Bảo Ninh
Gió Dại
Kìa ! Nghe thấy không, hình như là Diệu Nương đấy ! Nhiều
tháng, và không chừng nhiều năm rồi đã trôi qua, Diệu Nương, cô gái ấy
đã bị bắn chết từ những bao giờ vậy mà vào mỗi buổi mai, trước khi bắt
sang một ngày mới, ở làng Diêm người ta vẫn mơ hồ ngái ngủ bảo với nhau
thế. Như có thể nghe được quá khứ, như có thể thu được hồi thanh của
thời gian vậy. " Ta rong chơi giữa đời... ới a... biết đâu nguồn cội Em xin làm bến đợi mà chân anh ghé qua... " Khi
đó là giờ của rạng đông yên tĩnh với ngôi sao Mai miền thảo nguyên to
lạ lùng toả ánh biếc trên tầng không quang mây đang tảng sáng. Vào giờ
đó mặt trời chưa mọc nhưng trên đồng cỏ bóng tối và sương mù đang nhẹ
tách khỏi nhau, đang tan. Trong mông lung, làng mờ hiện. Một vệt đường 14. Những cụm nhà mái tôn. Một ngôi nhà thờ. Eo
óc tiếng gà gáy da diết va cọt kẹt tiếng những con ròng rọc quay trên
các miệng giếng trong làng. Làng Diêm thức giấc, buồn ngắt, chơ vơ, nổi
lên chìm lịm giữa bốn bề mênh mông thảo nguyên bao la quạnh vắng. Vào
giờ đó, phía bên kia đồng cỏ những cỗ 105 ly trong căn cứ của Quân đoàn
II vẫn đang ngon giấc và chiếc thám thính cơ L19 được dành riêng cho
làng Diêm còn chưa chấm hiện lên ở chân trời. Dưới sông A Rang chảy qua
bên làng, chiếc xe tải qua ngầm trễ nhất vừa lội lọt sang bờ bên kia, để
lại những vòng sóng lan rộng tắt dần trên mặt nước mùa khô phẳng phiu.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
qtdc
Thành viên
Bài viết: 1808
|
|
« Trả lời #1 vào lúc: 16 Tháng Bảy, 2009, 10:21:38 PM »
|
|
Vào khoảng giờ này hồi trước trong thinh không
đang ngân vang tiếng chuông giục giã giáo dân đi lễ mi-xa buổi sớm,
nhưng trúng phải đạn đại bác tháp chuông đã từ lâu rồi im hơi lặng
tiếng. Khắp sân nhà thờ toang hoác những hố bom và hố pháo không ai buồn
lấp. Um tùm lùm bụi và gai góc tràn lấn các lối đi. Hàng sáng trên thềm
đá dưới hiên nhà thờ, một vị linh mục trong bộ chùng thâm âm thầm tựa
cửa ngóng mặt trời lên. Suốt đêm, trên khúc đường 14 chạy ngang trước
nhà thờ nườm nượp xe pháo và quân lính trẩy dọc qua làng. Bây giờ tất
cả đã biến đi nhường chỗ cho buổi tinh mơ không một bóng người. Sau
sương, trên đường thôn nghe như có tiếng xe bò lăn bánh, lộc cộc lộc cộc
ra đồng. đây đó, im lìm rải rác những mái nhà tôn còn ẩm hơi khuya nhè
nhẹ thở ra làn khói bếp. " Ta rong chơi giữa đời... ới a... biết đâu nguồn cội... ", từ
đâu đó dưói đáy sương nương theo ngọn gió sau chót của trời đêm đang
lẳng lặng giã từ bờ sông và đồng cỏ, tiếng hát cất lên, bổng bay. Trong
cõi lòng ủ ê của linh mục thoáng rợn luồng cảm giác như dòng điện. ông
rùng mình, bàn tay chực đưa lên làm dấu thõng rơi. Nhắm mắt lại, ông cúi
đầu xuống, khẽ thở dài. Xa, sau rặng đồi thâm thấp nhấp nhô trên bờ
đông đồng cỏ vừng dương ướt át, mềm mại và tươi hồng đang thầm lặng nhô
lên. Từ tù mù xám đục không gian bỗng trong vắt một vùng và cả nửa vòm
trời đã ngả màu lơ. ánh sáng lung linh chảy thành dòng. Cùng với ngày
mới tiếng hát dường như lớn lên mãi và tràn rộng ra, vừa sâu trầm vừa
vút cao, tự thoát đi trở thành âm thanh vô chủ, ngân lên hoang dã trở
thành khúc du ca của thiên nhiên. Trong làng, bọn nhãi hát với theo Diệu Nương. Người lớn, ai nấy sững sờ. Bên
sông, trong trận địa phòng không bảo vệ ngầm, các pháo thủ đang làm
những công việc chuẩn bị cho trận đánh trong ngày bất giác ngừng hết
lại. Các trinh sát viên rời mắt khỏi bầu trời, dõi ống nhòm về phía
làng. " ... trăng ơi mày quá tệ... " - Kìa ! Trông kìa, cô ta đấy ! Một người lính kêu lên, đưa tay trỏ. Cảnh
vật được ống nhòm làm cho xích gần lại. Sau những lùm cay che lấp con
đường nhỏ viền quanh làng dường như thấp thoáng bóng người đàn bà đang
hát. Trong màn ban mai, ảo mộng và thực tại lẫn lộn, âm thanh và hình
ảnh nhoà nhập. Một thân hình thon thả, một dáng đi uyển chuyển. Suối tóc
xoã trên lưng. Song đó có thể chỉ là hư ảnh của bài ca, một ảo giác
lồng trong tiếng hát. Một bóng ma. Một bóng ma tha thướt và quyến rũ,
mềm mại và sống động, nhưng có thể bỗng chốc tan biến trong huyền bí. Đứng trên nóc hầm thông tin, đại đội trưởng và chính trị viên chuyền nhau chiếc ống nhòm. Huyền
thoại về Diệu Nương, ca sĩ ngụy Sài Gòn bị chiến sự thình lình cầm giữ
trong vùng Giải phóng, lâu nay là câu chuyện hàng ngày ở pháo đội này.
Trí tưởng tượng của từng người làm giàu thêm những chi tiết hoang đường. -
Rong chơi ! - Chính trị viên buông ống ngòm, nhăn mặt – Không bắt cái
đồ đĩ ấy câm miệng lại, cả đại đội sẽ bị nó hớp hồn. Rồi sẽ khối đứa đâm
đầu theo nó mà rong chơi.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
qtdc
Thành viên
Bài viết: 1808
|
|
« Trả lời #2 vào lúc: 16 Tháng Bảy, 2009, 10:23:14 PM »
|
|
- Nhưng làm sao cấm hát được ? Đại đội trưởng nhún vai - Cấm ! Vì là nhạc vàng, là phản chiến, là ngụy ca ! - Đấy là Trịnh Công Sơn. -
Cũng thế thôi. Mà sao cứ đúng giờ này là nó nỉ non, hay nó làm ám hiệu ?
Hay nó muốn rủ rê lính mình bỏ trận địa xuống ngủ với nó cho sinh bệnh
mất sức chiến đấu, hả ? Có phải nó toan thế không ? - Nhưng cô ta hát mới hay làm sao. Thật là một giọng hát tiên cô... ở
bên kia sông, một toán bộ binh đang lội qua vàm cỏ tranh. ánh kim loại
lấp lánh. Người đi sau cùng dừng lại, ngoái nhìn về làng Diêm. Mặt
sông A Rang màu lam đang bốc hơi nghi ngút. Gió sang sông mang theo
tiếng hát. Cơ thể người lính đón nhận tiếng hát với cái rùng mình. Giai
điệu bài ca như đụng khẽ vào tim anh. Trong trẻo và sáng rõ như được tắm
gội trong khí mát ban mai, nhưng càng lan xa bài ca càng rung lên nỗi
buồn, một nỗi buồn sâu thẳm, cao vợi và rộng lớn vô biên, dường như
tiếng hát ấy chính là nỗi niềm của thảo nguyên. Thảo nguyên tự do, mênh
mông vô tận, chạy hút về phương trời xa xăm, không biết đến các tuyến
tiền duyên, không màng gì tới chết chóc, trận mạc, bom pháo, giết chóc. Buồn thay khúc du ca lạc loài. Nỗi sầu thương hồ hải. *** Mặc
dù người ta đồn thổi, người ta thêu dệt, đời Diệu Nương vẫn hoàn toàn
là bí ẩn. Thiên hạ chỉ chắc chắn rằng Diệu Nương lưu lạc đến vùng sông A
Rang này vào mùa hè năm 72, sau ngày quân Giải phóng tấn công và quân
Sài Gòn tháo chạy, còn trước đó cô là ai, từ đâu cô phiêu bạt tới, tên
thật của cô thế nào thì chẳng mấy người biết, mà những người xưng là có
biết thì lại mỗi người kể mỗi phách. Ngay chính Diệu Nương hình như cũng
không hề hay biết gì nữa về mình. Đời cô, cô dường đã quên cả - Nghe nói khi dạt về đến đây cô ta chẳng còn lấy một manh vải che thân. Tôi
cũng nghe nói vậy. Song, vào " Mùa hè đỏ lửa " thì có riêng gì cô ta
mới ra thân tàn ma dại, tôi nghĩ. Cũng như cỏ cây, số phận con người mà
bị khói lửa chiến tranh ngốn thì chỉ thoáng chốc thôi là thành tro than. Năm
72, chiến sự rùng rợn giết hàng đống người. Người chết, chết ngả rạ dọc
các ngả đường, la liệt trên các nội cỏ và nổi lềnh phềnh trên mặt sông.
Người còn sống sống ngắc ngoải, dở sống dở chết. Tứ phương tan tác. Cả
đến thiên nhiên cũng như thể bị hoá kiếp. Cảnh làng biến tướng. Thực
ra thì không làm gì còn làng nữa. Ngày trước làng ồn ào nhộn nhịp, nửa
làng nửa phố, nhà cửa san sát, trù phú, thịnh đạt. Cách thị xã chỉ mười
cây số đường chim bay, làng được quân Mỹ gìn giữ. Đàn ông trong làng đi
lính hưởng lương. Đàn bà chạy chợ. Cả làng ngoan đạo. Bây giờ thì bao
nhiêu sự giàu có thời Mỹ-ngụy đều rữa nát và mục thối ra dưới những đống
hoang tàn. Ngày ngày làng rơi vào tầm đại bác từ thị xã rót về, và
ngày ngày hàng đàn phi cơ tràn tới, hoặc cắn đuôi nhau bổ nhào hoặc bay
bằng trút bom xuống làng, xuống hai bờ sông, xuống đồng cỏ. Cây cầu sắt
bắc qua sông A Rang bị đánh sập. Công binh vận đá về làm ngầm, bom pháo
càng thêm ác liệt. đất trời nghiêng ngửa. Giữa năm 73, tiểu đoàn 17
pháo cao xạ được điều về giữ ngầm A Rang. Ba đại đội pháo 37 ly chốt hai
bên bờ sông, tạo thế chân kiềng quần nhau với không lực Sài Gòn. Đại
đội tôi bám chân ngay kề làng Diêm. Một cái làng cô hồn. Cỏ dại, gai
góc, lùm bụi, những đống gạch vụn, ngói nát, rầm gãy ngổn ngang. Rải
rác, xiêu vẹo, những túp những nửa lều nửa hầm mọc ngoi lên trên nền đổ
nát. Từ những đống hoang tàn bầy chó trong làng bươi ra đủ thứ nát bét
của đời sống một thời đã sụp đổ : những mớ nhầu bấy, rách bươm và sặc sỡ
váy áo, mũ mão, đồ da, đồ nhựa, những mảnh vụn đồ gỗ, đồ thuỷ tinh, vật
dụng gia đình...cùng những khúc xương xẩu người và gia súc mà đàn chó
xâu xé , giằng giật của nhau, tha đi, chuyền cho nhau như đánh khăng. Dân
cư của lang thưa vãn và suy tàn, đầy rẫy những nhân vật hoang dại. Đàn
ông còn lại chẳng bao nhiêu mà đa phần lại là những phế binh đã hết thời
được ngó ngàng chăm sóc, què cụt, đui mù, bẹp dí. Hầu như chỉ thấy đàn
bà và trẻ con ló mặt khỏi nhà. Những mụ vợ lính lạc chồng, những ả goá
rách rưới, rạc rài, không lai lịch và bầy trẻ ranh ốm đói trần truồng,
bụng ỏng, gầygiơ xương. Phần đông vốn không phải người làng Diêm. Mùa
hè năm 72 từ nhiều thị trấn, làng mạc, khu gia binh họ nhập vào dòng
thác chạy loạn đổ xô theo đuòng14 dồn về thị xã. Đụng phải xe tăng Giải
phóng, biển người bị nén lại ở làng Diêm. Tại đây, vào lúc nửa đêm đã
diễn ra một cuộc thảm sát. Người ta kể lại rằng đêm ấy, nghe tiếng
động cơ của một chiếc Dakota lượn ì ì trên bầu trời đồng cỏ, đám dân
chạy loạn đã đốt lên cả ngàn ngọn đuốc. Một cây thánh giá khổng lồ đã
được vẽ ra bằng lửa trên quảng trường trước nhà thờ. Trong đêm tối,
người ta hò hét, kêu gào vẫy gọi con tau Nô-ê trên lưng chừng trời.
Không ai nghe thấy những loạt đề pa, không ai nhìn thấy những nhoàng lửa
đầu nòng chớp lên giần giật ở chân trời. Sau cả giờ chết chìm trong
pháo bầy cấp tập, lại tiếp tục những lượt người tan xương nát thịt dưới
trận mưa bom kéo rền rền tới tận sáng. Trong nhúm người may mắn còn được
sống có lẫn Diệu Nương. Bọn họ trở thành người làng Diêm từ đấy. Từ
đấy tất cả bắt đầu cuộc đổi đời bắt buộc. Tất cả đều phải cam chịu sống
đời gian khổ, ăn đói mặc rách, đổ mồ hôi trên nương sắn rẫy lúa tự cày
cuốc nuôi thân. Tất cả đều phải sớm biết thu mình vào khuôn khổ kỷ cương
của chính quyền mới. Những kẻ cứng đầu, những tên to mồm đều bị thẳng
thừng trấn áp. Nhiều tên bị bắn, nhiều kẻ bị bắt. Diệu Nương cũng đã
một lần bị du kích tống giam. Họ nhốt cô ba ngày trong xà lim hầm đất vì
tội nhiều lần hát những khúc ca ngụy. Được thả, cô vẫn chẳng chừa, vẫn
buông thả không khuôn phép, tự do lãng đãng sống tách khỏi cộng đồng, và
sáng sáng chiều chiều cô vẫn cứ hát, giọng ca huyền hoặc quỉ ám. Người
ta đồn rằng đêm đêm cánh đàn ông vẫn mò mẫm tới túp lều nát của cô ở ven
sông. Họ gõ cộc cộc vào cánh cửa gỗ dán hoặc cào sột sột vào vách liếp.
Họ thu trong tay họ người thì phong lương khô hoặc túi gạo sấy, người
thì hộp thịt, bao thuốc lá hay miếng vải, hay là kim chỉ, gương lược,
diêm muối, đủ thứ để đổi lấy một thứ. Chẳng có bằng chứng nào, song
tiếng tăm điên rồ và vô liêm xỉ của Diệu Nương vẫn xầm xì lan rộng. Có
thể vì thế mà nhiều người bảo rằng ngày trước Diệu Nương là gái bán bar
trong căn cứ Mỹ, thậm tệ hơn người ta còn bảo cô vốn là một con " thiên
nga ", đậi khái là đồ đĩ rạc. Hư thực ra sao chẳng ai quả quyết, bởi vì
còn những lời đồn đại hoàn toàn khác, những thuyết khác hẳn về nguồn gốc
của Diệu Nương. Nhiều người nói rằng thuở trước cô là một danh ca
Sài Gòn. Ban nhạc của cô nhận lời lên biểu diễn cho một đơn vị biệt động
quân đồn trú tại Tân Trấn. Suất diển cuối cùng rủi thay lại trùng với
giờ N mở màn Mùa hè đỏ lửa. Xe tăng và bộ binh Bắc Việt tràn ngập Tân
Trấn, tuyến phòng thủ vỡ, quân lính bị giết, ban nhạc tan tác.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
qtdc
Thành viên
Bài viết: 1808
|
|
« Trả lời #3 vào lúc: 16 Tháng Bảy, 2009, 10:24:24 PM »
|
|
Diệu Nương theo dòng người chạy về tới làng
Diêm thì cùng đường. ¸o xống lộng lẫy cửa nữ danh ca đã thành tã trong
cuộc tháo chạy ngang qua đồng cỏ ngụt lửa. Đêm đến, trong hoả ngục rùng
rợn của cuộc tàn sát, Diệu Nương bị vùi dưới núi xác chết chất trên sân
nhà thờ. Hơn một ngày thở bằng hơi thở của các tử thi rồi cô mới được
moi ra, trần truông, bê bết máu đặc. Và bởi chấn thương tinh thần do nỗi
kinh hoàng đêm ấy mà Diệu Nương trở nên điên dại, người ta bảo thế. Lúc
điên ngấm ngầm, lúc lấp lửng điên, lang thang, vật vờ, nửa mộng du, lúc
bột phát quay cuồng, mất trí. Từ đấy, mặc dù được giải phóng nhưng
đời cô mai một. Bàn tay cô quá mềm, da quá mỏng không cầm rựa phát cây
được, không nhấc nổi cuốc để cuốc đất, nên thân cô không được trui rèn,
không tự cải tạo nổi bằng tăng gia sản xuất. Sắc đẹp của cô chỉ nhấn
mạnh thêm lên vẻ lạc loài. Giọng hát của cô chẳng hữu ích cho ai trong
thời buổi nghiệt ngã cam go, nay sống mai chết, nhọc nhằn và túng đói. Tuy
nhiên, ngày ngày,vào những ban mai và những hoàng hôn, bản năng xướng
ca vẫn thúc bách Diệu Nương cất tiếng hát. Giọng ca tuyệt vời song thảng
thốt như làn gió dại lướt xiên đồng cỏ trong ánh nhá nhem buồn thảm của
mỗi ngày. Trong lời ca của Diệu Nương đau thắt nỗi nhớ quê nhà, nhớ đời
nghệ sĩ, nhớ sàn diễn, nhớ khán giả, sắc đẹp và tuổi thanh xuân mà nay
tất cả đã rời bỏ cô, đã xa lắc xa lơ ở bờ bên kia không thể vượt qua
được của chiến tuyến. "... nhưng ôi, chúng ta, chính chúng ta đây một thời chúng ta cũng có một quê hương và một mối tình... " Ở
làng Diêm bây giờ vẫn còn có người nhẩm lại được giai điệu và lời của
bài hát buồn vô hạn ấy mà một buổi xế chiều xa xưa nọ Diệu Nương đã lần
đầu hát lên. Chiều ấy, lúc xế tà, bộ đội dong tù binh qua làng. Hằng
trăm lính áo rằn bị trói thành cặp, lầm lũi lê bước. Những lính áp giải
đầu súng gắn lê, gay gắt, lạnh lùng lùa thúc đoàn tù đi mau qua khỏi khu
vực dân cư. Hai bên đường sau các ngưỡng cửa thấp lè tè lấp ló những
khuôn mặt sợ sệt, bồn chồn. Dân làng mong tìm kiếm người thân trong đám
tù binh nhưng chẳng ai dám mon men ra đứng ở vệ đường. Chợt sau rặng
cây phía cuối làng thấp thoáng bóng một người. Ấy là Diệu Nương, và giờ
đấy, giờ tận chiều của mỗi ngày cũng là giờ xuất thần của cô. Môi
mấp máy, mắt nhìn chăm chăm, Diệu Nương rẽ đám cành lá, đi theo đoàn tù.
Những người đàn ông lưng còng đang lê bước không để ý tới cô. Trong
bóng chiều chạng vạng mặt mày họ tối om như mặt đất. Bỗng người ta
nghe thấy những âm thanh như tiêng ai khẽ nức nở. Diệu Nương lấy giọng
yếu ớt và vấp váp hát lên một khúc ca hầu như chưa từng ai nghe thấy
trên đời. Tiếng hát nhỏ, gai điệu u tối và không rõ lời. Như nghẹn
ngào, Diệu Nương ngừng lại lấy hơi rồi lại hát tiếp. Ở giữa khối tù một
người chợt cất cao giọng. Rồi một người khác nối theo. Rồi nhiều người.
Giọng hát của Diệu Nương như lướt một cái hôn dài trên môi tất cả. Đoàn
tù biến thành dàn đồng ca. Những giọng đàn ông chung nhau một bè trầm át
tiếng chân bước. Đội áp giải không bắt tù phải im miệng. Những ngọn lê
chúc cả xuống. Dân làng ra hết hai bên đường. Họ lặng lẽ đứng chôn
chân nhìn theo đám rước đang khuất dần trong vầng bụi bốc lên trên con
đường tù đày vô định xuyên qua thảo nguyên bát ngát. Bài ca của Diệu
Nương và của những chiến binh xấu số vang lên trong thinh không lúc ấy
đã tràn đầy bóng tối. " Trong cuộc huynh đệ tương tàn Chúng ta chỉ là con sâu cái kiến Nhưng ôi, chúng ta, chính chúng ta đây Một thời chúng ta cũng có Một quê hương và một mối tình... " *** Giờ
đây, Diệu Nương đã chết. Trên đồng cỏ, giữa vô vàn gò đống, nấm đất nào
là nấm đất của Diệu Nương, ai là người có thể chỉ ra được ? Và cả nấm mồ của người bị bắn chết cùng cô nữa, thất lạc nơi đâu trong đất trong cỏ ? Cuộc
sống triền miên trôi chảy. Cuộc sống không hề có trí nhớ. Những lớp lá
rụng, những lượt thời gian. Đất cát. Cỏ cây. Mùa mưa. Mùa khô. Năm này
tấp lên năm khác. Ngôi nhà thờ của làng Diêm cuối cùng rồi cũng bị
máy bay triệt hạ. Cỏ dại chôn vùi các bức tường đổ, nuốt dần các bậc
thềm. Sáng sáng tiếng quạ kêu trong thánh đường hoang tàn gợi người ta
nhớ tới vị linh mục. Ông ta đã bỏ làng ra đi, chẳng ai biết là đi đâu... Bên
sông trận địa pháo cao xạ chỉ còn chơ vơ những công sự hình móng ngựa
đã sụt lở. Đây đó vài hố bom đìa hoác miệng. Những hố bom bi, bom phạt
quang và hố đạn pháo thì thời gian đã san bằng. Và cái lối nhỏ ngày xưa
đính pháo đội với làng Diêm nay chỉ lờ mờ một vệt trăng trắng uốn lượn
lẩn khuất dọc bờ sông um tùm lau lách. Lính tráng đi xa chắc vẫn chưa
quên con đường mòn ấy. Trên lối ấy, hồi đó, ngày hai bận anh nuôi từ
trong làng gùi cơm canh ra trận địa. Ban dêm, nhất là những đêm tối
trời, cũng lối ấy lính các khẩu đội tụt tạt mò vào làng " dân vận ".
Thoáng bóng cán bộ đại đội hay là tuần tra của du kích, những kẻ xé rào
đi ăn sương lẳng lặng né ngang xuống mép sông, thu mình trong bãi lau.
Văng vẳng tiếng cuốc kêu phía đầu làng. Hơi ẩm màn đêm ướt lạnh vai áo.
Cầm lòng không đậu. Hồi ấy, lệnh trên gần như cấm tiệt bộ đội không
được tiếp xúc với đám dân còn chưa được giác ngộ, còn nửa ngụy của vùng
mới giải phóng. Không có nhiệm vụ tuyệt đối không được láng cháng vào
làng. Kiêng kỵ như vậy thật kỳ quặc, nhưng quân lệnh như sơn, lơ mơ bị
bắt quả tang đang vi phạm thì tha hồ mà kiểm thảo lên kiểm thảo xuống,
rồi kỷ luật đảng kỷ luật đoàn đủ vành đủ vẻ tai vạ chuốc vào thân. Mặc
dù vậy, lính gần dân lửa gần rơm. Dẫu không phải là tình cá nước,
nhưng thời gian trôi qua quan hệ vụng trộm giữa các khẩu đội pháo với
những túp lều nát trong làng đã thầm lén in lên mặt cỏ một lối mòn. Ban
ngày, trừ tổ anh nuôi không ai lai vãng trên lối đi ấy, nhưng đêm xuống
đó là đường ân tình. Có lẽ tới bây giờ trong mỗi túp lều còn có thể gom
lại hàng mớ kỷ vật và ở trong lòng mỗi người dân thì còn vương nhièu kỷ
niệm về các tay lính pháo thủ cao xạ Bắc Việt ngày ấy. Người ta bảo rằng
trong quan hệ quân dân khuất tất hồi ấy đã lén lút sinh ra không ít
niềm quyến luyến, gồm cả những mối tình, cho dù hầu hết chỉ thoảng qua,
vội vã, chợt nhen chợt tắt, tù mù, chẳng dẫn tới gì, chẳng đi tới đâu,
nhưng vẫn là tình. Hồi ấy niềm ước ao hạng nhất của lính pháo thủ là
được vào làm phụ bếp cho anh nuôi trưởng Cù. Cả đại đội chỉ mỗi Cù chốt
hẳn trong làng, còn hai phụ bếp thì phải luân phiên, mỗi tháng thay một
lần. Chẳng hiểu là tới bây giờ hai cái lán nứa nền âm, một nhà kho,
một nhà bếp, được cất lên ngay cạnh khuôn viên nhà thờ có còn dấu tích
gì không . Hồi đó, Cù nhắm vuông đất bên nhà chung bởi anh hy vọng đấy
là toạ độ tương đối ít phải ăn bom. Bất tiện là phải chung giếng nước
với ông cha đạo nhưng Cù thích cái giếng ấy, nước của nó trong và ngọt
nhất làng. Còn cha cố thì tiếng vậy chứ cũng là người. Mặc dù trẻ tuổi
song ôngta rất nghiêm túc, vẻ lễ độ khoan hoà, ứng xử biết điều hơn bất
kỳ ai trong đám chúng dân làng Diêm. Cù không ưa gì họ. Rặt một phường
vô dụng. Sống giữa đồng cỏ, đất đai vô thiên song vì là thứ dân tứ
chiếng, một hạng nông dân miễn cưỡng, họ không thiết làm lụng để có cái
ăn mà chỉ toàn xoay xở đắp đổi qua ngày. Có lẽ bọn họ đã quá quen với
viện trợ Mỹ, quá quen nằm ngửa ăn sẵn, nên giờ đây lòng họ chỉ canh cánh
hoài tiếc thuở vàng son đi lính và làm đĩ cho Mỹ cho ngụy, Cù nghĩ. Có
lẽ bọn họ đều ngấm ngầm một lòng với địch, ngấm ngầm ngóng đợi một thời
cơ, sau cái vẻ bề ngoài nhẫn nhịn và cam chịu mà Cù thấy là đê tiện. Và
nhất là bọn đàn bà. Cù không hiểu nổi can cớ làm sao mà đồng đội của
anh nhiều tay lại để cho chúng hớp hồn dẽ dàng như vậy. Cả đại đội, năm
chục thằng, bao nhiêu năm tút hút trong rừng sâu với nhau chẳng thành
vấn đề gì, nhưng vừa kéo nhau ra nơi trời đất quang quẻ, có sông, có
làng, có thấp thoáng bóng đàn bà là có chuyện. Mà nào phải là người phụ
nữ hiền thục, trung hậu , đảm đang nơi quê xa ngoài Bắc hay các chị em
giàu truyền thống cách mạng trog vùng hậu cứ. Cả làng, Cù nghĩ, rặt một
lũ vi trùng giống cái. " Vi trùng giống cái truyền bệnh tiêm la,
giang mai... ", chí ít thì đấy cũng là cái cách anh thường nói để răn đe
các tay phụ bếp. Không phải bất cứ gã nào ngoài trận địa Cù cũng
nhận vào tổ anh nuôi. Những tay nom tốt mã, những tay bẻm mép, láu lỉnh,
lắm tài vặt, dễ léng phéng là Cù gạt ngay. Có tay nom bề ngoài củ mỉ cù
mì nhưng phụ bếp mới quá một ngày đã bị Cù tống khứ về với mâm pháo vì
hoá ra là một thằng tẩm ngẩm tầm ngầm.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
qtdc
Thành viên
Bài viết: 1808
|
|
« Trả lời #4 vào lúc: 16 Tháng Bảy, 2009, 10:25:11 PM »
|
|
" Đã là thằng anh nuôi ngày ngày thường xuyên
với gạo nước rau mắm của đơn vị - Cù bảo – thì hai bàn tay phải
tinhkhiết, cấm đụng chạm tới những sự uế tạp, dơ dáy, nhất là cấm kỵ
không có được vọc vào đàn bà. " Dân làng cũng sợ Cù. Chẳng ai dám mon
men tới gần giếng gần bếp của anh. Dẫu có bắt quen được với tay phụ bếp
nào, muốn xin xỏ hay đổi chác gì thì cũng phải đợi lúc Cù gùi cơm ra
trận địa mới hòng. Ngày hai lần, tinh mơ và chiều tà, để một người
coi nhà, còn Cù cùng một anh nuôi viên nữa mang bữa ăn ra cho các khẩu
đội pháo. Con Ních, một con chó săn nòi Lào nhỏ vóc và nhanh nhẹn, thính
mũi cực kỳ chạy mở đường. Họ đi trên đường14 một đoạn ngắn rồi rẽ
xuống, lối đi lượn vòng vèo trong làng qua các tụp lều nghèo nàn bệ rạc
tường đất mái tôn. Họ đi, người hơi đổ về phía trước,hai bàn tay vòng
sau chắp lại đỡ lấy đáy gùi. Hai cái gùi to như hai cái thùng phuy, bọc
bao tải,toả hơi nóng và mùi cơm chín tới, mùi thức ăn lính. Bầy chó
trong làng thoáng bóng con Ních, chạy dạt. Đói meo, chúng núp sau các
đống đổ nát, nhìn ra mà không dám sủa. Chỉ có mấy thằng bé rách rưới bị
mùi cơm canh nóng sốt quyết rũ là lẵng nhẵng bám theo hai cái gùi. - Bác anh nuôi ơi, bác anh nuôi... – Chúng kêu lên khàn khàn như đàn quạ. - Bọn ngụy con, cút xéo ! – Cù quát Nhưng
nếu có ông lỏi nào gan lỳ theo dược tới cuối làng thì Cù dừng bước, vẫy
nó lại. Anh móc trong bị cói đeo bên hông ra một củ sắn nướng hoặc bắp
ngô luộc,có hôm cả một con cá khô. Anh bảo : - Đó, cho mày. Có vậy
thôi. Cơm canh bộ đội có chó gì. Sắn cõng gạo. Tàu bay chấm muối riềng.
¥n cách mạng đời chúng mày được giải phóng, nhưng phải biết chịu khổ.
Phải biết cuốc cày mà nuôi lấy nhau, về bảo mẹ chúng mày thế. Đừng có
ưỡn ườn ra trên giường mà chờ sung. Cách mạng còn dài. Đến hết đời chúng
tao. Hết cả đời chúng mày... Nghe nói đến tận bây giờ người ta vẫn
thấy con Ních đi và về trên con đường ấy. Nó lần ra bờ sông, ngửi hít
những cái vỏ đạn 37 ly đã rỉ xanh, rồi leo lên một cái hầm pháo cao xạ
ngập trong cỏ tranh, nó đờ đẫn ngó làn nước trôi. " Bác anh nuôi ơi, bác
anh nuôi ! ", một trong những thằng bé hồi ấy giờ đã lớn quen miệng cất
tiếng gọi khi trông thấy con chó già cô độc bị bỏ rơi đang đi trên
đường thui thủi. Dường như thằng bé còn nom thấy đằng sau con chó hình
bóng hai người lính cấp dưỡng đang cõng trên lưng hai chiếc gùi. Con
chó bị riết vào lối mòn xưa. Và bao giờ nó cũng qua làng vào thời điểm
thấp nhất của mặt trời : khi ban mai, khi hoàng hôn. Không gì có thể làm
xao nhãng cuộc mộng du ấy. Không ai dám đụng tới con vật đó. - Chính là nó đã giết chết Diệu Nương. Những
người mang mang biết chuyện bảo thế. Nhưng những người không hề hay
biết gì về tấn thảm kịch cũng sờ sợ con chó, họ mơ hồ cảm thấy trong
cuộc dạo chơi buồn thảm nhịp nhàng, lặp đi lặp lại của nó một vẻ mù
quáng và điên dại đặc biệt con người. *** Lần ấy, đến hẹn, khẩu
đội 3 và khẩu đội 4 cử người vào làm anh nuôi thay cho Binh khẩu đội 1
và Tuấn khẩu đội 2 đã hết phiên. Nhưng trái lệ thường, Cù chỉ thay Bình
còn giữ lại Tuấn. " Thằng Tuấn thạo việc rồi, với lại nó rất chịu thương
chịukhó, có thể kế cận cho tôi làm anh nuôi trưởng cũng được ", Cù giải
thích thế với chỉ huy đại đội.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
qtdc
Thành viên
Bài viết: 1808
|
|
« Trả lời #5 vào lúc: 16 Tháng Bảy, 2009, 10:26:16 PM »
|
|
Tuấn vốn gốc gác bộ binh. Bị thương nặng,đáng
lý được ra Bắc rồi nhưng nghe động viên thế nào đó đã tình nguyện ở lại
chiến trường. Người ta không điều Tuấn về lại đơn vị cũ mà bổ sung sang
tiểu đoàn cao xạ. Anh về đại đội tôi mới được nửa năm, giữ chân pháo thủ
số 3 ở khẩu đội 2. Vóc người anh cao, ốm yếu, võ vàng, cổ lộ hầu,
một vệt sẹo dữ dội do đạn bắn thẳng cày chéo từ mang tai xuống cằm.
Miệng anh vì thế méo đi, cho anh cái biệt danh là Tuấn " mếu ". Mặc dù
là dân Kinh Bắc nhưng Tuấn lầm lỳ, nóí ít lạ lùng và nói miễn cưỡng.
Giữa một đám pháo thủ luôn ăn to nói lớn, thích tán dóc đấu láo, Tuấn âm
thầm nín thinh, chẳng góp chuyện, chẳng bật cười, chẳng bao giờ tức khí
nổi xung. Tuyệt đối thờ ơ lãnh đạm. Một nhà quí tộc hay một gã chán đời
? Tuấn dửng dưng với những cú bổ nhào trực tiếp lao cắm mặt xuống
cắt bom của máy bay cường kích. Bom nổ xa, nổ gần, rốckét nã trúng bờ
công sự, Tuấn kệ. Song cái thứ tính khí lạnh nhạt, bàng quan với tất
thảy ấy lại có vẻ hết sức thích hợp để làm pháo thủ số 3. Giữa cuộc hỗn
chiến đất đối không, số 3 chân chính là người không hề để mắt tới máy
bay, tới bom, tới đường đạn bắn lên trúng hay trượt, mà hoàn toàn ung
dung tự tại, anh ta chỉ một nhiệm vụ là điềm nhiên bình thản quay tay
quay điều chỉnh cự ly bắn đón cho pháo theo nhịp đếm của trắc thủ đo xa. -
Đánh nhau kiểu cao xạ sao mà tẻ - Có lần Tuấn ra lời bình phẩm như thế
với tôi - Đánh trận mà như là đánh máy chữ. Chẳng có kịch tính gì, khác
xa bộ binh. - Tại cậu đứng mãi số 3 nên thấy thế đấy - Tôi bảo – Nếu
muốn thì đề nghị khẩu đội trưởng cho hoán vị, tớ đứng số 3, cậu ngồi ghế
số 2 của tớ mà dận cò. - À không. Là nói thế. Chứ bảo mình thế nào thì mình thế nấy. Chả xin gì chả ước gì. Thế tuốt ! - Chán đánh nhau sao không ra Bắc, lại ở lại ? Tuấn nhún vai. - Hay thất tình ? Chắc hay tin vợ ở nhà ngủ với dân quân chứ gì ? Tuấn " à " một tiếng rồi lại ngậm tăm. Miệng méo xệch. Thực
ra Tuấn vợ con chưa, ai mà biết. Cả chính trị viên cũng không nắm được
gì nhièu về Tuấn ngoài mấy dòng trong lý lịch quân nhân. Tuấn chẳng tâm
tình, chẳng thiết thổ lộ. Chẳng bao giờ tháy anh viết thư hay được thư.
Họp hành, anh ngồi im. Cùng lắm là ậm ừ. Ngoài cái nết kín bưng nổi
bật ấy, Tuấn có nét nổi bật nữa là tài chơi đàn. Khác với lối chơi ghi
ta thường thấy của lính, Tuấn không vừa đàn vừa dậm chân rung đùi, không
lúc lắc vai, không vừa đàn vừa huýt sáo hay là ư ử trong họng, anh đàn
một cách thẫn thờ, chẳng phải để cho ai nghe, cũng chẳng phải cho mình. Cậu chơi bài gì nghe lạ vậy Tuấn ? Tuấn lại chỉ " à " khẽ một tiếng. Vào
làm anh nuôi, Tuấn cũng xách ghi ta theo. Một cây đàn cũ kỹ, thùng đàn
xây xát, nhưng mà tiếng rất tốt. Nghe nói Tuấn đã tha theo cây đàn này
vào bộ đội và mọi người đều lấy làm lạ không hiểu bằng cách nào mà anh
vẫn giữ được nó qua bao nhiêu là chặng của đời lính. Vào làng buổi sáng, chiều Tuấn đã cùng Cù đưa cơm ra trận địa. Gùi canh môn thục tổ bố bốc khói trên lưng. - Vất vả không Tuấn ? - Cũng vất - Bọn đàn bà làng Diêm thế nào, giàu kịch tính không ? - À Tuấn
hờ hững. Bảo ở pháo thì ở, bảo vào làm anh nuôi thì vào, anh chẳng sốt
sắng cũng chẳng thoái thác. Im lìm nguội lạnh, chẳng nói chẳng rằng,
song anh làm việc hết mình, không hề nề hà ngại khó, chẳng bao giờ kêu
ca. Lúc đầu Cù không thích Tuấn, anh bực với cái lối âm thầm ngậm tăm
ấy, nhưng rồi cũng đâm quen. Trầm tính không phải là một cái phốt, vả
lại làm anh nuôi thì cả ngày đầu tắt mặt tối, túi bụi, tất bật, luon
chân luôn tay còn đâu thời gian hở ra mà chuyện vãn. Chỉ có một
khoảng ngắn ngủi về khuya, khi một ngày cơm nước cho đơn vị đã chu toàn,
ba chàng cấp dưỡng mới được tắm táp, nghỉ ngơi, tranh thủ trao đổi với
nhau đôi lời trước khi mệt nhọc rũ người xuống võng. Cù lôi rượu ra. Mỗi
thằng nhấp một chén và nghe Cù cắt cử phần việc phải làm ngày mai. Hôm
nào được chút thảnh thơi, Cù và Bình đánh bài, còn Tuấn thì gỡ cây đàn
treo trên vách xuống, chầm chậm so dây rồi nhè nhẹ phác một giai điệu. Bấy
giờ, khoảng đầu tháng Năm ta, đêm thường mưa. Ngoài sông A Rang nước
lên, con lũ chuyển mùa ầm vang đồng cỏ. Trên mây sấm lăn rền rền. Bình
huýt sáo nhịp theo khúc nhạc. Cù buông bài, quay sang lặng lẽ nghe Tuấn
đàn. Âm điệu quá quen thuộc mỗi sáng mỗi chiều. " Ta rong chơi giữa đời
biết đâu nguồn cội ". Ngoài trời miên man mưa, không khí trong lán ẩm ướt. Quầng sáng đèn dầu vàng ủng. Đời lính buồn rầu hiu hắt. Như tiếng thở dài. *** Bếp
anh nuôi của pháo đội cao xạ và căn nhà của linh mục nhìn sang nhau qua
một vườn rau. Hai bên dùng chung cái giếng xây và cùng đi một lối để
vào làng.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
qtdc
Thành viên
Bài viết: 1808
|
|
« Trả lời #6 vào lúc: 16 Tháng Bảy, 2009, 10:27:09 PM »
|
|
Nhà của linh mục cũng nền âm, lại thêm bốn ụ
đất chống mảnh bom bao quanh nên từa tựa một cái hang. Trong tu phòng
chẳng có đồ đạc gì. Một chiếc chõng tre với nệm rơm và gối gỗ, một cái
kệ để sách và ảnh thánh. Bên ngoài cửa ra vào treo một cái giá, hàng
sáng con chiên trong làng đưa cơm tới để lên giá đó cho linh mục. Mỗi
ngày ông ra khỏi tu phong đôi ba lần và hầu như chưa hề đi đâu vượt ra
ngoài khuôn viên nhà thờ. ông sống thu mình kín đáo trong vòng chí
thánh. Bỗng dưng ông rời bỏ nhà thờ, rời bỏ làng Diêm, lặn mất tăm.
Ngày ông biệt tích trúng với ngày Diệu Nương bị giết. Lập tức sinh ra
những lời đồn thổi. Tất nhiên chẳng có bằng cớ gì. Có điều từ đấy trong
hầu hết các câu chuyện và các giả thiết về đời Diệu Nương người ta đều
thấy thấp thoáng bóng cái áo chùng thâm. Bản thân linh mục cũng là
một số phận xui xẻo. Tai hoạ đến với ông cũng bất ngờ, na ná tai hoạ
dành cho Diệu Nương. Nhằm đúng hôm ông lĩnh mệnh bề trên về nhà thờ làng
Diêm cai quản xứ đạo thì Việt Cộng đùng đùng đánh lớn. Chiếc xe đò đưa
ông từ thị xã về làng chưa kịp vào bến đỗ đã nghe súng nổ ran dọc bờ A
Rang. Pháo 130 ly cấp tập nã và xe tăng T54 xuất hiện thình lình trên
đường 14 tàn nhẫn cắt lối chạy lui. Hành khách đổ xuống xe xô nhau chạy
và đám đông con chiên đang tề tựu để mừng đón cha xứ cũng lâp tức nháo
nhào tan tác. Người ta bảo rằng đúng vào cái đêm khủng khiếp, đêm bọn
Mỹ dập pháo và dội bom xuống biển người di tản, tình cờ Diệu Nương nằm
kề bên linh mục. Chính ông đã moi cô ta ra khỏi núi xác chết. Và mặc dù
khi ấy Diệu Nương chỉ còn là một cái xác loã lồ, bê bết máu me, ông đã
làm cô hồi tỉnh, đã cứu sống cô. Ông cưu mang cô từ đấy. Diệu Nương
sống nhiều tháng trong nhà thờ, kề cận cha xứ, y như thể cô là một ma-xơ
hay là một người bõ, một người bõ đàn bà. Sống như thế tất nhiên là
trái lẽ song giữa hỗn mang đại loạn của thời cuộc lúc bấy giờ thì chẳng
điều răn nào là còn hiệu lực, chẳng lề luật nào mà không bị nới lỏng. Về
sau, khi đã bỏ ra sống ở túp lều ngoài rìa làng,Diệu Nương vẫn thường
lẻn về nhà thờ với cha. Để xưng tội, chắc thế nếu cô là giáo dân, và
tiếp tế cho cha bằng những tặng phẩm mà hàng đêm người này người khác
vẫn lén lút đưa tới dấm dúi biếu xén cô. Êy là những thức họ san sẻ ra
từ khẩu phần lính mỗi ngày, hoặc là những đồ nhu yếu họ quơ được khi thu
chiến lợi phẩm. Diệu Nương nhận quà cáp và ngủ với tất cả, khi thì ở
trong lều, khi ở ngoài bờ sông trên bãi cỏ dưới trăng mờ. Cô là đồ đĩ
rạc, song từ bao giờ cô đâm ra thế, cô không nhớ mà mọi người cũng vậy,
không nhớ không biết. Không lẽ từ ngày được giải phóng, được đổi đời,
cô trở thành đồi bại ? Rất có thể bản tính Diệu Nương hư hỏng sẵn
rồi. Chẳng vậy mà thiên hạ đồn cô gốc gác " thiên nga " ? Ngủ với cô
rồi, giữa hai chầu rượu nhiều kẻ kháo nhau về cô, bảo cô là cái ổ của
những tật bệnh xấu xa. Riêng tôi, mà có lẽ chẳng riêng tôi, không coi
nết lang chạ của Diệu Nương là hư đốn hay đồi bại gì sất. Đến với Diệu
Nương tôi đã được hưởng những phút chưa từng được hưởng bao giờ ở quê
nhà ngoài kia. Nhiều năm qua rồi mà tôi vẫn không muốn quên và thực
ra thì cũng không thể nào quên nổi. Bần thần, ký ức tôi mơ màng mộng
tưởng ra trước mắt hình bóng của Diệu Nương, khi Diệu Nương một mình đi
trên đường vắng, giáng đi mềm mại uyển chuyển đung đưa toàn thân, hay
khi cô thẫn thờ ngồi lặng bên sông, hay là khi... Những khi ấy, trái
tim rộn ràng kinh hãi,tôi từ ngoài đêm rẽ manh chiếu Diệu Nương dùng
thay mành cửa, bước vào trong lều tối đen. - Lại đây, anh lính của em. Đừng sợ. Chỉ có mình em trong này thôi. Tôi
bước tới một bước và bất ngờ chạm vào một cái gì đó tuyệt vời, một cái
gì đó nóng hổi, mềm mại, dập dờn, một cái gì đó không thể diễn tả. Và
ngay lập tức tôi bị du vào một địa ngục ngọt ngào. - Bạn tình của em, anh tên là gì ? Có phải lần đầu anh tới với em không ? Tấm
thân óng ả của Diệu Nương mà đời sống cơ cực vùng giải phóng chưa kịp
huỷ hoại đượm một vẻ gì thật quá đỗi đàn bà, đàn bà hơn tất cả những
người đàn bà khác nhập lại. Không chỉ những cái vuốt ve của cô, không
chỉ có những lúc cô xuất thần thác loạn, tận lực nồng nàn âu yếm, cô rên
rỉ, cô giở trò, cô im lặng hổn hển mà cả khi đã nguội đi, mệt nhoài bải
hoải, ở cô vẫn dào dạt ma lực của tội lỗi đàn bà. - Anh đã đi à, đã
đi rồi sao ? – Cô níu tay tôi – Còn lâu mới sáng. Hãy nán lại một lát đã
anh. Em còn muốn ngỏ với anh điều này. Chỉ một điều này thôi... Nhưng
không mấy ai chịu nán lại. Càng không ai muốn nghe cái điều duy nhất mà
Diệu Nương mong được thổ lộ với người bạn tình thoảng chốc. Không ai
muốn nghe bởi không ai có thể làm gì cho điều mong ước ấy của cô. Nó quá
tội lỗi, quá đáng sợ, lại hão huyền. Có lẽ Diệu Nương tưởng đâu rằng
trên đời này vẫn còn sẵn lắm những kẻ điên rồ dám vì tình mà liều mạng
và vì tình mà cả gan làm phản. Nhưng để lần sau lại có thể dến với
Diệu Nương, nói chung chẳng ai dại gì làm cô mất hy vọng, người ta cứ
hứa, hứa đại. Lời hứa gió bay. Bởi vì ai cũng vậy cả nên chẳng ai ngờ rằng ấy thế mà vẫn có kẻ giữ chữ tín với Diệu Nương. Y hứa sẽ giúp cô và y đã y lời. *** Về
sau, khi sự đã rồi, mới nghe nhiều người bảo rằng thực ra trước đây khi
còn ở bộ binh Tuấn đã có nhiều dịp ghé làng Diêm và vì thế đã quen Diệu
Nương từ hồi ấy. Hồi ấy cánh cao xạ chúng tôi chưa về lập trận địa ở bờ
sông A Rang và Diệu Nương hồi âý vẫn đang dung thân dưới mái nhà của vị
linh mục. Người ta kể rằng làng Diêm dạo đó đói dài. Một chút ít
lương thực được bộ đội cứu trợ cho hồi mới giải phóng đã cạn. Chính
quyền cách mạng ra lệnh tăng gia tự túc. Cả nhà thờ cũng phải tự liệu
lấy kế sinh nhai. Bởi vì một vị linh mục thì không đời nào lại chịu
phận cày cuốc, Diệu Nương phải lo làm lụng cho cả hai. Cô theo những
người đàn bà trong làng đi phát nương trồng sắn. Nhưng không quen nhọc
nhằn, cầm rựa chặt được một nhát là lại một lát cô cám cảnh ngồi ôm mặt
sụt sùi. Gần trọn một ngày mà đám nương của cô vẫn y nguyên cây cối lùm
bụi. Bấy giờ có một tốp mấy người lính dừng chân mắc võng nghỉ ở ven
sông và họ đã chứng kiến cảnh ngộ của Diệu Nương. Thoạt đầu họ cười
nhạo, chế giễu và thương hại thay cho cái giống đàn bà gốc ngụy chẳng
khác chi người giấy, quen thói lười nhác, chỉ biết ăn chơi hưởng lạc,
bây giờ đây mới được biết thế nào là mồ hôi nước mắt một kiếp người.
Nhưng dần dần tình cảnh khổ sở của Diệu Nương nhói vào lòng những người
lính nỗi thương cảm. Họ rời võng, đi tới bên cô, họ an ủi và đề nghị
được ra tay giup đỡ cô. Và vậy là từ đầu tối tới cuối đêm, mấy chàng
bộ đội xoay trần đốn cây cho nhà chung. Họ phát quang cả một vạt rừng.
Lúc từ giã , một người trong tốp bộ đội xưng tên là Tuấn. Anh hứa dăm
hôm nữa sẽ trở lại giúp Diệu Nương đốt rẫy. Và anh đã giữ lời.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
qtdc
Thành viên
Bài viết: 1808
|
|
« Trả lời #7 vào lúc: 16 Tháng Bảy, 2009, 10:27:57 PM »
|
|
Rẫy của Diệu Nương được đốt gọn và sạch nhất
làng, cháy đều, khốngót một thân cây nào cháy dở dang. Chia tay, Tuấn
lại hẹn ngày về cùng Diệu Nương vùi hom sắn. Cơn mưa đầu mùa, sắn lên
xanh non và chẳng bao ngày mà lá sắn đã phủ kín rẫy. Quanh rẫy, Tuấn
gieo thêm hạt bầu và trên vạt đất phía sau nhà thờ Tuấn giúp Diệu Nương
mở một vườn rau. Và cứ vậy, không hiểu xoay xở cách nào, cách năm
ngày, cách mười ngày, từ chốt vùng ranh ven thị xã, Tuấn băng đồng cỏ về
làng thăm Diệu Nương. Cũng thờigian ấy Diệu Nương rời nhà thờ ra ở
túp lều mà Tuấn đã dựng cho cô nơi rìa làng. Hình như nhờ có Tuấn, Diệu
Nương đã mất đi cái vẻ não nùng của những ngày mới được giải phóng.
Người ta thấy ánh mắt cô long lanh và đôi khi người ta thấy cô mỉm cười. Có
những lần, từ chốt Tuấn lẻn về với Diệu Nương mang theo cả cây ghi ta.
Anh đàn khẽ cho Diệu Nương thầm thì hát. Hồi âý cô chỉ hát nho nhỏ thế
thôi, nồng nàn, giữa hai người với nhau. Chắc là giữa hai người đã có
sự thề bồi. Chắc là Diệu Nương đã thổ lộ điều ước nguyện da diết nhất
của cô. Cô ước được thoát kiếp sống càycuốc cực khổ ở chốn gian lao xa
lạ này, cô ước được người đáng tin đưa mình vượt qua chiến tuyến trở về
với quãng đời êm ấm thân thuộc trước ngày được giải phóng. Với Tuấn,
vượt hơn mười cây số với những bãi mìn, những điểm chốt chặn không phải
là điều không thể. Thêm nữa, ấy là những ngày mở đầu Thời Hiệp định,
những ngày bỗng dưng đất trời yên lặng. Mùa khô mà vắng bặt tiếng máy
bay và tuyệt nhiên không một phát đại bác. Say đắm ái tình và bốc
đồng hy vọng thái bình, Tuấn đã hứa hẹn. Hứa thật lòng, có lẽ. Chỉ có
điều là bỗng nhiên anh biến mất. Năm ngày, rồi hàng tháng trời trôi qua,
biệt âm vô tín, Tuấn không trở lại làng Diêm. Từ đó, lặng lẽ Diệu
Nương trở nên ngẩn ngơ và âm thầm cô trở thành sa đoạ. Cô chẳng hề nói
gì với ai về Tuấn. Hình ảnh của anh và lời hứa của anh có lẽ đã tàn
trong tâm trí cô. Duy có khát vọng tự do thì vẫn sống, vẫn lay lắt. Niềm
ao ước cô từng thổ lộ với Tuấn biến thành tiếng hát cất lên dài dại mỗi
sáng mỗi chiều. Và đêm đêm Diệu Nương vẫn tìm kiếm những hứa hẹn viển
vông, mỗi ngày một viển vông hơn theo đà chiến sự càng ngày càng tàn
bạo. Bom đạn tơi bời tàn phá làng Diêm, phũ phàng quét sạch mọi manh nha
của hoà bình. Cho tới một đêm nọ, một đêm mưa, trên đường mò vào nhà
thờ với ông cha cố, khi đi tắt qua vườn rau gần lán của những người
lính anh nuôi, Diệu Nương chợt nghe thấy văng vẳng tiếng đàn. Lẳng lặng
cô đi gần tới, ghé nhìn qua các bụi cây. Đèn dầu lập lờ mờ tối. Diệu
Nương không trông thấy người đang đàn, nhưng điệu đàn quen thuộc của
những đêm xưa giúp cô nhận ra người ấy. Thất thần, vô tri giác, Diệu Nương từ từ bước tới cửa lán. Bất ngờ, con Ních từ góc lán chồm lên, sua vang. - Ai ? Cù vùng khỏi võng, chộp lấy súng, hét. Diệu Nương lùi lại một bước, và khi tiếng đàn trong lán vụt tắt, cô xoay người chạy. Cù lao ra cửa. Mưa đổ ào ào trước mặt anh. - Thám báo ! – Cù quát - Đứng lại ! Dưới một nhoàng chớp bóng Diệu Nương hiện thoáng lên, rũ rươị, xiêu đảo. - A ! Con đĩ ! Đứng lại, tao thì giết ! Cù
gầm lên, phóng mình ra mưa va trượt chân, anh ngã sấp. Nhổm phắt dậy,
điên tiết, Cù nâng súng quạt cả một tràng theo tiếng chân đang chạy chấp
chới phía trước. Tuấn xô tới, giật súng. - Thằng ngu xuẩn ! Đồ nông nô ! Tuấn
gào, khản đặc, và mê muội đấm vào mặt anh nuôi trưởng. Anh quăng khẩu
AK xuống vũng bùn cạnh Cù rồi lao mình vào mưa đêm đen đặc đuổi theo
Diệu Nương. Khắp làng ran lên kẻng báo động. Du kích từ nhiều ngả ập
tới. Bình vựa Cù vào lán. - Bọn du kích tới, mày bảo là không có
chuyện gì nhá - Cù lấy ống tay áo lau khuôn mặt ròng ròng nước mưa và
máu, nhổ cái răng cửa bị gảya và khó nhọc bảo với Bình - Nói với chúng
là tao mê hoảng bắn bừa... Rồi mày đi tìm xem hai đứa chúng nó ra sao
rồi... Anh thở dài : - Mà tại sao con đó nó lại vùng chạy cơ chứ, hả ? Rất lâu sau này, kể lại chuyện đêm ấy, Bình ngậm ngùi bảo với tôi : - Giá kể con đó nó không dính đạn, hai đứa chúng dắt nhau trốn đi ngay trong đêm ấy thì không chừng đã thoát được rồi cũng nên. Giờ
đây ngẫm lại, tôi thấy trong toàn bộ tấn thảm kịch xảy ra hồi đó Cù là
nhân vật không tài nào ai hiểu nổi. Chính anh đã cố tình xả súng bắn
Diệu Nương, lại cũng chính anh suốt một thời gian dài đã giúp vào việc
chăm sóc cô. Cha xứ chỉ chịu hé cửa tu phòng cho một mình Cù. Bông băng,
thuốc men, đồ ăn, ông chỉ nhận nếu là do Cù đưa sang. Tuấn bị ông cấm
cửa. Cù và Bình không hé răng hở chuyện. Toàn đại đội không ai biết
Cù đã bắn bị thương Diệu Nương. Cũng không người nào hay có vụ xô xát
giữa Cù và Tuấn. Càng chẳng ai ngờ có mối tình nung nấu mà mơ hồ giữa
Diệu Nương và Tuấn. Đến kỳ thay phụ bếp, Cù xin đại đội cho tổ anh nuôi được giữ Tuấn lại.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
qtdc
Thành viên
Bài viết: 1808
|
|
« Trả lời #8 vào lúc: 16 Tháng Bảy, 2009, 10:28:36 PM »
|
|
*** Bỗng nhiên, Diệu Nương biến mất. Không
nghe thấy tiếng hát của cô nữa. Túp lều ở rìa làng bỏ chơ vơ, trống
huyếch, xiêu mọp, ngập cỏ. Người ta đồn rằng cô đã bỏ trốn. Hoặc đã
chết. Chết đuối, trôi mất xác. Cũng có thể là chết tan xác vì trúng phải
một trái bom, trái pháo giáng trực tiếp xuống đầu. Mùa mưa năm ấy
dài đằng đẵng, buồn ê ẩm. Dần dần tôi thầm hiểu tôi buồn vì nuối tiếc
Diệu Nương. Mà không riêng tôi, cả đại đội đều rầu rĩ. Dường như, mất
bóng Diệu Nương thì chúng tôi chẳng còn lý do gì để bám lại trên mảnh
đất này. Đột nhiên vào ngày nắng hửng đầu mùa khô, chúng tôi hay tin
Diệu Nương vẫn còn sống. Suốt mùa mưa cô ẩn trong nhà thờ để chữa trị
vết thương. Nay cô đã gần khỏi. Chỉ có điều nay cô mới thực sự đã bỏ
trốn. Người thông báo cho chúng tôi tin đó chính là ông linh mục. ông
ta lần ra trận địa pháo vào lúc tảng sáng, cái áo chùng ướt đầm sương. - Người của các ông đã cám dỗ cô ta. Cái tên mặt sẹo, dáng vẻ lầm lỳ ấy. Hắn đã bội phản các ông, lại kéo cô ta phản Chúa. Ông
còn cho biết ông đã báo cho Cù ngay khi phát hiện Diệu Nương trốn đi
với Tuấn, nghĩa là ngay từ nửa đêm. Vậy mà Cù đã không hề báo cáo gì cho
đại đội. Anh ta đứng đấy, đầu trần, răng nghiến lại nghe chính trị viên xỉ vả. -
Theo tôi, để cho họ đi ! - Cù nói, sa sầm - Còn nếu nhất định phải bắt
lại thì chẳng khó. Vết thương cô ta chưa lành hẳn, không thể đi nhanh.
Với lại, có con Ních... Tôi có vinh dự tham gia nhóm tác chiến cùng
Cù và hai trinh sát viên. Chúng tôi khẩn trương xuất kích. Con Ních
thoăn thoắt chạy dẫn đường, kéo căng sợi dây da trong tay Cù. Chúng
tôi lặng lẽ rảo theo. Hàng dọc, súng lăm lăm. Lệnh trên là kiên quyết
không để chúng trốn thoát mang theo bí mật về cuộc hành quân sắp tới của
đơn vị. Chỉ lạ là không hiểu sao dấu vết con Ních dò theo không
nhằm về thị xã mà cứ men mãi bờ sông A Rang, ngược lên mé tây đồng cỏ.
Phía đó chỉ có rừng rậm. ý chí đuối dần. Chúng tôi lết đi chậm chạp.
Bụi bốc lên dưới chân. Nhiều giờ trôi qua. Con Ních vẫn cần mẫn lần theo
dấu vết vô hình lượn ngoằn ngoèo. Chính vào lúc chúng tôi đã nản, tính chuyện quay về thì hình tích của hai kẻ trốn chạy đã thực sự hiện ra. Dưới
tán một cây kơ-nia mọc đơn độc giữa trảng cỏ tranh, Tuấn và Diệu Nương
đã nghỉ chân. Đàn kiến đang tha đi những vụn cơm. Một mẩu thuốc rê vấn
bằng giấy báo. Nhưng đặc biệt rõ ràng, hằn trên cỏ, như thể cỏ đã tạc
nên thân hình người đang nằm. Một bức hoạ khắc nổi dáng vóc đàn bà,
không thể nhầm được... Chúng tôi đuổi kịp họ trước lúc mặt trời lặn. đã chớm tới vạt rừng đầu tiên ở bờ tây đồng cỏ. Mệt
nhoài, chúng tôi dừng lại trước một dòng suối lớn. Con Ních bị dòng
nước xoá dấu vết. Chúng tôi ngồi xuống nghỉ. Im lặng đè nặng lên buổi
hoàng hôn màu hồng thẫm. Thốt nhiên, giữa sự im ắng và tiếng rì rầm
của dòng suối, lướt nhanh qua không gian một âm thanh bất ngờ giống như
một gợn sóng mỏng. - Tiếng đàn ! – Cù khẽ thốt lên. Chúng tôi sững
sờ, lắng nghe, hồ nghi. Đã tưởng chỉ là một cảm giác sai lạc, không dè
sau một lúc nín thở chờ đợi, chúng tôi nghe thấy khe khẽ tiếng hát. Lội
mau qua suối, chúng tôi nhẹ chân tiến tới. đấy là một dải rừng thông.
Những cây thông cao vút, mọc cách thưa. Một tà khói mỏng bốc lên trong
chiều. Chúng tôi khom rạp xuống, áp sát. Một tiếng cành khô gãy dưới chân. Tiếng hát tắt lặng. Tôi
đứng thẳng lên sau một thân cây và căng mắt quan sát. Một cái bếp nhỏ
với chiếc hăng-gô treo đung đưa trên lửa. Một chiếc võng dù căng giữa
hai cây thông. Im lặng kéo dài, kéo dài mãi. Tôi gạt chốt AK vào nấc liên thanh. - Các bạn... Anh em ơi... – Giọng Tuấn - Chúng tôi chẳng làm hại gì cả... Không chống lại ai... Hãy để chúng tôi đi ... - Câm mồm ! – Bào, trinh sát viên hét - Đứng dậy ! Giơ cao hai tay. Bước ra ! Một
phút. Nhiều phút. Vẫn lặng phắc. Cù buông sợi dây da. Tôi thấy con Ních
chạy xéo qua, và lát sau tôi nghe tiếng nó sủa ở bụi cây. Tiếng sủa rối
rít, mừng rỡ. Nhưng cũng đúng lúc đó, bụi cây lay động. " Trong cuộc huynh đệ tương tàn... " - Tiếng hát. - Đồ điên ! – Cạnh tôi, ai đó gầm lên - Con đĩ ! Này thì tương tàn !
|
|
|
Logged
|
|
|
|
qtdc
Thành viên
Bài viết: 1808
|
|
« Trả lời #9 vào lúc: 16 Tháng Bảy, 2009, 10:31:23 PM »
|
|
Và tức thì súng nổ. Một khẩu nhả đạn kéo theo
những khẩu khác cùng khạc lửa. Chớp đầu nòng nhằng nhằng xé rách lượt
bóng tối đầu tiên đang phủ xuống khu rừng. Bốn khẩu AK cùng bắn hết băng, cùng câm bặt. Bốn chúng tôi cùng lao vọt lên, cùng chết sững. Sau
bụi cây bị đạn băm, hai con người âý quấn lấy nhau. Những vết đạn như
càng vặn xiết hai cơ thể vào nhau. Vào chớp mắt cuối cùng, người đàn ông
dường như đã cố dùng thân mình đỡ đạncho người đàn bà. Nhưng đạn khoan
qua người họ. ¸nh lửa từ bếp lấp loáng trên hai mảng lưng trần. Chúng
tôi đứng chết trân. Màn đêm vây dần lại. Cả bốn chúng tôi như bị trói
vào nhau trong sự cam chịu một cái gì vô hình vô tận đang đổ xuống. Mùi
thuốc đạn là dấu vết duy nhất của ý chí điên khùng, đã tan đi. - Ê... ê ... Ních ! Ê... - Cù tru lên gọi con chó đã bị trận mưa đạn xua dạt vào rừng sâu. Ngồi xuống bên Tuấn và Diệu Nương, tôi gỡ họ ra khỏi nhau.
|
|
|
|
No comments:
Post a Comment