Thursday, October 27, 2016

TRUYỆN TÙ & VƯỢT BIÊN - STALIN

NGUYỄN CAO QUYỀN * TRẠI CẢI TẠO



04.03.2006
(Tài liệu thuyết trình tại Hội Thảo Về QLVNCH, Vietnam Center, Texas Tech University, 17-18/3/2006) Vietnam Review
Được ngụy trang bằng những từ nhân đạo, trại cải tạo của CSVN, trong thực tế là những nhà tù hắc ám xây dựng theo quan niệm thời Trung Cổ.

Nhà thơ chống cộng Nguyễn Chí Thiện, sau thời gian 27 năm bị CSVN cải tạo, đã đưa ra một định nghĩa như sau: Cộng sản xây dựng một hệ thống nhà tù kinh hồn táng đởm để tiêu diệt mọi sinh lực, tiêu diệt mọi ý chí. Thực chất là những trường bắn im lìm, không tiếng súng, những lò thiêu không cần lửa điện (Nguyễn Chí Thiện - tác phẩm Hỏa Lò, trang 93). 
 
Sau khi quân đội cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm miền Nam những vụ tắm máu đã không xảy ra nhưng những gì đã xảy ra đằng sau bốn bức tường của các trại tù cải tạo đã không để cho người ngoài nhìn thấy sự tàn ác của CSVN thâm hiểm đến mức nào. Những đoạn viết sau đây sẽ trình bày một số sự kiện chính trị đưa dẫn đến việc những quân nhân VNCH bị Hà Nội tập trung cải tạo, mô tả chính sách cải tạo của CSVN sau năm 1975 và sau cùng đề cập đến thiện chí của Hoa Kỳ trong việc giải thoát tù cải tạo và cho họ cùng gia đình sang sinh sống tại Hoa Kỳ và tại những nước dân chủ trên thế giới.

I. Giai Đoạn Lịch Sử Chung Của Hoa Kỳ và Việt Nam
Hoa Kỳ can thiệp vào Việt Nam kể từ thập niên 1940 nhưng sự can thiệp này chỉ trở thành tích cực bắt đầu từ thập nhiên 1950. Sau khi Thế Chiến 2 chấm dứt và cục diện chính trị thế giới đã hình thành rõ rệt với hai khối Tự Do và cộng sản kình chống nhau trong một mô thức được goi là Chiến Tranh Lạnh thì tại Hoa Kỳ tổng thống D. Eisenhower tuyên bố rằng chiến tranh Đông Dương không còn là chiến tranh thuộc địa mà là cuộc chiến giữa cộng sản và Thế Giới Tự Do. Từ đó Hoa Kỳ viện trợ cho Đông Dương càng ngày càng nhiều để đánh trả lại Việt Minh hầu ngăn chặn sự bành trướng của phe cộng sản do Liên Xô và Trung cộng lãnh đạo.

Sau Hiệp Định Genève 1954 (chia cắt Việt Nam thành 2 miền Nam, Bắc), Hoa Kỳ biến miền Nam thành tiền đồn chống cộng. Tình nghĩa đồng minh mặc dù thắm thiết nhưng tới lúc cần tự mình đảm nhiệm cuộc chiến, Hoa Kỳ đã không do dự loại bỏ tổng thống Ngô Đình Diệm để được rảnh tay mang quân vào Việt Nam và Mỹ hóa chiến tranh.

Ngày 8-3-1965 thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đổ bộ lên Đà Nẵng mà không hề thỏa hiệp trước với chính phủ Saigon. Số quân Mỹ tham chiến ở Việt Nam lớn dần theo thời gian và có lúc đã lên tới nửa triệu người.
Đến khi Hoa Kỳ cần oanh tạc Bắc Việt thì họ lại tạo ra sự kiện tàu Mađox. Tuy nhiên với những trận mưa bom trên đất Bắc và những chiến dịch lùng diệt rất quy mô tại miền Nam, Hoa Kỳ vẫn không đạt được mục tiêu và bị sa lầy.

Số binh sĩ Mỹ tử trận tại miền Nam càng ngày càng gia tăng và số phi cơ bị bắn hạ tại miền Bắc cũng lên cao (1621 chiếc từ 1961 đến 1966). Cuối năm 1967 nước Mỹ chìm trong xáo trộn và phân hóa vì chiến tranh Việt Nam.
Tổng thống Johnson quyết định Việt Nam Hóa cuộc chiến. Được tăng cường, quân lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) lần lượt thay thế quân lực Hoa Kỳ trong những trách vụ hành quân quan trọng.
Chiến tích lẫy lừng nhất của quân lực anh hùng này là chiến thắng Tết Mậu Thân (1968) Chiến thắng này bẻ gẫy kế hoạch tổng tấn công/tổng nổi dậy của tướng c.s Võ Nguyên Giáp và phá tan huyền thoại bách chiến bách thắng của quân đội cộng sản Bắc Việt.

Gần 60,000 quận cộng sản tung vào trận địa đã bị tiêu diệt hết phần nửa chỉ trong một tháng giao tranh. Phần còn lại bị thanh toán gần hết khi cuộc chiến chấm dứt. Trong cuộc chiến khốc liệt ấy, người ta ghi nhận bên phía VNCH chỉ có 4,954 chiến sĩ hy sinh.

Sau chiến thắng Tết Mậu Thân, quân lực VNCH tự đảm nhiệm trọng trách tác chiến để quân Mỹ có thể rút về nước. Cuộc hành quân thần tốc vào Campuchia để truy lùng Việt cộng và tiếp cứu Lon Nol, chiến dịch Lam Sơn 719 cắt đứt đường tiếp liệu của cộng sản, cuộc tử thủ An Lộc được ví như trận Verdun của Pháp, cuộc tái chiếm cổ thành Quảng Trị tranh nhau với binh sĩ cộng sản từng thước đất, đã chứng minh một cách hung hồn khả năng tác chiến và tinh thần dũng cảm của quân lực anh hùng ấy.

Song song với những chiến tích lẫy lừng của quân đội, công cuộc Bình Định và Phát Triển Nông Thôn cũng ở trên đà thành công tốt đẹp. Vào những năm đầu của thập kỷ 1970, theo cuộc thăm dò của Hamlet Evaluation Survey (HES) do các cố vấn Hoa Kỳ thực hiện khắp miền Nam Việt Nam thì trong 1333 xã ấp cuối cùng do chiến dịch Accelerated Pacification Campaign (APC) đảm trách, 1035 xả ấp đã có an ninh và 80% dân số miền Nam đã được sống trong vùng chính phủ kiểm soát.

Chương trình Viẽt Nam Hóa Chiến Tranh đang đi vào giai đọan thành công thì trên thế giới xảy ra một biến cố làm cho chương trình này đứt dọan và cuộc chiến thắng của VNCH bị bỏ lỡ. Năm 1969, trên sông Ussuri, dọc theo biên giới Đông Bắc Trung Hoa, Liên Xô và Trung cộng đã động binh giáp chiến. Sự kiện này chứng minh cho Hoa Kỳ thấy rằng sự nứt rạn, từ năm 1953, giữa hai đảng cộng sản anh em là có thật và Hoa Kỳ đã không bỏ lỡ cơ hội tìm cách ly gián để làm suy nhược hàng ngũ đối phương.

Chiến lược toàn cầu của Mỹ thay đổi từ giờ phút đó. Những cuộc vận động ngoại giao và chính trị dồn dập xảy ra nhằm hỗ trợ mục tiêu chiến lược vừa nói :
- Ngày 9-7-1971 Kissinger có mặt ở Bắc Kinh và được Chu Ân Lai tiếp kiến.

- Ngày 25-10-1971 tại Đại Hội Đồng thứ 26 của Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan để bắt tay với Trung cộng.
- Ngày 21-2-1972 tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon thăm viếng Trung Quốc trong 7 ngày.
- Ngày 28-2-1972 Thông Cáo Chung Thượng Hải ra đời. Tổng thống Nixon tuyên bố đây là một tuần lễ sẽ làm thay đổi thế giới.

Sự thay đổi thế giới khởi sự bằng tiến trình rút quân Hoa Kỳ khỏi Việt Nam. Bill Sullivan, phụ tá của Henri Kissinger tại hòa đàm Paris tuyên bố rằng :
...người Trung Hoa đã khai thông với chúng ta. Làm cho người Trung Hoa tách rời khỏi Liên Xô và nghiêng về phiá chúng ta quan trong hơn nhiều việc chiến thắng ở Việt Nam.

Điều không may cho miền Nam Việt Nam là đúng vào lúc chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh đang thành công tốt đẹp thì, trên bàn cờ chính trị thế giới, Hoa Kỳ thay đổi chiến lược toàn cầu, còn trong nước thì làn sóng chống chiến tranh dâng lên như nuớc thủy triều.

Cả một thế hệ xuống đường vào năm 1968, gồm toàn những thành phần trẻ mới vào đời, chịu ảnh hưởng tiểu thuyết hiện sinh của Hemingway và Fitzerald. Họ sợ hãi. Một loại sơ hãi đặc biệt chỉ tìm thấy trong các xã hội giàu có. Đó là thứ sợ hãi trách nhiệm vì ham hưởng thụ và không chịu ràng buộc vào bất cứ vấn đề gì.
Hoa Kỳ thay đổi chiến lược toàn cầu một phần vì muốn lợi dụng sự phân hóa trong khối cộng sản quốc tế nhưng phần khác cũng tại áp lực của phong trào phản chiến trong nội địa.

Về phía miền Nam Việt Nam thì mặc dầu chiến đấu oanh liệt và thắng lợi như vậy, rốt cuộc quân lực VNCH đã phải tủi hờn rã ngũ để nhìn Việt cộng chiếm trọn quê hương.
Họ đã là thành phần phải trả giá đắt nhất cho một sự phản bội. Họ không thua vì hèn kém mà thua vì lộ đồ bại trận đã được đồng minh Hoa Kỳ vạch sẵn từ lâu.

Vào giờ phút hấp hối của VNCH, khi nghe Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, 5 vị tướng tài ba và đảm lược nhất của quân đội đã tuẫn tiết theo truyền thống hào hùng của ông cha.
Đó là các tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh Quân Đoàn 4, Lê Văn Hưng, tư lệnh phó Quân Đoàn 4, Lê Nguyên Vỹ, tư lệnh Sư Đòan 5, Trần Văn Hai, tư lệnh Sư Đoàn 7 và Phạm Văn Phú, tư lệnh Quân Đoàn 2. Trong hàng sĩ binh sĩ cấp dưới cũng không ít những tấm gương hiên ngang và khí phách tương tự. Điểm son này cần ghi lại cho các thế hệ mai sau vì là một trong những nét kiêu hùng của nòi giống.


 
 
II. Tiến Trình Cải Tạo
a/ Thủ đoạn lừa dối thâm độc của cộng sàn Việt Nam:
Khi đồng minh Hoa Kỳ tháo chạy trước đà tiến quân của cộng sản Bắc Việt, họ đã để lại đằng sau 980.000 người lính của quân lực VNCH, những quân nhân đã từng sát cánh với binh sĩ Hoa Kỳ bảo vệ biên cương của thế giới Tự Do.

Vào giờ VNCH hấp hối thảm cảnh sống chết mặc bay diễn ra vô cùng chua xót. Người ta dẫm lên nhau chạy trốn cộng sản không kể gì đến sinh mạng và tài sản vì Hoa Kỳ không có một chương trình di tản nào tương xứng với tình nghĩa đồng minh.
Khởi thủy Mỹ chỉ muốn di tản 50.000 người. Vào phút chót số nhân mạng được may mắn cứu vớt mới nhích lên được con số 130.000. Họ muốn moị chuyện diễn ra nhanh chóng cho xong việc.
Người ta đoán được tâm trạng này qua lời nguyền rủa rất tàn nhẫn của Henri Kissinger:

Sao chúng không chết phứt cho rồi (Why don t these people die fast?).
Như vậy, chỉ cần làm một con tính nhỏ người ta có thể thấy ngay là hơn 800,000 binh sĩ của quân lực VNCH đã là nạn nhân của chế độ cải tạo của cộng sản Việt Nam.
Chỉ vài ngày sau khi chiềm trọn miền Nam, những người cộng sản đã lùa quân nhân, công chức và thành viên đảng phái quốc gia vào tù bằng một thủ đoạn vô cùng hèn hạ.

Trong một buổi ra mắt mừng chiến thắng, tướng cộng sản Trần Văn Trà, chủ tịch Ủy Ban Quân Quản thành phố Sàigòn với dụng ý hiểm độc đã tuyên bố trước báo chí một câu mà những người bị cải tạo không thể nào quên
Đối với người Việt Nam không có ai là kẻ chiến thắng hay chiến bại. Chỉ có đế quốc Mỹ là bị đánh bại mà thôi.



Vì lời tuyên bố đường mật này mà các quân nhân, công chức và thành viên đảng phái quốc gia đã tự nguyện đi học tập cải tạo với số lương thực tự túc là 10 ngày hay 1 tháng tùy theo cấp bậc, chức vụ.
Thế rồi một tháng trôi qua, không ai được tha. Khi giải thích sự việc này, bọn cai tù cộng sản, dương dương tự đắc nói rằng :

Đó là nghệ thuật của Cách Mạng bắt các anh vào tù chứ làm gì có chuyện trả tự do, sau 1 tháng giam giữ, cho các con người có nợ máu với nhân dân như các anh. Các anh còn phải cải tạo dài dài. .
Biết mình bị lừa nhiều người đã tự tử. Môt số người khác tìm cách trốn trại để rồi cũng bị bắt lại và đánh chết thảm thương như những con vật.

Sau một năm áp dụng lao động khổ sai cho chế độ cải tạo, Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam, trước khi bị Hà Nội giảitán, công bố chính sách 12 điểm quy định thời gian cải tạo là 3 năm.

Sự công bố này lại mang hy vọng cho những người đã mất hết tin tưởng vào viễn ảnh của một ngày về đoàn tụ với gia đình.
Đến cuối năm 1978 thì cái hy vọng mong manh nói trên lại tan tành ra mây khói. Thời gian cải tạo 3 năm như lời cộng sản hứa đã chấm dứt, song chẳng thấy ai được tha về. Trái lại, trong thời gian này, đa số đã bị lưu đầy lên những vùng rừng núi Bắc Việt ma thiêng nước độc với thân tàn ma dại và tinh thần sa sút đến cùng cực.

Một làn sóng tự tử thứ hai lại xảy ra, nhưng lần này bên cạnh những xác chết vì thất vọng còn có thêm nhiều xác chết khác vì đói khát và bệnh tật.
Vợ con của những người bị bắt đi cải tạo cũng trở thành nạn nhân của các biện pháp kỳ thị và ngược đãi. Họ bị đuổi khỏi nơi cư trú và phải đi vùng kinh tế mới giữa những rừng núi hoang vu không có một chút tiện nghi tối thiểu cần thiết cho đời sống.
Con cái họ bị kỳ thị gắt gao khi thi cử và không được phép vào đại học.
Nhà cửa của họ bị cán bộ cộng sản chia nhau chiếm đoạt, tiền bạc của họ ở ngân hàng cũng không được phép lấy ra.

Trong cơn túng quẫn những phụ nữ trẻ đẹp đã bị dồn vào thế làm lẽ mọn cho cán bộ cộng sản để có phương tiện nuôi thân và nuôi con còn nhỏ dại.
Những người khác, rủ nhau chạy ùa ra biển, đem sinh mạng của chính mình và của con cái mình để đổi lấy tự do.

Phong trào thuyền nhân tị nạn cộng sản đã đánh động lương tâm nhân loại vì trong số hàng triệu ngưòi liều chết ra đi, gần một phần nửa đã nằm trong bụng cá hoặc làm mồi cho hải tặc.
b/ Nhữngchặng đường cải tạo (kinh nghiệm bản thân)
- Những ngày đầu giam lỏng: Sau khi trình diện để được học tập cải tạo chúng tôi được chở bằng xe bus đến Long Thành. Nằm trên đường Saigon-Vũng Tầu, không cách xa thị xã Biên Hòa là bao nhiêu, trại giam Long Thành là một cô nhi viện cũ bị cộng sản trưng dụng làm nhà tù.

Trong những ngày đầu, chúng tôi tương đối được tự do, ăn uống không thiếu thốn vì ngoài lương thực mang theo 1 tháng chúng tôi còn có thể mua thực phẩm tại căng tin của trại.
Chúng tôi cũng chưa phải lao động mả chỉ phải học tập 10 bài chính trị và viết tự kiểm. Các bài học chính trị là những tài liệu đơn giản kể tội Mỹ-Ngụy, tuyên truyền lý thuyết cộng sản và phổ biến chính sách khoan hồng nhân đạo của chính phủ cách mạng.

Những buổi học tập này nhằm gieo vào đầu óc chung tôi mặc cảm tội lỗi để chúng tôi nhận tội và an tâm cải tạo lâu dài. Thỉnh thoảng cũng có cán bộ cao cấp từ trung ương về thuyết trình những đề tài chính trị và quân sự có tính cách vừa khoe khoang vừa đe dọa.

Cái mà những người cộng sản muốn đạt được không phải là vấn đề cải tạo chúng tôi thành những người ủng hộ chế độ mà chủ yếu là khai thác chúng tôi qua những bản tự kiểm để biết thêm tin tức về các mặt tình báo và tài nguyên của miền Nam.

Trong thời gian làm tự kiểm cán bộ cộng sản đối xử với chúng tôi rất hòa nhã và tử tế. Họ khuyến khích khai thành thật với bằng chứng cụ thể và tố cáo thật nhiều để đái công chuộc tội với cách mạng.
Phải nhìn nhận rằng về mặt khai thác này những người công an cộng sản rất lành nghề và làm việc có hiệu quả cao. Sau một tháng cải tạo không ai được tha.
Đợt tha đầu tiên, gồm một số ít người có gia đình biết chạy chọt tiền bạc, chỉ xảy ra vào đầu năm 1976 trước khi chúng tôi bị lưu đầy ra Bắc.

Chiến dịch lưu đầy này được cộng sản chuẩn bị chu đáo vì họ có thời gian một năm để xắp xếp và thực hiện. Các trại tù miền Bắc được xây cất thêm hoặc dồn lại để có chỗ tiếp nhận chúng tôi.
Phương tiện chuyên chở thì gồm vừa hàng không vừa hàng hải. Chuyến máy bay duy nhất chở tù chính trị ra Bắc nhằm mục đích quảng cáo cho chế độ và đánh lừa dư luận để người ta không để ý tới những chuyến hải hành khủng khiếp tiếp theo.

Sau khi những quân nhân và công chức cao cấp của VNCH đuợc chở bằng máy bay đi rồi chúng tôi được di chuyển từ Long Thành lên trại giam Thủ Đức. Cảnh tù đầy đầu tiên đến với chúng tôi tại trại giam này.

Chúng tôi bị lùa vào những phòng giam chật chội thiếu vệ sinh, có cửa sắt khóa chặt dưới con mắt kiểm soát cú vọ của những người công an cộng sản với nét mặt căm thù và hống hách.
Hai tháng không hoc tập, không lao động, chỉ ngồi ăn làm cho số lương thực dự trữ của chúng tôi dần dần khô cạn. Viễn tượng đói khát bắt đầu xâm chiếm tâm hồn nhưng mỗi người trong chúng tôi cứ phải thúc thủ với ý nghĩ riêng của mình mà không dám chia sẻ với ai vì sợ bị gán cho tội nói xấu chế độ. Chúng tôi ý thức rằng cuộc đời phiêu lưu gian khổ sẽ bắt đầu từ đây.

- Chuyến hải hành khủng khiếp :Thế rồi việc gì phải đến đã đến. Tại trại giam Thủ Đức, một đêm, chúng tôi bị đánh thức dậy, nhận lệnh sắp xếp quân áo để chuyển trại, bị còng tay và chở bằng xe hơi lên bến Tân Cảng Saigon.
Tại đây một chiếc tàu thủy to lớn đã chờ sẵn. Chúng tôi bị lùa vào những hầm tâu dành cho súc vật, nằm chờ tàu nhổ neo để bắt đầu chuyến hành trình ra Bắc. Bóng tối của hầm tàu che dấu những giọt nước mắt tuôn ra vì lo sợ, đau buồn và tủi nhục.

Trong suốt ba bốn ngày đêm lênh đênh trên mặt biển chúng tôi phải thu hết can đảm và nghị lực để chịu đựng sự tanh tưỏi và hôi hám của hầm tàu. Ban đêm hầm tối đen như mực. Ánh sáng chỉ lọt qua những kẽ hở khi mặt trời ló rạng.

Khi tàu chuyển máy ra khơi, phần đông anh em tù nhân bị say sóng và nằm mê man bất tỉnh. Cao điểm của cảnh khổ cực này xảy ra chỉ một ngày sau khi chuyến hải hành khởi sự.

Vì say sóng, nôn mửa và bài tiết nhiều nên lượng bài tiết lớn hơn những thùng chứa đựng khiến phân và nước tiểu cứ tự do đào thoát ra ngoài và len lỏi vào chỗ nằm của các tù nhân mỗi khi tàu chao đảo.
Khi tàu cập bến Hải Phòng, mở nắp hầm ra, những người cai tù sa sẩm mặt mày vì mùi hôi thối sông lên nồng nặc. Họ tức tốc đóng cửa hầm lại, đi lấy khẩu trang đeo vào mũi miệng rồi mới tiếp tục công việc chuyển tù lên đất. Riêng đối với tù nhân thì khi bước ra khỏi hầm tầu ai cũng có cảm giác như vừa từ địa ngục được bước lên thiên đàng, một cảm giác chết đi sống lại.

Thoát được cảnh hầm tàu hôi hám chúng tôi liền bị còng tay và nhồi nhét vào những chiếc xe hơi bịt bùng không cho nhìn thấy cảnh vật bên ngoài. Xe chạy rất lâu trong đêm tối. Mãi gần sáng chúng tôi mới được lệnh ra khỏi xe và nhập trại.
Những người công an canh gác cho chúng tôi tắm rửa ngay ở miệng một giếng nước, giặt rũ qua loa rồi hối thúc chúng tôi vào những phòng giam kiên cố của nhà tù. Sau khi cửa sắt đóng lại và khóa chặt, họ nói vọng vào từ bên ngoài :

Các anh đến đây an toàn rồi, bây giờ chỉ còn việc an tâm cải tạo để chờ ngày được chính phủ khoan hồng.
Nói xong họ bỏ đi chỉ còn lại hai người công an trẻ cầm sung gác.
Hỏi thăm hai người công an trẻ chúng tôi được biết trai này là trại Quảng Ninh, nằm trên rừng núi cao và nhìn ra vịnh Bắc Việt. Trại này hoàn toàn cách ly khỏi xã hội bên ngoài vì đường giao thông rất khó khăn. Xã hội thu hẹp của chúng tôi bây giờ chỉ gồm có ba thành phần:
nhóm tù cải tạo chúng tôi mới đến, những người tù hình sự bị giam giữ từ lâu và những người cai tù có nhiệm vụ canh giữ.

Ngày đầu tiên đến trại Quảng Ninh, chúng tôi có cảm tưởng hình như thời gian trôi nhanh hơn thường lệ. Mới sáng đấy mà đã tối ngay. Khí lạnh của độ cao rừng núi thấm vào phòng giam và vào cơ thể con người. Khi màn đêm đổ xuống, trong phòng chì còn lại một ngọn đèn dầu leo lắt và những tiếng thở dài não nuột trong im lặng buồn tanh và ghê rợn.

- Tiến trình diệt chủng bắt đầu: Sáng hôm sau chúng tôi bị phân chia thành đội để bắt đầu làm quen với lao động. Mỗi đội, 30 người, do một đội trưởng là tù nhân và một quản giáo là cán bộ công an phụ trách. Khi đội đi lao động, công an vác súng đi kèm. Trong những ngày đầu chúng tôi chỉ phải lao động nhẹ chẳng hạn như trồng rau hoặc cuốc sắn gần khu trại giam. Dần dần chúng tôi phải đi xa và phải lao động nặng nhọc hơn chẳng hạn như vào rừng lấy gỗ làm nhà.

Sau nhiều ngày làm quen với khung cảnh sinh hoạt trong trại chúng tôi thấy rằng mỗi trại tù cộng sản là một đơn vị kinh tế độc lập. Tù nhân phải lao động để nuôi cán bộ canh giữ mình, để xây trại giam hãm mình và để cung cấp tiện nghi cho khu gia đình là khu vợ con cán bộ ở. Nhà nước không cần chi phí gì nhiều cho trại tù nên nếu nói rằng dưới các chế độ cộng sản nhà tù nhiều hơn trường học thì cũng không có gì đáng ngạc nhiên. 
 

Bị lưu đầy ra Bắc chúng tôi mất hết liên lạc với gia đình, cho nên mọi nguồn tiếp tế lương thực đều bị cắt đứt. Lao động cả ngày mệt nhọc, chúng tôi chỉ được trại cho ăn 2 bữa, với mỗi bữa hai chén cơm đầy sạn thóc và một ít rau muống luộc. Ngoài hai bữa cơm ra chúng tôi không có thứ gì khác để nuôi sống cơ thể. Mỗi ngày anh em tù nhân nhìn nhau chỉ còn biết thở dài. Ai cũng gầy ốm đi trông thấy.
Ở trại Quảng Ninh chừng hơn một tháng, tôi và một số tù nhân khác bị chuyển đi trại Thanh Cẩm. Trại này nằm trong vùng Bái Thượng, trên thượng nguồn sông Mã, sau những giẫy núi Lam xanh biếc.Từ trại sang biên giới Lào ước lượng chỉ vài cây số. Đến đây chúng tôi bị giam chung với khoảng 700 anh em tù chính trị khác và trong trại cũng có cả một số tù hình sự.

Tôi bị giam ở trại này liên tục cho đến ngày được tha về. Tại trại Thanh Cẩm, chế độ lao động còn khắt khe và nặng nhọc hơn ở trại Quảng Ninh. Dưới mũi súng canh gác của công an gốc dân tộc Mường, chúng tôi phải đi rất xa để lấy cát làm nhà. Mỗi chuyến vừa đi vừa về vào khoảng 3 cây số. Mỗi ngày phải đi ba chuyến mà chỉ đươc ăn có 4 chén cơm với vài cọng rau muống luộc thì sức nào chiu. nổi. Nếu đội nào không đi xe cát thì phải xe đá hoặc vào rừng đẵn luồng vác về cho cán bộ làm nhà.

Những người lao động ở trại cưa, trại mộc cũng không sung sướng gì hơn. Cả ngày quần nhau với những cây gỗ lớn, cưa sẻ liên hồi hoặc đục đẽo luôn tay thi lấy năng lượng đâu mà bù đắp. Cuốc đất trồng khoai ngô mới là mệt vì đất núi bạt ngàn mà nhân công thì thưa thớt. Ấy là chưa kể nhũng vụ gánh phân đi bón nặng gẫy sương sườn và chốc lở sương vai.
Sức người có hạn còn nhu cầu của trại thì mỗi ngày môt tăng thêm. Bên cạnh những cái chết vì tại nạn lao động như bị đá núi đè, lợp nhà té xuống đất hay bị cây luồng đâm thủng bụng, dần dần người ta thấy xuất hiện những cái chết vì đói, vì thiểu lực.

Sau hơn ba năm bị lưu đầy ra Bắc anh em tù nhân chôn nhau, vì chết đói, đã chật cả một phần đồi sắn. Có một thời gian, trong tâm tư và trước mắt mọi người cái chết đã trở thành quen thuộc, không gây sợ hãi và cũng không gây súc động.

Tù nhân chờ đợi Thần Chết đến thăm như chờ đợi một sự giải thoát. Chính sách bắt lao động khổ sai kết hợp với bỏ đói là phương cách giết người tinh vi và thâm độc của những người cộng sản. Đó là sự nhẫn tâm và tàn ác nhất mà con người có thể đối xử với con người.
- Một vài cảnh đói ngoài tưởng tượng: Xin kể ra đây vài cảnh đói mà người bình thường sống ngoài xã hội, cho dù óc tưởng tượng có xúc tích đến đâu, cũng không thể nào nghĩ tới:
Một hôm nhân lúc đội tù đang lợp nhà, thình lình anh em tù nhân phát giác một ổ rắn dưới tấm lá tranh. Tức thì một anh hô to
-Rắn, Rắn.

Tiếng hô vừa rứt, đám tù nhân nhanh như cắt đã vây quanh ổ rắn và chỉ trong nháy mắt, bằng tay không, các anh đã bắt hết những con rắn độc, bẻ cổ vứt đi và nhét phần còn lại vào túi áo. Trong giờ giải lao, được phép của cán bộ canh giữ, các anh đã nổi lửa rồi đem rắn ra nướng và ăn ngon như chưa bao giờ ngon thế. Không phải chỉ có rắn mà cả rết, cả chuột, cả cóc nhái, sên ốc...nghĩa là tất cả những con gì cử động mà để cho các anh trông thấy thì đều chịu chung một số phận.

Một hôm khác, nhân ngày Chủ Nhật, không phải lao động, các tù nhân ôm bụng đói đang thiu thiu ngủ thì một anh nghe tiếng chuột con kêu trên mái nhà. Không bỏ lỡ cơ hội, anh liền chồm giậy, gọi thêm 2 người khác rồi cả ba, khiêng bàn, công kênh nhau lên bắt chuột. Họ bắt được một ổ chuột con hãy còn đỏ hỏn, chia nhau ăn sống như nhai những củ sâm. Mặc cho máu mê trào ra ngoài miệng trông như ác quỷ, các anh thản nhiên nhai ngấu nghiến như không màng gì tới hoạt cảnh ghê rợn tạo nên.

Một buổi chiều sau khi đi lao động về, chúng tôi thấy một anh bạn tù nhân sắp chết đói đang ngồi bên một dòng nước tiểu chảy ta từ phía những thùng phân nổi trong cầu tiêu. Nhìn kỹ thấy anh đang bắt mấy con kiến, tha những mảnh ngô chưa tiêu kịp, di chuyẻn từ cầu tiêu về tổ. Anh lượm những mảnh ngô đó bỏ vào mồm rồi tha cho những con kiến để chúng tiếp tục làm công việc vận tải mà anh thèm muốn. Chương trình cướp ngô của kiến anh chỉ thực hiện được có một ngày. Ngày hôm sau anh trút hơi thở cuối cùng vì quá đói.

Bằng chính sách bỏ đói kết hợp với lao động khố sai những người cộng sản đã giết tù cải tạo mà không cần đem ra trường bắn, không cần nhốt vào lò hỏa thiêu như người Đức Quốc Xã đã làm. Họ cũng chẳng cần tạo ra những cảnh tắm máu làm gì.

- Một chuyện tù vượt ngục: Trại cải tạo Thanh Cẩm có một khu kiên giam dành cho những thành phần được cộng sản coi là đặc biệt nguy hiểm. Những người bị giam trên khu này không phải lao động nhưng bị cùm chân ban đêm khi đi ngủ. Có một thời gian, tôi cũng là một tù nhân của khu vực kiên giam này. Nhờ không phải lao động nên tôi mới sống sót đến ngày nay. Tại đây tôi còn giữ lại một kỷ niệm hãi hùng mà suốt đời không bao giờ quên được, kỷ niệm liên quan đến một chuyện tù vược ngục. Là những tù nhân không có ngày về và bị bỏ đói triền miên hết ngày này qua tháng khác, chúng tôi cam tâm kéo dài cuộc sống bị đầy ải và hoàn toàn tuyệt vọng giữa rừng núi hoang vu của biên giới Lào-Việt.

Khi màn đêm đổ xuống, khu kiên giam lạnh lẽo và tĩnh mịch, nặng nề như một nhà quàn chất chứa những xác người chưa chết. Ban ngày, chúng tôi đau đớn nhìn nhau như nhìn những bộ xương khô biết cử động.Viễn tượng của ngày xum họp với gia đình, từ lâu, đã hoàn toàn tan biến. Tương lai duy nhất còn lại là sự chờ đợi ngày về với tổ tiên.

Thế rồi, một biến cố kinh hoàng đã xảy ra. Đêm ấy là đêm 1 tháng 5 năm 1979, đêm liên hoan của cộng sản nhân dịp lễ Lao Động. Bọn công an trẻ thuờng chểnh mảng trong nhiệm vụ canh gác mỗi khi có liên hoan. Bỗng nhiên trong bầu không khí tĩnh mịch của đêm khuya, chúng tôi nghe phát ra từ phòng giam bên cạnh, một âm thanh đào tường đều đều như máy chạy. Thỉnh thoảng lại có tiếng người rầm rì động viên nhau như hối giục.

Chúng tôi hiểu ngay đó là một kế hoạch trốn trại đang được tiến hành. Trong cơn tuyệt vọng, các anh mới đến từ trại Quyết Tiến, đang chọn đi vào chỗ chết để tìm đường sống. Mọi người trong phòng giam bên này đều nhắm mắt cầu nguyện cho các bạn đó thành công.
Đêm càng khuya chúng tôi càng hồi hộp. Âm thanh đào tường nghe mồi lúc môt yếu dần. Gà bắt đầu gáy sáng mà âm thanh vẫn còn tiếp tục. Khi âm thanh chấm dứt thì ánh nắng đã luồn qua khung cửa sắt chật hẹp của phòng giam.

Đang lo lắng cho số phận của mấy anh em trốn trại, chúng tôi giật mình vì những tiếng súng báo động nổ rến. Rồi tiếng chân người xô chạy về thượng nguồn song Mã xen lẫn với những tiếng la hét vọng lại từ xa. Trong phòng lúc đó không biết ai đã thở dài và thốt ra hai tiếng thất bại.

Chúng tôi đau đớn chia sẻ sự thất bại đó và lo sợ đến tột cùng khi nghĩ tới những biện pháp trả thù của bọn công an cộng sản trong cơn tức giận. Khi trời sáng hẳn, phòng giam của những người trốn trại bị công an lục soát rất kỹ. Một tên công an thản nhiên nói với đồng bọn :
-Thằng Tiếp chết rồi.
Anh Đặng văn Tiếp là một cựu trung tá của không lực VNCH và dân biểu quốc hội trước khi miền Nam sụp đổ. Nghe hung tín đó chúng tôi đau đớn lặng người. Những giọt nước mắt từ từ lăn trên gò má như một lời vĩnh biệt. Tất cả các anh khác bị bắt lại hết và bị đánh đập tàn nhẫn.
Hai ngày sau, anh Lâm Thành Văn chết theo anh Tiếp.

Riêng cha Nguyễn Hữu Lễ may mắn sống sót dù bị đả thương rất nặng. Sau 13 năm cải tạo, linh mục Lễ hiện đang phụ trách một họ đạo ở Tân Tây Lan.
Bài học của Bắc Kinh: Vào khoảng đầu năm 1979, tại trại Thanh Cẩm, anh em tù cải tạo chết đói khá nhiều. Trong khi ai cũng cam tâm chờ chết thì một đêm chúng tôi nghe thấy những bài bình luận lạ tai phát ra từ những loa tuyên truyền ngoài cổng trại.

Sau nhiều ngày theo dõi tin tức chúng tôi được biết giữa Hà Nội và Bắc Kinh đang có sự xích mích nặng nề. Bắc Kinh đang chuẩn bị cho Việt Nam một bài học. Một quân đoàn Trung cộng, trải dài trên 600 cây số tại biên giới phía Bắc sẽ xâm lăng Việt Nam và sẽ tiến vào Hà Nội trong vài ngày.
Không khí chiến tranh bao chùm cả nước. Lệnh tổng động viên được ban hành và bộ đội đang di chuyển cấp tốc từ Campuchia về biên giới Việt-Trung.

Các trại cải tạo nằm sát biên giới như Quyết Tiến, Phong Quang...được di tản sâu vào nội địa. Trại Thanh Cẩm phải nhận thêm một số tù nhân đến từ trại Quyết Tiến.
Chiến tranh đã thật sự xảy ra nhưng quân Trung cộng, sau khi làm cỏ, mấy tỉnh miền biên giới, chỉ tiến đến Việt Trì rồi rút về nước. Hà Nội không bị bao vây và công hãm.

Bài học của Bắc Kinh đã cứu sống rất nhiều tù cải tạo, đó là điều mà ít người biết tới. Vì có bài học này nên chính sách cải tạo khắc nghiệt của Hà Nội có đôi phần nới lỏng. Sau 4 năm bị cắt đứt mọi liên lạc với gia đình, chúng tôi được viết thư và nhận đồ tiếp tế trở lại. Không những thế, gia đình còn được phép đến trại thăm gặp và trong vài trường hợp đặc biệt tù nhân cải tạo còn được phép ở lại suốt đêm ngoài nhà khàch để sinh hoạt với gia đình.

Một chuyện khác mà không ai ngờ tới là những gói qùa tiếp tế không những đã cứu sống chúng tôi khói chết đói mà cón cho chúng tôi cơ hội cải tạo những bộ óc chậm tiến của những người tự cho có nhiệm vụ cải tạo chúng tôi.

Mỗi đợt khám quà của tù nhân là một dịp để các cán bộ làm quen với thế giới bên ngoài qua những đồ tiếp tế. Lần đầu tiên khám quà một anh cán bộ trẻ thấy một gói lạp xưởng đòi tịch thu. Chúng tôi hỏi tại sao thì được trả lời :
Tịch thu, vì các anh không được phép mang nến (đèn cày) vào trong trại.
Tội nghiệp, từ bé tới lớn anh chưa được ăn lạp xưởng bao giờ nên tưởng lạp xưởng là đền cày.

Những thứ lạ mắt như những cuốn giấy vệ sinh trắng muốt, những chai sà bông nước, những lon cà phê-sữa bột, những viên thuốc Tây xanh đỏ đựng trong những lọ có nắp khó mở... đều là những thứ mà trại thấy cần phải giữ lại để nghiên cứu. Sau này khi biết những thứ đó không có gì nguy hiểm và thỉnh thoảng lại được chúng tôi kỷ niệm (nghĩa là cho theo ngôn từ cộng sản) các công an trẻ dần dần làm thân và thường muốn nghe chúng tôi kể những chuyện của thế giới bên ngoài, trong giờ lao động. Kỷ luật trại giữa cán bộ và tù nhân cũng không còn gay gắt như trước nữa.

Ngày một số anh em chúng tôi được trả lại tự do (1985) những người công an trẻ đến chia tay bằng một câu nói cảm động :
Thôi các anh về mạnh khoẻ rồi đi ngoại quốc. Chúng tôi thì còn ở đây chưa biết đến bao giờ.
Ngay lúc đó chúng tôi chưa nắm bắt được thông điệp rồi đi ngoại quốc nhưng chúng tôi hiểu ngay rằng những thanh niên cộng sản đó đã bắt đầu tỉnh ngộ sau thời gian mấy năm được chúng tôi cải tạo.



III – Chiến Dịch Giải Thoát Tù Cải Tạo
Có một thời gian, công an trại thường chỉ mặt chúng tôi và hăm dọa nhiều lần :
Nếu bọn Mỹ không chịu bồi thường 3 tỷ 2 thì các anh sẽ còn cải tạo mút mùa.

Câu hăm dọa này không làm chúng tôi lo sợ mà, trái lại, làm chúng tôi mừng thầm vì đoán rằng có thể ở bên ngoài xã hội đang diễn ra một cuộc thương lượng giũa Hoa Kỳ và Việt cộng để giải thoát chúng tôi khỏi cảnh tù đầy.
Cho dù đây chỉ là một hy vọng rất mong manh nhưng chúng tôi cứ bám víu lấy nó như người sắp chết đuối vớ được cọc, để có lý do và can đảm tiếp tục cuộc sống.

Thế rồi, không bao lâu sau, sự ước đoán của chúng tôi được thân nhân vào thăm xác nhận là đúng. Từ đó, trong lòng chúng tôi, ngày nào cũng như mở hội. Hy vọng được về xum họp với gia đình có nhiều triển vọng trở thành sự thật.
Tôi được trả tự do vào cuối năm 1985, sau 10 năm 4 tháng 10 ngày bị cộng sản bỏ tù. Hội nhập lại vào xã hội bên ngoài, tôi được biết vào năm 1976, Kissinger đã tuyên bố :
Hoa Kỳ đang chuẩn bị bình thường hóa bang giao với Việt Nam.

Việc bình thường hóa bang giao không thành vì trong cuộc đàm phán ở Paris vào đầu năm 1977 Hà Nội khăng khăng đòi Hoa Kỳ phải trả 3250 triệu Mỹ Kim để bồi thường chiến tranh. Lẽ cố nhiên là Hoa Kỳ bác bỏ đòi hỏi vô lý đó vì Hà Nội đã không tôn trọng hiệp định Paris năm 1973.
Nền kinh tế của Việt Nam mỗi ngày một sa sút. Sự vô hiệu của kinh tế hoạch định và tình trạng sa lầy trong chiến tranh Campuchia khiến chế độ Hà Nội đứng trên bờ vực thẳm.
Trung cộng đã trở thành thù nghịch còn Liên sô thì cũng đang gặp khó khăn nên không biết nương tựa vào ai. Hoa Kỳ là sinh lộ duy nhất còn lại. Làm găng không được, Hà Nội bắt đầu đấu dịu.
Đầu thập niên 1980, cả Phạm văn Đồng lẫn Nguyễn Cơ Thạch đều bắn tiếng là sẽ thả tù cải tạo nếu Hoa Kỳ tiếp nhận.

Hà Nội dùng tù cải tạo như phương tiện mặc cả để xin viện trợ của Hoa kỳ. Hoa Thịnh Đốn đáp ứng và diễn tiến của chiến dịch giải thoát tù cải tạo được ghi nhận như sau:
Ngày 11-9-1984 ngoại trưởng George Schultz chính thức yêu cầu Hà Nội trả tự do và cho phép các tù nhân chính trị được định cư tại Hoa Kỳ.
Ba tuần sau tổng thống Reagan gủi văn thư chính thức đến các bộ ngoại giao, an sinh và tư pháp về việc thâu nhận những người tù cải tạo Việt Nam.

Cuối năm 1985, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia và Bộ Ngoại Giao Hoa kỳ đồng ý gặp đại sứ Võ Đông Giang của Hà Nội tại Nữu Ước. Cuộc đàm phán tiến hành trong bí mật.
Tháng 7 năm 1988 phái đoàn Robert Funseth, phụ tá thứ trưởng ngoại gao Hoa Kỳ, đi Hà Nội họp với phụ tá bộ trưởng ngoại giao Việt cộng Trần Quang Cơ để bàn về việc trả tự do cho tù chính trị và đưa họ đi định cư tại ngoại quốc.

Ngày 30-7-1989, ông Robert Funseth và Vũ Khoan, thứ trưởng ngoại giao Việt cộng ký kết tại Hà Nội văn kiện về việc định cư tù cải tạo.
Qua thỏa hiệp này 3000 tù cải tạo và gia đình đã đến Hoa Kỳ trong những tháng đầu tiên của năm 1990. Chương trình định cư này trù liệu đưa ra nước ngoài 400.000 người thì 20% đã đến bến tự do năm 1990, 30% năm 1991, 30% năm 1992, 10% năm 1993 và 10% còn lại vào những năm kế tiếp.
Dựa theo các tài liệu đáng tin cậy người ta cũng được biết là trong số quân nhân VNCH được sang Mỹ định cư sau thời gian cải tạo thì 61% là cấp úy, 35% là cấp tá và tướng và 4% là viên chức chính phủ.

Con số những người chết trong các trại cải tạo chưa được xác định là bao nhiêu. Tài liệu của Khu Hội Tù Nhân Chính Trị Hawaii, thiết lập ngày 20-4-1993 đưa ra một con số rất thiếu sót là 587 người. Đây chỉ là một phần nhỏ của số tử vong vì cải tạo trong thực tế.
Cũng theo một tài liệu khác chưa dầy đủ thì số trại cải tạo CSVN thiết lập trên toàn quốc sau năm 1975 là 80 trại (bao gồm cả 2 trại ở các đảo Côn Sơn và Phú Quốc).

Quyết định của cộng sản Việt Nam đưa quân cán chính VNCH đi cải tạo lâu dài sau năm 1975 là một sai lầm trầm trọng. Sau khi chiếm miền Nam, đáng lý ra Hà Nội phải biết lợi dụng thời kỳ vàng son này để hòa hợp hòa giải dân tộc và xây dựng tương lai phồn thịnh cho đất nước.

Giữa tháng 5-1975, bộ trưởng ngoại giao 5 nước ASEAN họp thường niên tại Kuala Lumpur đã bày tỏ ý muốn thiết lập bang giao với các nước Đông Dương. Trong thông cáo chung ngày 24-7-1975 Phi Luật Tân và Thái Lan minh định rõ là các căn cứ quân sự của nước ngoài trong khu vực chỉ là tam thời và khối SEATO sẽ giải tán.

Vào thời gian đó Nhật cũng trù liệu một ngân khoản 1600 triệu Mỹ Kim để giúp 5 nước ASEAN và 3 nước ĐÔNG DƯƠNG xây dựng khu thịnh vượng chung Đông Nam Á.
Tiếp theo, tháng 8 năm 1977, Nhật lại kêu gọi sự hợp tác thân hữu giữa các nước trong vùng kể cả Miến Điện, và hứa viện trợ 5 tỷ Mỹ Kim cho kế hoạch phát triển Đông Nam Á thành một khu vực phồn vinh.

Sau khi gia nhập Liên Hiệp Quốc, Việt Nam còn được gia nhập Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế với một khoản vay mượn đầu tiên là 35 triệu Mỹ Kim.

Ngân Hàng Thế Giới cũng xúc tiến kế hoạch giúp đỡ Việt Nam phát triển kinh tế thời hậu chiến. Thừa kế chỗ trống của VNCH, Hà Nội còn là hội viên của ngân hàng phát triển Á Châu.
Trong bối cảnh đó nếu không có chính sách cải tạo sai lầm thì nhân dân hai miền Nam Bắc đã cùng dồn nỗ lực vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh, thực hiện việc hoà hợp hòa giải dân tộc để nhanh chóng đưa đất nước đến cảnh phú cường.

Bị Hoa Kỳ giăng bẫy CSVN đã xé bỏ hiệp định Paris và xâm chiếm miền Nam để rồi liền sau đó lại bị Trung cộng giăng bẫy nhử sang Campuchia và bị sa lầy ở đó. Hậu quả của những quyết định mù quáng này là một nước Việt Nam kiệt quệ và tụt hậu, cam tâm làm chư hầu một lúc cho hai thế lực thù địch.

Cắt đất dâng Trung Quốc để duy trì mạng sống chính trị và quỳ gối ôm chân Hoa kỳ để kiếm miếng ăn. Chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc lại có một thời kỳ nhục nhã như hiện nay.
Đối với Hoa Kỳ, bỏ rơi miền Nam Việt Nam trong trận đồ quốc tế để thắng Liên Xô và làm tan rã khối cộng sản là một vấn đề chiến lược.
Tiến hành chiến dịch giải thoát tù cải tạo Việt Nam để họ được sang sinh sống và đoàn tụ tại Hoa Kỳ là một vấn đề của lương tâm.
Đứng về phương diện quyền lợi của Hiệp Chủng Quốc mà xét thì trong cả hai việc làm này Hoa Kỳ đều khôn ngoan và thắng lợi.
Nguyễn Cao Quyền

DONG DUY * CUỘC VƯỢT BIỂN TÌM TỰ DO

DONG DUY


 


Đọc tư liệu của những nhân chứng sống trong Hành Trình Biển Đông nhiều lần, không lần nào tôi tránh khỏi không ứa nước mắt khi dõi theo từng mảnh đời trôi dạt trên biển khổ trên đường tìm tới bến bờ tự do.


Là một người Việt Nam sống sót sau một cuộc chiến kéo dài hơn 20 năm trên quê hương, cá nhân tôi, cũng như nhiều thế hệ người Việt, ra đời trong bom đạn, lớn lên trong chiến tranh, từng có dịp chứng nghiệm không biết bao cảnh tang thương đổ nát, chết chóc hoặc chia lìa, nhưng chưa bao giờ tôi bị xúc động như lúc đọc Hành Trình Biển Đông. Nỗi xúc độâng nghẹn ứ tủi hờn, như một người bị bóp cổ đang dẫy chết mà biết rằng mình tha thiết sống hơn bao giờ hết.



Lần đầu tiên đọc cuốn sách, cơn chấn động nhậân chìm tôi trong những đợt sóng đớn đau, bi phẫn và hoảng sợ đến độï tôi phải bỏ nửa chừng không thể đọc tiếp. Tôi hồ nghi về chính mình, về sự tàn độc của con người và ngay cả hồ nghi về những may mắn và hạnh phúc mà tôi đang hưởng trong cuộc đời riêng, để có thể trong êm ấm, vô tư đọc về những bất hạnh nghẹn ngào cûa “người khác”.



Tôi không muốn dùng ở đây chữ đồng loại, hay đồng bào, vì những thảm kịch trên biển Đông mà tôi đang đọc, đã vượt quá thảùm kịch của một cá nhân, một dân tộc, để trở thành một dấu tích đen tối chung của nhân loại, của nhân tính vốn tiềm phục những mầm hung hiểm, lúc nào cũng sẵn sàng bùng dậy nếu không được kiềm toả.


Thật vậy, thế kỷ 20 là thế kỷ của bạo hành. Như cách gọi của học giả Vũ Quang Hân thì đó là “thời đại âm phủ”, thời đại của những đao phủ thủ, những hung thần đại diện mặt trái hung hiểm củùa nhân tính, của những con người như Hitler, Stalin, nhữõng lò hoả thiêu, những Goulag lưu đầy ở Nga, đấu tố ở Trung Hoa và Việt Nam v.v..., hoặc những trận đói ở Phi Châu, ở Ấn Độ, ở Trung Hoa, ở Việt Nam giết chết nhiều triệu người, và hai trận đại chiến tàn phá toàn thể nhân loại.


Qua những thảm kịch này tưởng chừng nhân loại đã học được mộït bài học lớn, về cái mặt trái đen tối của nhân tính luôn luôn phải được kiềm giữ, nhưng không, ngay trên đống tro tàn âm ỷ của đổ vỡ, tang thương này, người ta đã khởùi sự ngay nhữõng âm mưu để xô con người vào những thảm kịch mới với cuộc chiến tranh lạnh, trong đó, người ta đã đã một lần nữa lại âm mưu thủ tiêu niềm mơ ước công chính của người Việt, chỉ xin được sống trong một đất nước tự do thanh bình sau 100 năm chịu cảnh nô lệ, bóc lột. Người ta tiếp tục xô dân tộc này vào những tai họa mới của một cuộc đối đầu xa lạ, khó hiểu.


Một nghìn chín trăm bốn mươi lăm, một cuộc chiến mới của nhữõng nhân danh man trá một lần nữa lại mở ra cho nhân loại. Nhân danh Dân chủ, Độc tài, Tư Bản, Cộâng Sản. Cuộc chiến nhân danh này mở đường cho việc trở lại của người Pháp tái chiếm thuộc địa Đông Dương, tiếp theo đó là cuộc chiến tranh Pháp Việt kéo dài 10 năm tàn phá từ 1945 tới 1954.


Đất nước không một ngày yên nghỉ, dân tộc không mộât phút giây được thở không khí thanh bình no ấm, hơi thở hậïn thù của những nhân danh lại đã được thổi vào lòng dân tộc theo nhữõng cơn gió mát bên hồ Leman tại hội nghị Geneve đúng như dự kiến của Nguyễn Quốc Định, trưởng phái đoàn đại diện phe quốc gia “Chấm dứt cuộc chiến bằng việc chia đôi đất nước sẽ đưa tới một trận chiến khác”.
Hết nô lệ thực dân, Việt Nam lại phảùi sống trong nô lệ của những nhân danh và hận thù. Hai mươi năm kế đó vẫn là chiến tranh và hận thù. Sông Gianh cũng không xa lắm sông Bến Hải. Ở hai bên bờ của sông Bến Hải, dù nhìn ở phía nào cũng đều chỉ thấy thù địch cần phải tiêu diệt.

Tháng 4 năm 1975, phe Cộng Sản toàn thắng trong nỗ lực chiếu cố miền Nam. Di sản của 20 năm tự đồng hoá với hậïn thù thật khó nguôi ngoai, dù những người kẹt ở lại hay quyết tâm ở lại quê hương vẫn tự nhủ thầm, bây giờ sẽ là giây phút mà mọi người phải hân hoan bừng tỉnh trong ngày hộâi lớn của tình tự dân tộc, vì cuối cùng, “chúng ta” đã có một đất nước độc lập, thống nhất. Những ngày sắp tới sẽ là chuỗi ngày hoan lạc trong thanh bình, thương yêu và dốc lòng xây dựng lại quê hương sau một nửa thế kỷ tàn phá.


Nhưng không, sau đó là một chuỗi ngày tang thương không chỉ cho miền Nam mà cả miền Bắc nữa. Hận thù đã lẫn vào trong hơi thở và ngay cả kẻ chiến thắng cũng phải bám lấy thù hận để sống sót.

Ngày hội lớn của dân tộc chưa tới, hơn một triệu trái tim và trí tuệ của miền Nam bị lùa vào những Goulag cải tạo, cả nước chìm trong đói khổ, ngu dốt, đàn áp, đầy đọa của một hình thức nô lệ mới.
Với cái gọi là kế hoạch ngũ niên năm 1976 được chính thủ tướng Phạm Văn Đồng xác nhận: “nhà nước dự trù trong 4 năm sẽ đưa 4 triệu người từ những khu vực đông dân ở thành thị lên những vùng cao nguyên hoang vu” để gọi là tái phân phối nhân lực.


Cũng như với thảm trạng ở những trại học tập, vùng kinh tế mới thực sự chỉ là dụng tâm thủ tiêu những thành phần, những thị dân của miềøn Nam mà Hà Nội biết rằng sẽ rất khó để lừa gạt. Bị bỏ đói ở thành phố vì không có hộ khẩu, không có công ăn việc làm người ta đành nhắm mắt đi kinh tế mới, nhưng tới nơi mới vỡ lẽ là ở nán lại nơi đó là chấp nhận một “bản án tử hình”.


Đợt đánh tư sản vào tháng 3-1978 bồi thêm nhát chém cuối cùng trong việc thi hành “bản án bức tử người dân miền Nam”.
Nơi đó là quê hương tôi và tôi đành phải bỏ nước ra đi, như câu thơ của Tô Thùy Yên “Người đi như cá theo con nước”.


Tính từ tháng tư năm 1975 tới cao điểm của đợt Exodus Việt Nam là năm 1996, đã có trên một triệu người đến được bến bờ tự do, trong số ước tính khoảng 1 triệu người khác bỏ thân trên những nẻo đường địa ngục, đường biển hay đường bộ, (chỉ là ước tính thôi, vì không ai bận tâm làm một cuộc điều tra hay thống kê chính thức số người bỏ mạng. Tuy nhiên người ta cũng cho rằøng tỷ lệ sống sót trong những chuyến vượt biển là 50/50).


“Một sống hai chết”, như câu ngạn ngữ Việt Nam nhưng người ta vẫn quyết liệt “vào chết để tìm sống”. Những đợt thuyền nhân trên những con thuyền mong manh tơi tả vẫn tiếp tục tràn vào bờ biển của những quốc gia lân bang như Thái Lan, Mã Lai, Indonesia, Phi Luật Tân, mang theo với họ là cả một dĩ vãng đầy đọa trên quê hương, những kinh hoàng địa ngục trên biển cả hay trên đường bộ qua ngả Cambốt. Những mảnh dĩ vãng mà những người sống sót cố quyên đi, cố dấu, cố cười, cố sống nốt cuộc đời còn lại, nhưng nó vẫn lẩn quất đâu đó niềm đe doạ của môït lần đi qua 9 tầng địa ngục.

Như câu chuyện làm ứa nước mắt của tác giả Đông Đoàn người đàn bà ôm con thơ oằn oại dưới tay bọn hải tặc xúc vật và người chồng bị chém gục trong vũng máu vì định liều thân cứu vợ con, như người đàn bà cắn đứt vú cho con hút chút sinh lực từ dòng máu tươi của mình trước khi buông xuôi sinh mạng cho thần chết.


Kể không hết được những thảm kịch kinh hoàng trên biển cả bão bùng, thuyền hư máy, hếât dầu, cạn đồ ăn thức uống, trôi dạt hai tháng trời, đói khát và chết lần lượt; “trời ơi hai con tôi chết rồi, anh em tôi chết rồi.... Ba ơi đừng ăn thịt con nhé...”.




Những thảm cảnh mà người đọc bắt gặp trong Hành Trình Biển Đông, chỉ là một phản ảnh biểu tượng của vô vàn tiếng kêu cứu vọng lên từ đáy mồ tuyệt vọng của những thuyền nhân Việt Nam, một triệu người sống sót là một triệu bằng chứng đau thương của những con người liều mạng ra biển khơi, trong nhữøng con thuyền chạy sông èo uột, nhỏ hơn 9 thước, chất chứa hàng trăm nhân mạng, điều khiển bởi những tài công không có kinh nghiệm hải hành viễn duyên, thiếu chuẩn bị vì phải ra đi trong lén lút, bị bỏ tù, bị xả súng bắn bỏ, bị làm tiền nếu bị bắt lại.


Thống kê của phủ Cao Uỷ Tị Nạn Liên Hiệp Quốc cho thấy trong thời gian 3 năm từ 1981-1983, trong số những tầu may mắn dạt tới Thái Lan (không kể thuyền tới Mã Lai) đã có từ 56%-77% thuyền tị nạn ít nhiều bị hải tạc tấn công. Trong 3 năm nói trên 19.679 người tới Thái Lan có 768 người bị giết chết, 863 phụ nữ bị hiếp, trong đó 489 phụ nữ bị bắt cóc mang đi sau khi bị hiếp, 596 người bị mất tích trên biển cả...


Thật ra hải tặc trong vùng vịnh Thái Lan không phải là chuyện mới lạ. Vùng biển Nam Thái Lan từ trước đây đã là một khu vực tràn đầy cướp biển, đặc biệt là vùng Nam Thái, tiếp giáp giữa Thái và Mã Lai. Khu vực này trong một quy chế bán tự trị mà sự kiểm soát của chính phủ Thái rất yếu kém, do những xung đột của một số dân Thái, Mã theo Hồi Giáo. Đây là một khu vực mà Thái Lan không dám đụng đến, nên chỉ duy trì một tình thế mu mơ, khiến tạo thành một chính quyền địa phương cực kỳ tham nhũng, dung dưỡng đủ mọi loại tội ác, từ buôn lậu tới hải tặc.


Trong vùng Songkhla hay Phuket, biên giới Thái Mã với hàng trăm đảo nhỏ, tình trạng bỏ ngõ của cả hai chính phủ đã biến khu vực này thành sào huyệt lý tưởng của bọn cướp biểân, lẫn lộn với ngư dân rất khó kiểm soát trong số 50.000 thuyền đáng cá nhỏ của Thái. Nhiều tầu cướp biển có võ trang còn mạnh hơn cả những tầu tuần của chính quyền địa phương.


Ngay sau khi phe Cộâng Sản toàn chiếm miền Nam, người Việt đã bắt đầu tìm cách ra đi nhưng số lượng còn nhỏ, trong 3 năm đầu từ 30-5-1975 cho đến tháng 5-978, có khoảng 30.000 người, nhưng cũng với cao trào vượt biên là cao trào hải tặc.


Những báo cáo, những nhân chứng sống về sự tàn bạo như ác quỷ địa ngục củùa bọn hải tặc Thái Lan là những tiếng kêu cứu trong tận cùng tuyệt vọng củùa thuyền nhân Việt Nam vang vọng khắp nơi, làm nhức nhối lương tâm nhân loại dù những quốc gia hệ luỵ tới vấn đề thuyền nhân như Thái Lan, Mã Lai hoặc ngay chính Hoa Kỳ vẫn cố bịt tai nhắm mắt.


Phải đợi tới cuối năm 1980 tức là ở cao điểm của nhữõng đợt thuyền nhân, cũng là cao điểm lộâng hành của bọn hải tặc, mộât chương trình chống hải tặc đầu tiên được thực hiện giữa chính phủ Thái và Hoa Kỳ, với một ngân khoản tài trợ hèn mọn là 2 triệu Mỹ kim, để trang bị cho chính phủ Thái hai phi cơ quan sát, đóng một số thuyền tuần tiểu và chi phí điều hành !!...


Rõ ràng là người ta chỉ làm lấy lệ vì sau đó chương trình này bị khai tử khi chính phủ Thái đòi viện trợ thêm 30 triệu. Để cứu vãn, chương trình chống hải tặc được nối tiếp với sự vận động của Cao Ủy Tỵ Nạn, nhờ sự đóng góp của 12 quốc gia nâng tổng số ngân khoản lên thành 3.7 triệu. (giá một chiếc chiến đấu cơ F 16 là 18 triệu Mỹ kim). Ngoài ra Thái cũng được trang bị 3 tầu tuần, 3 tầu đánh cá, ba tầu giả làm thuyền nhân để gài bẫy, Lực lượng tuần duyên tí hon này dùng để kiểm soát 18.000 dậm vuông vùng biển trải rộng từ biên giới phía Nam với Mã Lai tới vùng gần phía Nam mũi Cà Mâu. Hải và không quân Thái không hề được đề cập tới trong chiến dịch này.


Một lần nữa đây cũng chỉ là làm cho có, thiếu tiền, thiếu phương tiện và thiếu cả thiện chí của chính phủ Thái. Ba tầu tuần và phi cơ không hoạt động ban đêm, khi trời xấu, khi phi cơ phát hiện tầu bị tấn công, phải vài tiếng sau tầu tuần mới tới, đủ thời gian để bọn hải tạc tẩu thoát và việc làm biên bản cũng là chiếu lệ, chỉ có một máy chụp hình 35 ly, không có nổ lực nào để kịp thời truy lùng thủ phạm.
Ngay cả sau đó, năm 1982 quy ước về luật biển của Liên Hiệp Quốc có đòi hỏi là “các quốc gia phải hợp tác tối đa trong việc thanh toán nạn hải tặc trên biển cả”û, đại nạn này vẫn không giảm bớt.


Nó không giảm bớt chính yếu vì Thái Lan không chủ tâm giải quyết, với lý do là chính họ cũng bất lực trong việc chế tài các hoạt động phạm pháp, trong khu vực mà sự căng thẳng giữa những nhóm dân Mã Lai theo đạo Hồi, và những người Thái theo đạo Phật. Bạo loạn vì chủng tộc cũng đang xẩy ra trong khu vực.


Tiềm ẩn nhưng không kém phần ảnh hưởng là thái độ kình chống truyền thống giữa Việât Nam và Thái Lan trong ý định của cả hai nước, nhằm khống chế hoặc gây ảnh hưởng hai tiểu quốc Ai Lao và Cam Bốt.


Thái độ kình chống này được ngấm ngầm khích độâng để biến thành những hành động bạo hành, mang vẻ hận thù chủng tộc của bọn hải tặc như bắn bằng súng tiểu liên, chém bằng mã tấu, tra tấn, bẻ răng lấy vàng, bắt cóc đàn bà bán cho độâng mãi dâm, hãm hiếp vợ trước mặt chồng, đâm thủng thuyền, lấy máy tàu. Ngay cả khi đã vào được trại, người ty nạn Việt Nam cũng chưa thoát khỏi bị đầy đọa, tước đoạt nhân phẩm bởi chính những viên chức Thái điều hành trại. Đánh đập, nhục mạ người ty nạn là chuyện xẩy ra hàng ngày, như sự mô tả của thuyền nhân được ghi lại trong Hành Trình Biển Đông:


“Những tên cai quản trại là những con thú đội lốt người, tàn bạo, mất nhân tính, hành động quái gở, thù hận, như bắt thuyền nhân há miệng cho chúng nhổ vào, bắt hút cần xa ma tuý, bắt khoả thân tập thể, cho đỉa hút máu trong ruộng rau muống, bắt hít đất miệng la to Việt Nam ngu, bắt những cô gái xinh đẹp để hành lạc”.


Tháng 12-1978 Việt Nam tấn công ở Cam Bốt, kiểm soát nước này qua chính phủ bù nhìn Heng Sarim. Thái Lan hoảng hốt thấy nguy cơ Việt Nam đã được đẩy tới ngưỡng cửa của mình, nhất là sau mộït vài đụng độ ở khu biên giới làm dân tỵ nạn Cam Bốt tràn sang Thái ào ạt. Kể từ đây, tâm lý thù hận người Việt bắt đầu được thả lỏng, ngấm ngầm hoặc công khai, được những giới chức Thái ủng hộ trong các trại ty nạn, hoặc ngó lơ trong công tác ngăn chặn hải tăïc. Hải tặc gián tiếp trở thành một công cụ để trả thù Việt Nam và ngăn chặn người tỵ nạn vượt biển.


Cuộc chiến Cam Bốt là giọt nước tràn ly trong quan hệ Hoa Việt, vì không những nó chứng tỏ rằng Việt Nam muốn ngăn chặn đế quốc Trung Hoa lan rộâng từ Bắc kinh tới Sigapore, mà cũng chứng tỏ là Việt Nam muốn triệt tiêu thế lực kinh tài của Trung Hoa được gài lại từ 1945, khi Tưởng Giới Thạch ký hiệp định Trùng Khánh trả lại Bắc Việt cho người Pháp.


Không lâu trước vụ tấn công Cam Bốt, tháng 3-1978, Việt Nam mở những đợt đánh tư sản mại bản, mà những thành phần tư bản gộc chính là thế lực tài phiệt người Hoa ở miền Nam.
Để chứng tỏ uy quyền, Trung Hoa xua quân dậy Việt Nam một bài học.


Trận chiến ngắn ngủi răng cắn môi không giải quyết được gì ngoài việc biến những người Việt gốc Hoa và những Hoa Kiều thành những phần tử đáng nghi ngờ, một thứ con ghẻ, tượng trưng của phảùn bội và bá quyền Trung Hoa.
Những cơ sở thương mại của người Hoa bị tịch thu, thẻ hộ khẩu bị tịch thu, công nhân viên bị đuổi việc, trẻ con không được đi học.


Ngoài việc xiết gọng kìm kiểm soát kinh tế, đe doạ, Việt Nam lộ rõ ý muốn đuổi mọi người Hoa khỏi nước. Kết quả một số quan trọng người Hoa, Việt gốc Hoa tràn ngược trở lại sang biên giới Hoa Việt, một số khác đuợc nhà cầm quyền Việt Nam ngầm khuyến dụ rời khỏi Việt Nam, qua chính sách tước đoạt tài sản gọi là ra đi bán chính thức. Những người Hoa ở miền Nam cũng ào at ra đi dưới dạng bán chính thức như ở miền Bắc và đổ vào vùng Thái Lan hay Mã Lai.


Trong năm 1978 Việt Nam trục xuất bán chính thức 745.000 người Hoa và những đợt ra đi bán chính thức này tiếp tục gia tăng trong năm kế đó.
Không những thế, kể từ sau trận chiến Hoa Việt, số những tù nhân cải tạo được phóng thích cũng gia tăng và việc đầu tiên của những người trở về từ địa ngục này là tìm cách ra đi dù bán chính thức hay đi chui.


Những đợt người Hoa có lẫn cả người Việt bỏ nước ra đi hầu như công khai và ào ạt này tạo thành nhiều hệ luy bất ngờ về kinh tế cũng như chính trị, nhất là tạo một vài dư luận sai lầm về “tư cách ty nạn chính đáng của những thuyền nhân.”.
Đầu năm 1979, phó thủ tướng Mã Lai Mahathir Mohamed cho biết sẽ trục xuất 76.000 thuyền nhân đã dạt tới nước này, sẽ kéo thuyền tỵ nạn, bỏ chếùt ngoài khơi hoặc sẽ bắn bỏ “shoot” những thuyền nhân nào xâm phạm lãønh thổ Mã.


Thái độ cứng rắn của Mã Lai không chỉ vì vấn đề tỵ nạn đột nhiên vượt quá khả năng chuẩn bị của chính phủ địa phương, mà chính yếu vì Mã không muốn làm thay đổi sự ổn định bấp bênh trong nhân số người Hoa và người Mã tại vùng biên giới phía Nam Thái Lan.


Phía chính phủ Thái, hùa theo thái độ của Mã Lai cũng tăng cường mức đàn áp, đầy ải, xỉ nhục những thuyền nhân trong các trại tạm trú, mặt khác cấm không được cứu vớt những thuyền nhân, xuôi tay, nhắm mắt , gián tiếp khuyến khích bọn hải tăïc lộng hành như một phương pháp đe doạ để ngăn chặn việc ra đi của các thuyền nhân. Tuần duyên Thái không hoạt động, không cứu vớt, không một tên hải tặc nào bị đưa ra xét xử và trừng trị.


Thêm một hành động liều chết nữa, các thuyền tới được bờ biển phải tự đục thủng đánh chìm để không bị kéo ra khơi. Sau nhiều ngày bão tố, đói khát, kiệt lực trên biển, nhiều người tử nạn ở ngay ngưỡng cửa của vùng trời tự do.

Tin tức về những hành động hiếp đáp cuồng bạo của hải tặc Thái, và cảnh những con tầu tự đánh đắm để đám người tỵ nan tơi tả, đàn bà, trẻ con nhào xuống biển lội vào bờ, được loan truyền trong dư luận và truyền thông thế giới như đài BBC, Voice of Ameria, Radio Australia, cũng như tin tức cá nhân qua thư từ của những người đi trước tràn ngập Việt Nam, nhưng vẫn không thể ngăn được những người quyết tâm tìm tự do.


Một nữ thuyền nhân cho biết trước khi ra đi đã nhận được thư của người bạn cho biết cô ta từng bị hiếp 70 lần, bị bắt cóc mang đi 12 ngày, tiếp tục bị hãm hiếp và cuối cùng bị vứt xuống biển.
Một vài tuần sau việc doạ bắn bỏ những thuyền nhân tỵ nan làm cả thế giới xững sờ, chính phủ Mã Lai đổi giọng, chữa lại là họ sẽ “Shoo” (xua đuổi) thuyền nhân thay vì bắn bỏ “Shoot” như lời phát biểu của phó thủ tướng Mã.


Shoot đổi thành Shoo làm người ta bớt lo một chút, nhưng thái độ vô nhân đạo của hai chính phủ Thái Mã đã đủ mạnh để giựt điện các quốc gia văn minh Tây Phương. Thủ tướng Anh lúc đó là bà Margaret Thatcher gửi công hàm cho tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Kurt Waldheim yêu cầu triệu tập một hộâi nghị quốc tế, để giải quyết cuộâc khủng hoảng tỵ nạn Đông Dương.


Mục đích tiên khởi của bà Thatcher không gì hơn là triệu tập một hội nghị quốc tế để lên án Hà Nội, nhưng đồng thời cũng lưụ ý về việc cần phải xúc tiến mạnh hơn vấn đề tái định cư người tỵ nạn.
Ngày 20-7-1979 Liên Hiệp Quốc triệu tập một hội nghị ty nạn Đông Dương với sự tham dự của 65 quốc gia, trong đó Viẹt Nam cũng tham dự và được cho biết là họ sẽ không bị mang ra làm tội.


Có một chút mỉa mai vì hội nghị Geneve này đã diễn ra trong cái bóng đen tuyệt vọng của một hội nghị tương tự về tỵ nạn đã diễn ra ở Evian bên kia hồ Leman trên phần lãnh thổ của Pháp vào năm 1938, để tìm cách giải quyết vấn đề những người Do Thái tỵ nạn Đức Quốc Xã.
Trong hội nghị này, người Anh nói nhiều, lớn miệng nhưng chỉ chịu nhận môït số rất ít người tỵ nạn Do Thái, do đó, hội nghị coi như thất bại hoàn toàn.
Thái độ đạo đức giả của những quốc gia Tây Phương một lần nữa đã được chính đại diện của Mã Lai nêu lên như sau:

“Tây Phương ngoài miệng nói rằng đây là vấn đề người “tỵ nạn Đông Dương” nhưng lại cư xử với họ như những người “di dân”.
Thí dụ, măc dù Hoa Kỳ có gia tăng giới hạn định cư tại Mỹ và luôn luôn khẩn thiết kêu gọi cho định cư người tỵ nan, nhưng chính Hoa Kỳ “chỉ thu nhận người ty nạn theo một số tiêu chuẩn lựa chọn” đó là những người có thân nhân gần đang sống ở Mỹ, những người từng làm việc với công ty hoặc chính phủ Hoa Kỳ, quân cán chính Việt Nam Cộng Hoà.


Sự ấn định và phân biệt tiêu chuẩn này mang tính chất những lựa chọn di dân thay vì đối xử đồng đều trong khuôn khổ định nghĩa về người ty nạn nói chung.

Người Anh, thêm một lần nữa, tương tự như tại họi nghị Evian 60 năm trước, chỉ chịu nhận 4000 tỵ nan. Ngoại trưởng Anh Lord Carrington sau khi viếng các trại ty nạn từ Hồng Kong đến Mã Lai mới quyết định nhận thêm 10.000 người nữa.
Tuy không thành công lớn, nhưng với sự đóng góp quan trọng của Hoa Kỳ, đã có “thêm” 260.000 người ty nạn được hứa hẹn cho định cư trên toàn thế giới.


Cũng tại hội nghị Geneve 1979 về tỵ nạn này người ta đặt vấn đề là cần phải giải quyết vấn đề từ căn nguyên, mà căn nguyên tất nhiên là những trách nhiệm mà Hà Nội phải gánh chịu trước công luận thế giới. Hà Nội đã làm gì khiến chính người Việt phải ào ạt bỏ nước ra đi, và trách nhiệm khác là sự chủ tâm của chính phủ Việt Nam trong chính sách ruồng đuổi người Hoa, sau khi đã bóc lột hết tài sản của họ.

Tuy nhiên, nếu bây giờ kêu gọi hay áp lực Hà Nội triệt để cầm giữ, ngăn cấm người ra đi tìm tự do, tìm lẽ sống thì cũng không khác gì kêu gọi Đức Quốc Xã ngăn cấm người Do Thái bỏ trốn, kêu gọi lính Đông Đức xả súng vào những người Đông Đức leo qua tường Bá Linh tìm tự do, hay kêu gọi Fidel Castro đánh chìm những thuyền ty nạn trốn khỏi Cuba.

Hà Nội tuy không bị mang ra đàn hạch nhưng đã hiện diện trong hội nghị này với một tư thế khó chịu và bỉ mặt, vì chối cãi là họ không có trách nhiệm gì trong cao trào vượt biên nhưng thực tế một chính quyền đã làm những điều gì đủ ghê gớm để môït số quá đông dân của mình phải bỏ nước ra đi.


Lập luận của phái đoàn Việt Nam tuy đáng buồn cười nhưng cũng minh xác thêm một điều là người ta đã bỏ ra đi “vì những lý do chính trị”, trong đó, sự can dự tích cực của người Mỹ tại Việt Nam trong cuộc chiến đã tạo thành một khối quần chúng với “quan điểm chính trị không thể dung nạp với chế độ Công Sản” hiện hữu tại Việt Nam. Nói khác đi theo đại diện Hà Nội thì: “Biến cố giải phóng miền Nam đã diễn ra quá mau chóng khiến nhiều người không thể rời khỏi nước được... Chính phủ Hà Nội không trục xuất những người tỵ nạn, trái lại, họ đã bỏ ra đi chính yếu vì những lý do chính trị.”


Nhận xét “bỏ đi vì không được tự do sinh hoạt chính trị” khiến người ta cho rằng cuộc vượt thoát (exodus) khỏi Việt Nam sẽ không thể ngừng lại được, vì với 20 năm nghe tuyên truyền và tự đồng hoá thành một tiền đồn chống Cộng ở Đông Nam Á, không đội trời chung với chủ nghĩa Công Sản vô thần, độc tài v.v... 20 triệu người dân miền Nam khó có thể một sớm một chiều thuận theo Cộng Sản được, và người ta cũng dự trù là: “sẽ có thêm hai triệu người nữa đang chuẩn bị ra đi”. Con số này có thể là ám chỉ số quân cán chính đã hoặc đang bị tù cải tại và gia đình, hoặc những người có liên hệ với Hoa Kỳ trong cuộc chiến.


Ước tính có thêm 2 triệu tỵ nạn nữa làm mọi người phát hoảng và sau cùng người ta đi đến một giải pháp gọi là “Ra đi trong trật tự”.
Ra đi trong trật tự thật ra chỉ là sự chối bỏ nghĩa vụ với những người tỵ nạn và biến nó thành môït kế hoạch di dân có kiểm soát.
Hà Nội được kêu gọi tăng cường việc ngăn chặn và đồng thời với “ra đi trong trật tự”, người ta bắt đầu làm khó nhữõng người liều chết vượt biển với những đợït thanh lọc khó khăn hơn để quy định, phân hạng ai là “tỵ nạn chính trị, ai là tỵ nạn kinh tế”.


Việc Hà Nội đồng ý tăng cường nỗ lực ngăn chặn người ra đi và việc Tây Phương áp đặt tiêu chuẩn tỵ nạn chính trị hay kinh tế gay gắt hơn, đã thành công trong việc làm nản lòng những người muốn ra đi, con số người đến Mã Lai trong tháng 7 giảm từ 20.000 xuống còn 5000.


Mặt khác, sau khi quyết liệt không giảùi quyết việc định cư cho những thuyền nhân bị liệt vào hạng tỵ nạn kinh tế, người ta mở chiến dịch khuyến khích tự nguyệân hồi hương đối với những người đã sống quá lâu trong tình trạng tù giam lỏng vô thời hạn ở các trại ty nạn, đặc biệt là Hồng Kông.
Đấn đây, môt câu hỏi lớn cần được đặt ra là có phải những người vượt biển từ Việt Nam là những người tỵ nạn kinh tế hay không.


Người ta phải tìm một câu trả lời thoả đáng và trung thực vì đó là sự “trả lại danh dự và nhân phẩm” cho những người đã phải gạt nước mắt, chấp nhận mọi khổ hình, mọi hiểm nguy để bỏ quê cha đất tổ ra đi.
Câu trả lời thực ra đã tìm thấy ngay trong những thảm kịch được ghi lại trong Hành Trình Biển Đông, và sau đó là trong chính định nghĩa pháp chế về người tỵ nạn chính trị của Liên Hiệp Quốc.
Thật ra rất khó để có một định nghĩa định chuẩn về hai chữ “tỵ nạn” trong quan điểm quốc tế công pháp, và từ 1922 tới nay người ta đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về danh từ này.


Tuy nhiên có thể tạm dựa vào một định nghĩa khá đầy đủ trong quy ước ty nạn được đưa ra năm 1951, theo đó:
“Ty nạn là những người có lý do vững chắc để tin rằng sẽ bị sát hại (persecuted) vì những lý do như chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch, hoặc là thành viên của một tập thể hay khuynh hướng chính trị, hiện đang sống bên ngoài lãnh thổ quốc gia (mà đương sự mang quốc tịch) mà vì sợ hãi, hoặc không muốn nạp mang để bị sát hại bởi tổ quốc chính của mình, hoặc những người không có quốc tịch, đang có mặt bên ngoài quốc gia mà trước đó họ là thường trú nhân (đã rời khỏi nước) nhưng vì sợ hãi, hoặc không thể, hoặc không muốn trở về ”.

Nói gọn lại một người ty nạn cần hội đủ những tiêu chuẩn như sau:
1/ Sợ bị tàn sát vì khác biệc tôn giáo chính trị, chủng tộc.
2/ Sống bên ngoài lãnh thổ mang quốc tịch hay là thường trú.
3/ Sợ hãi chính đáng, do một biến cố chính trị, không muốn hoặc không được bảùo vệ bởi quốc gia mà họ bỏ đi.


Quy ước về tỵ nạn năm 1951 được coi là đầy đủ nhất và hầu như được thừa nhận phổ quát bởi nhiều quốc gia. Tháng giêng 1982, một quy tắc bổ túc lại được 92 quốc gia thông qua trong đó người ta cho rằng vì đã không có những luật lệ chính thức từng được áp dụng, hoặc một định nghĩa của từ “Refugee” nên định nghĩa về tỵ nạn trong quy ước năm 1951, được coi như là một tiêu chuẩn chính thức.


Nhìn vào những quy định trong quy ước tỵ nạn 1951 như nêu trên, người ta sẽ thấy ngay là những người sinh sống trên lãønh thổ Việt Nam Cộâng Hoà, có quốc tịch hay thường trú, và đã rời khỏi Việt Nam tất nhiên phải là những người tỵ nạn chánh trị, vì họ thực sự có đủ bằng chứng đãø bị sát hại, bị đàn áp vì lý do chính trị, bị kỳ thị về chủng tộc và tôn giáo, bị giam cầm, bị lưu đầy, bị bỏ chết đói (cắt hộ khẩu, cho đi kinh tế mới) v.v... Điều kiện đầu tiên của ty nạn là phải có lý do vững chắc để sợ rằng sẽ bị giết hại, làm người ta mường tượng tới những vụ tàn sát của Đức Quốc Xã với người Do Thái, hay vụ thảm sát kinh hoàng của người Nhật trong đệ nhị thế chiến (được biết đến trong tên gọi “Vụ cưỡng hiếp Nan Kinh, the Rape of Nan Kinh” trong đó, chỉ trong tám tuần lễ, lính Nhật, đâm chém, đốt, phá, cưỡng hiếp, tàn sát 300.000 người Tàu).


Thực tế đã không có một cuộc “tắm máu” như hình ảnh người ta dự liệu năm 1975, nhưng cũng trong thực tế, hàng triệu người dân Miền Nam, nhất là những người có liên hệ trực tiếp tới chính quyền, quân đội VNCH đã bị “persecute” trong một cái chết chậm chạp và đau đớn từ tinh thần tới thể chất, trong một cuộc sống bị đập nát, tuyệt hi vọng và bị đe doạ thường trực. Chối bỏ tư cách tỵ nạn chính trị của thuyền nhân Việt Nam thì cũng tương tự như nói rằng vụ thảm sát cuồng bạo ở Nan Kinh không hề xẩy ra. Hiện nay, dù với bao hình ảnh, bao nhiêu lời khai cúa các nhân chứng sống, vẫn có những người Nhật chối bỏ rằng “The rape of Nan Kinh” không hề xẩy ra!!!.

Tư cách và những thảm kịch của thuyền nhân vượt biển tìm tự do là những sự kiện không thế chối cãi được qua hàng triệu nhân chứng. Đó cũng là những điều mà lịch sử sẽ phê phán giới lãnh đạo Việt Nam trong giai đoạn hậu 1975.

Điều 31 khoản 1 của quy ước tỵ nạn có ghi rõ: được gọi là tỵ nạn những người đến từ những lãnh thổ nơi mà đời sống và tự do của họ bị đe doạ. Đối với một triệu quân dân cán chính miền Nam bị lùa vào các trại tù học tập và gia đình họ bị kỳ thị, bị bỏ chết đói bên lề xã hội, thì tình trạng của họ đã vượt quá việc bị đe doạ.

Điều 33 khoản 1 nói về những lãnh thổ (quốc gia) mà đời sống của người tỵ nạn hoặc tự do của họ bị đe doạ vì kỳ thị chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch, vì họ là thành viên của một nhóm xã hội, quan điểm chính trị.


Cuộc nội chiến tàn bạo kéo dài trên 20 năm ở Việt Nam, với những nỗ lực tuyên truyền từ hai phía, trên thực tế đã biến hai miền Nam Bắc thành hai quốc gia, hai nhóm chủng tộc, hai quan điểm chính trị thù hận, ghê sợ lẫn nhau. Đây cũng là một sự thật không thể chối cãi, nhất là thái độ của dân chúng hai miền Nam Bắc trong những năm đầu, sau khi phe Cộng Sản toàn chiếm miền Nam. Nếu không phải là toàn thể dân chúng miền Nam thì ít nhất vài triệu thị dân trong các thành phố là đối tượng cần phải tranh thủ, cần phải khống chế tư tưởng để thuần phục chế độ mới.


Chính sự khống chế tự do này mới thực sự là yếu tố xô người ta ra biển khơi. Chính sự tước đoạt nhân phẩm, cắt đứt mọi cơ may sống còn căn bản củùa một con người đã khiến người ta phải bỏ nước ra đi với những hi vọng mỏng manh nhất.
Đó cũng là lý do mà Hành Trình Biển Đông đã gào lên lời phản kháng “ Trả lại danh dự cho chúng tôi, vì chúng tôi, những thuyền nhân, chính là tấm gương phản chiếu chút lương tâm cuối cùng của nhân loại”
Ngó lại phía sau, nhìn về phía trước


Vấn đề tỵ nạn và thuyền nhân hiện đã chấm dứt, chính yếu vì sự cải thiện tự do bắt đầu nhen nhúm từ lúc chấm dứt cuộc chiến tranh lạnh, đưa tới sự xụp đổ của Liên bang Sô Viết. Việât Nam theo gương Nga Sô tự cởi trói thoát ra khỏi vòng kiềm toả của cuộc chiến nhân danh, để hé dần cánh cửa tù ngục. Các trại ty nạn lần lượt đóng cửa thay thế vào đó là các chương trình đoàn tụ và ra đi trong trật tự.


Tang thương cũ đã qua nhưng vết sẹo oán cừu còn đó. Nếu mang định mạng mỗi con người trong Hành Trình Biển Đông đặt trong định mang chung của dân tộc thì niềm đau có vẻ như nhỏ lại nhưng nếu thu ngược lại trong từng mảnh đời riêng lẻ thì nỗi đau, nối hận, nỗi oán cừu lại như nổ ra phủ kính toàn vũ trụ.

Những đớn đau thảm kịch xé ruột gan của từng cá nhân, từng mảnh đời ghi lại trong Hành Trình Biển Đông ghê gớm quá, khủng khiếp quá khiến những người may mắn bên ngoài những tang thương mất mát này không thể nói gì hơn là chỉ xin được kính cẩn cúi đầu chia xẻ và chân thành tự hỏi nếu được phép nói lên lòng mình thì chúng ta sẽ nói gì đây, sẽ phải làm gì để nhẹ bớt nỗi oan cừu bi hận này.

Nếu được phép chia xẻ, tôi chỉ muốn nói một điều là cho đến phút này chúng ta vẫn còn sống, vẫn sống sót, và nhữõng thế hệ său chúng ta vẫn tiếp tục sống, như ông cha chúng ta từng đã sống sót và tồn tại qua bao thăng trầm, bao nhiêu thảm kịch của lịch sử . Có lẽ cách tốt nhất để làm nhẹ đi nỗi đau là mang thân phận riêng lẻ của mọi con người Việt Nam, dù vinh quang hay tủi hờn, hạnh phúc hay khốn khó, góp phần trong dòng định mạng chung của dân tộc, để chúng ta cùng nhau chia xẻ, gánh vác như câu thơ của thi sỹ Viên Lính “ Hi vọng ta còn tiếng khóc chung”

Vì thế, phải chăng bây giờ cũng là lúc mà người ta phải có can đảm nhìn lại để kịp thời ghi thêm môït đoạn đường nữa trong Hành Trình Lạc Việt.

Từ môt huyền sử xa xưa tổ tiên người Việt đã khởùi đi từ mộït hành trình dựng nước trên 4000 năm, không thiếu đau thương, chia lìa, uất hận nhưng cũng không thiếu vinh quang, nhất là khưng thiếu hi vọng. Quan trọng hơn cả là chúng ta vẫn tồn tại qua bao thăng trầm của dòng lịch sử và vẫn là những người Việt Nam dù ở phương trời nào của thế giới.

Đọc Hành Trình Biển Đông và nếu có dịp được gập những thuyền nhân như XYZ hay bất cứ một thuyền nhân nào tôi chỉ xin được nói “ Cám ơn anh, cám ơn chị, đã cố sống sót để ghi lại một đọan đường bi thảm của lịch sử, để con cái chúng ta học bài học quá khứ này và hi vọng tránh được những thảm kịch mới trên con đường tiến vào tương lai”

SƠN TRUNG * VÀNG VÀ MÁU

VÀNG VÀ MÁU 
Sơn Trung 


Lúc bấy giờ vua Uy Mục và Lê Tương Dực nhà Lê tham dâm tàn bạo, các quan đại thần mỗi ngưởi mỗi phe như phe Trịnh Duy Sản, Trịnh Tuy, Nguyễn Hoàng Dụ, Trần Chân đánh nhau. .. Khắp nơi dân chúng bất mãn, cướp bóc nổi lên như rươi. Ở Kinh Bắc có Thân Duy Nhạc, Ngô Văn Tổng; Sơn Tây có Trần Tuân,Tam Đảo có Phùng Chương, Nghệ An có Lê Hy, Trịnh Hưng, Lê Văn Triệt. . .


Trong các đám giặc cướp này, có anh em Lê Vấn, Lê Đại người Hải Dương thanh thế khá lớn được bộ hạ tôn xưng là quận Hổ và quận Báo. Quận Hổ có sức mạnh địch trăm người, tinh thông thập bát ban võ nghệ. Trong tay quận Hổ có hàng ngàn quân binh mạnh khỏe, trong khi triều đình khí thế non kém. Mỗi phủ huyện chỉ có vài chục quân binh, còn các thừa tuyên (tức là tỉnh sau này) chỉ có một hai trăm binh. Quận Hổ cùng một trăm quân sĩ tinh nhuệ thường xông lên trước. Bất cứ nhà giàu nào tường cao cổng kín, bất cứ thành trì nào, quân sĩ của ông chẳng cần thang, cứ người nọ chồng lên người kia mà leo lên thành dễ dàng rồi đột nhập vào đốt nhà cướp của, chém giết quân binh. Sở dĩ ông nổi danh là quận Hổ vì tính khát máu của ông. Sau khi đã lấy sạch vàng bạc, ông có thú vui bắt chủ nhà quỳ trước chân ông, rồi ông lấy búa đập nát đầu gia chủ. Sau đó, ông lần lượt hãm hiếp vợ và con gái chủ nhà. Còn lính tráng thì được tự do thâu chiến lợi phẩm. Sau khi thỏa mãn, ông cầm dao cắt cổ họ. Đánh chiếm thành trì cũng vậy. Gặp quan giết quan, gặp lính giết lính, gặp dân giết dân, vì vậy nghe tin quân Hổ kéo đến, quan quan chưa đánh đã bỏ chạy, mặc sức quận Hổ chiếm kho lương và vàng bạc.


Cùng lúc này, Trần Cao nổi lên đánh phá kinh đô Thăng Long và chiếm cứ một vùng lớn rồi xưng vương, lập một triều đình gồm bá quan văn võ trong một thời gian khá lâu, còn vua quan nhà Lê bỏ chạy vào núi. Anh em quận Hổ, quận Báo đem quân đầu hàng Trần Cao. Trần Cao phong hai anh em làm đô đốc, rồi thượng tướng. Sau quận Hổ về làm trấn thủ Thái Nguyên, còn quận Báo làm Ngũ quân Đô Thống trong triều.



Trước đây, quận Hổ cướp vàng bạc của dân chúng rồi xây nhà cửa, dinh thự to lớn. Bây giờ được phong thượng tướng kiêm trấn thủ Thái Nguyên, ông lại càng đắc chí, xây dinh thự cao sang trăm phần. Công cuộc xây cất đền đài tốn kém, ông bắt dân chúng và quan địa phương cung đốn nhân công và vàng bạc. Quan trấn thủ muốn việc xây cất phải hoàn thành vào khoảng rằm tháng chạp để sau đó khánh thành vào dịp Tết, và làm lễ khánh thọ cho ông. Lễ khánh thành dinh thự và lễ mừng thọ cũng là một dịp ông thu tiền và lễ vật các quan trong tỉnh Thái Nguyên và trong triều, ngoài quận. Công việc cấp bách, các đốc công bắt thợ nhịn đói làm gấp ngày đêm. Ai chậm trễ hoặc bệnh hoạn thì bị đánh đập tàn nhẫn khiến cho một số dân phải chết thảm trong cơn mưa bão. Công việc xây cất cần nhiều gỗ, ngói và gạch, nhưng thời gian cấp bách, không lò gạch nào cung ứng đủ cho công trường. Và cũng vì gỗ quý khan hiếm ,không dễ gì đốn cây chở về Thái Nguyên, cho dù Thái Nguyên là nơi núi rừng.

Quan trấn thủ nghe lời bọn tả hữu cho quân lính đến giở chùa Linh Sơn để mang gỗ, gạch ngói về xây. Chùa này to lớn, có nhiều gỗ quý, đã xây dựng trước đó vài năm. Dù là gạch ngói cũ cũng không hề gì vì người ta sẽ bắt nhân công chùi đánh cho sạch rồi sơn lại thì cũng như mới. Còn gỗ cũng vậy. Cứ giở gỗ về đánh bóng và sơn phết lên là xong. Chư tăng trong chùa than khóc và phản kháng thì quan ra lệnh binh sĩ giết . Một số binh sĩ không dám giết kẻ tu hành thì quan liền khoa đao giết bọn lính hèn nhát này. Sau đó ông cùng bọn lính trung thành giết tất cả là 60 người, không bỏ sót một ai. Quan trấn thủ bèn ra lệnh san bằng chùa Đại Từ Bi, lấy đất xây hồ sen để mùa hè cho ông thưởng lãm.

Tại Thái Nguyên , phú ông họ Trần, và phú ông họ Lê có nhà cửa khang trang, quan trấn thủ cũng cho người đến mua nhà của họ để lấy gỗ và gạch ngói với giá hai mươi quan tiền, là một giá rất là tượng trưng cho nên cả hai ông không bán. Vài bữa sau, cả hai ông bị quân lính đến khám nhà và xét thấy trong nhà chứa nhiều gươm đao khiến cho hai ông bị kết tội phản loạn mà bị chém và gia sản bị tịch thu có đến hàng ngàn lượng vàng; vợ con họ phải làm tỳ thiếp cho quận Hổ và bọn chân tay. Ngày xử chém hai gia đình này, hai phú ông họ Trần và họ Lê đã khóc lóc thảm thiết và nguyền rủa quận Hổ:
-Mày tàn ác quá, mày sẽ bị báo ứng! Chúng tao thề không tha cho mày. Chúng mày sẽ chết thảm khốc!

Để chuẩn bị cho một cuộc sống vương giả sau này, xứng với đền đài nguy nga, tráng lệ, quan trấn thủ cho bọn thủ hạ đi bắt gái đẹp về làm hầu thiếp, và một số làm ca nhi để cho trong dinh thự, đền đài của ông lúc nào cũng có tiếng nhạc thánh thót, và tiếng ca véo von như cảnh Bồng Lai. Việc bắt gái đẹp này đã làm cho một số con gái liều mình tự tử nhưng quan trấn thủ vẫn không dừng bước.

Những gia đính có cây đẹp, trái quý, hoặc có chim biết nói, biết ca đều bị quan lính xông vào cướp đoạt đem dâng cho quan trấn thủ để quan làm một vườn hoa y như Ngự viên ở Cấm Thành.

Ngày tết nguyên đán đã đến mà việc xây lâu đài chưa xong, quan trấn thủ giận quá, ra lệnh chém vị chỉ huy xây dựng cùng năm đốc công. Công việc xây cất phải đến tháng bảy mới xong, nhưng vừa xây xong thì bão lụt kéo về làm sụp đổ toàn bộ lâu đài. Việc này khiến quan trấn thủ phải làm lại từ đầu.

Lúc bấy giờ quan có hai con trai. Thằng Cả nhờ thế cha mà làm Phó tổng binh Lạng Sơn, còn thằng Hai tuổi 18-20 thì không tham công danh quyền quý, chỉ thích ăn chơi nhưng lại có óc lãnh tụ giống cha. Nó làm lãnh tụ một băng đảng gồm ba, bốn mươi thanh thiều niên,tuổi 15-20, là con của các quan lớn nhỏ trong thành Thái Nguyên. Chúng đi khắp phố phường bắt gái đẹp về làm trò chơi tập thể. Nhiều khi chúng cầm gươm giáo chặn một khu phố bắt tất cả phụ nữ, không kể trẻ già. Chúng trùm bao bố, nhét giẻ vào miệng và trói chân tay họ lại, rồi đem đến khu vui chơi của chúng. Vô phước làm sao, một buổi tối, phu nhân của quan trấn thủ đi thăm mẹ ruột ở Bắc Ninh về, bà và hai thị tỳ đều bị đám du đãng bắt trùm bao bố và chở đến khu hành lạc tập thể của chúng. Bà kêu la thì chúng lấy giẻ bịt miệng bà lại. Bà chống cự thì chúng trói chân tay bà lại.

Hôm đó chúng chỉ bắt được năm, sáu phụ nữ. Chúng tắt đèn tối thui và chơi trò tập thể. Cả đám phụ nữ bị chúng thay nhau hãm hiếp. Bà nghe trong đám có tiếng thằng Hai con của bà. Chính thằng này đã ba, bốn lần dày vò bà. Bà không thể lầm được giọng nói của nó, và mùi hôi nách của nó. Bà cào nó một cái ở trên mặt và cắn một cái ở ngực. Thằng này tức giận thụi ba cái vào mặt bà làm bả chết ngất. Tưởng bà đã chết, cả bọn trùm bao bố đem quăng bà ngoài bờ sông. Sáng hôm sau có người tìm thấy xác chết bèn trình quan trấn thủ. Quan bèn sai nha lại đi điều tra mới biết nạn nhân chính là phu nhân của quan trấn thủ. Mặt bà bị dấm sưng vù, không mở mắt ra được, còn cửa mình máu me ra không ngớt. Sau hai ba ngày cấp cứu, quan trấn thủ hỏi đầu đuôi và được phu nhân kể lại mọi sự. Bà khóc lóc trong nhục nhã và uất hận. Chính bà bị con trai bà hãm hiếp. Bà khóc lóc van xin ông hãy giết chết thằng con súc sanh này. Khóc xong bà cắn lưỡi tự tử!

Quan sai lính tróc nã đám du đãng và bắt được cậu Hai. Nhìn mặt thấy thằng con ông bị cào ở mặt. Ông hỏi nó, nó bảo vết thương do đánh lộn với mấy đứa du côn. Ông bắt cậu Hai cởi áo ra thì thấy có vết răng cắn ở ngực. Quan tức giận cầm gươm chém chết cậu Hai.

Kể từ đó quan uống rươu say sưa và hành lạc mạnh mẽ hơn. Quan uống đủ thứ rươu rắn, rươu dê và các thuốc "nhất giao sinh ngũ tử" để bổ dương. Một ngày đêm phải có năm hay mười thiếu nữ phục vụ quan. Một hôm con dâu ông, vợ quan Phó tổng binh, về làm lễ trăm ngày cho mẹ chồng. Bà phải về một mình vì quan phó tổng binh phải đem binh đi dẹp loạn. Gặp lúc say rượu, ông ôm con dâu vào phòng và đóng cửa lại. Không hiểu vị phu nhân trẻ này có bí quyết gì màu nhiệm mà quan trấn thủ mê mệt, khiến quan trấn thủ giữ riết nàng lại, không cho về. Con trai ông, quan phó tổng binh đem binh đến đón vợ về thì bị quan trấn thủ đuổi đi và đóng cửa thành lại.


Quan trấn thủ có thói quen đi săn ở rừng Thái Nguyên, Tuyên Quang. Quan có khẩu súng điểu thương mua lại của người Tây dương bắn bách phát, bách trúng. Bữa đi săn nào quan cũng đại thắng, nếu không hạ được lợn rừng thì cũng hươu, nai. Quan ăn không hết thì cho bọn thủ hạ ăn nhậu say sưa thả dàn.

Mùa xuân là mùa săn bắn vì cây cối trong rừng nẩy lộc, loài vật kéo nhau ra ăn từng đàn. Hơn nữa mùa xuân có mưa lâm râm, đất mềm, ghi lại dấu chân thú vật, dễ theo dõi.
Ngày hôm đó đội thám báo cho quan biết khu rừng Sim có hươu nai về nhiều. Quan vội huy động binh mã lên đường. Sau một giờ tìm hươu nai, đoàn đi săn bỗng nghe hai phát súng nổ lớn và nhiều tiếng kêu la. Quan binh vội chạy đến thì thấy quan trợn mắt nằm trên vũng máu, tay buông khẩu súng . Người ta giải thích là quan bị súng của quan cướp cò. Cũng có người nói quan bị ông em là quan Ngũ quân Đô Thống giết vì mối thù trong gia đình. Cũng có kẻ nói quan Ngũ quân Đô Thống vâng lệnh Trần Cao hạ thủ anh vì anh có âm mưu phản loạn, chống triều đình. Lại cũng có tin chính Cậu cả bắn hạ cha ruột để trả thù cướp vợ!

THỤY MY* NĂM NGÀY HẤP HỐI CỦA STALIN

Thứ hai, ngày 04 tháng ba năm 2013

Năm ngày hấp hối của Stalin (1)




LND: Nhân kỷ niệm 60 năm ngày mất của Stalin (05/03/1953), xin giới thiệu với bạn đọc bài viết của Thierry Lentz, giám đốc Quỹ Napoléon trong tập sách “Những ngày cuối cùng của các nhà độc tài” do nhà sử học tên tuổi Diane Ducret và nhà báo Emmanuel Hecht của tuần báo L’Express chủ biên, xuất bản tại Paris tháng 10/2012. Bài viết mang tựa đề “Chiếc trường kỷ của quỷ sứ - Năm ngày hấp hối của Joseph Stalin”.

Độc đoán, tàn bạo và xảo quyệt, nhà độc tài của đất nước xô-viết chết đi trong cô độc, như ông ta đã sống. Đây là sự trả thù của số phận cho những tội ác khủng khiếp mà ông ta đã gây ra.

Stalin luôn đi ngủ rất muộn, và không có ai dám đánh thức ông dậy trước khi chính ông ta quyết định là ngủ như thế đã no nê. Từ các vệ sĩ, những người giúp việc cho đến quản gia, không ai có quyền bước vào phòng nếu không được gọi. Ông thường ngủ đến tận 10 hay 11 giờ sáng. Cũng như tất cả những gì liên quan đến ông ta, giấc ngủ của đồng chí Stalin là bất khả xâm phạm.

Ở tuổi 73, vojd (người hướng đạo, lãnh tụ) vẫn làm việc 15 đến 16 tiếng đồng hồ mỗi ngày. Là Tổng bí thư đảng và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, ông lãnh đạo Liên bang Xô viết với bàn tay sắt, trong không khí thanh trừng thường trực. Ông nắm mọi thứ, muốn biết tất cả, đọc và ghi chú một lượng báo cáo khổng lồ, dự vô số cuộc họp, thảo ra các thông cáo, chỉnh sửa các bài báo, viết lại các sách về lịch sử và tiếp tục soạn thảo các lý luận chính trị. Stalin chỉ đạo cách xử sự, những quyết định của các đại sứ cũng như lãnh đạo các đảng anh em, và những ai không chịu nghe lời “tư vấn” của ông thì hãy coi chừng!

Tổng bí thư Tiệp Khắc Rudolf Slansky và hai người phó của ông đã bị treo cổ trước đó vài tháng vì đã quên điều ấy. Một chiến dịch tương tự cũng diễn ra ở Ba Lan, nhắm vào các phụ tá người Do Thái của Tổng bí thư Boleslaw Bierut. Xa hơn về phương Nam, những tay bắn tỉa của Stalin chuẩn bị ám sát Thống chế Tito, nhà lãnh đạo Nam Tư dám vùng vẫy để thoát khỏi vòng ảnh hưởng của Matxcơva.

Giữa bấy nhiêu âu lo và “dự án”, trong cái đế quốc mênh mông và bấy nhiêu nhiệm vụ, đôi khi Stalin cũng dành chút thì giờ cho những vấn đề nhỏ nhặt. Có khi chính tay ông viết thư trả lời cho một nhà giáo bất mãn với cấp trên, hay một công nhân đang cần một lời khuyên.

Theo thói quen thời trẻ và chủ trương đạm bạc của chính quyền bôn-sê-vích, dù tự cho phép mình nhận vô số danh hiệu và huy chương, mang chức vụ Thống chế và sự tôn sùng lãnh tụ tột đỉnh, Stalin vẫn ăn mặc rất giản dị, với những bộ quần áo đơn sơ, chiếc nón kết cũ và đôi giày bốt đã sờn. Đôi khi ông mặc nguyên quần áo, ngủ quên suốt đêm trên chiếc ghế sofa. Tuy vậy ông không hề từ chối các nghi thức và đội ngũ cận vệ hùng hậu. Bởi vì đồng chí Stalin mắc bệnh hoang tưởng. Ông rất sợ hãi cái chết.

Ngay cả trong hành lang điện Kremli, ông ta chỉ di chuyển khi có cả một đội ngũ cận vệ đi phía trước và phía sau hộ vệ. Khi đi ra ngoài, ông sử dụng ba chiếc xe hơi, trong đó có hai chiếc nhằm đánh lạc hướng. Chỉ có những đầu bếp trung thành mới được nấu ăn cho ông, và các chai rượu đặt trên bàn phải còn nguyên nắp. Văn phòng của ông trong dinh thự chính phủ được coi như nhà ở thực thụ, một datcha (nhà nghỉ) rộng mênh mông và tiện nghi ở Kountsevo là những ngôi đền thánh được giám sát chặt chẽ, được bảo vệ bởi những cận vệ đã qua chọn lựa gắt gao, và chỉ nhận lệnh trực tiếp từ Stalin.

Nếu vào cuối ngày Stalin muốn giải trí một chút ở nhà hát Bolchoi hay trong phòng chiếu phim của điện Kremli, thì luôn có những người tâm đầu ý hợp trong chính phủ đi kèm. Bây giờ là Beria, Malenkov, Khrouchtchev và Boulganine, sau khi đã xa rời Molotov, Mikoian hay Kaganovitch. Nhóm này tạo thành một thứ “Bộ Chính trị cơ động”, sau khi những phiên họp toàn thể của Bộ Chính trị - thường gồm khoảng hai chục thành viên - ngày càng thưa thớt dần.



Trong một "datcha" trước đây của Stalin

Những buổi tối như thế nhất thiết phải kết thúc tại Kountsevo, cách điện Kremli nửa tiếng đồng hồ. Từ đầu Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, lãnh tụ hiếm khi ăn tối và ngủ ở nơi nào khác, trừ những lúc đi nghỉ ở Sotchi. Về khuya, khi các vị khách đã quay về Matx cơva, Stalin nghỉ ngơi đôi khi ở một trong những căn phòng của mình, đôi khi trên chiếc ghế dài ở một trong những phòng khách.

Tối thứ Bảy 28/02/1953, hoạt cảnh bất di bất dịch ấy lại tái diễn. Suốt cả ngày tại datcha, Stalin đọc các báo cáo, nói chuyện với các cận vệ, đi dạo trong khu vườn tuyết phủ rồi thư giãn bằng cách tắm hơi.

Nổi tiếng là người lực lưỡng và dẻo dai, thực ra các mạch máu ông đã lão hóa và bắt đầu cảm nhận được hậu quả. Tất cả những người thân cận ghi nhận là ông bỗng già hẳn đi từ khi chiến tranh chấm dứt. Tuy nhiên ít ai biết được là Stalin đôi khi ngất xỉu vì lao lực, ông bị thấp khớp và trầm trọng hơn là một chứng bệnh ở não đã ảnh hưởng đến tính tình của ông (vốn ngày càng tồi tệ hơn), gây ra những giây phút lú lẫn. Việc chẩn đoán này và lời khuyên của các bác sĩ là nên nghỉ ngơi, đã gây một tác động bất ngờ nơi vị lãnh tụ già nua: các y bác sĩ giờ đây bị nằm trong tầm ngắm của Stalin.

Vào cuối buổi chiều, Stalin đến điện Kremli và gặp bốn đồng chí quen thuộc, trong đó có thêm Thống chế Vorochilov - một trong số hiếm hoi những lãnh đạo quân đội còn được ông ưu ái, chứ không dám nói là cảm tình. Một cuộc họp khoảng hai mươi người chấm dứt hoạt động chuyên môn trong ngày. Sau đó sáu lãnh đạo cao cấp xem phim: Stalin tự cho là một chuyên gia về nghệ thuật thứ bảy, và ưa thích một bộ phim mà mọi người buộc phải khen ngợi.

Vào khoảng 23 giờ, Vorochilov trở về nhà trong khi những người khác đi đến Kountsevo, nơi một bữa ăn tối tuyệt vời với rượu vang ngon từ Gruzia đang chờ đợi họ.



Danh sách 346 "kẻ thù của nhân dân" bị Stalin ký lệnh hành quyết năm 1940.
Như thường lệ, đó là một buổi tối nghiêm túc và vui nhộn. Vị “Sa hoàng đỏ” muốn có không khí vui tươi trong nhà, cho dù lúc đó có những ưu tư gì đi nữa. Người ta đề cập một ít về kinh tế, và nhiều hơn một tí về chiến tranh Triều Tiên. Nhưng chủ đề chính, giống như nhiều tuần qua, là một “âm mưu phản loạn” mới mà thủ lãnh không ngần ngại đấu tranh một cách cố chấp, hiệu quả như thói quen xưa nay. Một vụ thanh trừng mới đã được lên kế hoạch.

Lần này, “vụ mưu phản” được cho là một băng nhóm bác sĩ cầm đầu – nhóm “phản động” này là cánh tay vũ trang của “bọn vận động hậu trường quốc tế người Do Thái” được Hoa Kỳ giật dây. Và vì Stalin chưa bao giờ hà tiện về danh sách “bọn nổi dậy”, “kẻ phản bội” và những “con chó dại” khác mà việc trừ khử theo ông ta là cần thiết, số phận tệ hại nhất đang chờ đợi những nghi can chủ chốt. Tuy họ đều xuất thân từ những gia đình xô-viết gương mẫu, nhưng có thể những “kẻ giật dây” người Mỹ gốc Do Thái đã thuyết phục được họ trở mặt, đầu độc những nhân vật ưu tú của cuộc cách mạng – mà theo điệp khúc của chính quyền thì đang trên đường chiến thắng.

Sau những vụ bắt giữ và hỏi cung đầu tiên, người ta chuẩn bị một phiên tòa công khai mới mà ai cũng biết sẽ diễn ra như thế nào. Các “thủ phạm” sẽ thú tội trước mặt mọi người, tiếp theo là màn luận tội mà các bị can đều xin được tha thứ. Và để trả giá cho tội lỗi: một viên đạn bắn vào ót đối với kẻ cầm đầu, lao động khổ sai cho những tên hạng hai, vợ con, anh em ruột, anh chị em họ và bạn bè của họ. Thống chế kiêm Tổng tư lệnh quân đội Boulganine phải chuẩn bị đưa đi đày hàng loạt người…và có thể đưa một phần lớn người Do Thái ở Liên Xô đi Kazachzstan, Uzbekistan hay đối với những người “nguy hiểm” nhất, tống đi Xibêri.

Người ta nêu ra kế hoạch này vào đêm 28/02 rạng 01/03/1953 hôm ấy, với ly rượu trên tay. Đối với bốn khách mời của Stalin, chủ đề khá là tế nhị. Họ phản đối chương trình trên không phải vì nhân đạo, mà vì lo sợ chính mình sẽ bị thất sủng. Thường là đồng lõa, họ thừa biết động cơ những vụ thanh trừng của Stalin: luôn nhằm trừ khử - theo nghĩa đen - những người bị lãnh tụ cho là kẻ cạnh tranh với mình.


Molotov và Stalin

Beria và Khrouchthchev rất có thể sẽ trở thành các nạn nhân liên đới của vụ “áo choàng trắng”, theo chân Molotov - vợ ông này đã bị tra tấn trong một căn hầm ở Loubianka. Đương nhiên là đêm đó cũng như những đêm khác, họ không dám nói trái ý ông chủ. Thời kỳ các hội nghị Bộ Chính trị trong đó người ta có thể nói tương đối khác ý Stalin, đã qua lâu rồi. Từ nay, thậm chí họ còn không dám phiêu lưu ngay cả trong những cuộc chè chén hàng ngày ở Kountsevo - mà các khách mời biết rất rõ là lãnh tụ thường thay rượu vodka trong ly mình bằng nước lã, để có thể đánh giá ngôn từ của các người khách.

Vào khoảng 4 giờ sáng, Stalin tiễn chân các khách mời đến tận những chiếc Limousine của họ. Ông ta nhìn họ khuất dần, rồi trở về căn phòng ấm cúng, cho các cận vệ đi nghỉ, rồi thả người trên chiếc ghế sofa trong phòng ăn. Người ta đóng cửa lại. Ánh sáng trong ngôi nhà nghỉ lần lượt được tắt đi.

Mặt trời đã lên cao vào sáng ngày 01/03, nhưng datcha vẫn chìm trong im lặng. Các cận vệ chờ đợi được gọi vào. Thời gian trôi qua, nhưng không ai lo lắng cả. Lãnh tụ có thể đã thức dậy làm việc trong đêm, hoặc đang tập trung vào mớ hồ sơ. Ông có đầy đủ đồ ăn thức uống trong phòng. Có thể là ông không muốn ai làm phiền.

Tuy vậy đến chiều, tâm trạng lo ngại mơ hồ có thể cảm thấy nơi những cận vệ và phía người quản gia. Bất chợt vào khoảng 18 giờ, các nhân viên nhận thấy một chiếc đèn ngủ trong phòng ăn vừa được bật sáng. Họ sẵn sàng chờ đợi nhận lệnh. Nhưng mệnh lệnh vẫn chưa hề được ban ra.

Khoảng 22 giờ, một chiếc xe hơi của điện Kremli mang đến các thư từ và hồ sơ. Trưởng đội cận vệ trực hôm ấy, Lozgatchev, vẫn còn do dự nhưng rốt cuộc quyết định bước vào gian phòng ăn nhỏ. Khi cánh cửa được dè dặt mở ra (lãnh tụ rất ghét bị trông thấy đang mặc đồ lót), anh hiểu vì sao đã không được triệu đến trong ngày: Stalin nằm dài trên thảm trải sàn, mặc chiếc áo lót mình, còn chiếc quần pyjama thì ướt đẫm nước tiểu. Lozgatchev vội chạy đến và nhận ra Stalin vẫn còn sống, nhưng không nói được nữa. Đại tá Starotsine và quản gia Boutouzova được vời đến. Người ta đưa bệnh nhân lên chiếc ghế sofa, rồi chuyển sang một chiếc ghế dài khác trong phòng ăn lớn, thoáng khí hơn.

Chúng ta đang ở Liên Xô vào thời kỳ Stalin. Ngay cả trong thời điểm khẩn cấp như vậy, không có vấn đề đưa ra ý kiến cá nhân, ngay cả để làm những gì mà tất cả những người bình thường phải làm trong trường hợp tương tự.

Đó là lý do vì sao thay vì gọi một bác sĩ – một việc có thể gây hậu quả xấu trong thời điểm bị cho là có vụ âm mưu phản loạn “áo choàng trắng” – trước tiên Lozgatchev gọi điện thoại cho thủ trưởng trực tiếp là người đứng đầu ngành an ninh quốc gia (MGB), Ignatiev. Ông này cũng tỏ ra thận trọng: trong khi Starotchine gọi điện cho Beria và Malenkov, bản thân Ignatiev muốn núp bóng Krouchtchev. Đến lượt Malenkov và Krouchtchev liên lạc với Boulganine. Cả ba muốn đá trái banh qua Beria, nhưng không gọi được cho ông này – có thể ông ta đang ở bên một trong những cô bồ nhí. Cuối cùng, đến một tiếng đồng hồ sau đó Beria mới ra lệnh: đừng làm gì cả trước khi ông ta đến Kountsevo.

Năm ngày hấp hối của Stalin (2)



Hoa được đặt trước căn nhà nơi Stalin sinh ra ở Gori ngày 05/03/2013.
Đến ba giờ sáng, tức hơn 20 tiếng đồng hồ sau khi Stalin bị tai biến, Beria và Malenkov mới đến nơi. Ông ta có vẻ như đang ngủ, những tiếng thở dốc của ông có thể bị lầm tưởng là tiếng ngáy. Đến nỗi Beria ngỡ (hay làm ra vẻ như thế) là người ta đã quấy nhiễu ông ta vô ích. Beria quát mắng các cận vệ đang nài nỉ gọi bác sĩ…và bỏ đi, với Malenkov vạm vỡ luôn theo chân.

Có thể Beria đã hiểu rằng chúa tể của Liên bang Xô Viết sẽ không qua khỏi nếu không được chạy chữa. Nhưng nếu không cố gắng cứu chữa cho Stalin thì vẫn hơn. Quyền lực đang bỏ trống, và tốt nhất nên nắm lấy.

Trong những ngày tiếp theo, Beria và ba ủy viên “Bộ Chính trị cơ động” tranh luận gay gắt để phân chia quyền hành, củng cố vị trí mình và giữ cho các đối thủ tiềm năng phải đứng ngoài cuộc. Do có bốn con cá sấu trong cùng một đầm nước thì cũng đã quá đủ, các cận vệ và người hầu cận ở Kountsevo nhận lệnh không được tiết lộ những gì đã xảy ra…và để cho đồng chí Stalin yên ngủ.

Thế nên Lozgatchev và các vệ sĩ còn lại phải đơn độc bên cạnh ông chủ đang hấp hối. Thêm một ngày nữa trôi qua, mà không có bác sĩ nào được mời đến. Cuối cùng, các nhân viên của MGB và Maria Boutouzova, càng lúc càng lo lắng, cố gắng liên lạc lần nữa với Malenkov. Ông này xiêu lòng, bèn gọi cho Beria và Khrouchtchev, hai người này đùn đẩy sang Bộ trưởng Y tế Tratiakov. Rốt cuộc ông Bộ trưởng cho gởi đến một toán y bác sĩ do giáo sư Loukomski dẫn đầu. Họ đến nơi vào lúc 7 giờ sáng ngày 03/03, tức 48 giờ sau khi Stalin gặp nạn.

Trước sự hiện diện của Bộ tứ, và cả Molotov, Mikoian, Kaganovitch, Vorochilov rồi sau đó là Svetlana cùng với Vassili – con gái và con trai của Stalin – các bác sĩ, run rẩy vì sợ hãi, bắt tay vào công việc. Họ cởi quần áo bệnh nhân, gỡ bộ răng giả ra và chẩn đoán. Nhịp tim và huyết áp thấp, nửa người bên phải bị liệt, nửa người trái bị những cơn co giật.

Từ lúc đó, tiên lượng tỏ ra bi quan: Stalin bị xuất huyết não trái, nặng cho đến nỗi có thể chắc chắn rằng ông ta không bao giờ còn làm việc được nữa. Các bác sĩ kê toa sulphate magnésium (để rửa) và đặt những con đỉa sau tai trái. Rồi đáng sợ thay, đội ngũ hùng hậu ra đi, để lại một bác sĩ thần kinh, một bác sĩ đa khoa, một nữ y tá. Người bệnh được chỉ định là phải…nghỉ ngơi và ăn kiêng.

Vào cuối ngày, các thành viên Bộ Chính trị trở về điện Kremli. Beria cảm thấy đang mọc cánh và bắt đầu với tay về phía vương trượng của “Sa hoàng đỏ”. Trong buổi chiều, Ban chấp hành Trung ương Đảng, Hội đồng Bộ trưởng và Xô-viết Tối cao họp lại để giải quyết vấn đề người kế vị. Như vậy là có ba trăm người được thông báo về tình hình thực tế. Vị lãnh tụ già nua được giải phóng khỏi nhiệm vụ Tổng bí thư và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Người ta không dám gạch tên Stalin khỏi danh sách các ủy viên Bộ Chính trị.

Việc điều hành tạm thời được giao cho Malenkov, với Molotov (trở lại một cách huy hoàng), Boulganine và Kaganovitch làm phó. Vị trí người đứng đầu an ninh nội chính của Beria càng vững chắc hơn. Cùng với Malenkov và Khrouchtchev, ông ta còn được giao trách nhiệm « sắp xếp » các giấy tờ của Stalin.

Ba người này lập tức bắt tay vào công việc, mở các rương giấy tờ bí mật nhất và hủy đi tất cả những gì tố cáo họ có tham gia các vụ thanh trừng trong quá khứ và hiện tại. Việc « phi Stalin hóa » như vậy đã bắt đầu ngay từ khi Stalin vẫn còn thở.


Nếu kể từ sáng 04/03 các đài phát thanh đã có thể công bố « căn bệnh » của Stalin, thì mức độ báo động đã được tăng lên : từ sáng sớm 05/03 radio loan báo mạng sống của Stalin đang « lâm nguy».

Tại Kountsevo, Stalin dường như vẫn luôn ngủ trên chiếc ghế sofa, đôi khi có mở mắt, phát ra được đôi ba tiếng động nhưng không thể nào trả lời những câu nói được người ta thầm thì bên tai.

Liệu có lúc nào đó ông ta cảm nhận được những gì đang diễn ra, giữa hai cuộc họp ở Kremli ? Sau này con gái ông cho biết : « Có lúc ông bỗng mở mắt ra, nhìn bao quát những ai đang đứng xung quanh. Đó là một cái nhìn khủng khiếp, hoảng loạn và giận dữ, chứa đầy nỗi kinh hoàng trước tử thần và khuôn mặt của các thầy thuốc không quen biết bao quanh. Ánh mắt ấy bao trùm lấy chúng tôi trong một chớp mắt. Rồi ông giơ bàn tay trái lên – có thể là ông chỉ cho chúng tôi điều gì đó trên cao, hoặc là ông đe dọa tất cả mọi người. Hành động này khó thể hiểu được ».

Lời kể của các nhân chứng cũng làm cho Vassili Stalin lo ngại. Là tướng không quân và có tiếng là nghiện rượu, anh ta hoàn toàn mất tự chủ và lên án Bộ tứ đã « sát hại » cha mình. Cần phải nhờ đến sự quyết đoán của Vorochilov và những cử chỉ thân thiện của Krouchtchev để trấn an được anh ta.

Từ sự tuyệt vọng của người con trai không được sủng ái cho đến lời tuyên bố sau đó của một cận vệ tuy - không thấy gì nhưng khoe là biết tất cả, và đơn giản là cái chết của Stalin làm thỏa mãn được nhiều người, nảy sinh giả thiết nhà độc tài bị ám sát. Điều này khó thể chứng minh.

Đương nhiên là người ta lên án Beria, người đã được lãnh tụ giới thiệu với Roosevelt và nói rằng : « Đây là Himmler của chúng tôi ». Nhưng thủ lãnh cơ quan an ninh nội chính, bị Stalin cho giám sát từ nhiều năm, khó thể có khả năng xúi giục một vụ khủng bố, nhất là hoàn toàn không có ảnh hưởng gì lên MGB và các gia nhân ở Kountsevo. Ngay cả nếu ông ta reo lên trước các nhân chứng là : « Tôi đã thắng được ông ấy ! », vẫn không có gì làm căn cứ cho giả thiết nào khác, ngoài trách nhiệm trong việc đã để mặc cho sự việc diễn ra một cách tự nhiên, khi trì hoãn việc cứu cấp bệnh nhân.

Giải phẫu tử thi cho thấy cơn xuất huyết não ồ ạt đã trầm trọng thêm do thể trạng của Stalin : ông ta bị chứng xơ cứng tiểu động mạch não (đã được giữ bí mật trong nhiều năm). Với trình độ khoa học của năm 1953, ông khó thể qua khỏi một cuộc giải phẫu. Trong mọi trường hợp, sự nghiệp chính trị của Stalin như thế đã kết thúc.


Diễu hành nhân kỷ niệm 60 năm ngày mất của Stalin, 05/03/2013.

Vào buổi sáng 05/03/1953, Stalin dần bước vào cõi u minh : buồn nôn, khó thở, ói ra máu, trụy tim mạch liên tục, biến chứng ở tim và ngộp thở. Chính là trước một cử tọa đông đảo – gia đình, các nhà quý tộc đỏ, các nhân viên MGB, gia nhân và y bác sĩ, mà người « cha già dân tộc » rốt cuộc đã chịu trút hơi thở cuối cùng.

Lúc đó là 9 giờ 50 phút. Các đồng chí và các con ông hôn lên khuôn mặt đã tím ngắt. Beria quỳ xuống để hôn lên tay Stalin.

Thế giới biết tin về cái chết của Stalin vào sáng hôm sau. Làn sóng xúc cảm, những tiếng kêu khóc vật vã, những lời tán tụng mà cái tin ấy gây nên, ngày nay khó thể hiểu nổi.

Tại Pháp, Hạ viện dành một phút mặc niệm. Jacques Duclos, Quyền Tổng bí thư đảng Cộng sản Pháp kêu gọi các nhà máy ngưng hoạt động, tập hợp tại Vélodrome d’hiver nhằm « để tang » ! Tờ Le Monde bình luận trang trọng về « Cái chết của Thống chế Stalin », trong khi tựa chính của tờ báo cộng sản L’Humanité dài đến ba dòng nói về « CÁI TANG CỦA TẤT CẢ CÁC DÂN TỘC khi tưởng niệm đã biểu lộ tình cảm sâu sắc ĐỐI VỚI STALIN VĨ ĐẠI ». Vài hôm sau, trang nhất của tạp chí Văn chương Pháp đăng chân dung của người quá cố do Picasso vẽ, tạo ra một cuộc tranh cãi dữ dội và giám đốc tạp chí là Louis Aragon phải xấu hổ tự kiểm điểm.

Tại Liên Xô, nếu chỉ nói là sững sờ và đau buồn bao phủ lên 200 triệu con người từ nay bị mất đi lãnh tụ, thì hãy còn quá nhẹ. Sự xúc động còn có thể cảm thấy ở các gulắc, không chỉ vì cái tin này gợi lên hy vọng nơi những người tù. Hàng chục ngàn người khóc sướt mướt diễu qua trước cái xác ướp đặt tại đại sảnh của trụ sở các nghiệp đoàn ở Matxcơva, nơi từng diễn ra các phiên xử quan trọng.

Ngày 09/03, sau vụ chen lấn hỗn loạn trên đường phố gây ra hàng trăm nạn nhân, xác của Joseph Stalin được trọng thể đưa đến nơi an nghỉ cuối cùng : lăng mộ tại Quảng trường đỏ. Ông ta được đặt cạnh Lênin – từ hơn ba chục năm qua Stalin vẫn được xem là « người nối nghiệp thiên tài của Lênin. Hệ thống tuyên truyền xô-viết loan báo hôm ấy có 5 triệu người khóc lóc tiễn đưa Stalin trên các đường phố. Con số được thổi phồng này tuy vậy không làm giảm đi sự long trọng của đám đông tham dự tang lễ.

Vào tháng 3/1953, hiếm ai biết được hay thậm chí nghi ngờ về mặt trái các tác phẩm của Stalin. Ông ta đã để lại phía sau nhiều máu và nước mắt nhất trong lịch sử. Không kể Đệ nhị Thế chiến, Stalin đã làm cho ít nhất 20 triệu người chết do bị lưu đày, thanh trừng, ám sát cá nhân hay tàn sát tập thể, nạn đói. Những người chân thành khóc thương « người hướng đạo », « cha già dân tộc », « người bạn lớn nhất của trẻ em », « người mạnh nhất và sáng suốt nhất » chỉ thấy nơi ông ta người lãnh đạo một cuộc cách mạng đã đưa nước Nga ra khỏi thời Trung cổ, và thắng được phát-xít với một cái giá bằng máu chóng mặt.

Chiếc khăn voan che đậy những tội ác của « con quỷ đỏ » chỉ được vén lên từ từ. Nhưng cho dù nhiều tù nhân được trả tự do (trong đó có các chiếc « áo choàng trắng »), việc trừ khử Beria một cách thô bạo (tháng 12/1953), báo cáo của Khrouchtchev (tháng 2/1956), sự trình diễn ngắn ngủi của một chủ nghĩa bôn-sê-vich cởi mở và việc đưa xác ướp ra khỏi lăng (ngày 31/10/1961), Liên Xô và nước Nga vẫn chưa chấm dứt được với Joseph Stalin.
http://thuymyrfi.blogspot.ca/2013/03/nam-ngay-hap-hoi-cua-stalin-1.html
Older Posts

No comments: