Wednesday, October 19, 2016

CHIẾN TRANH VIỆT NAM

Friday, April 26, 2013

NGUYỄN HƯNG QUỐC* THÁNG 4-1975

 

 1975: Việt Nam có thắng Mỹ?



CỠ CHỮ
Trong bài “Thắng và bại”, từ kinh nghiệm chiến tranh ở Iraq, tôi nêu lên nhận định: Thắng và bại là một vấ

n đề phức tạp, gắn liền với một chu cảnh (context) nhất định. Có khi người ta thắng một trận đánh nhưng lại thua một cuộc chiến tranh; có khi thắng một cuộc chiến tranh nhỏ nhưng lại thua một cuộc chiến tranh lớn. Hoặc ngược lại. Cũng có khi người ta thua hẳn một cuộc chiến tranh nhưng lại thắng trong hòa bình, sau đó.

Từ chuyện thắng và bại, nhân tháng Tư, thử nhìn lại chiến tranh Việt Nam giai đoạn 1954-75.

Liên quan đến cuộc chiến tranh ấy, cho đến nay, hầu như mọi người đều khẳng định: Việt Nam (hiểu theo nghĩa là miền Bắc Việt Nam) đã thắng Mỹ. Bộ máy tuyên truyền Việt Nam lúc nào cũng ra rả điều đó. Ngay người Mỹ cũng tự nhận là họ thua: Đó là cuộc chiến tranh đầu tiên mà họ thua trận! Điều đó đã trở thành một chấn thương dữ dội đối với một siêu cường quốc số một thế giới như Mỹ khiến nhiều người trong họ không ngừng trăn trở. Chiến tranh Việt Nam, do đó, với họ, trở thành một cuộc-chiến-chưa-kết-thúc (unfinished war) hoặc một chiến tranh vô tận (endless war) theo cách gọi của các học giả.

Dĩ nhiên, nhiều người nghĩ khác. Họ không chấp nhận họ thua trận với một trong ba lý do chính.

Một, một số người cho, về phương diện quân sự, quân đội Mỹ hầu như luôn luôn chiến thắng, hơn nữa, tính trên tổng số thương vong, họ bị thiệt hại ít hơn hẳn đối phương: trong khi Mỹ chỉ có 50.000 người chết, phía miền Bắc, có khoảng từ một triệu đến một triệu rưỡi người bị giết (từ phía người Việt Nam, chúng ta biết rõ điều này: Trong đó có rất nhiều dân sự ở cả hai miền!) Những người này cho họ chỉ thua trên mặt trận chính trị; và trong chính trị, họ không thua Bắc Việt, họ chỉ thua… những màn ảnh tivi hằng ngày chiếu những cảnh chết chóc ghê rợn ở Việt Nam trước mắt hàng trăm triệu người Mỹ, từ đó, làm dấy lên phong trào phản chiến ở khắp nơi. Nói cách khác, Mỹ không thua Bắc Việt: Họ chỉ thua chính họ, nghĩa là họ không thể tiếp tục kéo dài chiến tranh trước sự thiếu kiên nhẫn của quần chúng, trước quyền tự do ngôn luận và phát biểu của quần chúng, trước nhu cầu phát triển kinh tế trong nước.

Hai, một số người khác lại lý luận: Mặc dù Mỹ thua trận năm 1975, nhưng nhìn toàn cục, họ lại là người chiến thắng. Một người Mỹ gốc Việt, Viet D. Dinh, giáo sư Luật tại Đại học Georgetown University, trên tạp chí Policy Review số tháng 12/2000 và 1/2001, quan niệm như vậy, trong một bài viết có nhan đề “How We Won in Vietnam” (tr. 51-61): “Chúng ta thắng như thế nào tại Việt Nam.” Ông lý luận: Mỹ và lực lượng đồng minh có thể thua trận tại Việt Nam nhưng họ lại thắng trên một mặt trận khác lớn hơn và cũng quan trọng hơn: Cuộc chiến tranh lạnh chống lại chủ nghĩa Cộng sản trên toàn thế giới (tr. 53). Hơn nữa, cùng với phong trào đổi mới tại Việt Nam cũng như việc Việt Nam tha thiết muốn bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ, Mỹ cũng đã thắng trên mặt trận lý tưởng và thiết chế: Cuối cùng thì Việt Nam cũng đã theo Mỹ ít nhất một nửa: tự do hóa thị trường (Còn nửa kia, dân chủ hóa thì chưa!) (tr. 61).

Một số người khác lại cho, sau khi rút quân khỏi Việt Nam, nhìn lại, người Mỹ thấy Việt Nam đang lủi thủi chạy theo sau mình trên con đường tư bản hóa. Họ khẳng định:  “Chúng ta đã chiến thắng cuộc chiến tại Việt Nam bằng cách rút quân ra khỏi nơi đó.”


Ba, một số người khẳng định dứt khoát: Mỹ không hề thua Bắc Việt. Chiến thắng của miền Bắc vào tháng Tư 1975 là chiến thắng đối với miền Nam chứ không phải đối với Mỹ. Lý do đơn giản: Lúc ấy, hầu hết lính Mỹ đã rút khỏi Việt Nam. Trước, ở đỉnh cao của cuộc chiến, Mỹ có khoảng nửa triệu lính ở Việt Nam. Sau Tết Mậu Thân, thực hiện chính sách Việt Nam hóa chiến tranh, lính Mỹ dần dần rút khỏi Việt Nam: Tháng 8/1969, rút 25.000 lính; cuối năm, rút thêm 45.000 người nữa. Đến giữa năm 1972, lính Mỹ ở Việt Nam chỉ còn 27.000. Tháng 3/1973, 2.500 người lính cuối cùng rời khỏi Việt Nam. Từ đó, ở Việt Nam, Mỹ chỉ còn khoảng 800 lính trong lực lượng giám sát đình chiến và khoảng gần 200 lính Thủy quân lục chiến bảo vệ Tòa Đại sứ ở Sài Gòn. Trong trận chiến cuối cùng vào đầu năm 1975, lúc Bắc Việt tiến vào Sài Gòn, không có cuộc giao tranh nào giữa Việt Nam và Mỹ cả. Chính vì vậy, một số người Mỹ đặt câu hỏi: Tại sao có thể nói là chúng ta thua trận khi chúng ta đã thực sự chấm dứt cuộc chiến đấu cả hơn hai năm trước đó?

Có thể tóm tắt lập luận thứ ba ở trên như sau: Trong chiến tranh Việt Nam, Mỹ chỉ bỏ cuộc chứ không thua cuộc.

Một số người phản bác lập luận ấy. Họ cho: bỏ cuộc tức là không hoàn thành được mục tiêu mình đặt ra lúc khai chiến; không hoàn thành mục tiêu ấy cũng có nghĩa là thua cuộc. Không có gì khác nhau cả.

Nhưng ở đây lại nảy ra một vấn đề: Mục tiêu Mỹ đặt ra lúc tham gia vào chiến tranh Việt Nam là gì?

Có hai mục tiêu chính:

Một, giúp đỡ chính quyền Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam trong cuộc đối đầu với chế độ Cộng sản ở miền Bắc.

Hai, ngăn chận làn sóng Cộng sản từ Trung Quốc đổ xuống Việt Nam, và từ đó, toàn bộ vùng Đông Nam Á.

Tập trung vào mục tiêu thứ nhất, nhiều người cho Mỹ thua trận ở Việt Nam. Đó là điều không thể chối cãi được: cuối cùng, vào ngày 30/4/1975, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã sụp đổ.

Tuy nhiên, xin lưu ý: trong hai mục tiêu trên, mục tiêu thứ hai mới là quan trọng nhất. Khi lính Mỹ mới được điều sang Việt Nam, họ luôn luôn được nhắc nhở đến mục tiêu thứ hai: “Nếu chúng ta không đến đây để ngăn chận sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản, chúng ta có thể sẽ phải chiến đấu chống lại nó ở San Francisco sau này.” Mục tiêu đầu, nhằm xây dựng một chế độ dân chủ không Cộng sản ở miền Nam, chỉ thỉnh thoảng mới được nhắc đến.

Có thể nói mục tiêu thứ nhất được đặt ra để cụ thể hóa mục tiêu thứ hai. Nói cách khác, chính vì muốn ngăn chận sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản, Mỹ mới nhảy vào giúp chính quyền miền Nam. Mục tiêu thứ nhất, như vậy, chỉ là hệ luận của mục tiêu thứ hai. Nó chỉ là mục tiêu phụ.

Liên quan đến mục tiêu thứ hai, nên nhớ đến thuyết Domino vốn xuất hiện từ năm 1951, thời kỳ đầu của chiến tranh lạnh, và được xem là nền tảng lý thuyết cho các chính sách đối ngoại của Mỹ kể từ đầu thập niên 1960 trở đi. Dựa trên thuyết Domino, chính phủ Mỹ tin là: Nếu Đông Dương rơi vào tay Cộng sản, Miến Điện và Thái Lan sẽ bị Cộng sản chiếm gần như ngay tức khắc. Sau đó, sẽ rất khó khăn, nếu không muốn nói là bất khả, để cho Indonesia, Ấn Độ và các nước khác tiếp tục nằm ngoài quỹ đạo thống trị của Cộng sản Xô Viết.” Nghĩ như thế, chính phủ Mỹ đã xem Miền Nam như một tiền đồn để ngăn chận hiểm họa cộng sản.

Nếu chỉ nhìn vào mục tiêu thứ hai này - mục tiêu ngăn chận làn sóng Cộng sản ở Đông Nam Á - không thể nói là chính phủ Mỹ thất bại. Ngược lại. Năm 1972, sau chuyến viếng thăm Trung Quốc của Tổng thống Nixon, Mỹ đã thành công ở ba điểm: Một, bước đầu bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước để, tuy chưa hẳn là bạn, họ cũng không còn thù nghịch với nhau như trước nữa; hai, khoét sâu mối mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Liên Xô để hai nước đứng đầu khối Cộng sản này không còn thống nhất với nhau; và ba, làm giảm bớt sự ủng hộ và trợ giúp của Trung Quốc đối với Bắc Việt.

Với ba sự thành công ấy, Mỹ an tâm được ba điều: Một, khi Trung Quốc và Liên Xô đã bị phân hóa, khối Cộng sản không còn mạnh và do đó, cũng không còn quá nguy hiểm như trước. Hai, khi khối Cộng sản không còn mạnh, đặc biệt khi Trung Quốc đang rất cần duy trì quan hệ hòa bình với Mỹ để phát triển kinh tế và tranh giành ảnh hưởng với Liên Xô, Trung Quốc sẽ không còn tích cực “xuất cảng cách mạng” ở các nước khác trong vùng Đông Nam Á. Và ba, như là hệ quả của hai điều trên, Mỹ tin chắc: ngay cả khi miền Bắc chiếm được miền Nam và ngay cả khi cả Campuchia và Lào đều rơi vào tay Cộng sản thì chủ nghĩa Cộng sản cũng không thể phát triển sang các nước khác như điều họ từng lo sợ trước đó.

Với ba sự an tâm trên, Mỹ quyết định rút quân ra khỏi Việt Nam. Với họ, mục tiêu thứ hai, tức mục tiêu quan trọng nhất, đã hoàn tất thì mục tiêu thứ nhất trở thành vô nghĩa. Miền Nam chỉ còn là một nước cờ chứ không phải là một ván cờ. Họ thua một nước cờ nhưng lại thắng cả một ván cờ.

Thắng ở ba điểm:

Một, sau năm 1975, chủ nghĩa Cộng sản không hề phát triển ra khỏi biên giới Lào và Campuchia. Các nước láng giềng của Đông Dương vẫn hoàn toàn bình an trước hiểm họa Cộng sản.

Hai, sau khi chiếm miền Nam, chủ nghĩa Cộng sản ở Á châu không những không mạnh hơn, mà ngược lại, còn yếu hơn hẳn. Yếu ở rất nhiều phương diện. Về kinh tế, họ hoàn toàn kiệt quệ. Về quân sự, họ liên tục đánh nhau. Về đối nội, họ hoàn toàn đánh mất niềm tin của dân chúng, từ đó, dẫn đến phong trào vượt biên và vượt biển rầm rộ làm chấn động cả thế giới. Về đối ngoại, họ hoàn toàn bị cô lập trước thế giới với những hình ảnh rất xấu: Ở Khmer Đỏ là hình ảnh của sự diệt chủng; ở Việt Nam là hình ảnh của sự độc tài và tàn bạo; ở Trung Quốc, sự chuyên chế và lạc hậu. Cuối cùng, về ý thức hệ, ở khắp nơi, từ trí thức đến dân chúng, người ta bắt đầu hoang mang hoài nghi những giá trị và những tín lý của chủ nghĩa xã hội: Tầng lớp trí thức khuynh tả Tây phương, trước, một mực khăng khăng bênh vực chủ nghĩa xã hội; sau, bắt đầu lên tiếng phê phán sự độc tài và tàn bạo của nó. Một số trí thức hàng đầu, như Jean-Paul Sartre, trở thành những người nhiệt tình giúp đỡ những người Việt Nam vượt biên.

Ba, vào năm 1990, với sự sụp đổ của Liên Xô, của bức tường Berlin và của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, Mỹ toàn thắng trong cuộc chiến chống lại chủ nghĩa Cộng sản. Ván cờ kéo dài nửa thế kỷ giữa chủ nghĩa Cộng sản và chủ nghĩa tư bản đã kết thúc.

Nhìn vào ba sự thành công ấy, khó có thể nói Mỹ đã thua trận ở Việt Nam. Lại càng không thể nói là miền Bắc Việt Nam đã thắng Mỹ.

Cũng cần lưu ý đến những sự thay đổi trong bản chất của chiến tranh. Từ giữa thế kỷ 20 trở về trước, hầu hết các chiến lược gia, khi nghĩ về chiến tranh, đều cho cái đích cuối cùng là phải chiến thắng một cách tuyệt đối. Tiêu biểu nhất cho kiểu chiến thắng tuyệt đối ấy là cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai. Ở cả hai lần, những kẻ thù của phe Đồng minh đều tuyên bố đầu hàng. Ranh giới giữa thắng và bại rất rõ. Rõ nhất là ở Nhật Bản. Sức tàn phá kinh hồn của hai trái bom nguyên tử do Mỹ thả xuống Hiroshima và Nagasaki đã chứng tỏ sức mạnh vô địch không thể chối cãi được của người chiến thắng.

Tuy nhiên, sau hai quả bom ấy, bản chất chiến tranh và cùng với nó, ý nghĩa của chiến thắng, hoàn toàn thay đổi. Trong chiến tranh lạnh, cả Mỹ lẫn Liên Xô đều có bom nguyên tử. Lúc nào cũng muốn tiêu diệt nhau nhưng cả hai đều biết rất rõ cái điều Albert Einstein từng cảnh cáo: “Tôi không biết trong chiến tranh thế giới lần thứ ba người ta đánh bằng gì, nhưng trong chiến tranh thế giới lần thư tư, người ta sẽ chỉ có thể đánh nhau bằng gậy và đá.” Thành ra, người ta vừa chạy đua chế tạo thật nhiều, thật nhiều vũ khi nguyên tử vừa biết trước là chúng sẽ không được sử dụng. Không nên được sử dụng. Không thể được sử dụng. Để tránh điều đó, chiến tranh toàn diện (total war) biến thành chiến tranh giới hạn (limited war); chiến tranh thế giới biến thành chiến tranh khu vực, ở một số điểm nóng nào đó. Ý nghĩa của cái gọi là chiến thắng, do đó, cũng đổi khác: bên cạnh cái thắng/bại về quân sự có cái thắng/bại về chính trị và bên cạnh cái thắng/bại có tính chiến thuật có cái thắng/bại có tính chiến lược.

Với những thay đổi ấy, chuyện thắng hay bại lại càng trở thành phức tạp hơn.

Phần kết luận, có hai điểm tôi xin nói cho rõ:

Thứ nhất, tôi chỉ muốn tìm hiểu một sự thật lịch sử chứ không hề muốn bênh vực cho Mỹ.

Thứ hai, dù Mỹ thắng hay bại, sau biến cố tháng 4/1975, miền Nam vẫn là nạn nhân. Trên phạm vi quốc tế, ngoài miền Nam Việt Nam, Đài Loan là một nạn nhân khác, tuy không đến nỗi bất hạnh như chúng ta.

Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

.

Thắng và bại

CỠ CHỮ
Kỷ niệm 10 năm chiến tranh Iraq, mấy tuần vừa qua, giới bình luận chính trị Tây phương bàn tán sôi nổi về vấn đề: cuối cùng, Mỹ đã thắng hay bại?

Nhìn chiến tranh Iraq như một trận đánh, đương nhiên là Mỹ thắng. Thắng rất dễ dàng. Quân Mỹ và đồng minh bắt đầu tấn công vào ngày 20 tháng Ba năm 2003. Đến ngày 9 tháng Tư, tức 20 ngày sau, họ đã chiếm được thủ đô Baghdad. Bên Iraq, có 9.200 binh sĩ bị giết chết; phía đồng minh, Mỹ có 139 và Anh có 33 binh sĩ bị tử vong.

Nhìn rộng hơn một tí, toàn bộ cuộc chiến tranh, từ lúc khởi chiến (tháng 3/2003) đến lúc rút quân (tháng 12/2011), cũng có thể nói Mỹ thắng. Mỹ chiếm được Iraq, bắt và treo cổ Saddam Hussein, đập đổ được chế độ độc tài, dần dần hình thành nên một chế độ dân cử tương đối dân chủ, và cuối cùng, rút quân ra khỏi Iraq một cách an toàn. Như vậy là thắng chứ còn gì nữa?

Thế nhưng, nhiều người vẫn cứ băn khoăn. Lý do đơn giản: Cần phải đặt cuộc chiến Iraq vào hai chu cảnh lớn: Một, trong một cuộc chiến tranh lớn hơn: chiến tranh chống khủng bố và độc tài; và hai, trong thế địa chính trị tại vùng Trung Đông.
Nhớ, tướng Tommy Franks của Mỹ đã đặt ra tám mục tiêu chính khi đánh Iraq năm 2003: “Một, chấm dứt chế độ Saddam Hussein. Hai, phát hiện, cô lập và tiêu hủy các loại vũ khí sát thương hàng loạt (mass destruction). Ba, tìm kiếm, bắt và trục xuất khủng bố ra khỏi Iraq. Bốn, sưu tầm tài liệu tình báo liên quan đến các mạng lưới khủng bố. Năm, sưu tầm các tài liệu liên quan đến mạng lưới vũ khí hủy diệt hàng loạt phi pháp trên phạm vi toàn cầu. Sáu, giải tỏa lệnh cấm vận và tiến hành tức khắc các cuộc viện trợ nhân đạo cho dân chúng Iraq. Bảy, bảo đảm an toàn cho các mỏ dầu khí và tài nguyên thiên nhiên vốn thuộc về nhân dân Iraq. Và cuối cùng, giúp người dân Iraq tạo điều kiện chuyển tiếp sang một chính phủ đại biểu do dân bầu để quản trị đất nước của họ.”

Không phải mục tiêu nào ở trên cũng được hoàn thành. Ngoài chuyện không có các loại vũ khí sát thương hàng loạt hay các mạng lưới khủng bố toàn cầu nào ở Iraq, thất bại chính của Mỹ không chừng là nằm ở mục tiêu cuối cùng. Sau khi Mỹ chiếm Iraq một cách dễ dàng, Iraq trải qua những năm tháng nội chiến triền miên. Khủng bố nối tiếp khủng bố. Chỉ riêng tại thủ đô Baghdad, người ta ước tính mỗi ngày có khoảng từ 11 đến 33 người bị giết chết trong các cuộc đặt bom ở các khu dân sự, kể cả chợ búa và đền thờ.

Về phương diện chính trị, các phe phái liên tục chống đối nhau. Đúng là Iraq đã bắt đầu xây dựng được một số nền tảng cho một chế độ dân chủ, tuy nhiên, tương lai chính trị của nước này vẫn đầy bất an.

Cái giá của cuộc chiến này khá cao. Về nhân mạng, 115.376 người Iraq bị giết chết từ năm 2003 đến 2011.

Về phía đồng minh, số binh sĩ bị chết của Mỹ là 4.488; của Anh là 179, của Ý 33, của Ba Lan 30, của Ukraine 18, Bulgaria 13, v.v.. Về tài chính, chi phí cho cuộc chiến tranh ấy, về phía Mỹ, là khoảng trên 845 tỉ đồng.

Chính vì vậy, nhiều học giả Mỹ đặt vấn đề: Một, liệu cuộc chiến tranh ấy có đáng không? Và hai, có thể xem là Mỹ thắng trận không?

Không có câu trả lời nào thật dứt khoát và thuyết phục hẳn. Eric S. Margolis, tác giả cuốn sách American Raj: Liberation or Domination? trả lời thẳng thừng: Mỹ thất bại. Fred Kaplan cho đó là một cuộc chiến tranh không cần thiết nhưng cũng cho rất khó trả lời câu hỏi ai thắng ai.

Christian Whiton, chủ tịch Hamilton Foundation, lại cho là Mỹ thành công, hơn nữa, hai lần thành công: vừa lật đổ được một chế độ được xem là độc tài và tàn bạo nhất thế giới vừa xây dựng được cơ sở cho một nền dân chủ lâu dài tại Iraq.

Một số người đề nghị chờ thời gian trả lời: Mỹ thành công nếu chính phủ dân chủ mới phôi thai ở Iraq càng ngày càng vững mạnh; ngược lại, Mỹ thất bại nếu nó sụp đổ và Iraq lại sống dưới chế độ độc tài như thời Sadam Hussein.

Gai góc hơn là vấn đề địa chính trị (geopolitics). Một trong những động cơ chính của Mỹ khi quyết định tấn công và xâm chiếm Iraq là biến Iraq thành một quốc gia dân chủ thân Mỹ, từ đó, biến nước này thành một trung tâm quyền lực của Mỹ để, một mặt, thúc đẩy quá trình dân chủ hóa ở các nước Hồi giáo Trung Đông, mặt khác, sẵn sàng trấn áp mọi cuộc chiến tranh chống Mỹ trong tương lai. Cả hai đều gắn liền với địa chính trị.

Tuy nhiên, ở cả hai khía cạnh này, dường như Mỹ không thành công, hoặc ít nhất, chưa thành công.

Thứ nhất, nền dân chủ ở Iraq còn rất mỏng manh và yếu ớt.

Thứ hai, do tính chất mỏng manh và yếu ớt ấy, Iraq cũng không thể đóng vai trò một căn cứ địa chính trị hay quân sự đáng tin cậy cho Mỹ. Sau năm 2003, Mỹ đã xây dựng Tòa Đại sứ tại Baghdad, một Tòa đại sứ lớn và tốn kém nhất của Mỹ với chi phí hơn 750 triệu trên một mảnh đất rộng trên 104 mẫu Anh, nơi, thoạt đầu, chứa đến 16.000 nhân viên, trong đó, có đến 2.000 nhân viên ngoại giao, với tham vọng xem đó như một đầu não ngoại giao và an ninh trong khu vực. Tuy nhiên, với lý do nêu trên, tham vọng này dường như chỉ là một ảo tưởng.

Thứ ba, việc xâm lăng Iraq - nhất là việc không phát hiện bất cứ một thứ vũ khí hủy diệt hàng loạt nào ở Iraq cũng như việc không thể tìm ra chứng cứ nào về mối quan hệ giữa Saddam Hussein và al-Qaeda vốn là những lý do chính được đưa ra để gây chiến - đã gây bất bình cho cộng đồng Hồi giáo tại Trung Đông.

Thứ tư, quan trọng hơn hết, cuộc chiến tranh Iraq dường như làm cho Iran, kẻ thù của cả Mỹ lẫn Iraq trước đây, mạnh hơn hẳn. Mạnh vì hai lý do: Một, đối thủ chính và nguy hiểm nhất của Iran là Saddam Hussein đã bị tiêu diệt; và hai, phái Shia, một giáo phái thuộc Hồi giáo đang cầm quyền tại Iran càng ngày càng phát triển mạnh, nắm rất nhiều quyền lực tại Iraq, thay cho giáo phái Sunni trước đây. Với sự thắng thế của phái Shi’ite, Iran có thể sẽ có một lực lượng đồng minh rất đáng kể ở Iraq.

Dĩ nhiên, vẫn có người phản bác các nhận định trên với lý do chính: Bất kể những thất bại ở lãnh vực này hay lãnh vực khác, Mỹ cũng đã chiến thắng trong cuộc chiến tranh khủng bố vốn mở màn sau biến cố 11 tháng 9 năm 2001. Lực lượng khủng bố, trên cơ bản, đã bị dẹp tan, không còn là một đe dọa lớn đối với Mỹ cũng như trên thế giới nữa. Vì thế, Mỹ có thể an tâm quay về với một đối thủ mới xuất hiện ở phương Đông: Trung Quốc.

Như vậy, cuộc bàn cãi về chuyện thắng hay bại của Mỹ trong cuộc chiến tranh Iraq từ năm 2003 cho đến nay vẫn còn tiếp tục và có lẽ sẽ còn tiếp tục dài dài.

Thật ra, đó cũng là điều bình thường. Chuyện thắng hay bại là một vấn đề phức tạp hơn hẳn những gì chúng ta thường nghĩ. Thường, nghĩ về chiến tranh hay chính trị, chúng ta hay tự giới hạn mình ở một biến cố hay một sự kiện nào đó. Như một cái gì biệt lập và đơn lập. Trong khi, trên thực tế, bất cứ sự kiện hay biến cố nào cũng nằm trong một chu cảnh (context) với nhiều quan hệ chằng chịt theo nhiều chiều và với nhiều kích thước khác nhau, từ kích thước địa chính trị đến kích thước lịch sử. Bởi vậy, không hiếm trường hợp thắng một trận đánh nhưng lại thua một cuộc chiến tranh hay thua một cuộc chiến tranh nhỏ nhưng lại thắng một cuộc chiến tranh lớn. Hoặc ngược lại.

Thời Chiến tranh lạnh, Mỹ hòa ở chiến tranh Triều Tiên, và có thể gọi là thua, như nhiều người đã nói, cuộc chiến tranh ở Việt Nam, nhưng lại thắng trong toàn bộ cuộc chiến tranh lạnh, nghĩa là thắng toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa.

Cũng có thể nói, phần nào, Mỹ thắng Liên Xô ở cuộc chiến tranh tại Afghanistan từ 1979 đến 1989. Dù hai bên không hề trực tiếp đụng độ với nhau, nhưng ai cũng biết suốt thời gian chín năm ấy, Mỹ và nhiều đồng minh của Mỹ, từ Pakistan đến Anh, Saudi Arabia (và, kể cả Trung Quốc) đã đổ tiền giúp đỡ các kháng chiến quân người Afghanistan rất nhiều. Không những giúp đỡ tiền bạc mà còn giúp vũ khí và cả việc huấn luyện quân sự, bao gồm các chiến thuật du kích và, thậm chí, các phương pháp khủng bố. Cuối cùng, không chịu đựng nổi, từ đầu năm 1987, Liên Xô quyết định rút quân: Giữa năm 1988, rút một nửa, đến đầu năm 1989 thì rút toàn bộ. Phe tự do hoan hỉ xem đó như một chiến thắng.

Nhưng chiến thắng ấy, oái oăm thay, lại mở đầu cho một thất bại của Mỹ trong trận chiến chống khủng bố: Một trong những lực lượng được Mỹ giúp đỡ và huấn luyện để chống lại Liên Xô thời ấy, sau này, đã trở thành một lực lượng Hồi giáo cực đoan mang tên al-Qaeda, trong đó có cả Osama bin Laden: Chính những người ấy, vào năm 2001, đã tổ chức cuộc tấn công khủng bố khủng khiếp ngay trên đất Mỹ.

Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Nguyễn Hưng Quốc

Nhà phê bình văn học, nguyên chủ bút tạp chí Việt (1998-2001) và đồng chủ bút tờ báo mạng Tiền Vệ (http://tienve.org). Hiện là chủ nhiệm Ban Việt Học tại trường Đại Học Victoria, Úc. Đã xuất bản trên mười cuốn sách về văn học Việt Nam.


NHỮNG CA KHÚC ĐI TÌM TỰ DO VÀ QUÊ HƯƠNG NGỤC TÙ

 NHỮNG CA KHÚC ĐI TÌM TỰ DO
 ĐÊM CHÔN DẦU VƯỢT BIÊN
NHẠC CHÂU ĐÌNH AN- CA SĨ NHƯ QUỲNH





NGƯỜI DI TẢN BUỒN

NHẠC NAM LỘC, CA SĨ KHÁNH LY



 SAIGON ƠI VĨNH BIỆT
NHẠC SĨ VÀ CA SĨ NAM LỘC




 HÃY HÁT CHO TỰ DO
NHẠC SĨ VIỆT DŨNG CA SĨ NGUYỆT ÁNH



MỘT CHÚT QUÀ CHO QUÊ HƯƠNG
NHẠC SĨ VIỆT DŨNG- CA SĨ KHÁNH LY



SAIGON NIỀM NHỚ KHÔNG TÊN
NHẠC SĨ NGUYỄN ĐÌNH TOÀN -   CA SĨ KHÁNH LY




EM VẪN MƠ MỘT NGÀY VỀ
NHẠC SĨ VÀ CA SĨ NGUYỆT ANH


TÔI MUỐN MỜI EM VỀ
NHẠC VIỆT DŨNG- CA SĨ Y PHƯƠNG


BILL LAURIE * AN OPEN LETTER

The Betrayed and Abandoned



Black April

UNTOLD STORY section — vnafmamn.com
From Bill Laurie:
The following open letter printed in 17 April 1975 Saigon Post, an English language newspaper in Viet Nam. It was a very chaotic time and the Republic of Viet Nam only had 13 days to live as the battle for Xuan Loc raged, as NVA divisions, engorged with abundance of modern weapons and munitions, moved in on Saigon. The letter was written by an American who'd spent multiple tours in Viet Nam. He preferred to remain anonymous and his identity remains unknown. I kept the piece and to my knowledge no other copy of made it out of Viet Nam. Herewith is exact verbatim text of letter:
Black April Photo Black April Photo Black April Photo Black April Photo Black April Photo Black April Photo

"An Open Letter to the People of Viet Nam and America: I will never forget."

The month was August, the year of 1966. I was a young man of 20 years with a mind filled with American school book ideals and feelings of patriotism swelling my heart as I walked down the ramp of the 707 that had brought me all the way from my safe and easy life in America to the sweltering hot tarmac of Tan Son Nhut airport, Viet Nam. Little did I know then that this small country and its people, in the year to come, would put a hold on my soul, and later would become a part of my heart, and also, a lot of my personal pain.

Since that day so many years ago I have many memories of Viet Nam and its people, some bring happiness and laughter, others bring tears and anguish and still others bring anger. But my most cherished memory is the memory of that Viet Nam of 1966, a Viet Nam of quiet, simple and polite people, the memory of a "Viet Namese" Viet Nam. There is the memory too of my pride at being an American who was helping the cause of "freedom and democracy" in this land.

My first year passed quickly and I returned to civilian life, returned to my safe easy life. But something was wrong. I didn't feel at home in my own country anymore. I longed for the shy
I longed for the shy quiet beauty and the warm perfumed nights of Viet Nam. For the first time in my life I felt homesickness. This is not right I told myself. How can you feel homesick for some place that is not your home? But the feeling would not go away. So, I made the final decision. I re-enlisted in the Army and came back to Viet Nam, back to the country I knew I loved. When I returned to the Viet Nam I had left, only a few short months before, was no more. I knew then that I would never see that Viet Nam of 1966 again, and it saddened me deeply.

The American soldiers were coming in great numbers then and the misunderstanding and bad feelings between Americans and Viet Namese spread and intensified. I watched with sorrow as the Americans' money infected the simple and good people of Viet Nam with the disease called greed and as the greed spread so did corruption. I watched with bitterness and anguish as America tore down the "Viet Namese" Viet Nam and built the "American" Viet Nam. This "American Viet Nam" was a beautiful Viet Nam, beautiful for war profiteers. But for everyone else it was a disgrace. It was degrading to the people of Viet Nam to have everything taken over by the Americans. It took away their pride and made them feel inferior. Before long the whole nation and people of Viet Nam had a giant inferiority complex. Those who would not feel inferior, those who still had their pride, for those it generated hatred and scorn for many years. After America took away the pride and self respect of the people of Viet Nam and replaced it with feelings of uselessness and dependence on Americans, the great leaders and politicians of my country announced that now we must "Viet Nam-ize" the war so that America can disentangle itself from the "quagmire" of Viet Nam.

The Paris Peace talks were started so that Viet Nam could obtain "Peace with Honor" with "Freedom and Democracy" for the people of the Republic of Viet Nam. Finally the big day came, the "Paris Peace Accords" were signed. The people of Viet Nam once again dared to hope that, after so many years of the tears, pain, horror, death and destruction that make up this thing called war might come to an end. But I did not believe it, not for one second did I believe it would stop. My school book ideals and belief in Americans and their goodness were shattered long before, shattered somewhere between the rape of a house girl and the My Lai tragedy. I knew "those papers" were meaningless, and "those phrases" offered by the prestigious diplomats were as hollow as a rotten tree as far as the country and people of Viet Nam were concerned. I knew in my own mind that it only meant an end to America's entanglement in the quagmire that they helped create.

I did have one hope, one dream left when the American and Allied Forces left Viet Nam. That dream and that hope was that America would supply Viet Nam with the needed weapons, ammunition, and equipment and that you, the people of Viet Nam, would reach deep within you and pull out your wounded pride and regain your self respect and fight on until victory over the barbarian aggressor. My dream and my hope was beginning to be fulfilled. You did mend your pride and you did regain your self respect and I rejoiced in my heart for you. Then it happened, the promises were broken, the supplies came no more. Still, you fought and died and lost your limbs for your homeland. You asked for help from those who uttered the "empty phrases" and signed the "meaningless papers" and they shunned you. Again you swallowed your pride and in desperation you pleaded. So the great humanitarian peoples of America sent a delegation from Congress to your home land.

They saw the sons of rich riding their motorbikes around with their long hair and Heroin dulled eyes, they saw the war profiteers driving their expensive foreign cars and visiting night clubs. They talked with your rulers and generals, then they were experts on Viet Nam, then they had a basis for which to judge you and ease their conscience for the breaking of the promises.

Now the "honorable"(?) Congressmen, being authorities on Viet Nam and it's people, made suggestions and recommendations. Some of these great lawmakers recommended no more aid to Viet Nam, some said they would only aid in the form of food and medicine. It will ease their conscience if you are killed with a full stomach instead of an empty one. One of the great humanitarian experts was quoted as saying that "Eventually the communists would prevail in Viet Nam because their aggressiveness, will and purpose presently exceeds the aggressiveness, will and purpose of the people of South Viet Nam."

If this is true, I wonder who gave you a purpose and turned their back on you when the going got tough? Who pushed your "purpose" into the mud of the Mekong Delta? Who trampled your "aggressiveness" into the red dust of the highlands? Who drowned your "will" in the South China Sea off the coat of Da Nang? We know who did this don't we my friends? Yes, the U.S. delegation came and looked and talked but they didn't go to see you shivering in the cold rain, they didn't see your children with their eyes glazed in fear, they didn't hear the screams of your agony....they didn't go to see the blood coming from you open veins, they didn't see you in the last quivering spasms of your death. No tears stained their cheeks, no choking sobs wracked their bodies. They will never kneel in prayer with tears streaming from their eyes because of their sorrow for you. They went back to their safe, secure, affluent homes in America. Their families will never know hunger. They will never have to sit alone in the middle of the night an decide if they should kill their own wife and children to save them from torture should the Communist barbarians get them. They will never have to worry about the searing hot shrapnel tearing their families and friends apart. My dear friends I am afraid your pleas have fallen on deaf ears. Ears closed by the callousness and indifference that is the product of the affluence. Do not envy Americas affluence my friends, because as you can see, they have sold their soul to purchase that affluence.

And so my dear friends for the past 9 years I have been with you. I have loved you and sometimes I have hated you. I have laughed with you and I have cried with you, and perhaps in the coming days I will die with you also, and if this be so be it.

America! Do you want to know what Viet Nam is today? What is this Viet Nam of 1975 that you have created? Listen!

A few days ago while riding to Bien Hoa in back of a small bus with my wife there were two very small children sitting all alone crying because their young mother had gone in search of her soldier husband who had fled from the Highlands, so they had to return home alone. Another woman was crying because her son had just been buried. A man crying because he lost his whole family in Hue. Another woman who showed us the picture of her husband and five children who were still trapped in Da Nang when it fell to the Communists, and as she talked the same tears and choking sobs started. I had to turn away. I could not look her in the face. All I could do was hang my head and stare at the floor in my shame. I felt her pain and sorrow choking me as I sat with tears running from my eyes and dripping to the floor.

This is the Viet Nam of today. All sorrow, all pain, all blood and bones and endless, endless tears. This is the Viet Nam that you, the great humanitarian people of America, have created. The Viet Nam that you now refuse to take responsibility for and traitorously turn your back on.

Every time I read the newspaper now the choking knot of sorrow comes in my throat, the tears flow from my eyes and the shame engulfs me like a dark cloud. It is not a shame I helped to create but it is a shame that I must bear because I am an American.

When you uttered those "empty phrases" and signed those "meaningless papers" your breath should have been bleeding Americans, bleeding like the children of Viet Nam are bleeding. Your heart is stinking Americans, stinking like corpses that litter the "trail of tears and blood" for a hundred miles from the Highlands to the sea. You have washed your hands of Viet Nam Americans, but you have washed your filthy hands in the tears and blood of my friends and the people I love.

Through your callousness, indifference, and inaction you gave your consent to the communist barbarians from the North, you gave your consent for the decimation of a nation and people you once called friends, allies, and compatriots. How bitter those words are in [my] mouth today.

So all of you great good American people and legislators go to your beautiful homes and eat your good nourishing food and sit in your comfortable chairs and sip you coffee and read the evening newspaper of the horror and tragedy of Viet Nam today, and you say "that's too bad." You go to sleep in your warm comfortable beds with what you think is a clean conscience. But when you awake in the still of the night and you don't know why, you listen Americans, you listen very close, be still and listen and you may hear the poor wretched people of Viet Nam, somewhere between tracers and their pain, somewhere between shrapnel and their open vein, you will hear them call you by your "real" name.

Easter has just passed. Christ said when he was nailed to the cross "Lord, forgive them for they know not what they do." You have nailed Viet Nam to the cross Americans. I do not have the compassion of Christ and I will never ask any man's God that you be forgiven, because you do know what you do, and I will never, never forgive nor forget what you have done to Viet Nam. Never again will I feel pride in being an American. Never again can I hold my head high and feel the patriotism that I felt so many years ago.

Now I can only hang my head low in my shame. You have sickened me to the depths of my soul, damn you America. You have destroyed my beloved Viet Nam.

P.S. I must remain anonymous for reasons of personal safety. If you feel this is worthy please see that some Viet Namese daily gets it in. I would be pleased if the people of Viet Nam could know that some one understands, [and] why.

END OF LETTER
"The one who does not remember History is bound to live through it again."
George Santayana


NGUYỄN VĨNH LONG HỒ *BIẾN CỐ LÀNG BA CHÚC

BIẾN CỐ LÀNG BA CHÚC, TỈNH
 AN GIANG VÀO THÁNG 4/ 1978
Nguyễn Vĩnh Long Hồ

1. PHẦN I
IMG.613THÁNG 4 NĂM 2009. Kỷ niệm đúng 31 năm, ngày dân làng BA CHÚC, tỉnh An Giang bị thảm sát vào tháng 4 năm 1978. Hơn 3.157 đồng bào bị tàn sát dã man đã chìm vào trong quên lãng. Tôi xin mở lại hồ sơ tố cáo tội ác bọn CSVN đã nhúng tay trong biến cố ghê tởm nầy, để đồng bào trong và ngoài nước nhận định. Xin đa tạ quý vị!
 Vào cuối tháng 5 năm 1999. Tôi có nhận được lá thư đề ngày 21 tháng 5 năm 1999 của ông TRẦN H. (xin dấu tên) – cựu sĩ quan QĐVNCH – sinh quán tại xã BA CHÚC, tố cáo tội ác bọn CSVN giết người tập thể tại làng BA CHÚC, tỉnh AN GIANG. Từ đó, tôi phối kiểm các tài liệu trong và ngoài nước, tình hình biên giới phía Tây Nam 1978 – 1979 và các dữ kiện do những nhân chứng còn sống tại Hoa Kỳ cung cấp. Và tôi xin mở lại hồ sơ vụ án, đưa “sự cố” nầy ra trước ánh sáng để CĐVNHN và đồng bào trong nước biết thêm về tội ác tày trời, giết người tập thể còn dã man, tàn bạo và khủng khiếp hơn cả TẾT MẬU THÂN 1968. Nạn nhân gồm cả đàn bà, trẻ con Việt Nam lẫn Cam Bốt bị thảm sát tại các CHÙA, TRƯỜNG HỌC tại làng Ba Chúc cách biên giới VIỆT – MIÊN khoảng 7 cây số và chỉ trong vòng một đêm 18 tháng 4 năm 1978. Cái dã man và vô nhân đạo của bọn Lãnh đạo Đảng CSVN đã đem những bộ hài cốt của những nạn nhân do chúng thảm sát, đem trưng bày trong các hộp kính để gây ảo giác căm thù giữa hai dân tộc VIỆT NAM – KAMPUCHEA.
 VỊ TRÍ NHÀ MỒ BA CHÚC:
 Căn cứ vào hình ảnh và sự mô tả trên mạng saigonnet ngày 4/ 21 /2004: Nhà mồ Ba Chúc, Chùa Phi Lai và Chùa Tam Bửu là những di tích được nhà nước công nhận là di tích vào năm 1980 là một địa điểm ghi dấu tội ác man rợ của bọn diệt chủng Pôn – Pốt qua 11 ngày (từ 18/ 4/ 1978 đến ngày 29/ 4/ 1978) đã xâm lược và sát hại hàng ngàn người dân xã Ba Chúc. Nhà mồ Ba Chúc có hình lục giác, mỗi trụ cột đỡ mái nhà được kiến trúc hình tượng như bàn tay đẫm máu, đang vươn thẳng lên. Bên trong nhà mồ là một khung hộp bằng kính tám cạnh, chứa đựng 1.159 bộ hài cốt được phân thành nhiều loại khác nhau như: độ tuổi, giới tính…Nhà mồ được xât dựng giữa hai ngôi chùa Phi Lai và Tam Bửu, đây là hai ngôi chùa do các tín đồ của đạo Hiếu Nghĩa dựng lên và cũng chính nơi đây đã trở thành nơi chứng kiến những tội ác của chúng và những chứng tích đó vẫn còn in dấu cho đến ngày nay.
 Sau khi phối kiểm và phân tách “Câu chuyện làng BA CHÚC ở biên giới MIÊN – VIỆT” của ông HOÀNG QUÝ (mạng lenduong. net ngày 5/02/2004), chi tiết về cụm nhà mồ BA CHÚC kể trên và thơ tố cáo của ông TRẦN H. Một điểm trùng hợp rất quan trọng là ông TRẦN H, và ông HOÀNG QUÝ đều xác nhận là tất cả nạn nhân đều bị thảm sát tại CHÙA VÀ TRƯỜNG HỌC .
 Ông TRẦN H. viết: “…CSVN đưa sư đoàn 30 CSBV án ngữ dầy đặc dọc biên giới Miên Việt tỉnh Châu Đốc cũ. Chiều đến thì bọn cán bộ và bộ đội Cộng sản bắt dân vào CHÙA VÀ TRƯỜNG HỌC ngủ để chúng bảo vệ. Nửa đêm, dân ngủ mê, chúng giả bộ đội Miên tấn công vào chùa và trường học bằng lựu đạn, cổng ngoài khóa chặc. Sau đó, chúng nổi lửa đốt sạch làm hằng ngàn dân vô tội phải chết oan uổn dưới bàn tay vô thần của CSVN. Nhứt là tại làng Ba Chúc thuộc huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang, có trên 3.000 người bị chúng giết tập thể. Nay chúng cho xây một ngôi nhà kiến để chứa đống xương vô định chất cao bằng đầu…(ngưng trích)
 Ông HOÀNG QUÝ viết: “…Thời cuộc đã biến chuyển khôn lường, sau đó chính 2 lực lượng anh em nầy quay mũi súng vào nhau, lực lượng vũ trang của Khờ me đỏ đã tấn công vào làng Ba Chúc, cách biên giới khoảng 4 dậm, vào ngày 18 / 4/ 1978…Tổng cộng có 3.157cả người Việt Nam lẫn Cam bốt bị thảm sát tại các CHÙA VÀ TRƯỜNG HỌC tại Việt Nam. Những cuộc tấn công khác tương tự như trường hợp nầy là những lý do mà CS VN nêu lên để xua quân tiến chiếm Cam Bốt vào cuối năm đó…(ngưng trích).
 Trong bài viết “WHEN THE KHMER ROUGE CAME IN VIETNAM” của James Pringle đăng trong International Herald Tribune, số ra ngày Jan 7, 2004 có thuật lại lời của chứng nhân, bà Hà Thị Nga nói: “Trong một ngôi chùa, tôi thấy 40 nạn nhân sợ hãi trốn dưới bàn thờ, trước khi bị giết bằng lựu đạn.” (In a temple, I saw where 40 terrified victims hid under the alter before being killed by grenades). Bà Hà Thị Nga có phải là một người được chánh quyền dàn dựng đưa ra trả lời phóng viên James Pringgle? Tại sao bà biết con chính xác là 40 người trốn dưới bàn thờ? Trừ phi họ đúng xếp hàng cho bà điểm danh trước khi chun dưới bàn thờ. Tôi là người sống ở miền Tây, thăm viếng nhiều chừa chiềng. Tôi không một ngôi chùa nào có một cái bàn thờ khổng lồ có thể chứa nổi một lúc 40 người, trốn dưới đó.
 Một điểm trùng hợp rất quan trọng là cả hai ông Trần H. và Hoàng Quý và chứng nhân đều xác nhận là tất cả các nạn nhân đều bị thảm sát tại CHÙA & TRƯỜNG HỌC. Và thời gian xảy ra vào ngày 18/ 4/ 1978 và không thấy ông Hoàng Quý nói cuộc thảm sát kéo dài đến ngày nào, giống như chi tiết về cụm nhà mồ Ba Chúc kéo dài đến 11 ngày từ 18/ 4/ 1978 đến ngày 29/ 4/ 1978. Tìm hiểu những nguyên chính đưa đến việc bọn CSVN đã tắm máu dân làng Ba Chúc như sau:
 I. TÌNH HÌNH NỘI BỘ VIỆT NAM – KAMPUCHEA SAU 1975:
 Theo sự tiết lộ của Hoàng Tùng – Tổng biên tập báo Nhân Dân – và là Ủy viên BCT/TƯ Đảng CSVN: Bắc Bộ Phủ đã có ý đồ chiếm đóng Cam Bốt từ năm 1970 – 1972. Cuối năm 1976, Đại Hội IV Đảng Lao Động đổi thành Đảng CSVN dưới sự giám sát của lý thuyết gia MIKHAI A. SUSLOV – Trưởng phái đoàn Sô Viết – thì hầu hết các Ủy viên Bộ Chính Trị đã nối đuôi Lê Duẩn thần phục Mạc Tư Khoa. Đại hội IV của Đảng CSVN chấp nhận đề án của Lê Duẩn xúc tiến việc thành lập LIÊN BANG ĐÔNG DƯƠNG bằng cách thuyết phục và nếu cần dùng áp lực quân sự để buộc Cam Bốt và Lào gia nhập. Sau Đại Hội IV, Lê Duẩn và BCT/TƯ/Đảng CSVN nhận định rằng: Việt Nam nằm trong quỹ đạo của Liên Sô là đối lập với Trung Quốc và sự liên kết giữa Trung Quốc và Cam Bốt sẽ áp lực quân sự nặng nề tại vùng biên giới phía Tây Nam.
 II. NHỮNG CUỘC XUNG ĐỘT VŨ TRANG GIỮA VIỆT NAM VÀ KAMPUCHEA TẠI VÙNG BIÊN GIỚI PHÍA TÂY NAM: QUÂN ĐỘI KAMPUCHEA TẤN CÔNG VIỆT NAM LẦN THỨ NHẤT NĂM 1977:
• Tháng 3 năm 1977: Ieng Sary – Ngoại trưởng Khmer Đỏ – sang Bắc Kinh nối lại quan hệ thân thiết cũ. Trong buổi tiếp tân có Lý Tiên Niệm – Phó Thủ Tướng – và Tướng Vương Thăng Long – Tổng Tham mưu phó QĐNDTQ – khoản đãi phái đoàn Kampuchea cho thấy sự hợp gắn bó giữa hai nước.
• Tháng 4 năm 1977: Trong buổi tiếp tân tại Tòa Đại Sứ Kampuchea, Ngoại trưởng Hoàng Hoa công khai tuyên bố: “Nước Kampuchea đang bị kẻ thù phá hoại và Trung Quốc sẽ sát cánh với những dân tộc nhỏ yếu chống lại những hành động can thiệp và gây hấn của các lân bang”. Nhận được sự hậu thuẩn của Trung Quốc. Hai tuần sau, đúng vào ngày Việt Nam tưng bừng kỹ niệm năm thứ hai “Mùa Xuân Đại Thắng 1975”. Quân đội Kampuchea bất thần mở cuộc tấn công qui mô vào những làng xã và những thị trấn dọc biên giới tỉnh An Giang, và sau đó rút về bên kia bên giới.
 QUÂN ĐỘI KAMPUCHEA TẤN CÔNG VIỆT NAM LẦN THỨ HAI VÀO TỈNH TÂY NINH:
• Ngày 27 tháng 9 năm 1977: Tên đồ tể Pôn – Pốt lên đài phát thanh đọc diễn văn dài 5 tiếng đồng hồ, chính thức xác nhận vai trò lãnh đạo của mình và tổ chức ANGKA là Đảng Cộng Sản Kampuchea. Một ngày sau khi ra mắt. Pôn – Pốt lên đường đi Bắc Kinh và Bình Nhưỡng. Lần đầu tiên đi công du với tư cách là Chủ tịch Đảng và Thủ Tướng. Pôn – Pốt được đón tiếp trọng thể. Cờ và biểu ngữ giăng đầy Thiên An Môn.
• Ba ngày trước đó, để chứng tỏ quyết tâm chống Việt Nam của mình đối với Trung Quốc. Pôn – Pốt ra lệnh cho Quân Khu Đông tấn công vào lãnh thổ Việt Nam thuộc tỉnh Tây Ninh. Việt Nam tự hạn chế, không cho quân đội vượt biên phản công, đồng thời cách chức Tướng Tư lệnh quá khích TRẦN VĂN TRÀ và Tướng LÊ ĐỨC ANH thay thế. Trong bài viết The continuing conflict in Southeast Asia của David Miller đăng trong cuốn THE VIETNAM WAR ghi nhận: “Nhiều đồng bào địa phương đã chạy thoát, nhưng Hà Nội quả quyết người Kampuchea thảm sát 2.000 thường dân” (Many local residents fled, but an official Hanoi communique alleged that kampucheans had massacred some 2,000 civilians).
• Sau đó, một mặt Đảng CSVN gởi điện văn chúc mừng lễ ra mắt Đảng CS Kampuchea, một mặt bí mật gởi Phan Hiền sang Bắc Kinh nhờ Trung Quốc dàn xếp cho gặp phái đoàn Kampuchea. Cuộc tiếp xúc không đi đến đâu. BCT/ ĐẢNG CS Trung Quốc đều nhất trí ủng hộ Khmer Đỏ. Trung Quốc bắt đầu chở vũ khí và chiến cụ ồ ạt tới cảng Komphong Som để trang bị tận răng cho quân đội kampuchea. CSVN buộc phải đứng hẳn về phía Liên Sô tìm cách phản công chống lại Khmer Đỏ quyết liệt hơn. Tập đoàn Lãnh đạo CSVN đã sai lầm một chiến lược quan trọng: “Nước xa không cứu được lửa gần”.
 QUÂN ĐỘI VNCS PHẢN CÔNG VÀO NỘI ĐỊA KAMPUCHEA CUỐI NĂM 1977:
 Vào những ngày cuối năm 1977. Lực lượng vũ trang QĐND/VNCS mở những trận tấn công thăm dò vào sâu trong lãnh thổ Kampuchea. Quan hệ ngoại giao giữa hai nước bị cắt đứt và công khai hóa tranh chấp lãnh thổ và hai bên điều động thêm lực lượng vũ trang tăng cường hệ thống phòng thủ dọc biên giới. Nhưng, phía Việt Nam bị Quốc tế tố cáo và lên án xâm lăng Kampuchea, quân đội viễn chinh VNCS buộc phải rút về nước vào ngày 6 tháng 1 năm 1978.
 QUÂN ĐỘI KAMPUCHEA TẤN CÔNG VIỆT NAM LẦN THỨ BA VÀO NHỮNG THÁNG ĐẦU NĂM 1978:
• Đầu tháng giêng 1978: Tại vùng biên giới cực Nam. Các đơn vị thuộc Sư Đoàn 2 và 210 của Quân Khu Tây Kampuchea đã tấn công và chiếm đóng các xã Phú Cường, Khánh An, Khánh Bình và các huyện Hồng Ngự và Hà Tiên thuộc lãnh thổ Quân Khu IX Việt Nam. Và đây là cuộc tấn công vào lãnh thổ Việt Nam lần cuối cùng, vì họ sẽ chẳng còn cơ hội nào vượt biên tấn công vào Việt Nam nữa. Tướng TRẦN NGHIÊM nguyên là Tư Lệnh Phó của LÊ ĐỨC ANH. Sau khi Lê Đức Anh thay Trần văn Trà. Tướng Trần Nghiêm được đề bạt lên làm Tư lệnh Quân Khu IX, chịu trách nhiệm điều động 3 sư đoàn chính quy cơ hữu, gồm các Sư đoàn 4, 8 và 330 cùng với 2 trung đoàn chủ lực cơ động tỉnh Hậu Giang và Đồng Tháp. Sư đoàn 341 do tướng Vũ Cao làm Tư Lệnh được điều từ Quân Khu VII đến tăng phái cho Q.Khu IX cùng với sự yểm trợ của không quân, pháo binh, thiết giáp…với lực lượng áp đảo và hùng hậu như vậy, mà phải mất 2 tháng phản công mới đánh bật sư đoàn 2 và 210 của Kampuchea ra khỏi biên giới và tái chiếm lại lãnh thổ đã mất.
• Đầu tháng 3 năm 1978: Tình hình biên giới phía Tây Nam hoàn toàn yên tỉnh. Sư đoàn 341 được trả về Quân khu VII sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Tướng Trần Nghiêm tái phối trí 3 sư đoàn 4, 8 và 330 cùng hai trung đoàn cơ động tỉnh Hậu Giang và Đồng Tháp vào nhiệm vụ phòng thủ diện địa. Riêng sư đoàn 330 được chỉ định thành lập tuyến phòng thủ an ninh lãnh thổ huyện TRI TÔN.
 TÌNH HÌNH KAMPUCHEA SAU KHI SƯ ĐOÀN 2 VÀ 210 RÚT VỀ BÊN KIA BIÊN GIỚI:
• Bắt đầu từ tháng năm 1978 và những tháng sau đó. Cuộc thanh trừng nội bộ ở Quân Khu Đông càng ngày càng trở nên gây gắt và lên đến cao điểm vào ngày 24 tháng 5 năm 1978, lực lượng của KE PAULK – Bí thư Khu ủy Trung tâm của Khmer Đỏ – thuộc Quân khu Trung Ương kéo đến SOUNG, bao vây tổng hành dinh của Quân khu Đông, bắt giam tất cả sĩ quan chỉ huy và nhiều cuộc chạm súng đã xảy ra giữa đôi bên. Sau cuộc thanh trừng, sư đoàn 4 coi như bị xóa sổ, các sư đoàn 3, 5, 280 còn lại bị suy yếu hẳn.
• BCT/TƯ Đảng CSVN không bỏ lở cơ hội ngàn vàng, triệt để khai thác nhược điểm của địch là sự xâu xé nội bộ và mâu thuẩn hàng ngũ của Khmer Đỏ theo đúng sách lược của Lenine: “Phải chộp ngay cơ hội chia rẽ của địch”, bằng cách ráo riết chuẩn bị chuẩn bị “tâm lý quần chúng” và “dư luận Quốc tế” . Rõ ràng, bọn Đảng CSVN đã đạo diễn tấn tảm kịch cực kỳ dã man, tàn bạo và ghê tởm: tắm máu 3.157 đồng bào vô tội, đa số tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo trong đêm 18 /4/ 1978 rồi đổ tội cho bọn đồ tể Khmer Đỏ gây ra. Độc chiêu “ném đá dấu tay”, rồi dở trò “mèo khóc chuột” của bọn CSVN đã thành công trong âm mưu tạo ra kẻ thù Khmer Đỏ bằng xương bằng thịt để kích động lòng căm thù chủng tộc Việt Nam – Kampuchea, rồi triệt để khai thác sức mạnh của lòng căm thù của quần chúng vào mục tiêu chánh trị và quân sự để chuẩn bị xâm lăng Kampuchea.
• Tất cả bộ máy chiến tranh tâm lý của bọn CSVN được động viên vào việc tuyên truyền rầm rộ. Những cuộc biểu tình, hội thảo diễn ra khắp nơi, các đài phát thanh, phát hình trong nước mở tối đa công xuất lên án bọn diệt chủng Pôn Pốt đã xâm lược và sát hại hàng ngàn người dân xã Ba Chúc để tranh thủ dư luận Quốc tế, có chứng cớ hẳn hòi, chớ không phải tố cáo vu vơ như lần quân Khmer Đỏ tấn công vào lãnh thổ tỉnh Tây Ninh thảm sát 2.000 thường dân. Quân đội CSVN xua quân tấn công Kampuchea chỉ vì lý do tự vệ chánh đáng, chớ không phải xâm lăng Kampuchea như đã từng bị lên án trước đó.
• NGÀY 15/ 6/ 1978, chiến dịch tấn công Kampuchea mở màng. Các sư đoàn chính quy 7, 9 và 341 cùng với các đơn vị yểm trợ hùng hậu tràn qua biên giới Việt – Miên, chiếm đóng một phần lãnh thổ sâu trong nội địa Kampuchea từ 10 đến 40 km, trong đó có quận Prasaut. Lúc đó nhằm mùa mưa. Kampuchea tăng cường thêm nhiều sư đoàn từ trong nội địa ra biên giới để phản công. Từ Prasaut, quân xâm lược CSVN phải lùi về Chipru…
III. DẤU ĐẦU LÒI ĐUÔI: VẠCH TRẦN 6 ĐIỂM CHỨNG MINH TỘI ÁC CỦA CSVN TRƯỚC DƯ LUẬN QUỐC TẾ VÀ ĐỒNG BÀO TRONG & NGOÀI NƯỚC:
• ĐIỂM MỘT: Không thấy chánh quyền địa phương đề cập đến con số thiệt hại về nhân mạng cũng như tài sản của nhân dân sau 3 lần lực lượng Khmer Đỏ tấn công vào lãnh thổ Việt Nam, đặc biệt là 2 tháng đầu năm 1978 là thời gian quần thảo dữ dội giữa 4 sư đoàn + 2 trung đoàn cơ động CSVN để đánh bật sư đoàn 2 và 210 của Kampuchea ra hỏi biên giới. Điều đó đã chứng minh rằng: Đồng bào MNVN đã tích lủy quá nhiều kinh nghiệm “chạy giặc”. Giặc Tây đi bố, giặc Việt Minh CS giết người đoạt của, giặc Miên nổi dậy “cáp duồn”… nên phản ứng của họ vô cùng bén nhạy. Mỗi khi có biến động là nhà nhà báo động bằng đủ mọi phương tiện như gõ mõ, thùng thiếc, gióng trống, khua chiên, nồi niêu, xoong chảo…để kịp thời bồng bế con cái chạy giặc. Họ không bao giờ chịu nằm yên trong nhà, ngoan ngoãn chờ bọn Khmer Đỏ đến lùa họ đi. Và một điều chắc chắn là khi họ nhận diện binh lính của Khmer Đỏ, họ sẽ chạy bung ra, chạy bán sống bán chết giống như hồi Tết MẬU THÂN 1968, dân MNVN chạy giặc Việt Cộng, dễ dầu gì bọn Khmer Đỏ có đủ lực lượng tập trung dân làng Ba Chúc vào các CHÙA & TRƯỜNG HỌC một cách dễ dàng để tàn sát tập thể. Hơn nữa, địa thế làng Ba Chúc dưới chân núi TƯỢNG và bên kia là núi DÀI, một địa thế lý tưởng cho đồng bào lẫn trốn dễ dàng.
• ĐIỂM HAI: Những vị cao niên nào sống ở Miền Tây Nam Bộ thuộc các tỉnh Châu Đốc, Vĩnh Long, Trà vinh, Sóc Trăng chắc chưa quên những cuộc nổi dậy bất thần đầy chết chóc của những đồng bào Việt gốc Miên sống trong các sóc vùng sâu. Và danh từ “Miên dậy” là tiếng báo động khẩn cấp đồng bào Việt gọi nhau chạy lánh nạn. Những người Miên từ trong các sóc đồng loạt ùa ra, tay cầm phảng, cuốc xẻng, rựa…tay kia cầm chai rượu “phất xạ” (uống rượu), họ ào ạt xông vào các xóm làng của đồng bào ta như cơn gió lốc, rượt đuổi dân làng chạy tán loạn. Họ vừa chạy vừa thét : “Dơ! Cáp duồn! Bòn ơi!…” (Nào! Giết tụi Việt! Bây ơi!…” Trong cơn say rượu, say máu, họ gặp đàn bà chém theo đàn bà, trẻ con đâm theo trẻ con…gặp đâu giết đó. Bọn diệt chủng Khmer Đỏ cũng thế! Một khi tràn qua biên giới Việt Nam, họ đâu có lòng nhân đạo đến độ phải tập trung đồng bào ta vào các chùa chiềng để đọc kinh cầu nguyện trước khi hành quyết, hoặc dồn trẻ con vào các trường học vì sợ trẻ chết xuống âm phủ thành những con ma mù chữ?
• ĐIỂM BA: Nếu như muốn cưỡng bách trên 3, 4 ngàn người sống rải rác trong làng Ba Chúc với một địa thế hiểm trở như thế, cách biên giới Việt – Miên khoảng 7 km và cách con kinh Vĩnh Tế khoảng 5 km. Chúng tôi nghĩ, bọn diệt chủng Pôn Pốt phải huy động bao nhiêu sư đoàn Khmer Đỏ mới làm nổi việc đó? Và làm thế nào những sư đoàn nầy lọt qua tuyến phòng thủ biên giới Tây Nam dầy đặc của 3 sư đoàn chính quy 4, 8 và 330 của QĐND và 2 trung đoàn cơ động tỉnh với lực lượng yểm trợ hùng hậu gồm: thiết giáp, pháo binh và không quân đóng tại căn cứ Trà Nóc? Và hơn thế nữa, bọn Khmer Đỏ làm thế nào kéo dài cuộc thảm sát trong suốt 11 ngày đêm mà các đơn vị chịu trách nhiệm phòng thủ biên giới kể trên không hay biết và hoàn toàn không phản ứng gì cả khi nghe tiếng súng nổ? Tưởng cũng xin nhắc lại: Trước 30/4/1975, Quân Đoàn IV và Quân khu 4 chỉ có 3 sư đoàn chủ lực 7, 9 và 21 / BB và nếu như 3 sư đoàn nầy được phối trí, tập trung vào nhiệm vụ phòng thủ biên giới phía Tây Nam thì chưa chắc một con chuột chui qua lọt, đừng nói chi một đơn vị nhỏ của quân xâm lược CSBV.
• ĐIỂM BỐN: Thời điểm bọn Khmer Đỏ thảm sát dân làng Ba Chúc từ 18 /4 /1978 đến 29 /4 /1978 lại càng không hợp lý. Vì trong thời gian đó, ở bên kia biên giới, cuộc thanh trừng nội bộ đang xảy ra gay gắt và quyết liệt ở Quân Khu Đông sắp lên đến cao điểm. Làm sao Pôn Pốt có thể điều động lực lượng Khmer Đỏ vượt biên tấn công Việt Nam?
• ĐIỂM NĂM: Người nông dân Việt Nam nói chung và miền Tây Nam Bộ nói riêng, họ chỉ di dân vào các điểm tập trung dưới sự bảo vệ an ninh của quân đội VNCH. Hệ thống “Ấp chiến lược” được thiết lập trong thời chiến tranh là một thí dụ cụ thể. Điều nầy phải là cán bộ địa phương và bộ đội CSVN mới có thể tập trung dân làng Ba Chúc vào các CHÙA & TRƯỜNG HỌC đã chỉ định sẵn theo kế hoạch để ra tay tàn sát đồng loạt. Và sư đoàn 30 (tên gọi tắt của đồng bào địa phương) chính là sư đoàn 330 chỉ định cuộc giết người tập thể nầy vào đêm 18 /4 /1978. Vì SĐ 330 được thành lập tại MNVN trước khi tập kết ra Bắc do Tướng Đồng văn Cống làm Tư lệnh thì dân làng Ba Chúc mới có lòng tin đi theo chúng vào các chùa và trường học để được chúng bảo vệ an ninh. Sau đó, chúng khóa chặt cửa lại. Chờ khi đem đến, bộ đội CSVN đội lốt quân Khmer Đỏ kéo đến giết sạch, đốt sạch đúng như lời tố cáo của ông Trần H. và đó sự thật không thể chối cải. Hiện nay, một vài nhân chứng còn sống sót như bà Trần thị C, ông Nguyễn văn Ch…và một nhân chứng quan trọng là một thầy giáo cấp 2 ở kinh Vĩnh Tế họ Trần đã dám nói lên sự thật với đồng bào nên bị sa thải khỏi nhiệm sở và bị tên Giám Đốc Công An tỉnh An Giang – bí danh Sáu Nhỏ – bắt giam 2 năm để cảnh cáo.
• ĐIỂM SÁU: Tại sao bọn CSVN mở cuộc thảm sát tập thể dân làng Ba Chúc, cách biên giới đến 7 km? Trước năm 1975, có ai đặt chân lần đầu đến Ba Chúc dưới chân làng Ba Chúc dưới chân núi Tượng và bên kia núi Dài, đều ngạc nhiên trước hết là nhìn đâu đâu cũng thấy chùa và đa số chùa nào cũng giữ theo truyền thống là lợp lá. Riêng tại làng Ba Chúc có khoảng 15.000 tín đồ Bửu Sơn kỳ Hương thờ vị Giáo Tổ Đức Phật Thầy Tây An, lấy giáo lý PGHH do Đức Huỳnh Giáo Chủ đề xướng: Tứ Ân, Bát Nhẫn và tám Điều Răn của Đức Thầy để tu thân. Điều nầy chúng minh dã tâm của bọn CSVN vừa tiêu diệt tín đồ PGHH, vừa đốt luôn các chùa chiềng, nơi tín đồ PGHH thờ phượng đấng thiêng liêng, rồi đổ tội diệt chủng cho bọn Khmer Đỏ đã biến mất về phía bên kia biên giới, thế là xong! Những việc giết người tập thể là sách lược của bọn CSVN, có tính toán tinh vi và được thực hiện từng bước theo kế hoạch được dàn dựng hẳn hoi. Đây là độc chiêu “nhất tiển hạ song điêu” của bọn CSVN.
…..
BIẾN CỐ LÀNG BA CHÚC, TỈNH AN GIANG VÀO THÁNG 4/ 1978
Nguyễn Vĩnh  Long Hồ
2. PHẦN II
Nội dung và chi tiết PHẦN I kể trên, tôi đã đúc kết lại thành một bài viết với chủ đề: “Mở lại hồ sơ CSVN thảm sát 3,157 đồng bào làng Ba Chúc, tỉnh An Giang đêm 18/ 4/ 1978” đã được đưa lên mạng Người Việt Online ngày 3 tháng 5 năm 2004 lúc 2:59 PM.
Sau khi bài viết nầy đã được đưa lên mạng thì đúng 7 ngày sau, ông LỤC TÙNG từ trong nước, viết một phóng sự – ghi chép với tựa đề “BA CHÚC NGÀY 16 THÁNG 3…” đưa lên báo Lao Động Online số 131, ngày 10 tháng 5 năm 2004. Xin tóm lược vài điểm chính của bài báo nầy:
• Nơi đây, đúng 3 năm sau ngày thống nhất đất nước, bè lũ diệt chủng Pôn – Pốt đã xua quân vượt biên giết 3.574 thường dân bằng những hình thức dã man. Để tưởng nhớ những người dân vô tội, hằng năm vào ngày 16 tháng 3 A.L, chính quyền và nhân dân nơi đây tổ chức ngày giỗ hội. Giỗ hội lần thứ 26 năm nay nhằm ngày 4. 5. Tôi (Lục Tùng) lật sổ tay, đoạn ghi lại số liệu của ỦY BAN TRUNG ƯƠNG ĐIỀU TRA TỘI ÁC CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC trong 11 ngày đêm từ 14 đến 25/ 4 /1978. bè lũ Pôn – Pốt đã sát hại tổng cộng 3.574 thường dân.
• Trên đường dẫn chúng tôi (Lục Tùng) đến nhà bà Hà thị Nga, một trong số 3 người sống sót trong tầm diệt chũng, ông Trần Văn Nhi – nguyên Phó Chủ Tịch thị trấn Ba Chúc – không nén được xúc động nói: “Tôi đã đi qua hai cuộc chiến tranh, đánh Pháp, đuổi mỹ, nhưng chưa bao giờ thấy cảnh người ta dùng súng đạn để giết hơn 200 người dân đang cầu nguyện trong chùa như lần ấy…” Theo lời ông Nhi, sau nạn diệt chủng Ba Chúc giống như một như một bãi đất hoang tàn, toàn xã có 3.574 người bị sát hại, trong đó có 100 hộ bị giết sạch…
• Ông Lục Tùng mô tả ngày giỗ hội như sau: “Hôm nay ngày giỗ hội 16 tháng 3…”, vị chánh bái vừa cất giọng, cả không gian tỉnh lặng đột nhiên vỡ tung bởi tiếng nấc nghẹn ngào xen lẫn những tấm thân ngã quỵ…”(ngưng trích). Nhưng, tấm hình ghi lại một góc nhà mồ ngày giỗ hội thật tương phản, chỉ đếm được có 7 người đứng bên cạnh khung hộp kính hình bát giác, chứa đựng 1.159 bộ hài cốt của nạn nhân.
YẾU TỐ THỜI GIAN “TIỀN HẬU BẤT NHẤT”:
Theo ông Lục Tùng, khu vực nhà mồ Ba Chúc được BỘ VĂN HÓA XẾP HẠNG CẤP QUỐC GIA, con số nạn nhân là 3.574 người và thời gian bắt đầu cuộc thảm sát kéo dài 11 ngày đêm từ 14 đến 25/ 4 /1978 do Ủy Ban Trưng ương Điều tra Tội ác Chiến tranh Xâm lược ghi nhận. Nhưng, tại sao bọn lãnh đạo CSVN lại ghi nhận móc thời gian từ 18 đến 29/ 4/ 1978 (sai biệt trước và sau 4 ngày) để làm gì?
Một câu hỏi được đặt ra: Thời gian chính xác xảy ra cuộc thảm sát 3.157 (hay 3.574) đồng bào vô tội làng Ba Chúc, tỉnh An Giang vào ngày 14 hay ngày 18 tháng 4 năm 1978? Chánh quyền CSVN phải biết rõ điều nầy hơn ai hết!
Cần phải nói rõ thêm là khoảng thời gian từ 14/4 đến 18/4 D.L đều rơi vào ngày LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CHOL-CHNAM-THMAY CỦA DÂN TỘC KAMPUCHEA. Chắc chắn khoảng thời gian đó, tên đồ tể Pôn – Pốt và quân Khmer Đỏ không bao giờ khai sát giới, tàn sát 3.574 dân làng Ba Chúc trong các chùa chiền.
LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CHOL-CHNAM-THMAY CỦA DÂN TỘC KAMPUCHEA:
Là lễ mừng năm mới, lễ hội trọng đại và thiêng liêng nhất trong năm của người Kampuchea (tương tự như Tết Nguyên Đán của người VN). Lễ hội chính thức bắt đầu từ 1 đến 3 tháng Chét theo Phật Lịch, rơi vào ngày 14/4 Dương lịch (năm nhuận thì bắt đầu vào ngày 13/4). Trong 3 ngày lễ hội (năm nhuận là 4 ngày) mang đậm nét văn hóa Phật Giáo Tiểu Thừa, từ thời gian gắn liền với Phật Lịch, địa điểm tổ chức tại các chùa và nghi thức tụng kinh cầu phước, dâng cơm cho sư sãi và chủ tế hành lễ là các vị sư sãi, nên ngoài ý nghĩa chúc mừng năm mới, còn là làm phước của đồng bào Kampuchea.
Lễ hội còn có ý nghĩa tống tiễn mùa nắng, bước sang thời kỳ có mưa để kịp thời vụ. Bà con tiễn đưa thần TÊVÊDA CŨ (thần coi sóc cũ), đón thần TÊVÊDA MỚI. Trong dịp nầy, ngoài cúng lễ, bà con thường hỏi thăm nhau và chúc mừng lẫn nhau. Buổi tối có đốt pháo thăng thiên. Ban ngày tham dự các trò chơi như thả diều, đánh quay lửa…Trai gái trong làng múa Roam Vông, Lâm Thol, hát Dù Kê, chọi trâu…Vì vậy, tôi dám khẳng định rằng:
• Cho dù tên đồ tể Pôn – Pốt và quân Khmer Đỏ dù có khát máu đến đâu, cũng không vượt biên tấn công làng Ba Chúc, khai sát giới, tàn sát 3.574 dân lành vô tội trong 4 ngày lễ hội truyền thống CHOI-CHNAM-THMAY của dân tộc Kampuchea. Việc ông Trần văn Nhi cáo buộc quân Khmer Đỏ dùng súng đạn để giết hơn 200 người dân đang cầu nguyện trong chùa nhằm che đậy tội ác diệt chủng của quân đội CSVN mà thôi.
• Dân tộc Kampuchea theo Phật Giáo Tiểu Thừa. Họ kính trọng sư sãi một cách tuyệt đối. Ngôi chùa là trung tâm sinh hoạt văn hóa theo nghi lễ cổ truyền, nơi tổ chức các lễ hội hàng năm, là nơi tàng trử  kinh Phật. Bản thân người dân Kampuchea cũng phải trải qua một thời gian niên thiếu ở trong chùa để học giáo lý nhà Phật, đạo lý làm người trước khi ra đời. Cho nên, bộ đội CSVN tập trung dân làng Ba Chúc vào các chùa chiền để tàn sát tập thể rồi vu oan, giá họa cho quân diệt chủng Khmer Đó là một hành động ngu xuẩn, thiếu khôn ngoan, vì ngôi chùa đối với người Kampuchea là đền thiêng, bọn diệt chủng Khmer Đỏ không bao giờ dám giết người trong các ngôi chùa, rồi phóng hỏa đốt chùa như bọn Lảnh đạo CSVN đã tưởng tượng. Hành động giết người tập thể dã man nầy chỉ có bộ đội CSVN vô thần mới dám làm, như chúng đã làm trong biến cố TẾT MẬU THÂN1968 tại HUẾ.
Những vụ giết người tập thể như vậy, giải thích theo ngôn từ của TROTSKY: “Chẳng có ai là đao phủ, chỉ có nạn nhân.” Đúng vậy, cho dù nhân chứng có thấy mặt đao phủ thật sự là bộ đội CSVN, cải trang thành quân Khmer Đỏ, họ có dám đứng tố giác hay không? Không ai còn lạ gì thủ đoạn “giết người bịt miệng” của bọn CSVN. Làm sao những người được chánh quyền CSVN địa phương đưa ra làm nhân chứng, liệu họ có dám nói lên sự thật hay không? Chỉ cần một cái gật đầu, xác nhận bọn CSVN là lũ giết người thì đã toi mạng rồi!
KẾT LUẬN:
Chúng tôi hy vọng “ỦY BAN TRUY TỐ TỘI PHẠM CHỐNG NHÂN LOẠI” tiến hành thu thập các tài liệu để làm sáng tỏ về vụ thảm sát nầy và mở lại: “HỒ SƠ CSVN THẢM SÁT 3.574 ĐỒNG BÀO TẠI LÀNG BA CHÚC, TỈNH AN GIANG TRONG THÁNG 4/ 1978” để truy tố tội ác diệt chủng của bọn lãnh đạo Đảng CSVN ra trước TÒA ÁN QUỐC TẾ để đền tội.
Nguyễn Vĩnh Long Hồ
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Chiến tranh Đông Dương 3 của Hoàng Dung.
- Nửa tháng trong miền Thất Sơn của Nguyễn văn Hầu
- Tài liệu giải mật về cuộc chiến Hoa Việt của Lâm Lễ Trinh
- Thư tố cáo tội ác bọn CSVN của ông Trần H.
- Câu chuyện ngôi làng Ba Chúc ở biên giới Miên Việt của HoàngQuý
- Ba Chúc ngày 16 tháng 3…Phóng sự của Lục Tùng.
- When the Khmer Rouge came to kill in Vietnam của James Pringle.
…..
BIẾN CỐ LÀNG BA CHÚC, TỈNH
AN GIANG VÀO THÁNG 4/ 1978
Nguyễn Vĩnh Long Hồ
3. PHẦN III
 IMG.627
Bài viết TỘI ÁC CSVN TRONG BIẾN CỐ LÀNG BA CHÚC, AN GIANG VÀO THÁNG 4/ 1978 (Phần I & II) đã được post lên: TAKE2TANGO…(mục Đàn Ngang Cung) ngày 3/27/ 2009 lúc 9:59:06 AM và VĂN TUYỂN 2009-03-27 lúc 12:03:42. Và số độc giả theo dõi trên Văn Tuyển I tính đến ngày hôm nay, đã lên đến 19.825 người. Xin chân thành cám ơn quí vị độc giả đã theo dõi bài viết nầy.
Tháng 4 năm 2010, kỷ niệm đúng 32 năm, ngày dân làng BA CHÚC, tỉnh AN GIANG bị cái gọi là lực lượng vũ trang QĐND của CSVN tàn sát tập thể. Trong phạm vi bài nầy, tôi (tác giả) trước khi mở cuộc đối thoại với những quan điểm phản bác bài viết nầy, tôi xin nêu lên một vài điểm thắc mắc để “nhóm thầy cải” bào chữa tội ác của bọn lãnh đạo CS Hà Nội trả lời:
I. YẾU TỐ THỜI GIAN “TIỀN HẬU BẤT NHẤT”: TRỐNG ĐÁNH XUÔI, KÈN THỔI NGƯỢC:
Nhà mồ Ba Chúc là di tích được Nhà nước CSVN công nhận là DI TÍCH LỊCH SỬ vào năm 1980 là một địa điểm ghi dấu tội ác man rợ của bọn diệt chủng Pôn – Pốt qua 11 ngày từ 18/ 4/ 1978 đến 29/ 4/ 1978 đã xâm lược và sát hại hàng ngàn người dân xã BA CHÚC. Ông HOÀNG QUÝ cũng đã xác nhận thời gian nầy của Nhà nước CSVN đưa ra và ghi rõ số nạn nhân là 3.157 người cả Việt lẫn Miên.
Nhưng, ông LỤC TÙNG đã phản bác khoảng thời gian nầy do Nhà nước CSVN đưa ra là không đúng, bằng cách trưng dẫn tài liệu của ỦY BAN TRUNG ƯƠNG ĐIỀU TRA TỘI ÁC CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC ghi nhận: bắt đầu từ ngày 14/ 4/ 1978 đến 25/ 4/ 1978 và con số nạn nhân là 3.574 người. Rõ ràng, yếu tố thời gian xảy ra vụ thảm sát là “tiền hậu bất nhất” trống đánh xuôi, kèn thổi ngược, sai biệt trước sau 4 NGÀY để làm gì?
Ý kiến của ông Nguyễn Bình Đông trên TAKE2TANGO đưa ra:
Biến cố thảm sát Ba Chúc, tỉnh Châu Đốc cách đây 31 năm, còn 19 năm nữa sẽ viết thành sử (sau 50 năm, mới kể là sử, theo thời gian tính). Chắc chắn sẽ đi vào lịch sử Việt Nam, vì tôi viết sử nếu tôi chết sẽ có người khác viết…Trong bộ chính trị cộng sản Việt Nam đâu có ai già?
Câu hỏi được đặt ra với sử gia Nguyễn Bình Đông:
Tôi không biết sử gia Nguyễn Bình Đông căn cứ vào tiêu chuẩn nào phải chờ sau 50 năm sau mới kể là sử, theo thời gian tính? Tại sao không dám viết lại ngay “sự cố” nầy như trường hợp TRẬN CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT – TRUNG bùng nổ vào ngày thứ bảy 17/ 2/ 1979 lúc 3 giờ 30 sáng?
Chúng tôi xét thấy không cần thiết sử gia Nguyễn Bình Đông phải chờ đợi đến 50 năm sau mới viết thành sử. Chúng tôi chỉ yêu cầu Đảng CSVN và ông ghi rõ ràng, trung thực diễn tiến biến cố thảm sát dân làng Ba Chúc, tỉnh An Giang vào tháng 4 năm 1978 với đầy đủ chiết mà đồng bào Ba Chúc đòi hỏi:
1. THỜI GIAN:
Yếu tố thời gian quan trọng nhất và phải hoàn toàn chính xác như “sự cố” “Trận chiến biên giới Việt – Hoa” kể trên. Tôi không biết các sử gia trong Bộ Chính trị CSVN giải thích thế nào về cái yếu tố thời gian “TIỀN HẬU BẤT NHẤT”, trống đánh xuôi, kèn thổi ngược SAI BIỆT TRƯỚC SAU 4 NGÀY? Tại sao phải tránh né sự thật?
2. KẾ HOẠCH PHÒNG THỦ BIÊN GIỚI TÂY – NAM:
Yêu cầu trưng dẫn sơ đồ trận liệt phân chia khu vực trách nhiệm phòng thủ của ba Sư đoàn chính quy QĐND: 4, 8 và 330 và 2 Trung đoàn cơ động tỉnh với những chi tiết:
KẾ HOẠCH PHÒNG THỦ:
-Phòng thủ chu vi, phòng thủ chiều sâu, phòng thủ chiều ngang, phòng thủ chiều rộng, phòng thủ lưu động, phòng thủ cố định, phòng thủ các yếu điểm…
-Kế hoạch phối hợp hỏa lực, hỏa lực hổ tương yễm trợ, pháo yễm, không yễm…
CÔNG SỰ PHÒNG THỦ:
-Vị trí các công sự phòng thủ: Pháo đài, chiến lũy, đài chỉ huy, tháp canh, chiến hào, chướng ngại nhân tạo, thiên nhiên như kinh Vĩnh Tế…
HÀNH ĐỘNG PHÒNG THỦ:
-Đào giao thông hào, hầm chông, mìn bẫy, khai quang địa thế, giàn quân, phản công…
TIỀN ĐỒN CHIẾN ĐẤU:
-Thiết lập tiền đồn chiến đấu ven biên.
-Hệ thống báo động bằng cách gây tiếng động, ánh sáng hỏa châu một khi phát hiện mưu toan xâm nhập của địch quân…
-Phòng thủ cố định nội vi và phòng thủ tích cực hoạt động ngoại vi vào ban đêm…
Kế hoạch phòng thủ biên giới phía Tây Nam vùng biên giới Việt – Miên trên đây, đối với các vị tướng Tư lệnh sư đoàn 4,8 và 330, dày dạn kinh nghiệm chiến trường còn rất nhiều khuyết điểm. Với quân số chính quy và địa phương ước tính trên 30.000 quân mà những viên tướng Tư Lệnh chiến trường không đủ khả năng bảo vệ nổi dân làng BA CHÚC chỉ có khoảng 15.000 dân, để lực lượng Khmer Đỏ của Pôn Pốt tung hoành ngang dọc suốt 11 ngày đêm, thảm sát trên 3.574 thường dân vô tội mà BTL/QK 9 đặt tại Cần Thơ đã án binh bất động, không có phản ứng gì cả là một chuyện KHÔNG THỂ TIN ĐƯỢC, giống như chuyện PHONG THẦN.
Vì vậy, tôi có một vài câu hỏi được đặt ra nhờ các sử gia trong BCT/ CSVN và ông Nguyễn Bình Đông trả lời, để làm sáng tỏ “sự cố” nầy:
1. Lúc lực lượng Khmer Đỏ tràn qua biên giới Miên – Việt tàn sát dân làng Ba Chúc trong 11 ngày đêm, bắt đầu vào ngày nào: ngày 14 hay ngày 18 / 4/ 1978? Có bao nhiêu nạn bị thảm sát 3.157 hay 3.574 người? Yêu cầu giải thích rõ ràng về khoảng thời gian “tiền hậu bất nhất”, trống đánh xuôi, kèn thổi ngược nầy trước dư luận quần chúng.
2. Nếu đã có đủ yếu tố chính xác, tại sao Đảng CSVN không dám đúc kết, gởi lên “ỦY BAN TRUY TỐ TỘI PHẠM CHỐNG NHÂN LOẠI” để truy tố Pôn Pốt lãnh tụ Khmer Đỏ ra trước TÒA ÁN QUỐC TẾ LAHAY? Tôi thách thức Đảng CSVN và sử gia Nguyễn Bình Đông công khai hóa “DIỄN TIẾN CUỘC THẢM SÁT DÂN LÀNG BA CHÚC CỦA QUÂN KHMER ĐỎ VÀO THÁNG 4/ 1978” trên diễn đàn với nầy với đầy đủ chi tiết, làm sáng tỏ “sựcố”nầy:
-Tên những sư đoàn thuộc lực lượng vũ trang Khmer Đỏ tham dự trận tấn công.
-Quân số ước tính bao nhiêu?
-Ai làm Tư lệnh các Sư đoàn Khmer Đỏ nầy?
-Trận tấn công bắt đầu lúc nào? Yêu cầu phải ghi rõ năm, tháng, ngày và giờ thật chính xác.
-Chiến thuật tấn công của Khmer Đỏ.
-Quân Khmer Đỏ dùng phương tiện gì để vượt qua kinh Vĩnh Tế để tấn công dân làng Ba Chúc, cũng như lúc triệt thoái về bên kia biên giới?
-Các mũi tấn công của quân Khmer Đỏ vào hệ thống phòng của đơn vị nào chịu trách nhiệm?
-Lực lượng Khmer Đỏ của Pôn Pốt đã lùa trên 3000 dân làng Ba Chúc vào những CHÙA & TRƯỜNG HỌC nào, trong 11 ngày đêm để tàn sát? Xin đánh dấu từng tọa độ của những “CHÙA & TRƯỜNG HỌC” trên bản đồ tỉnh Ba Chúc, kèm theo hình ảnh càng tốt!
-Sau khi quân Khmer Đỏ rút về bên kia biên giới, đếm được bao nhiêu xác chết và vũ khí địch bỏ lại chiến trường?
-Tổn thất về nhân mạng của lực lượng vũ trang QĐND là bao nhiêu?
-Cuộc quần thảo giữa sư đoàn 4, 8. 330 và 2 trung đoàn cơ động tỉnh và quân Khmer Đỏ trong suốt 11 ngày đêm mà sau khi thu dọn chiến trường, chỉ đếm được xác 3.574 dân làng tại hiện trường. Còn Địch và Bạn đều bình yên vô sự, không có tổn thất về nhân mạng là chuyện KHÔNG THỂ TINĐƯỢC!
II. XUẤT XỨ 1.159 HỘP SỌ NGƯỜI TRONG NHÀ MỒ BA CHÚC Ở ĐÂU RA?:
Căn cứ vào bài viết CÂU CHUYỆN NGÔI LÀNG BA CHÚC Ở BIÊN GIỚI MIÊN VIỆT của ông Hoàng Quý đưa lên lenduong.net ngày 5/02/ 2004 viết rằng: “Khoảng 1700 sọ người nhìn thấy qua cửa kiếng, phân loại theo tuổi (từ 3 tuổi trở lên), nam, nữ và không muốn được hỏa thiêu theo nghi thức thiêu của Phật giáo …ngưng trích”. Trong bài viết của ông Lục Tùng còn thấy những vết thủng lỗ chỗ trên hộp sọ trưng bày trong nhà mồ.
Kể từ khi dân làng Ba Chúc, tỉnh An Giang bị thảm sát vào tháng 4 năm 1978 đến khi nhà mồ Ba Chúc, được Nhà nước CSVN công nhận là di tích lịch sử vào năm 1980, chỉ cách nhau có 2 năm. Với chừng ấy thời gian, xác chết của những nạn nhân chắc chắn chưa hoàn toàn phân hủy (tối thiểu phải trên 4 hoặc 5 năm). Làm sao bọn CS Việt Nam tìm đâu ra chừng ấy hộp sọ để đem trưng bài trong nhà mồ Ba Chúc?
Theo sự suy đoán của tôi: Để có 1700 hộp sọ người nầy dùng vào mục đích tuyên truyền, trước khi đem chôn xác của các nạn nhân, chánh quyền địa phương đã cho lén cắt đầu họ rồi đem chôn riêng một nơi bí mật nào đó, để mau chóng bị phân hủy. Đây là một hành động dã man có chủ đích từ trước.
Nhưng, đối với người CSVN xảo quyệt và man trá, họ giải quyết vấn đề nầy rất dễ dàng. Trước đây, khi san bằng các NGHĨA TRANG QUÂN ĐỘI VNCH trên khắp 4 vùng chiến thuật, họ đã cất giữ những hộp sọ của những người lính QĐVNCH vô thừa nhận, để sử dụng vào việc tuyên truyền khi cần thiết.
 III. LÀNG BA CHÚC KHÔNG PHẢI LÀ MỤC TIÊU TẤN CÔNG CỦA KHMER ĐỎ:
Bọn CS Hà Nội chọn làng Ba Chúc, tỉnh An Giang để tắm máu 3157 hay 3574 đồng bào ruột thịt vào 14 hay 18 tháng 4 năm 1978, là một hành động sai lầm rất lớn về mặt tuyên truyền và sự thật trước sau gì cũng bị phơi bày ra ánh sáng. Bọn CS Hà Nội đã quên rằng, bên cạnh tên đồ tể Pôn Pốt lúc bấy giờ, luôn có mặt hàng tá cố vấn quân sự Trung Cộng chỉ đạo về mặt chánh trị và quân sự cho Pôn Pốt.
Chắc chắn bọn cố vấn Trung Cộng sẽ ngăn cản hành động phiêu lưu quân sự nầy của Pôn Pốt. Vì nếu đưa hàng ngàn quân Kmer Đỏ vượt qua kinh Vĩnh Tế để tiêu diệt dân làng Ba Chúc cách kinh Vĩnh Tế 5, 6 km, đa số là tín đồ PGHH vốn không hận thù với dân Kampuchia. Bọn cố vấn Trung Cộng thừa biết rằng muốn đưa quân vượt qua kinh Vĩnh Tế chỉ có ba cách:
• Đưa toán công binh chiến đấu áp sát biên giới Miên – Việt cùng với phương tiện để chuẩn bị lắp ráp cầu nổi.
• Lính Khmer Đỏ sẽ mang phao cá nhân lội qua kinh Vĩnh Tế.
• Dùng xuồng ghe để đưa quân vượt kinh Vĩnh Tế.
Dùng cách nào, cũng không đạt được yếu tố “BẤT NGỜ” và không thể nào lọt qua khỏi mạng lưới tình báo nhân dân của chánh quyền địa phương. Kinh Vĩnh Tế là chướng ngại vật thiên nhiên, đưa hàng ngàn quân vượt qua con kinh nầy là một hành động tự sát vì phi trường Trà Nóc và Cần thơ cách biên giới Việt – Miên khoảng 120 km đường chim bay. Nếu dùng trực thăng vận, đổ quân lên biên giới để giải tỏa áp lực địch tại làng Ba Chúc chỉ mất khoảng 1 giờ bay là cùng, còn dùng loại phi cơ MIG lên xạ kích hoặc oanh tạc là quân Khmer Đỏ sẽ thây phơi trên kinh Vĩnh Tế là cái chắc!
Trong binh pháp Tôn Tử nói: “Không có lợi, không động binh. Không được gì không dùng binh lực. Mọi hành động chính trị và quân sự phải dành cho được một lợi ích!” Với tập đoàn cố vấn Trung Cộng bên cạnh, còn lâu Pôn Pốt mới dám làm trái ý, điều động lực lượng Khmer Đỏ vượt kinh Vĩnh Tế làm một phiêu lưu quân, tấn công làng Ba Chúc chỉ hao binh tổn tướng, không được lợi lộc gì cả. Cha nó lú thì chú nó khôn!
Nếu như Pôn Pốt muốn đánh Việt Nam để gây tiếng vang hoặc dằn mặt bọn CSVN. Bọn cố vấn Trung Cộng sẽ chọn Hà Tiên vì thị xã Hà Tiên trù phú, cách biên giới Miên chỉ có 5 km. Pôn Pốt sẽ điều động lực lượng Khmer Đỏ tập trung tại cảng KOMPHONG SOM rồi dùng tàu đổ bộ bất ngờ đổ quân xuống bờ biển Hà Tiên, đánh nhanh, rút gọn bằng đường biển và đường bộ về bên kia biên giới đều dễ dàng và rất thuận lợi.
IV. KẾT LUẬN:
Để trả lời những thắc mắc của sử gia Nguyễn Bình Đông về tôi (tác giả) bài viết nầy: Mục đích đưa ra bài nầy lên net để làm gì? Có thể một cá nhân, cũng có thể một tổ chức, có thể từ gián điệp Trung Cộng, Việt Cộng, PGHH hay một tổ chức nào đó…
Xin trả lời:
Mục đích duy nhất của tôi đưa bài viết này lên net: “SỰ THẬT PHẢI TRẢ LẠI CHO LỊCH SỬ” chỉ có vậy thôi!
Sử gia NBĐ chụp cho tôi cái mũ gián điệp Trung Cộng, Việt Cộng… cái chiêu rẻ tiền cũ rích này, xin để độc giả phê phán! Đồng thời nó đã chứng minh một sự thật phủ phàng: sự khốn cùng của CHỦ NGHĨA BIỆN CHỨNG. Nếu các sử gia của Đảng CSVN và NBĐ còn có chiêu nào khác hay hơn cái chiêu chụp mũ? Xin giở hết ra đi! Tôi sẽ tiếp tục đối thoại với quý vị “thầy cãi” nầy vào một dịp khác: tháng 4 năm 2011.
PHẦN IV
Tháng 4 năm 2011, kỷ niệm 33 năm ngày dân làng Ba Chúc, tỉnh An Giang bị cái gọi là lực lượng vũ trang QĐND tàn sát tập thể. Giữ đúng lời hứa, tôi xin giở lại HỒ SƠ TỐ CÁO TỘI ÁC CSVN TRONG BIẾN CỐ LÀNG BA CHÚC, TỈNH AN GIANG VÀO THÁNG 4 NĂM 1978.
Sau một năm tìm tòi tài liệu, lục loại từng thư viện Hoa Kỳ để kiếm những tài liệu chứng minh tội ác của Pôn Pốt và lực lượng Khmer Đỏ đã tàn sát gần 2 triệu đồng bào ruột thịt của họ trong chùa, rồi đốt chùa tại Kampuchia trong suốt thời gian Pôn Pốt trị vì xứ Chùa Tháp. Ngay cả cuốn MILLENNIUM CHILDREN’S HISTORY OF THE 20th CENTURY (do nhà xuất DK Publishing Book 95 Madison Avemue, NY 10016) trang 307, ghi nhận cái chết của tên lãnh tụ khát máu nầy như sau: “APRIL 1998, Pol Pot, notorious Khmer Rouge leader responsible for millions of deaths in the KILLING FIELDS OF CAMBODIA, dies at 72” (Tháng 4 năm 1998, Pol Pol, ai cũng biết là lãnh đạo của Khmer Đỏ, người chịu trách nhiệm của hàng triệu cái chết trong những CÁNH ĐỒNG TỬ THẦN ở CAMBODIA, chết lúc 72 tuổi).
Tôi có đến sinh hoạt với cộng đồng “CAMBODIAN COMMUNITY” tại hai ngôi chùa lớn trong vùng Virginia và Maryland: Cambodian Buddist Temple – 13800 New Hampshire Ave, Silver Spring, MD và chùa Wat Yarnna Rangseei Buddish Monastery 22437 Ceder Green Rd, Sterling, VA. Tôi đã gặp anh bạn M. Sok đồng bào Mỹ gốc Cambodia giới thiệu tôi với một số sư sãi trong chùa và họ đã xác nhận rằng: Trong những năm Pol Pot cai trị Cambodia, sư sãi bị bắt buộc phải hoàn tục và tuyệt đối không có chuyện lực lượng Khmer Đỏ giết người tập thể trong chùa hoặc đốt chùa. Vì vậy, tôi có thể kết luận vấn đề nầy chỉ có bọn CSVN vô thần mới dám làm cái chuyện tày trời là tàn sát dân lành trong chùa rồi phóng hỏa ĐỐT CHÙA. Tôi dám thách thức BCT/TƯ/Đảng CSVN trưng dẫn một cuốn sách, tài liệu hoặc hình ảnh nào xuất bản tại phương Tây, xác nhận rằng Pol Pốt và lực lượng Khmer Đỏ đã giết người tập thể trong chùa rồi đốt chùa ở Cambodia trong ngày Lễ hội Chol-Chnam-Thmay, như bạo quyền CSVN đã cáo buộc họ đã thảm sát dân làng Ba Chúc trong những ngày lễ kể trên.
Riêng anh Sáu Lưỡi Lam, viết bình luận rằng: Chánh quyền CS địa phương biết trước lực lượng Khmer Đỏ sẽ mở cuộc tấn công làng Ba Chúc, nên tất cả lực lượng võ trang QĐND rút lui toàn bộ về tuyến sau để Khmer Đỏ tung hoành ngang dọc suốt 11 ngày đêm, mặc tình tàn sát dân làng Ba Chúc.
Điều nầy chứng tỏ rằng:
• Lưới tình báo nhân dân của chánh quyền CS địa phương rất tinh vi. Vậy xin cho biết tên những Sư đoàn Khmer Đỏ nào sẽ mở cuộc tấn công vào làng Ba Chúc? Viên Tư lệnh Sư đoàn hay Sư đoàn Trưởng tên họ gì? Quân số mỗi sư đoàn là bao nhiêu người?
• Lực lượng Khmer Đỏ tấn công làng Ba Chúc thảm sát 3.157 hay 3.574 dân lành trong suốt 11 ngày đêm, bắt đầu từ ngày 18/4/ 1978 đến 29/4/ 1978 hay bắt đầu từ 14/4/ 1978 đến 25/4/ 1978? Xin cho biết thời gian chính xác.
• Lực lượng Khmer Đỏ chính là Lực lượng vũ trang của sư đoàn 30 (hay sư đoàn bánh tét) hóa trang thành lính Khmer Đỏ. Đó cũng là lý do tại sao Bộ Tư Lệnh/ Quân Khu 9 tại Cần thơ án binh bất động.
• Lực lượng vũ trang QĐND lùi về tuyến sau để thực hiện kế hoạch bao vây GIẾT SẠCH – ĐỐT SẠCH – PHÁ SẠCH không cho một người nào chạy thoát về phía huyện Tri Tôn.
Trước khi tạm chấm dứt bài viết nầy, tôi xin có lời nhắn với bà Hoa Hướng Dương gì đó, đừng để tên tuổi của vị Giáo sư – Tiến sĩ VÕ TÒNG XUÂN khả kính, dấy máu đồng bào vô tội làng Ba Chúc. Xin cám ơn.
Nguyễn Vĩnh Long Hồ


BIẾN CỐ LÀNG BA CHÚC, TỈNH
AN GIANG VÀO THÁNG 4/ 1978
Nguyễn Vĩnh Long Hồ
4. PHẦN KẾT
 IMG.628

HUN SEN  PHẢI TRẢ SỰ THẬT LẠI CHO LỊCH SỬ CAMPUCHIA.
Trong dịp khánh thành khu di tích lịch sử Địa điểm thành lập Đoàn 125 tại ấp Suối Râm, xã Long Giao (huyện Cẩm Mỹ), tỉnh Đồng Nai vào sáng ngày 2 tháng 1 năm 2012. VnExpress có đặt câu hỏi với TT Hun Sen Campuchia:
-Thưa ông, tác giả Haish C. Mehta và Julie B. Mehta của cuốn “Hun Sen – Nhân vật xuất chúng” có kể lại rằng, ông đã “thể hiện sự phẩn nộ” khi có ý kiến đánh giá cuộc chiến 10 năm của VN ở Campuchia như là “xâm lược”. Theo ông, vì sao lại có cách hiểu như vậy về cuộc chiến đó?”
ĐÁP:
-Không riêng gì ông bà Mehta, mà nhiều người từng nói với tôi như vậy. Tôi kịch liệt bác bỏ điều nầy. Sự hiện diện của quân đội Việt Nam là nhằm đáp ứng yêu cầu của nhân dân Campuchia vì sự sống của nhân dân chúng tôi, điều đó đã dẫn đến sự hồi sinh của Campuchia ngày hôm nay.
-Quốc vương Sihanouk cũng từng kêu gọi sự giúp đở của Việt Nam để chống lại Lon Nol. Khi chúng tôi đang phải đấu tranh chống lại chế độ diệt chủng Pol Pot, tại sao chúng tôi không thể kêu gọi nhân dân VN đến giúp chúng tôi?
HỎI:
-Vậy nên hiểu thế nào về việc 30 năm sau Liên Hợp Quốc mới tổ chức được một phiên tòa xét xử tội diệt chủng của chế độ Khơme đỏ và tại đó một số bị cáo đã cáo buộc quân tình nguyện Việt Nam trong việc giúp đở Campuchia là sai trái?”
ĐÁP:
-Tôi đã nghe Nuon Chea, một trong những lãnh đạo chế độ Pol Pot được xét xử tại tòa án trong mấy tuần lễ vừa qua, không những không nhận lỗi lầm của mình mà còn tố cáo việc nầy việc khác. Đây chỉ là những lời tự bào chữa, nhằm làm nhẹ tội của những kẻ sát nhân, diệt chủng mà thôi. Kẻ trộm không bao giờ thừa nhận rằng nó là tên ăn trộm. (Nhận xét của TT Hun Sen rất chính xác. Những kẻ bán nước cho Trung Cộng như Hun Sen và Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng, Tô huy Rứa, Nguyễn Chí Vịnh… không bao giờ dám thừa nhận mình là những tên phản quốc đã bán nước cho Tàu Cộng cả, đúng không?)
*
 Tại phiên tòa của LHQ ở thủ đô Nam Vang xét xử ba nhà lãnh đạo cao cấp trong thời Khmer Đỏ vào hôm thứ ba ngày 13/12/2011, các bị cáo trong vụ án thứ hai phải đối mặt với câu hỏi về vai trò của mình trong chế độ cầm quyền, khiến gần 2 triệu người Campuchia bị giết. Các cựu lãnh đạo Khmer Đỏ vẫn giữ lập trường rằng: “VIỆT NAM LUÔN TÌM CÁCH SÁT NHẬP CAMPUCHIA VÀ NẾU KHÔNG CÓ KHMER ĐỎ THÌ CAMPUCHIA ĐÃ BỊ VIỆT NAM NUỐT CHỬNG VỚI CHỦ TRƯƠNG DIỆT CHỦNG DÂN TỘC CAMPUCHIA.”
Muốn biết những lời phát biểu của TT Hun Sen và tố cáo của các nhà Lãnh đạo Khmer Đỏ cáo buộc cho Việt Nam “XÂM LƯỢC” Campuchia đúng hay sai? Tôi xin đưa ra những dẫn chứng cụ thể trong thời kỳ Khmer Đỏ cai trị Campuchia để quý vị độc giả nhận xét, đánh giá và phê phán.
I. CHÁNH QUYỀN CAMPHUCHIA DÂN CHỦ:
NGÀY 17 THÁNG 4 NĂM 1975: quân Khmer Đỏ tiến quân vào thủ đô Nam Vang. Lúc bấy giờ, trên danh nghĩa chính phủ Campuchia dân chủ là chánh phủ Hoàng Gia Thống Nhất Quốc Gia Campuchia, một liên minh giữa hai phe Sihanouk và Khmer Đỏ được thành lập năm 1970 tại Bắc Kinh để đối phó chánh phủ Cộng Hòa của tướng Lon Nol. Chánh phủ đó do Sihanouk làm Quốc Trưởng, Pen Nouth Thủ Tướng, Khieu Samphan Phó Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng Quốc Phòng, Hu Nim Bộ Trưởng Thông Tin, Hou Youn Bộ trưởng Nội Vụ.
Thật ra, vừa đến Nam Vang, Khmer Đỏ chánh thức nắm chủ quyền cả nước Campuchia, bắt đầu thanh toán các thành phần đối lập, phản cách mạng và thực hiện công tác di tản dân thành phố về nông thôn.
Đảng Cộng sản Campuchia, dưới cái tên “Tổ Chức” (Angkar) bắt đầu cũng cố quyền hành. Ban Thường Vụ Trung Ương Đảng lúc đó gồm: Pol Pot, Nuon Chea, Ta Mok, So Phim, Ieng Sary, Von Verth, Son Sen và Takeu. Sau Pol Pot, Nuon Chea là nhân vật thứ hai đặc trách Vụ Tổ Chức (chức vụ nầy tương đương với Lê Đức Thọ của CSVN)
THÁNG 7 NĂM 1975: Pol Pot triệu tập đại hội các Bí Thư Khu Uûy để thống nhất quân đội và phân chia khu vực trách nhiệm. Campuchia được chia ra làm 7 khu như sau:
•       TA MOK trách nhiệm khu Tây Nam.
•       NHIM ROS trách nhiệm khu Tây Bắc.
•       KHOY THUON trách nhiệm khu Bắc.
•       SO PHIM trách nhiệm khu Đông.
•       KE PAUK trách nhiệm Trung Ương
•       MEN SAN trách nhiệm khu Đông Bắc.
•       CHU CHET trách nhiệm khu Tây.
Tất cả các Bí thư Khu ủy chấp thuận đường lối “Cộng Sản Quá Khích” của Pol Pot. Còn Quốc Trưởng Sihanouk và Thủ Tướng Pen Nouth chỉ là hư danh không một chút quyền hành và gần như bị giam lỏng.
NGÀY 5 THÁNG 1 NĂM 1976: Hiến pháp chánh thức của Campuchia ra đời, không có đoạn nào đề cập tới quyền tự do căn bản, chỉ nói đến chính sách cưỡng bách lao động. Theo Hiến Pháp, nước Campuchia sẽ có một Hội Đồng Chủ Tịch Nhà Nước do Quốc Hội bầu ra.
NGÀY 20 THÁNG 3 NĂM 1976: Quốc Hội Campuchia được bầu ra, đa số các đại biểu là Bí thư các Quân Khu và Chi Khu. Noun Chea được cử làm Chủ Tịch Quốc Hội. Khieu Samphan giữ chức vụ Chủ Tịch Hội Đồng Nhà Nước. So Phim đệ nhất Phó Chủ Tịch, Nhim Ros đệ nhị Phó Chủ Tịch. Còn ông Sihanouk từ đó bị quản thúc.
NGÀY 12 THÁNG 4 NĂM 1976: Chánh phủ chính thức của Khmer Đỏ ra mắt. Thành phần chánh phủ như sau:
•       Thủ Tướng: POL POT
•       Bộ Trưởng Ngoại Giao: IENG SARY.
•       Bộ Trưởng Quốc Phòng: SON SEN.
•       Phó Thủ Tướng đặc trách Kinh Tế: VON VERTH.
•       Bộ Trưởng Kỷ Nghệ: KHOY THUON.
•       Bộ Trưởng Thông Tin: HU NIM.
•       Bộ Trưởng Y Tế: THIOUM THIOEUN.
Tập đoàn lãnh đạo Khmer Đỏ đã kết hợp những thực nghiệm chủ nghĩa xã hội đẫm máu, rập khuôn của Stalin và Mao Trạch Đông với những kinh nghiệm lao động nô lệ dưới thời vua Jayavarman VII gần như điên cuồng. Nhưng, đường lối quá khích của Khmer Đỏ hơn cả Stalin, Mao và Hitler đã gây ra thảm kịch tự diệt chủng hơn ¼ dân số Campuchia.
Ngay từ ngày đầu tiên, song song với công tác tiêu diệt những phần tử  phản cách mạng gọi là “Ba Ngọn Núi Quyền Lực Phản Động” là Đế Quốc – Phong Kiến và Tư sản Mại Bản. Khmer Đỏ thực hiện ngay một cuộc cách mạng thứ hai là tiến thẳng lên XHCN và xây dựng một quốc gia Campuchia hùng mạnh trong vòng 10 năm bằng cách áp dụng chính sách kinh tế tập trung, cưỡng bách lao động toàn dân chúng để xây dựng một XHCN nguyên thủy. Trong suốt 4 năm Khmer Đỏ nắm chánh quyền, đã gây nên một không khí khủng bố đẫm máu và chết chóc trùm lên cả nước, giống như miền Bắc XHCN Việt Nam trong chiến dịch cải cách ruộng đất kinh hoàng từ năm 1955 – 1956
Về mặt lao động sản xuất, họ được đoàn ngũ hóa, tổ chức thành những công đoàn, nông trường làm cả nước biến thành một trại tập trung khổng lồ. Dân chúng phải làm mỗi ngày từ 6 giờ sáng đến 8, 9 giờ đêm. Mục tiêu đoàn ngũ hóa cả nước được Khiêu Samphan hoạch định trong luận án tiến sĩ tại Sorbonne năm 1959. Ông ta viết: “Sự tổ chứccó phương pháp, tiềm năng của quần chúng nông dân sẽ làm tăng hiệu năng sản xuất lên hàng trăm lần.”
Giống như Stalin trong thập niên 1930, Mao Trạch Đông trong thập niên 1960 và Hồ Chí Minh khi tiếp thu miền Bắc Việt Nam từ sau Hiệp định Geneve 1954. Chính sách hoang tưởng và quá khích của Khmer Đỏ đã đưa đến hậu quả kinh tế vô cùng tai hại bởi những cán bộ không có kinh nghiệm nông nghiệp và ngu dốt chỉ huy, khiến cho lao động cả nước kiệt quệ làm mức sản xuất bị phá sản.
Pol Pot đổ lổi cho những phần tử khả nghi phá hoại kinh tế, trong số nầy có Bộ trưởng Kinh Tế Khoy Thoun và Bí Thư Khu Uûy khu Tây Bắc Nhim Ros vì không đạt chỉ tiêu sản xuất. Sau cùng là những người bị tố cáo có “THÂN XÁC KHMER MÀ ĐẦU ÓC VIET NAM” kể cả những cán bộ cao cấp như Keo Meas (Lảnh tụ Cộng Sản Campuchia kỳ cựu, Bí thư thành ủy Nam Vang tới năm 1958, thân CSVN), Hu Nim, Von Verth. Vì vậy, Keo Meas bị lãnh án tử hình năm 1976, mở đầu một giai đoạn cắt đứt mọi quan hệ với Việt Nam một cách sâu rộng và công khai. Sau khi Keo Meas bị thanh toán, tập đoàn lãnh đạo Khmer Đỏ gồm Pol Pot, Noun Chea, Son Sen càng tin chắc là Việt Nam đang mưu toan phá hoại đảng nhằm thôn tính Campuchia để thành lập LIÊN BANG ĐÔNG DƯƠNG, nhất là sau khi Việt Nam ký thông cáo thân hữu với Lào vào tháng 12/ 1976.
Sau khi Mao Trạch Đông chết vào ngày 9/ 9/ 1976, các nhà lãnh đạo mới của Bắc Kinh tái xác nhận sự ủng hộ triệt để Đảng CS Campuchia, Pol Pot mới ra lệnh phát động chiến tranh biên giới trên qui mô rộng lớn hơn.
II. LIÊN XÔ & TRUNG CỘNG ĐỐI ĐẦU TRÊN ĐỊA BÀN CHIẾN LƯỢC ĐÔNG DƯƠNG:
LIÊN XÔ:
Với ý đồ bao vây Trung Cộng và suy yếu thế lực của Hoa Kỳ tại Châu Á – Thái Bình Dương, vào tháng 6 năm 1969, LEONID BREZHNEV đề nghị với một số quốc gia từ Trung Đông đến Nhật Bản để hình thành một tổ chức an ninh chung, bảo vệ hòa bình trong khu vực. Riêng ở Đông Dương, mục tiêu chiến lược của Liên Xô là hất ảnh hưởng của Hoa Kỳ và Trung Cộng ra khỏi Biển Đông nói chung và Đông Dương nói riêng, nhằm kiểm soát vịnh Cam Ranh và các hải cảng chiến lược để bành trướng lãnh thổ Đế Quốc Xô Viết và hổ trợ cho các đảng CS Đông Dương vào trong quỷ đạo của Liên Xô bằng cách viện trợ quân sự, kinh tế.
Sau ngày CSBV cưỡng chiếm MNVN, Lê Duẩn đưa nước VNCS vào vòng quỷ đạo của Liên Xô chống Trung Cộng. Liên Xô giúp 500 triệu mỹ kim cho ngân sách VNCS tài khóa 1976 và 3 tỷ mỷ kim cho kế hoạch ngũ niên 1976 – 1980. Trong lúc đó, Bắc Kinh chỉ viện trợ cho Hà Nội 200 triệu mỹ kim tượng trưng và cắt đứt ngân khoảng mới cho niên khóa 1977.
TRUNG CỘNG:
Sau ngày 30/ 4/ 1975, sự sụp đổ của chánh phủ VNCH và sự rút lui của quân đội Mỹ đã tạo nên một khoảng trống quyền lực tại vùng Đông Nam Á khiến Trung Cộng càng quan tâm đến tình hình an ninh trong vùng. Bị áp lực nặng nề của Liên xô ở biên giới phía Bắc, Trung Cộng không bao giờ muốn có một nước VNCS có khuynh hướng thân Liên Xô ở biên giới phía Nam, nhất là VNCS còn có âm mưu, toan thống trị toàn cõi Đông Dương để trở nên một thế lực quân sự hùng mạnh.
NGÀY 27 THÁNG 9 NĂM 1976: tại diễn đàn LHQ, Ngoại trưởng Trung Cộng là Kiều Quán Hoa một mặt tố Liên Xô muốn thay thế Hoa Kỳ khống chế Biển Đông và một mặt khác cảnh báo các quốc gia Đông Nam Á chớ dại “đón cọp vào ngã sau, trong khi vừa đuổi được chó sói ra cửa trước”.
Trước đó, tháng 9 năm 1975, nhân dịp Quốc Khánh của VNCS là dịp Trung Cộng cử tướng Trần Ích Liên, Ủy viên BCT và Tư lệnh Quân Khu Bắc Kinh làm trưởng phái đoàn, đồng thời mang ý nghĩa chính trị đặc biệt vì tướng Trần Ích Liên đã chỉ huy QĐND Trung Cộng đánh nhau với quân đội Liên Xô ở biên giới vào năm 1969. Trên đường đến Hà Nội, tướng Liên ghé thăm nhà máy gang thép Thái Nguyên do Trung Cộng giúp xây dựng. Tại đây, tướng Liên đọc diễn văn kêu gọi đấu tranh chống “Chủ nghĩa Bá Quyền” ám chỉ Liên Xô. Nhưng, bài diễn văn bị đục bỏ trên báo Đảng và đài phát thanh VN. Đài phát thanh Moscow công kích hành động của tên tướng nầy và gọi đó là hành động gây hấn với Liên Xô.
VIỆT NAM:
CUỐI THÁNG 9 NĂM 1975: Lê Duẩn và Lê Thanh Nghị, Chủ tịch Ủy Ban Kế Hoạch Nhà Nước sang thăm Bắc Kinh xin viện trợ. Trong buổi tiếp tân, Phó Thủ Tướng Đặng Tiểu Bình đề cập đến “Chủ nghĩa bá quyền” và ám chỉ rằng Việt Nam nên liên kết với Trung Cộng để chống lại Liên Xô.  Trong bài diễn văn đáp từ, Lê Duẫn đã không đề cập đến “chủ nghĩa bá quyền”. Sự gián tiếp từ chối không liên kết với Trung Cộng chống Liên Xô đưa đến kết quả là Trung Cộng từ chối viện trợ cho VNCS.
Một tháng sau, Lê Duẩn sang Liên Xô. Tại đây, Lê Duẩn ký với Liên Xô một thông cáo chung trong đó Việt Nam nhất trí với Liên Xô trong đường lối đối ngoại. Hà Nội mong muốn được Liên Xô thu nhận vào COMECON, HỘI ĐỒNG KINH TẾ HỖ TƯƠNG CỘNG SẢN nên Lê Duẩn đi theo con đường Liên Xô chống Trung Cộng. Đối với Trung Cộng, Việt Nam dứt khoát đứng trong hàng ngũ đối lập với Trung Cộng.
Tưởng cũng nên nhắc lại:
CUỐI NĂM 1976: khi Đảng Lao Động Việt Nam nhóm Đại Hội Lần thứ IV tại Hà Nội dưới sự giám sát của lý thuyết gia MIKHAI A. SUSLOV, Trưởng phái đoàn Xô Viết, thì đa số ủy viên trong BCT/TƯ/Đảng CSVN đã chuyển hướng, nối đuôi Lê Duẩn thần phục Mạc Tư  Khoa. Ngay cả Trường Chinh củng tỏ ra ôn hòa. Riêng một mình Hoàng văn Hoang trung thành với Bắc Kinh, bị khai trừ phải trốn sang Tàu và lãnh án tử hình khiếm diện. Từ đó, VNCS ý thức được vị thế đối lập của mình với Trung Cộng và lúc nào cũng đề cao cảnh giác mối đe dọa của anh chàng láng giềng khổng lồ phương Bắc nên tập đoàn lãnh đạo Đảng CSVN không thể đứng yên để Campuchia gây rối loạn biên giới Tây Nam với sự yểm trợ quân sự hùng hậu của Bắc Kinh.
NGÀY 2 THÁNG 12 NĂM 1976: để củng cố an ninh sườn biên giới Tây Bắc, Lê Duẩn sang Vạn Tượng cùng với KAYSON PHOMVIHANE, Bí Thư Đảng Cộng Sản Lào, ký một thông báo chung “Tăng cường tình đoàn kết gắn bó giữa Việt – Campuchia và Lào” đây là bước đầu tiên trong kế hoạch thành lập LIÊN BANG ĐÔNG DƯƠNG. Thông cáo chung giữa VN và Lào đã gián tiếp hợp thức hóa sự hiện diện khoảng 40.000 bộ đội VN trên lãnh thổ Lào nhằm cô lập đường tiếp vận giữa Trung Cộng và Campuchia.
NGÀY 18 THÁNG 7 NĂM 1977: Sau khi tham khảo với Mạc Tư Khoa, một phái đoàn Đảng và chánh phủ CSVN do Lê Duẩn và Phạm văn Đồng lại sang Vạn Tượng cùng Chủ tịch Đảng Souphanouvong và Thủ tướng Kayson Phomvihan ký hiệp ước thân hữu, trong đó có đoạn: “Hợp tác chặt chẽ để tăng cường khả năng phòng thủ và bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của hai nước”. Hiệp ước nầy chỉ là hình thức và công khai hóa sự hiện diện của các sư đoàn 325, 304, 968…của CSVN.
CAMPUCHIA:
Còn Campuchia đã có quá nhiều kinh nghiệm lịch sử với Việt Nam đã ăn sâu vào trong tiềm thức của những lãnh tụ Khmer Đỏ, nhất là Pol Pot rất nhạy cảm về vấn đề an ninh và sự toàn vẹn lãnh thổ. Vì vậy, quân Khmer Đỏ vừa vào được Nam Vang, chiếm được chánh quyền, Pol Pot đã đưa ra một chỉ thị 8 diểm trong đó phải trục xuất gần 200 ngàn Việt Kiều ở Campuchia bị cưỡng bách hồi hương và tăng cường quân đội ở biên giới Miên – Việt.
Vì vậy, đối với Campuchia, khi VN đã cùng Lào ký những hiệp ước thân hữu, Việt Nam đã tiến thêm một bước nữa trong việc thi hành  chiến lược dài hạn của điện Kremlin là THÀNH LẬP LIÊN BANG ĐÔNG DƯƠNG bằng vũ lực nếu cần… Ieng Sary đã ngầm chỉ trích Lào đã để bộ đội VN trú đóng trên lãnh thổ Lào tạo nên mối đe dọa cho Campuchia từ phía Bắc. Pol Pot càng thấy cần phải liên minh chặt chẽ với Trung cộng và ra lệnh cho quân đội của các Quân Khu dọc theo biên giới Miên – Việt sẵn sàng “phản công tự vệ” chống “XÂM LĂNG CỦA QUÂN ĐỘI VIỆT NAM”.
Sau cái chết của Mao Trạch Đông, phe quá khích “Tứ Nhân Bang” bị thanh toán, phe ôn hòa trở lại nắm chánh quyền. Sau 4 tháng chấn chỉnh nội bộ. Bắc Kinh tái khẳng định đường lối ngoại giao LIÊN XÔ LÀ KẺ THÙ SỐ 1, tiếp tục ủng hộ đường lối đối ngoại CHỐNG VIỆT NAM quyết liệt của Campuchia.
*
THÁNG 10 NĂM 1977: Như để cảnh cáo Trung Cộng, Việt Nam công khai loan báo cuộc viếng thăm của phái đoàn quân sự Liên Xô do tướng YEPISHEV  cầm đầu. Cùng thời gian đó, Trung Cộng bắt đầu ồ ạt chở chiến cụ từ máy truyền tin, vũ khí cá nhân cho đến đại bác 130 ly tới cảng Komphong Som trang bị cho quân đội Campuchia chuẩn bị chống cuộc CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC của Việt Nam…
NGÀY 3 THÁNG 11 NĂM 1978: Sau khi Liên Xô được phép lập căn cứ quân sự tại vịnh Cam Ranh và Đà Nẵng, Liên Xô và Việt Nam ký “HIỆP ƯỚC THÂN HỮU VÀ HỢP TÁC” . Trong đó, điều VI đặc biệt có ghi rằng, đôi bên sẽ áp dụng các biện pháp thích nghi để bảo vệ hòa bình và an ninh, nếu một trong hai nước bị ĐE DỌA HAY TẤN CÔNG và bật đèn xanh cho Hà Nội tiến hành cuộc chiến tranh “XÂM LƯỢC CAMPUCHIA” để thực hiện kế hoạch thành lập “LIÊN BANG ĐÔNG DƯƠNG” và đặt dưới quyền điều khiển của Hà Nội.
Theo sự tiết lộ của HOÀNG TÙNG, Tổng Biên Tập báo Nhân Dân và Ủy Viên Chính trị đã tiết lộ tham vọng của Hà Nội đã có ý đồ chiếm Campuchia từ năm 1970 – 1972. Cuối năm 1976, Đại hội IV Đảng Lao Động để đổi danh xưng thành ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM và chấp thuận đề án của Lê Duẩn xúc tiến thành lập LIÊN BANG ĐÔNG DƯƠNG bằng cách thuyết phục và nếu cần ÁP LỰC QUÂN SỰ để Campuchia và Lào gia nhập. Ủy Ban Trung Ương Đảng quyết định xóa chế độ Pol Pot qua từng giai đoạn:
•       Tố cáo đường lối khát máu của Khmer Đỏ.
•       Xúi dân Miên nổi loạn.
•       Tận dụng lá bài Xô Viết.
VÀO NHỮNG NGÀY CUỐI NĂM 1977: Với sự đồng ý và hỗ trợ vũ khí cùng với các phương tiện chiến tranh của Mạc Tư  Khoa, Hà Nội điều động 100.000 quân ồ ạt vượt biên giới tràn ngập Campuchia và toàn thắng trong vòng 2 tuần lễ. Nhưng, bị Quốc Tế tố cáo và lên án XÂM LƯỢC Campuchia, Hà Nội buộc phải rút quân về nước vào ngày 6 tháng 1 năm 1978.
Đó là lý do tại sao Hà Nội tạo nên tấn thảm kịch cực kỳ dã man, tàn nhẫn và ghê tởm: Tắm máu 3.157 đồng bào PGHH vô tội tại làng Ba Chúc vào tháng 4 năm 1978, rồi đổ tội cho Khmer Đỏ gây ra, lấy lý do tự vệ để xâm lăng Campuchia (như tôi đã trình bày ở Phần I).
NGÀY 15 THÁNG 6 NĂM 1978:  Hà Nội bắt đầu “CHIẾN DỊCH XÂM LĂNG”. Các sư đoàn 7, 9 và 341 cùng các yểm trợ lại tràn qua biên giới Việt Nam – Campuchia lấn chiếm lãnh thổ Campuchia vào sâu trong nội địa từ 10 đến 40 cây số trong đó quận lỵ Prasaut. Lúc đó là mùa mưa, Khmer Đỏ tăng cường nhiều sư đoàn từ các Quân Khu khác ra toàn tuyến biên giới phản công… bộ đội Việt Nam được học tập để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh xâm lược và chiếm đóng Campuchia lâu dài. Bộ máy chính trị và tuyên truyền lại nỗ lực tăng năng xuất chống BỌN BÁ QUYỀN PHẢN ĐỘNG TRUNG QUỐC và BÈ LŨ POL POT, IENG SARY. Về sau, CSVN bị cô lập về ngoại giao, Hà Nội lại chống “Đế quốc Mỹ”, “bọn quân phiệt Thái Lan” và những “thế lực phản động Quốc tế” là những quốc gia đã kịch liệt lên án hành động xâm lăng Campuchia của Việt Nam.
CUỐI MÙA MƯA NĂM 1978: tại mặt trận phía Bắc Tây Ninh do BTL/ QK VII phụ trách điều động Sư đoàn 303 cơ hữu ở Phước Long, phối hợp với SĐ 5 và Sư Đoàn 302 chiếm đóng thị xã Snoul dùng làm địa điểm ra mắt “Mặt Trận Đoàn Kết Dân Tộc Cứu Nước Campuchia” và Heng Samrin được cử làm chủ tịch Mặt Trận kiêm Tư lệnh Lữ đoàn 778.
ĐÊM GIÁNG SINH NĂM 1978: Bộ đội VN tràn qua lãnh thổ Campuchia bằng 4 hướng tấn công:
•       HƯỚNG THỨ 1: xuất phát từ biên giới cao nguyên, do QĐ III phụ trách gồm Sư đoàn 10, 320, 31 do tướng Kim Tuấn chỉ huy, đánh dọc theo quốc lộ 19 & 14 tiến chiếm Stung Treng và lãnh thổ Đông – Bắc Campuchia, đến ngày 3/ 1/ 1979 thì chiếm được Stung Treng.
•       HƯỚNG THỨ 2: xuất phát từ phía Bắc tỉnh Tây Ninh do QK VII đảm nhiệm gồm sư đoàn 303, 302, 5 được tăng phái lữ đoàn 12 thiết giáp, trung đoàn 26 thiết giáp, trung đoàn 262 pháo binh và những trung đoàn chủ lực tỉnh Tây Ninh, Long An, Sông Bé, tiến quân dọc theo quốc lộ 13 & quốc lộ 7 tiến đánh Kratié và Kompong Cham.
•       HƯỚNG THỨ 3: xuất phát từ phía Tây Nam tỉnh Tây Ninh do QĐ IV đãm trách gồm các sư đoàn 2, 7, 9, 341 cùng lữ đoàn 22 thiết giáp, lữ đoàn 24 pháo binh,  lữ đoàn 25 công binh, tiến theo quốc lộ 1 về hường Tây, đánh chiếm bến phà Neak Luong, con đường chiến lược gần nhất tới Nam Vang.
•       HƯỚNG THỨ 4: xuất phát từ phía Nam, tỉnh An Giang và Hà Tiên do QK IX đãm nhiệm, ngoài những đơn vị cơ hữu: sư đoàn 4, 8, 330…còn được tăng phái binh đoàn Hương Giang do Nguyễn Hữu An làm Tư Lệnh và Lê Linh làm chính ủy gồm: sư đoàn 304, 306, và 325 chia làm 2 mũi tấn công:
-       Mũi thứ nhất: do các sư đoàn 4 & 330 cùng với hai trung đoàn chủ lực tỉnh Hậu Giang & Đồng Tháp tiến quân dọc theo quốc lộ 2 tiến về hướng Bắc đánh chiếm Nam Vang.
-       Mũi thứ hai: gồm sư đoàn 325 và sư đoàn 8 tiến dọc theo duyên hải đánh chiếm hải cảng Kompong Som. Còn sư đoàn 304 làm lực lượng trừ bị cho QK IX.
Trung Cộng thay vì gởi quân qua Campuchia giúp Khmer Đỏ và để tránh mang tiếng với Thế giới là “mưu đồ bành trướng”, Đặng Tiểu Bình quyết định đánh thẳng vào Việt Nam bằng bộ binh trong một thời gian giới hạn mà mục tiêu là vùng biên gới Trung – Việt. Đặng Tiểu Bình muốn dạy cho tập đoàn lãnh tụ Bắc Bộ Phủ một bài học quân sự đích đáng. Theo học giả King C. Chen gọi là “Chiến tranh trừng phạt” (The Punitive War). Hành quân đánh VN vào  năm 1979 được chuẩn bị chu đáo và không hấp tấp như trường hợp Trung Cộng tham chiến ở Triều Tiên.
Nhờ sự giúp đở vũ khí, đạn dược của Trung Cộng mà một chế độ tàn bạo như Khmer Đỏ vẫn còn quy tụ được những người Campuchia yêu nước. Họ không còn con đường nào khác để lựa chọn mà phải đứng vào hàng ngũ Khmer Đỏ chống quân đội Việt Nam MỘT ĐẠO QUÂN THỔ PHỈ và đây là bằng chứng:
NGÀY 7 THÁNG 1 NĂM 1979: toàn bộ lực lượng QĐ 4 với xe thiết giáp mở đường, rầm rộ vượt sông, từ Neak Luong tiến về Nam Vang bằng xe Molotova. Tới 11 giờ sáng ngày 7/ 1/ 1979 thì đơn vị đầu tiên vào tới Nam Vang, lúc đó là một thành phố gần như bỏ ngỏ. Trong suốt thời gian chiếm đóng, bộ đội CSVN tha hồ vơ vét chiến lợi phẩm, cướp giật tài sản của nhân dân Campuchia, tất cả những gì mà chúng có thể cướp được. Dân chúng MNVN đã có quá nhiều kinh nghiệm khi quân CSBV tiến vào thủ đô Sài Gòn vào sáng ngày 30/ 4/ 1975.  Hỏi tướng Lê Đức Anh xem đã cướp được bao nhiêu tấn vàng, lùa được bao nhiêu trâu bò, cướp được bao nhiêu tài sản của nhân dân Campuchia?
Tin quân đội VNCS đang gây rối loạn trong thủ đô Nam Vang, Pol Pot, Noun Chia, Khieu Samphan, Son Sen rút về mật khu. Bốn ngày sau, Ieng Sary mới tới được biên giới Thái Lan bằng đường bộ. Tại đây, Ieng Sary lên máy bay của không quân Thái Lan bay tới Bangkok và từ đó sang Bắc Kinh.
NGÀY 8 THÁNG 1 NĂM 1979: Đài Phát thanh Nam Vang, loan báo Nam Vang đã được giải phóng bởi những “Lực lượng Cách mạng và Nhân dân Campuchia”. Một Hội Đồng Cách Mạng được thành lập do HENG SAMRIN là chủ tịch. Những ủy viên thường vụ của Đảng gồm Hun Sen, Bou Thang, Chas Kiri, Heng Samin và Chea Soth. Khoảng 10 ngày sau, Hội Đồng nầy do Hà Nội dựng nên ký một Hiệp Ước với VN nhằm hợp thức hóa sự hiện diện của quân viễn chinh CSVN trên xứ Chùa Tháp.
NGÀY 13 THÁNG 1 NĂM 1979:  Trong cuộc tiếp xúc với Ieng Sary ở Bắc Kinh, Đặng Tiểu Bình trách cứ Khmer Đỏ đã đẩy chiến dịch thanh lọc hàng ngũ quá trớn và khuyến cáo Khmer Đỏ phải trọng dụng lá bài Sihanouk, tạm thời che dấu bản chất “Cộng Sản”, phải bắt đầu đề cao lòng ái quốc và chủ nghĩa Quốc Gia. Và bí mật cử Geng Biao, Ủy viên Bộ Chánh Trị, cùng Thứ trưởng Ngoại giao Hàn Niệm Long sang Bangkok hội đàm với Thủ Tướng Kriangsak tại căn cứ không quân Utapao. Sau khi VNCS liên minh với Liên Xô và XÂM LĂNG CAMPUCHIA, Thái Lan không còn giữ thái độ trung lập được nữa, TT Kriangsak đồng ý để Trung Cộng dùng lãnh thổ Thái Lan tiếp tế cho Khmer Đỏ để duy trì cuộc chiến chống xâm lăng.
Trong khi đó, tại New York, ông hoàng Sihanouk, đại diện Campuchia đọc diễn văn tại Đại Hội Đồng LHQ thật xúc động. Ông lên án cả HÀNH ĐỘNG XÂM LĂNG CỦA VN lẫn chế độ bạo tàn Pol Pot và yêu cầu LHQ ra nghị quyết buộc VIỆT NAM PHẢI RÚT QUÂN, nhưng nghị quyết nầy bị Liên Xô phủ quyết.
Trở lại chiến trường Camphuchia, trận đánh tại thị xã LEACH, nằm trên quốc lộ số 5 là con đường từ Nam Vang đi Battambang, cách biên giới Thái Lan khoảng 80 km, là trận đánh quyết định, quy mô lớn cuối cùng trên đất Campuchia kéo dài trên một tháng.
•       Lực lượng tham chiến của quân đội VNCS gồm: sư đoàn 341, 9, 31 tấn công từ 4 hướng: Hướng Bắc do SĐ 341 đãm trách. Hướng Đông do SĐ 9 từ căn cứ Amleng mới chiếm được tiến đánh Leach. Hướng Nam do Quân khu IX phụ trách được tàu đổ bộ chở đến tỉnh Kolong tiến đánh mặt phái Nam. Hướng Tây do SĐ 31 thuộc QĐ III, từ biên giới Thái Lan tiến quân theo tỉnh lộ 56 đánh ngược về mặt tây của Leach.
•       Ngay sau khi Nam Vang thất thủ, Khmer Đỏ biến Leach thành căn cứ địa phản công. Phần lớn những lực lượng còn lại được tập trung về đây gồm nhiều sư đoàn 264, 210, 104, 502, 260, 460. Trên thực tế, mỗi sư đoàn chưa tới 1.000 quân, chỉ có vài khẩu pháo 105 ly và xe thiết giáp.
Lực lượng hai bên tham chiến đều bị tổn thất nặng. Cuối cùng, vì hỏa lực kém, quân số ít, không được bổ sung quân số nên căn cứ Leach của Khmer Đỏ bị Sư đoàn 9  CSVN tràn ngập  vào ngày 29 tháng 4 năm 1979. Sau khi căn cứ Leach bị thất thủ, các đơn vị còn lại của Khmer Đỏ rút về mật khu ở PAILIN và TAXANG sát biên giới Thái Lan, còn một số khác được phân tán thành những đơn vị nhỏ tiếp tục du kích chiến, chống sự chiếm đóng của bộ đội VNCS xâm lược. Còn các đơn vị CSVN bắt đầu tham gia các cuộc hành quân bình định vì thái độ hống hách, miệt thị dân tộc bản xứ của các cán bộ lãnh đạo chính trị và quân sự của CSVN ở Campuchia làm nhân dân Miên phản khảng quyết liệt.
NGÀY 18 THÁNG 2 NĂM 1979: Việt Nam và Campuchia ký Hiệp Uốc Thân Hữu & Hợp Tác có giá trị 25 năm, công khai hóa việc quân đội VNCS chiếm đóng Cộng Hòa Nhân Dân Campuchia và chính thức đặt xứ nầy dưới ô dù quân sự của Hà Nội. Trước đó hai năm, ngày 18/ 7/ 1977, Lào và VNCS cũng đã ký một Hiệp ước tương tự. Dưới sự chỉ đạo của Mạc Tư Khoa, Hà Hội đã thực hiện xong LIÊN BANG ĐÔNG DƯƠNG bằng vũ lực.
Với khoảng 30.000 quân mà lực lượng Khmer Đỏ vẫn còn khả năng tiếp tục cuộc chiến tranh du kích, tiêu hao lực lượng vũ trang CSVN bằng cách phục kích, đột kích, đặt mìn bẫy, gài chông, pháo kích, bắn sẻ… gây tổn thất nặng nề về nhân mạng cho bộ đội viễn chinh CSVN. Bị sa lầy trên chiến trường Campuchia, tinh thần cán binh CSVN ngày càng suy sụp trầm trọng; mặc dù, tình trạng kinh tế ở trong nước vô cùng tồi tệ, chánh phủ CSVN phải duy trì một đạo quân viễn chinh chiếm đóng Campuchia lên tới 200.000 quân. Cuối cùng, bị áp lực ngoại giao quốc tế cô lập và áp lực ở trong nước, CSVN chỉ có khả năng duy trì sự chiếm đóng Camphuchia trong vòng 10 năm buộc phải nuốt nhục rút quân.
Trong suốt 10 năm đó, đã có hơn 50.000 thanh niên Việt Nam hy sinh và hàng chục ngàn bị tàn phế mà đa số là con em của quân, cán, chính VNCH và MTGPMNVN. Hà Nội đã dùng chiêu “Tá đao sát nhân” vô cùng thâm độc, mượn tay Khmer Đỏ tiêu diệt mầm mống đối kháng chế độ CHXHCN Việt Nam sau nầy.
Trong cuộc chiến tranh tự vệ của Khmer Đỏ và nhân dân Campuchia chống bộ đội viễn chinh Việt Nam XÂM LƯỢC của Hà Nội là cuộc chiến tranh có chính nghĩa. Theo tạp chí Tàu cộng GENG BIAO, có khoảng 1.500 Hoa Kiều bị kẹt lại ở Campuchia và phần đông đã tình nguyện gia nhập hàng ngũ Khmer Đỏ. Lúc đó, Hun Sen đang giữ chức vụ Trung Đoàn Trưởng Khmer Đỏ thuộc Quân khu Đông, đào ngũ trước địch quân, bỏ trốn sang VN vào cuối năm 1977 và sau nầy trở thành Thủ Tướng bán đứng Campuchia cho Trung Cộng.
Không riêng gì Pol Pot, lãnh tụ Khmer Đỏ, mà tất cả các lãnh tụ của các nước theo chủ nghĩa Cộng Sản như Lenine, Staline, Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành, Hồ Chí Minh…là những tên lãnh tụ khát máu, giết dân nhiều nhất vì thú tính hơn là vì nhu yếu chính trị. Một nghi vấn lịch sử, Hồ Chí Minh có phải là người Việt Nam đâu mà thương dân, yêu nước? Nông Đức Mạnh, đứa con rơi của họ Hồ, đã thú nhận mình là người gốc VIỆT GỐC ZHUANG (Hẹ). Nếu không phải CẨU PHỤ SANH CẨU TỬ thì sinh ra giống thú gì?
Theo sử gia STÉPHANE COURTOIS: Các nước theo chế độ Cộng Sản đã giết trên 100 triệu người, so với 25 triệu người do Đức Quốc Xã gây ra:
•       LIÊN XÔ: giết 20 triệu dân Nga.
•       TRUNG QUỐC: giết 65 triệu dân Tàu.
•       BẮC HÀN: giết 2 triệu dân Hàn.
•       VIỆT MINH – CỘNG SẢN: giết 1 triệu dân Việt (trên thực tế, con số nầy phải nhân lên gắp đôi.)
•       CAMPUCHIA: giết 2 triệu dân Miên
•       ĐÔNG ÂU: giết 1 triệu người.
•       PHI CHÂU: giết 1, 7 triệu người.
III.  BẰNG CHỨNG CSVN THẢM SÁT DÂN LÀNG BA CHÚC, TỈNH AN GIANG VÀO THÁNG 4/1978.
Trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Tôn – Tử (S Tzu, The Art of War), một binh thuyết gia nổi tiếng vào thời Chiến Quốc bên Trung Hoa nói rằng:
KHI TẤN CÔNG ĐỊCH:
•       Khi lực lượng ta đông gắp 5 lần quân địch.
•       Chia cắt địch nếu lực lượng ta chỉ đông gắp đôi địch.
•       Có thể đánh nếu lực lượng hai bên ngang nhau.
•       Phải rút lui nếu lực lượng địch đông hơn ta.
KHI BỊ ĐỊCH TẤN CÔNG:
•       Tử chiến.
•       Hoãn binh.
•       Đầu hàng.
•       Lui Binh.
Địa danh An Lộc là trận đánh điển hình. Từ tháng 4 đến giữa tháng 6 năm 1972, lực lượng CSBV tại chiến trường Bình Long với khoảng 35.000 quân, hơn 100 chiến xa, 100 khẩu đại bác 130 ly, 155 ly và hỏa tiễn 122 ly, tương đương với số quân mà cộng quân đã tung vào trận chiến Điện Biên Phủ từ ngày 13/3/1954 đến 7/5/1954.  Lúc bây giờ, tại thị xã An Lộc,Tướng Lê Văn Hưng, Tư lệnh Sư đoàn 5 BB kiêm Tư lệnh chiến trường Bình Long, cùng với Đại Tá Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Phó SĐ 5/BB, Đại Tá Trần văn Nhựt, Tỉnh trưởng kiêm TKT Bình Long, Đại tá Lê Quang Lưỡng, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn I Dù cùng với các đơn vị trưởng trực thuộc, tái phối trí lực lượng chịu trách nhiệm phòng thủ trong và ngoài thị xã An Lộc. Mặc dù quân CSBV đông gắp 3,4 lần quân trú phòng. Nhưng, sau hơn 60 ngày bị vây hãm, quân CSBV mở những đợt tấn công ác liệt bằng bộ binh, xe tăng và những trận mưa pháo khốc liệt. Mức độ pháo kích liên tục của quân CSBV từ 600 đến 1.000 một ngày. Có ngày, chỉ trong 1 giờ, thị xã An Lộc phải gồng mình hứng từ 200 đến 300 quả đạn pháo của Cộng quân.
Trong trận An Lộc lịch sử nầy, Tướng Lê Văn Hưng chỉ huy toàn bộ lực lượng phòng thủ, tử chiến với quân CSBV, ông chiến đấu như một dũng sĩ nêu cao truyền thống anh dũng của QLVNCH. Trong suốt thời gian 68 ngày bị địch quân vây hãm trong hỏa ngục máu lửa, thị xã An Lộc vẫn đứng vững nhờ quyết tâm tử thủ của Tướng Lê Văn Hưng với câu nói đi vào lịch sử: “NGÀY NÀO TÔI CÒN, AN LỘC CÒN!” ông đã nâng cao tinh thần chiến đấu dũng cảm tuyệt vời của lực lượng phòng thủ An Lộc. Và Tướng Lê Văn Hưng được đồng bào MNVN vinh danh “ANH HÙNG AN LỘC”.
Tưởng cũng nên nhắc lại:
ĐẦU THÁNG GIÊNG NĂM 1978: Tướng TRẦN NGHIÊM nguyên là Tư Lệnh Phó của Tướng Lê Đức Anh. Sau khi tướng Lê Đức Anh thay tướng Trần văn Trà thì tướng Trần Nghiêm được đề bạt làm TƯ LỆNH QUÂN KHU IX, chịu trách nhiệm điều động 3 sư đoàn chính quy cơ hữu, gồm: SƯ ĐOÀN 4, 8 và 330 cùng với hai trung đoàn chủ lực cơ động tỉnh HẬU GIANG và ĐỒNG THÁP.
ĐẦU THÁNG 3 NĂM 1978: Tình hình biên giới phía Tây – Nam hoàn toàn yên tỉnh. Tướng Trần Nghiêm phối trí 3 sư đoàn cơ hữu 4, 8 và 330 cùng với trung đoàn cơ động tỉnh Hậu Giang và Đồng Tháp vào nhiệm vụ phòng phủ diện địa vùng biên gới Tây – Nam. Riêng sư đoàn 330 được chỉ định thành lập tuyến phòng thủ bảo vệ an ninh lãnh thổ huyện Tri Tôn. Tổng cộng quân số ước tính tối thiểu trên 30.000 quân, đó là chưa kể lực lượng dân quân tỉnh An Giang.
Nếu như Pol Pot muốn tấn công làng BA CHÚC, tỉnh An giang vào tháng 4 năm 1978. Pol Pot phải tập trung quân Khmer Đỏ tối thiểu ĐÔNG GẮP ĐÔI lực lượng vũ trang CSVN chịu trách nhiệm phòng thủ diện địa tỉnh An Giang, quân Khmer Đỏ mới có khả năng chia cắt ba sư đoàn 3, 8, 330 và hai trung đoàn Hậu Giang và Đồng Tháp, đây sẽ một trận chiến huyết lưu mãn địa, chồng chất thây người cho cả hai phía lực lượng Việt Nam và Khmer Đỏ.
Pol Pot chưa đến độ điên rồ tung 60.000 quân làm một cuộc phiêu lưu quân sự, vượt qua chướng ngại vật thiên nhiên là kinh Vĩnh Tế để tấn công, tiêu diệt dân làng Ba Chúc, một địa bàn hoàn toàn không có lợi ích gì về mặt chiến lược quân sự cả. Nếu một trận chiến thực sự xảy ra giữa lực lượng VNCS và Khmer Đỏ thì với trên 100.000 quân quần thảo với nhau tại làng Ba Chúc, một diện tích nhỏ hẹp hơn cả thị xã An Lộc mà sau 11 ngày đêm tung hoành ngang dọc, thảm sát 3.157 đồng bào vô tội, rồi quân Khmer Đỏ rút toàn bộ lực lượng biến mất về phía bên kia biên giới, không để lại dấu vết dù là một tử thi của lính Khmer Đỏ. Quả thật, đây là một chuyện không tưởng, trừ phi Pol Pot có pháp thuật RẢI ĐẬU THÀNH BINH giống như những nhân vật thần thoại trong truyện PHONG THẦN và trận tấn công, thảm sát dân làng Ba Chúc đáng được ghi vào THE GUINNESS WORLD RECORDS lịch sử chiến tranh Thế giới vì bản chất kinh dị của nó là cả hai phía ĐỊCH và BẠN không bên nào tổn thất về nhân mạng mà chỉ có những xác chết không đầu của những thường dân vô tội.
IV. KẾT LUẬN:
Để làm sáng tỏ vấn đề nầy, chúng tôi đề nghị Vn EXPRESS sau khi phỏng vấn Hun Sen, nhà “PHỊA SỬ” vĩ đại của Campuchia, nên mở ngay một cuộc phỏng vấn tướng TRẦN NGHIÊM, nguyên Tư lệnh QUÂN KHU IX (nhớ dẫn phóng viên Tá Lâm đi cùng). Tôi xin đặt 5 câu hỏi ngắn gọn với tướng Trần Nghiêm như sau:
CÂU HỎI 1: Lúc đại quân Khmer Đỏ vượt kinh Vĩnh Tế tấn công và tàn sát dân làng Ba Chúc trong 11 ngày đêm, bắt đầu vào ngày nào 14 hay 18 tháng 4 năm 1978? Yêu cầu giải thích lý do về khoảng thời gian TIỀN HẬU BẤT NHẤT nầy, chính xác là ngày nào? Có bao nhiêu dân làng bị thảm sát 3.157 hay 3.574 người?
CÂU HỎI 2: Danh hiệu những Sư đoàn Khmer Đỏ tham gia trận tấn công? Ai làm Tư lệnh những Sư đoàn Khmer Đỏ nầy? Xin đừng trả lời là tôi không biết, không nghe, không thấy… vì chỉ cần khai thác một vài tù hàng binh hoặc thương binh Khmer Đỏ bỏ lại chiến trường là biết ngay.
CÂU HỎI 3: Xuất xứ 1.159 hộp sọ người được trưng bày trong nhà mồ Ba Chúc ở đâu ra? Ai đã tàn nhẫn chặt đầu các nạn nhân? Quân Khmer Đỏ hay bộ đội thuộc Sư Đoàn 330?
CÂU HỎI 4: Lúc đại quân Khmer Đỏ ồ ạt vượt biên giới Việt – Campuchia mở cuộc tấn công, thảm sát dân làng Ba Chúc, tung hoành ngang dọc trong suốt 11 ngày đêm, thì lúc đó Sư đoàn 4, 8, 330 và 2 trung đoàn cơ động tỉnh Hậu Giang và Đồng Tháp chịu trách nhiệm phòng thủ, bảo bệ an ninh lãnh thổ phía biên giới Tây Nam, lúc đó những đơn vị nầy đang làm gì? Ở đâu? Không lẽ, QĐNDVN anh hùng, tự hào với danh xưng “Thành đồng bảo vệ Tổ Quốc, trở ngại nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng!” Đã từng đánh thắng ba tên đế quốc sừng sỏ NHẬT – PHÁP- MỸ; không lẽ lại rét quân Khmer Đỏ sợ đến vãi đái trong quần, trốn chui, trốn nhủi như bầy chuột nhắt, chờ khi quân Khmer Đỏ rút hết quân về bên kia biên giới, mới dám chường mặt trở lại làng Ba Chúc, chặt đầu các nạn nhân, rồi chôn dấu một nơi nào đó, chờ đến 2 năm sau mới đem những hộp sọ của nạn nhân trưng bày trong nhà mồ Ba Chúc để đánh dấu tội ác man rợ của bọn diệt chủng Pon Pot? Hèn như vậy sao?
CÂU HỎI 5: Tướng Trần Nghiêm với tư cách là Tư Lệnh Quân Khu IX là người chịu trách nhiệm phối trí lực lượng cơ hữu kể trên để bảo vệ an ninh lãnh thổ vùng biên giới phía Tây Nam, lại có hành động tắc trách và vô trách nhiệm đến nỗi thụ động, không hề có phản ứng gì cả. Tướng Trần Nghiêm án binh bất động vì đã biết trước là bộ đội Sư đoàn 330 ngụy trang thành quân Khmer Đỏ để tàn sát dân làng Ba Chúc, đúng không?
Nếu tướng Trần Nghiêm không tiện trả lời 5 câu hỏi của tôi vừa nêu trên trong lúc nầy thì khi đứng trước vành móng ngựa trong PHIÊN TÒA LIÊN HIỆP QUỐC ở SÀI GÒN để xét xử những tội phạm đã có hành động thảm sát dân làng Ba Chúc vào tháng 4 năm 1978 thì cựu tướng Trần Nghiêm và những tên cựu Tư lệnh sư đoàn 4, 8 và 330 cũng sẽ phải trả lời những câu hỏi nầy. Tin tôi đi, ngày đó sẽ không còn xa đâu…
Nguyễn Vĩnh Long Hồ

No comments: