dòng họ Bảo Đại.

Cho nên Chúa Trời chí công vô tư , cho toàn bộ dòng họ Ngô Đình Diệm chết thãm tử , từ đây đến 1 nghìn năm nữa , thì tại Việt Nam dòng họ Ngô Đình không còn xuất hiện nữa. Y như toàn gia tộc bị tru di tam tộc vậy.
Theo thuyết luân hồi quả báo : “ Ai mà ăn cháo đái bát thì kiếp sau đầu thai làm súc vật nhiều lần . Loại súc vật hạ đẳng , rồi đến súc vật to lớn như trâu bò , rồi sau đó mới được đầu thai làm người .”


Nói về hành vi cực xấu xa của Tổng thống tự phong Ngô Đình Diệm về gia tộc cựu hoàng Bảo Đại . Thiên Chúa chí công vô tư , nên giờ đây toàn bộ dòng họ Ngô Đình đời đời bị tuyệt diệt tại đất Việt Nam .
Nếu ai có lòng ngay thẳng mà được làm lớn tại Việt Nam , thì hy vọng người ấy sẽ cho bốc xương cốt toàn bộ gia tộc Ngô Đình Diệm đang chôn trên đất Việt mà gởi về triều đình Thiên Chúa tại Vatican .


Lý do : Đất Việt không thể nào dung chứa những hài cốt của những người xấu xa , loại ăn cháo đái vào bát như bộ tộc Ngô Đình nầy. Của Caesar phải trả về Caesar lời Chúa phán . Nên bộ tộc họ Ngô Đình phải trả về Vatican , vì người Việt cho dù xấu xa cách mấy cũng không bằng sự xấu xa bỉ ổi của bộ tộc Ngô Đình nầy . Sau đây bài viết của dòng họ Vua Bảo Đại , sau nầy là Quốc Trưởng bị kẻ phản thần Ngô Đình Diệm truất phế , rồi tự động lên ngôi Tổng thống muôn năm . Chín năm thì bộ tộc nầy bị tuyệt diệt tại Việt Nam . Đời đời chung kết không còn nữa.
      

Monday, April 22, 2013

PHẠM HUY SẢNH * THIẾU TƯONG ĐỖ KẾ GIAI


Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai

Phạm Huy Sảnh


       Vào ngày đầu năm tôi thường điện thoại thăm hỏi quý tướng lãnh, niên trưởng, ân nhân, bằng hữu v.v..., trong số các vị tướng lãnh có Thiếu tướng Đỗ Kế Giai.  Ông xuất thân khóa 5 Võ Bị Đà Lạt (ra trường tháng 4/1952), về phục vụ Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù đóng ở Hà Nội.  Năm 1954, tôi đáo nhậm Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù tại Đồng Đế Nha Trang, ông đã là Trung uý, giữ chức vụ "Oficial Adjoint" cho Thiếu tá Mollo là Tiểu đoàn trưởng.  Chức vụ của Trung úy Giai tương tự như Sĩ quan Hành quân Tiểu đoàn thời sau nầy.  Mối liên hệ giữa ông với tôi bắt đầu từ đó.  Năm nay, ngoài việc thăm hỏi thường lệ, mục đích chính của bài viết xoay quanh câu chuyện Biệt Động Quân vào những ngày cuối 30-4-1975. Sau đây là phần phỏng vấn: 
       Phạm Huy Sảnh: Xin niên trưởng cho biết về nhiệm vụ và phối trí lực lượng Biệt Động Quân trong những ngày chót quanh Thủ đô.
       Thiếu tướng Đỗ Kế Giai: Vào những ngày tháng cuối truớc khi mất Nam Việt Nam, tôi là Tư Lệnh Lực Lượng Biệt Động Quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, dưới quyền có 2 Sư Đoàn: Sư Đoàn 106 Biệt Động Quân do Đại tá Nguyễn Văn Lộc chỉ huy trách nhiệm bảo vệ Biệt Khu Thủ Đô.  Bộ Tư Lệnh Hành Quân và Pháo Binh cơ hữu đặt tại trường đua Phú Thọ.  Vào thời điểm nầy, tổ chức của mỗi Sư Đoàn Biệt Động Quân gồm 3 Liên Đoàn, mỗi Liên Đoàn ngoài 3 Tiểu đoàn tác chiến và 1 Đại đội Trinh Sát, còn có một Pháo đội (6 khẩu) 105 ly cơ hữu.  Sư Đoàn thứ hai là Sư Đoàn 101 Biệt Động Quân do Đại tá Nguyễn Thành Chuẩn chỉ huy, nhiệm vụ tổng trừ bị, án ngữ phía Bắc Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung.  Sư Đoàn thứ 3 đang hình thành mới được hai Liên Đoàn đóng tại căn cứ Long Bình.
       Phạm Huy Sảnh: Tinh thần quân sĩ Biệt Động Quân lúc đó ra sao?
       Thiếu tướng Đỗ Kế Giai: Trong suốt nhiều tuần lễ trước 30-4-1975, tôi liên tục đi thăm các đơn vị trực thuộc.  Tại mọi nơi tôi đều ra lệnh lực lượng Biệt Động Quân tử thủ bảo vệ Sài Gòn theo lệnh của cấp trên.  Tinh thần chiến đấu của anh em Biệt Động Quân rất cao, cũng như đạn dược và tiếp vận đầy đủ.  Sau ngày ông Thiệu và ông Khiêm rời khỏi nước cùng với việc người Mỹ di tản nhân viên Việt Nam của họ và gia đình khỏi Sài Gòn thì tình hình tại Thủ Đô lúc này trở nên xáo trộn.  Dân chúng, cán bộ chính quyền hoang mang sợ hãi. 
Những tin tức thất thiệt bất lợi cho VNCH ảnh hưởng tai hại đến số quân nhân và gia đình tại Sài Gòn.  Trước hoàn cảnh bi đát đó, cảm thông những lo âu của thuộc cấp, tôi cho lệnh tập họp các quân nhân mọi cấp tại Bộ Tư Lệnh Biệt Động Quân, lúc đó đóng tại Sài Gòn và ra lệnh: (nguyên văn) "Trên cương vị là Tư lệnh Biệt Động Quân, tôi tuyệt đối tuân hành lệnh của thượng cấp nghĩa là Biệt Động Quân chúng ta quyết tâm bảo vệ Thủ Đô và dân chúng Sài Gòn.  
Tuy nhiên vì tình hình ở ngoài dân chúng quá sợ hãi, ảnh hưởng đến gia đình quân nhân.  Truớc tình huống này ai muốn đi (đi Mỹ) và đi được thì cứ đi, nhưng nhớ rằng tôi không thể ra lệnh cho các anh bỏ đơn vị.  Tôi chấp nhận làm ngơ coi như không biết những quân nhân và gia đình muốn rời khỏi VN."  Sau lệnh đó, tại Bộ Tư Lệnh Biệt Động Quân chỉ có 1 sĩ quan là Thiếu tá Tạ Thái Hòa, Chánh Văn Phòng của tôi đem gia đình đi Mỹ, còn tất cả quý vị khác từ.  Tư Lệnh Phó, Tham Mưu Trưởng đến các Trưởng Phòng đều ở lại cho đến ngày 1-5-1975, bàn giao cho phía bên kia.  (Nhân chứng: Trung tá Hoàng Ngọc Liên, Trưởng Khối Chiến Tranh Chính Trị, và Thiếu tá Tạ Thái Hòa hiện đang ở Hoa Kỳ). 
       Phạm Huy Sảnh: Xin cho biết về sự liên lạc giữa Biệt Động Quân và Bộ Tổng Tham Mưu hay ở cấp cao hơn mà Thiếu tướng gọi là "thượng cấp"?
       Thiếu tướng Đỗ Kế Giai: Tại Bộ Tổng Tham Mưu, Trung tướng Vĩnh Lộc là Tổng Tham Mưu Trưởng trong những ngày cuối.  Hàng ngày tôi vẫn vào Bộ Tổng Tham Mưu gặp Trung tướng Vĩnh Lộc để thảo luận về tình hình và nhận lệnh.  Trước ngày 30-4, có một bữa tôi gặp Đạ i tá Trần Văn Thăng, nguyên Cục Trưởng Cục An Ninh Quân Đội.  Ông hỏi tôi: "Tình hình nầy, Thiếu tướng đi hay ở?" Tôi trả lời: "Đi đâu? Tôi ở lại chiến đấu với anh em chứ!"  Sáng ngày 30-4, tôi đến Bộ Tổng Tham Mưu lại gặp Đại tá Trần Văn Thăng đang đứng trực cổng, tổ chức bố phòng.  Tôi dừng xe lại hỏi: "Đại tá Thăng đang làm gì đây?"  
Ông cho biết ông trách nhiệm phòng thủ bảo vệ Bộ Tổng Tham Mưu.  Ông nói: "Tôi có lực lượng Lôi Hổ.  Hôm trước tôi nghe Thiếu tướng sẽ ở lại chiến đấu với anh em.  Thú thật tôi không tin nhưng hôm nay còn gặp Thiếu tướng tại đây, tôi mới tin!" Tạm biệt Đại tá Thăng, tôi vào gặp Trung tướng Vĩnh Lộc.  Tôi thấy ông đang trò chuyện với Trung tướng Trần Văn Trung ở cầu thang.  Tôi hỏi ông có lệnh gì cho Biệt Động Quân không?  Ông trả lời: "Không có gì mới cả, anh về lo đơn vị đi!"  Trên đường về đơ n vị, tôi đi một vòng quan sát tình hình thành phố Sài Gòn.  Về đến Bộ Tư Lệnh Biệt Động Quân vào lúc 10 giờ sáng.  Khoảng 10 phút sau, Sĩ quan Tuỳ Viên báo có điện thoại của ông Vũ Văn Mẫu.  Ông Mẫu bảo tôi mở radio nghe Trung tướ ng Dương Văn Minh nói chuyện.  Tôi mở máy.  Lời hiệu triệu của ông Minh dài.  Tóm tắt, tôi chỉ nhớ 3 điều liên hệ đến tôi và Biệt Động Quân:
  1. Các đơn vị ở đâu ở đó.
  2. Buông súng.
  3. Chờ phía bên kia đến để bàn giao.
       Độ 10 phút sau, lại có điện thoại của Thiếu tướng Nguyễn Hữu Hạnh từ Dinh Độc Lập.  Ông Hạnh nói Tổng Thống nhắc lại: Lệnh của Tổng Thống là các đơn vị ở đâu ở đó, buông súng không chiến đấu và đợi phía "cách mạng" đến để bàn giao.  Tôi dằn giọng trả lời: "Tôi biết" và cúp máy!  Khoảng 1 giờ sau, tôi lại được báo điện thoại của ông Vũ Văn Mẫu gọi.  Trên đầu giây, ông Mẫu bảo tôi là lệnh của Tổng thống, tôi lên ngay Bộ Tổng Tham Mưu thay thế Trung tướng Vĩnh Lộc để bàn giao cho phía bên kia.  Tôi trả lời ông Mẫu, tôi không thi hành lệnh này và nhờ ông Mẫu trình với Tướng Dươ ng Văn Minh, đây là lần đầu tiên tôi không thi hành lệnh của thượng cấp!  Và nếu tôi biết trước rằng quý vị sẽ hành động như ngày hôm nay mà quý vị vừa ra lệnh cho tôi thì ... (!!!!) Ông tiếp,  tuy nhân chứng Vũ Văn Mẫu đã qua đời nhưng còn các sĩ quan khác của tôi đang có mặt tại Hoa Kỳ đã chứng kiến cuộc điện đàm của tôi và ông Mẫu vào hôm 30-4-1975 lúc 12giờ 30.       
 Phạm Huy Sảnh: Trong bữa cơm họp mặt các chiến hữu tại Seattle, tôi có dịp tiếp xúc với cựu Đại uý Lê Văn Khởi, nguyên Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 42 Biệt Động Quân từ Pleiku rút về Dục Mỹ rồi trạm chót là căn cứ Long Bình để bổ sung quân số.  Anh cho biết vào ngày 26 hay 27-4-1975, Thiếu tuớng có lên thăm đơn vị anh tại Long Bình.  Trước hàng quân, Thiếu tướng đã ra lệnh Biệt Động Quân sẽ ở lại tử thủ bảo vệ Thủ Đô.  Cựu Đại úy Khởi thắc mắc rằng khi thi hành lệnh đó, Thiếu tướng có biết rằng ông Dương Văn Minh sẽ đầu hàng Cộng Sản Bắc Việt? 
       Thiếu tướng Đỗ Kế Giai: Như đã nói ở phần trên về việc tôi ra lệnh lực lượng Biệt Động Quân tử thủ bảo vệ Thủ Đô, tôi xác nhận là đúng.  Tôi không hề hay biết trực tiếp hay gián tiếp rằng ông Dương Văn Minh sẽ đầu hàng Cộng Sản cho đến khi ông ta đọc lệnh trên đài phát thanh vào sáng ngày 30-4-1975.  Tôi là một sĩ quan gốc nhảy dù, một tướng lãnh.  Truyền thống của Quân Lực là thi hành lệnh tuyệt đối.  Trong tinh thần đó, tôi ra lệnh cho Biệt Động Quân phải tử thủ để chu toàn trách nhiệm.  Riêng cá nhân tôi cùng các vị Tư Lệnh Sư Đoàn 106, Sư Đoàn 101, các Liên Đoàn Trưởng, các cán bộ chỉ huy, các đơn vị tác chiến cũng như những sĩ quan trong Bộ Tư Lệnh Biệt Động Quân đều đã ở lại cho đến phút chót.  Những điều tôi yêu cầu các chiến hữu Biệt Động Quân phải làm, cá nhân tôi cũng thực thi đúng như vậy.  Cho nên sau này gặp lại các đồng đội trong trại tù Cộng Sản tôi không hổ thẹn với lương tâm. 
       Phạm Huy Sảnh: Thiếu tướng trình diện hay bị Cộng Sản đến nhà bắt và kể từ lúc nào?
       Thiếu tướng Đỗ Kế Giai: Sáng ngày 1-5-1975, sau khi bàn giao Biệt Động Quân cho cộng sản xong, tôi vào phòng riêng thay quần áo dân sự, đang tính đi bộ về nhà thì họ nói để họ lấy xe đưa về.  Ngày 15-5-1975, đột nhiên, CS đem xe đến nhà mời tôi đi đến Quận 11 rồi sau đó chở thẳng vào khám Chí Hòa.  Tôi chính thức bị nhốt từ ngày đó cho đến ngày 5-5-1992 được thả ra, thiếu 10 ngày thì đủ 17 năm tức là 6095 ngày tôi ở tù Cộng Sản.
       Phạm Huy Sảnh: Là một tướng lãnh, đương nhiên Thiếu tướng có những liên hệ mật thiết với các giới chức Hoa Kỳ tại Sài Gòn khi đó.  Vậy có giới chức Hoa Kỳ nào tiếp xúc đề nghị Thiếu tướng rời khỏi VN?

Cựu Thiếu Tướng Đỗ kế Giai        Thiếu tướng Đỗ Kế Giai: Có, Tướng Times của Tòa Đại sứ Hoa Kỳ, liên tiếp vào các ngày 28 và 29 tháng 4-1975 đến gặp tôi và hỏi nếu tôi và gia đình muốn đi Mỹ, ông ta sẵn sàng giúp đỡ lo liệu.  Cả hai lần tôi đều cám ơn Tướng Times và từ khước đề nghị đó.  Nại cớ tôi còn trách nhiệm, tôi còn quân sĩ, tôi không thể ra đi trong hoàn cảnh nầy được.  Tướng Times hiện còn sống tại Hoa Kỳ, anh có thể phối kiểm điều đó. 

       Phạm Huy Sảnh: Hôm nay, cảm nghĩ của Thiếu tướng về những ngày tháng cũ?

       Thiếu tướng Đỗ Kế Giai: Bởi những lý do trên, tôi tự nhận đã làm tròn bổn phận, trách nhiệm của một Tướng Lãnh đối với đồng đội, với Tổ Quốc khi tại ngũ.  Và suốt gần 17 năm tù đày, trước mặt kẻ thù trong mọi hoàn cảnh tôi luôn cố gắng gìn giữ tác phong để bảo vệ Danh Dự của Quân Lực. - Đối với người Cộng Sản, dù họ không thích tôi nhưng họ không thể khinh tôi!  Những người Cộng Sản bắt giữ tôi vẫn còn đó.


       Phạm Huy Sảnh: Có phải Thiếu tướng là một trong những tướng lãnh được Cộng Sản thả vào đợt cuối cùng?
       Thiếu tướng Đỗ Kế Giai: Đúng.  Trong đợt chót, chúng tôi gồm 4 người còn lại tôi, Đỗ Kế Giai, Thiếu tướng Trần Bá Di, Thiếu tướng Lê Văn Thân, Thiếu tướng Lê Minh Đảo.  Thật ra đây là 100 nguời chót CSVN không muốn thả ra vì chúng chủ trương nhốt cho đến chết.  Chúng tôi không hy vọng gì được về vào thời điểm đó.  
Nhưng cũng nhờ sự tranh đấu, đòi hỏi của quý chiến hữu, đoàn thể chính trị, đồng hương tại hải ngoại đã tạo thành áp lực để CSVN phải thả gấp rút hơn.  Tuy nhiên việc thả 100 người vừa kể, CS cũng chia làm 8 đợt và 4 người chúng tôi là đợt cuối cùng. Tôi còn nhớ, hôm đó tại trại Hàm Tân, cán bộ nhà tù nói quý vị chuẩn bị chuyển trại, 30 phút nữa sẽ đi.  Nhưng sau đó họ cho biết là 4 người chúng tôi sẽ được thả về và xe sẽ đến đưa từng người về nhà.  Trong lúc đợi xe đế n, anh em bàn với nhau, đề nghị tôi lớn tuổi nhất sẽ được đưa về trước, kế đến là Thiếu tướng Trần Bá Di, Thiếu tướng Lê Văn Thân, chót hết là Thiếu tướng Lê Minh Đảo là người nhỏ tuổi nhất.  Anh em đồng ý.  Nhưng khi xe của Cộng Sản đưa về thì họ lại làm nguợc lại, có nghĩa là họ đưa tướng Đảo về trước, cuối cùng là tôi. 
       Phạm Huy Sảnh: Thiếu tướng và gia đình đến Mỹ năm nào?
       Thiếu tướng Đỗ Kế Giai: Tôi và nhà tôi cùng 6 cháu đến Mỹ ngày 26-10-1993, hiện định cư tại thành phố Garland, TX.
       Phạm Huy Sảnh: Thiếu tướng nghĩ thế nào về những người đi trước?


       Thiếu tướng Đỗ Kế Giai: Tôi quyết định ở lại vì tôi cho là hành động như vậy là đúng.  Nhưng không phải vì vậy mà tôi công kích những người ra đi năm 1975.  Bởi vì trường hợp mất Nam Việt Nam thật đặc biệt, không thể qui trách cho những người cầm súng giữ nước.  Các Đơn Vị Quân Đội vẫn hiên ngang chiến đấu, chúng ta không hề bỏ chạy trước Cộng Quân.  Quân Đội phải buông súng vì lệnh đầu hàng của ông Dương Văn Minh.  Do đó, nếu quí vị có ở lại thì trước sau cũng vô tù Cộng Sản như tụi tôi.  Hơn nữa nhờ có một số chiến hữu thoát được ra hải ngoại nên về mặt chính trị mới có cơ hội tranh đấu cho quyền lợi của những người còn kẹt lại.  Về mặt kinh tế, đi trước xây dựng được cuộc sống ổn định sau này có thể tương trợ lẫn nhau.  Bây giờ không nên bàn về vấn đề trước, sau, mà mọi người phải cùng chung lưng gầy dựng một lực lượng vững mạnh cả chính trị và kinh tế nơi thế hệ tương lai của người Việt tại hải ngoại.
       Phạm Huy Sảnh: Qua cuộc đối thoại, tôi thấy Thiếu tướng có một trí nhớ đặc biệt. Thiếu tướng có định viết hồi ký?
       Thiếu tướng Đỗ Kế Giai: Không! Tôi dứt khoát là không. Vài năm trước đây và ngay bây giờ, có nhiều nhà xuất bản Mỹ và Việt đề nghị tôi viết hồi ký và họ sẽ giúp xuất bản.  Tôi trả lời là đối với tôi điều nầy khó quá.  Bởi nếu đã viết, thì phải nói hết, nói thật, mọi sự việc mà tôi nghe, tôi biết, tôi thấy.  Như vậy e rằng sẽ làm mất lòng nhiều người.  Hơn nữa, vấn đề nầy tôi xin bày tỏ quan niệm tôi qua hai câu của người xưa:
BẠI BINH CHI TƯỚNG, BẤT KHẢ NGÔN DŨNG
VONG QUỐC CHI ĐẠI PHU, BẤT KHẢ NGÔN TRÍ. (Tướng bại trận không thể nói mạnh.
Quan mất nước, không thể nói hay)
       Phạm Huy Sảnh: Cám ơn Thiếu tướng đã dành gần 3 giờ đồng hồ điện đàm trong ngày đầu năm.
Seattle ngày 1 tháng 1 năm 2004

NHIỀU TÁC GIẢ * TRẬN THỦ ĐỨC

Trận Đánh Không Có Đại Bàng Tại Trường Bộ Binh Thủ Đức.

 

Để tưởng niệm ngày 30 tháng Tư, để tưởng niệm em tôi và những người Lính đã nằm xuống trong ngày định mệnh đó, xin mời đọc lại bài viết “Trận Đánh Không Có Đại Bàng tại Trường Bộ Binh Thủ Đức” của tác gỉả Trần Văn Trung, Lê Nguyễn và Hải Triều.
Hôm nay cũng là ngày giỗ thứ 37 của em trai tôi, Trần Mạnh Hùng là một trong số SVSQ đã bị tử thương trong trận đánh này. Sáu năm trước, tình cờ đọc được bài viết trên trong cuốn Những Trận Đánh không tên Trong Quân Sử của nhóm nhà văn Quân Đội, tôi mới biết được thêm chi tiết về sự hy sinh của Hùng. Nhập ngũ vào trường BB Thủ Đức được 3 tháng, trong một ngày về phép cuối tuần giữa tháng 4 năm 1975, cảm thấy tình hình không ổn, tôi đã khuyên Hùng hãy ở nhà, đừng trở lại trường nữa nhưng em tôi trả lời: “người lính chỉ có tiến tới chứ không quay lui”. Hết phép, Hùng trở lại quân trường và đó cũng là lần cuối cùng chúng tôi gặp nhau.
Trưa ngày 30 tháng 4, một người bạn đồng đội của Hùng báo hung tin, chính tay cậu đã chôn vội Hùng cùng 4 người đồng đội trong 5 ngôi mộ ở tại sân sau của “nhà bàn” trong Huấn Khu Thủ Đức. Qua những ngày tiếp theo đó, gia đình tôi có lên xin đem xác về nhưng bọn Việt cộng không cho. Mãi đến bao nhiêu năm sau, họ mới chấp thuận cho người nhà đến cải táng. Một buổi sáng sớm, các em tôi vác cuốc xẻng vào trường Thủ Đức để bốc mộ thì gặp một người đàn bà ở trong khu Thủ Đức hỏi các em tôi: “Có phải đi đào mộ của một SVSQ không?” bà ta nói tiếp: “Đêm qua tôi nằm mơ thấy một người lính nói với tôi rằng sáng mai em tôi sẽ đến kiếm tôi, chị nói với họ là tôi đã đi rồi”….
Khi đến nơi, chỉ còn có một ngôi mộ còn sót lại, có lẽ những ngôi mộ kia đã được người nhà của họ cải táng rồi. Sau khi bốc mộ, sắp xếp lại xương cốt, các em tôi biết ra đây không phải là hài cốt của Hùng, vì ngày xưa, Hùng bị gẫy chân trong tai nạn xe gắn máy và xương ống quyển có 3 cây đinh nối xương trong khi hài cốt vừa đào lên, hai ống xương còn nguyên vẹn.
Chợt nhớ lại lời người đàn bà nói buổi sáng, các em tôi nghĩ lại sự linh thiêng báo trước của Hùng. Gia đình tôi quyết định hỏa táng hài cốt, coi như đó chính là hài cốt của Hùng và đem lên chùa thờ với niềm mong ước rằng một gia đình nào đó cũng đã lo hậu sự cho em tôi như chúng tôi đã làm.
Ngày oan khiên 30 tháng 4 của 1975, biết bao nhiêu người lính VNCH đã hy sinh, đã gục ngã đâu đó rải rác trên khắp mảnh đất miền Nam mà người thân mãi mãi không bao giờ được biết hay gặp lại… Xin hãy nhỏ lệ cùng tôi và thắp lên nén hương cầu nguyện cho hương linh của những người Lính VNCH đã vị quốc vong thân.
Tôi vẫn cầu xin rằng có ngày tôi được tin của những gia đình của 4 ngôi mộ kia hòng biết được hài cốt của Hùng đang ở nơi nào.
30 tháng 4 năm 1975, không bao giờ quên.
LTN
California 4/30/2012
* * *
Trận Đánh Không Có Đại Bàng tại Huấn Khu Thủ Đức
Ngày 30/4/1975
Rừng xanh Long Khánh gục đầu, tan tác theo những bước lui binh bỏ Xuân Lộc, lệnh sư đoàn 18 do tướng Lê Minh Đảo chỉ huy và các đơn vị tăng phái, bằng mọi giá rút về bảo vệ vòng đai Sàigon. Đó là những con đường máu mà các đơn vị QLVNCH phải xuyên phá vòng vây phục kích của các sư đoàn Bắc quân trong thế lui quân nghiệt ngã. Địch chiếm Long Khánh và áp lực địch lấn dần về Saigon theo một vòng cung lửa từ Đông sang Tây.
Cửa ngõ Xuân Lộc đã mở cho địch quân, quân lệnh từ đài phát thanh quân đội và Saigon vẫn được “đại bàng” các loại ban hành xen lẫn với các bản hùng ca chiến đấu, nhưng người lính không biết các ông ở tọa độ nào, “đại bàng” đang xếp cánh ở đâu, còn hay đã bay xa.
Nắng ấm tháng Tư miền Nam vẫn trải khắp núi rừng, đồng ruộng, phố phường, nhưng trong nắng rõ ràng đã ăm ắp những tia nắng của tử khí, của bi thương của tuyệt vọng. Người người hốt hoảng, mà cây cỏ dường như cũng không muốn ngẩng đầu.
Trưa 28 tháng 4, 1975, xe pháo quân đội các loại từ hướng Biên Hòa nối đuôi đổ về Saigon, quân số các cơ quan, đơn vị trong Huấn Khu Thủ Đức cũng vơi dần trong cơn sốt hoảng loạn dù lệnh cấm trại 100% đã được ban ra từ mấy hôm trước. Số sĩ quan bám trụ ở lại trong Huấn Khu TĐ còn lại khoảng 30%, ước chừng 30 sĩ quan cơ hữu của Huấn Khu, trong số người còn lại vào phút chót đó có Đại Úy Trung của trường Tổng Quản Trị, Đại Úy Thảo của trường Quân Báo.
Huấn Khu Trủ Đức (HKTĐ), quân trường Thủ Đức cũ, nằm trong địa bàn trận địa trên lộ trình chuyển địch xuôi Nam tiến về Saigon trong vòng cung tiến quân của các sư đoàn cộng sản. Mọi thành phần thuộc các đơn vị trong Huấn Khu, kể cả khu gia binh được đặt trong tình trạng chiến đấu không có “đại bàng”. Tuy vậy, họ đã phối hợp vô cùng nhịp nhàng trong thế phòng thủ và tác chiến. Các đơn vị gồm trường Tổng Quản Trị, trường Hành Chánh Tài Chánh, trường Quân Nhạc và trường Thể Dục Thể Thao, riêng Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia và Trường Bộ Binh Long Thành (Thủ Đức cũ) không nằm trong phạm vi Huấn Khu Thủ Đức.
Đêm qua nhanh trong hơi thở dồn dập tuyệt vọng của miền Nam, đêm cắm trại mệt nhoài chờ tác chiến của quân nhân các cấp trong HKTĐ. Ca trực Tổng Quản Trị được bàn giao từ Đại Úy Thông ngày 28/4 qua Đại Úy Trần Văn Trung sáng 29/4.
Mờ sáng, cả Huấn Khu mừng rỡ mở cổng chính số 1 để đón các đơn vị Sinh Viên Sĩ Quan Đà Lạt từ miền Trung kéo về, cùng lúc hàng loạt những đơn vị Sinh Viên Sĩ Quan Trừ Bị thuộc trường Bộ Binh Long Thành cũng kéo về HKTĐ, trường Mẹ cũ của họ thuở xưa. Họ di quân từng toán thứ tự dù không có cấp chỉ huy trực tiếp, trừ vị sĩ quan cao lon nhất là Trung Tá Tuyền của trường Bộ Binh Long Thành.


HKTĐ trở thành nơi tá túc của các SVSQ Đà Lạt và Long Thành. Ngay sau đó, họ trở thành những chiến binh tác chiến bảo vệ căn cứ. HKTĐ có thêm quân, có thêm anh em đồng cảnh ngộ chong súng dựa lưng nhau. Lạ lùng thay, dù không có một “đại bàng” chính thức nào trên đầu, các sĩ quan trong Huấn Khu liên lạc hàng ngang, làm việc hàng ngang trong tình huynh đệ đồng sinh đồng tử trong những giây phút cuối cùng của miền Nam. Các sĩ quan trong Huấn Khu thay phiên nhau trực và điều hợp những kế hoạch phòng thủ và tác chiến trong khi vòng vây của địch đang khép dần chung quanh căn cứ. Các giao thông hào, các công sự phòng thủ, các cứ điểm đặt súng cộng đồng, các trạm canh gác… Tất cả các loại súng chong thẳng ra ngoài hàng rào kẽm gai. Các thùng đạn đủ loại đặt sẵn tại các vị trí tác chiến. M72 sẵn sàng trong từng chiến hào. Các trạm canh báo cáo liên tục về cánh quân di chuyển của địch ở tầm xa đang tiến về hướng Huấn Khu. Bắc quân tiến về Saigon nhưng sẽ không để yên Huấn Khu Thủ Đức.
Trong Trường Quân Báo Cây Mai, Đ/U Thảo, trưởng phòng Chính Huấn đang phân vân giữa gia đình và đơn vị. Anh vẫn còn ở lại Huấn Khu trong khi có một số bạn đã chuồn về với gia đình họ, đột nhiên anh thấy “ông gìa đầu bạc”, Thiếu Tá Biện Ngọc Bái, người đã rời Huấn Khu về Saigon thăm nhà hôm trước, lại quay trở lại. Ông buột miệng hỏi:
- Ủa, Đ/U Thảo còn ở đây à?


- Bộ huynh trưởng tưởng tôi mang phao lặn theo ông Thiệp kiếng cận rồi sao?
- À, hay toa lấy Honda “dzọt” về nhà chút xem sao. Đường còn đi được mà!
- Thiếu Tá già rồi còn vì trách nhiệm mà trở lại đơn vị với anh em, còn tôi, trong tình huống này lòng dạ nào bỏ đơn vị?
- Ừ, thôi anh em mình cùng ở lại, có gì thì cùng chiến đấu bên nhau. Mà Đ/U Thảo Ròm, làm sao thì làm chứ tôi đã từng vào Lý Bá Sơ cách đây mấy mươi năm, ớn lắm rồi nhé!

Tại văn phòng Chỉ Huy Phó đêm 29 tháng 4, trường Quân Báo có một cuộc họp mặt bỏ túi gồm có Trung Tá Nguyễn Ngọc Bích, Chỉ Huy Phó kiêm Trưởng Khối Huấn Luyện trường Cây Mai, Trung Tá Phạm Văn Đẫu, Thiếu Tá Bái, Hiền, Kiệt và Đ/U Thảo, không khí nặng nề, âu lo. Anh em chửi thề khi nghe tiếng mõ thanh la, trống các loại của cộng sản đập gõ ở vòng ngoài hàng rào phòng thủ sau cổng số 9, đường ra bãi tập của Trường Bộ Binh cũ. Kèm theo những tiếng gõ đủ thứ, âm thanh ồn ào của tiếng loa vọng vào Huấn Khu: “Hàng sống, chống chết. Hãy về với nhân dân để được khoan hồng!”


Việt cộng cứ loa, cứ gõ, các sĩ quan trong Huấn Khu vẫn âm thầm chia nhau trực và kiểm soát vị trí phòng thủ của anh em. Tr/T Đẫu lên tiếng, giọng ông buồn buồn:
- Anh em mình không còn bao nhiêu người, T/Tá Hiền và Đ/Uý Thảo quen trận mạc, Thảo điều động anh em án ngữ mặt tiền đơn vị, còn Hiền phụ mặt sau với chúng tôi.
- Trung Tá yên chí, chúng ta sẽ chơi xả láng nếu chúng tràn vô Huấn Khu.
- Thảo liên lạc thường xuyên bên phòng sĩ quan trực để phối hợp với anh em bên Tổng Quản Trị và Trường Hành Chánh Tài Chánh nghe.
Giờ Bắc quân tấn công đã tới, khỏang 4 giờ sáng trời còn mờ mờ, chim chóc trong các tàng cây nháo nhác bay cao thì hàng loạt súng cối của địch pháo vào Huấn Khu, tiếp theo sau là súng nổ dữ dội giữa ta và địch ở bên Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia.
Bắc quân dồn nỗ lực thanh toán mục tiêu Học Viện CSQG ở ngoài vòng rào phòng thủ Huấn khu, chênh chếch phía Tây Bắc của cổng số 1, gần Chợ Nhỏ, trước khi tập trung quân ào ạt tấn công HKTĐ với lực lượng mạnh hơn. Sự chống trả dũng mãnh và can trường của anh em bên Học Viện CSQG cuối cùng đã tắt sau 2 giờ cầm cự.
Máu đã đổ, tang thương chết chóc đang mò dần đến các hàng rào phòng thủ. Các đơn vị phòng thủ bị địch vây tứ hướng, chúng đang nhìn vào Huấn Khu thăm dò. Không gian yên tĩnh, một thứ yên tĩnh rợn người… Địch đang vây Saigon, họ không hiểu nổi tại sao các đơn vị xa Saigon mấy chục cây số vẫn còn chiến đấu quyết liệt!
6 giờ sáng, Bắc quân pháo vô Huấn Khu mà quả pháo đầu tiên rơi ngay cửa văn phòng sĩ quan trực Trần Văn Trung. Các mũi tấn công của địch đồng loạt đâm thẳng vào các phòng tuyến của HKTĐ, áp lực nặng nhất là khu nghĩa trang.
Đ/Úy Trần Văn Trung đề nghị đưa tất cả vũ khí của Huấn Khu ra các kháng tuyến, M72, lựu đạn, súng lớn, súng nhỏ, thùng đạn… Riêng mặt vòng cung kháng tuyến từ khu nghĩa trang qua phía sau Câu Lạc Bộ Dân Sự, có khoảng vài chục đại liên 30 đang chĩa nòng ra ngoài, dây đạn nối vào ổ súng. Tất cả sẵn sàng cho trận đánh cuối cùng.


Trong khi pháo của địch đang còn rót vào Huấn Khu thì em trai của Trung là Nam đã lọt được vào Huấn Khu tìm và gọi Trung về Saigon. Nam hổn hển:
- Anh Trung, nhà bảo anh trốn về gấp để di tản bằng máy bay của anh Lê Trần Cát, cả nhà còn chờ anh, có anh nhà mới đi
- Trời ơi, giờ này mày lên vùng tử địa này làm gì? Tao ở lại với anh em. Các đơn vị còn chiến đấu làm sao tao về. Tao ở lại, tới đâu hay tới đó, mày đi về đi!
- Làm sao em về, tụi nó bắn tùm lum tà la ngoài Chợ Nhỏ. Hay anh cho em cây súng, em ở lại với anh!
Trung quăng vội cho thằng em cái nón sắt, cây súng, áo giáp và cây Carbin M1:
- Mày nằm giao thông hào gần tao, cứ chĩa súng ra hướng gò mả. Tụi nó tràn vô cứ việc bóp cò như tao đã chỉ cho mày lần trước. Nhét vào túi mấy kẹp đạn nhanh lên!
Trung phóng trở lại phòng sĩ quan trực, đạn địch bắn qua khu nghĩa địa như mưa. Trung hét vào máy:
- Mũi nhọn địch đang tấn công khu nghĩa địa bằng bộ binh. Tụi nó chơi ban ngày. Coi chừng cổng số 1 và cổng số 9!

Tiếng súng hai bên nổ đồng loạt tạo ra một thứ âm thanh binh lửa kinh người mà từ ngày thành lập trường Bộ Binh Thủ Đức, rồi thành HKTĐ, người dân quanh vùng và binh sĩ trú phòng chưa từng chứng kiến, chưa từng trải qua. Tiếng súng nổ át hẳn âm thanh của các máy âm thoại. Người ta không còn nghe gì ngoài tiếng đạn nổ như gieo cát trên mái tôn. Dưới chiến hào sau trường Tổng Quản Trị, vài anh em hoảng hốt la lớn:
- Chết mẹ! tụi nó cắt gần xong vòng raò ngoài và đang mò dần vào các gò mả. Mày chơi mấy thằng ở lùm cây, tao chơi mấy thằng bò lết cắt kẽm gai. Nó mò vào ôm được mấy gò mả sát mình nó thọt B40 vào thì khốn nạn!
- Thì cứ thế mà làm. ĐM! Bộ nó tưởng dễ ăn, nó tưởng sau mấy cái gò mả không có đồ cúng tụi nó sao?
Những người lính không rõ đơn vị, những SVSQ, những quân nhân cơ hữu còn lại của Huấn Khu, năm cha ba mẹ ở các nơi dồn về chung một chiến hào, vừa bắn vưà chửi như bắp rang. Và y như rằng, ngay sau đó, hàng loạt mìn claymore và mìn chống cá nhân cài dọc theo mấy gò mả thi nhau hàng loạt. Ầm! Ầm! Ầm! Các loạt nổ dọc dài theo kháng tuyến phòng thủ hòa với lưới lửa phủ chụp địch trong khu nghĩa địa.
Dường như Bắc quân không nghĩ tới những hàng rào kẽm gai với dầy đặc cái loại mìn nổ và bên trong là hàng loạt các loại vũ khí cá nhân, vũ khí cộng đồng tua tủa chĩa ra mục tiêu trong tư thế chờ địch. Đợt biển người của Bắc quân sau gần 3 tiếng đồng hồ tấn kích đã bị bẻ gẫy. Một số xác Bắc quân nằm dính trong hàng rào kẽm gai tại khu nghĩa địa. Bắc quân chủ quan, tưởng hệ thống phòng thủ của quân trường HKTĐ là không đáng ngại nên họ đã phải trả cái giá quá đắt khi bị đánh bật ra ngoài.
Ý đồ của địch là quyết tâm vượt hàng rào kẽm gai, chiếm nghĩa địa để làm bàn đạp chọc thủng mặt Tây của Huấn Khu trong tầm tác xạ của B40, B41 thay vì đánh chính diện vào cổng chính số 1 mà địch nghĩ có thể hỏa lực phòng thủ tập trung nặng hơn. Khu nghĩa địa đã diễn ra những đợt ác chiến đẫm máu giữa ban ngày và Bắc quân đã bị thiệt hại nặng nề.


Huấn khu Thủ Đức bây giờ là một bãi chiến trường ác liệt, bi hùng, chờ đợi những tang thương, nghiệt ngã khi chiến xa Bắc quân đang trên đường tấn công vào Huấn Khu sau khi bị chận đứng ở các vòng rào vùng nghĩa địa. Tiếng báo cáo trên hệ thống âm thoại của Bắc quân:
- Báo cáo đồng chí, A5 không thể chọc thủng phòng tuyến địch! Tổn thất của ta nặng. Không thể chọc thủng và tràn ngập bằng bộ chiến.


- Các đồng chí chuẩn bị dồn hết nỗ lực tùng thiết vào cổng chính. Tăng sẽ đến ngay. Các đồng chí phải khẩn trương thanh toán mục tiêu trước buổi trưa. Địt mẹ! Tên Dương Văn Minh đã ra lịnh đầu hàng mà quân nguỵ vẫn còn ngoan cố!


Cái yên lặng của chiến trường bỗng trở nên rùng rợn giữa ánh nắng chói chang. Bên ngoài địch ngưng nổ súng, bên trong ta ngưng nổ súng. Các toán cứu thương di chuyển anh em bị thương về phòng cấp cứu. Trong các máy âm thoại, trên các máy điện thoại trong Huấn Khu, trên trời cao ngoài tầm cao xạ phòng không của địch, không có hơi thở, tiếng nói của bất cứ một thứ “đại bàng” hay tư lệnh nào!


Trong thủ đô Saigon, “đại bàng chúa Dương Văn Minh” vừa lên ngôi vài hôm đã rũ cánh đầu hàng. HKTĐ vẫn chiến đấu. Bao nhiêu chiến thuật, kỷ luật, binh pháp, bao nhiêu kinh nghiệm chiến trường, bao nhiêu lòng tự hào, bao nhiêu lòng yêu nước của người LÍNH miền Nam các cấp còn lại sau trận đánh đẫm liệt ở Xuân Lộc Long Khánh và sau khi được lệnh lui quân, đã dồn lại trong kháng tuyến của HKTĐ sáng ngày định mệnh 30 tháng Tư năm 1975.


Không có cấp chỉ huy, không có tư lệnh chiến trường, các sĩ quan còn lại trong Huấn Khu, bất kể cấp bậc, cơ hữu hay tá túc khi đơn vị tan rã từ miền Trung, đã làm việc hàng ngang với nhau, đã phối hợp tuyệt vời trong trận tử thủ. Các SVSQ hai trường Thủ Đức/Long Thành và Đà Lạt đã có mặt ngay trong các chiến hào. Kháng tuyến không còn là lính, là Hạ Sĩ Quan, là SVSQ hay là sĩ quan mà là một khối.


Nắng miền Nam chiếu rọi những tia u uất khắp trời. Từ Vũ Đình Trường, giao thông hào, người sĩ quan vô danh không biết thuộc đơn vị nào, mặt đanh lại, Anh phóng ống nhòm quan sát cổng số 9 rồi quay 180 độ, anh quan sát dọc theo kháng tuyến thẳng ra cổng chính số 1. Dường như là một sĩ quan từng xông pha trận mạc, anh dự đóan cái gì sẽ xẩy ra sau mấy tiếng đồng hồ “chiến trường yên tĩnh”, địch có thể tung chiến xa vào trận.


Cổng số 1 được bịt kín bởi những hàng rào kẽm gai, quân địch chắc đang núp đâu đó và dân thì đã lánh xa, bên ngoài Chợ Nhỏ không có một bóng người. Bên trong cổng số 1, dọc theo chiến hào là những vũ khí đủ loại của các đơn vị cơ hữu và của các đơn vị khác mang theo vào trú ẩn trong Huấn Khu. Những ống phóng M72 nằm phơi dưới nắng, nếu địch tấn công vào Huấn Khu xuyên qua cổng 1, thế nào cũng lãnh hàng tá M72.


Cái gì phải đến thì sẽ đến. Lấy Saigon được mà HKTĐ còn kháng cự, không thanh toán được có thể là mối nhục của Bắc quân. Giờ định mệnh của HKTĐ đã đến. Khoảng sau 10 giờ sáng ngày 30 tháng 4, khi lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh loan trên đài phát thanh Saigon, không biết vô tình hay cố ý, HKTĐ vẫn ở trong tư thế ứng chiến. Có lẽ tin rằng các đơn vị QLVNCH sẽ tuân theo lệnh của D.V. Minh nên một đoàn chiến xa của Bắc quân từ xa lộ trực chỉ HKTĐ hướng thẳng vào cổng số 1, âm thanh xích sắt càng rõ dần. Đ/Úy Thảo phóng ống nhòm ra cổng chính, Anh la lên báo động cho mọi người:


- Anh em chuẩn bị! Một số chiến xa của địch đang tiến về Huấn Khu, có cả bộ binh tùng thiết và đám du kích nón tai bèo. Đúng là tụi nó! Xe chúng có cắm cờ xanh đỏ của đám Mặt Trận!
Thảo mải mê theo dõi địch di quân, mắt dán vào ống dòm, miệng tiếp tục nói. Thực ra, nhìn bằng mắt trần, anh em cũng đã nhận ra những gì đang xẩy ra và họ đã phóng ra chiến hào phòng thủ nhanh hơn Thảo dự liệu. Khi anh quay lại thì mọi người đã sẵn sàng trong thế tác chiến.


Khi đoàn chiến xa địch tiến gần cổng số 1, tên chỉ huy địch bỗng ra lệnh ngừng xe:
- Các đồng chí cẩn thận coi chừng M72! Tại sao Saigon đã đầu hàng mà HKTĐ không có vẻ gì là sẵn sàng bàn giao cho cách mạng? Lạ thật! Hay là đám này cũng cứng đầu như đám sư đoàn 18 của tướng ngụy Lê Minh Đảo ở Long Khánh? Ta đã mất ở đó hơn mấy ngàn đồng chí, trận đánh sáng nay nghe báo cáo ta tổn thất khá nặng. Phải cẩn thận.
Một tên sĩ quan VC sốt ruột hỏi:


- Đồng chí tính sao? Chẳng lẽ ớn Long Khánh lại khoanh tay bất động đứng nhìn Huấn Khu của địch ngoan cố không đầu hàng? Lệnh trên buộc ta phải nhổ cái chốt này để tập trung về Saigon nội trong ngày hôm nay.
- Đồng chí nghe lệnh tôi, cho phân tán đơn vị vào nhà dân. Tất cả bố trí bên ngoài chờ lệnh, chỉ một chiến xa dò đường phá cổng chính mà thôi để xem quân trú phòng địch phản ứng ra sao. Các đồng chí khẩn trương chấp hành lệnh.


Một con trâu sắt đen thui từ từ húc về hướng cổng số 1, khoảng 10 giờ 30 sáng, chiếc T54 nghiền xích sắt gầm gừ tiến dần về cổng chính. Không biết bao nhiêu cặp mắt bên ngoài nhìn vô, không biết bao nhiêu cặp mắt bên trong nhìn ra, cả dân lẫn lính hai phe đối chiến. Mọi người nín thở, hồi hộp, họ chờ một tiếng nổ của hỏa tiễn M72 phóng vào chiến xa địch. Nhưng lạ lùng thay, bên ta không ai bắn một phát nào, trong lúc chiến xa địch ủi toạc hàng rào kẽm gai phòng thủ chắn trước cổng số 1, vừa qua khỏi cổng vừa tác xạ bừa vào Huấn Khu. Đơn lẻ chỉ có một chiếc, rõ ràng không phải chiến xa đi lạc đường, Bắc quân đang giở trò gì đây?


Lẻ tẻ có những tiếng súng nhỏ của quân trú phòng tức giận đáp lễ tiếng đại liên trên chiến xa địch nhưng âm thanh bị át đi bởi tiếng súng của địch. Có lẽ quân ta ngần ngại không dám khai hỏa khi thấy súng nhỏ M16, Carbine, Garant của phe ta không tương xứng với đại bác, đại liên trên chiến xa địch? Mấy thứ này làm sao bắn thủng vỏ thép T54! Còn M72 đâu? Không thấy khai hoả? Chiến trường gì đâu như giỡn mặt, như đùa.
Khi chiến xa địch vượt qua trường Quân Báo trên đường ra cổng số 9, Trung Sĩ Hùng Tầu hốt hoảng:
- Đại Uý Thảo, cho lệnh bắn đi chớ. Trời ơi! Nó chạy ngay sát cạnh mấy ống M72 mà sao ai cũng tha cho nó vậy trời!
- Không được, chờ! Bộ ông không thấy chúng nó đại bác nòng dài, còn đám mình súng nhỏ cổ lỗ sĩ! Anh em SVSQ các trường bạn bố trí cạnh đường, chiến hào cách chiến xa địch có một tầm tay với, họ chưa phản ứng thì mình phá bỉnh sao được? Nguy cho mình và nguy cho cả họ!


Từ bên ngoài cổng số 1, ban chỉ huy của địch cũng căng thẳng theo dõi chiếc chiến xa thám sát đơn độc.
- Lạ thật! các đồng chí có thấy gì không? Tại sao địch lại im lặng không phản ứng gì? Chẳng lẽ địch bỏ trốn trước lệnh đầu hàng? Ta đã vây kín căn cứ địch rồi làm sao chúng thoát.
- Báo cáo thủ trưởng, tôi nghe có tiếng súng nhỏ của địch nổ. Kiểu cách bố trí phòng thủ cho thấy địch không buông tay dễ dàng. Tôi lo cho chiến xa của chúng ta sẽ chạm địch dữ dội trên đường trở ra.
- Đồng chí ra lệnh trưởng xa không ủi cổng sau mà hãy quay lại về hướng cổng số 1 tức khắc, với vận tốc nhanh và khai hỏa tối đa 2 bên đường và các mục tiêu nghi ngờ.


Chiếc T54 chưa chạm cổng số 9 đã quay nhanh lại về hướng cũ, vừa chạy vừa tác xạ liên tục. Khi chiếc T54 vừa lăn xích qua khỏi Vũ Đình Trường, đột nhiên tất cả kháng tuyến hai bên đường đồng loạt nổ súng như mưa vào chiến xa, nhắm thẳng vào tên xạ thủ đại liên trên pháo tháp, hắn biến mất sau vài tràng đạn không biết hắn bị bắn gục lọt xuống lòng xe hay chui xuống trốn đạn?


Không còn bị đại liên uy hiếp, các ổ M72 dọc hai bên hông chiến xa đồng loạt phóng hỏa tiễn vào chiếc T54. Chiếc chiến xa bị vây trong lưới lửa, kinh hoàng rú ga. Một quả, hai quả, ba quả và hàng loạt quả, cái trúng cái trật, nhưng một quả M72 phóng từ hướng Đông phía Trường Thể Dục Thể Thao trúng thẳng vào xích sắt chiếc T54 làm nó đứt xích, khựng lại và rung lên vì sức nổ. Tuy nhiên, nó vẫn cố lết về hướng cổng số 1, hy vọng thoát khỏi vòng vây nhưng xích sắt bên trái bị đứt rời, đầu chiến xa xoay thẳng về hướng Khu Tiếp Tân rồi đứng khựng lại cách cổng số 1 không xa.


Trong chiến hào, quân ta đứng vụt dậy reo hò như tham dự một trận đánh hào hứng, đẹp như trong xi-nê. Chiếc T54 nằm cọ quạy tại chỗ nhưng chưa cháy, bỗng một SVSQ trường Bộ Binh đứng bật dậy khỏi hố chiến đấu, ném ống M72 xuống đất, phóng ra khỏi hố rút chốt lựu đạn chạy thẳng về chiếc chiến xa, nhẩy vọt lên xe và thảy vào lòng chiến xa rồi nhảy khỏi xe. Một tiếng nổ long trời trong lòng chiếc T54, tiếp theo là những tiếng nổ phụ của các loại đạn trong xe. Người SVSQ gan dạ đó không quay đầu lại cho đến khi anh nhảy lọt vào hố chiến đấu. Anh đứng thẳng người nhìn khói bốc ra từ chiếc T54 bất động. Tiếng reo hò của quân ta lại vang lên khắp các chiến hào. (**)


Chiếc T54 bốc khói nằm chết tại chỗ, vẫn chưa thấy địch chuyển quân. Hai bên án binh bất động. Tình trạng sẵn sàng tham chiến trong Huấn Khu vẫn còn căng cứng. Các sĩ quan trong Huấn Khu liên lạc nhau để kiểm điểm thương vong. Số thương vong có đến 20 anh em.
Trận đánh không có “đại bàng” tại HKTĐ sáng ngày 30 tháng 4, 1975 được coi là tuyệt vời, dù chiến trường ngay sau đó trở thành u ám khi nghe tin đồng đội bị tử thương và khi nghe tướng Dương Văn Minh ra lệnh buông súng đầu hàng.


Đại Úy Thảo, tự Thảo Ròm, gọi Trung Sĩ I Hùng giao lại tuyến phòng thủ. Bóng dáng mảnh mai của anh với cây Carbin M2 chạy vụt nhanh qua Hội Quán Sĩ Quan phụ tay tẩm liệm anh em tử thương, băng bó anh em bị thương. Nỗi đau nhìn anh em trên vũng máu chưa nguôi thì nỗi đau lớn hơn, bàng hoàng hơn vây bọc mọi người khi được nghe rõ từ chiếc radio: ông Dương văn Minh ra lệnh toàn quân buông súng! Không biết lệnh này ban ra lần thứ mấy từ đài phát thanh Saigon. Có những lời chửi thề tức tối, có những vị sĩ quan gục đầu ôm mặt, những dòng nước mắt tuôn trào trên những gương mặt một thời xông pha trong cõi chết của trận mạc mà chưa từng đổ lệ….


Thảo Ròm chạy lên phòng làm việc của Khối Chính Tranh Chính Trị Trường Quân Báo. Anh gặp Thiếu Tá Bái nước mắt ràn rụa:
- Đại Uý Thảo, thế là hết! Thay đồ nhanh lên để về với vợ con, còn gì mà chần chờ!
- Không, Thiếu Tá dzọt trước đi. Tôi đã thủ mấy trái lựu đạn mấy bữa nay. Trước khi buông súng, tôi quyết sẽ chơi bọn nó cú chót. Tôi sẽ gài vài trái vào tủ hồ sơ rồi xuống sau.
- Đừng! Đừng anh Thảo! Nó không giải quyết được gì thêm, ngộ lỡ trong cảnh hỗn loạn, anh em sau mình vô tình mở tủ hồ sơ thì khốn!


Thảo tuân lời. Anh cởi bỏ bộ quân phục, đôi giầy trận như anh đã từng làm mỗi chiều tan sở rời đơn vị về nhà, nhưng lần này, tay anh run run, tim anh đoài đoạn, lòng anh trùng xuống khi biết đời binh nghiệp của mình đã chấm dứt, giờ chia tay bạn bè trong tình huống tan hàng nghiệt ngã. Trước khi rời bước, anh xoay người nhìn lại bộ quân phục nằm rũ trên bàn. Chợt anh nhìn thấy ba bông mai vàng trên bâu áo như đau đớn nhìn anh vĩnh biệt, trên má anh, hai hàng nước mắt chảy dài.


Sau khi chiếc T54 bị cháy, địch sẽ dứt điểm HKTĐ bằng mọi gía. Đứng trước cư xá phía mặt tiền Trường Tổng Quản Trị, Trung Tá Truyền mắt đăm đăm nhìn ra cổng số 1, mắt đảo một vòng ra phía Chợ Nhỏ, chợt ông quay lại nói với anh em:
- Điệu này chắc không xong. Ông Minh đã ra lệnh buông súng mà chúng ta vẫn còn đánh. Tôi thấy cả Huấn Khu nhiều anh em vẫn cương quyết đánh đến cùng, nhưng thế cờ sẽ không xoay ngược. Tôi sợ tốn xương máu của anh em.


- Trung Tá định làm gì? Trong khu vực mình, dù Trung Tá thuộc quân số Trường Bộ Binh Long Thành nhưng Trung Tá là sĩ quan cao nhất có mặt trong khu vực này, không biết bên Trường Quân Báo hay Quân Nhạc có vị sĩ quan cao cấp nào còn lại trong Huấn Khu hay không. Chỉ huy trưởng, chỉ huy phó không xuất hiện trên hệ thống liên lạc tác chiến. Thôi thì Trung Tá cứ nói quyết định của Trung Tá xem sao.
- Tôi gắn cờ trắng lên xe và cùng tài xế ra cổng tiếp xúc với các đơn vị Việt cộng để nói chuyện mình hạ vũ khí.


- Không, tụi em không đồng ý..
- Thế thì các cậu có giải pháp nào hay hơn trong tình huống tuyệt vọng này chăng?
Không ai trả lời. “thầy trò” trao đổi quyết định trong không khí nặng nề, căng thẳng. Sau cùng họ để Tr/Tá Truyền quyết định. Tr/Tá Truyền vẫn mặc nguyên quân phục và cấp bậc, cùng tài xế lái xe jeep mui trần ra cổng. Cây cờ trắng phất phơ trên cây cần câu máy truyền tin. Chiếc xe chạy chậm, mấy trăm cặp mắt nhìn chăm chăm vào xe ông di chuyển. Ông đứng thẳng người, xe và người không trang bị vũ khí. Bên ngoài địch thấy rõ đây là một sĩ quan của quân đội miền Nam ra tiếp xúc với họ. Khi xe của Tr/Tá Truyền vừa chạm mặt đường ra cổng chính, một qủa B40 hay SKZ trực xạ từ bên ngoài thẳng vào chiếc xe mang cờ trắng. Ầm! Chiếc xe jeep nổ tung lên và bốc cháy. Tr/Tá Truyền và người tài xế văng ra khỏi xe và chết ngay tại chỗ.


Tất cả những người chứng kiến cái chết của Tr/Tá Truyền bàng hoàng, uất hận, họ nhào xuống giao thông hào khai hỏa hàng loạt ra ngoài, những đỉnh đầu ruồi đồng loạt hướng về cổng số 1, họ sẵn sàng chiến đấu chết bỏ.
Rồi họ chờ phản ứng của địch. Thời gian trôi chậm chạp trên bờ tử khí hắc mùi thuốc súng, địch vẫn án binh bất động. Chiếc T54 vẫn còn những sợi khói quặn mình bò lên không trung. Khoảng 1 giờ trưa, khi Th/Tá Bái và Đ/Úy Thảo nghẹn ngào ôm lấy anh em khóa sinh, SVSQ và những sĩ quan thân thuộc, họ nói với nhau những lời vĩnh biệt, tang thương phủ xuống Huấn Khu. Tiếng loa gọi hàng của Bắc quân vọng vô:
- Chúng tôi kêu gọi các đơn vị Ngụy quân đầu hàng, bỏ vũ khí tại chỗ, mặc thường phục và rời khỏi doanh trại.


Loa gọi hàng được nhắc đi nhắc lại xen lẫn với lời gọi buông súng của Dương Văn Minh. Anh em trong Huấn Khu thấy bầu trời bỗng chốc chuyển sang một mầu đỏ rực, cây cỏ gục đầu dưới nắng tháng Tư hừng hực tử khí thê lương. Cũng không gian đó, cũng vùng đất này, vài tháng trước đây, dù có trải qua những giờ phút lửa đạn ngút trời, HKTĐ vẫn hiên ngang trong lưới đạn thù vây bủa. Nhưng bây giờ, lòng trời đang chuyển đổi, lòng người đang tan nát. Quân địch súng cầm tay, gờm gờm những ngón trỏ gắn vào cò AK, đi hai hàng tiến vào Huấn Khu qua cổng số 1. Bên ngoài, như phòng hờ bất trắc, mấy chiếc T54 chĩa nòng đại liên vào dòng thác người mặc thường phục đang ùn ùn ngược chiều đổ ra khỏi Huấn Khu.


Trong dòng thác người mặc thường phục có cả lính lẫn dân đang tràn về hướng Chợ Nhỏ và xa lộ. Không một tiếng súng nổ, địch âm thầm trám những khoảng trống trong Huấn Khu. Người Lính miền Nam cúi đầu, cắn răng lặng lẽ lê những bước chân không giầy “saut” trên con đường xưa thân quen nhưng trong lúc này bỗng thấy nó trở thành xa lạ.


Có một người tách khỏi dòng người, đứng dạt sang một bên đường, trân trân nhìn lại HKTĐ thấp thoáng bóng địch đang hạ lá cờ vàng, xa xa, vài cột cờ với lá cờ vàng ba sọc đỏ vẫn còn tung bay trong nắng. Anh đưa tay chào vĩnh biệt lá cờ trong tầm mắt mà hai hàng nước mắt tuôn rơi ….
Trần Văn Trung, Lê Nguyễn, Hải Triều
Ghi chú:
(*) Hai sĩ quan tham dự trận đánh và viết lại chi tiết của trận đánh này là Đ/U Trần Văn Trung (hiện ở Canada) và Đ/U Thảo (hiện ở Hoa Kỳ)
(**) Báo Saigon Giải Phóng sau tháng 4/75 cũng đã xác nhận trận đánh lẫm liệt trong HKTĐ với thảm cảnh của chiếc T54 đơn độc trong vòng lửa M72.

NGUYỄN HUY HÙNG * HỒI KÝ 30-4-75

Nguyễn Huy Hùng: 

Chơi Vơi Giữa Dòng Sóng Đỏ.

 
 

Lúc mười giờ sáng 30-4-1975, qua làn sóng đài phát thanh Saigon, Dương văn Minh chính thức tuyên bố đầu hàng, dâng miền Nam Việt Nam cho Cộng sản Bắc Việt xâm lăng. Đến tối, Trần văn Trà tướng Việt cộng, Chủ tịch Ban Quân quản Saigon, ra thông cáo cũng đọc trên làn sóng đài phát thanh Saigon, buộc tất cả Quân nhân, Công chức thuộc Chế độ Saigon cũ phải đến nhiệm sở để trình diện kể từ ngày 1-5-1975. Ai không thuộc các đơn vị ở Saigon, phải đến trình diện tại Phường nơi gia đình đang cư ngụ hoặc tạm trú.
Ngày 1-5-1975, Ủy ban Quân quản Saigon tổ chức Mít-tinh mừng ngày Quốc tế Lao động và Thống nhất đất nước, rất lớn tại đường Thống Nhất trước dinh Độc Lập. Chắc chắn sẽ có nhiều người hiếu kỳ và bọn “Cách mạng 30 tháng 4” ra đường, nên Tôi quyết định không đi trình diện vào ngày đó. Hơn nữa, Vợ Con tôi cũng khuyên, trong lúc còn hỗn quân hỗn quan, tình hình chưa hoàn toàn ổn định không nên ra đường, e có thể gặp những kẻ xấu đón gió trở cờ, hại mình để lập công với quân Giải phóng thì thiệt thân.
Sau khi nghe lời thông cáo của Trần văn Trà, hai người con lớn của Tôi cưỡi xe đạp đi tìm gặp Hạ sĩ D., một nhân viên làm việc trong Văn phòng của Tôi, nhà cũng ở khu Bàn Cờ gần nơi gia đình tôi đang tạm trú, để tìm hiểu xem gia đình anh ấy có di tản không? Nếu anh ấy còn ở đó với gia đình, thì tìm hiểu xem anh ấy đã đi trình diện chưa? Hạ sĩ D. có nhà riêng 3 tầng ngay bên mặt lộ lớn, giữa trung khu Bàn Cờ. Các tầng lầu để ở, tầng trệt dưới cùng mở cửa hàng bán sách, dụng cụ cắm trại và các loại huy hiệu trang phục cho Hướng đạo sinh. Gia đình anh D. người miền Trung, thuộc dòng gốc theo đạo Thiên Chúa. Cha anh D. có nhiều liên hệ quen thân với các Linh mục đang trách nhiệm các cơ sở dòng tu và Nhà Thờ tại thị xă Vũng Tầu.
Nửa tiếng đồng hồ sau, các con Tôi trở về có anh D. đi theo. Thấy Tôi, anh em ôm nhau mừng rỡ. Vì cùng là Huynh trưởng Hướng đạo, nên xưa nay chúng tôi vẫn đối xử với nhau không theo cung cách cấp bậc Quân đội. Anh D. sửng sốt kêu: “Sao Anh không di tản đi?”. Tôi trả lời: “Cũng có tìm đường đấy, nhưng không gặp giây, đành chịu vậy biết làm sao bây giờ.”
Trong những dịp tổ chức Trại huấn luyện Huynh trưởng Hướng đạo Quân đội, tại Long Thành hoặc Vũng Tầu hồi trước 30-4-1975, Tôi thường đưa Vợ và các Con đến dựng lều ở chơi trong Trại, nhờ thế các Con tôi và anh D. có nhiều cảm tình thân thiết với nhau. Hẳn là các Con tôi đã nói gì với anh D. trước, nên để trấn an tinh thần cho Tôi, anh ấy nói tiếp ngay: “Mồng hai, em mới đi trình diện. Em sẽ ghé lại đèo Anh cùng đi bằng Honda của em. Anh đừng lo. Mồng một, người ta tổ chức mít tinh lớn lắm, sẽ có đông người, Anh không nên ra đường.”
Anh D. cũng khoe rằng, một người thân của Cha anh ấy đi tập kết mới trở về có ghé thăm gia đình, cho biết là cứ yên tâm đi trình diện, làm thủ tục xong sẽ được tạm về chờ lệnh Nhà nước gọi đi học tập sau. Hạ sĩ quan, Binh sĩ như anh ấy, thì sẽ học tập 3 ngày tại địa phương. Còn Sĩ quan là những người quan trọng hơn lính, sẽ phải đi cải tạo một thời gian, rồi mới được trở về hội nhập vào xã hội mới Xã hội Chủ nghiă.
Sáng ngày 2-5-1975, anh D. đem Honda đến đón Tôi cùng đi trình diện, tại trụ sở Tổng cục Chiến tranh Chính trị, số 2 Đại lộ Thống Nhất, Saigon. Trên dọc đường đi anh D. dặn Tôi, khi đến nơi hăy đứng ở ngoài cổng giữ xe, để anh ấy vào thăm thử xem tình hình ra sao. Nếu thấy thuận lợi không có gì nguy hiểm thì sẽ trở ra kêu Tôi vào. Còn ngược lại thì sẽ ra đưa Tôi về nhà tìm phương cách khác.
Văn phòng Tổng cục trưởng của Trung tướng Trung, được dùng làm nơi trình diện và hoàn tất các thủ tục khai báo. Anh D. vào được 5 phút thì quay ra khoá cổ xe Honda và rủ Tôi cùng vào.
Khoảng 20 Sĩ quan, Hạ sĩ quan, Binh sĩ thuộc Tổng cục đã đến từ trước ngồi đầy các ghế, Tôi và anh D. ngồi vào 2 ghế còn trống trên hàng đầu.
Một Cán bộ Cộng sản, mặc bộ đồ Tác chiến xám mầu cứt ngựa, không thấy đeo cấp hiệu, ngồi nơi bàn làm việc của Tướng Trung, vẫy tay kêu từng người lên làm việc theo thứ tự tới trước sau. Sau này khi nhận được giấy chứng nhận đã trình diện do ông ấy ký, Tôi mới biết tên là Việt, cấp bậc thì không rõ vì không ghi trên giấy.
Tôi ngồi trên chiếc ghế ở hàng đầu, sát gần trước bàn giấy ông Việt đang ngồi, được một lúc thì thấy cánh cửa phiá thông qua phòng tùy viên bật mở. Một người cũng mặc đồ trận, vai đeo chiếc máy ảnh dã chiến loại nhà nghề, tay trái đeo một băng vải đỏ (cách mạng 30 tháng tư), bưng phích nước trà sâm bước ra để lên bàn.
Liếc nhìn thấy Tôi, người này ghé tai nói nhỏ điều gì với ông Việt, rồi đi trở vô trong. Một phút sau trở ra, để lên bàn trước mặt ông Việt một mẩu giấy nhỏ. Nhờ thế, Tôi nhận ra được người kia chính là anh Hạ sĩ quan chuyên viên chụp ảnh của Cục Tâm Lý Chiến, thường được chọn lựa cho đi theo ghi những hình ảnh phóng sự, hoạt động của Tổng thống Thiệu và các cấp Lãnh đạo lớn trong Chính phủ VNCH trước 30-4-1975.
Ông Việt liếc mắt đọc mảnh giấy xong, ghé sát tai anh ta nói nhỏ. Sau đó anh ta đi vào bên trong mất hút. Hai phút sau, có tiếng nói ở cuối phòng, yêu cầu mọi người tạm sang phòng Họp kế bên chờ, Cán bộ cần làm việc riêng một lúc. Tôi đứng lên thì ông Việt nói: “Mời Đại tá ngồi đó, tôi có chuyện hỏi riêng.”
Tôi giật mình, không biết chuyện gì sẽ xẩy ra, nhưng vẫn bình tĩnh ngồi xuống. Đã rơi vào tay Cộng sản, thì trước sau rồi cũng chết có gì mà phải lo.
Chẳng có gì đặc biệt, ông ấy hỏi Cấp bậc, Chức vụ trong Tổng cục, lý lịch cá nhân, có mấy con, bây giờ Vợ Con đang ở đâu, quá khứ hoạt động trong chính quyền cũ, tên các cấp chỉ huy các cơ quan và đơn vị mình đã phục vụ, bây giờ họ ở đâu?… và sau cùng yêu cầu nộp súng cá nhân, y như đã làm đối với mọi người đã trình diện trước vậy thôi.
Khi Tôi nộp khẩu súng lục có ổ quay tròn và hộp đạn xong, ông ấy hỏi: “Không có dao găm à?” Tôi trả lời Sĩ quan Quân đội chúng tôi đâu có được phát dao găm. Ông ta gật đầu rồi hỏi tiếp: “Đại tá có biết bây giờ Trung tướng Trung đang ở đâu không?” Tôi trả lời, hồi sáng sớm 30-4-1975, Tôi còn tiếp xúc với Trung tướng Trung qua điện thoại Văn phòng này, bây giờ thì không biết Tướng Trung ở đâu.
Sau khi hỏi cung Tôi xong, mọi người lại được mời trở lại chỗ ngồi như trước. Ông Việt yêu cầu một anh em nào đó đang có mặt trong phòng phát biểu ý kiến. Anh D. xung phong nói: “Ăn cây nào thì phải rào cây nấy, sống dưới Chế độ miền Nam thì chúng em phải tuân hành luật lệ như mọi người, thi hành nghiã vụ quân sự vậy thôi. Bây giờ Cách mạng thành công, đất nước thống nhất dưới quyền của Cách mạng, thì chúng em chỉ muốn được tiếp tục sống như những người dân bình thường, tuân theo luật lệ của Nhà nước Cách mạng.”
Ông ấy gật đầu rồi chỉ tay vào Tôi hỏi: “Đại tá có ý kiến gì không?”

Tôi chậm rãi hỏi: “Cán bộ có thể cho Tôi biết Cấp bậc của Cán bộ, để tiện xưng hô không?”
Ông ta nói: “Đối với chúng tôi cấp bậc không quan trọng, Đại tá cứ gọi Cách Mạng là được rồi.”
Tôi bình tĩnh nói: “Cách mạng và chúng tôi, mỗi bên đi theo một lý tưởng xây dựng kiến thiết Quốc gia khác nhau, nay chúng tôi thua, trở thành tù binh của Cách mạng, thì tùy quyền xét xử của Cách mạng. Làm gì thì chúng tôi cũng phải chịu. Chỉ xin một điều duy nhất, là Vợ Con của chúng tôi không liên hệ gì vào công việc làm của chúng tôi, cũng như bao nhiêu người dân sống ở miền Nam này vậy, xin hãy đại lượng cho họ được tiếp tục sinh sống như mọi người dân thường khác.”

Ông ấy nói: “Cách mạng rất Đại lượng và Công bằng, các anh cứ yên tâm đừng lo, tôi sẽ cấp giấy chứng nhận đã trình diện để các anh ra về thong thả, và ở nhà đợi lệnh Nhà nước sẽ gọi đi học tập cải tạo một thời gian, chắc chắn không lâu bằng thời gian đã phục vụ trong Chế độ cũ đâu.”
Và để trấn an mọi người, ông Việt với giọng ôn tồn thân thiện trịnh trọng nói thêm: “Tội ai làm nấy chịu, Vợ con không liên can gì, vẫn được cư xử công bằng như mọi người dân bình thường khác. Cách mạng không bao giờ nói sai đâu. Các anh cứ yên tâm.”
Sau khi nhận giấy đã trình diện xong, Tôi thở phào nhẹ nhõm, mừng vì có được thêm thời gian lo ổn định nơi ăn chốn ở cho Vợ Con, trước khi ly biệt nhau không hy vọng ngày trở lại. Anh D. vui mừng khoác tay Tôi kéo đi vội ra cổng, làm như sợ người ta đổi ý kiến.
Tới cổng, trong khi anh D. mở khoá cổ xe Honda, Tôi ghếch ngồi lên nệm phía sau lưng anh ấy, người bộ đội gác cổng nhìn Tôi hất hàm hỏi: “Hộ lý của anh đấy à?”. Anh D. nhanh miệng trả lời: “Không, anh này làm chung một chỗ với em, nhà ở gần nhau, nên cùng đi cho vui vậy thôi.” đồng thời lẹ làng mở máy xe, thả ga vọt đi thật nhanh chở Tôi về căn nhà gia đình Tôi đang tạm trú.
Đến chiều tối, anh D. đến mời cả gia đình Tôi, sang tạm trú tại nhà riêng của anh ấy cho được “bảo đảm” an ninh hơn. Vì nhờ ông thân sinh của anh ấy, có người thân thuộc hàng Cán bộ đi tập kết về, được xe hơi nhỏ của Nhà Nước chở tới nhà thăm gia đình, xóm giềng ai cũng thấy, nên Cán bộ địa phương và bọn “Cách mạng 30 tháng tư” không dám héo lánh làm phiền.
Hồi cuối năm 1995 hay đầu 1996, Tôi không nhớ rõ ngày, nhân dịp về dự Trại Họp bạn Hướng đạo Việt Nam tại vùng Quận Orange Nam California, anh D. được Mục sư Nguyễn quang Minh, cũng là một Huynh trưởng Hướng đạo Việt Nam trước kia, cho biết tin về Tôi. Anh D. đã gọi điện thoại hỏi xin địa chỉ, và nhờ bạn lái xe đưa đến tận nhà thăm Tôi và gia đình. Nhờ thế Tôi được biết gia đình anh D. cũng đã vượt biên sang Hoa Kỳ, và đang định cư tại Tiểu bang Texas. Anh D. mới qua đời cách nay mấy năm vào đầu thế kỷ 21.
Cái kỳ anh em chúng tôi phải trình diện Quân CSBV lần thứ nhất, tại nhiệm sở hồi đầu tháng 5-1975, không ai bị giam giữ ngay, ngoại trừ một thiểu số đặc biệt đã bị họ ghi tên trong sổ đen từ trước. Theo Tôi nghĩ, có lẽ một là vì chưa có lệnh của Hà nội, hai là các đơn vị Cộng sản còn đang bận tiếp tục hành quân tiến chiếm các Tỉnh miền Tây chưa xong, nên chưa kịp thu xếp nơi giam cũng như không có người để canh giữ, hàng chục ngàn sĩ quan trong một lúc tại Saigon.
Trong thời gian được ở nhà chờ lệnh gọi đi trình diện học tập cải tạo, có một số Sĩ quan cao cấp (trong đó có Tôi) bị gọi riêng để thẩm vấn nhiều lần, tại mấy căn nhà trên con đường bên hông sau Toà Đại sứ Anh quốc đường Thống Nhất (Tôi không nhớ tên đường). Họ hỏi về Tổ chức và nhiệm vụ của những Cơ quan Đơn vị mình đã phục vụ, suốt từ khi nhập ngũ cho đến ngày 30-4-1975, tên các người chỉ huy mình… Sau suốt một ngày thẩm vấn, có người được ra về, có người bị giữ lại thấm vấn tiếp, rồi đưa đi đâu không ai biết.
Vào gần cuối tháng 5-1975, Ban Quân quản Saigon lại ra thông cáo buộc mọi người phải trình diện lần thứ 2, tại đường Trần Hoàng Quân, Chợ Lớn. Lần này, họ tịch thu thẻ căn cước dân sự, thẻ Sĩ quan, và cấp cho một mảnh giấy chứng nhận đã trình diện chờ ngày đi tập trung cải tạo.
Hôm ấy, Tướng, Tá, Úy Nam Nữ đến trình diện rất đông. Tôi gặp một số bạn quen biết tại Saigon, và rất nhiều người lạ từ các địa phương chạy về Saigon tá túc. Nét mặt ai nấy đăm chiêu ngại ngần, không dám vồn vã chào hỏi nhau như thường lệ. Ngoại trừ một thiểu số (cách mạng 30 tháng Tư) có vẻ mặt hoan hỉ, quan trọng, lạnh lùng, làm ngơ trước bạn bè cũ như chưa bao giờ quen biết nhau. Nhưng đến giữa tháng 6-1975, tới nơi trình diện tập trung cải tạo, Tôi lại gặp những người này cũng phải đi chung với chúng tôi.
Trong thời gian chưa bị đưa đi tập trung cải tạo, Tôi đã tiếp xúc với một số Huynh trưởng Hướng đạo Quân đội còn ở lại Saigon, tìm đường giây vượt biên nhiều lần nhưng không thành, đành chịu bó tay ngồi chờ sự bất hạnh chung với các chiến hữu khác.
Tới tháng 6-1975, mặc dù Trung Ương Đảng CSVN tại Hà nội chưa soạn xong các tài liệu nhồi sọ, cũng như chưa huấn luyện xong Cán bộ giảng huấn, mà vẫn phải ra lệnh tập trung, vì nhiều người tìm cách vượt biên. Đồng thời cũng có những tổ chức Phục quốc hoạt động bí mật, ám sát Cán bộ Cộng sản xâm lược miền Nam Việt Nam, ngay trong thành phố Saigon Chợ Lớn.
Hạn chót phải đi trình diện tập trung là 15 tháng 6 năm 1975, nhằm ngày Đoan Ngọ, 5 tháng 5 âm lịch năm Ất Mão. Năm người con lớn, dùng xe đạp chở và theo tiễn Tôi đến nơi trình diện. Chỉ còn 2 người con gái 13 và 10 tuổi ở lại nhà cùng Vợ tôi, trông nhà không đi.
Một toán Bộ đội giải phóng đặt súng liên thanh, làm nút chặn ngay tại bùng binh ngã sáu đầu đường Minh Mạng, cách Đại học xá Minh Mạng địa điểm trình diện khoảng mấy trăm thước. Cha Con chúng tôi phải chia tay nhau tại bùng binh này.
Trong khi ôm hôn từ biệt, thấy nét mặt thơ ngây đôn hậu ngơ ngác của các Con, một nỗi buồn man mác xâm chiếm xé tim gan làm Tôi xúc động rưng rưng lệ. Không biết các Con của Tôi lúc đó có nghĩ rằng, đây có thể là lần chót Cha Con được nhìn thấy mặt nhau không? Hay chúng vẫn an tâm, đinh ninh hy vọng ở lời tuyên bố ngọt ngào trịnh trọng khoan hồng nhân đạo của Cách mạng, là 30 ngày sau, Cha Con, Vợ Chồng lại đoàn tụ bên nhau xây dựng cuộc sống mới.
Thật là giây phút não nuột nhất trong cuộc đời Tôi, không thể tìm ra lời nào tả được đầy đủ cái cảm giác xúc động đau đớn này.
Bánh tro Đoan Ngọ vàng trong,
Anh hùng thất thế đành lòng nộp thân.
Vợ con lo lắng tiễn chân,
Hoang mang, ngơ ngác, tần ngần lệ rơi.
Tháng Tư đại nạn đổi đời,
Vì Dân nay phải vào nơi đọa đầy.
Tự do giã biệt từ đây,
“Chim lồng cá chậu” biết ngày nào ra.
Chơi vơi đâu chỉ riêng Ta,
Toàn dân Nam Việt lệ nhòa đau thương.
Kiêu binh Cộng sản đầy đường,
Bợ thời phản bội khối phường tiểu nhân.
Từng quen luồn cúi kiếm danh,
Nhiễu nhương lật lọng ôm chân kẻ thù.
Bọn thì đội lốt nhà Tu,
Xúi người khác đạo gây thù hại nhau.
Con buôn chính trị hoạt đầu,
Vội mang băng đỏ dép râu làm hề.
Lăng xăng mừng Cách mạng về,
Tung tăng bợ đỡ làm thuê không tiền.
Du côn, đứng bến, nằm hiên,
Bỗng dưng đời đổi, nắm quyền trị dân.
Cướp đường, trộm chợ, phu khuân,
Hóa thành Cách mạng, áo quần bảnh bao.
Ủy ban Quân quản ra vào,
Tiền hô hậu ủng, Cờ sao đỏ đường.
Đổi đời rối loạn Âm Dương,
Đảng đoàn, chồn cú, ma vương hoành hành.
Khắp nơi xú uế hôi tanh,
Còn đâu không khí trong lành Tự do.
Sài gòn đổi ra Thành Hồ,
Mặc tình bè lũ Tam Vô hại đời.
NGUYỄN HUY HÙNG
Cựu Đại Tá Quân lực Việt Nam Cộng Hoà, Phụ tá Tổng cục trưởng Chiến tranh Chính trị, kiêm Chủ nhiệm Nhật báo Tiền Tuyến trước 30-4-1975.
Cựu tù nhân chính trị 13 năm lao động khổ sai trong các trại tập trung cải tạo của Đảng Việt Cộng và bạo quyền Cộng hoà xã hội chủ nghiã Việt Nam sau ngày Quốc hận 30-4-1975.

TRẦN LÝ * KHÔNG QUÂN 30-4-1975

Trần Lý: Ngày Chim Vỡ Tổ – Cuộc Di Tản Của Không Quân VNCH,

 
Tập ‘Quân sử Không Quân’ trang 199 ghi lại:
‘Về Không quân VNCH ngoài một số nhỏ quân nhân và gia đình được di tản bằng phi cơ C130, C141 của KQHK từ ngày 20/4, đa số còn lại chỉ di tản sau ngày 28/4/1975, khi Bộ Tư lệnh KQ không còn hoạt động theo đúng chức năng của một Bộ Tư lệnh nữa.

 

Số lượng phi cơ của KQVN bay thoát được sang Utapao, Thái Lan, do các tác giả đưa ra, không thống nhất, theo Robert Miskesh trong ‘Flying Dragons: the South Vietnamese Air Force thì tổng cộng vào khoảng 132 chiếc, gồm khoảng 25 F5, 27 A37, 11 A1, 13 C47, 6 C130, 3 AC 119, 5 C7 và 45 UH1; trong khi đó Wayne Muntza, trong The A-1 Skyraider in Viet Nam: The Spad’s Last War, và Ralph Wetterhahn trong ‘Escape to Itupao thì con số máy bay được cho là 165 chiếc, thêm vào đo là các U-17 và O-1, ngoài ra không kể vài phi cơ dân sự của Air VN.


Cũng vào ngày cuối cùng, một số trực thăng đã bay ra đáp xuống các chiến hạm của HQHK, con số này được ước lượng là khoảng 100 chiếc, đa số là UH1 và CH47. Cũng có những chiếc tuy bay được ra biển nhưng do trục trặc kỹ thuật, hoặc hết nhiên liệu đã rớt xuống biển. Con số này được ước lượng là khoảng 18 chiếc.’
37 năm sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, các tài liệu quân sự được giải mật và những bài hồi ký, bút ký của nhiều tác giả trong cuộc đã giúp ‘vẽ lại’ toàn cảnh (tuy có thể chưa hoàn toàn chính xác) về cuộc di tản… hay đúng hơn là ‘tự tan hàng’ của KQVNCH.
Cuộc di tản chiến thuật, rút bỏ Quân Đoàn 2, ngày 6 tháng 3 năm 1975 đã bỏ lại tại Pleiku 64 phi cơ các loại.
Ngày Quân Đoàn 1 tan hàng tại Đà Nẵng (30 tháng 3, 1975), 180 phi cơ đã bị bỏ lại… trong số này có 33 phi cơ vận tải C-7 Caribou đang bị đình động còn bọc kin trong bao tồn trữ.
Trong những tháng cuối củng của cuộc chiến, khả năng chiến đãu của KQ/VNCH càng ngày càng bị giới hạn do không còn một Hệ thống chỉ huy và kiểm soát hữu hiệu. KQ/VNCH không có những phi cơ trang bị hệ thống chỉ huy, dẫn đạo không trợ bay trên vùng cần yểm trợ hành quân (theo phương pháp của KQHK, dùng các C-130 làm trạm chỉ huy trên vùng). Trong khi đó sự kiện bị mất các Đài Kiểm báo và Không trợ như Trung Tâm CRC (Combat Report Center) Panama Đà Nẵng, các Trạm CRP (Combat Report Point) Peacock PleiKu, Pyramid Ban Mê Thuột… đã khiến Hệ thống Kiểm Báo Chiến Thuật trở thành tê liệt, vô hiệu. Tuy Trung Tâm CRC Tân Sơn Nhất vẫn còn hoạt động nhưng nhiệm vụ chính lại… không phải là để điều hành các phi vụ yểm trợ chiến trường, hoặc hướng dẫn oanh tạc các mục tiêu dưới đất. Các phi vụ oanh tạc tùy thuộc vào các phi cơ Quan sát FAC (Forward Air Controller = Điều không tiền tuyến) và tùy phi công có mặt trên vùng… nhận định mục tiêu bằng mắt thường.
Vào thời điểm của Trận Xuân Lộc: KQVNCH còn 1492 phi cơ các loại, trong đó có 976 chiếc hoạt động được, 135 chiếc hư hỏng không bay được và 381 chiếc kể như phế thải. Lực lượng phi cơ chiến đấu gồm 169 chiếc A-37 (trong đó 92 chiếc khả dụng) và 109 F-5s (93 chiếc khả dụng).
Những phi vụ hành quân cuối cùng của KQ VNCH trên không phận Sài Gòn:

 
Trong những ngày cuối cùng của VNCH, KQVN vẫn còn hoạt động với một số phi vụ yểm trợ bộ binh và chống pháo kích. Đ/úy Phi công Trần văn Phúc PĐ 518 ghi nhận một số phi xuất trong những ngày 28 và 29 tháng 4 như:
PĐ 518 với Phi vụ Phi Long 51 do một phi tuần gồm 2 Skyraiders… (một do Đ/u Phúc và 1 do Th/tá Trương Phùng) bay vào sáng 29/4. Phi cơ của Th/tá Phùng bị phòng không BV bắn hạ. Ông đáp xuống ruộng gần cầu Bình Điền, bị bắt và sau đó bị CQ hành quyết vào ngày 30 tháng 4.
PĐ 514 với một phi tuần 2 Skyraiders cất cánh từ Cần Thơ để bay trên không phận Sài gòn vào sáng 29… do các Th/tá Hồ ngọc Ân và Đ/u Nguyễn Tiến Thụy điều khiển.
Những phi vụ Tinh Long của các AC-119 như Tinh Long 06, Tinh Long 07.
Tinh Long 07 (sáng 29) do Tr/u Trang văn Thành điều khiển đã bị SA-7 của CQ bắn hạ, phi cơ gẫy làm đôi và rơi ngày tại vòng đai phi trường. Phi hành đoàn gồm 9 người, 8 hy sinh ngoại trừ nhân viên nhảy dù thoát được.
Theo Đ/u Phúc ‘ngoài Tinh Long 07, còn có thể cò thêm 2 AC 119 khác bị bắn hạ (?) (một rơi tại đường Ngô Quyền, và một rơi tại Tân Tạo…).
Sáng 30 tháng 4, một phi xuất A-37 (PĐ 526) từ Cần Thơ, phối hợp với O-1 (PĐ112) từ Đồng Tâm… bay yểm trợ khu vực Hoàng Hoa Thám ngay trước giờ DV Minh tuyên bố đầu hàng… (A-37 do Tr/u Nguyễn Mạnh Dũng điều khiển); (O-1 do Đ/u Mai Tri Dung). Đây có thể là phi vụ hành quân cuối cùng của KQ/VNCH.
(Xin xem bài: Những Phi vụ hành quân sau cùng của KQ VNCH, của Trần Lý)

Những giờ phút cuối cùng tại Bộ Tư lệnh KQVNCH

 

Chiều 28 tháng 4, CSBV đã dùng 4 A-37 (lấy được, từ Phan Rang) oanh kich Phi trường TSN, gây tổn hại cho 3 chiếc C-119 và nhiều C-47.
Tối 28 tháng 4: một sự kiện ‘kỳ lạ’ đầy bí ẩn đã xẩy ra tại TSN: Tác giả Thiên Lôi Ngô Đưc Cửu trong ‘Chuyện 30 năm trước’ (website bgkq.net/hoiky) ghi lại như sau:
… ’8 giờ tối 28 tháng 4 năm 1975… tôi trở về ụ đậu phi cơ đầu phi đạo 07 phải, nơi tạm trú của 3 Phi đoàn 524, 534 và 548 di tản từ các căn cứ về. Bước xuống xe, tôi thấy các nhân viên phi đạo đang bận rộn kéo các A-37 trang bị đầy bom đạn từ trong vòm trú ẩn ra đậu hàng ngang dài phía trước, cách ụ 50 feet. Tôi bước đến hỏi Trưởng phi đạo tại sao dời phi cơ khỏi ụ? Anh ta trả lời: theo lệnh Trung tá kỹ thuật và Bộ CH Hành quân. Tôi vào phòng trong ụ, nhắc điện thoại gọi TT Hành quân, thì sĩ quan trực cho biết hình như lệnh của Bộ Tư lệnh KQ hay… Bộ TTM… gì đó? Tôi hỏi: Anh có biêt là hồi chiều phi đạo 07 vừa bị dội bom không?… Tôi liên lạc với Đ/tá Ước, nhưng không được… Trở lại bãi đậu,tôi yêu cầu Trưởng phi đạo di chuyển phi cơ trở lại ụ, nhưng không được.


Tôi tự hào trong hàng ngũ phi công khu trục KL/VNCH, nhất là KĐ 92 có các PĐ 524, 534, 548 cho đến giờ phút này: 22 giờ 18 tối 28 tháng 4 tât cả phi công đều có mặt ứng chiến, không thiếu một ai.
Suốt đêm tất cả anh em 3 phi đoàn chờ đợi, điều động cất cánh… nhưng tuyệt nhiên không một tiếng điện thoại reo.
Nửa đêm VC bắt đầu… pháo kích… và hơn 50 chục A-37… bị phá hủy… Giờ đây hơn trăm phi công chiến đấu bằng tay không ư?


6 giờ 15 sáng 29, tât cả phi công lên xe chạy về Bộ Chỉ huy KĐ 33. Đ/tá Thảo chạy vào rồi chạy trở ra. Đến nơi các phòng vắng lặng, không còn ai cả. Trở lại sân cờ KĐ 33, Đ/tá Thảo tuyên bố tạm thời tan hàng, anh em rán tự tìm lấy phương tiện di tản.
Mọi người xuống xe, nhưng chạy về đâu bây giờ? Tan hàng, nghe thảm thiết quá. Một trong những đơn vị chiến đấu kiên cường nhất của QLVNCH, giờ đang bị bó tay. Lệnh ai sắp hàng ngang trên 50 chiếc A-37, cánh liền cánh, xăng nhớt, bom đạn trang bị đầy đủ để hủy diệt? Nếu không cho chúng tôi chiến đấu thì cũng để chúng tôi có phương tiện ra khỏi vòng đai đang bủa quanh phi trường chứ? Chúng tôi đâu có… rã ngũ?.’
Sự kiện phi cơ bị ‘tự hủy’(?) này cũng được ghi nhận trong ‘Can trường trong Chiến bại’ của Tướng Hải Quân Hồ văn Kỳ Thoại, trang 306-307′ như sau:
‘Tới đêm 28 tháng 4, tại căn cứ Duyên đoàn ở Vũng Tàu, một sĩ quan KQ cấp tá xin vào gặp tôi và cho biết có một số trực thăng đang đậu tại Vũng Tàu… có Tướng Huỳnh Bá Tính, Sư đoàn trưởng SĐ 3 KQ muốn đến gặp tôi, cần trình bầy một sự kiện quan trọng.
Tướng Tinh vào căn cứ duyên đoàn gặp tôi và các tướng lãnh khác (Nguyễn duy Hinh, Trần văn Nhựt…)… kể chuyện xẩy ra, rất bi thảm Ông không biết lịnh từ đâu… bỗng nhiên một số phi cơ phát nổ, sau đó được biết có lệnh của Saigon… cho phá hủy các phi cơ của KQ?
Tướng Tính phân vân… không muốn về trình diện Bộ TLKQ… khi ông chưa biết ai ra lệnh hủy phi cơ thuộc SĐ của ông? Chúng tôi thuyết phục ông Tính liên lạc trực tiếp với Tướng Minh TL KQ.
Trong đêm 28, rạng sáng 29 tháng 4 CQ bắt đầu pháo kích vào Phi trường TSN phá hủy nhiều phi cơ.
Khoảng 8 giờ sáng, Tướng Phan Phụng Tiên, Sư đoàn trưởng SĐ5 KQ, đến gặp Tướng Minh, và sau đó bỏ đi.


10 giờ 30 phút sáng 29 tháng 4, sau khi họp riêng với Tướng Minh Tư lệnh KQVN, Tướng Nguyễn Cao Kỳ (không có một chức vụ chính thức nào trong Chính Phủ cũng như trong Quân lực VNCH), bay trực thăng riêng về Bộ TTM. Thấy không còn ai. Tướng Kỳ gặp Tướng Ngô Quang Trưởng ngồi không nên rủ Ông Trưởng cùng lên trực thăng, theo đoàn tùy tùng bay ra USS Midway đang đậu ngoài khơi Vũng Tàu.
Khoảng 11 giờ, Trung tướng Nguyễn văn Mạnh Cựu TMT Liên quân cùng với Trung tướng Dư Quốc Đống vào gặp Tướng Minh. Sau khi chờ không thấy HK liên lạc như đã dự trù, Tướng Minh cùng các Tướng Tá Bộ binh và KQ tùy tùng đã di chuyển sang DAO để chờ di tản.


Kể từ 1 giờ trưa: Trung Tâm Hành quân KQ kể như bỏ trống. Các Phi đoàn trưởng… ra lệnh tự tan hàng… phi công bay đi đâu hoặc chạy đâu, tự ý quyết định..
Riêng SĐ 4 KQ tại Trà Nóc Cần Thơ, còn hoạt động (cho đến sáng 30/4 một số phi vụ vẫn từ Cần Thơ bay lên yểm trợ chiến trường quanh Sài Gòn) và Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Tần, Sư đoàn trưởng có thể được xem là vị Tư lệnh sau cùng của KQ/VNCH (?)
Trong bài bút ký ‘Giây phút nát lòng’ (Lý Tưởng Tháng 4/2002) Tác giả Không Quân Liệt Lão, Chỉ huy trưởng Phòng vệ BTLKQ đã kể lại những giây phút tan hàng tại Tân Sơn Nhất với những đoạn tạm trích như sau:


…’ tôi lên trình diện Tư lệnh bộ, toan phúc trình tình hình phòng thủ, nhưng chẳng ai bận tâm. Người người nhìn nhau đăm chiêu dường như trong thâm tâm ai cũng muốn buông rơi tât cả… Ai cũng thần sắc không còn, dũng khí tiêu tan như ‘đại bàng xệ cánh’… ‘Tôi trông chờ một lệnh họp khẩn cấp, duyệt xét tình hình chung, lấy quyết định tối hậu ‘Chiến’ hay ‘lui’ Chiến thì chiến ra sao? Lùi thì lùi thế nào? Có tuần tự, trước sau, không bỏ một ai hay hỗn loạn…mạnh ai nấy chuồn?… Tôi chờ lệnh, nhưng không có lệnh?
Bài viết có thêm những chi tiết di tản của một số Tướng KQ và BB như:


… ‘Tôi đưa tay chào nghiêm túc theo quân cách, Cửu Long (danh hiệu của Tường Minh, Tư lệnh KQ), chào trả, ngập ngừng chân bước, ái ngại nhìn tôi và đột nhiên dứt khoát:
Toa ở lại, đi sau với Lành (Tướng Võ Xuân Lành) nghe.
…’ Tôi mỉm cười, quay bước vào phòng tình hình, lúc này chỉ còn Ông Linh, ông Lành, ông Lượng đã đi đâu lúc nào tôi không biết. Được một lúc khoảng 10 giờ gì đó, Ông Ước (Đ/tá Vũ văn Ước) đáp trực thăng trên sân banh, chạy vội vào gặp ông Lành, xong cùng ông Lành trở ra, kéo luôn theo tôi, miệng nói:
Đi mày…


Tôi nhìn Lành, quay qua hỏi Ươc: Đi dâu?
Qua Tổng Tham mưu xem tìmh hình ra sao?
Ước nói và nắm tay tôi… lôi đi…Tôi, Ước, Linh lên trực thăng qua đáp tại sân cờ trước tiền đình Bộ TTM. Linh, Ước chạy lên văn phòng TTM trưởng… Tôi không theo.
Đảo mắt chỗ khác thấy trực thăng Tướng Kỳ. Đàn em trước kia của tôi hiện là cận vệ ông Kỳ, vội từ trực thăng nhảy xuống chạy đến tôi nói nhỏ: Trực thăng sẽ bay ra Blue Ridge… ông hảy lên, cùng đi…
Tôi hỏi: Tướng đâu?
- Họp trên văn phòng TTM Trưởng…
Tôi bước lại trực thăng, nhìn vào… thấy Hà Xuân Vịnh (Đ tá) ngồi trên đó từ hồi nào… Tôi leo lên ngồi cạnh… Đang miên man suy nghĩ cho mạt vận của đất nước, mạt kiếp của mình thì ông Linh từ bộ TTM chạy ra một mình đến bên trực thăng có tôi và Vịnh đang ngồi đăm chiêu, mỗi người một ý nghĩ… Linh cứ loanh quanh ở dưới chẵng chịu bước lên cùng chúng tôi. Tôi vội leo xuống, lại gần Linh nhỏ to:
‘Linh, Kỳ sẽ rút ra Đệ Thất hạm đội. Hảy lên, cùng đi. Hết cách thôi…’
Linh có điều gì bất ưng, nhất định không lên tàu…Tôi hỏi: Sao? Linh nói: thiếu gì máy bay… Tôi vội báo động: Máy bay nào?, còn duy nhất chiếc này thôi. ‘Chiếc kia kìa’, Linh vừa nói vừa chỉ tay về chiếc trực thăng mà tôi, Ước và Linh vừa đáp hồi nẫy…’Tàu còn đó, hoa tiêu bỏ đi rồi…’Tôi nói với Linh vì thấy họ phóng jeep ra khỏi TTM…
Linh nhất định không lên tàu… tôi đành ở lại bên anh.
Tôi còn đang phân vân bàn thảo với Linh những bước kế tiếp, thì ông Kỳ, từ đại sảnh bộ TTM bước ra, hướng về trực thăng, dẫn theo số đông tướng lãnh bay đi cùng Ươc… để lại tôi và Linh tự quyết định lấy phận mình.


Tôi và Linh, đồng thời cả Đặng Duy Lạc (KĐ trưởng KĐ 62) không biết từ đâu chui ra, gọi QC/TTM yêu cầu hộ tống chúng tôi về lại Bộ TL KQ. Xe rồ máy phóng đi trực chỉ cổng Phi Long.
Tinh cầu trên vai, Linh cho lệnh mở cửa… Quân ta phớt tỉnh… không nghe. Đặng Duy Lạc ngồi yên như khúc gỗ… Tình hình thực gây cấn.
Thấy ông Linh hết ‘linh’, tôi bước xuống xe tiến thẳng đến chỗ anh KQ bất tuân thượng lệnh, điềm đạm ra lệnh… mở cỗng. Anh liu riu vâng lời.
Chúng tôi vào Bộ Tư lệnh KQ gặp ông Lành.


Niềm tự hào của KQ đang ở chỗ này: Tướng Lành, trước thế quân tan vỡ, quân binh đang đua nhau bỏ ngũ, ông vẫn trầm tĩnh, kiên trì thủ đài Chỉ huy Hành quân Chiến cuộc KQ. Ông giữ vững liên lạc với SĐ 4 KQ, SĐ KQ duy nhất còn hăng say chiến đấu trong khi nhiều đơn vị đã tự ngừng nghỉ.
Ông Linh tóm lược tình hình bên Bộ TTM cho ông Lành rõ… ông đề nghị rút khỏi Tân Sơn Nhưt… Tướng Lành, nói vơi Linh trươc sự hiện diện của tôi và Đặng Duy Lạc:
Moa chưa có lệnh…


Ông vẫn đợi lệnh… phải chúng tôi vẫn đợi, vẫn chờ… nhưng chờ lệnh ai đây? Mọi người đã bỏ đi cả rồi, tội cho ông Lành vẫn ngồi chờ lệnh… mà lệnh của ai đây? Tôi buột miệng:
Ông chờ lệnh ai? còn ai đây nữa mà ra lệnh cho mình?
Ông Lành trầm ngâm không nói, chúng tôi lặng yên chờ… (lại chờ) quyết định của ông, chợt Tướng Lê quang Lưỡng (Nhảy dù) xịch jeep đến, thấy tụi này còn đương nhìn nhau, hỏi:
Tụi toa định làm gì đây?
Ông Lành ngượng nghịu chưa biết phải nói sao cho đỡ khó nói? Tôi nhìn thẳng Tướng dù nói nhanh:
Tụi này zulu dây. Ông có theo thì cùng đi?
Zulu? zulu bỏ mây đứa con (ý nói quân dù) lang thang… sao đành?


Ông Lành hỏi:
Toa còn mấy đứa con ?
Sáu đứa chung quanh Đô thành..
Lúc này trực thăng TQLC Mỹ đổ bộ và bốc người loạn cào cào trên không phận Sài Gòn…
Tôi đỡ lời ông Lành:
Tân sơn Nhất không giữ được… KQ chúng tôi phải rút khỏi tầm pháo địch trước đã.
Ông Lưỡng vội hỏi: Tụi toa định rút đi đâu?
Tôi nhanh nhẩu: Có thể vùng 4… có thể đi luôn…
Chờ moa một chút, cho moa về thu xếp với mấy đứa con cái đã.


Nói xong, ông Lưỡng lên xe jeep về Sư đoàn Dù.
Trong khi chờ Tướng Dù trở lại, các sĩ quan cấp Không đoàn và Tham mưu Bộ Tư lệnh KQ hiện diện cùng với một số binh sĩ thuộc Tổng hành dinh KQ vội tập họp quanh chúng tôi tại tiền đình Bộ TL… bao quanh, nghe ngóng tình hình… Tôi nói thẳng:
Dưới áp lực của pháo Cộng, Bộ TLKQ buộc phải rút khỏi đây… Ai muốn đi theo, hãy sẵn sàng… Kể từ giờ phút này, các anh không còn trách nhiệm gì với KQ nữa… Các anh có thể rời đơn vị lo cho sự an nguy của vợ con càng sớm càng tốt.


Cùng trong lúc đó, Tướng Dù đã trở lại. Chúng tôi thảo luận kế rút đi. Khi xét kỹ lại trong chúng tôi… không ai là hoa tiêu vận tải. Tướng Lành, Thảo nâu, Duy Lạc… đều là hoa tiêu phóng pháo. Ông Linh đề nghị qua DAO… Tôi hỏi nhỏ ông Linh: SĐ 5 KQ thì sao?… Các hoa tiêu đã tự ý rút cả rồi… Linh thở dài trả lời… Sau phút suy tính, vị chỉ huy đoạn hậu BTLKQ cho lệnh rút… Tất cả lên 3 jeep trực chỉ DAO.
Tới cổng DAO, một dân sự Mẽo, mặc áo giáp, M17 cầm tay chặn lại:
Generals only… Y hách dịch ra lệnh…


Hai Tướng KQ, một Tướng Dù bước vào trong hàng rào kẽm gai… Tôi lắc đầu quay ra, tự tay gỡ kẽm gai bước khỏi vùng phân ranh Mỹ-Việt.
Anh Mẽo gác cửa chẳng hiểu tại sao cái anh phi hành đã vào rồi lại bỏ ra…khi nhiều người muốn vào lại không được.
Tác giả sau đó, cùng một số sĩ quan cấp Tá quay lại BTL/KQ để tìm phương cách khác tự di tản.
(Ghi chú: Danh sách một số Tướng, Tá và chức vụ tại Bộ TLKQ, trong những ngày cuối cùng của VNCH
Trung Tướng Trần văn Minh, Tư lệnh KQVN
Thiếu Tướng Võ Xuân Lành: Tư lệnh phó
Chuẩn Tướng Võ Dinh: TM Trưởng
Ch/Tướng Đặng Đình Linh:TM Phó Kỹ thuật/Tiếp vận
Bác sĩ Phạm gia Lữ trong bài ‘Tân sơn Nhất trong giờ hấp hối’ (Lý Tưởng, tháng 4/2002) kể lại một số diễn biến tại Trung Tâm Y Khoa KQ… với nhiều tiết khá… chua chát của một đơn vị… hầu như bị… bỏ quên?
… ‘chiều thứ hai 28 tháng tư… lệnh giới nghiêm 24/24 bắt đầu, cổng Phi Long đóng cửa. Phi trường TSN vừa bị A-37 oanh kích trước đó.
Khoảng nửa đêm, Th/t L. nhào vào bô bô nói: Tình hình thế này mà các cậu ngủ được thì lạ thật. Đàn anh biến đi đâu hết rồi, (hắn ám chỉ các anh lớn của KQ), họ đang lập cầu không vận đi Côn sơn kia kìa… SĐ5 KQ đang tổ chức di tản cho thân nhân binh sĩ thuộc SĐ đi Côn sơn..
Đêm 28, CQ pháo kich vào phi trường… gây thiệt hại cho nhiều máy bay.
… Khoảng 7 giờ sáng. (29/4) trong lúc quanh quẩn tại BCHHKQ, tôi gặp Đ/tá H Giám đốc Trường Chỉ huy và Tham mưu Trung cấp KQ trước cửa văn phòng ông, vẻ buồn bã lộ trên nét mặt… tuy thuộc cấp chỉ huy nhưng không cổ cánh, máy bay không có trong tay, nên cũng chẳng xoay sở gì được… Đ/tá Th. Chỉ huy trưởng Trung Tâm Kiểm báo, cũng là người rất kỷ luật, cứ nằm lỳ trong đơn vị để làm gương cho thuộc cấp nên cũng bị kẹt trong cơn hấp hối của TSN.


Khoảng 10 giờ… cùng Th/t Vũ BH thuộc trường CH/TM… chúng tôi cùng lái xe… đi thăm tình hình… Trên đường chạy ra Phi đạo, một dẫy dài xe hơi bỏ trống, nối dài từ cửa chính vào văn phòng Tư lệnh ra đến ngoài đường.
Tôi gặp chiếc falcon màu vàng nhạt của Th/t Khoa (đen), vẫy tay ra hiệu cho anh ngưng lại và hỏi: Đi đâu bây giờ?’. Khoa trả lời vắn tắt: Theo moa…’Vừa khỏi vòng rào BTL, Kh quẹo phải rồi quẹo trái, thì ra anh ở nhà cũ của LCK, sau khi vợ con hành lý lên xe, chúng tôi nối đuôi nhau trở ra phi đạo. Trạm canh ra phi đạo không còn quân cảnh canh gác…’


Bay đi Utapao:
Để thoát khỏi Việt Nam, các phi cơ vận tải, phản lực… nếu đủ nhiên liệu có thể tự bay sang Singapore (590 miles về phia Tây-Nam) hoặc gần hơn là sang Utapao (Thái Lan) (350 miles phia Tây-Bắc). Đa số các phi cơ vận tải và phản lực đã chọn Utapao, chỉ một số rất ít C-130 bay đến Singapore.
Bài viết chinh thức về cuộc di tản của các phi cơ VNCH đến Utapao trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến VN:Escape to Utapao của Tác giả Ralph Westerhaan đã được đăng trên Tập san Air and Space/ Smithsonian Số Dec-Jan 1997.
… ‘Vài ngày trước khi xẩy ra cuộc di tản của KQVNCH ra khỏi Sài gòn, Tướng KQHK Harry Aderholt, Chỉ huy trưởng Phái bộ Quân viện HK tại Thái Lan (MAC-Thai) đã gửi Đại úy KQ Roger L YoungBlood bay đến Phi trường Trat, nằm sát biên giới Thái-Miên. Bay trên một chiếc phi cơ AU-23 của Không lực Thái (AU -23 là một phi cơ cải biến từ loại Pilatus PC-6, có khả năng đáp được xuống những phi đạo thật ngắn) YoungBlood bay vòng vòng trên không phận Thái cùng một phi công phụ VNCH. Phi công phụ này giữ tần số vô tuyến và hướng dẫn các phi cơ VN bay về Utapao…’


Skyraiders A-1:
11 chiếc Skyraiders đã đến được Utapao, gồm 5 A-1E, một A-1G và 5 A-1H. Trong số này 7 chiếc thuộc Phi đoàn 514, 3 chiếc thuộc PĐ 518 và một thuộc PĐ 530:
Chiếc Skyraider A-1H, số hiệu 139606 thuộc PĐ 518 là chiếc Skyraider sau cùng bay khỏi VN đến Utapao, phi công đã chở cả gia đình ‘nêm’ chật cứng trong phòng lái (danh từ lóng của KQ Mỹ gọi đây là một hell hole).
Trên một chiếc A-1E, phi công (Th/tá Hồ văn Hiển PD 514) đã cất cánh, chở theo 15 người, nhét cứng trong… ‘blue room’… Tác giả Phi Long 51 trong bài ‘Chuyến bay định mệnh’ (trên Diễn đàn Cánh thép) ghi lại:


… ‘Sáng 29… tôi trở lại Bộ chỉ huy Hành quân KQ sau 10 giờ và khám phá ra PĐ 518 đã cất cánh đi Cần Thơ. Tôi gặp Tr/tá NCP trong BCH và tìm phi cơ để đi… Do cơ trưởng Lợi huớng dẫn, chúng tôi tìm được một AD-5 (chiếc này có 2 chỗ ngồi lái và một phòng trống khoảng 3x4x3 feet cao ở phía sau ghế pilot). Phi cơ trang bị đầy bom đạn… Sau khi thay bình điện, phi cơ rời ụ và tuy quá tải cũng cất cánh được, không liên lạc được với đài kiểm soát… Phi cơ bay đi Cần Thơ xin đáp nhưng bị từ chối… sau đó đành bay ra An Thới (Phú Quốc), thả bớt bom xuống biển… Tại An thới phi cơ được bỏ bớt đạn đại bác, tạm bị giữ, không cho cất cánh… Đến 10 giờ sáng, sau khi có lệnh đầu hàng, phi cơ bay đi Utapao, cũng vẫn với 15 người trên phi cơ.

Số Skyraiders bị bỏ lại là 40 chiếc, trong đó 26 chiếc bỏ lại ở TSN.
F-5s:
Trong số 26 chiếc F-5s bay thoát khỏi VN (gồm 22 chiếc F-5E và 4 chiếc F-5A/B), có 2 trường hợp đặc biệt được Anthony Tambini ghi lại trong F-5 Tigers over Việt Nam:
Một chiếc F-5F (loại 2 chỗ ngồi), đã chở theo 4 phi công trong 2 phòng lái, bằng cách tháo bỏ các dù, hạ ghế xuống thấp hết mức, một phi công ngồi và phi công thứ nhì đứng khom lưng đối mặt, lưng dựa vào cockpit… Phi cơ cất cánh khi phi trường đang bị pháo kích: lúc đầu phi cơ định bay lên với hệ thống thắng để mở. Cảm nhận được tình hình không thể bay lên, phi công đã phải mở dù ‘drag chute) để làm chậm vận tốc… sau đó đóng hệ thống thắng để phi cơ bay lên được và bay đi Thái Lan. Tuy nhiên, có lẽ hệ thống thắng đã bị hư hại khi bị pháo kích nên không còn sử dụng được…

 Phi cơ đáp xuống một phi dạo thô sơ và chật hẹp… không ngừng được nên đâm vào cây và phát nổ, gây tử thương cho cả 4 phi công… (Các phi công tử nạn gồm các Th/tá Mai Tiến Đạt, Nguyễn Đức Toàn, Ngô văn Trung và Đ/u Lê Thiện Hữu..)
Một F-5A khác, cất cánh với 3 phi công, cất cánh ngược hướng bay, bay qua đầu các phi cơ đang đậu trên phi đạo chờ đến lượt bay lên… Phi cơ đến được Utapao.
Số F-5 bị bỏ lại gồm 87 chiếc, trong đó có 27 F-5E

A-37s:
Gần 50 chiếc A-37 đã bị hủy diệt trong đợt pháo kich đêm 28/4 (xem phần trên) và Đ/tá Thảo (KĐ trưởng KĐ 33) đã cho lệnh tan hàng vào khoảng 8 giờ sáng 29..
Th/tá Ngô đức Cửu, đón được một L-19 và về được Trà Nóc (Cần Thơ). Tại đây ông trình bày tình hình của Bộ Tư lệnh KQ Sàigòn (bỏ ngỏ..) và hướng dẫn các PĐ A-37 còn lại bay đi Utapao:
… ‘từ Bình Thủy đi Utapao, hướng 300, khoảng 45 phút là đến. Anh em nên lấy bản đồ ra kiểm soát lại… và ghi các chi tiết tần số tower…’


10 giờ sáng 30/4 khi có lệnh ‘đâu hàng’ Căn cứ Bình Thủy cũng tự động tan hàng. Bãi đậu phi cơ vắng lặng, không còn quân cảnh, không còn chuyên viên kỹ thuật..
… ‘tôi rất thán phục anh em A-37 Cần Thơ, có nôn nóng nhưng rất trật tự có thể nói là… lịch sự… Tôi lên tiếng vì nhu cầu, tất cả hoa tiêu A-37 phải rời VN, anh em bắt cặp lấy, mỗi phi cơ phải đi được 3 người, không dù không hành lý… ngoại trừ Phi công bay ghế trái phải đội helmet để liên lạc… tất cả phi cơ phải bay ở 12 ngàn bộ, không cần dưỡng khí…’


Đa số phi cơ bình điện yếu, Th/tá Cửu và Th/tá Kim (Liên đoàn trưởng Kỹ thuật) đã dùng APU để khởi động từng phi cơ theo thứ tự… Thiếu tá Cửu lên chiếc sau cùng… rời phi đạo để cùng hợp đoàn gần 30 chiếc A-37 bay đi Utapao.
Đây có thể được xem là ‘chuyến di tản’ trật tự và ‘thành công’ nhất của KQ VNCH.
Ngoài ra, còn có một A-37 đáp xuống một xa lộ gần Căn cứ KQ Korat, phía Bắc Bangkok, gần một trường học, bom đạn còn đầy dưới cánh và Tướng Aderholt đã phải gửi một Đ/u phi công Mỹ đến để bay chiếc này về Căn cứ Udorn.
Theo thống kê 27 chiếc A-37 đến được Utapao… 95 chiếc bị bỏ lại VN
Phi cơ vận tải:
Tân Sơn Nhất là căn cứ tập trung của nhiều Phi đoàn vận tải của KQVNCH. Cuộc di tản cũng rất hỗn loạn, nhiều phi cơ bị bỏ lại vì không có phi công, không người đổ xăng… có những trường hợp phi cơ không cất cánh nổi do quá tải, hay do quá vội. Một số phi cơ vận tải đã bay được sang Utapao do đã ở sẵn tại Côn đảo, tất cả đều chở vượt quy định… có những C-47 bay đến Utapao với cả trăm hành khách (bình thường chỉ chở 30 binh sĩ)… bánh đáp bị gãy khi chạm đất.
Phi công Hungphan trong bài hồi ký ‘Những giờ phút sau Tinh Long 07′ ghi lại: Sáng 29/04/75
… ‘đồng loạt không ai bảo ai, chúng tôi tháo chạy về phia Không đoàn bộ (PĐ 437), cạnh một bên là đại bản doanh của PĐ 435, chúng tôi đang ngơ ngác tìm nơi trú ẩn, thì thấy ông PĐ trưởng Tr/tá MMC bước ra, nhìn chúng tôi lên tiếng…’ giờ này pilot quý lắm, ai ở phi đoàn nào…về phi đoàn nấy…’ chúng tôi im lặng rút sâu vào tầng dưới của SĐ bộ… thấy đủ mặt văn võ bá quan… TT Vinh con 435, TT Vinh Trô 437, TrT Dinh, Đ/u Chư… đã có mặt từ lúc nào ?…gần giống một cuộc họp của Không đoàn…


Không biết thời gian nặng nề, dai dẵng này kéo dài bao lâu, thỉnh thoảng như để phá tan bầu im lặng, tiếng pháo lại vang lên phía bên ngoài… bỗng nghe tiếng điện thoại reo vang trên lầu, rồi lại im lặng, tất cả mọi khuôn mặt không dấu vẻ lo lắng, đợi chờ… tình hình căng thẳng… khoảng mười phút sau, tiếng chuông điện thoại lại một lần nữa reo lên… và chưa hết tiếng reo… bỗng một tiếng của… ai đó hét to Ra xe… (nghĩa là chưa ai nghe điện thoại…)… Không ai bảo ai, chúng tôi chạy nhanh và chen chân nhẩy lên xe…


Tôi cũng nhảy lên một step van, chạy một quãng, 4-5 anh phòng thủ, súng ống đầy mình chạy ra chận lại, có tiếng trong xe la lớn: ‘ĐM, lên xe luôn, giờ này mà chặn cái gì?’ thế là thêm đông… Đến parking tôi chạy về chiếc GZA 027, Herky 027, mà tôi biết tàu tốt…vì tôi mới bay về tối hôm qua… Trên phòng lái, có độ 10 ông pilot C-130… phí thật.
Chỉ một phút sau, chúng tôi take-off… 2 phút sau đã có cao độ an toàn (TT Nhân nhẩy vào ghế pilot thay Đ/u Chuân, ngồi co-pilot là Tr/T Đinh…)
(14 chiếc C-130 bị bỏ lại, 9 chiếc đến được Utapao, ngoài ra còn 1 chiếc đã đào thoát sang Singapore từ khoảng đầu tháng 4)
Tác giả ‘Không quân liệt lão’ trong bài ‘Giây phút não lòng’ (xem phần trên) ghi tiếp:
… Thảo bảo tôi: Mình ra khu trực thăng, moa thấy nhiều lắm, đậu phía gần phi đạo hướng Bà quẹo đó… Đến khu trực thăng, lên chiếc nào mở máy cũng không… nổ… tàu nào cũng khô ran… (Tướng Tiên cho lệnh rút xăng… khỏi tàu vì… sợ các phi công… tự động tan hàng)… Chọn trực thăng không xong, Thảo Nâu chở tôi trên jeep đi tìm Cessna… Gặp Cessna, Thảo leo lên, bảo tôi ngồi ghế phải… hắn quay máy, máy nổ. Bỗng nhiên con tàu xao động dữ dội… Quan quân ở đâu đông thế đang dành nhau leo lên tàu… Cessna chỉ có 5 chỗ, làm sao chở nỗi cả chục người… Không ai chịu xuống…
Tôi tự quyết định… nhường chỗ, mở cửa buớc xuống, leo lên jeep để lái đi, có QC Vân cùng bỏ Cessna lái đi… tìm xem còn chiếc nào để quá giang.
Trên đường rời khỏi SĐ5KQ, ngang qua văn phòng Tư lệnh phó SĐ, thấy có ánh đèn, cửa mở, tôi đậu xe bước vào… Gặp Đinh thạch On ngồi thẫn thờ sau bàn giấy… Tôi hỏi:
- On, sao còn ngồi đây? Tất cả bỏ đi hết rồi, anh cũng đi đi thôi.
On như người mất hồn: C-130 tụi nó lấy trốn cả rồi…
Tôi nhắc: còn C-47 mà… On thở dài: Đã lâu lắm, tôi không lái C47.
… Sau khi ngồi chờ ông On, lôi quyển kỹ thuật C-47… ra ‘ôn bài’, cả đám đi tìm C-47 để chạy… Đến bãi đậu, các phi cơ đều bất khả dụng: hoặc không xăng, hoặc bị trúng đạn pháo kích… Đang tuyệt vọng, cả đám tìm được một C-47 đang nằm trong hangar. khóa kín… Đó là chiếc phi cơ riêng của Tư lệnh Vùng 2… Sau đó có thêm Đ/u Qui chạy đến… Phi cơ chở đến gần 80 người, cộng theo thiết bị linh tinh… cố gắng cất cánh… để sau cùng đến được… Utapao.


Nhóm của BS Phạm gia Lữ (xem phần trên) sau đó đến phi đạo C-47 để tìm máy bay di tản, có chiếc không khởi động được do bình điện yếu… Chiếc DC-6 ‘Bình Long Anh dũng’ tuy nằm cạnh nhưng được… canh giữ. Sau đó tìm được chiếc C-47 của Tư lệnh KQ, Kh bắn bể khóa… Tất cả leo lên tàu để bay ra Côn sơn… Sau những trục trặc như không có bản đồ phi hành, phi cơ hết dầu thắng (tìm được 2 gallon nơi đuôi phi cơ)… phi cơ đáp được xuống Côn sơn… Th/t Khoa bay thêm một chuyến trở lại Saigon (TSN đã bỏ ngỏ) để đón thân nhân và bay lại ra Côn sơn… Dùng nón sắt để chuyển xăng, phi cơ đã bay đi Utapao sáng 30/4 khi DV Minh ra lệnh đầu hàng…


Tác giả Nguyễn Cao Thiên trong bài ‘PĐ 314, Chuyến bay không phi vụ lệnh ‘(Đặc san Liên khóa 64SVSQ, 2009) ghi lại một số chi tiết mô tả tình trạng hoảng loạn, vô trật tự… tại TSN khi phi trường bị pháo kích… Sau khi PĐ phó Tấn từ KĐ trở về cho biết ‘Trên đó có ai đâu? vắng hoe?’… Mạnh ai nấy chạy… tự tìm phi cơ để… bay đi… Có phi cơ cất cánh quá vội, quên cả gỡ kẹp đuôi, nên bị… rơi ngay tại phi trường. Chiếc C-47 của PĐ 314 bay đến Utapao với trên 40 người.
(16 chiếc C-47, đủ loại kể cả EC, AC đến được Utapao.. 38 chiếc bỏ lại..)
Ngoài ra cũng có 3 AC-119 và 6 C-7A Caribou đến Utapao, 37 chiếc AC-119 cùng 6 chiếc C-119 vận tải bị bỏ lại… Số Caribou lên đến 33 (trong tình trạng đình động…)
Tại Utapao còn có:
- 14 chiếc Cessna U-17 Skywagon
- 12 chiếc UH-1
- 3 chiếc O-1 Bird dog
Bảng tổng kết của HK ghi nhận: số phi cơ của KQVN bỏ lại còn có 434 chiếc UH-1, 114 chiếc O-1, 32 chiếc CH-47 Chinook và 72 phi cơ các loại khác gồm U-17, O-2A, T-37, T-41 và cả U-6 Beaver.

Bay ra biển:
Các phi cơ trực thăng (UH-1 và Chinook), khi tự động tan hàng… đa số tìm đường thoát bằng cách bay ra biển, để đáp xuống bất cứ tàu bè nào đang di chuyển ngoài khơi: đáp trên chiến hạm Mỹ, nếu có chỗ đáp là tốt nhất, đáp trên chiến hạm VN… và trong tinh trạng ‘bi thảm ‘nhất’ là đáp xuống biển… và phi công tự thoát, nếu may mắn sẽ được tiếp cứu và vớt lên tàu.
Trường hợp đặc biệt nhất được ghi vào lịch sử KQ và HQ Hoa Kỳ là trường hợp đáp của một L-19 chở đầy… ‘hành khách’ trên Hàng Không Mẫu hạm..
Sau đây là một số trường hợp được kể lại trong các bài hồi ký:


Phi đoàn Thần Tượng 215
Khoảng 10 giờ sáng 29 tháng 4, bộ chỉ huy Phi đoàn 215 đã dùng 3 trực thăng để ‘di tản ‘về Côn Sơn. Trên các trực thăng có Phi đoàn trưởng (Tr/tá Khưu văn Phát), PĐ phó (Th/tá Đức)… các phi đội trưởng… Tuy nhiên do hết xăng nên cả 3 chiếc sau khi gặp Tàu chở dầu của hãng Shell đã cố gắng thả người (nhảy từ máy bay xuống sàn tàu từ cao độ chừng 3 m) và phi công còn lại sau cùng đã đáp xuống biển, bơi thoát khỏi chiếc phi cơ đang chìm và được canô vớt… Cả 3 phi công (Đ/úy Chín, Đ/u Vĩnh và Th/tá Lương) đều được an toàn… (Vĩnh Hiếu: Phi đoàn Thần tượng Giờ thứ 25)
Phi đoàn Lôi Vũ 221:
Phi đoàn di tản từ Biên Hòa về TSN trong đêm 27 tháng 4, khi phi trường bị pháo kích… Chiều 29 tháng 4, Tr/Tá Nguyễn văn Trọng, PĐT tuyên bố giải tán Phi đoàn… 13 trực thăng của PĐ bay được ra Hạm đội HK… Trong đoàn di tản còn có các Đ/tá Phước, Đ/tá Vy (Sư đoàn phó SĐ 1 KQ) (Tâm tư Lôi Vũ -52, Van Nguyên).
Phi đoàn Lôi Thanh 237 (Chinook CH-47)
Ngày 29 tháng 4, lúc 4 giờ sáng, 4 trực thăng Chinook CH-47 đậu song song vơi nhau trước phi cảng Hàng Không dân sự. Các nhân viên phi hành… chờ quyết định của Th/tá Nguyễn văn Ba, Phi đoàn phó… nhưng ông vẩn trì hoãn chờ PĐ trưởng (Tr/tá Ch.) còn đang kẹt ở Biên Hòa… Các sỉ quan tham mưu của PĐ đều vắng mặt… Sau đó, ông quyết định di tản 4 phi cơ khả dụng đi Vũng Tàu… khi 4 phi cơ vừa đáp xuống Vũng tàu… thì phi trường này cũng vừa bị pháo kích… Chỉ 3 phi cơ bay về Cần Thơ, một chiếc đã tự tách khỏi hợp đoàn… 3 phi cơ đáp xuống Mỹ Tho, 1 bay trở lại Sàigòn để… đón gia đình… khi trở lại Mỹ Tho, phi cơ bị trục trặc nên đành bỏ lại nơi bờ sông… Hai chiếc còn lại cất cánh lúc 2 giờ trưa… bay ra hạm đội HK… thả người xuống chiến hạm Kirk,và phi công ‘ditching’ để sau đó được vớt (Chuyến bay cuối cùng -Nguyển văn Ba- Lý Tưởng Úc châu, số kỷ niệm Ngày Không Lực 1-7-2011)
O-1 Bird Dog (L-19) đáp trên Hàng Không Mẫu hạm:
Một trường hợp đặc biệt nhất của cuộc di tản, được ghi vào quân sử Hoa Kỳ, phi cơ được lưu giữ tại Viện bảo tàng là trường hợp dùng L-19 đáp xuống Hàng không Mẫu hạm Midway của Thiếu tá Lý Bửng, Sĩ quan trưởng phòng hành quân của PĐ Sao Mai 114/ KĐ 62 CT/ SĐ 2 KQ.
Việc O-1 đáp trên Hàng không Mẫu hạm đang di chuyển là chuyện không thể tưởng tượng nổi, ngay cả với các phi công Hoa Kỳ và những chuyên viên thiết kế máy bay của hãng Cessna.
Điều gây ‘kinh ngạc’ hơn nữa là trên phi cơ còn có thêm 6 người (vợ và 5 đứa con) ngồi chật cứng trên ghế sau.
Phi công Lý Bửng kể lại như sau (Chuyến bay về vùng tự do của KQ Lý Bửng- Đặc san Lý Tưởng số 02/2010):
… ‘Sáng 29 tháng 4, tôi và Hường, Nhị cùng bay chiếc O-1 này ra Côn Sơn. Vợ con tôi đã ra Côn sơn bằng phương tiện trực thăng trước, hình như của PĐ 215… Chiếc O-1 này tình trạng máy tốt, chỉ có vô tuyến là không hoạt động được… Tôi cất cánh từ TSN trong lúc phi trường đang bị pháo kich… Chúng tôi quyết định bay ra Côn sơn vì không rõ tình hình Cần Thơ… Đêm nghỉ tại Côn sơn, chúng tôi chưa biết chắc sẽ đi Thái bằng phi cơ gì… Sáng 30 tháng 4, có lệnh đầu hàng, tôi sắp xếp cho tất cả anh em PĐ 114 trật tự lên các C-123 và C-130 đi Thái Lan… Tôi và gia đình dự trù sẽ đi chiếc C-123 sau cùng… nhưng chiếc này bị hư không cất cánh được. Khoảng 130 người còn lại đành chờ tàu HQ… Cảnh tượng xuống tàu rất hỗn loạn. Tôi quyết định dùng chiếc O-1 mà tôi đã bay ra Côn sơn hôm qua để chở cả gia đình để bay đi… nhưng chưa biết đi đâu? Trời rất xấu, mưa mù mịt, tôi bay rase motte trên mặt biển, khoảng từ 500 đến 700 bộ. Trong lúc bay tôi thấy nhiều trực thăng bay ra biển… tôi cũng lấy hướng bay này… cho đến khi thấy chiếc hàng không mẫu hạm.
Chiếc O-1 bị hỏng hệ thống vô tuyến nên tôi không thể liên lạc được với ai… Tôi dùng phương thức bay qua đài kiểm soát của chiến hạm, lắc cánh để cho biết hệ thống vô tuyến bị hỏng và xin đáp. Dưới mẫu hạm bắn hỏa pháo đỏ liên tiếp ra dấu cho biết là họ không chấp thuận cho hạ cánh… có lẽ vì không còn chỗ? Tôi lấy bản đồ, giấy tờ trong máy bay viết chữ xin hạ cánh vì phi cơ còn có vợ con… và buộc vào botte để thả xuống… sàn tàu. Sau đó nhân viên trên tàu xô một số trực thăng xuống biển và dọn các trực thăng khác để lấy chỗ cho tôi đáp… Phi đạo họ dành cho cho tôi đáp là cạnh ngắn, khoãng 150 feet…’
Sau một lần đáp thử để ước lượng các thông số kỹ thuật, như gió ngang, sự di chuyển của mẫu hạm… Phi công Lý Bửng đã đáp thành công… xuống Mẫu hạm Midway trước sự kinh ngạc và thán phục của nhân viên thủy thủ trên tàu…
Trong ‘chiến dịch di tản’ Frequent Wind’:
Hàng không mẫu hạm Midway đã tiếp nhận khoảng 60 trực thăng của KQ VNCH, trong đó có chiếc UH-1 của Tướng Kỳ và cả vài trực thăng của Air America.
Chiến hạm USS Kirk, trong thời gian yểm trợ đoàn tàu di tản của HQ VNCH đã là nơi đáp cho 16 chiếc trực thăng của KQ VNCH… Sàn đáp của chiến hạm chỉ dành cho một trực thăng nên sau khi đáp, trực thăng phải đẩy xuống biển để lấy chỗ cho chiếc kế tiếp… Ngoài 16 chiếc UH-1, còn có 1 Chinook sau khi thả người trên sàn đáp đã phải đáp xuống biển, phi công được cứu thoát… Số người trên các trực thăng đáp xuống USS Kirk lên đến gần 200 người… USS Kirk chở được về Subic Bay 3 chiếc UH-1.
Các chiến hạm khác như Blue Ridge, Mobile (LK 115)… đều tiếp nhận các trực thăng của KQVN.
Tài liệu của Air America ghi nhận một số trường hợp các phi công VN dùng súng… ‘tạm mượn’ phi cơ của Air America để bay ra Hạm đội Hoa Kỳ: Chiếc UH-1H (69-16715) của Air America mang dấu hiệu ICSS (Ủy Ban Liên hợp 4 bên) đã do phi công VN bay ra đáp tại Chiến hạm Blue Ridge… trưa ngày 29/4. Tất cả có 6 chiếc trực thăng bị phi công VN mượn tạm, trong đó 5 chiếc loại UH-1 và một chiếc Bell 204B (?), chiếc Bell này sau đó đáp trên USS Kirk. (Air America in South Viet Nam: The Collapse. Tác giả Joe Leeker)
Số phận những phi cơ… đến được Utapao:
Ngay khi các phi cơ của KQ VNCH đáp xuống Utapao, vừa ngừng bánh, tắt máy… các nhân viên phi đạo lập tức sơn lại cờ… chuyển từ VNCH sang thành máy bay của Hoa Kỳ. Người Thái không muốn ‘chứa chấp’ những người Việt vừa phải bỏ nước ra đi nên HK đã phải lập cầu không vận, dùng các C-141 để đưa người tỵ nạn sang Guam.
Một trục trặc nhỏ đã xẩy ra: 65 người, tất cả trên cùng một chuyến C-130 đến Utapao… đã đòi trở về VN… Dưới sự lãnh đạo của Tr/Uy Cao van Le (?), những nhân viên KQVN này… khi bay khỏi TSN, không biết là họ sẽ phải… biệt xứ, trong khi gia đình còn kẹt lại tại VN… và dọa sẽ tự tử nếu không được như ý. Một Đại tá KQVN và một Tuyên úy QĐ HK đã giúp điều đình để giải quyết vấn đề và còn 13 người cương quyết đòi về… Sau cùng cả 13 người đã được chích thuốc ngủ để đưa lên C-141 đi Guam.
CSVN đã lên tiếng đòi hỏi chủ quyền về những máy bay tỵ nạn tại Thái và Hà Nội đã đòi đưa một phái đoàn đến Thái để kiểm kê các phi cơ… Chính quyền Thái, do áp lực của Hà Nội đã đòi ‘tạm giữ’ các máy bay đang ở Utapao. Tướng Aderholt cho biết ‘các phi cơ này thuộc quyền sỡ hữu của HK theo một điều khoản có ghi trong Thỏa ước Viện trợ Quân sự Mỹ-Việt’ nhưng chưa chắc Thái… đồng ý nên ông tìm cách chuyển các phi cơ… khỏi Thái… càng nhanh càng tốt. Trước hết, Aderholt ‘tặng’ cho Tư lệnh KQ Thái 5 chiếc F-5 (đễ… mua chuộc giới quân sự Thái, thật ra Aderholt… không có quyền… nhưng trước chuyện đã rồi HK khó lấy lại được 5 phi cơ này). Và ngay khi Hàng không mẫu hạm Midway ghé một Căn cứ HQ Thái gần Utapao ngày 5 tháng 5… khoảng 140 phi cơ đủ loại đã được chở ra khỏi Thái (trong số này có lẽ gồm cả một số phi cơ, trong tổng số 93 chiếc của Không lực Kmer đã bay sang Thái khi Nam Vang thất thủ). 4 chiếc Skyraiders được Aderholt cho bay đi, cất giấu tại Căn cứ Takhli… Mẫu hạm Midway đã chở về Guam 101 phi cơ của KQVN, trong đó có 21 chiếc F-5E.
Theo ‘Escape to Utapao’ một chiếc C-123K được đưa ra khỏi Thái (số đuôi 54-00592)… chiếc này hiện ở Phi trường Avra Valley và… không ai biết về trường hợp này… (Theo danh mục trong Flying Dragons trang 164 thì chiếc này của KQVN)
Tài liệu của Hải Quân Thái ghi nhận: trong danh mục phi cơ thuộc HQ Thái có một số phi cơ ‘cũ’ của KQVN như:
- C-47A (43-48101, VNAF)
- VC-47D (43-48777, VNAF ‘EY’
- AC-47D (43-49095, VNAF ‘EK’
- RC-47 (43-49701, VNAF) và (43-49925, VNAF ‘EF’) và (44-76418, VNAF ‘EB’)
- EC-47 P (45-1044, VNAF ‘WA’)
Ngoài ra còn 3 chiếc U-7 mang các số đuôi 71-1438; 71-1442 và 7-1455 được ghi là VNAF(?)
Trần Lý
(tháng 4/2012)

No comments: