Wednesday, January 2, 2013
RFA * TẠ DUY ANH
Tạ Duy Anh và cách đối phó với Trung Quốc
Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2012-12-30
Trong chương trình VHNT kỳ trước Mặc Lâm đã có dịp trao đổi với nhà văn Tạ Duy Anh về vấn đề nghiêm trọng nhất hiện nay là làm cách nào đối phó với Trung Quốc, một nước lớn nhưng nhiều dã tâm với Việt Nam qua sự xâm lấn trắng trợn mà Bắc Kinh không ngần ngại đã và sẽ làm đối với chủ quyền biển đảo của nước ta từ nhiều chục năm qua.
Chương trình trao đổi kỳ này như một nhịp cầu nối liền những suy nghĩ
của các nhà văn hóa, chính trị hay hoạt động trong lĩnh vực văn học với
người nghe, đọc của RFA nhằm khai thác những góc nhìn khác nhau để kiến
tạo những đóng góp thiết thực cho những ai quan tâm đến cách đối phó
với Trung Quốc.
Tiếp tục câu chuyện về vấn đề Trung Quốc với nhà văn Tạ Duy Anh, ông
cho biết một cách khái quát về vị trí địa lý chiến lược của Trung Quốc
và từ đó hình thành các yếu tố khiến Trung Quốc phải vươn ra ngoài để
tiến tới mộng bá chủ thế giới, trước tiên là lấn chiếm từng bước vì mục
tiêu chiếm Biển Đông của họ sẽ không bao giờ thay đổi.
Quốc tế hóa Biển Đông
Nhà văn Tạ Duy Anh: Từ những nhận định ban đầu của tôi là
Trung Quốc không thể mở cuộc chiến tranh tổng lực tại Biển Đông được
nhưng mục tiêu họ chiếm Biển Đông là không thay đổi. Họ đã mất từ một
đến hai nghìn năm mà vẫn không chinh phục được người Việt Nam nhưng vẫn
sẵn sàng mất thêm một đến hai nghìn năm nữa để tiếp tục công cuộc chinh
phục và đô hộ người Việt, trong đó mục tiêu chủ chốt của Trung Quốc về
mặt lãnh thổ trong thế kỷ 21 là Biển Đông chứ không phải vùng biển nào
khác.
Nếu thật tỉnh táo mình sẽ nhận ra được điều này. Bởi vì ở hướng nào
thì họ cũng vấp phải những thành trì. Hướng Bắc thì vướng Nga, hướng
Đông thì Biển Hoa Đông vướng Nhật Bản, Triều Tiên và sau Nhật Bản, Triều
Tiên là Mỹ thế rồi phía Tây là Ấn Độ… Một lối khả dĩ duy nhất là xuống
phía Nam, vùng biển mà Trung Quốc có thể coi là bàn đạp để họ thực hiện
ước mơ vương rộng ra thế giới để cai quản một nửa thậm chí còn hơn như
mong ước của họ.
Mặc Lâm: Nhưng thưa nhà văn Tạ Duy Anh, ý muốn và cách thực
hiện không phải là một khoảng cách ngắn, làm cách nào để họ thực hiện
điều ấy khi các nước đều không phải là ngây thơ hay hèn nhược để cho dễ
dàng nuốt trọn?
Nhà văn Tạ Duy Anh: Tôi nghĩ rằng người Trung Quốc sẽ dùng
toàn bộ lực lượng và những tiềm lực hay trí tuệ của họ để làm cách nào
đó thôn tính Biển Đông ở những mức mà họ muốn. Tất nhiên là họ muốn toàn
bộ Biển Đông còn thôn tính được đến đâu thì không biết.
Trong khi chưa chiếm được Biển Đông bằng một cuộc hải chiến, và điều
đó chắc chắn rất khó, vậy thì không cách nào khác là họ sẽ dùng chiến
thuật như họ đã dùng từ xưa tới nay để làm cho đối phương mệt mỏi, nản
chí bằng cách quấy nhiễu, dùng tiềm lực quân sự hay vị thế nước lớn để
áp đặt, vu vạ cho các nước láng giềng. Bằng cái đường lưỡi bò như vậy
thì chỗ nào cũng là của họ. Nếu bây giờ các nước chấp nhận đường lưỡi bò
là của họ thì mình chỉ cần bơi ra khỏi bờ một đoạn là vào bờ biển Trung
Quốc rồi!
Chính cái điều vô lý ấy mà không một nước nào ở Đông Nam Á chấp nhận
trong đó có Việt Nam. Thế nhưng Trung Quốc không dễ dàng từ bỏ tham vọng
khổng lồ của họ đối với Biển Đông. Cái cách mà người Trung Quốc rất
giỏi làm đó là cứ nói mãi, cứ dùng những động tác lập đi lập lại, một
mặt thì họ tuyên truyền cho thế giới điếc cả tai ra nhưng cuối cùng thì
cũng thuận tai đối với họ!
Đơn giản trước mắt là việc thành lập thành phố Tam Sa. Không phải đơn
thuần chỉ là một động thái mang tính hình thức nhưng đây là một động
tác rất nguy hiểm bởi vì đến một lúc nào đó địa danh Tam Sa trong những
hợp đồng kinh tế hay trong những địa điểm tổ chức các hội nghị quốc tế.
Nghiễm nhiên nó sẽ trở thành một địa danh chính thức đối với nhiều quốc
gia, với châu Âu và các nước không quan tâm nhiều đến việc ai làm chủ
Biển Đông.
bởi vì Biển Đông mà không quốc tế hóa, lập trường của mình không kiên trì trong việc này thì Trung Quốc lấy rất đơn giản.
Nhà văn Tạ Duy Anh
Rồi dần dần họ làm một cách bài bản hơn, một mặt họ khiến cho thế
giới hiểu rằng cứ nói mãi nói mãi về chủ quyền Biển Đông, mà mình và các
nước khác lại không làm gì cả thì đương nhiên thế giới sẽ dần dần quen
với địa danh và quan niệm rằng biển Nam Trung Hoa là của họ.
Một mặt khác họ dùng mọi tiềm lực để chèn ép mình. Thực ra họ chưa
chắc đã chiếm được đâu nhưng họ chèn ép để lấy thế thượng phong nhằm bắt
mình chấp nhận những điều kiện do họ đưa ra như chấp nhận đàm phán song
phương, chấp nhận không quốc tế hóa Biển Đông, và bằng cách đấy họ cho
rằng: Đấy người Việt Nam lựa chọn đi, giữa cái quyết tâm quốc tế hóa
Biển Đông với cách nói chuyện với họ thì anh phải lựa chọn. Vậy thì, nếu
không tỉnh táo thì người Việt Nam mình rất dễ sa vào bẫy của họ, bởi vì
Biển Đông mà không quốc tế hóa, lập trường của mình không kiên trì
trong việc này thì Trung Quốc lấy rất đơn giản.
Việc Trung Quốc khó vượt qua nhất bây giờ là Biển Đông chắc chắn sẽ
được quốc tế hóa mà Việt Nam và Philippines là những nước buộc lòng phải
cứng rắn nhất trong lập trường này, và họ sẽ tập trung làm cho các lập
trường của Philippines và Việt Nam phải mềm lại.
Mặc Lâm: Mềm lại theo ý anh là như thế nào? Anh cũng biết rằng nếu càng mềm thì họ càng lấn tới…
Nhà văn Tạ Duy Anh: Họ làm mềm lại bằng cách chia rẽ khối
ASEAN, dùng cách nghi binh, áp lực dương đông kích tây, hay răn đe với
Nhật Bản, với Đài Loan. Thực ra đều là để dằn mặt Việt Nam và Phi bởi vì
Biển Hoa Đông không quan trọng đối với Trung Quốc. Cái quan trọng không
bằng 1/10 đối với Biển Đông so với vị trí chiến lược của họ.
Người dân
Mặc Lâm: Theo anh thì đối phó với các thủ đoạn này thì người Việt phải làm sao?
Nhà văn Tạ Duy Anh: Tôi nghĩ rằng người Việt hiện nay thứ nhất
phải thật tỉnh táo. Thứ hai phải cứng và cương nhu đúng lúc. Hiện nay
tôi không có thông tin vì vậy cứ nói như rất nhiều trí thức họ quy kết
chính quyền là nhu nhược, bán nước rồi nhượng bộ Trung Quốc… Tôi không
nghĩ rằng bất cứ người Việt Nam nào lại có thể vì lợi ích để bán lãnh
thổ, để công khai ủng hộ một thế lực ngoại bang để họ có thể gậm nhấm
đất nước thì khó vô cùng và không ai dám.
Tấm gương Trần Ích Tắc, tấm gương Lê Chiêu Thống, đủ để cho người
Việt không ai có đủ sự bỉ ổi, thiếu liêm sỉ để có thể làm những việc như
vậy nữa.
Mặc Lâm: Thế nhưng có nhận xét cho rằng bây giờ giòng máu
nóng chống ngoại xâm của người Việt hình như không còn như xưa nữa sau
một thời gian dài lo cơm áo gạo tiền… anh nghĩ sao về nhận xét này?
Nhà văn Tạ Duy Anh: Người Việt có một đức tính rất hay là sau
một nghìn năm đô hộ bởi Trung Quốc rồi nên giờ đây không sợ Trung Quốc.
Nói đến Trung Quốc không ai sợ cả. Và cái việc không ai sợ Trung Quốc nó
không phải là một sự cố gắng về mặt lý trí mà nó là một phản ứng bản
năng, như một thói quen với người Việt mình rồi.
Sống cạnh thằng khổng lồ hàng nghìn năm nó chẳng làm gì được mình thì
giờ đây không ai sợ nữa. Đó là điều quan trọng và những người cầm quyền
phải khai thác triệt để cái phẩm giá này của dân tộc. Đôi khi cũng phải
dám cứng rắn bởi vì mình cũng đoán định được rằng Trung Quốc sẽ hành
động đến đâu, đến mức nào. Tôi nghĩ Trung Quốc không thể nào hành động
vượt quá giới hạn khiến cho một cuộc chiến bùng nổ bởi vì bản thân Trung
Quốc trong thời điểm này và trong nhiều năm tới, tôi nghĩ họ cũng không
muốn cuộc chiến nổ ra ở Biển Đông.
Nhà văn Tạ Duy Anh: Bởi vì nếu nó nổ ra như mình đã nói thì nó sẽ như thế nào? Nó kết thúc được hay không và hậu quả ra sao thì chính họ cũng không lường tới được. Tôi nghĩ người Trung Quốc hiện nay chưa có một cách nào khác ngoài cách lì lợm, chơi bẩn. Chơi bẩn bằng mọi thủ đoạn trong đó có lừa phỉnh, đánh úp, hay gậm nhấm những chỗ họ có thể làm được như bãi Gạc Ma năm 88. Cứ xểnh ra là họ làm. Họ chơi những con bài đúng như người ta gọi là tiểu nhân mà người Tàu vẫn áp dụng cho những địch thủ, những hàng xóm láng giềng của họ, nhất là những nước như là nước mình.
Chính quyền
Mặc Lâm: Trước những tình hình thực tế này theo anh thì chính phủ Việt Nam phải có kế sách như thế nào để đối phó một mặt vừa không xảy ra chiến tranh, một mặt vô hiệu hóa kế hoạch tầm ăn dâu của Trung Quốc?
Nhà văn Tạ Duy Anh: Tôi nghĩ trong thời gian tới cái quan
trọng nhất đối với chính quyền là phải vô hiệu hóa tất cả những quyết
định ngang trái của họ.
Vô hiệu hóa bằng nhiều cách, thứ nhất không chấp nhận, và khi không
chấp nhận thì phải có biện pháp đáp trả. Hai nữa cũng phải tỉnh dần ra.
Phải cho rất nhiều người dân trong nước hiểu ra cái thâm ý, cái bản chất
sâu xa của Trung Quốc để từ đó mình có những liên kết quyền lợi khác.
Liên kết với Ấn Độ, với Mỹ, với Nhật Bản, với những nước có nền công
nghệ cao về vũ khí.
Mặc Lâm: Anh vừa nói tới vấn đề vũ khí, theo anh thì Việt
Nam có nên bóp bụng để tự trang bị cho mình một dàn tên lửa nhằm tự vệ
khi có chiến tranh xảy ra hay không, và liệu hành động này có làm cho
Trung Quốc chùn tay hay khiến nó càng hung dữ hơn?
Nhà văn Tạ Duy Anh: Tôi nghĩ rằng Việt Nam phải có một dàn tên
lửa cực kỳ gắn dọc bờ biển có thể vươn tới Hoàng Sa hay Hải Nam. Bởi vì
thế này, nếu xảy ra chiến tranh thì Trung Quốc cũng không ngán gì mà
không tương tên lửa vào đất liền hay những cơ sở quân sự của mình vì vậy
mình phải có khả năng đáp trả.
Nếu như người cầm quyền cứ lấy cái cớ giữ ổn định giữ hòa bình để cho tương lai những vấn đề của ngày nay thì không phải là vấn đề hay.
Nhà văn Tạ Duy Anh
Nhưng những bước đi như vậy phải rất nhiều kỳ công, tốn kém và nhất
là cả dân tộc phải quyết tâm. Nếu như người cầm quyền cứ lấy cái cớ giữ
ổn định giữ hòa bình để cho tương lai những vấn đề của ngày nay thì
không phải là vấn đề hay.
Trước sau con cháu chúng ta phải đối mặt, và khi đó nó phải đối mặt
với một cuộc chiến đẫm máu rất nhiều lần nếu xảy ra so với ngày hôm nay.
Bởi vì ngày hôm nay cái may nhất là những cường quốc lớn như Mỹ và
Trung Quốc không bao giờ có thể bắt tay nhau được. Chừng nào mà những
lợi ích của họ còn xung đột thì mình còn sống sót.
Cái chiến thuật thoát hiểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời gian
qua là chiến thuật của con sóc, tức là anh leo dây thoát hiểm nhưng cái
đó nó không tồn tại mãi được. Trước sau anh phải đối mặt với một sự
thật là anh chỉ né tránh. Anh né tránh những cú đòn của họ thôi, nhưng
khi nó ra quá nhiều cú đòn và thậm chí với những cú né như vậy, mỗi lần
né thì nó lại áp sát vào lãnh thổ của mình thì cuối cùng anh cũng không
thể thoái thác, anh không thể tránh phải đối mặt với một kẻ thù khổng
lồ.
Mặc Lâm: Xin cám ơn nhà văn Tạ Duy Anh. Sau hai kỳ phát
thanh nhà văn Tạ Duy Anh đã chia sẻ với chúng ta nhiều ý kiến thú vị về
cách làm sao sống chung và đối phó với Trung Quốc. Mặc dù còn nhiều
tranh cãi đối các ý kiến này nhưng chúng tôi tin rằng, những ai quan tâm
tới vấn đề sẽ có cơ hội nhìn ra một khía cạnh khác để góp thêm kinh
nghiệm cho việc bảo vệ bờ cõi của Việt Nam.
Quý vị muốn đóng góp ý kiến cho chương trình này xin vui lòng e-mail về địa chỉ: maclam@rfa.org.http://www.rfa.org/vietnamese/programs/LiteratureAndArts/taduyanh-abt-east-sea-2-12302012115551.html
Sunday, October 21, 2012
MAI THẢO * NHÀ MỚI
|
Căn nhà này là của người bạn Hoá vừa đi vắng vì công vụ. Anh ta về Hà Nội. Hôm gặp Hoá, chân ướt chân ráo, giữa phi trường Tân Sơn Nhất, anh bạn đã bắt tay Hoá rồi rút ở túi áo ra một cái chìa khoá. Anh chìa cho Hoá:
“Cho anh mượn tạm cái nhà. Chắc chưa có ai ở. Nhân tiện, coi nhà hộ. Độ nửa tháng nửa, tôi sẽ vào. Chúng mình nói chuyện sau vậy”.
Thế là người bạn về Bắc, Hoá đã đến mở cửa cái gian nhà bé nhỏ này. Buổi trưa hôm anh đến, mưa to. Anh xuống xe, đi bộ qua một ngõ đất, vừa hẹp, vừa lầy lội. Dăm ba đứa trẻ con đầu trần mặc áo hoa, đứng dưới mưa nhìn anh. Anh nhìn chúng, mỉm cười xã giao, khi anh nghĩ đến những giấc ngủ trưa của anh, bọn chúng dễ đến phá phách loạn xạ lắm đấy.
Sau đó, Hoá đi nhanh về cuối ngõ. Căn nhà nhỏ bé cửa sơn xanh khép đóng im ỉm sau một hàng rào gỗ lưa thưa. Dăm bụi cỏ dại mọc ngổn ngang trên lối đi.
Nhà mới có hai tầng và một gian gác lửng bằng gỗ. Một cặp vợ chồng và hai ba đứa con thì ăn ở rộng rãi. Ở cho đủ, có thể chứa được ba chục con người. Hoá chợt nghĩ đến cái nơi ở thứ hai này. Trong một thoáng, Hoá nghĩ đến cái gác trọ của anh ở Hà Nội. Một số lẻ giữa phố Cầu Gỗ. Anh tính nhẩm: Dễ cũng đến ba chục người. Hoá mỉm cười, nhớ đến những ngày nắng tháng Năm, tháng Sáu ở Hà Nội, gian gác xép Cầu Gỗ rung lên trong những tiếng quạt, tiếng thở, và ngột ngạt một thứ không khí nồng cháy. Bọn Hoá ăn ở cái lối “hấp cách thuỷ”, như thế trong suốt một vụ hè 54. Vậy mà chẳng ai kêu ca, chẳng ai ốm đau, và cũng không một ai bỏ đi. Thì ra cái khu vực tối thiểu cho một đời sống, nhiều khi đi xuống mức của những phân, những ly. Người ta nằm nghiêng mà ngủ, đi lên đi xuống cũng phải có tổ chức để tránh va chạm. Gian gác biến thành những con đường một chiều.
Mưa to hơn, Hoá mỉm cười một mình nhìn chung quanh gian buồng bỏ không. Từ ngoài mặt đường, nước chảy vào buồng ngoài, vào buồng trong và đọng lại trước cửa bếp. Vũng nước đục ngầu ngầu. Hoá nghĩ thầm: Không quét dọn sạch sẽ chỗ này không ở được. Đoạn, anh lần xuống bếp. Người bạn vừa đi khỏi mà cái bếp tro lạnh như không có ai thổi nấu đã nhiều ngày. Hoá nghĩ đến những nếp sống phóng túng ở đây. Bữa ăn người ta kéo cả ra tiệm. Anh không ngạc nhiên nữa.
Anh đi lên gian gác xếp. Trên đó tối thẳm. Một mùi ẩm mốc bốc lên từ những góc tối. Hoá đánh diêm soi thấy một gian gác trống trơ trọi. Trên sàn ngổn ngang mấy tấm gỗ mộc. Anh đi xuống.
Mưa đã tạnh hẳn. Hoá mở cửa ra ngồi trên bực cửa nhìn ra đường. Từ đầu ngõ, gió thổi tới, mát lạnh qua những vũng nước. Lá rụng xanh mặt đường. Bọn trẻ con ban nãy, thấp thoáng từ những căn nhà bên cạnh, lại ùa đến. Chúng cũng có vẻ nghịch ngợm như những lũ trẻ của phố sá Hà Nội, nhưng trông tươi tắn và ngây ngô hơn. Chúng nắm tay nhau nhìn Hoá rồi nhìn nhau, cười ầm lên. Hoá cũng cười.
Anh hút một điếu thuốc lá. Bọn trẻ thấy Hoá yên lặng, càng cười dữ. Đoạn một đứa sán đến hỏi anh:
“Thầy mới vô hả?”
Hoá bảo:
“Phải rồi mới vô”. Tiếng Bắc anh dùng, làm lũ trẻ con cười to hơn.
Một lát sau, chúng đã biết tên anh, và anh đã mượn được lũ trẻ vô số là đồ dùng. Búa, chổi sể và mấy cái gầu con để múc nước.
Chúng để cả trên thềm cửa rồi bỏ đi.
Đêm xuống. Một đêm Sài Gòn rộng thoáng sau một chiều nhạt nắng. Hoá ngồi ngoài thềm cửa, nhìn từ đầu ngõ đến cuối ngõ. Anh nhìn vu vơ. Một nửa ngày đặt chân thủ đô tự do, Hoá chưa kịp quen ai. Anh hút một điếu thuốc lá nữa. Thuốc cháy, khói chảy xanh về cuối ngõ, như vào một lối đi quen thuộc cũ. Lòng Hoá phân vân nhiều. Anh nghĩ đến Sài Gòn. Anh nghĩ đến Hà Nội. Nghĩ miên man. Một số bạn hữu cũ, anh sẽ không gặp họ ở đây. Có lẽ không bao giờ nữa. Họ đã ở lại.
Giữa một buổi đêm Sài Gòn vừa lên đèn. Hoá nghĩ về Hà Nội qua những ý nghĩ đầy mến thương. Anh nghĩ đến những gian nhà ngoài ấy, cửa ngõ khép đóng trong một tâm sự đau khổ thầm kín, khi những người lên đường đã vội vã bỏ đi. Một miếng đất. Một khoảng sân. Một chỗ ngồi xem một cuốn sách dưới mái hiên. Rất nhiều tình người gắn bó gửi cho một mái nhà ấm.
Vậy mà Hoá đã lìa bỏ tất cả, để mà ngồi một mình trong cái ngõ tối hẹp này. Ngày mai dành cho anh những gì? Trong thời gian và không gian miền Nam, ngày tới, rồi Hoá còn mất nhiều ngày xây dựng một cơ sở mới, để cho một đoạn đời lại có thể lên hương và một cuộc sống lại có thể bắt nguồn. Anh nhìn lâu lâu xuống lòng đất ngõ trước mặt. Tối xuống hẳn. Hoá không nhìn thấy gì nữa. Nhưng anh đoán thấy đất ở đây cũng như ở bất cứ nơi nào cũng mát lắm, và cũng chứa đầy những sự bất ngờ cho một bàn tay của người.
Ngày mai, ngày kia, anh sẽ gây lại như từ xưa, những ngọn lửa, những sợi dây nối kết với chung quanh. Anh nghĩ đến bọn trẻ ban nãy. Những tấm áo hoa sặc sỡ của chúng. Tiếng chúng cười vang vang. Những con mắt chúng đen láy nhìn cái “ông ngoài Bắc” vừa đến ở cùng ngõ. Dăm ba ngày, rồi Hoá quen thuộc với lũ trẻ hơn, chúng sẽ thay thế cho một lũ cháu Hoá ở ngoài Bắc với bố mẹ chúng nó.
Trong phút giây suy nghĩ đến một cuộc chiến tranh đau khổ lâu dài chỉ chấm dứt để nối kết những con người trên xứ sở xấu số này vào một niềm đau chia sẻ thù oán, Hoá nghĩ nhiều đến những đứa nhỏ. Tương lai của những mái đầu trẻ thơ ấy sẽ ra sao nếu hôm nay, những lứa tuổi măng non ấy đều lớn lên trong một thế hệ chia cắt đứt đoạn? Những sợi dây nối kết đứt rồi, từng đoạn một, ngày lại ngày. Trong Hoá ớn lạnh một cảm giác núi rừng. Hình ảnh một chân trời mịt mùng. Cách sông. Cách núi. Hoá để lại tất cả ngoài ấy. Tất cả.
Chiều nay, ngồi một mình trong ngõ hẹp, Hoá nhìn xuống một ngọn lửa lấp lánh đầu ngọn thuốc lá, và anh nghĩ đến những con người mới anh sẽ tiếp xúc ở đây. Lũ trẻ nhỏ mặc áo hoa. Những gia đình chung ngõ. Cùng là đời sống phường phố lớn rộng của Sài Gòn. Những sợi dây liên kết vừa rụng xuống thì những đường tơ mới đã rung lên. Vĩ tuyến không ngăn chia được lòng người, cũng không đánh nhoà mất được những khía cạnh của một sự sống đã được giác ngộ ý thức của tập thể. Đâu đâu, cũng là gắn bó, cũng là bám hút, cũng là những sợi dây, những bàn tay đan lấy nhau.
Một ý nghĩ. Một ý nghĩa khác nữa. Trong Hoá, những gánh nặng tâm sự buồn thảm với lần lần. Chúng như những chuyến đi, ngược về bên kia một vĩ tuyến oan khiên nào, và ở lại đó trong cái không khí tù đầy của một thế giới thiếu tình người.
Hoá dụi tắt thuốc lá, đứng lên. Anh thong thả đi ra ngoài đầu ngõ. Hai bên, những cửa sổ mở rộng, ánh đèn lọt ra ngoài. Con đường đất nhỏ sáng lên từng quãng một. Nước đọng vui dưới chân anh. Nhìn vào bên trong anh thấy những gia đình Sài Gòn đầu tiên dưới ánh đèn:
Người bố, người mẹ, mấy đứa con. Những đứa trẻ mặc áo hoa ban nãy. Hoá mỉm cười đoán thầm, chúng đã kể chuyện cho bố mẹ về cái “ông ngoài Bắc” vừa đến. Khắp ngõ, tiếng rađiô tưng bừng một bản nhạc lên đường. Nốt nhạc líu ríu, đổ mạnh. Tiếng hát ngân dài, vươn lên, chứa đựng âm thanh đường trường. Buổi tối Sài Gòn cũng là buổi chiều Hà Nội đang lắng tai trong một bản nhạc mỗi người cùng nghe dưới mái nhà của mình.
Hoá đứng ngoài nhìn vào. Bóng anh đổ xuống mặt đường, xiêu đổ, lênh đênh. Anh nghĩ rằng trong những ngày gần đây, cuộc sống của anh rồi cũng sẽ có những tiếng nói, nụ cười của một lớp người sẽ đến, và sẽ nhận anh vào tập thể. Từ một sự xây dựng rất cá nhân, cuộc sống khởi thuỳ rộng lớn thêm mãi, theo nhịp đi của những mạch máu nối kết đằm thắm với chung quanh. Hình ảnh một bếp lửa bập bùng hắt sáng lên một đêm đầu mùa trên mảnh đất mới, thổi mạnh một hương lửa thơm ngát vào Hoá, vào tận chỗ sâu thẳm của nội tâm anh. Những hình ảnh cũ nhoà dần: Một chuyến đi. Những nét mặt. Những người bạn. Những bờ phố cũ. Một cuộc đời đã an định.
Trong ký ức gần gụi, Hoá nhớ đến một cuộc thử thách dữ dội nhất mà thời đại đã đặt ra cho những con người như anh. Anh đã chọn lấy một con đường trên đó thổi lùa một thứ gió lùa và chan hoà một thứ ánh sáng của miền tự do. Và Hoá đã đến đây chiều nay trong cái ngõ hẹp, sau một trận mưa chiều đột ngột của thành phố nhiệt đới.
Những tiếng động xa xôi vọng về. Nghe không rõ. Ầm ầm, ran ran. Những tiếng vội vã, như những bước chân đuổi gấp, lại như những đoàn người đang xô chen nhau trên những ngã ba nào. Đèn lấp lánh tứ phía. Cả một thành phố rộng lớn đang sống cái nhịp sống đương hoa, không bến bờ. Một cuộc sống toàn diện. Hoá nghĩ đến cái tự do của một ngọn triều đổ oà oà về cái nét xanh veo của trời xa. Sài Gòn ở đây, Chợ Lớn bên kia. Những tiếng đổ gần như những bước chân xuống núi. Thành phố chứa đầy những tiếng suối trong. Thành phố đựng đầy những ngả cỏ non.
Hoá quay trở lại. Lòng ngõ đã tối hẳn. Một vài vũng nước óng ánh. Hai bên, những cánh cửa đã đóng hẳn. Tiếng rađiô tắt lặng. Hoá đẩy cửa vào trong nhà. Anh bật đèn. Ánh sáng bừng lên khắp hai gian buồng. Vẫn như cũ. Một vài vũng nước đục ngầu chưa khô hẳn, làm thành những đường viền màu nâu tươi trên nền đá hoa.
Lòng Hoá thấy ấm lắm. Anh vui vẻ lấy chổi quét sạch một góc nhà, vừa đủ cho một chỗ đặt mình. Có tiếng muỗi vo ve nổi lên. Hoá chợt nhớ đến lũ trẻ mặc áo hoa. Ngày mai chúng sẽ mang đến cho anh mượn một hộp thuốc trừ muỗi. Đêm nay hãy tạm ngủ với mấy ông muỗi của đất mới. Hoá có cảm giác chúng sẽ đốt đau lắm. Muỗi Sài Gòn mà. Nhưng cũng chẳng hề gì. Giấc ngủ của Hoá sẽ ngon lành. Và ngày mai, một suối nắng sẽ chảy vào đây, và Hoá sẽ lại lên đường.
Ngày lớn sẽ dựng.
Hoá nghĩ về Hà Nội. Những hình ảnh mờ nhạt. Thấp thoáng sương khói. Ngoài ấy đã vào dĩ vãng. Những chân trời núi rừng. Hà Nội.
HOÀNG NGỌC LIÊN * BỨC TRANH BÁCH MÃ
Tạp Bút
Lên hết 144 bậc thềm, Quân mới nhìn rõ toàn cảnh tòa lâu đài, kiến trúc theo lối cổ với 5 vòm tháp. Khá đông du khách hiếu kỳ đến thành phố Hoa Hồng này đã mua vé vào cửa Lâu Ðài X. để tận mắt chứng kiến khung cảnh sống của một gia đình từng nổi danh tại địa phương hồi trên nửa thế kỷ về trước. Từng tốp khoảng vài chục người được hướng dẫn viên đưa đi coi từ dưới lên lầu chót của tòa lâu đài rồi theo mũi tên chỉ lối xuống và ra chỗ đậu xe.
Quân đã chứng
kiến những căn phòng bầy biện
theo cung cách ngày xưa, cũng không
có gì đặc biệt lắm so với
những tòa nhà cổ kính bên
châu Âu mà Quân đã biết.
Duy khi thoạt bước vào căn phòng
chót, Quân rất ngạc nhiên khi thấy
trên tường có treo Bức Tranh
Bách Mã quen thuộc, tuy rằng bức
tranh ở đây không có thêm
vài hàng đề tặng... Chỉ ít
phút đừng chân trong phòng tranh,
Quân đã hồi tưởng đầy
đủ câu chuyện ngày xưa...
* * *
Quân mua bức tranh này
trong một kiosque bán đồ sơn mài
trên đường Nguyễn Huệ Sài
Gòn. Bức tranh được cuộn
tròn trong chiếc ống sơn màu nâu
nhạt. Khi về nhà trải bức tranh
để lồng kính, Quân mới
nhìn kỹ bức tranh thì thấy có
hai dòng chữ ghi bằng bút bi phía
dưới, bên góc trái:
Kính mừng sinh nhựt
anh Hà Ðản.26-XII
(và chữ ký tên rất dễ đọc): Bạch Lan
anh Hà Ðản.26-XII
(và chữ ký tên rất dễ đọc): Bạch Lan
Thì ra đây là bức
tranh đã được mua đi bán
lại. Trước khi treo bức tranh lên
tường, Quân đã tò mò
đếm đủ 100 đầu ngựa,
trải treo chiều ngang 60 X 100 cm đúng như
tên của bức tranh bằng chữ
Hán: "Bách Mã Tề Phi" cùng với
triện son và ký hiệu của một họa
sĩ Ðài Bắc (Trung Hoa Dân Quốc).
Thực ra, Quân chỉ muốn mua 1 bức
tranh ngựa, dù là vẽ 1 con. Không
phải Quân tin điều mà người
Trung Hoa thường viết trên
những thiệp hồng:
"Mã Ðáo Thành Công" để
chúc nhau, mà chỉ vì Quân tuổi
Ngọ.
Sau khi bức tranh được
treo lên, anh đứng ngắm coi và
khi toan quay bước, thốt nhiên anh thoáng
thấy có điều gì khác thường.
Anh lui trở lại vị trí cũ, mắt
vẫn không rời bức tranh. Rõ
ràng, anh nhận ra là những mông
ngựa đều xoay theo tầm nhìn của
mình. Anh thử đưa bước
chân qua trái, rồi qua phải, vẫn
chiếc mông ngựa di chuyển qua lại.
Anh rất thích thú điều này,
nên mỗi lần trước khi đi
làm hay vừa về nhà, anh đều
đứng
trước bức tranh rồi di chuyển qua hai bên để nhìn những mông ngựa xoay theo tàm mắt.
Bé Mai, con gái Út 5 tuổi của anh, hỏi:
- Ba nhìn bức tranh hoài, không chán sao?
Anh tươi cười:
- Nè, con lại đây ba biểu!
Con bé đến gần anh.
- Con thấy con ngựa lớn nhứt không?
- Thấy, thưa Ba!
- Bây giờ mắt con nhìn mông nó, còn chân con bước qua trái. Con có thấy mông ngựa xoay theo bước chân của con không?
- Thấy. sao ngộ quá, Ba!
Quân vui vẻ:
- Cho nên Ba cứ nhìn bức tranh hoài!
Thế rồi nhiều lần
Quân thấy con nhỏ cũng đứng
nhìn bức tranh, xê qua xê lại y
hệt ... ông già nó!
Cho đến một buổi
chiều, anh còn làm việc, thì bé
Mai kêu điện thoại đến Sở:
- Thưa Ba, có một cô
vừa ghé nhà mình. Cổ ngỏ
ý muốn chờ gặp Ba để
có chuyện muốn thưa với Ba. Má
biểu con mời khách dùng trà
rồi báo tin cho Ba hay.
- Con nói lại với
cô, là rất tiếc chiều nay Ba đã
có hẹn nên sẽ về muộn. Vậy
mời cô ấy tới vào trưa
chủ nhật này...
Nhưng cô khách không
y hẹn, mà Quân cũng sẽ quên
chuyện đó, nếu khá lâu sau
đó anh không nhận được
bức thư có đóng nhật ấn
bưu điện Nha Trang:
Ngày...
Kính ông,
Tôi là Hà Mỹ Lệ,
người mà mấy tháng trước
đây đã đến thăm ông,
nhưng rất tiếc chưa được
hân hạnh gặp ông, sau đó lại
lỗi hẹn vì ngày chủ nhật kế
tiếp, tôi có việc gia đình phải
về Nha Trang. Bữa nay xin gửi thư
này với lời kính thăm
của tôi, mong ông không cho là đường
đột. Vậy xin kể hầu ông, nguyên
do nào thúc đẩy tôi tìm ông.
Bữa tôi đến
và được bà nhà và
cô em niềm nở tiếp đón,
đã là lần thứ hai. Lần
đầu, nhân có việc đi qua ngõ
trường học, tôi thoáng thấy
bên trong một căn nhà có treo bức
tranh quen thuộc.. Ðây cũng là tôi
có duyên với con đường
nhỏ lát đá chạy qua nhà
ông. Căn nhà của gia đình ông có bức tường thấp mà chân tương cũng là lề đường đi. Khách đi qua có thể dễ dàng nhìn thấy bức tranh treo cạnh chiếc đồng hồ quả lắc có những chữ số La Mã.
Cách đây mấy năm, trên tường trong phòng khách nhà tôi cũng đã treo một bức tranh y hệt bức tranh mà tôi đã trông thấy tại nhà ông. Y hệt, vì khi dừng chân lại để nhìn vào, tôi còn nhận ra, tuy không rõ lắm, mấy dòng chữ đề tặng nữa. Ðó là nguyên do mà tôi đã có mặt trong nhà ông để nhìn rõ mấy dòng chữ ấy.
Thưa Ông, xin ông rộng lượng thứ lỗi vì cần phải trình bầy chi tiết để ông cảm thông cho. Theo ý nghĩ chủ quan của tôi thì ... Bức Tranh Bách Mã được treo trong nhà ông cũng chính là bức tranh của Ba tôi đã thất lạc từ nhiều năm nay sau một vụ trộm mà nhiều người ở Khánh Hòa đều nghe nói. Câu chuyện là vào một đêm mà gia đình chúng tôi vắng mặt, kẻ trộm đã khuân đi tát cả những đồ vật đắt tiền, kể cả bức
tranh treo trên tường vốn không đáng giá bao nhiêu. Nhưng đó lại là kỷ vật mà sinh thời Ba tôi rất trân trọng. Chúng tôi đã nhận được một vài món đồ sau đó được đem bầy bán tại Chợ Trời gần ga xe lửa. Nhưng không thấy bức tranh để mua lại. Cho nên khi nhận ra bức tranh đang được treo tại nhà ông, tôi nghĩ ngay là kẻ gian đã mang vô bán tại Sài Gòn và ông đã mua được.
Tôi biết là bức tranh hiện đang thuộc quyền sở hữu của ông. Việc tôi ngỏ ý có thể thành công mà cũng có thể thất bại. Thành công, nếu được ông hào phóng và cảm thông, ban ơn cho tôi được nhận bức tranh này, để tôi giữ được di vật của Cha mình.
Thất bại, nếu bức tranh đối với ông cũng quan trọng vì một lý do nào đó, ông sẽ từ chối đề nghị của tôi. Dù thành công hay thất bại, tôi cũng tư an ủi là đẵ làm hết sức mình.
Tôi nóng lòng chờ mong hồi âm của ông.
Xin tạ ơn ông.
Trân trọng kính chúc ông và bửu quyến vạn an.
Kính thư,
Hà Mỹ Lệ
Hộp thu lưu trữ Ty Bưu Ðiện NT.
Nếu bức tranh quả thực quan trọng đối với cô như đã viết trong thư, tôi rất sẵn sàng tặng lại cô.
Khi có dịp trở lại Sài Gòn, xin mời cô ghé tệ xá để nhận bức tranh. Tôi sẽ nhớ dặn trước người nhà điều này. Mong cô đừng câu nệ.
Kính chúc vạn an.
Phạm Quân.
Kính Ông,
Ðầu tiên, tôi vô cùng cảm tạ ông, đã cho tôi nhận Bức Tranh Bách Mã do tấm lồng hào hiệp của ông. Bức Tranh sẽ được treo cạnh bàn thờ Ba tôi. Sau, để đáp lại thạnh tình của ông, tôi có ít dòng tâm sự muốn kể hầu ông.
Bức Tranh Bách Mã là một kỷ niệm mà Ba tôi đã nhận tư tay Dì Bạch Lan.
Theo thương tình, đứa con gái mất Mẹ ít khi trân trọng tình yêu của người Cha với một phụ nữ khác. Nhưng có lẽ tôi là kẻ hơi khác đời! Mẹ tôi mất khi tôi đủ trí khôn để nhận ra niềm đau tột cùng của Ba tôi. Ông héo hon đi sau tang lễ. Nhiều khi đang ngồi nói chuyện với tôi, bỗng ông nức lên, nghẹn ngào:
- Sao mình lại bỏ anh và con?
Tôi không biết làm gì để an ủi ông, mà chính ông lại an ủi tôi:
- Mỹ Lệ à! Ba xin lỗi vì đã không giữ được Mẹ cho con! Bây giờ Ba có thương con gấp bội cũng không thể nào thay được tình mãu tử.
Tôi ôm chặt Ba và tự nhủ sẽ làm tất cả những gì để ông được vui.
Ba tôi mới 50 tuổi.
Còn trẻ lắm., Ông không thể
"gà trống nuôi con" mãi được.
Nhưng Ba yêu Mẹ như vậy thì người
phụ nữ nào thay được
Mẹ để Ông lại có được
hạnh phúc? Ba tôi có hạnh phúc
là tôi có hạnh phúc. Tôi phải
tìm cho Ba tôi một phụ nữ thích
hợp, hy vọng Ông chấp nhận. Nhưng
đứa con gái khờ khạo như
tôi làm sao tìm ra được người
phụ nữ như thế?
Ngày đêm tôi cầu
nguyện cho Ba. Và thành tâm của tôi
đã được các đấng
Thiêng Liêng ban ơn. Ðó là Dì
Bạch Lan, mà tôi thường kêu
là Dì Hai, người bạn chí
thiết của Mẹ tôi. Trong tang lễ Mẹ
tôi, dì Bạch Lan đã tất bật
hơn cả những người thân
trong gia đình.
Một ngày kia, tôi đến
thăm Dì tại nhà riêng.
- Mỹ Lệ! Thật bất
ngờ được cháu đến
thăm. Ba cháu khỏe không? Vui không?
Tôi vui vẻ:
- Cảm ơn dì Hai, ba cháu
khỏe, nhưng không vui!
- Hẳn nhiên. Ba cháu còn
luôn tưởng nhớ Mẹ cháu.
Rồi Dì kéo tôi
ngồi kề bên, dịu dàng:
- Thời buổi này
thiệt khó mà kiếm ra một người
đờn ông có tình nghĩa
với bà vợ đã mất
như ba cháu.
Tôi nắm chặt tay Dì:
- Cháu có điều
này muốn nói với dì Hai. Nhưng..
Dì khuyến khích tôi:
- Cứ nói, cháu đừng
ngại. Dì rất vui nếu giúp được
chuyện gì cho cháu.
Tôi mạnh dạn:
- Thưa dì Hai, cháu e ngại
vì câu chuyện sẽ... thiệt thòi
cho Dì, nếu lời cầu mong của
cháu được Dì chấp nhận...
- Dì không ngại bị
thiệt thòi. Hãy coi dì như người
thân trong gia đình cháu.
- Dì Hai ơi! Hiện nay Ba cháu
sống như một thân cây cằn cỗi
vì lẽ sống của Ông là Mẹ
cháu đã không còn nữa.
Cháu dù yêu Ba vô cùng, sẽ
không thể nào thay thế Mẹ được.
Cháu nghĩ rằng, vì hạnh phúc
cuối đời của Ba cháu, cũng
chính là hạnh phúc của cháu,
phải tìm cách thế nào cho Ba cháu
tiếp tục được một bàn
tay chăm sóc, an ủi. Ba cháu còn
trẻ, đâu thể vì quá yêu
Mẹ cháu mà héo hon đi, rồi
sẽ có một ngày suy sụp. Vì Ba,
cháu phải làm tất cả những
gì có thể làm được
để Ông có hạnh phúc. Cháu
nghĩ ngay đến Dì Hai. Dì là
người thích hợp với
Ông nhứt. Nhưng Dì chưa từng
lập gia đình, như vậy sẽ thiệt
thòi cho Dì. Ðó là chưa nói
đến chuyện cháu không hiểu tình
cảm của Dì dành cho Ba cháu ra sao.
Cháu đã cầu nguyện nhiều,
đã khẩn xin các Ðấng Thiêng
Liêng phò hộ Ba cháu. Hôm nay cháu
cầu cứu Dì Hai.
Tôi nghe rõ tiếng Dì
thở dài. Dì ôm tôi vào
lòng, để tay trên đầu tôi:
- Cháu Mỹ Lệ mến
thương của dì. Thế này nhé!
Dì sẽ dành nhiều thời gian
đến thăm Ba cháu. Dì sẽ dò
ý coi phản ứng của Ba cháu.
Nếu Ba cháu vui vẻ và coi dì như
thân hữu, dì cũng sẽ hỏi
lòng mình, coi tình cảm mà dì
dành cho Ba cháu đến mức độ
nào. Nếu dì có thể an ủi được
Ba cháu,thì đừng nói đến
chuyện thiệt hơn. Dì rất kính trọng
Ba cháu và hâm mộ tình nghĩa
vợ chồng thủy chung mà Ôâng
đã dành cho Mẹ cháu..
Tôi nghẹn ngào ôm
chặt Dì:
- Cháu đội ơn Dì! Cháu đội ơn Dì!
Một buổi chiều, sau khi tan sở, Ba tôi đang ngồi coi báo trong phòng khách thì Dì Bạch Lan ghé thăm.
- Thưa anh, hồi nãy trên đường về, bỗng nhiên tôi sực nhớ ngày mai là sanh nhựt của anh. Tôi vô hiệu sách trên đường Ðộc lập định mua một tấm thiệp để gửi mừng sanh nhựt anh. Nhưng thấy trên tường hiệu sách có treo bức tranh phù hợp với năm sanh của anh. Tôi nghĩ là nên đem tới để xin anh vui lường nhận Bức Tranh Bách Mã này, như chút lòng thành của tôi, chúc anh sức khỏe và thành công.
Ba tôi vui vẻ nhận món quà rất có ý nghĩa đối với Ông, ngỏ lời cảm ơn Dì Bạch Lan. Tôi được chứng kiến khung cảnh đó và nhanh miệng mời Dì ở lại ăn với cha con tôi một bữa cơm.
Bức tranh được treo trên tường. Tôi đọc và nhớ mãi mấy lời đề tặng:
"Kính chúc Anh Hà Mỹ
Sanh nhựt 26 - XII vui vẻ"
(cùng với chữ ký rất dễ đọc:) Bạch Lan.
Sau đó, Dì Hai thường ghé thăm Ba con tôi. Theo tôi nhận xét thì Ba tôi cũng có nhiều cảm tình với Dì. Tôi tiếp tục theo đuổi nguyện vọng của mình, vun đắp tình cảm giữa hai người. Tôi thiết tha cầu mong Dì sẽ là người thay thế Mẹ để đem lại hạnh phúc cho Ba tôi trong quãng đời còn lại.
Nhưng thưa ông, người
tính không bằng trời tính. Sau
một cơn đau tim, Ba tôi dột ngột
ra đi theo Mẹ tôi. Tôi đã khóc
ngất trong vòng tay dì Bạch Lan. Từ
đó, Dì toàn mặc đồ đen
khi ra ngoài, kể cả khi đi làm. Dì
thường đến thắp hương
trước di ảnh Ba Mẹ tôi và
luôn an ủi đứa con mồ côi
này.
Bất hạnh còn đến
với tôi, như đã thưa trên
đây, Bức Tranh Bách Mã đã
bị kẻ gian đem đi mất.
Thưa ông,
Một lần nữa, xin ông
vui lòng nhận lòng biết ơn sâu
sa của tôi khi đã cho tôi nhận
lại bức tranh. Từ nay, tôi có
được đầy đủ các
hình ảnh kỷ niệm về Ba Mẹ tôi,
về dì Bạch Lan, người mà
lẽ ra đã là kế mẫu của
tôi. Ðôi lúc tôi còn tự
nghĩ rằng nếu dì đã cúng
cha tôi chung sống, biết đâu cha tôi
đã không gục ngã.
Kính chúc ông và
bửu quyến an khang, vạn phước.
Hà Mỹ Lệ
* * *
Nếu không phải đi
theo đoàn du khách, Quân còn đứng
lại để nhìn bức tranh mà
dù bước qua trái hay phải, vẫn
thấy mông những con ngựa xoay theo
tầm nhìn của mình.
Trước khi lái xe trở
lại thành phố, Quân còn quay lại
ngắm tòa lâu đài nổi bật
trên nền trời xanh với một
giải mây vàng, nhộm ánh nắng
tà ngời sáng long lanh, hắt xuống
ngọn tháp chính giữa. Thế giới
này thiệt là gần, trong tòa lâu
đài tại một thành phố ở
Bắc Mỹ, lại có họa phẩm có
xuất xứ từ bán đảo
Ðài Loan: Bức Tranh Bách Mã.
Quân đã từng có một ấn
bản như thế tại nhà mình, với
câu chuyện một cô gái muốn Cha
mình có hạnh phúc sau khi Mẹ cô
không còn nữa.
Vì như cô đã
tâm sự với tôi: hạnh phúc
của Ông cũng chính là hạnh phúc
của Cô.
VILAS MANIVAT * SÚNG ĐÂU AI CẦN ĐÂU
Súng, đâu ai cần đâu?
Vilas Manivat
Nguyễn Văn Sâm chuyển ngữ
Nguyễn Văn Sâm chuyển ngữ
Nai
Phan là người nỗi tiếng trong xóm. Không phải vì ông là vũ công chân
múa nhẹ như bụi đường, cũng không phải vì ông xả thân vào lảnh vực chánh
trị hay trường văn trận bút. Có lẽ ông nỗi tiếng nhờ có tài xào nấu cơm
chiên ngon lành, nhưng ngay cả nếu tài kia không hay ho gì mấy, ông
cũng nỗi tiếng như thường, bởi vì ông hay cho khách hàng mua chịu bao
nhiêu cũng được.
Ông thích cho trẻ con kẹo, cho không, không lấy tiền. Dĩ nhiên là bà vợ phàn nàn, nhưng ông trả lời: “đáng giá một hai chục satang thì đâu làm giàu làm có gì được.” Ông Than Khun, một công chức cao cấp sống trong vùng, mỗi khi thèm cà-phê thường biểu con mình: “Lại mua cà-phê đằng tiệm ông Nai Phan, ổng bỏ nhiều sữa. Ổng có nuôi một con bò để lấy sữa đó!”
Ông thích cho trẻ con kẹo, cho không, không lấy tiền. Dĩ nhiên là bà vợ phàn nàn, nhưng ông trả lời: “đáng giá một hai chục satang thì đâu làm giàu làm có gì được.” Ông Than Khun, một công chức cao cấp sống trong vùng, mỗi khi thèm cà-phê thường biểu con mình: “Lại mua cà-phê đằng tiệm ông Nai Phan, ổng bỏ nhiều sữa. Ổng có nuôi một con bò để lấy sữa đó!”
Trong
vùng có một người uống rượu như hủ chìm, hay đến tiệm ngâm nga chuyện
thơ Khun Chang và Khun Phaen; thường thì Nai Phan chú ý lắng nghe. Sau
khi ngâm nga xong, người nghiện rượu xin một ly trà đá. Nai Phan vui
lòng cho ngay, còn thảy thêm một cái bánh để thưởng tài.
Vào
mùa mưa, Nai Phan thường nói với đám học trò con gái: “Mấy cô bé nè, mấy
cháu lội trong bùn đất cực khổ, từ rày về sau có thể xách giày dép đi
chưn không tới tiệm bác, rửa cẳng chưn sạch sẽ rồi hãy mang dép giày.”
Ông ta luôn luôn cho chúng nước để rửa chân bùn đất.
Nhưng hể
tới đúng 8 giờ tối là ông ta đóng cửa tiệm. Bạn bè thường khuyên lơn:
“Anh phải mở cửa ban đêm chớ, đêm bán đắt, chẳng mấy chốc anh sẽ phất
lên làm giàu.”
Nai Phan cười trả lời hóm hỉnh: “Ngủ sớm khoái hơn làm giàu mau!”
Câu
nói động lòng những người giàu hơn Nai Phan, giàu nhưng không bao giờ
thoả mãn với sự giàu sang của mình, vẫn đôn đáo để kiếm chác thêm thêm
mãi.
Người sống trong vùng, buổi tối về nhà sau một ngày chạy
theo lợi nhuận, thấy Nai Phan nằm trên cái ghế dựa, nói nói cười cười
vui vẻ với vợ thì nhủ thầm: “Trông họ hạnh phúc làm sao ấy, khỏi bận bịu
lo lắng chuyện bạc tiền. Họ sung sướng hơn mình thiệt.”
Một
đêm nọ, vợ đi coi hát, Nai Phan ở nhà một mình. Trời đang tối, ông sửa
soạn đóng cửa tiệm thì một người thanh niên chạy xầm vào.
“Thưa, ông cần gì?” Nai Phan hỏi.
Thay
vì trả lời, người lạ mặt rút ra khẩu súng lục, chỉa thẳng vào ngực Nai
Phan. Ông không hiểu chuyện gì, nhưng cảm thấy có điều chi bất ổn.
“Đưa
tiền đây,” người thanh niên nạt bằng giọng cọc cằn thô lỗ, “đưa hết
đây, có bao nhiêu đưa hết. Giết người bây giờ là chuyện quá thường rồi,
thiên hạ bắn nhau như cơm bữa. Nếu tôi giết ông thì cũng không phải là
chuyện lạ, mà nếu ông giết tôi thì cũng chẳng phải là chuyện trời long
đất lỡ gì đó. Vậy thì đưa mau lên đi. Nếu không đưa tiền thì ăn đạn.”
Nai
Phan không run. Ông đứng yên bình tĩnh và nói bằng giọng đối thoại:
“Tôi sẽ đưa anh tiền, nhưng không phải vì cây súng của anh đâu nhé. Tôi
đưa tiền vì hình như anh rất cần tiền. Có thể là cần đến nỗi không có
không được. Đây … Đây… tất cả số tiền tôi có đây. Lấy đi rồi mau về nhà.
Ai biết được? Có thể là mẹ anh đang đau nặng, có thể là bà ta không cơm
cháo gì mấy ngày nay. Về mau đi, có thể là nhiều người đang đợi anh ở
nhà, đang ngóng trông không biết anh có đem tiền về không. Nhiều sinh
mạng đang chờ anh đem tiền về. Tôi sẽ không báo cảnh sát đâu. Có khoảng
chín trăm bạc mặt đây, có thể nhiều hơn chút đỉnh… lấy đi.”
Ông ta để tiền lên bàn nhưng dường như tay súng trẻ không thu đủ can đảm để nhận.
“Tại
sao anh không lấy?” Nai Phan hỏi. “Coi nè, sao tôi lại phải gạt anh
chớ? Tôi biết anh đang gặp khó khăn. Lúc nầy mọi người chúng ta ai cũng
gặp khó khăn hết. Tôi không nghĩ anh là một người tệ. Đâu ai muốn trở
thành trộm cắp nếu có thể sống được như người bình thường. Có thể là cha
anh bịnh tim ngặt nghèo anh phải săn sóc. Đem tiền về chửa trị cho cha
anh đi, nhưng đừng dùng hết cho thuốc men nhe! Tin tôi đi, bác sĩ chữa
được bịnh tật của thân thể nhưng con người cũng cần chữa trị cái thần
trí và tâm hồn nữa. Hãy mua vài đóa hoa thơm. Một bó hoa cho mẹ anh
chưng trên bàn thờ. Đêm nào tôi cũng làm như vậy. Không cần gì phải biết
thiêng thiêng là cái gì, ở đâu. Chỉ cần cảm nhận sự an bình trong tâm
hồn mình là đủ. Niết Bàn là vậy đó. Nhưng mà để súng xuống đi chớ — anh
sẽ cảm thấy thoải mái ngay. Ai cầm súng cầm đạn thì không biết thanh
thản là gì đâu. Sợ hãi, nghi kỵ dày xéo lòng. Cảm thấy nguy hiểm cận kề.
Tay còn cầm súng thì không ai thấy sung sướng được.”
Người
thanh niên bỏ súng vào túi quần, ngoan ngoản như một đứa trẻ. Anh ta đưa
tay lên làm cử chỉ chào giả biệt Nai Phan, con người nỗi tiếng vì món
cơm chiên, cà-phê và lòng hào phóng.
“Tôi thà bắn tôi một phát còn hơn là bắn ông,” anh ta nói.
“Đừng
có nói điên nói khùng nè,” người chủ quán nói trong khi đưa tiền ra cho
người thanh niên. “Tất cả có bao nhiêu đó đó. Của anh đó. Không phải
cho vì giận dữ đâu nhé. Tôi biết là trại giam đầy chật, nhưng không phải
đầy những kẻ tội phạm. Anh cũng là người như tôi, như mọi người khác;
bất cứ ai, ngay cả một thầy tu, cũng làm như vậy thôi, nếu rơi vào cảnh
vô cùng tuyệt vọng.
Người thanh niên ngồi xuống. “Tôi chưa
từng gặp ông và tôi cũng chưa từng gặp ai nói năng như ông. Tôi không
lấy tiền của ông đâu, nhưng tôi bỏ súng đi rồi đó. Bây giờ thì tôi về
nhà với mẹ như ông đã dạy.” Anh ta ho vài tiếng và tiếp tục: “Tôi là đứa
con bất hiếu. Tiền mẹ tôi đưa cho, tôi nướng vào cá ngựa hết, nếu còn
lại chút nào thì lại tiêu vào rượu chè…”
“Nhân sinh là bất
toàn mà, ai cũng lầm lỗi. Đời là gì nếu không phải là một sự pha trộn
những thử nghiệm, lỗi lầm và thất bại?” Nai Phan nói.
“Ông
biết đó, tôi không được khỏe,” người trẻ tuổi tiếp tục. “Ông có nghe
tiếng ho của tôi không? Tôi nghĩ là tôi bị lao rồi. Đáng đời tôi, vì tôi
đã làm nhiều điều quấy. Đáng chết đi càng sớm càng tốt. Không được sống
nữa, sống chỉ chật đất mà thôi. Xin cám ơn ông. Vĩnh biệt ông.”
“Anh
không cần phải đi ngay. Ở lại thêm chút nữa đi, mình nói chuyện. Tôi
muốn muốn biết về anh. Anh ở đâu? Anh thích gì? Tôi muốn nói anh tin
tưởng điều gì?”
Người thanh niên lắc đầu tuyệt vọng. “Tôi
không biết bây giờ mình về đâu nữa. Tôi có thể về đâu nữa chớ? Tôi tin
tưởng gì à? Không biết nữa. Dường như trên đời nầy không có gì đáng để
tin tưởng hết. Tôi ở trong tình huống khốn khổ ngay từ lúc mới sanh ra
đời. Bởi vậy không lấy làm lạ là tôi không thích bà con cật ruột. Lắm
khi tôi nghĩ rằng mọi người đều có trách nhiệm về điều không may của
tôi. Tôi không muốn kết bè kết bạn. Tôi không tin tưởng ai hết. Tôi ghét
cách người ta nói chuyện với nhau, cách họ sống, cách họ thương yêu,
cách họ khen ngợi, cách họ cười cợt…”
Nai Phan gật đầu biểu đồng tình. “Ai cũng thỉnh thoảng có những tình cảm như vậy.”
“Ông
tin không nè? Tôi không còn thích bất cứ thứ gì nữa. Tôi chán hết mọi
thứ. Cả thế gian nầy như hư vô đối với tôi. Vô sắc, không có thứ gì để
con người bám víu vào hay để thiết tha. Nếu thật sự tôi muốn làm việc,
tôi nghĩ là có thể tìm được việc. Nhưng tôi ghét thấy con người một cách
thậm tệ, tôi không muốn nhận một ân huệ gì từ con người. Ở công việc
nầy một tuần, sang công việc kia hai ba tuần — Tôi không trụ ở đâu lâu
hết.”
“Anh có đọc sách không?”
“Trước đây thì có.
Nhưng bỏ rồi. Bây giờ cũng không thèm đọc báo nữa? Đọc để làm gì chớ?
Tôi biết rõ những gì đăng trong đó mà. Toàn chuyện bắn nhau, cướp giật,
giết người. Khác là thay đổi tên người tên đất, nhưng chuyện thì cũng
vậy thôi.”
Người thanh niên chà chà cằm mình rồi nhìn Nai Phan
nheo nheo mắt nghĩ ngợi. “May cho ông, ông không biểu lộ chút gì sợ hãi
hay giận dữ khi tôi chỉa súng đe dọa. Nếu không thì tôi đã giết ông
rồi. Đời nầy đầy rẫy người biểu lộ sự giận dữ, những người có tâm hồn hạ
tiện ấy mà, họ luôn luôn mở miệng kêu gào rằng nền văn minh nầy và nền
luân lý nầy đang băng hoại. Tôi không tin điều đó. Tôi không tin rằng vì
có cả trăm, cả ngàn người làm bậy thì tất cả mọi người khác phải làm
bậy theo. Bây giờ thì tôi biết rằng mình đến đây không phải vì tiền mà
vì muốn chứng minh cho chính tôi rằng mình tin tưởng đúng.
Tôi thường
nghĩ rằng mặc dầu thế giới nầy đã mất hết hi vọng và đang chìm xuống vực
thẳm không đáy tuyệt cùng, đang bị làm cho dơ dáy và hư hoại do tội lỗi
của con người, vẫn có thể còn ít nhứt là một người, là người không phải
vì ông ta giống con người mà vì là một con người thật sự đúng nghĩa của
nó. Người nầy phải biết cách thương yêu đồng loại, phải biết làm sao để
được kính trọng. Nhưng tôi đã không thể tin tưởng như vậy vì chưa bao
giờ được gặp một người như vậy. Biết bao nhiêu năm trời nay tôi ao ước,
xin cho tôi được gặp một người không xấu xa bỉ ổi vì thế giới nầy xấu xa
bỉ ổi; gặp để tôi tin tưởng rằng vẫn còn có sự tốt, sự thiện, để tôi có
đủ nghị lực tiếp tục sống. Bây giờ thì tôi đã gặp được người đó. Ông đã
cho tôi tất cả những gì tôi mong muốn rồi. Không còn gì cần phải cho
thêm nữa. Tôi về nhà đây. Chắc chắn trong trí tôi tôi sẽ không thù ghét
thế giới nầy nữa. Sau cùng tôi đã khám phá ra cách sống mà tôi mong
muốn.”
Người thanh niên lạ mặt duờng như vui hơn. Anh ta đứng
dậy dợm bước đi, rồi, nhớ lại, anh rút cây súng ra, đưa cho người chủ
quán.
“Xin nhận vật nầy. Tôi không còn cần nó nữa. Đó là dấu
hiệu của sự hung hăng. Người nào cầm súng thì không còn ưa ai, không còn
trọng ai nữa. Anh ta chỉ trọng cây súng mà thôi. Bọn cướp có thể sống
bằng súng, nhưng cuộc sống của họ luôn luôn bị quấy động vì nghĩ rằng kẻ
thù có thể tấn kích bất ngờ. Họ không bao giờ có thì giờ ngắm mặt trời
chiều hay ca hát vẩn vơ. Khi mà con người không có thời giờ để ca hát
vẩn vơ, thì thà là làm một con dế mèn hay một con sáo sậu còn hơn.”
Tay
súng mỉm cười sung sướng. Khi vẩy tay chào từ giã, anh nói thêm: “Tôi
sẽ trở lại để thăm ông, nhưng đừng để tôi thấy cây súng nữa. Súng là kẻ
thù của cuộc sống thuần khiết. Chào.”
Người lạ mặt biến mất
trong màn đêm. Người chủ tiệm cúi đầu xuống quan sát vật mình mới có.
Ông nghĩ ngày mai mình sẽ bán nó đi. Ông đang rất cần một cái máy lọc
cà-phê.
Vilas Manivat
Nguyễn Văn Sâm chuyển ngữ từ bản tiếng Anh Who needs it? trong Short Story International
Nguyễn Văn Sâm chuyển ngữ từ bản tiếng Anh Who needs it? trong Short Story International
@Diễn Đàn Người Dân Việt Nam
TRẦN MỘNG TÚ * CON MÈO CÔ ĐƠN
CON MÈO CÔ ĐƠN
Con mèo nằm ngoài sân
Cô đơn đùa với nắng
Tôi bên trong cửa kính
Cô đơn ngắm con mèo
Cỏ mầu xanh ngọc thạch
Chiếc lưng trắng quay tròn
Nắng lung linh từng giọt
Mèo xoay quanh nỗi buồn
Tôi nhìn tôi trên kính
Chiếc bóng mờ vết loang
Cửa hôn nhân khép chặt
Giam tôi rất nhẹ nhàng
Mèo có góc sân cỏ
Tôi có khung kính mờ
Hai ta cùng bé nhỏ
Niềm cô đơn vô bờ
Mèo ơi phơi trong nắng
Khô hộ tôi nỗi buồn
Quê xưa, người tình cũ
Vẫn ướt sũng trong hồn.
1980
THƠ HÀ THÚC SINH
Hà Thúc Sinh
Thơ làm khi còn trẻ
Mạnh mẽ hồn rung động
Mạnh mẽ ôi tứ chi
Quả rừng và nước suối
Hiểu thấu lời sơn khê
Một ngày hay một kiếp
Sức sống vẫn ê hề
Cơm nắm làm mấy nắm
Nắng sớm hay sương khuya
Nước lã làm một bụng
Cười một nụ hả hê
Ồ một nụ hả hê
Khanh tướng hề vất vả
Áo mũ hề lu bu
Thiên nhiên hề thú vị
Ðời việc đếch gì lo
Khát khao miệng lưỡi người
Xác ta như hoa nhỏ
Thèm lắm bàn tay ai
Hãy nếm đi người ơi
Lòng hoa ta có mật
Hãy hái đi người ơi
Kẻo thu đời lẩn khuất
Trí ta không biên cương
Hồn ta không một chỗ
Mẹ đẻ lầm hư không
Mẹ đẻ lầm hạt sương
Ôi hạt sương bé mọn
Lơ đãng dưới vườn hồng
Mà nghìn năm nhân loại
Chứa không nổi trong lòng
Hà Thúc Sinh
Thơ làm khi còn trẻ
Kẻ lùa bò
Mạnh mẽ tai lắng ngheMạnh mẽ hồn rung động
Mạnh mẽ ôi tứ chi
Quả rừng và nước suối
Hiểu thấu lời sơn khê
Một ngày hay một kiếp
Sức sống vẫn ê hề
Cơm nắm làm mấy nắm
Nắng sớm hay sương khuya
Nước lã làm một bụng
Cười một nụ hả hê
Ồ một nụ hả hê
Khanh tướng hề vất vả
Áo mũ hề lu bu
Thiên nhiên hề thú vị
Ðời việc đếch gì lo
Bài ca cung hiến
Hồn ta như giọt mậtKhát khao miệng lưỡi người
Xác ta như hoa nhỏ
Thèm lắm bàn tay ai
Hãy nếm đi người ơi
Lòng hoa ta có mật
Hãy hái đi người ơi
Kẻo thu đời lẩn khuất
Mẹ đẻ lầm
Mộng ta không giới hạnTrí ta không biên cương
Hồn ta không một chỗ
Mẹ đẻ lầm hư không
Mẹ đẻ lầm hạt sương
Ôi hạt sương bé mọn
Lơ đãng dưới vườn hồng
Mà nghìn năm nhân loại
Chứa không nổi trong lòng
Hà Thúc Sinh
QUÊ CHOA * CHIỀU THỨ BẢY
Chiều Thứ Bảy
Sẽ
rất khó khăn để viết cho trọn vẹn chủ đề này, đó là một câu chuyện dài
của báo chí Việt Nam hiện tại. Chỉ đơn giản, kể và phân tích một vài câu
chuyện, dưới góc nhìn cá nhân.
Tôi ít khi đọc báo, cả báo
giấy và báo mạng. Sự thật là báo chí Việt Nam đã làm tôi thấy ngán, một
cảm giác ngầy ngậy nơi cổ họng khi đọc tiếng nước mình.
Nếu cho tôi là người lạc hậu, tôi sẵn sàng chấp nhận, sẵn sàng chậm nắm
bắt thông tin, hơn là phải đọc báo. Không phải chụp mũ tất cả, nhưng
với cảm nhận cá nhân, tôi cảm thấy mình bình yên hơn nếu không có báo
chí.
Ngày xưa, nhà tôi ở một vùng
quê hẻo lánh, không điện thoại, không sách báo. Mỗi lần muốn đọc báo,
tôi phải đạp xe ra bưu điện xã, coi đi coi lại mấy tờ báo cũ, nhưng mê.
Tuổi thơ của tôi là thế, nắm bắt thông tin qua tờ báo gói xôi của mẹ,
qua mảnh báo gói bánh mì của cha. Một chữ cũng là tin tức, cũng là niềm
vui.
Vậy mà giờ đây, khi có đủ điều
kiện, khi có thể tiếp xúc với đủ loại báo đài, tôi lại cảm thấy “dị
ứng”. Báo bây giờ cẩu thả đến từng con chữ. Không biết từ khi nào chuyện
sai chính tả, viết câu lủng củng, lặp ý, lặp từ… đã trở thành cái lẽ dĩ
nhiên. Xót xa thay cho những người buôn chữ kiếm lời. Ngay cả con chữ
cũng không tròn trịa, liệu hỏi còn thiết tha gì với cái nội dung. Một
lần, tôi đọc một tin trên trang NĐT, tin không dài nhưng sai chính tả
đến nực cười. Tôi góp ý, thế là nhà báo sửa lại, nhưng chẳng thấy cái
góp ý của tôi hiện lên. Tôi cũng chẳng cần phải hiện, biết sai biết sửa
là tốt. Nhưng không thể phủ nhận một sự thật về tính cẩu thả của người
làm báo, không thể phủ nhận một sự thật về tính cố chấp của người làm
báo.
Báo chí bây giờ lắm tin giật
gân. Tờ báo sẽ trở nên “xấu xí” nếu thiếu một cái tít lộ hàng, tụt váy,
sao đua đòi, đại gia chịu chơi… Tôi tự hỏi, báo đang làm gì? Báo có đang
sống với hiện thực, hay đang chạy giựt giựt theo những kẻ dị hợm, sao
nọ, trăng kia? Gần 90 triệu dân ta có được mấy người làm sao, giàu có?
Cũng từng đó người có mấy ai được cái quyền tụt váy, sốc hàng? Có khi
nào báo ta tự hỏi, ta đang ru dân ta đến giấc ngủ nào? Những thứ ảo đang
dần dần được dựng lên, danh vọng ảo, tiền tài ảo… nhờ báo chí. Khen
cũng báo, chê cũng báo. Ta nên hiểu báo đa chiều ngôn luận hay báo nhiều
mặt ngôn luận?
Gần đây, lại lùm xùm việc tờ
báo nào “cải hóa” hơn tờ báo nào. Đọc báo này đến báo kia, nghe báo này
phê phán báo kia, buồn cười đến chảy nước mắt. Đọc cái tit trên NĐT, tôi
nghe sao nó “đạo đức” đến thán phục, rồi bỗng thấy vỡ òa đến đáng sợ
với một sự “giả” nực cười. Tôi hiểu sao NĐT lại viết bài phê bình như
thế, đơn giản, vì trước đó vừa mới bị PN và LĐ phê bình. Có tật giật
mình, ai cũng biết tính chất “cây lá” của tờ báo, với những cái tít giật
gân sặc mùi, chỉ có cái gọi là “nhóm PV” thì chưa biết thôi. Cũng đúng,
vì họ chính là những người đang tạo nên khu vườn cây lá đó. Cứ tưởng
chỉ có hàng rau, hàng cá, các bà, các chị ngoài chợ mới có tính sân si.
Đến nay tôi mới biết báo chí cũng sân si không kém. Ờ cũng phải, báo chí
cũng đã chuyển qua bán rau cả rồi, thứ rau lắm sâu, nhiều mọt…
Khi cái thực bị cho là tầm
thường, cái dị hợm được coi là quý giá, có lẽ không mấy chốc nữa thì mọi
giá trị cũng bị bóp méo, lệch lạc. Báo chí vẫn ngày ngày nhồi nhét vào
đầu người dân những chuyện “thiên đường”, tạo cho dân những ước mộng đầy
tính “huyền bí”, và ru dân trong giấc ngủ “lạc hướng”. Tự hỏi, mùa này sao rau cải rẻ thế?
Tác giả gửi Quê choa
QUÊ CHOA
DŨNG HÀ * ODA
Dũng Hà
Thời
gian có lẽ đã quá đủ, không phải cho lời hô hào chống tham nhũng hay
những hội nghị hoặc bàn tròn về việc rút kinh nghiệm. Cái đủ đó chỉ đến
khi người ta nhận ra rằng một đất nước vẫn có thể tồn tại và phát triển
mà không cần đến ODA, nhất là khi đất nước ấy chưa có gì bảo đảm để
chính thức chấm dứt nạn tham nhũng.
”Tình trạng tham nhũng ở Việt Nam đã đến mức báo động,
các nhà tài trợ đang trông chờ những hành động cụ thể từ Chính phủ. Vốn
ODA trong giai đoạn mới sẽ phụ thuộc vào hành động thực tế đó của Việt
Nam” – Đó là thông điệp chính từ các nhà tài trợ cho Việt Nam tại Hội
nghị giữa kỳ nhóm tư vấn các nhà tài trợ diễn ra cách đây đúng 6 năm,
vào ngày 9/6/2006 tại Nha Trang.
Hội nghị trên diễn ra ngay sau
khi vụ tham nhũng PMU 18 bị phát giác. Cũng trong hội nghị này, trong
khi bà Anna Lindstedt – đại sứ Thụy Điển tại Việt Nam, nhấn mạnh rằng
một trong những biện pháp chống tham nhũng hiệu quả là công khai, minh
bạch thông tin cho báo chí, thì báo chí lại không được tiếp cận ngay cả
khu vực hành lang trước phòng hội nghị…
Đã tròn 6 năm lặng tắt kể từ sự
kiện sóng gió PMU18. Trong 6 năm ấy, không biết nhận định “Việt Nam là
một trong những nước sử dụng vốn ODA hiệu quả nhất” đã được thực chứng
như thế nào, chỉ biết rằng đã không có thêm bất kỳ một vụ scandal nào về
ODA được lộ ra từ phía cơ quan chức năng Việt Nam. Có chăng, chỉ là vài
“con sâu” như PCI – đại lộ Đông Tây xảy ra vào năm 2008 và mới đây nhất
là câu chuyện người Đan Mạch đã quyết định dừng 3 dự án ODA viện trợ
cho Việt Nam. Và những vụ việc ấy, đều chỉ được biết đến và làm rõ từ
những người mang quốc tịch nước ngoài.
Một lần nữa, thể diện quốc gia
lại bị đe dọa. Một lần nữa, ODA lại không hoàn thành chức trách nhiệm vụ
đối với các nhu cầu sử dụng bức thiết ở Việt Nam, khi nguồn tài trợ này
có nguy cơ bị xem xét lại – từ phía những cơ quan viện trợ quốc tế đang
phải chịu búa rìu dư luận của những người dân có trách nhiệm đóng thuế
cho chính phủ.
Từ năm 2006, khi vụ án PMU 18 nổ
ra với hệ thống chứng cứ do phía Nhật Bản cung cấp, người ta đã phải
nêu lại một triết lý then chốt và phù hợp nhất với nền tảng đạo lý: ODA
không phải là tiền từ trên trời rơi xuống, mà đó là tiền đóng thuế của
người dân các nước phát triển để dành cho người dân các nước đang và kém
phát triển. Vì thế đương nhiên mối quan hệ giao tiếp về ODA không chỉ
là giữa các chính phủ với nhau, mà thực chất nhất, đó chính là mối quan
hệ trực tiếp giữa các cộng đồng nhân dân của các quốc gia. Chính người
dân mới là đối tượng thụ hưởng và có toàn quyền kiểm soát đối với việc
tiếp nhận và sử dụng nguồn tài trợ này.
Thế nhưng thực tế tiếp nhận và
quản lý, sử dụng nguồn viện trợ ODA ở Việt Nam lại không có sự tham gia
của các hội đoàn nhân dân. Ngay cả đại biểu Quốc hội – những người có
chức trách đại diện cho cộng đồng nhân dân, cũng chỉ được biết đến kết
quả sử dụng ODA qua các báo cáo, trong các cuộc họp thường kỳ.
Nhận thức thế nào thì hành xử
thế đó. Thực tế quản lý vốn ODA đã chỉ được xếp khá xa sau phần hành
quản lý vốn ngân sách. Hệ quả là đất nước phải trả giá với những hiện
tượng “chi tiêu sai mục đích”… như thông tin về các dự án mà Đan Mạch
tài trợ.
Điều khác là, lần này, DANIDA đã
có riêng cho mình một cơ quan kiểm toán. Kết quả mà cơ quan kiểm toán
công bố với dư luận quốc tế và xã hội Việt Nam đã nêu bằng chứng cho
những đồn đoán trước đó về thất thoát trong ODA: trong số 49 tỷ dồng mà
dự án ODA chuyển cho phía Việt Nam, có đến 11 tỷ đã “bốc hơi”, chiếm đến
23%.
Cái giá của tham nhũng
Phía
trước, con đường của ODA vẫn còn dài, và có thể còn quá đậm đà cho
những ai quan tâm đến nó theo chiều kích “miếng ăn không phải là miếng
nhục”.
Trong năm 2012, vẫn còn hơn 7 tỷ
USD mà các đối tác nước ngoài đã cam kết giải ngân ODA cho Việt Nam. Xa
hơn nữa về những năm tới, con số giải ngân còn có thể lên tới 20-30 tỷ
USD, gần bằng một phần ba toàn bộ GDP của Việt Nam.
Nhưng ODA, như điều đã được mô tả
là “cái giá của sự phát triển”, lại bao gồm một phần rất lớn – 90% hoặc
hơn – là vốn cho vay chứ không phải là vốn viện trợ không hoàn lại.
Cuộc chơi rút ruột nguồn vốn này sẽ để lại một món nợ tiềm tàng, từ đời
này sang đời khác và trong không biết bao nhiêu năm nữa, cho con cháu
của họ.
Đó chính là cái giá của tham nhũng.
Ở phía trước, vẫn còn không ít
công trình giao thông sử dụng vốn ODA khủng như dự án Đường cao tốc
TP.HCM – Long Thành – Dầu Giây, dự án Đường cao tốc Hà Nội – Lào Cai, dự
án Đường cao tốc Bến Lức – Long Thành, dự án xây dựng Đường cao tốc Hà
Nội – Thái Nguyên, dự án xây dựng Đường vành đai III Hà Nội giai đoạn 2.
Mỗi dự án đó đều tương đương đến từ 5.000 đến 10.000 tỷ đồng hoặc hơn
thế…
Thời gian có lẽ đã quá đủ, không
phải cho lời hô hào chống tham nhũng hay những hội nghị hoặc bàn tròn
về việc rút kinh nghiệm. Cái đủ đó chỉ đến khi người ta nhận ra rằng một
đất nước vẫn có thể tồn tại và phát triển mà không cần đến ODA, nhất là
khi đất nước ấy chưa có gì bảo đảm để chính thức chấm dứt nạn tham
nhũng.
Rate this:
CHÂU TRỌNG NGÔ * GIÁO DỤC
GIÁO
DỤC VÀ GIÁO DỤC PHẬT GIÁO[*]
Châu
Trọng Ngô
Vấn đề ô nhiễm
môi trường đang là một đại nạn đe dọa sự sống trên toàn cầu. Lo âu của rất
nhiều quốc gia không phải chỉ dính líu đến việc khai thác bừa bãi các khoáng
sản, các nguồn nước ngầm, đã gây nên biến động khôn lường về thời tiết, đưa đến
nhiều tai họa long trời lở đất. Cũng không phải chỉ tập trung vào các chất độc
được thải vào không khí, vào lòng đất và vào các nguồn nước gây nên nhiều dịch
bệnh lạ kỳ. Thật ra xã hội loài người đang còn khắc khoải lo âu về chính con người, một thành phần chính và cao
cấp nhất của thiên nhiên cạnh cỏ cây, núi rừng, sông lạch, cầm thú chim muông.
Nguy cơ ấy đã lên tột độ khi chính sinh mạng của mình đã được hủy diệt trong
các cuộc khủng bố tự sát, lắm khi không phải để chống lại kình địch mà lại hãm
hại chính đồng bào của mình.
Một hiện tượng khác đang phá hoại cư
dân của nhiều nước hơn là thảm họa khủng bố. Đó là lề thói gian tham đang gây
nên nhiều hậu quả nghiêm trọng đối với sức khỏe và sinh mạng của người khác khi
sản xuất và kinh doanh quá nhiều mặt hàng có chứa chất độc, tệ hại nhất là các
đông, tây y dược dõm và các loại thực phẩm hằng ngày lắm khi đã hư thối được
chế biến lại một cách tinh vi.
Để chỉ nói về đất nước ta thôi thì
điều đau buồn hơn cả là sự băng hoại đạo lý dường như chưa được để ý tới về
tình người. Bạo lực học đường có cả nữ sinh tham gia, có trường hợp dẫn đến
chết người mà thủ phạm chỉ là một cháu gái đang học cấp II chưa tròn 15 tuổi.
Bạo hành trong gia đình thì không chừa tuổi thơ dại. Các báo hằng ngày đã đưa
tin mẹ nguyền rủa đánh đập con hằng bữa, bố hành hạ con liên hồi. Thật là hiểu
hết nổi khi nghe chuyện người mẹ nỡ nhẫn tâm đầu độc hai con còn bé bỏng, tỉnh
táo bỏ hai thi hài vào thùng giấy đem quăng ở bìa rừng; bố thì rưới xăng vào mình
con rồi châm lửa đốt. Ngay tại trường học mà cũng có cảnh lạ đời chưa từng
thấy: chị bảo mẫu dùng băng keo dán miệng cháu bé để khỏi nghe tiếng khóc; cô
giáo thì cầm dao kề cổ học trò, bảo để răn dạy. Phải chăng những cảnh đau lòng
đó là sự nối dài của thảm cảnh ruồng bỏ thai nhi một cách không thương tiếc.
Con người hiện đang bị ô nhiễm nặng
về tâm thức. Điều dễ sợ nhất hiện nay là con người trở nên hung dữ quá mức đến
nỗi một chút chi không vừa ý cũng phải giải quyết bằng dao găm và mã tấu, dẫn
tới cảnh chém giết nhau hằng ngày hằng buổi. Mới đây, một vị nữ đại biểu Quốc
Hội cho biết: “Ngày trước, ra đường đi vào nơi vắng vẻ thì hơi lo ngại; hoặc ra
phố ban đêm mà phải vào ngỏ tối thì có sợ. Nay chỉ ngồi ở nhà thôi mà cũng đã
lo sợ rồi!” Thêm vào đó, có quá nhiều vụ cướp giật, có khi khổ chủ đã mất mạng
lại chỉ là đàn bà hay con trẻ. Thủ phạm giết người có khi còn quá trẻ, tuy trẻ
nhưng đã được phương tiện truyền thông hiện nay cung cấp hiểu biết sự đời trở
thành lớn trước tuổi. Có lẽ độ thành niên 18 tuổi ngày xưa nay chỉ còn 15 tuổi.
Ở đây, chúng ta không khảo sát con
người một cách quá bao quát; đó là những nghiên cứu đã có từ nhiều thời đại và
trong nhiều nước về nhân bản luận, về lý thuyết nhân tính. Để chỉ hướng tới
việc góp ý về giáo dục, có lẽ chúng ta chỉ đề cập đến hai khía cạnh tốt và xấu
nơi con người, cụ thể là con người Việt Nam. Cách đây mấy chục năm, nhà văn Vũ
Hạnh đã tổng kết tinh hoa của người Việt Nam trong tác phẩm “Người Việt Cao
Quí”. Cách đây không lâu cả hai mặt tốt và xấu được nhà xuất bản Thanh Niên -
Báo Tiền Phong tập hợp trong một tác phẩm nhan đề “Người Việt Phẩm Chất &
Thói hư - Tật xấu”.
Nói chung về tính
người, xã hội ta không lạ gì với những lời dạy.
“Thường
người như thể thương thân”
Hoặc như câu “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” mà điều thứ nhất trong
Ngũ giới đã ghi một cách cụ thể “làm người ai cũng tham sống sợ chết, vậy chớ giết và chớ bảo giết”.
Ngũ giới đã ghi một cách cụ thể “làm người ai cũng tham sống sợ chết, vậy chớ giết và chớ bảo giết”.
Nếu cần đề cập tới tính tình người
Việt, ta có thể chắt lọc tốt xấu từ những nhận định đã có, ví dụ từ cuốn “Việt
Nam sử lược” trong đó cụ Trần Trọng Kim đã viết:
“Về đàng trí tuệ và tính tình, thì người Việt
Nam có cả tính tốt và các tính xấu. Đại khái thì trí tuệ minh mẫn, học chóng
hiểu, khéo chân tay, nhiều người sáng dạ, nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng
sự học thức, quí sự lễ phép, mến điều đạo đức: lấy sự nhân, nghĩa, lễ, trí, tín
làm năm đạo thường cho sự ăn ở. Tuy vậy, vẫn hay có tính tinh vặt, cũng có khi
quỉ quyệt, và hay bài bác nhạo chế.
Thường thì nhút nhát hay khiếp sợ và muốn sự hòa bình, nhưng mà đã đi trận mạc
thì cũng có can đảm, biết giữ kỷ luật. Tâm địa thì nông nổi, hay làm liều,
không kiên nhẫn, hay khoe khoang và ưa trương hoàng bề ngoài, hiếu danh vọng,
thích chơi bời, mê cờ bạc. Hay tin ma quỉ, sùng sự lễ bái, nhưng mà vẫn không
nhiệt tín tôn giáo nào cả. Kiêu ngạo và hay nói khoác, nhưng có lòng nhân, biết
thương người và hay nhớ ơn. Đàn bà thì hay làm lụng và đảm đang, khéo chân khéo
tay, làm được đủ mọi việc mà lại biết lấy việc gia đạo làm trọng, hết lòng
chiều chồng, nuôi con, thường giữ được các đức tính rất quí là tiết, nghĩa, cần
kiệm. Người Việt Nam từ Bắc chí Nam, đều theo một phong tục, nói môt thứ tiếng,
cùng giữ một kỳ niệm, thật là cái tính đẳng nhất của một dân tộc từ đầu nước
đến cuối nước.”
Hoặc từ nhận xét của nhà sử học Lê
Tắc về những đặc điểm của người Việt trong tác phẩm “An Nam chí lược”:
“Đàn ông lo
đi làm ruộng, đi buôn, đàn bà nuôi tằm, dệt vải. Cách nói phô hiền hòa, ít lòng
ham muốn. Người ở khác xứ trôi nổi đến nước họ, họ hay hỏi thăm, ấy là tình
thương của họ. Người sinh ra ở Giao Châu và Ái Châu (từ Thanh Hóa trở ra) thì
rộng rãi, có mưu trí, người Châu Hoan, Châu Diễn (Nghệ An - Hà Tĩnh) thì tuấn
tú ham học, dư nữa thì khờ dại, thật thà...”
Có lẽ cũng nên nhắc lại ở đây vài
nhận xét về người Việt của ông Pierre PASQUIER, Toàn quyền Đông Dương thời
Pháp. Trong cuốn “Nước Nam xưa” do ông biên soạn, có đoạn:
“Cái dân tộc
nhỏ bé gầy còm ấy, không dễ gì cai trị đâu, súng ống, sức mạnh không làm cho họ
sợ hãi đâu”.
Ông cũng ca tụng và chứng minh luật
pháp cổ nước Nam văn minh lắm:
“Có điều vị
tất các nước Thái Tây đã theo kịp. Người An Nam cho hình phạt là một cách chuộc
tội, chuộc rồi mới sạch tội, người Tây cho là một vết ô nhục, dù chịu tôi cũng
không bao giờ rửa sạch; so sánh hai đằng (Tây và Nam) đằng nào có ý cao thượng
hồn hậu? (L’Annam d’autrefois, trang 92. Bản dịch của Phạm Quỳnh” Nước Nam đời
xưa”, Nam Phong tạp chí số 45).
Trong một bài thuyết giảng cho công
chức Pháp ở Bắc kỳ và Trung kỳ, ông Pierre PASQUIER đã nhắn nhủ:
“Cai trị
giống dân An Nam gầy còm này, phải khôn khéo ứng xử lắm, không thì họ cười cho
đó. Khi họ chống chúng ta bằng những châm biếm, cười cợt thì hãy chuẩn bị va li
mà chuồn về nước!”.
Nếu muốn trở về
xa xưa, mong nắm bắt được chút ít bản sắc dân tộc để hy vọng cái cảnh “Lặp di lặp lại trong một ngàn năm trước
đây” không còn cơ hội tái diễn được, ta có thể dùng đoạn văn trong tờ sớ do
Hoài Nam Vương Lưu Ân dâng lên Vua nhà Hán. Trong sách “Suy nghĩ về Văn hóa
Giáo dục Việt Nam” (Nhà xuất bản Trẻ - năm 2000), nhà giáo dục Dương Thiệu Tống
đã trích dẫn các nhận xét của Lưu Ân về bản sắc dân tộc Lạc Việt ở hai trang 79
và 80:
“(1) Nước Việt là đất không thể xâm lăng được
(đất ấy không thể ở được), dân ấy không thể sai khiến được (dân ấy không thể
chăn được).
(2) Không
thể đem văn hóa, pháp luật của nước lớn để áp đặt được (không thể lấy pháp độ
của nước đội mũ mang đai mà trị được).
(3) Người
Việt có niềm tự hào dân tộc nên từ lâu đã có thái độ khinh bạc đối với dân tộc
“đội mũ mang đai”.
(4) Người Việt biết cân nhắc đúng đắn quan niệm dân tộc, rộng rãi với
quyền lợi đất nước cho nên lúc thì họ hòa hoãn chịu nhượng bộ người Hán, lúc
thì quay mũi dáo chống lại họ, vì vậy mới bị coi là tráo trở.”
Cũng liên quan đến bản sắc dân tộc
khi ta để ý đến từ người với ý nghĩa
rất tổng quát dùng trong ngôn ngữ Việt Nam: từ người luôn luôn đứng trước địa
danh để chỉ người của một vùng hay một nước.
Ví dụ: người Huế, người Nam bộ,
người Đức
Trong lúc đó, cùng một ý định như nhau, ngôn ngữ nước
khác lại ghi:
Chinese, Italian,
African (Tiếng Anh)
Laotien, Japonais,
Suédois (Tiếng Pháp)
Những tiếp vĩ ngữ
ese, an, ien... trên đây cũng như chữ nhân (人) ở tiếng Quan Thoại luôn luôn đứng sau tên nước trong lúc ở
Việt Ngữ từ người lại đứng trước. Có lẽ đó là một biểu tượng nhắc mọi người
Việt chúng ta phải nhớ rằng muốn là người Việt thì đầu tiên hết anh phải là
người đã, sau đó mới có thể là người Việt và nếu muốn thì sau nữa mới có thể là
người Việt có niềm tin này hay tôn giáo nọ. Đó là một nét độc đáo minh chứng
cha ông ta đã có một nếp sống hiếu hòa, thương yêu đồng loại, thể hiện được
tính người (và từ đó tình người):
“Bầu
ơi thương lấy bí cùng
Tuy
rằng khác giống nhưng chung một giàn”
Ý đó đã được nhiều nước ghi vào phần
mở đầu của Hiến pháp “Mọi người sinh ra
đều bình đẳng” hoặc ý đó cũng đã được chứa đựng trong lời Phật dạy:
“Cùng là
người thì sống không phân biệt vì máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn”.
Những ai hành xử thiếu chất người
thì Tiếng Việt không dùng từ người mà lại thay vào đó những từ có ý chê bai
trách móc như tên, kẻ, bọn, bè lũ tùy theo trường hợp cá nhân hay băng nhóm:
tên cướp, kẻ trộm, bọn côn đồ, bè lũ tham quan ô lại...
Đối chiếu tính người giữa xưa và
nay, rõ ràng ta phải khiếp sợ những gì con người ngày nay đang bị ô nhiễm. Là
vai chính trong quần thể môi sinh, con người, nói rõ ra là mỗi người đều phải
gấp rút tự uốn nắn trở lại trong sự nỗ lực chung của toàn thể xã hội để lần hồi
dứt được dịch bệnh “đạo lý suy đồi” do vi-rút “tham ác” gây nên. Nếu không thì
sẽ là một nguy cơ lớn trong mỗi nước để dễ lan rộng ra cả toàn cầu. Điều này đã
gây buồn lo rất nhiều cho “Tấm lòng Việt Nam” mà hai trích dẫn dưới đây đã mạnh
dạn đề cập đúng chỗ cần chữa trị ưu tiên.
Ở trang 64 thời báo Kinh Tế Sài Gòn,
số ra ngày 15/05/2008,
tác giả Vương Trí Nhàn đã buồn phiền kêu than trong bài viết “Tội làm hư dân”:
tác giả Vương Trí Nhàn đã buồn phiền kêu than trong bài viết “Tội làm hư dân”:
“Trời ơi!
Con người đô thị bây giờ càn rỡ và bất nhân ngoài sức tưởng tượng!”
Dòng suy cảm của tác giả đành phải
chạm vào sự thật không thể làm ngơ theo chiều hướng thương cảm nhìn nhận những
kẻ phạm pháp chỉ là những nạn nhân hay bệnh nhân của căn bệnh thời đại:
“...Trong
phần lớn trường hợp, tình trạng dân hư liên quan tới hiện tượng nhức nhối là
chuyện cán bộ kiếm chác vô nguyên tắc, tư lợi vô cảm, gộp chung là thoái hóa
biến chất. Đáng lẽ phải gương mẫu tuân thủ pháp luật thì họ lại tự đặt mình cao
hơn luật, phá luật để trục lợi.
Trước mặt người dân lúc ấy, lý tưởng như bị xúc phạm. Người ta không thể
thờ ơ và dễ bảo mãi. Về mặt triết học có thể bảo con người bắt đầu rơi vào hư
vô. Chúa đã chết rồi! Ai muốn làm gì thì làm ! Bởi cảm thấy trên đời này không
còn cái gì là thiêng liêng, họ rơi vào liều lĩnh phá phách một cách hung hản.
Những cái xấu sẵn có mà bấy lâu họ kìm nén, được lúc vùng lên quẫy lộn. Tự cho
phép mình hư ! Nhìn nhau để yên tâm mà hư ! Khuyến khích nhau hư thêm, càng
đông người hư càng thích ! Sự bùng nổ lúc này là theo lối dây chuyền, không gì
có thể giữ con người lại nữa.”
Trong bài “Tâm địa quỷ-người” đăng ở
nhật báo Thanh Niên ngày 18.01.2008, tác giả CAMERA đã đau xót phân tích đưa
đến một cách hỏi để khẳng định:
“... một sự
bất nhẫn man rợ ở mức không thể nào lý giải... sao xã hội ta lại sản sinh một
thứ người như vậy? Những yếu tố đầu vào nào đã đưa đến những sản phẩm loại ấy ở
đầu ra? Anh ta là chính phẩm hay phế phẩm? Một báo động cực kỳ nguy cấp”.
Để trả lời câu hỏi đó của tác giả
CAMERA có lẽ nguyên do chỉ có thể tìm thấy ở thực trạng: cách đào tạo của một
thời “thân người thành công cụ” đã làm sai lệch thành “thân người chỉ là công cụ” Nay đất nước đã chuyển
qua thời bình gần bốn chục năm rồi mà hình như trong nhiều địa phương các hội
đoàn vẫn dễ dãi chìu theo sức ì của lề thói cũ, lối mòn “xưa bày nay làm”, làm
cho sự sai lệch bị đẩy lên cao khiến “chất người” bị phai mờ dần nơi thân
người, tạo nên một tình trạng xã hội vận hành ngược hướng với những gì mà mục
tiêu giáo dục phải nhắm tới.
Trong một xã hội như thế thì trường
học khó dạy được học trò và ngành giáo dục dễ bị bó tay. Nhận xét này giúp
chúng ta thông cảm với các “triều đại giáo dục” mà bao nhiêu sửa đổi trong thời
gian qua cũng chỉ có tính cách hành chính mà thôi, gần như nặng nề hơn cả là
việc cải cách thi cử sau mỗi mùa thi, chưa hề thấy hé lộ một chút ít ý tưởng gì
về cải cách giáo dục.
Như thế, có lẽ mục tiêu trong nền
giáo dục không thể không nhằm dạy trẻ
nên người. Bởi vậy một nền giáo dục chính thống phải là một nền giáo dục
nhân bản vì chỉ nền giáo dục ấy mới làm cho các nước xích lại gần nhau để có
hòa bình thế giới cũng như mới có thể vực dậy đạo làm người đang suy đồi, tái
tạo an sinh xã hội cho đất nước
*
* *
Lời thỉnh cầu đó khiến chúng ta phải
nghĩ đến quan điểm của Phật giáo về con người khi chúng ta muốn đề cập tới giáo
dục Phật giáo. Cụ thể hơn, nhân tính trong thân người phải được hiểu theo những
điều đức Phật đã dạy.
Tác phẩm “Lý thuyết về nhân tính qua
kinh tạng Pali” ấn bản 1996 của Hòa Thượng Thích Chơn Thiện giúp ta điều đó. Ở
trang 16, Hòa Thượng đã viết:
“...Thế nên con người chẳng là gì khác hơn sự vận hành của mười hai chi
phần Duyên Khởi dẫn đến khổ đau, nếu tâm con người bị tư duy hữu ngã chế ngự.
Nếu tư duy vô ngã, hay sự giác tĩnh Duyên Khởi vận hành thì sự vận hành này sẽ
dẫn đến sự đoạn diệt của mười hai chi phần ấy, hay sự đoạn diệt khổ đau. Bấy
giờ con người xuất hiện là con người của cái nhìn vô ngã về sự vật và của hạnh
phúc trong hiện tại và tại đây”.
Ở trang 59,
Hòa Thượng lại ghi:
“Theo duyên khởi, thế giới hiện tượng là do duyên mà sinh, là vô ngã và
rỗng không; con người và thế giới cùng hiện hữu mà không thể tách rời nhau. Sự
thật này đã được đức Phật chứng tỏ trong Mahàpunnama (Trung bộ III) và trong
Giới Phân biệt (Dhàtuvibhanga, Trung bộ III) rằng: Sắc uẩn gồm có nội sắc là cơ
thể vật lý của mỗi cá nhân, ngoại sắc là thế giới vật lý; điều này có nghĩa là
vũ trụ tự nó là một phần của cơ thể con người.”
Ý nghĩa đó
được ghi tiếp ở trang 77:
“Hai mươi sáu thế kỷ qua đức Phật đã cho nhân loại một định nghĩa vô
cùng tuyệt vời và cực kỳ kinh ngạc rằng: sắc uẩn của một người là bao gồm thân
vật lý của người ấy và toàn thể thế giới vật lý. Định nghĩa ấy xác định rằng
thiên nhiên hay môi sinh thực sự là cơ thể của con người hay là một phần rất
lớn của cơ thể con người”.
Rõ ràng những lời đức Phật dạy trên
đây đã như là ngọn đuốc soi đường cho chủ trương lâu nay của Liên hiệp quốc về
môi sinh mà mọi quốc gia dân tộc đang nhiệt tình noi theo.
Trong các đoạn kế tiếp của sách đã
dẫn, Hòa Thượng Thích Chơn Thiện lại phân tích cặn kẽ hai nội dung “Con người là năm Uẩn”, “Tu tập năm Thủ Uẩn và giáo dục” (từ
trang 150 đến trang 176); từ đó Hòa Thượng đã đề ra mục tiêu cụ thể của giáo
dục Phật giáo trong một đoạn văn ở trang 169: “Sự tu tập Năm thủ uẩn là công phu giải thoát có hai việc để thực hiện:
- Chế ngự
thói quen của con người nghĩ về các hiện hữu như là có một ngã tính thường hằng
từ đó dục vọng dấy khởi.
- Phát triển
cái nhìn sự vật là vô ngã từ đó vô dục khởi sinh.
Vì thế công
phu này là sự chấm dứt các phiền não, khổ đau, vốn là giấc mơ yêu dấu của con
người, và là mục tiêu cơ bản mà ngành tâm lý giáo dục hiện đại nhắm đến. Tất cả
những lời dạy của đức Phật kiết tập trong kinh tạng Pàli là đặt trọng tâm vào
điểm tuyệt vời này”.
Quan điểm Phật giáo về nhân tính đã
xác định rõ mục tiêu xuất thế của nền giáo dục Phật giáo là giúp mọi chúng sinh
đạt trí tuệ giác ngộ chân thực, toàn diện và tột cùng. Đó là một nền giáo dục
trí tuệ mà từ xưa nơi thảo am, chùa vắng các Ngài tổ đã dạy đệ tử với thân giáo
và tâm truyền. “Nếp Sống Chùa” ngày
cũ đã un đúc nên nhiều vị Cao Tăng Thạc Đức, dẫn dắt tứ chúng tiến tu trên
đường giải thoát.
Như thế, hệ thống Chùa chiền, Tu
viện, Tịnh xá, Tịnh thất, Thiền viện được thiết lập hay chỉnh trang xưa nay đều
đáp ứng trọng trách căn bản và cốt lỏi của nền giáo dục Phật giáo mà nội dung
và phương pháp đã được Ban Giáo dục Tăng Ni đương nhiệm biên soạn công phu và
ban hành năm 2001.
Chỉ khi nào “Nếp sống Chùa” theo tinh thần ấy được củng cố trọn vẹn, thực chất
và gương mẫu thì sự hiện diện của các Trường Phật học mới thật sự tồn tại có ý
nghĩa. Hiện nay các Trường ấy đang được tổ chức gần như theo khuôn mẫu trong hệ
thống giáo dục học đường ngoài đời. Thật sự, đã là Trường Phật học thì phải là
nơi đào tạo các Tông đồ giáo dục, xứng danh Sứ giả Như Lai, nói cụ thể là những
giảng sư ban truyền Phật pháp. Có lẽ mô hình gần gũi nhất là các Trường Sư
phạm; các học viên, hỗn hợp cả tu sĩ và cư sĩ, được học nhiều điều về sư phạm chẳng
hạn như tâm lý giáo dục, tâm lý quần chúng, phương pháp Khế Cơ, Khế Lý, kỹ
thuật diễn đạt. Hy vọng rằng các Trường Phật học được biến cải theo lối đó sẽ
ngăn chặn được ảnh hưởng thế tục hiện nay vào Đạo của bằng cấp theo tên gọi
ngoài đời đối với hệ thống thứ bậc nghiêm túc xưa nay như Đại Đức, Thượng Tọa,
Hòa Thượng về Tăng chúng.
Các vị giảng sư nhận lãnh nhiệm vụ
nhập thế qua sự phân công có hội ý giữa Ban Giáo dục, Ban Hoằng pháp, Ban Hướng
dẫn Cư sĩ và Gia đình Phật tử. Thính chúng đến từ các Đạo tràng, Gia đình Phật
tử hay Khuôn hội ở Niệm Phật đường từng địa phương. Giáo dục Phật giáo còn được
tổ chức dưới hình thức các phái đoàn đi hành hương, những buổi thuyết giảng ở
Trung tâm Văn hóa Phật giáo hoặc các Khóa Tu ngắn hạn nhân dịp các Lễ lớn như Phật
Đản, Vu Lan.
Các nội dung
truyền giảng được chọn sát với thực tế đời sống (Khế thời). Một thuận lợi lớn
cho vấn đề này là hiện nay đã có một kho tàng tư liệu luận giải đã được phổ
biến trên sách báo xưa nay về các vấn đề liên quan giữa Đạo và Đời. Có lẽ nhân
dây, một “Chuyện Đời” cũng đáng được nêu ra để mong có biện pháp cứu chữa từ
giáo dục. Đó là vấn nạn “trong ngôn ngữ Việt Nam, chữ đang mất nghĩa”.
Như với chữ chung chẳng hạn thì các thể hiện lại riêng: công viên biến
thành nơi dọn hàng quán tư nhân, công điền công thổ có thể sử dụng thành của riêng; thủ tục hành chính kế toán tại mỗi bệnh viện đang bị cách tổ
chức ngành Y khống chế, đã làm giảm nghĩa chữ cấp cứu, có trường hợp trở thành thong thả trước sự lo âu của người nhà bệnh nhân; lời khuyên trước
đây ở học đường “thầy giáo phải thương
yêu học sinh” về sau phải được nhấn mạnh “Thầy giáo phải thực sự thương yêu học sinh” vì chữ thương yêu không được thực thi trọn
nghĩa.
Chữ mất nghĩa
như thế nên lần hồi trong mối giao tiếp giữa người và người năng có sự dè chừng
thủ thế, không còn biết ai tin ai. Tình trạng đó đã làm bật ra tiếng kêu đau
xót “Sao nay dối trá tràn lan?!” Bên cạnh thảm trạng đó, cái ác đang lộng hành
và có quá nhiều trường hợp cái ác ngang nhiên diễn ra trước mắt mọi người mà đa
số đành vô cảm vì sợ liên lụy. Tệ hại hơn là hình thái vô cảm âm (vô = không và số âm còn tệ hơn số không) của những kẻ
lượm tiền bỏ túi khi có người đi đường bị cướp giật làm vung vãi tiền trên mặt
đất. Nhức nhối hơn nữa là khi cái ác đang sờ sờ mà phải vỗ tay như trong cảnh
vài nam sinh vui cười phụ họa một nữ sinh đấm đá dã man một nữ sinh khác (hình
ảnh dịu hiền của nữ sinh hay bóng dáng đôn hậu của phụ nữ đang đổi khác rồi!).
Chung qui cũng chỉ tại cái tâm ác và
vọng ngữ mà xã hội trở nên bất an. Vì là Đạo
diệt Khổ nên Phật giáo phải nhập cuộc, đương nhiên với lòng từ, vẫn nhìn
những kẻ thủ ác như là những con bệnh (từ nhãn thị chúng sinh). Nội dung căn
bản nhất được truyền đạt có lẽ là phát huy ngũ
giới và tiêu trừ tam độc tham sân si.
Xen lẫn, còn có những bài giảng thiểu
dục tri túc, những câu chuyện về nhân
quả, luân hồi, may ra làm giảm
được các trường hợp phá hoại môi trường và phá rối an sinh xã hội như tham ô,
cướp của, giết người.
Một điều chủ chốt nhất trong giáo
dục là vấn đề thân giáo. Trong giáo
dục học đường ngoài đời, vấn đề đó đang còn đơn giản đối với các thầy giáo chứ
với giáo dục Phật giáo mà khởi nguyên là tại các Chùa, thân giáo gần như là
điều kiện thiết yếu đòi hỏi sự đồng bộ của giới xuất gia và là yếu tố căn bản
quyết định thành quả của mọi Phật sự; được vậy, mới mong tái lập lòng tin nơi
quần chúng học Phật./.
Châu
Trọng Ngô
Bài đã đọc
tại
“Hội
thảo khoa học: GIÁO DỤC PHẬT GIÁO”
tại Sóc Sơn – Hà Nội, ngày 09/05/2012.
Thân
kính tặng
Quí
thân hữu Quốc Học – Đồng Khánh
Châu
Trọng Ngô
No comments:
Post a Comment