Tuesday, October 25, 2016

NGƯỜI VIỆT NAM - TRUNG CỘNG - Y TẾ VIỆT CỘNG - TRUNG CỘNG


Wednesday, July 17, 2013

VẠN MỘC CƯ SĨ * NGƯỜI VIỆT NAM

NGƯỜI VIỆT NAM
VẠN MỘC CƯ SĨ 
I. NGƯỜI VIỆT NAM QUỐC NỘI
1. BÁ TÁNH 
 Nhiều người than thở lớp trẻ bây giờ hỗn hào, lớp trẻ bây giờ nói tục, lũ trẻ bây giờ mánh mung. Nhưng cái bệnh phổ biến bây giờ chung cho cả già lẫn trẻ là tính tham tiền, tham lợi. Thật ra tham tiền, tham lợi là cái bệnh muôn đời nhưng dưới chế độ cộng sản cái bệnh này tăng cường độ ghê gớm. Trước đây hơn mười năm, nghe nói ai muốn yết kiến bà vợ  thủ tướng thì phải hai, ba ngàn đô. Những người theo lệ cổ, đến thăm quan lớn mà mua cam táo lê nhãn thì khì khách ra khỏi nhà, bà quan ném theo cảc bao trái cây theo sau lưng. Ở Việt Nam bây giờ gửi tặng bà con 50 hay 100 US $ có thể bị chửi . Ngày xưa chúng ta sẵn sàng giúp đỡ bà con mà không nghĩ đến tiền bạc, nay muốn nhờ bà con, anh em việc gì đều phải có tiền, không có tiền bạc thì vạn sự bất thành.
Cái bệnh này do chế độ cộng sản tham nhũng, hối lộ mà trở thành phổ biến trong nhân dân. Chúng ta ở ngoại quốc, thương cha mẹ gửi tiền về, nhưng đôi khi đồng tiền gây ra bất hạnh. Các anh em lấy cớ sửa nhà, sửa mộ, đem mẹ đi bệnh viện ... đã luôn nặc tiền anh em bên này. Các cháu nhỏ không chịu học hành, không chịu kiếm việc, đua đòi, chơi bời, hết tiền thì lấy cắp tiền bà nội, bà ngoại, hoặc tra tấn bà nội bà ngoại vì các bà có tiền ngoại quốc gửi về.
Việt Nam có hai nguồn lợi nhuận. Một là tiền ngoài gửi về, hai là tiền ngân hàng nhà nước, cả hai đều được tiêu dùng thoải mái. Các ông sẵn tiền đi bia ôm, các bà sẵn tiền chưng diện rồi đi karaoké ôm, rồi bao kép trẻ kép già công khai làm thành một phong trào. Trong chiến khu cho đến khi về thành, con cái các ông lớn đã trở thành phá gia chi tử, tung hoành ngang dọc, có khi là cầm đầu băng đảng mà công an không dám động vào.
2. GIAI CẤP MỚI

Cán bộ cộng sản cao cấp đa số là nông dân nay khoác nhãn hiệu thiếu tướng tiến sĩ, đại tá tiến sĩ còn tiến sĩ lớp ba trường làng thì nhan nhản khắp nơi.Hạng tiến sĩ lớp ba trường làng từ y tá nông thôn nay trở thành bác sĩ giám đốc bệnh viện, bí thư đảng ủy trong bộ, trong viện....Vì cái ruột ngu dốt cho nên họ hay chứng tỏ họ tài giỏi đúng như tục ngữ có câu:
"Xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ"
"Thùng rỗng kêu to"
Dốt như chuyên tu, ngu như tại chức".
 
Vì ngu dốt mà ở chức vụ cao nên họ càng nói phét và hành động càn dở mà không biết xấu hổ. Họ ngu dốt lại được đàn em hoan hô, bình bầu làm chiến sĩ thi đua, anh hùng lao động thì cái kiêu mạn của họ càng bay cao. Cái bệnh phổ biến này trong thời "tụt xuống XHCN", các ông i tờ bắt dân làm thủy lợi, bắt dân dời nhà lên đồi cao, khoe khoang thành tích khoa học bèo hoa dâu, lấy phân trâu bò làm thức ăn gia súc, lấy xuyên tâm liên thay thế trụ sinh...

Có ông thứ trưởng vênh vang ra lệnh không chữa bệnh cho người tự tử, có bà thứ trưởng  không cho các cô các bà ngực lép  lái xe gắn máy, cấm mượn xe người khác, ai lái xe nhanh sẽ bị công an đánh nhừ tử... Tất cả hành động đó là do ngu dốt, tàn ác mà lại có quyền uy trong tay. Tình trạng ngu dốt và quan liêu mệnh lệnh thì ở đâu cũng có, ở đây chúng tôi xin trình bày những tình trạng đó  trong ngành y tế Việt Nam. Nhiều bài báo đã viết về tình trạng bất nhân, vô trách nhiệm và lộng quyền của các bệnh viện Việt Nam.

Bài thứ nhất của đài RFA nhan đề "Những trở ngại của Project Vietnam trong công tác y khoa thiện nguyện" có đoạn tố cáo lề lối "bất cần và quan liêu" của Y Tế Quảng Ngãi:
Trước tiên, Đài RFA giới thiệu  Dự Án Việt Nam,  (Project Vietnam) là tổ chức y khoa thiện nguyện ở Nam California  với những toán bác sĩ và nhân viên y tế chuyên môn người Mỹ và người Việt, một năm hai lần về Việt Nam từ năm 1996  đến nay.   Ba mục tiêu chính yếu của Project Vietnam là chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em tại những vùng sâu vùng xa, giảm thiểu tử vong trẻ sơ sinh, huấn luyện và đào tạo về cấp cứu hồi sức sơ sinh cho bác sĩ và nhân viên y tế tại những vùng miền mà phương tiện y khoa tân  tiến còn bị nhiều  hạn chế.

Những bác sĩ này đã đến Đà Nẵng, rồi đến bệnh viện Đa khoa Quảng Ngãi nhưng bị họ làm khó dễ. Tuy hai bên đã thỏa thuận việc chương trình cứu trẻ sơ sinh, 
Nhưng khi đến bệnh viện đa khoa Quảng Ngãi chúng tôi mới thấy Khoa Sản Phụ nói với chúng tôi là họ sẵn sàng chờ đợi bác sĩ sản phụ khoa đến để giảng dạy cho họ,  họ đã chuẩn bị sẵn bệnh nhân để được phẩu thuật các thứ. 

BS Quỳnh Kiều, người sáng lập Project Vietnam kể lể con đường đau khổ của tổ chức:

Năm nay là năm thứ 18, chuyến  đi Việt Nam lần này thì thực sự nó cũng phức tạp và kéo dài hơn các chuyến đi bình thường. Trước giờ chúng tôi gặp khó khăn về nhiều mặt. Trước giờ đã xảy ra là ba lần rồi. Một lần chúng tôi  đến tận nơi rồi thì  họ nói lúc trước bảo năm ngày nhưng bây giờ chỉ có thể làm hai ngày thôi, thì mình phải đi kiếm nơi khác cho phái đoàn làm việc thêm ba ngày. Lần đó là  nó đã xảy ra hồi 2010 ở Bắc Cạn. Nhưng lần này là lần đầu tiên mà chúng tôi gặp khó khăn ở tại guồng máy hành chánh của Sở Y Tế.

Chuyến đi năm nay có ba điạ điểm:
-Tuần lễ đầu vào  cuối tháng hai: Toán Giải phẩu  đến tại Takeo là nơi có người Việt nghèo
-Tuần lễ  thứ hai, khám bệnh vùng sâu xa ở Quảng Ngãi
-Tuần lễ thứ ba: huấn luyện cứu trẻ sơ sinh .

Thế nhưng một tuần trước khi sẳn sàng tới Quảng Ngãi, Project Vietnam nhận được một thư cho hay  trong thời gian tới không thể tiếp phái đoàn do có một số vấn đề nội bộ phải tập trung giải quyết.

 Về phần nhóm chữa bệnh gồm hơn bảy chục tình nguyện viên, đã bị từ chối tiếp đón thì sao. Project Vietnam và bác sĩ Quỳnh Kiều đã phải vận động và kiếm ra một nơi khác cho đoàn làm việc!
Đấy là cái bẫy của Việt Cộng, cái dạ tham tiền, cái tính ăn bẩn của Việt Cộng. Họ làm khó dễ để người Mỹ phải bỏ tiền thuê nơi khác. Vận động chỗ nào?  Thuê chỗ nào? Khách sạn của Bí thư tỉnh ủy hay nhà của chủ tịch UBND? Dù thuê một trường học, có lẽ họ  đòi 5 ngàn hay mười ngàn, rồi thì họ sẽ trả cho nhà trường cũng chỉ hai, ba trăm đô!

 Sau khi nếm mùi nước mắm thối  Quảng Ngãi, phái đoàn đi vào Nha Trang lại ngửi mùi cá ươn  Nha Trang. Tại đây họ cũng chơi trò hứa hẹn hão huyền và lật lọng. Cô Phượng chánh văn phòng Sở Y tế lại đòi hỏi kê khai một danh sách dài. Danh sách một chưa đủ lại danh sách hai.

Cô còn đòi những chuyện lặt vặt như ống nghe, máy đo huyết áp là những chuyện mà mình coi rất thông thường. Kề như nhóm lãnh đạo là không ngủ luôn. Tám giờ họ mở cừa thì trước 8 giờ chúng tôi đã có mặt  ở Sở Y Tế, cầm những danh sách đó để giao cho cô chánh văn phòng.

Tuy nhiên sáng đó thì cô Phượng, chánh văn phòng của Sở Y Tế tỉnh Khánh Hòa, vẫn trả lời là không thể cho đoàn khám bệnh chữa bệnh làm việc:
Cô ấy trả lời là gấp quá không thể làm được, thôi hẹn năm sau, hẹn kỳ sau, mà đúng ra thì mình phải làm việc thứ Tư, thứ Năm và thứ Sáu.
 
Sau đó đoàn yêu cầu một buổi họp với Sở Y Tế với yêu cầu phải cho biết rõ ràng vì sao không thể khám chữa bệnh được:
Khi chúng tôi ngồi suốt trong đó để giải quyết vấn đề thì cô ấy mới bảo là đưa bác sĩ phó giám đốc ra để gặp, trong lúc tôi đã nhờ liên hệ trực tiếp với bên Liên Hiệp Hữu Nghị tức cơ quan chuyên giúp các tổ chức thiện nguyện, cũng như bên Tòa Lãnh Sự.
Họ nói chuyện với ông phó chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân, ông nói cái này đã giao cho Sở Y Tế. Tức nhiên theo Ủy Ban Nhân Dân thì không có gì thay đổi. 

Ôi cái ông nhạc sĩ nào đã ca tụng Nha Trang  đẹp đẽ hiền hòa:

Nha Trang là miền quê hương cát trắng, Có những đêm nghe vọng lại, Ầm ầm tiếng sóng xa đưa."
Nha Trang cánh đồng bao la bát ngát, Hương quê dâng lên ngào ngạt, Hòa cùng sức sống yên vui".


 Nhưng ở đây con người cán bộ y tế Nha Trang sao mà lại có con người và khuôn mặt trái sầu riêng thế hỡi trời. Bị từ chối, phái đàn phải gặpUBND , thì UB mới nói rõ cái tâm tham tiền của họ. Khi phái đoàn xuống tận xã thôn mới rõ là họ muốn khám bệnh ở cơ sở Y tế nhà giàu chứ không khám miễn phí cho nhà nghèo.
 Thay vì làm việc ở ba xã như được hứa thì Sở Y Tế đã thay đổi, gởi đoàn xuống một bệnh viện mới xây ở Cam Lâm. Vì mới nên bệnh viện rất đẹp và rất sách, tiếc rằng chỉ khám cho bệnh nhân có bảo hiểm, trong lúc đoàn của Project Vietnam chỉ muốn khám cho người nghèo:
Khi chúng tôi đến bệnh viện này thì khoảng 10 giờ họ đã xong hết rồi tại vì người bảo hiểm đâu có bao nhiêu, dân  chúng được báo thì có hạn thôi. Thành ra ngày đó chúng tôi giải quyết được khoảng 500 người thôi.
Đến hôm sau, khi dân chúng được thông báo thì quá đông, kể như trong vòng một ngày rưỡi mà chúng tôi khám khoảng 1.200 người bệnh. (1)


Bài thứ hai là của  bác sĩ Nguyễn Tài Ngọc thuật lại một trường hợp tương tự.

Anh Nguyễn Duy Hải ở thành phố Đà Lạt, 32 tuổi. Lúc mới sinh ra anh ta bình thường nhưng khi lên bốn tuổi chân phải của anh to lớn khác thường so với chân trái.Năm 1997, anh Hải đi nhà thương và nghe theo lời bác sĩ, cắt chân phải để ngăn chận sự bành trướng. Thế nhưng sau khi cắt, một cục u tiếp tục nẩy nở từ vết cắt, dần dần to lớn thành một cục bướu nặng 90 kí-lô. Vì nó quá to lớn, nặng gấp hai lần trọng lượng thân thể, anh Hải nằm trên giường trong suốt thời gian sáu năm. Qua một sự tình cờ, thân nhân của anh Hải ở Florida biết được một bà Mỹ tên Amanda Schumacher làm việc thiện nguyện. Bà này liên lạc với Bác Sĩ McKay McKinnon. 

 Nguyễn Duy Hải với cái bướu nặng 90kí
Bác sĩ McKay McKinnon ở Chicago, Hoa Kỳ, chuyên về phẫu thuật, nổi tiếng về giải phẫu cắt bỏ bướu khổng lồ của bệnh nhân khắp thế giới. Bác sĩ McKinnon đồng ý tình nguyện thì giờ của mình bay sang SàiGòn vào ngày 16 tháng 11 -2012 giải phẫu miễn phí cắt bỏ cái bướu cho anh Hải. Xe cứu thương trước đó vài ngày đã chở anh Hải từ Đà Lạt vào SàiGòn đến Bệnh Viện Ung Bướu TP HCM để sẵn sàng cuộc giải phẫu.
 

Công cuộc giải phẩu


Anh Hải sau khi giải phẩu


Anh Hải sau khi giải phẩu


Cô Mỹ Dung trước khi giải phẫu (nguồn: vnexpress)


Cô Sa-Ly trước, và sau khi giải phẫu (nguồn: vnexpress)

Khi nhập viện, anh Hải than khó thở, bác sĩ Việt ở Bệnh Viện Ung Bướu cho Bác Sĩ McKinnon biết nguyên do là anh Hải bị nước vào phổi (pleural effusion), và lo ngại cho anh Hải nếu bị mổ. Bác Sĩ McKinnon nói việc ấy không có gì quan trọng, bảo nhân viên nhà thương chích rút nước ra và  bảo nhân viên cho anh ta ngồi dậy thay vì nằm để tránh tình trạng nước lại vào phổi. Sau khi rút nước, anh Hải thở lại dễ dàng.

Ở bên Mỹ một khi bác sĩ quyết định giải phẫu thì bệnh nhân đến nhà thương, có sẵn một đội y tá hay bác sĩ giúp bác sĩ trong khi giải phẫu (nếu trường hợp hiểm nghèo, phức tạp như trường hợp này). Bảo hiểm y tế của bệnh nhân sẽ trả tiền bác sĩ lẫn chi phí tiền nhà thương, Giám Đốc nhà thương hoàn toàn không liên hệ gì đến trường hợp mổ. 


 Nhưng ở Việt Nam, dù rằng hội đoàn của bà Amanda Schumacher sẽ trả tiền nhà thương, Bác sĩ McKinnon phải bỏ thì giờ giải thích cho nhà thương lý do tại sao họ nên cho giải phẫu vì cần giấy phép chấp thuận của Bệnh Viện Ung Bướu. Ông ta phải giải thích cho khoảng chừng 30, 40 bác sĩ (và y tá?) của nhà thương để mong cho họ chấp thuận cho phép. Sau đó, ông ta về khách sạn đợi ba ngày để Bệnh Viện Ung Bướu quyết định!

Khi trở lại Bệnh Viện Ung Bướu TP HCM vào ngày thứ ba, người bác sĩ (?) Việt Nam có quyền quyết định mà bác sĩ McKinnon gặp lại là một người lạ, không có mặt trong nhóm bác sĩ & y tá mà ông trình bày ba ngày trước. Ông bác sĩ này viện lý do nước vào phổi (pleural effusion), bệnh nhân yếu sức, từ chối không cho giải phẫu, và cám ơn bác sĩ McKinnon đã bỏ thì giờ đến Việt Nam.

Bác sĩ McKinnon sau đó đến Bệnh Viện Ung Bướu để báo tin buồn cho bệnh nhân là nhà thương không đồng ý cho ông ta giải phẫu. Hải nói cảm ơn: “Em rất cảm ơn tấm lòng của bác sĩ đã đến với em. Em sẽ nhớ mãi kỷ niệm em đã được gặp bác.

 Câu chuyện tưởng đến đây là hết nhưng hai tháng sau, sau khi liên lạc với nhiều người, bà Amanda Schumacher đã thuyết phục được bác sĩ Jean-Marcel Guillon, Giám Đốc Bệnh viện Pháp Việt (FV Hospital) TP HCM giúp Hải được giải phẫu. Bệnh viện Pháp Việt (FV Hospital) TP HCM (nguồn: http://iims-asean-
vietnam.blogspot.com/2012_11_01_archive.html)
Bệnh viện FV Hospital đài thọ một phần chi phí nhà thương, trả tiền máy bay và khách sạn, mời bác sĩ McKinnon trở lại SàiGòn làm phẫu thuật cho Hải với một đội bác sĩ y tá do Bệnh viện Pháp Việt cung ứng trong việc hỗ trợ giải phẫu.

Ngày Thứ Năm 5 Tháng Giêng, 2012, sau gần 13 tiếng giải phẫu, bác sĩ McKinnon đã thành công cắt đứt cục bướu khỏi người anh Hải.
Khi còn ở Chicago, bác sĩ McKinnon đã đồng ý giải phẫu miễn phí thêm cho hai bệnh nhân Việt Nam khác bệnh tình trầm trọng như anh Hải nên sau khi nghỉ phục sức ngày Thứ Sáu, ngày Thứ Bẩy hôm sau ông đến Bệnh Viện Chợ Rẫy cắt những cái bướu trên mặt của cô Kiều Thị Mỹ Dung,
và Chủ Nhật, cắt một số bướu của cô Thạch Thị Sa Ly
.(2)
 
Sau khi tường thuật sự kiện trên, BS. Nguyễn Tài Ngọc viết cảm tưởng của ông như sau::
"Xem xong phim tài liệu này, nếu tôi là bác sĩ McKinnon, sau khi nghe những người không giỏi bằng mình, không có kiến thức giải phẫu như mình, không có kinh nghiệm phẫu thuật như mình kết luận họ giỏi hơn mình, ngăn cấm sự giải phẫu cho bệnh nhân mà tôi đã tình nguyện bỏ mấy ngày giải phẫu miễn phí, khi tôi trở về Mỹ, tôi sẽ không bao giờ quay trở lại một lần nữa. Thế mà chỉ hai tháng sau, sau khi bệnh viện Pháp Việt mời ông ta trở lại giải phẫu ở nhà thương của họ, ông ta nhận lời, và không những chỉ giải phẫu cho một người, mà cho đến ba người trong ba ngày khác nhau, tất cả hoàn toàn miễn phí!

Bệnh Viện Ung Thư TP HCM từ chối không giải phẫu cho một công dân của chính nước Việt Nam của mình, nhưng một công dân của "đế quốc Mỹ Ngụy" và một nhà thương của "thực dân Pháp", hai từ ngữ xấu xa mà đọc báo chí hay xem Internet lúc nào cũng thấy Việt Nam hiện thời còn dùng để chỉ Hoa Kỳ và Pháp, đã không quản ngại tiền bạc và công sức để cứu giúp một công dân của nước Việt Nam.

Ấy là chưa nói đến hai đồng minh vĩ đại của Việt Nam, Trung Quốc và Nga-Sô, chẳng nghe nói năng gì về giúp đỡ bệnh nhân Nguyễn Duy Hải.

Tôi thật là may mắn được sống ở đất nước Hoa Kỳ, một quốc gia không bao giờ dùng lời đay nghiến với một nước thù nghịch, một quốc gia nơi có những người đầy lòng hảo tâm với tôn chỉ giúp đỡ nhân loại mà không cần biết người đó đang sống ở bất cứ nơi nào trên thế giới.
" (2)


NHẬN XÉT CHUNG VỀ HAI VIỆC TRÊN

Những trở ngại của Việt Nam thì nhiều. Bệnh viện làm khó dễ hay bên trên có ai quyền uy hơn ra lệnh bãi bỏ kế hoạch mà không cho phía người Mỹ biết? Làm việc ở Việt Nam rất khó vì hai điều:
-Phải biết thủ tục đầu tiên
-Ai cũng có quyền bác bỏ chương trình của ta mặc dù chính cộng sản đã hứa hẹn. Bởi vì bên Ủy ban chấp thuận nhưng bên đảng không đồng ý, hoặc ông Phó chủ tịch đồng ý mà ông chủ tịch thay đi ý kiến. Có thể giám đốc chấp thuận nhưng một mẹ y tá nào đó bác bỏ, vì mẹ Y tá này mới là lãnh đạo còn tên bác sĩ giám đốc chỉ là bù nhìn. (Tại Thư Viện Quốc gia đường Gia Long gần Đại học Văn Khoa cũ đường Nguyễn Trung Trực thì bà Phó Giám đốc nắm uy quyền, Thanh Nghị chỉ là bù nhìn. Bà Phó Giám Đốc Bắc Kỳ nói thẳng :"Thanh Nghị biết mẹ gì mà ký...Thanh Nghị biết cái khỉ khô gì mà nói!").


 Về  Project Vietnam
Phái đoàn này khờ khạo quá, ai dè đến Việt Nam trong ngày tết. Đâu cũng thế, ta không nên làm việc vi người Âu Mỹ trong khỏang từ Noel đến Tết dương lịch. Bà Quỳnh Kiều là người Việt há không rõ tục lệ này ư? Hơn nữa, họ đã báo trước là bận việc thì ta về, hoặc ta đi chơi, dại gì cứ đâm đầu vào bênh viện Quảng Ngãi!

Lại nữa, người ta muốn khám bệnh chứ không cần đào tạo thì mình cũng nên rút lui, hoặc chiều họ mà khám bệnh, vì mình khám bệnh họ mới thu tiền chứ! 

Phái đoàn Project Vietnam nếu hoạt động của họ tại Việt nam là độc lập, không bị chi phối theo mệnh lệnh của ai, không cần báo cáo thành tích, không cần hồ sơ lý lịch tốt thì nên có thái độ độc lập tự chủ và bình đẳng. Họ không cần phải chạy vạy, không phải chịu đấm ăn xôi. Họ cũng nên dẹp bỏ cái tự cao tự mãn, đánh đâu thắng đó, không chịu thất bại để rồi trở thành tay sai cho cộng sản và trò cười cho cộng sản về cái ngu xuẫn của tư bản là dễ bị xỏ mũi.

Quý vị quỳ lụy để rồi tạo ra tiền lệ cho họ nặc tiền các nhóm quốc tế thiện nguyện khác. Các vị đừng tưởng là các vị giúp dân nghèo, không lấy tiền dân nghèo nhưng tất cả bệnh nhân nghèo đều phải nộp tiền cho Việt cộng để được khám! Đúng hơn là quý vị làm giàu cho cộng sản, tiếp tay cho cộng sản bóc lột dân nghèo.

Về  BS. McKinnon
Chúng ta ca tụng tấm lòng nhân ái của  BS. McKinnon, nhưng BS thiếu khôn ngoan trong cách ứng xử. Tại Canada, hễ bệnh nhân leo lên giường mổ là bệnh nhân và gia đình đã phải ký một lô giấy tờ. Bên Mỹ cũng vậy. Tại sao BS không áp dụng luật lệ này ở đây? Tại sao trước khi về Việt Nam, BS không nhờ tòa Đại sứ hay lãnh sự quán Mỹ ở Việt Nam, hay một văn phòng luật sư lo các thủ tục pháp lý.  Trong việc mổ xẻ, không ai có thể bảo đảm thành công trăm phần trăm. Nếu mổ xẻ không thành công, bệnh nhân có thể chết liền, hay chết sau vài tháng, họ kiện  đòi vài chục triệu thì sao?  Sang Việt Nam mới xin phép là bác sĩ làm việc " đặt cày trước trâu", và "đưa gươm cho người cứa cổ mình".  Về Việt Nam mới xin phép, thì 50% là họ từ chối, tất nhiên mình phải cuốn gói về. Mất tiền bạc và thời giờ con người mới thấy mình ngu cho dù mình là bác sĩ giỏi! Tại sao đi vào sa trường mà người chiến sĩ  lại không cầm thương giáo và mang giáp trụ, lại trần truồng như thế? Ông quá khinh địch, ông làm khổ ông và làm khổ nhiều người!

 Hai câu chuyện trên đại biểu cho hàng ngàn truyện khác và cũng tiêu biểu cho tâm trạng, đạo đức, lối sống của hàng triệu người Việt Nam.
(1). Đó là cái bệnh ghen ghét, ganh tài. Thấy người giàu hơn, giỏi hơn, danh tiếng hơn thì sinh lòng ghen ghét, tìm cách phá phách, cản trở, nói xấu người.
(2). Đó là cái tâm lý chứng tỏ uy quyền. Trong hai truyện, các nhân viên y tế làm khó dễ ngoại quốc để chứng tỏ họ có quyền hành. Họ có quyền tất cả, có quyền hạn với mọi người, người trong nước cũng như ngoại quốc.
(3). Họ mang tâm lý chống Mỹ cứu nước, tâm lý bài Pháp Mỹ của thời kháng chiến. Sự hống hách, chống đối này chứng tỏ họ rất đỏ, rất trung thành với đảng. Đó cũng là phương cách đi lên trong thế giới cộng sản. Tuy nhiên, nếu họ gặp Trung Cộng, họ sẽ cúi thấp hơn Trương Tấn Sang, và đó cũng là một cách để đi lên.
(4). Đó là tâm lý nịnh trên đạp dưới của cộng sản. Với Nga xô, Trung Cộng, hay đảng viên cao cấp, họ làm bò sát nhưng với nhân dân và người ngoại quốc họ rất tàn ác . Đó là tâm lý chung của hàng nho sĩ ngày xưa: khi làm văn bài thì ca tụng vua chúa hết mình, còn với kẻ khác thì miệt thị:
"Ba ngàn sĩ tử đè xuống dưới,
Chín tầng thiên tử đội lên trên."
(5).  Đó là hành động vô đạo đức, bất cần dư luận trong và ngoài nước. Họ dối trá, nói ngược, nói xuôi, nay nói thế này, mai nói thế khác. Họ chuyên dối trá, không hề giữ thành tín. 
(6). Tham tiền, mánh mung làm tiền. Tất cả trở ngại trên đều do mánh mung làm tiền, họ gây ra trở ngại để lọc lừa quý vị,bắt quý vị phải xùy tiền thì mới có thể làm từ thiện! Project Vietnam khám bênh tại cơ sở Y tế bảo hiểm là làm giàu cho họ, chạy vạy kiếm cơ sở, kiếm người đều phải chi tiền. Bà Amanda Schumacher và Bệnh viện Việt Pháp trả tiền cho bệnh viện Việt Nam, chắc phải là giá cao ngất thì Việt cộng mới để cho ca mổ tiến hành. Nhưng những số tiền này lại chui vào bọn đầu gấu, còn bác sĩ, y tá, y công bị bóc lột thậm tệ. Ai yêu cộng sản thực thi công bằng xã hội?Ai bảo cộng sản thương dân nghèo? Ngày xưa Phạm Duy phổ nhạc có câu:
"Mấy đời bánh đúc có xương Mấy đời cộng sản mà thương dân nghèo!"

Người Âu Mỹ có mục đich cứu trợ dân nghèo, người bệnh với lòng nhân đạo nhưng cộng sản lợi dụng lòng nhân đạo đó để làm tiền. Quý cơ quan, quý bác sĩ, y tá  nên tỏ thái độ cương quyết, nếu họ không sẵn lòng cộng tác thì nên ra về, đừng quỵ lụy, qua mềm dẽo thì càng bị Việt cộng lấn lướt, khinh bỉ và hành hạ khổ sở. Tại sao phải mua đau khổ vào mình? Tại sao phải lặn lội cầu kỳ? Phật đâu ở Tây Phương? Phật tại tâm.  Chúa ở khắp mọi nơi trên thế gian. Không phải ăn chay là tu hành, không phải thứ bảy chủ nhật đi nhà thờ là kính Chúa, không phải mỗi ngày quỳ lạy đọc kinh năm lần là được Thượng đế thương yêu.

Đó là tôn giáo hình thức.Tôn giáo  chân thực là thực hành từ bi bác ái, nhưng từ bi là việc nên làm ở mọi nơi, đâu phải chỉ có Việt Nam, Trung Quốc là nơi cần quý vị đến.Tại Mỹ, Canada,  Pháp, Úc, Mexico,  ...có rất nhiều ngưởi nghèo, người bệnh, xin hãy thương xót những người này.  Chương trình Toàn cầu hóa, khủng hoảng kinh tế toàn cầu  hiện nay đã gây ra đau khổ cho hàng triệu người thất nghiệp, hàng triệu trẻ vô gia cư, hàng triệu phụ nữ phải lầm than. . Hãy nhìn rõ thực tế trước mắt. Đừng ham danh, đừng khoa trương. Hãy lắng tai nghe tiếng kêu cứu, tiếng rên rỉ của những người đau khổ chung quanh ta. Quý vị là bác sĩ, sao không lập bệnh viện Từ thiện ở Mỹ, Canada, Úc, Pháp , Mexico...mà phải chạy về bên đó để mang khổ, mang nhục?
Quý vị đối với cộng sản thì kiên trì, nhẫn nhục và lễ độ, không biết đối với nhóm khác, người khác, quý vị có hiền lành như vậy không?Tôi mong quý vị dù đất trời xoay chuyển, quý vị vẫn giữ mãi sắc màu tươi thắm hôm nay.

II. NGƯỜI VIỆT NAM HẢI NGOẠI

Trong một bài khảo cứu về người Việt ở Hoa Kỳ, VOA trong bài "Người gốc Việt sống biệt lập ở Mỹ"?có đoạn như sau:

Người Mỹ gốc Việt sống tách biệt ở Hoa Kỳ, dù tới định cư tại quốc gia này hàng chục năm nay. Kết quả của một cuộc nghiên cứu do Đại học Brown thực hiện cho thấy rằng đây là một sự lựa chọn của người nhập cư gốc Việt, vốn đa phần xuất thân là người tỵ nạn.
Tình trạng sống tách biệt như vậy thể hiện rõ nét nhất tại các địa hạt thuộc thành phố Los Angeles và quận Cam, nơi có Little Saigon – địa điểm cư ngụ đông đảo nhất của người Việt
. (3)

 Nói rằng người Việt sống tách biệt là sai. Họ từ Việt Nam sang ở với người Mỹ thì sao họ tách biệt với người Mỹ? Người Việt Nam được người Mỹ nhận cho định cư tại Mỹ, giúp người ViệtNam có công ăn việc, cho họ hưởng một nền y tế, giáo dục rất tốt đẹp, và trong tâm họ luôn nhớ ơn người Mỹ, con cái họ kết hôn với người Mỹ, vợ chồng, con cái họ sánh vai với người Mỹ trong mọi ngành nghề thì họ đâu có xa lánh người Mỹ, biệt lập với người Mỹ! Dẫu sao trong các cộng đồng Người Mỹ gốc Việt có những tên cộng sản nằm vùng hô hào trung lập chống Mỹ cứu nước, kêu gọi làm tay sai cho cộng sản dưới danh nghĩa "hòa hợp hòa giải".
Người Việt hay nói chung con người trong khi thành lập quốc gia xã hội đều có hai tính cách là độc lập và kết đoàn, kết hợp. Ngay cả loài vật cũng vậy, trâu rừng sống chung với nhau, và sống chung với hươu nai nhưng nó không hòa hợp hòa giải với cọp, beo, sư tử... Đó là quy luật ' vật dĩ loại tụ. "
(Các vật cùng loại thì tụ họp với nhau).

Tuy yêu người Mỹ, tuy thích xã hội Mỹ và văn minh, văn hóa Mỹ, người Việt Nam cũng thấy cần sống chung với nhau cho nên ở Mỹ họ tụ lại với nhau ở California, Houston. Đó là quy luật chung, cho nên người Tàu ở các nơi tụ lại lập thành Phố Tàu, Chợ Tàu (China Town), người Pháp tụ laị ở Quebec. Đó là quy luật đoàn kết.Người Việt Nam đoàn kết với người Mỹ, người Pháp, người Úc, người Canada, người Đức nhưng vẫn hướng về những cộng đồng Việt Nam ở các nước họ định cư.

Sự sống chung với nhau rất có lợi. Càng có nhiều người Việt thì cộng đồng có lợi:
-Họ có thể nói ngôn ngữ Việt Nam
-Họ có thể mở các cửa hàng có đủ các hàng hóa ở quê hương như phở, chả giò, nước mắm, mắm ruốc, mắm tôm...
-Họ có thể có cảnh sát, thư viện, ngân hàng, luật sư, bác sĩ người Việt.
-Họ có thể làm các nghề khác như giữ em, bói toán, xem ngày, cúng quảy mà không thể có ở các nơi khác toàn là người Mỹ.
- Sống nơi có nhiều người Việt, người Việt có thể giữ được ngôn ngữ, văn hóa, và có thể giúp đỡ tinh thần và vật chất theo tinh thần "lá lành đùm bọc lá rách".

Khi định cư nước ngoài, chúng ta như thân cây bị nhổ lên trồng nơi khác. Chúng ta gặp bao trở ngại về ngôn ngữ, bằng cấp, thực phẩm , nghề nghiệp, phong tục...Ở Việt Nam đỗ bằng tiến sĩ, kỹ sư, luật sư... sang đây phải học lại từ đầu. Nay ở những cộng đồng rộng lớn thì những trở ngại ấy không còn nữa. Người Việt Nam ở California, ở Paris, đi đâu cũng thấy người Việt, quanh năm không cần phải nói một câu tiếng Anh, tiếng Pháp. Nói như vậy không có nghĩa là người Việt Nam tại Pháp, tại California không biết tiếng Pháp, tiếng Anh, không đỗ bằng cử nhân, kỹ sư, tiến sĩ Pháp , Mỹ. Trái lại, chúng ta có nhiều nhân tàiu phát xuất từ các đại học Pháp, Mỹ, Anh, Úc, Canada,Đức...,
Như vậy ta có đoàn kết giữa người Việt với nhau và giữa người Mỹ và người Việt.

Nếu nói tách biệt thì phải nói là người Mỹ. Khi thấy có nhiều người Việt hay người các nước khác đến cộng đồng họ, thì họ liền bỏ đi nơi khác. Cái đó cũng không đáng trách vì cách sống của người Mỹ cao hơn người Việt, người Trung Quốc, họ không thích sống chen chúc xô bồ, mất trật tự, mất vệ sinh. Họ sống yên tĩnh, an toàn, nay bên cạnh họ lại có một đám khố rách áo ôm, vô công rỗi việc, họ lo sợ mất anh ninh, cho nên họ đã âm thầm bỏ đi.

Cái tâm lý này phổ biến trong mọi quốc gia như khi ta ăn mặc lịch sự vào ngồi ăn trong tiệm phở, bỗng nhiên bên cạnh có đám người rách rưới, ăn nói ồn ào, khạc nhổ lung tung, bốc mùi khắm thối thì ta cũng nên đứng dậy, bỏ mặc tô phở đang ngọn. ... Người Mỹ đã rộng vòng tay giúp đỡ ta tuy rằng giữa ta và họ,  có sự xa cách cho nên họ phải xa ta. Sự riêng rẽ này cũng đúng vì tránh đụng chạm đúng như ông bà ta có câu:
"Sống mỗi người một nhà chết mỗi người một mồ." Tục lệ ta xưa cũng vậy. Con cái lớn cho mỗi đứa một nhà sống riêng rẽ cho tự do và tự lập.


 Ngày xưa người Mỹ kỳ thị màu da, nay thì người da đen đã vào tòa Bạch Cung. Con đường dân chủ, nhân quyền nhân bản đã ngày một thênh thang cho hòa bình nhân loại. Không ai trong chúng ta không yêu quý người bạn đồng minh của chúng ta đã mất 20 xương máu và tiền tài để bảo vệ cho Miền Nam tự do, nay họ lại rộng mở vòng tay cưu mang, giúp đỡ chúng ta. Tình nghĩa của chúng ta là thế sao bảo là ta sống cách biệt với người Mỹ?


Tại Canada, Pháp, Úc,  không có việc tiến vào tập thể và rút lui tập thể như ở California. Ai bán nhà cũ thì ta mua, cư xá nào đang xây và chiêu khách, ta đến ghi tên và trả tiền cọc, sau đó ta dọn vào. Họ sống bên ta, họ sống bên họ, tuy không thân thiết cũng không đến nỗi thù ghét. Thành thử dân  Việt Nam tại hải ngoại sống bình yên vui vẻ với các sắc dân khác, hoàn toàn không có sự cách biệt.

Cuộc nghiên cứu của Đại học Brown được tiến hành đối với 6 nhóm dân châu Á gồm Trung Quốc, Philippines, Ấn Độ, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam.
Ông Logan cho biết Nhìn chung, so với các nhóm sắc dân châu Á khác như người Philippines, Triều Tiên hay Trung Quốc, người Việt có trình độ học vấn thấp hơn, thu nhập thấp hơn có tỷ lệ người thất nghiệp cao hơn.
Việt Nam từ 1945 đến 1975 hơn ba muơi năm chiến tranh tàn phá, làm sao kinh tế, giáo dục bằng người! Tuy nhiên xét kỹ, về mặt chính trị, đa số dân nghèo bỏ nước ra đi chứng tỏ không phải chỉ có tay sai Mỹ mới chạy theo Mỹ mà ngay cả đến đám bình dân thất học, nghèo khổ sợ cộng sản như sợ hủi mà phải bỏ nước ra đi.  Điều này chứng tỏ dân vô sản Việt Nam tích cực chống lại cộng sản vì họ đã thấy mặt thật tàn ác, lưu manh của cộng sản. Trong khi đó những trí thức ở Pháp Mỹ, từ trước cho đến nay tuy sống ở Mỹ, học ở Pháp nhưng lại sẵn sàng chạy theo Việt cộng. Như vậy, ta có thể nói hạng cùng khổ sống ở núi rừng và thôn quê, đã bị cộng sản chém giết khủng bố nên họ căm thù và sợ hãi cộng sản mà bỏ nước ra đi. Còn hạng kia, như  Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Trương Như Tảng, Đoàn Văn Toại, Lê Văn Hảo...trí thức mà trình độ chính trị kém hơn các ông bà nông thôn thất học.

Chúng ta không có toàn bộ tài liệu về cuộc khảo sát kia, nhưng trong thực tế, ta thấy người Việt sang Mỹ làm hai, ba việc một lúc, chẳng bao lâu họ có nhà cửa, trong khi người Mỹ bảo lãnh họ thì vẫn ở thuê..MỘt số làm nail nhiều tiền nhưng tính gian dối, họ khai thất nghiệp để ăn tiền nhà nước Mỹ. Bằng chứng là họ rất giàu, gửi mỗi năm vài tỷ Mỹ kim về Việt Nam...Lẽ tất nhiên có những người nghèo đói đã phải tự tử...
Chúng ta không có tài liệu khảo sát trình độ học vấn, tuy nhiên tôi nhận thấy:
-Người tị nạn đa số có trình độ đại học còn nhân viên chính phủ Canada, Mỹ thường là chỉ có bằng trung học rồi được cha mẹ, anh chị em đem vào làm ở công sở, công ty , lương cao, nhàn rỗi, khỏi cần học đại học.
-Người ta đồn rằng trên thế giới, thông minh nhất là Do Thái, Ấn Độ sau đó là Việt Nam. KHông biết đó là sự thật hay là huyền thoại?  Lẽ dĩ nhiên người Âu Mỹ tài giỏi nhất vì họ đã có nhiều sáng chế, còn Việt Nam ta xưa nay cầm cờ đỏ. Nhưng từ 1954, ta có GS Bửu Hội,GS Nguyễn Xuân Vinh, Cô Dương Nguyệt Ánh ..là những nhân tài trong hàng trăm, hàng ngàn nhân tài Việt Nam khác ở hải ngoại. Chúng ta cũng có nhân tài chứ không đến nỗi dốt nát nhưng không biết tỷ lệ nguời giỏi Việt Nam  so với các nước là bao nhiêu, chưa ai cho ta biết kết quả cuộc phỏng vấn.


Giáo sư Logan cho biết, trên toàn nước Mỹ, cộng đồng người gốc Việt sống tách biệt như cộng đồng người gốc Mỹ Latin hay gốc Phi.Điều này cũng sai vì trừ những vủng như California, Houston, Paris còn các nơi khác người Việt cũng sống chan hòa với các cộng đồng bản xứ.  Sống chung có cách trở hàng rào ngôn ngữ, nhưng thực tế thì hàng rào ngôn ngữ ấy không là gì cả. Vào hãng xưởng, mọi người chào nhau "Hello", ra về chỉ nói" Goodbye" hay Baye! là đủ! Trong khi làm việc ai làm việc nấy có nói năng gì được đâu! Còn trai gái, đàn ông, đàn bà yêu nhau thì có ngôn ngữ quốc tế, cần gì tiếng Anh, tiếng Em! Nói chung mọi việc đều đơn giản. Sống chung với Tây, Mỹ nhiều khi lại dễ chịu hơn là sống với người Việt ưa xoi mói, ich kỷ, quan liêu, gian ác...Nói chung, dân châu Á ác hơn dân Âu Mỹ.  Nếu làm việc dưới quyền  giám sát, giám thị  của người Á là đã mất nửa đời hạnh phúc! Sống nơi nhiều người Việt lại có nạn cạnh tranh trong khi người Mỹ người Tây lại rộng rãi, khoan dung...


Ông nói đây là điều đáng ngạc nhiên vì các nhà nghiên cứu nghĩ rằng người gốc châu Á dễ dàng hòa nhập vào các cộng đồng bản địa. Ông nhận định có hai yếu tố lý giải cho điều này.

Một là, có thể người Mỹ gốc Việt có nhiều lựa chọn về mặt văn hóa tại khu vực sinh sống không khác gì ở Việt Nam. Một lý do khác có thể là người Việt không có nhiều lựa chọn về nơi họ sinh sống thế nên họ phải ở nơi mà giá cả có thể chấp nhận được. Đối với nhiều người nhập cư, điều đó đồng nghĩa với việc sống tại cộng đồng gồm người di dân với giá nhà cửa rẻ, hợp túi tiền cùng cơ hội tìm được việc làm cần tay nghề thấp từ những người đồng hương khác trong cộng đồng”.

 Điều này cũng mâu thuẫn với đoạn trên khi ông nói: " trên toàn nước Mỹ, cộng đồng người gốc Việt sống tách biệt như cộng đồng người gốc Mỹ Latin hay gốc Phi.
Ông còn nhân định người Việt buồn vì thế hệ trẻ nay nói tiếng Anh, quên tiếng mẹ đẻ. Điều này ông cũng nói hơi sai. Một số người Việt lấy làm vinh dự dược làm người Mỹ, người Úc, người Canada. Họ không muốn mọi người biết họ gốc Mít. Họ luôn nói tiếng Anh, dù ở trong nhà hay ra ngoài đường. Họ không bao giờ lui tới cộng đồng! Họ trở thành Mỹ lai và con họ là Mỹ con,  mọi thứ copy Mỹ y chang. Họ tự hào con cái họ học giỏi tiếng Anh. Họ cho rằng học tiếng Việt vô ích. Chúng ta chạy theo đế quốc Mỹ tất nhiên con cái ta, cháu chắt ta vài thế hệ sau sẽ trở thành dân Mỹ, dân Canada, dân Pháp, dân Đức.Đó là quy luật tự nhiên. Tuy nhiên, các bậc cha mẹ, ông bà và cộng đồng đã tổ chức các trường Việt ngữ, dạy con cháu trong nhà nói tiếng Việt  với tinh thần tích cực, chứ không phải bỏ bê như một số kể trên.
Trong khi người Việt hải ngoại nói , hát tiếngViệt, dân Việt Nam quốc nội độc lập theo Mac lê, theo XHCN, theo Trung Cộng lại thích học tiếng Anh, nói tiếng Anh, hát tiếng Anh. Tiếng Anh, bằng cấp Âu Mỹ đã  tạo con người trở thành những con người văn minh hiện đại, thành những con người ưu tú của thời đại mà Mac gọi là tư bản dẫy chết!

Mai sau, tiếng Việt sẽ chỉ còn lại ở các cộng đồng đông người Việt như California, Houston, Paris. còn các nơi khác thì sẽ khó khăn hơn. Sinh trưởng hoại diệt là định luật chung của vạn vật.

Đó là nói chung những người Việt hải ngoại định cư đúng luật. Còn những người phải đi lao động chui qua Anh, Pháp, Nga sống lén lút rất khổ. Ngoài ra những người Việt bán mình ở Đài Loan, Đại Hàn tuy không phải đi chui nhưng cũng chui vào tổ chức buôn người, buôn nô lệ của cộng sản thì cũng đau khổ.(3)

_____

(1). Những trở ngại của Project Vietnam trong công tác y khoa thiện nguyện"
http://www.rfa.org/vietnamese/programs/OverseasVietnamese/probl-for-womedi-tea-05082013151941.html
(2).BS. Nguyễn Tài Ngọc. Người đàn ông có cái bưới nặng 90kí lô.

http://www.saigonocean.com/trangNguyenTaiNgoc/vanNTN.htm

Tâm địa cộng sản. BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 265

Tài liệu và ảnh tham khảo của BS. Nguyễn Tài Ngọc:
http://tlc.howstuffworks.com/tv/specials/man-with-200-pound-tumor-pictures.htm
http://www.thehorrorzine.com/Odd/tumor/LargestTumor.html
http://giadinh.vnexpress.net/tin-tuc/song-khoe/tra-lai-dung-nhan-cho-thieu-nu-co-u-mat-khong-lo-2277830.html
http://www.whatsondalian.com/news-2532-end-of-tumor-misery-for-vietnam-women-thach-thi-sa-ly-kieu-thi-my-dung.html
http://english.vietnamnet.vn/en/society/17793/the-first-tet-holiday-without-huge-tumors-of-three-patients.html
http://en.wikipedia.org/wiki/McKay_McKinnon
http://www.youtube.com/watch?v=IJAJ4TvUmws
http://www.youtube.com/watch?v=0xw7aA91FEk
http://www.youtube.com/watch?v=9ICd77vrRKQ
http://www.youtube.com/watch?v=ZA6g6dz72Z8
http://www.youtube.com/watch?v=mR3xZWYQ0ck
http://www.youtube.com/watch?v=iYTYVQbgnNw
(3).  http://www.voatiengviet.com/content/nguoi-goc-viet-song-biet-lap-o-my/1698893.html

TỰ DO NGÔN LUẬN SỐ 175 NGÀY 15-07-2013

Kính gởi tới Quý Ân nhân, Quý Ủng hộ viên, Quý Độc giả
Bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 175 phát hành ngày 15-07-2013,
- Bài xã luận của bán nguyệt san.
Xin cảm ơn Quý vị đã đón nhận và tiếp tay phổ biến, nhất là phổ biến ngược về trong nước cho Đồng bào thân yêu.
Ban biên tập báo TDNL
Thòng lọng mới tròng vào cổ Dân tộc !!!
Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 175 (15-07-2013)
            “Vừa rời cảng Lý Sơn ra đến vùng biển Hoàng Sa đánh bắt hải sản được 3 ngày thì chúng tôi gặp nạn. 7g sáng ngày 7-7, sau khi 15 ngư dân trên tàu ăn bữa sáng nhẹ, chuẩn bị dây hơi bắt đầu lặn tìm hải sâm  thì chiếc tàu to lớn, sơn màu trắng cùng chiếc ca nô bất ngờ lao tới. Thấy tàu mang số hiệu 306 to lớn gấp 10 lần lao nhanh về phía tàu cá, tôi hô anh em vào khoang trú rồi tăng hết ga. Sau 1g theo bám, tàu Trung Quốc áp sát, nhiều người mặc quân phục xanh đậm, rằn ri cầm dùi cui điện nhảy sang tàu cá và dồn ngư dân về phía trước mũi tàu, hai tay để sau đầu. 

Tôi, thuyền trưởng và hai ngư dân Tốt, Nở bị bắt sang tàu Trung Quốc và phải giơ cao hai tay quì ở phía sau. Sau đó trở lại tàu, nhóm người Trung Quốc lao lên nóc cabin, dùng dao chặt hai trụ cờ ném xuống biển. Tôi cúi xuống bên mạn tàu vớt lá cờ Tổ quốc lên thì  nhóm người Trung Quốc xộc tới với thái độ hung dữ chẳng khác nào cướp biển. Họ dùng cùi chỏ tay đánh vào phía sau đầu, dùng dùi cui dí điện vào người khiến tôi ngất xỉu… 


Không chỉ đánh, đá ngư dân, nhiều người trên tàu Trung Quốc đã dùng búa, xà beng đập bể nát kính cabin, chẻ nhỏ các cửa nắp hầm, cửa tủ, dùng dao băm nát 720m dây hơi thành nhiều đoạn nhỏ. Sau đó họ lấy đi nhiều thiết bị, 5000 lít dầu, 1 tấn cá, gây tổng thiệt hại 400 triệu đồng”. Lời thuyền trưởng Võ Minh Vương (ngụ thôn Tây, xã An Vĩnh, huyện đảo Lý Sơn) nói với phóng viên báo VnExpress hôm 11-07 vừa qua như vậy đã gây chấn động đồng bào VN trong và ngoài nước.

Chưa hết! Phóng viên báo kể tiếp: “Sau khi đánh đập ngư dân, thu giữ tài sản trên tàu cá ông Vương, tàu 306 Trung Quốc tiếp tục rượt đuổi, tấn công tàu ông Mai Văn Cường (quê Lý Sơn). Ông Cường cho biết: vụ việc xảy ra lúc 9g sáng ngày 7-7, trong khi 14 lao động đang  hành nghề. Thấy tình hình không ổn, ông Cường vội tăng tốc rồ ga tàu bỏ chạy nhưng máy nổ trục trặc nên chạy được vài hải lý thì bị tàu TQ áp sát, tấn công. 

Người trên tàu 306 đã tràn qua tàu cá của ông Cường dùng dùi cui điện uy hiếp, đánh ngư dân, chặt phá toàn bộ dây hơi, dây neo, lấy đi máy định vị, máy dò, hệ thống Icom và hơn 2 tấn cá, rồi bỏ đi. Tổng thiệt hại ước tính hơn 200 triệu đồng. Sau gần hai ngày đêm, hai tàu cá anh Vương và Cường về quê huyện đảo Lý Sơn trong tình trạng dò đường vì mất hết trang thiết bị, thông tin liên lạc”.
            Câu chuyện thương tâm trên xảy ra chỉ hơn hai tuần sau Tuyên Bố chung giữa hai Chủ tịch Trương Tấn Sang và Tập Cận Bình (21-06-2013), trong đó có đoạn: “3 (xiii)- Hai bên sẽ tiếp tục thực hiện tốt “Hiệp định hợp tác nghề cá trong Vịnh Bắc Bộ”; tích cực nghiên cứu phương thức kiểm tra liên hợp mới tại khu vực đánh cá chung ở Vịnh Bắc Bộ. Hai bên đánh giá cao “Thỏa thuận giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn VN và Bộ Nông nghiệp TQ về việc thiết lập đường dây nóng về các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển” được ký kết trong chuyến thăm lần này, xử lý thỏa đáng các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển giữa hai nước phù hợp với quan hệ hai nước. 

4- Hai bên trao đổi ý kiến chân thành, thẳng thắn về vấn đề trên biển, nhất trí việc Lãnh đạo hai Đảng, hai nước duy trì trao đổi và đối thoại thường xuyên về vấn đề trên biển VN-TQ, chỉ đạo và thúc đẩy giải quyết ổn thỏa vấn đề trên biển xuất phát từ tầm cao chiến lược và đại cục quan hệ hai nước. Hai bên sẽ nghiêm túc thực hiện “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển VN-TQ””.
            Đang khi xảy ra sự việc động trời trên biển đó, khiến các cơ quan truyền thông quốc tế (BBC, RFA, RFI, VOA) và các trang dân báo từ quốc nội đến hải ngoại đều nhảy vào cuộc để tường thuật và bình luận, thì tất cả các tờ báo quốc doanh lớn (Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân, Công An…) vẫn im hơi lặng tiếng. Ngoại trừ tờ Đất Việt còn đang xác minh hai tàu cá VN bị cướp ngoài Hoàng Sa”, xem bọn nào đã tấn công ngư dân mình. Bộ Ngoại giao của Hà Nội cũng không thấy mở cái băng cassette cũ mèm về “bằng chứng chủ quyền biển đảo”, và đường dây nóng  của bộ Nông nghiệp &

Phát triển nông thôn có vẻ như bị cúp điện không hoạt động được. Ngoại trừ Hội Nghề cá VN đã xác minh, tổng hợp thông tin về 2 vụ việc và “đã gửi văn bản kiến nghị Văn phòng Chính phủ, Bộ Ngoại giao, Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn có “tiếng nói đồng thuận” can thiệp với phía TQ nhằm bảo vệ quyền lợi của ngư dân”. Nhưng e cũng là hy vọng hão!
            Hành động ngang nhiên chà đạp bản Tuyên Bố chung khi nó còn chưa ráo mực -mà chà đạp với những dấu chỉ hết sức rõ ràng: Tàu Kiểm ngư số 306 vốn có trọng trách “thực thi pháp luật” ở khu vực Hoàng Sa; sĩ quan và binh sĩ mặc quân phục xanh đậm tề chỉnh- rõ ràng là một sứ điệp mới, một đòn trấn áp mới đối với đảng CSVN. Trước đó, cuộc gặp gỡ 3 ngày tại Bắc Kinh đã là một đòn trấn áp mà Trung Nam Hải giáng xuống trên Ba Đình kể từ Hội nghị Thành Đô năm 1990.


Trấn áp khủng khiếp với 1 Tuyên Bố Chung đề ra chiến lược hợp tác toàn diện trong 13 lãnh vực, với 10 văn kiện xác định thỏa thuận hành động giữa mọi bộ của hai chính phủ, với một lập trường phối hợp về các vấn đề quốc tế tại các diễn đàn đa phương như Liên Hợp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới, Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương, Diễn đàn hợp tác Á-Âu, Diễn đàn khu vực ASEAN, Hội nghị cấp cao ASEAN và Trung Quốc, Hội nghị cấp cao ASEAN và Trung-Nhật-Hàn, Hội nghị cấp cao Đông Á…

Trong lịch sử nhân loại tự cổ chí kim và trong lịch sử Việt tộc từ xưa tới giờ chưa hề có một thỏa thuận toàn diện về ngoại giao mang tính “cá lớn nuốt cá bé” và có hình ảnh “dây thòng lọng” giữa hai quốc gia, hai nhà nước và hai chính đảng như thế, một thỏa thuận gây nguy hiểm tột cùng cho tiền đồ dân tộc. Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng đã lưu xú danh muôn thuở với Công hàm bán nước năm 1958, Đỗ Mười và Nguyễn Văn Linh đã vạn đời ô nhục với Hiệp ước Thành Đô năm 1990. Nay Trương Tấn Sang và Bộ Chính trị sẽ ngàn năm bia miệng với Tuyên bố chung Bắc Kinh 2013.
            Theo kỹ sư Nguyễn Gia Kiểng, cha đẻ của tác phẩm nghiên cứu chính trị nổi tiếng “Tổ quốc ăn năn”, đấy không chỉ là một tội (đối với đất nước) mà còn là một sai lầm. “Từ nay quan hệ kinh tế của nước ta với Hoa Kỳ và Châu Âu sẽ sút giảm vì một lý do giản dị là họ không muốn tiếp sức cho một chính phủ vi phạm nhân quyền đồng thời cũng là một vệ tinh của TQ. Lệ thuộc TQ như vậy không chỉ khiến VN mất chủ quyền và có nguy cơ mất thêm đất, biển và đảo, nó còn khiến chúng ta mất những nguồn đầu tư và những thị trường lớn. Kinh tế VN đang khốn đốn và sẽ còn khốn đốn hơn nữa trong những ngày sắp tới”. Đảng CSVN nghĩ rằng có thể dựa vào TQ để tiếp tục thống trị đất nước và dân tộc.


Nhưng oái oăm thay, “TQ không vững vàng như họ tưởng, mà chỉ là một sự phá sản chưa tuyên bố. Nó sẽ không thể duy trì lâu mức tăng trưởng kinh tế giả tạo bằng những chi tiêu công cộng, bằng cách sản xuất rồi tồn kho vì không bán được, bằng cách xây dựng những thành phố không người ở và những cầu đường không cần thiết. Nếu cách quản lý kinh tế này mà không dẫn tới phá sản thì phải vất bỏ tất cả mọi kiến thức và kinh nghiệm về kinh tế. Sự phá sản của mô hình TQ là chắc chắn và càng che đậy lâu bao nhiêu sự sụp đổ sẽ càng đau đớn bấy nhiêu”. “TQ đã cố che giấu những khó khăn bằng một chính sách tín dụng liều lĩnh và bằng cách gia tăng chi tiêu công cộng với kết quả là khối tín dụng phình lên một cách nguy hiểm. 

Vào năm 2008, khi cuộc khủng hoảng bắt đầu, khối tín dụng của TQ được ước lượng là 9.000 tỷ USD, ngày nay con số này là 23.000 tỷ USD, nghĩa là gấp bốn lần tổng sản lượng nội địa (GDP), trong đó một nửa là nợ khó đòi. Chưa kể khối tín dụng mà các công ty quốc doanh lớn cho các công ty nhỏ vay được ước lượng vào khoảng 200% GDP. Đó là những dấu hiệu rất báo động. Sự phá sản của TQ không còn che giấu được bao lâu nữa”. “Và TQ không chỉ sắp phá sản về mặt kinh tế mà còn đang bị hủy diệt về môi trường. Sông cạn, đất khô, nước không uống được, không khí không thở được.

 Chính sự tồn tại của TQ đang bị đe dọa”. Chưa kể thức ăn nhiễm độc cũng là nguy cơ -có lẽ nguy cơ lớn nhất- cho dân Tàu. Rõ ràng hàng lãnh đạo CSVN đã mù quáng một cách thảm hại: đi thần phục một kẻ đang chuẩn bị đầu hàng và dẫy chết. Sắp tới cái ngày mà chế độ CSVN sẽ không còn quan thầy nào để dựa, đang khi chỗ dựa quan trọng và cơ bản là lòng dân thì nó đã đánh mất từ lâu bằng cả chuỗi ngày dài cai trị trong lừa gạt và dối trá, trong bất nhân và bạo ngược.
            Thành thử đây là lúc mà toàn dân cần phải lên tiếng. Người ta đã trông chờ các nhà trí thức sẽ mau chóng nói lời phản biện sau Tuyên bố chung Bắc Kinh nhưng tới nay vẫn chưa thấy gì. Hai mươi ba năm trước, lúc lãnh đạo CSVN quyết định chuyển hướng 180 độ để thần phục Trung Quốc cách ô nhục tại Thành Đô, đã hầu như không có một phản ứng nào từ giới nhân sĩ.

May thay, Đức Tăng thống Thích Quảng Độ, trong Nhận định ra hôm 06-07, đã mạnh mẽ tố cáo: “Tuyên bố chung tại Bắc Kinh không hề có một dòng nào xác định việc Trung Quốc xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa và một phần đảo Trường Sa của Việt Nam, hoặc hàng nghìn cây số trên đất dọc biên giới, đặc biệt tại Thác Bản Giốc, Ải Nam Quan v.v… hay đòi hỏi Trung Quốc hoàn trả biển và đất đã xâm chiếm. 


Với kẻ cướp đã vào chiếm đóng một góc nhà rồi, ông Chủ tịch nước vẫn “nhất trí” với mưu kế của kẻ xâm lăng… Ông Chủ tịch nước tiếp tục dựa vào cái Bánh Vẽ của 16 chữ vàng và Bốn tốt để xây dựng chủ trương tân lệ thuộc ở thế kỷ XXI với Bắc phương. Chiếc Bánh Vẽ xuất phát từ ý thức nô lệ của ông Hồ Chí Minh khi ông làm bài thơ tuyên truyền “Cứu Trung quốc là tự cứu mình””.


Hy vọng rằng các lãnh đạo tinh thần khác cũng phản ứng nhanh nhạy như ngài Quảng Độ, bởi lẽ đất nước tiêu vong nô lệ thì tôn giáo cũng khó mà tồn tại an lành. Nhìn gương Phật giáo Mật tông ở Tây Tạng thì rõ. Ngoài ra, người ta cũng trông đợi các cá nhân, các tổ chức tranh đấu trong lẫn ngoài nước phải đồng loạt phản đối văn kiện đầu hàng mới và Tuyên bố chung kiểu vòng kim cô và dây thòng lọng này. Toàn dân phải thấy được nguy cơ “Tàu thôn tính Việt” đang được hợp thức hóa bằng giấy trắng mực đen, sau khi nó đã được thi hành cách tiệm tiến kể từ thời Hồ Chí Minh nhận Mao Trạch Đông làm thầy và chủ. Ngoài ra, đồng bào hải ngoại tại Hoa Kỹ hãy sẵn sàng dạy cho Trương Tấn Sang một bài học khi ông vác mặt sang đấy trong những ngày tới.
            BAN BIÊN TẬP

Tu do ngon luan so 175 (15-07-2013).doc
829K   View   Download

THƯ CỦA NGUYỄN TRÍ DŨNG * VỀ CỘNG SẢN VIỆT NAM


Sài Gòn, 17/7/2013
Kính gửi các Cha, Ông, Cô, Chú và mọi người quan tâm,

Tôi, Nguyễn Trí Dũng, cùng mẹ là bà Dương Thị Tân đã có mặt tại cổng trại số 6 (xã Hạnh lâm. huyện Thanh Chương, Nghệ An) vào 1h30 chiều ngày 16/7/2013 để thăm bố tôi.

Người trực cổng trại là Trung tá Phạm Quang Thao đã ra yêu cầu “gia đình phải đứng chờ đến giờ làm việc là 2 giờ”. Sau 2 giờ cán bộ này vẫn tiếp tục yêu cầu chờ tiếp ở ngoài nắng cho đến hơn 4h thì mới có một nhóm 5 người mặc sắc phục, nhưng hoàn toàn không có bảng tên, yêu cầu gia đình vào trong phòng ngồi nói chuyện.

Chúng tôi đã nghi ngờ có chuyện chẳng lành, một người già nhất trong nhóm bắt đầu nói rằng “hôm nay chưa cho thăm gặp vì ông Hải bị kỉ luật“. Khi bị hạch hỏi tại sao không thông báo ngay cho gia đình thì ông này trả lời như sau “theo luật thì trại không có trách nhiệm phải thông báo ngay mà chỉ thông báo tình hình cải tạo một quý một lần”

Còn vì sao bắt gia đình đứng ngoài nắng chờ thì ông này nói “vì tình người nên chúng tôi họp quản trại lại để đưa ra quyết định nhận đồ ăn từ gia đình gửi vào nên mới lâu như vậy”

Khi mẹ tôi tiếp tục hỏi bị kỷ luật từ bao giờ và vì lý do gì thì cán bộ này hết sức bối rối và trả lời “mới đây… bởi vì ông Hải gây mất trật tự phòng giam” và khi bị hỏi tới thì ông này nói “bị kỷ luật một tuần trước còn cụ thể việc đó thì tôi không rõ”

Khi gia đình yêu cầu biết tên thì cán bộ này tỏ ra vô cùng khó chịu và cuối cùng cũng nói tên mình (không rõ thật hay giả) là Ngô Trí Thảo , cấp bậc Trung Tá.

Sau một hồi quanh co sang chuyện khác, cũng chính tay Trung Tá này khẳng định rằng “Tôi khẳng định là chị không bao giờ vào được nên chị đừng mất công vô ích”

Gia đình trở về trong tâm trạng vẫn hoang mang vì ngay cả việc bị kỷ luật mà những cán bộ này còn phải huy động cả một lực lượng đông đảo, bỏ hết bảng tên, và bối rối trong cả ngày tháng như vậy thì ắt hẳn chuyện không thể đơn giản như vậy. Nhất là việc bố tôi đang ở cùng với những người bạn như ông Trần Anh Kim và nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa thì có lẽ nào gây rối trật tự ?

Ngày hôm nay khi cả hai mẹ con vừa bước chân về đến Sài Gòn thì đã nhận được tin vô cùng bất ngờ từ bà Nga rằng “ông Hải đã tuyệt thực 25 ngày”. Ông Nguyễn Xuân Nghĩa bị đàn áp vô cùng dã man khi ông báo tin này cho vợ là bà Nga hay. Tất cả những trả lời của công an đều là láo toét và nhằm mục đích che đậy việc họ đang không từ một thủ đoạn nào để giết ông Hải.


Nguyễn Trí Dũng


- See more at: http://vietnamhumanrightsdefenders.net/2013/07/17/khan-dieu-cay-da-tuyet-thuc-sang-ngay-thu-25-tai-trai-giam-so-6-nghe-an/#more-7576
__._,_.___
Reply via web post Reply to sender Reply to group Start a New Topic Messag

IAN BURUMA * NGỤC TÙ CỦA TRÍ TUỆ


Ngục tù của trí tuệ

Tháng 7 15, 2013
Ian Buruma

Phạm Vũ Lửa Hạ dịch

Ở TÙ xứ nào cũng khổ, nhưng mỗi xã hội có những cách hành xử văn hóa riêng để đày đọa người tù. Óc tưởng tượng tàn ác của giới cai tù Trung Quốc tuy không phải là độc nhất vô nhị, nhưng thường rất khác thường. Mà chính các tù nhân, những người tự phân chia đẳng cấp và lập nên nhà tù trong nhà tù, cũng có óc tưởng tượng khác thường.

Ví dụ, ở Trung tâm Điều tra thuộc Sở Công An Thành phố Trùng Khánh, còn gọi là Trung tâm Điều tra Tung Sơn, những tay trùm xà lim sáng chế một thực đơn gồm các món tra tấn quái dị. Thử điểm qua vài món:
Vịt hun khói kiểu Tứ Xuyên: Kẻ tra tấn đốt lông hạ bộ của tù nhân, tụt da quy đầu rồi dùng lửa đốt đen đầu dương vật.

Hoặc:
Mì nước trong: Những dải giấy vệ sinh được nhúng trong một bát nước tiểu, rồi tù nhân bị buộc ăn giấy vệ sinh và uống nước tiểu.

Hoặc:
Canh mai rùa và da heo: Kẻ tra tấn đánh hai đầu gối của tù nhân cho đến khi chúng thâm tím và sưng lên như mai rùa. Hết đi nổi.

Còn nhiều trò tra tấn khác nữa, được ban phát tùy theo tài ứng biến của kẻ thực hiện. Trong hồi ký lao tù lạ thường có nhan đề “Vì một bài hát và một trăm bài hát” (For a Song and a Hundred Songs, do Hoàng Văn Quảng dịch từ tiếng Trung, nhà xuất bản New Harvest), Liệu Diệc Vũ kể chuyện một tiều phu bị tâm thần phân liệt đã chặt chính vợ mình vì cô ta hốc hác đến nỗi anh tưởng lầm cô là một bó củi. Trùm xà lim pha thuốc nhuận trường vào nước súp của anh, rồi không cho anh dùng chậu đi tiêu đi tiểu chung, thế là anh chàng buồn đi cầu đến tuyệt vọng đành ỉa vấy lên khắp người một bạn tù. Vì cái tội đáng kinh tởm này, anh bị đập mặt vào bồn nước. Rồi đến lượt bọn quản giáo vì tưởng anh muốn tự tử, một trọng tội trong tù, nên dùng dùi cui điện đánh anh nhừ tử.

Alexis de Tocqueville đến Mỹ vào năm 1831 để nghiên cứu hệ thống nhà tù của nước Mỹ, nhưng rốt cuộc viết nên tác phẩm Dân chủ ở Mỹ(Democracy in America).[i] Quan sát hệ thống nhà tù Trung Quốc từ bên trong, với tư cách là một “tù nhân phản cách mạng” từ năm 1990 đến 1994, Liệu Diệc Vũ kể cho chúng ta biết rất nhiều về xã hội Trung Quốc, cả truyền thống lẫn cộng sản, trong đó có tác động của kiểu tuyên truyền cách mạng khoa trương, đấu tố vì bị ép buộc và thú tội công khai, và, khi thời thế thay đổi kể từ sau thời kỳ cai trị sai lầm của Mao Trạch Đông, áp dụng chủ nghĩa tư bản dưới những hình thức đồi bại. Ông kết thúc câu chuyện của mình bằng nhận xét “Trung Quốc vẫn còn là một nhà tù của trí tuệ: thịnh vượng nhưng không có tự do”.

LIỆU DIỆC VŨ bị tống giam vì sáng tác Thảm sát – một bài thơ theo phong cách dòng-ý-thức (stream-of-consciousness) tưởng niệm hàng ngàn người bị sát hại vào ngày 4/6/1989,[ii] khi phong trào đòi dân chủ bị đàn áp trên toàn Trung Quốc. Bài thơ (theo bản dịch tiếng Anh của Michael Day) mở đầu như sau:


Lại thêm một kiểu thảm sát diễn ra ở trung tâm xứ hoang tưởng
Thủ tướng cảm lạnh, nhân dân phải ho theo; thiết quân luật ban bố bao lần.
Cỗ máy không răng của nhà nước cán lên những người can đảm không chịu bệnh theo.

Liệu Diệc Vũ không phải là nhà hoạt động chính trị, hay nói đúng hơn, một người bất đồng chính kiến, và sự phản kháng của ông mang tính tự phát. Ông không quan tâm lắm đến chính trị, ngay cả trong những năm 1980 khi mà nhiều thanh niên Trung Quốc chẳng nghĩ đến gì khác ngoài chính trị. Ông có cuộc sống khá phóng đãng, lang bạt kỳ hồ như một “kẻ đạo đức giả ăn mặc bảnh bao, một nhà thơ tự khắc họa mình là một tấm gương mẫu mực nhưng đồng thời lại hít thở bằng đàn bà như tôi đang hít thở bằng không khí, tìm chỗ trú ẩn và hơi ấm trong thú ăn nằm lang chạ”.


Cũng như nhiều người Trung Quốc lớn lên trong thời Cách mạng Văn hóa, Liệu Diệc Vũ coi như tự học văn chương, tuy ông được cha là thầy giáo truyền thụ nền tảng căn bản về Tứ Thư Ngũ Kinh. Rải rác trong hồi ký của ông, ta bắt gặp tên những tác giả phương Tây – Orwell, Kundera, Proust – một số tác phẩm của họ thậm chí lọt qua được những bức tường nhà tù ở Trùng Khánh. Trong số đó, đáng chú ý là có cả cuốn Một chín tám tư của Orwell. Liệu Diệc Vũ viết: “Trên trang sách là một nhà tù tưởng tượng, còn xung quanh tôi là nhà tù thật”.

Khác với người bạn Lưu Hiểu Ba, nhà phê bình được Giải Nobel và là một tác giả có chính kiến mãnh liệt, Liệu Diệc Vũ chưa bao giờ muốn liều lĩnh chấp nhận rủi ro. Ông mô tả mình là một nghệ sĩ chỉ muốn được tự do viết theo ý thích của mình. Mới hồi năm 2011, ông nói với nhà báo Ian Johnson: “Tôi không muốn phạm luật của họ. Tôi không quan tâm đến họ và mong muốn họ chẳng quan tâm đến tôi”. Nhưng, năm 1989, ông tự đẩy mình “vào con đường tự hủy diệt” khi đến các tửu quán và hội quán khiêu vũ để ngâm bài thơ của mình bằng giọng than khóc theo lối cầu siêu truyền thống của Trung Quốc. Một băng thu âm bài thơ này được lén lút phát tán, và một nhóm nghệ sĩ và bạn bè đồng cảm đã làm một bộ phim mang tên Lễ cầu hồn (Requiem) quay những cảnh ông ngâm bài thơ này. Theo Liệu Diệc Vũ, không một ai trong số đó có thể được liệt vào hạng “kẻ bất đồng” hay “nhà tranh đấu dân chủ”. Nhưng tất cả đều bị bắt, tác phẩm của họ bị tịch thu, và nhờ đó “Sở Công An triệt hạ một cộng đồng văn chương bí mật hoạt động mạnh ở Tứ Xuyên”.

Thời gian ở tù cũng không biến Liệu Diệc Vũ thành một nhà hoạt động chính trị. Có lúc một người cũng thuộc phong trào Bát Cửu (89) muốn khởi xướng một tổ chức gồm các tù nhân chính trị đã tiếp xúc với ông. Liệu Diệc Vũ không chịu tham gia, và giải thích lý do tại sao ban đầu ông viết bài thơ Thảm sát. Ông nói ông “buộc phải phản kháng” vì “ý thức hệ nhà nước mâu thuẫn dữ dội với quyền tự do diễn đạt của nhà thơ”. Trong hồi ký, ông kể rằng đối với chuyện này, “ông không hề có ý định làm anh hùng, nhưng ở một đất nước mà sự điên rồ ngự trị, tôi phải có lập trường. Thảm sát là tác phẩm nghệ thuật của tôi, và tác phẩm nghệ thuật của tôi là cách phản kháng của tôi”.


Nhiều nhà bất đồng nổi tiếng đã viết khá sinh động về kiếp lao tù của họ. Lòng can đảm để đứng một mình của Ngụy Kinh Sinh kể chuyện 18 năm ông ở tù sau khi ông lãnh đạo phong trào Bức tường Dân chủ trong những năm 1970. Những ngọn gió rét của Ngô Hoằng Đạt (Harry Wu) mô tả kiếp đọa đày của ông ở những trại lao động cưỡng bức trong thập niên 1960 và 1970. Những câu chuyện quả cảm của họ chuyển tải một thông điệp chính trị mạnh mẽ về việc đứng lên chống lại chế độ độc tài. Liệu Diệc Vũ là một văn nhân, và nhờ đó hồi ký ở tù của ông càng có sức thuyết phục hơn. Trước hết, ông thành thực đến tàn nhẫn về các nhược điểm và nỗi sợ của mình. 
 
Ông chẳng có gì đặc biệt anh hùng cả. Nhìn bọn quản giáo tập dượt chiến đấu trong ngày đầu tiên ở tù, ông “rùng mình như một con chuột nơm nớp lo sợ”. Buộc phải hát đi hát lại nhiều bài với cổ họng khô rát trong trời lạnh cóng người để mua vui cho bọn quản giáo, ông bị đánh bằng dùi cui điện. Khi không thể hát tiếp được nữa, ông bị lột hết áo quần và quật ngã xuống đất: “Tôi có thể cảm nhận được cái dùi cui trên hậu môn của mình, nhưng tôi không chịu đầu hàng. Đầu dùi cui đi vào người tôi. Tôi hét lên rồi rên khóc như một con chó”. Liệu Diệc Vũ đã hai lần tìm cách tự vẫn, một lần bằng cách đập đầu vào tường. Chuyện này khiến những tù nhân cùng xà lim chế nhạo ông; họ tố ông đóng kịch, cho rằng đó là trò tiêu biểu của một nhà thơ mọt sách. Nếu thực sự đã muốn vỡ sọ, lẽ ra ông nên đập đầu vào gờ tường.


Liệu Diệc Vũ mô tả rất tỉ mỉ tâm trạng của kẻ lúc nào cũng sợ hãi, phải sống trong một xà lim chật chội với quá nhiều người khác đến nỗi chẳng có chỗ nằm, đói ăn và thiếu tình dục. Có tù nhân đói lả bắt được một con chuột bèn lột da khi nó đang còn sống rồi ăn tươi. Có người vục mặt vào xô đồ ăn thừa mà ngoạm đầy miệng. Sinh hoạt tình dục vẫn diễn ra, nhưng theo kiểu đê tiện. Một tù nhân suýt đốt trụi giường vì thủ dâm với một cái bật lửa khi bật lên thì hiện ra hình ảnh một phụ nữ khỏa thân. Có người chỉ cần thấy một ngôi sao phim sến trên truyền hình là không nhịn được lòng thèm muốn nhục dục. Liệu Diệc Vũ chứng kiến đám tù nhân bu quanh cửa sổ, tay trùm xà lim được đôn lên vai những kẻ nô lệ của mình, khi cả đám thủ dâm trong lúc cố nhìn cho được một người đàn bà bên ngoài. Một anh tù nhân trẻ bị trùm xà lim hãm hiếp, đem lòng yêu hắn, rồi bị ruồng bỏ bằng một cái tát vào mặt khi tay trùm bị bất lực.


MỘT trong những lý do không mấy đáng khoe khiến ta đọc các hồi ký lao tù như cuốn này với cảm giác thích thú pha lẫn khiếp đảm là nỗi thống khổ của kẻ khác lại có thể có sức hấp dẫn khiêu dâm ghê gớm. Nhưng tác phẩm của Liệu Diệc Vũ hết sức lôi cuốn chính nhờ tài quan sát của ông. Tuy bản thân cũng chịu đau khổ, ông luôn tò mò về những người khác, về tính cách của họ, về những câu chuyện của họ, và về cách họ đối phó với bao nỗi kinh hoàng của đời sống ngục tù. Những lần tiếp xúc của ông với các tù nhân khác được khéo léo biến thành các truyện ngắn. Vì một số tù nhân này đang chịu án tử hình, truyện thường bàn chuyện đối mặt với cái chết cận kề. 
 
Một tay buôn lậu ma túy có biệt danh Tử Thường muốn mượn tập sách bản đồ của Liệu Diệc Vũ để chuẩn bị cho kiếp sau làm con ma lang thang. Tử Thường đã lạc lối quá nhiều lần ở kiếp này, và muốn tới thăm những nơi hắn thích lai vãng sau khi hắn bị kết liễu bằng một viên đạn vào cổ. Nghe kẻ tử tù này nói họ có thể gặp lại nhau ở kiếp sau, Liệu Diệc Vũ thấy “tứ chi tôi run rẩy”. Tử Thường hỏi ông có sao không, rồi “bật ra tiếng cười quái gở. Vết nhăn hằn sâu giữa hai chân mày của hắn cứ như mở toang hoác giống cái miệng chực nuốt chửng tôi”.


Một số trong những tù nhân này được khắc họa trong một cuốn sách khác của Liệu Diệc Vũ, được xuất bản ở Đài Loan với nhan đề Phỏng vấn những người ở dưới đáy xã hội (Interviews with People from the Bottom Rungs of Society, 中国底层访谈录, 2001), và ở Mỹ với nhan đềNgười vác thi thể (The Corpse Walker, 2008). Trong đó có truyện về một nông dân mù chữ tuyên bố làng quê của mình là một nền quân chủ độc lập, tự phong mình làm hoàng đế. Vì hành động lật đổ phản cách mạng này, ông bị tù chung thân. Liệu Diệc Vũ thấy “hoàng đế nông dân” lý thú ở chỗ các ảo tưởng của ông bắt nguồn từ Tứ Thư Ngũ Kinh. Một trong những tuyên bố của ông là dải băng vàng mang niên hiệu của ông được tìm thấy trong một con cá. Khi Liệu Diệc Vũ chỉ ra rằng cái mẹo này đã được một nông dân phiến loạn sử dụng hai ngàn năm trước để phỉnh dụ thiên hạ theo ông, vị hoàng đế nông dân bảo ông câm mồm: “Ngươi quả là thất lễ vì dám nói với Trẫm như vậy. Trẫm biết ngươi là ký giả giả trang do vương quốc Trung Hoa thù địch phái tới đây. Ngươi đã âm mưu cấu kết với bọn cán bộ quản giáo để lừa Trẫm cung cấp bằng chứng kết tội”.

Văn học có thể dùng làm lối thoát, như khi Liệu Diệc Vũ thả mình dạt theo những ký ức về Trăm năm cô đơn của Gabriel García Márquez. Ông thấy mình đặc biệt giống một nhân vật trong tiểu thuyết này: đó là Đại tá Buendia, mất trí sau khi bị cột vào một cây dẻ trong nhiều năm. Giống như Đại tá, Liệu Diệc Vũ rút lui vào trong tâm trí của mình. Những lúc khác, các tác phẩm văn học minh họa các khía cạnh sơ khai nhất của kiếp tù. Liệu Diệc Vũ nhớ trong Đời nhẹ khôn kham(The Unbearable Lightness of Being),[iii] Milan Kundera định nghĩa cáikitsch toàn trị (totalitarian kitsch) là “sự hoàn toàn phủ nhận cứt”. Liệu Diệc Vũ viết rằng ông không thể nâng phân người lên một tầng ẩn dụ cao hơn: “Trong cuốn hồi ký tầm thường này của tôi, cứt là cứt. Tôi cứ nhắc mãi đến cứt vì tôi suýt chết đuối trong cứt”. Thực tế quả gần đúng như vậy; là ma mới trong xà lim, hoặc nếu không còn được lòng một trong những tay trùm xà lim, ông thường phải ngủ kề mặt bên chậu đi tiêu đi tiểu.

Song, ông không nhịn được cách nhìn ẩn dụ về cứt, như trong nhận xét ông đang sống “trong một chuồng heo đầy cứt gọi là Trung Quốc”. Bệnh tật cũng được nâng lên thành một ẩn dụ. “Nếu Trung Quốc là một bệnh nhân bị ung thư ruột, thành phố Trùng Khánh là điểm cuối bẩn thỉu của khúc ruột đó, cái hậu môn bệnh hoạn”. Trong sách, nhà tù thường được mô tả là một nhà tù bên trong một nhà tù khổng lồ của một xã hội Trung Quốc bệnh hoạn, một tấm gương lố bịch của các thể chế chính trị và sự khoa trương khoác lác của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.


NGÔN NGỮ của chủ nghĩa Mao, nay gần như đã thấm nhuần vào đời sống Trung Quốc như các giáo điều Khổng giáo đã từng ăn sâu, thường được dùng theo lối tương tự, cứ liên tục bật ra giữa các cuộc trò chuyện trong tù. Tù nhân thường nhại các phát biểu của Mao với vẻ mỉa mai, như khi anh tiều phu bị cấm dùng chậu đi tiêu đi tiểu sau khi dính thuốc nhuận trường, đám tù nhạo anh: “Không có kỷ cương và phép tắc thì cách mạng sẽ không thành công”. Đôi khi Mao được trích dẫn nghiêm chỉnh. Một tay trùm xà lim có cảm tính với Liệu Diệc Vũ cảnh báo ông đừng kết bạn với một người khác cũng là trí thức: “Đừng có mà sách vở quá … Hãy nhớ lời dạy của Mao Chủ tịch về đấu tranh giai cấp – đừng bao giờ mất cảnh giác đối với kẻ thù giai cấp của anh”.

Ngoài suy nghĩ đượm chất Mao, chính hệ thống chính quyền kiểu Trung Quốc được sao chép bên trong nhà tù. Một phần là do cách tổ chức Đảng Leninist, nhưng phần lớn là do những tập quán truyền thống. Khi Liệu Diệc Vũ nhập trại ở Trung tâm Điều tra Tung Sơn, trùm xà lim của ông giải thích cơ chế vận hành xà lim. Hắn so sánh hệ thống tôn ti trong xà lim với Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương; ủy viên BCT và Quân ủy đứng trên dân thường. Họ muốn làm gì cũng được. Nhưng, để duy trì trật tự, họ phải áp đặt tính đoàn kết tuyệt đối trong xà lim. 
 
Dấu hiệu phản loạn đầu tiên sẽ bị bóp nát không thương tiếc. Tuy nhiên, phản ánh hàng trăm năm theo Khổng giáo, trùm xà lim nói giới cai trị không thể quá tàn nhẫn: “Chúng ta cần để những người dưới quyền chúng ta có cảm giác chúng ta là cha mẹ của họ”. Khi Liệu Diệc Vũ phản đối, trích lời Mao Chủ tịch nói rằng nhân dân là cha mẹ của Đảng, trùm xà lim tỏ vẻ hiểu rõ hơn về thực tế Trung Quốc: “Tào lao! Nếu một tên trộm ở đây muốn có một bữa ăn đường hoàng đủ no, chuyện đó do tao quyết định”.

Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi giới quản giáo cũng dựa các phương pháp của mình theo các tập quán phổ biến ở Cộng hòa Nhân dân. Chẳng hạn như việc sử dụng các chiến dịch chính trị. Tù nhân ở Trung tâm Điều tra bị ép buộc tham gia một chiến dịch hàng năm gọi là “Tự thú tội và đấu tố người khác”. Những cuộc mít-tinh chính thức được tổ chức trong sân trại, giống như dưới thời Mao, với các khẩu hiệu chính trị hô vang trời, và những bài phát biểu dài lê thê của những cán bộ công an và quản giáo. Tù nhân phải dành hàng giờ để viết lời tự thú và đấu tố. Các trùm xà lim được khuyến khích chọn những món hấp dẫn nhất trong thực đơn tra tấn cho những tù nhân bị xem là chưa đủ nhiệt tình tự thú hay đấu tố người khác.

Chiến thuật này cũng là một kết hợp hiểm độc giữa truyền thống và sáng tạo hiện đại. Tự thú theo lễ nghi xưa nay đã luôn là một phần trong công lý Khổng giáo. Việc bị buộc phải đấu tố người khác, tuy không phải là không có trong quá khứ, là một thủ đoạn tinh vi của chế độ toàn trị nhằm triệt tiêu lòng tin giữa người với người, để họ chỉ còn biết trung thành với Đảng. Liệu Diệc Vũ kể những chiến dịch tự thú và đấu tố quá ác nghiệt đến nỗi nhiều người chết do tra tấn. Song, khi tình hình có nguy cơ vượt quá tầm kiểm soát, cấp quản lý trại giam cho ngừng các màn xử tội, và đúng theo kiểu hành xử Maoist thường thấy, trở mặt đổ tội cho các thủ phạm bằng cách mở một chiến dịch khác, lần này gọi là “Xử lý những kẻ bắt nạt bạn tù”. Chính những kẻ trước đây được khuyến khích trấn áp những tù nhân ngoan cố nay lại bị đàn áp.


Nhưng, dĩ nhiên, Trung Quốc đã tiến tới kể từ sau mấy chục năm dưới chế độ kinh hoàng của Mao. Khi Liệu Diệc Vũ ở tù, Trung Quốc đã mở cửa làm ăn với thế giới tư bản hơn mười năm. Cải cách kinh tế bắt đầu vào đầu thập niên 1980 dưới sự lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình. Năm 1992, Đặng Tiểu Bình kêu gọi tăng trưởng kinh tế nhanh hơn nữa. Chính vì thế, theo lời của Liệu Diệc Vũ, “cán bộ quản giáo không để lỡ nhịp và nhanh chóng lợi dụng sức lao động miễn phí để tư lợi đầy túi”.


Lao động miễn phí là mỹ từ để chỉ nạn nô lệ. Mỗi tù nhân buộc phải đóng gói thuốc men ít nhất mười giờ mỗi ngày, trong khi tai phải nghe loa phóng thanh ra rả những lời hô hào chính trị – cách kết hợp thường thấy của Đảng Cộng sản Trung Quốc giữa áp bức ý thức hệ và bóc lột kinh tế. Liệu Diệc Vũ nhận xét rằng kiểu lao động chân tay lặp đi lặp lại này đã bị các nhà máy địa phương bãi bỏ. Nhưng giới quản giáo có thể kiếm bộn lợi nhuận nhờ ép buộc các nô lệ bị cầm tù hoàn thành chỉ tiêu tới ba ngàn gói mỗi ngày. Tù nhân nào tìm cách trốn hoặc phản đối chế độ nhà tù sẽ bị đánh đập hoặc tống vào ‘xà lim tối” chỉ đủ chỗ để bò vào rồi nằm bẹp xuống. Liệu Diệc Vũ viết: “Sau chừng một năm, da của kẻ ở xà lim tối trở nên nhợt nhạt, xương yếu đi, còn tóc trắng bệt. Da trong suốt đến nỗi ta thấy rõ những gân máu xanh”.

Liệu Diệc Vũ nhắc đến vài giây phút thư thái. Có nhiều ví dụ về lòng tốt của những trùm xà lim ưu ái ông, đôi khi nhờ là nhà thơ; lòng tôn trọng văn chương chưa chết ở Trung Quốc. Một thầy tu đạo Phật dạy ông thổi sáo. Và thảng hoặc, điều kiện sinh hoạt trong tù có khá lên đôi chút vì nước ngoài gây áp lực buộc Trung Quốc cải thiện về nhân quyền. Điều này có thể khiến những người trong chúng ta đã hết hy vọng gây ảnh hưởng từ bên ngoài đối với cách hành xử chính thức của Trung Quốc sẽ bớt hoài nghi hơn đôi chút.


Trong khi đó, Liệu Diệc Vũ cố gắng lưu giữ ký ức về những điều tai nghe mắt thấy trong tù bằng cách chép vội trong một cuốn Tam quốc chí. Ngày 31/1/1994, ông được trả tự do. Nhưng, theo ông kể, việc ra tù của ông chỉ là khởi đầu của một kiểu đọa đày khác, có lẽ còn cay đắng hơn theo cách riêng của nó. Người gây rối và người bất đồng hiếm khi được ưa chuộng ở các xã hội áp bức. Họ gây rắc rối cho người khác vì xúi giục trả đũa, và họ khiến đa số những người không chịu chống đối thấy bất an về thái độ phục tùng của mình. 
 
Liệu Diệc Vũ ghét về quê ăn tết và vào các dịp lễ lạt gia đình khác, vì ông biết mình sẽ bị chỉ trích. Vợ ông quyết định ly dị ông – có lẽ cũng chẳng đáng ngạc nhiên, vì Liệu Diệc Vũ chưa bao giờ tự nhận là một người chồng tận tụy. Tệ hơn nữa là ông bị chính bạn cũ ruồng bỏ. Sau bốn năm ở tù, ông viết, “tôi chẳng khác nào một đống cứt chó dưới mắt những bạn văn của tôi”. Sự ruồng bỏ này có thể thể hiện một kiểu nhẫn tâm đặc thù Trung Quốc, nhưng thực ra chủ yếu là do cách quản lý Trung Quốc hiện nay. 
 
Sau cuộc dấy loạn bất thành năm 1989, chính quyền cộng sản đã có một thỏa thuận khôn khéo với các giới có học: nếu những người thuộc thành phần ưu tú ở thành thị tránh xa chính trị, họ sẽ được tự do mở mang trí tuệ cho chính mình. Liệu Diệc Vũ viết: “Cả nước ta đột nhiên mải mê kiếm tiền, đó chính là axít ăn mòn làm hòa tan chính kiến bất đồng. Cũng chính những người từng can đảm tuần hành trên đường phố đòi dân chủ nay lại hóa ra “phi chính trị” trong thời đại hiện nay khi ai cũng chạy theo vật chất tiền tài – theo kiểu cộng sản”. Nhiều bạn văn nghệ đồng chí hướng với ông đã trở thành doanh nhân.


Trong những hoàn cảnh như vậy, thiên hướng thông thường khiến con người lảng tránh kẻ gây rối càng được củng cố bởi cái ý thức không kiềm nén được về việc đã chấp nhận một thỏa thuận đê hèn. Cũng giống như trong thực tế thường xảy ra với những người sống trong chế độ độc tài, các độc giả hăng hái nhất của Liệu Diệc Vũ là các cán bộ ăn lương để kiểm duyệt ngôn từ của ông. Buộc phải chấp nhận kiếp sống của một kẻ lang thang có học, đôi khi thổi sáo ngoài đường để kiếm sống, và sợ bị tống giam trở lại, Liệu Diệc Vũ xoay xởvượt biên sang Việt Nam, rồi từ đó ông tìm đường sang Đức, nơi ông sinh sống hiện nay. Và thế là chính nhà thơ Trung Quốc đầy tài năng này trình diễn những buổi ngâm thơ tưởng niệm của ông để mua vui cho khán giả ở Berlin và New York – một “người bất đồng” kỳ lạ ở nước ngoài, tiếng nói của ông được nghe ở khắp nơi ngoại trừ nơi nó cần được nghe nhất.

Nguồn: Ian Buruma, Prison of the Mind, The New Yorker, 1/7/2013


Bản tiếng Việt © 2013 Phạm Vũ Lửa Hạ





Liệu Diệc Vũ bị cầm tù từ năm 1990 đến 1994 sau khi sáng tác bài thơ Thảm sát để tưởng niệm những người biểu tình đòi dân chủ. Minh họa của Peter và Maria Hoey.







[i] Bản dịch tiếng Việt có nhan đề Nền dân trị Mỹ.Trả lời phỏng vấn của Ban Việt ngữ Đài VOA, dịch giả Phạm Toàn cho biết ông và Nhà xuất bản Tri Thức chủ động đổi nhan đề vì hiểu tâm lý chính quyền Việt Nam dị ứng với từ “dân chủ”.


[ii] Sự kiện Thiên An Môn


[iii] Bản dịch tiếng Việt của Trịnh Y Thư













SƠN TRUNG * VẠN PHÁP



VẠN PHÁP
SƠN TRUNG
Ai bảo Pháp không hai?
Sao có thiện có ác?
Sao có bên này bên kia?
Sao có đắc và không đắc?
Sao có đúng và có sai?
Ai bảo Pháp không ba?
Sao có tham sân si?
Sao có quá hiện vị lai Phật?
Sao có những tam quy?
Ai bảo Pháp không bốn?
Sao nói tứ đại giai không?
Sao có sinh lão bệnh tử?
Ai bảo Pháp không năm
Sao bày ra thập điều, ngũ giới?
Ai bảo Pháp không sáu?
Sao dạy lục hòa tăng
Ai tìm đường giải thoát
Khỏi luân hồi lục đạo?
Ai bảo Pháp không bảy,
Sao kêu gọi diệt thất tình
Ai bảo Pháp không tám?
Sao dạy bát chánh đạo?
Ai bảo Pháp không trăm,
Ai bảo Pháp không ngàn,
Sao có tam thiên thế giới
Sao nói vạn pháp vô thường?
Có nơi nào bất sinh bất diệt?
Còn ta ở  trong vòng sống chết.
Có nơi nào bất cấu bất tịnh?
Còn ta nửa trong nửa đục
Ai sống trong đời bất giảm, bất tăng
Ta sống trong cõi vô thường
Có vinh có nhục
Có thù hận và yêu thương!

Ai bảo diệt hết nhân quả?
Nhưng  hằng ngày ta sống
Đều hái quả gieo nhân
Nơi nào không nhân quả
Nơi nào hoàn toàn trong sạch
Nơi nào không tăng không giảm
Nơi nào không hận thù gian dối
Nơi nào đẹp tuyệt đối
Nơi nào luôn bình an?
Nơi nào vạn vật trường tồn
Ấy là chốn Niết Bàn!
 

VOA * NGƯỜI VIỆT Ở HOA KỲ

Người gốc Việt sống biệt lập ở Mỹ?

Tình trạng sống tách biệt của người Việt thể hiện rõ nét nhất tại các địa hạt thuộc thành phố Los Angeles và quận Cam, nơi có Little Saigon.
Tình trạng sống tách biệt của người Việt thể hiện rõ nét nhất tại các địa hạt thuộc thành phố Los Angeles và quận Cam, nơi có Little Saigon.
CỠ CHỮ
Người Mỹ gốc Việt sống tách biệt ở Hoa Kỳ, dù tới định cư tại quốc gia này hàng chục năm nay. Kết quả của một cuộc nghiên cứu do Đại học Brown thực hiện cho thấy rằng đây là một sự lựa chọn của người nhập cư gốc Việt, vốn đa phần xuất thân là người tỵ nạn.

Tình trạng sống tách biệt như vậy thể hiện rõ nét nhất tại các địa hạt thuộc thành phố Los Angeles và quận Cam, nơi có Little Saigon – địa điểm cư ngụ đông đảo nhất của người Việt.

Trả lời VOA Việt Ngữ, ông John Logan, giáo sư bộ môn xã hội học của Đại học Brown, một trong các tác giả của nghiên cứu, nói rằng đã hàng chục năm kể từ khi những người Việt đầu tiên đặt chân tới Mỹ sau Chiến tranh Việt Nam, và giờ là thời điểm thuận lợi để đánh giả đầy đủ sự hội nhập của họ tại Mỹ.

Ông nói: “Trong vòng 10 năm qua, con số người Việt tại Mỹ đã tăng 60% - 70%, và phần đông số này là dân nhập cư. Nhưng phần lớn sự gia tăng này là thế hệ thứ hai và thứ ba của người Mỹ gốc Việt. Cộng đồng người Việt là một trong những sắc dân thuộc loại lớn nhất ở Hoa Kỳ”.

Cuộc nghiên cứu của Đại học Brown được tiến hành đối với 6 nhóm dân châu Á gồm Trung Quốc, Philippines, Ấn Độ, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam.

Một trong những chỉ số đánh giá vị thế kinh tế xã hội của các sắc dân châu Á là giáo dục. Mọi sắc dân được tiến hành nghiên cứu, trừ người gốc Việt, có trình độ giáo dục cao hơn người da trắng không thuộc gốc Mỹ Latin.

Ông Logan cho biết, người gốc Việt nằm trong nhóm có nhiều điểm bất lợi.

Nhìn chung, so với các nhóm sắc dân châu Á khác như người Philippines, Triều Tiên hay Trung Quốc, người Việt có trình độ học vấn thấp hơn, thu nhập thấp hơn và có tỷ lệ người thất nghiệp cao hơn.
Ông nói: “Nhìn chung, so với các nhóm sắc dân châu Á khác như Philippines, Triều Tiên hay Trung Quốc, người Việt có trình độ học vấn thấp hơn, thu nhập thấp hơn và có tỷ lệ người thất nghiệp cao hơn. Nhưng người gốc Việt lại khá hơn cộng đồng người Mỹ gốc Phi hoặc gốc Mỹ Latin.  Đây là đánh giá chung. Tôi phải nhấn mạnh rằng sự đa dạng tồn tại trong bất kỳ sắc dân nào ở Hoa Kỳ, và tôi chắc rằng trong cộng đồng người Việt có những người hết sức thành công”.

Theo cuộc nghiên cứu, người Việt cũng là nhóm có tỷ lệ nghèo khổ và số lượng người nhận trợ cấp xã hội cao.

Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, Chủ tịch tổ chức có tên gọi Nghị hội Toàn quốc của người Việt ở Hoa Kỳ, tán đồng ý kiến này.

“Các dân khác như người Ấn Độ hay là người Trung Hoa sau này họ sang bên Mỹ với rất nhiều tiền. Họ là di dân nên họ tính được trước và họ để dành tiền mang đi. Người Việt đa phần khi sang Mỹ là những người tỵ nạn, với rất ít tiền nong nếu họ có. Vì thế họ phải túm tụm, tập trung lại để dựa vào kinh tế gia đình mà lợi tức rất thấp", ông Bích nói.

Chúng ta dựa vào nhau, sống chật chội một chút trong một gia đình. Chứ bấy giờ chúng ta đi mượn của ngân hàng Mỹ thì không có đủ tài sản để thế chấp cho món nợ. Thành ra đó là một thứ chiến lược để tồn tại. Tôi cho rằng người Việt đã rất khôn khéo để đi qua được các bước đầu rất là khó khăn.
"Cái cách đó là cách có thể tồn tại được. Chúng ta dựa vào nhau, sống chật chội một chút trong một gia đình. Chứ bấy giờ chúng ta đi mượn của ngân hàng Mỹ thì không có đủ tài sản để thế chấp cho món nợ. Thành ra đó là một thứ chiến lược để tồn tại. Tôi cho rằng người Việt đã rất khôn khéo để đi qua được các bước đầu rất là khó khăn”.

Giáo sư Logan cho biết, trên toàn nước Mỹ, cộng đồng người gốc Việt sống tách biệt như cộng đồng người gốc Mỹ Latin hay gốc Phi.

Ông nói đây là điều đáng ngạc nhiên vì các nhà nghiên cứu nghĩ rằng người gốc châu Á dễ dàng hòa nhập vào các cộng đồng bản địa. Ông nhận định có hai yếu tố lý giải cho điều này.

“Một là, có thể người Mỹ gốc Việt có nhiều lựa chọn về mặt văn hóa tại khu vực sinh sống không khác gì ở Việt Nam. Một lý do khác có thể là người Việt không có nhiều lựa chọn về nơi họ sinh sống thế nên họ phải ở nơi mà giá cả có thể chấp nhận được. Đối với nhiều người nhập cư, điều đó đồng nghĩa với việc sống tại cộng đồng gồm người di dân với giá nhà cửa rẻ, hợp túi tiền cùng cơ hội tìm được việc làm cần tay nghề thấp từ những người đồng hương khác trong cộng đồng”.

Trong khi đó, ông Bích thừa nhận có hiện tượng người Việt sống tập trung như ở quận Cam, nhưng ông cho rằng ‘không nên tổng quát hóa quá’ vì ở nhiều nơi người Việt cũng sống rải rác trong cộng đồng người Mỹ da trắng.

Có những người sinh ra tại Việt Nam và di cư sang Mỹ vẫn giữ những nếp sống kiểu Việt Nam dù họ hòa nhập vào cuộc sống Mỹ.
Giáo sư Đại học Brown cũng cho biết rằng hiện cộng đồng người Việt hiện phải đối mặt với tình trạng thế hệ con cháu sinh ra ở Mỹ chỉ thích nói tiếng Anh và không muốn tìm hiểu về văn hóa Việt Nam.

“Có những người sinh ra tại Việt Nam và di cư sang Mỹ vẫn giữ những nếp sống kiểu Việt Nam”, ông Logan nói thêm.

Hiện có hàng triệu người Việt sinh sống tại Hoa Kỳ, và là cộng đồng người Việt lớn nhất trên thế giới ngoài lãnh thổ Việt Nam.

Tại các bang như ở Virginia, nơi có hàng chục nghìn người Mỹ gốc Việt sinh sống, không khó để mua được mọi mặt hàng phục vụ cho đời sống của người Việt giống như ở trong nước.

Ở đây, người gốc Việt có thể sử dụng tiếng Việt để đọc báo, nghe đài, mua nhà, đi chợ, hay đi thăm khám bác sỹ. 

No comments: