LÊ VY * THUYỀN NHÂN 1975
Báo La Croix nhìn lại lịch sử thuyền nhân Việt Nam sau năm 1975
Người Việt tại trại tị nạn Pulau Bidong, Malaysia. Trại này có khoảng 36.000 người tị nạn Việt Nam (08/1979).
UN Photo/John Isaac
Con tàu này đã đưa hàng nghìn người Việt Nam thời bấy giờ vượt
biên, chạy trốn chế độ cộng sản. Nhờ vào con tàu, hàng nghìn thuyền nhân
Việt Nam đã làm lại cuộc đời. Đây là nơi dùng làm bệnh viện để chữa
bệnh cho những người vượt biên. Đồng thời, con tàu còn chứng kiến nhiều
giây phút trọng đại của người Việt, như một số đôi đã nên duyên vợ chồng
trên chuyến tàu này.
La Croix nhắc lại lịch sử và bối cảnh của việc hàng nghìn người Việt
Nam chạy trốn khỏi đất nước lúc bấy giờ. Ngày 08/11/1978, người Pháp hay
tin chiếc tàu chở hàng Hai Hong chở 2 564 thuyền nhân miền Nam Việt
Nam, nhưng không có một đất nước châu Á nào chấp nhận đón tiếp. Đây chỉ
là một trong nhiều con tàu khác. Vào thời kỳ đó, có hàng trăm nghìn
thuyền nhân muốn rời khỏi miền Nam Việt Nam, lãnh thổ trước đây được Hoa
Kỳ yểm trợ và sau đó bị chế độ cộng sản miền Bắc Việt Nam chiếm vào năm
1975.
Vài ngày sau khi Sài Gòn thất thủ, vào tháng 5/1975, 3743 người Việt
Nam đầu tiên đến Hồng Kông. Để cứu giúp họ, một số trí thức Paris đã
nghĩ đến việc lập ra « chiếc tàu cho người Việt Nam ». Một số đã từng
ủng hộ miền Bắc trong cuộc chiến chống quân Mỹ. Trong một bản tin thời
sự trên truyền hình, nghệ sĩ Yves Montand phát biểu : « Người Việt Nam
đang chết chìm, nên chúng ta phải giúp họ ». Từ đó, chiếc tàu « Đảo ánh
sáng » ra đời để đến biển Đông cứu vớt người Việt.
Vào tháng 7/1979, một hội nghị được tổ chức tại Genève để bàn về số
phận của những người vượt biên Việt Nam. Hội nghị này lập ra một Hiệp
ước giữa Việt Nam, các nước Đông Nam Á cho tỵ nạn trong thời gian đầu và
các nước cho phép định cư lâu dài. Indonesia và Philippines thành lập
các trung tâm tị nạn tạm thời. Việt Nam hứa hẹn cho phép những người
vượt biên có tổ chức. Các nước thứ ba sẽ tăng tốc trong việc tái định cư
dân Việt Nam lâu dài.
Từ 07/1979 đến 07/1982, hơn 20 nước như Mỹ, Úc, Pháp và Canada đã tái
định cư 623 800 người Đông Dương tị nạn. Về phía mình, chính quyền Việt
Nam cho phép người Việt ra đi nếu họ muốn. Trong năm 1984, có 30 000
người Việt ra đi theo dạng này. Hội nghị này tổ chức việc gửi tàu đến
một số nước không tiếp nhận người tị nạn để cứu vớt họ. Trong 5 tháng
đầu năm 1979, 81 tàu chuyên chở tổng cộng 4 031 người trên biển, trong
đó có con tàu « Đảo ánh sáng ». Từ năm 1975 đến năm 1990, 67 000 người
Việt Nam được cứu vớt trên biển.
Thuyền trưởng con tàu « Đảo ánh sáng » nhận xét : « Người Việt Nam
thật sự làm tôi bất ngờ. Có nhiều tài năng khác nhau. Họ rất có tổ chức,
có phẩm cách và muốn thoát ra khỏi hoàn cảnh khó khăn ». Theo báo La
Croix thì Hoa Kỳ là đất nước mà người dân Việt Nam muốn được đến định cư
nhiều nhất.
Trung Quốc : sữa ngoại nhiễm khuẩn, các bà mẹ vỡ mộng
Hết các vụ tai tiếng sữa nội địa Trung Quốc nhiễm khuẩn, giờ đây lại
đến các nhãn hiệu sữa ngoại tại Trung Quốc. Báo Le Figaro trong mục kinh
tế chú ý tình hình này qua bài viết : « Một vụ bê bối sữa mới làm lung lay cả Trung Quốc ».
Tờ báo nhận định, hiện nay, các bậc cha mẹ Trung Quốc không còn biết
phải tìm đến loại sữa nào. Do uy tín của sữa nội địa đã mất từ lâu, các
bậc phụ huynh tìm đến các loại sữa ngoại, cho dù với giá đắt hơn, nhưng
bây giờ lại đến lượt các hiệu sữa này gặp phải bê bối.
Hôm qua 07/08/2013, tổng giám đốc hãng sữa Fonterra của New Zealand
đã khẳng định một số sản phẩm nhiễm vi khuẩn có thể gây chứng liệt và
gây tử vong cho trẻ sơ sinh đã được thu hồi khỏi thị trường sữa. Vụ bê
bối này đã bắt đầu khiến các bà mẹ lo ngại khi mua sữa ngoại. Từ thứ hai
vừa rồi, tổng giám đốc hãng sữa Fonterra, Theo Spierings đã giải
thích và xin lỗi người tiêu dùng ở Bắc Kinh.
Thêm vào đó, Fonterra cùng với hai hãng sữa phương Tây khác còn bị
phạt nặng vì đã nâng giá trên thị trường. Tờ báo nhận định, đây là tuần
lễ đen tối của các công ty sữa ngoại. Hãng sữa Mead Johnson Nutrition
của Mỹ phải trả 33 tỷ đô la.
Sự trùng hợp giữa vụ bê bối của hãng Fonterra vừa xảy ra cùng lúc với
chiến dịch phạt các công ty sữa đã nâng giá sản phẩm trên thị trường,
chủ yếu là các hãng ngoại quốc làm một số người nghi ngờ đây là chiến
dịch của Trung Quốc nhằm làm bại hoại danh tiếng của các hãng sữa ngoại.
Thứ hai 05/08/2013, tờ Nhân dân nhật báo đã đăng nhiều bài đánh bóng
lại tên tuổi các hãng sữa nội. Một giáo sư đại học phát biểu : « Đây
không phải là việc thiên vị ai cả mà là vấn đề về sức khỏe cộng đồng ».
Theo nhận định của các cư dân mạng, cuộc khủng hoảng khiến không ai
tin vào sữa ngoại nữa, nhưng không có nghĩa là nó vực dậy uy tín của
các hãng sữa nội Trung Quốc. Một blogger nhận xét : « Fonterra đã nhìn
nhận trách nhiệm của mình. Nhưng khi một công ty Trung Quốc đứng trước
một vấn đề chất lượng, thì họ luôn tìm cách tránh né và không thừa nhận
».
Nhật báo động rò rỉ chất phóng xạ tại Fukushima
Sự cố rò rỉ chất phóng xạ tại Fukushima, Nhật Bản tiếp tục được báo chí Pháp hôm nay quan tâm. Báo Le Monde thông báo : « 300 tấn nước nhiễm chất phóng xạ chảy ra biển hàng ngày ». Tờ báo nhận định : « thái độ chối bỏ và che đậy của tập đoàn Tepco chỉ làm cho dân chúng thêm lo ngại ». Báo Le Figaro cũng đăng bài : « Nhật báo động rò rỉ chất phóng xạ tại Fukushima ».
Báo Libération thì dành hai trang lớn nói về đề tài này qua bài viết : « Fukushima lại trở thành đề tài trung tâm ».
Thủ tướng Nhật Shinzo Abe cho biết : « Thay vì dựa vào tập đoàn Tepco,
chính phủ sẽ thực hiện các biện pháp ». Ông còn nói thêm là muốn đảm bảo
rằng « tập đoàn điện lực Tepco quản lý một cách phù hợp việc tẩy rửa
trung tâm hạt nhân ». Công việc này có lẽ sẽ phải kéo dài hơn 40 năm và
tốn hết 11 tỷ đô la. Số tiền dành cho việc này vẫn chưa được công bố,
nhưng nó sẽ có tác động đến ngân sách năm 2014.
Paul J.Scalise, nhà kinh tế học và chuyên gia năng lượng tại đại học
Tokyo phân tích : « Ngay sau khi xảy ra sự cố Fukushima, Tepco đã nhận
được khoản vay 200 tỷ yên (15,5 tỷ euro) từ 4 ngân hàng lớn nhất Nhật
Bản. Tuy nhiên, số tiền đó không đủ, vì Tepco còn phải chi tiêu cho việc
nhập khẩu dầu hỏa và bồi thường cho nạn nhân của tai nạn. Để có được số
tiền này, chỉ có thể tăng giá điện, mà hiện tại giá điện tại Nhật đã
thuộc loại cao nhất thế giới ». Tờ báo đặt câu hỏi : tại sao lại không
nhờ thế giới trợ giúp ? Câu trả lời là Nhật xem đây là vấn đề danh dự
của đất nước, theo như phân tích của Alieen Mioko Smith, giám đốc tổ
chức chống hạt nhân GreenAction.
Mỹ-Nga : hơi hướng chiến tranh lạnh
Việc Nga cấp giấy tị nạn cho cựu nhân viên tư vấn Mỹ Snowden gây
nhiều sóng gió cho mối quan hệ Mỹ-Nga vốn đã không êm thấm. Ngày hôm
nay, báo chí đồng loạt quan tâm đến việc tổng thống Mỹ Obama hủy chuyến
công du đến Nga gặp tổng thống Putin trước thềm hội nghị G20 sẽ diễn ra
tại St-Pétersbourg đầu tháng 9.
Nguyên nhân, theo báo Le Figaro, là thiếu « tiến triển » trong mối
quan hệ song phương giữa hai nước. Đặc biệt là quyết định của Nga cho
phép Snowden tị nạn làm cho Washington thịnh nộ. Tờ báo dùng từ « thất
vọng » để chỉ thái độ của Nga. Trên trang nhất báo Le Figaro chạy dòng
tựa : « Tức giận, tổng thống Obama hủy cuộc gặp tổng thống Putin ».
Báo L’Humanité cũng quan tâm đến sự kiện này qua bài viết : « Snowden : Obama dỗi Putin ».
Báo La Croix thì nhận định : việc tổng thống Obama hủy cuộc gặp tổng
thống Putin giống như một cái tát mạnh vào chủ nhân điện Kremlin. Giữa
hai nước, căng thẳng đã dâng cao trên mọi hồ sơ. Hơn nữa, những mối bất
hòa gần đây nhất giữa hai nước là trên lĩnh vực kinh tế. Washington cáo
buộc Matxcơva đã không tôn trọng các cam kết từ khi gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO).
Nhưng tờ báo nhấn mạnh rằng các căng thẳng về tự do nhân quyền mới là
con sóng lớn nhất trong mối quan hệ song phương. Gần đây nhất là vụ kết
án nhà đối lập Navalny và luật cấm tuyên truyền đồng tính với trẻ vị
thành niên. Quốc hội Mỹ lo ngại về hậu quả của đạo luật này tại thế vận
hội mùa đông vào tháng 2/2014. Một số vận động viên hay cổ động viên có
thể bị bắt giữ nếu họ vô tình đề cập đến chủ đề đồng tính một cách quá
thẳng thắn. Báo Libération thì nhận định thấy hơi hướng của một cuộc
chiến tranh lạnh giữa Obama và Putin.
Cháy rừng tại khu vực Địa Trung Hải tăng
Trong hồ sơ môi trường, báo le Monde hôm nay quan tâm đến khí hậu và
điều kiện sinh sống đang gây nên những nguy cơ cháy rừng tại khu vực Địa
Trung Hải. Theo tờ báo, tại vùng Valence, thuộc Tây Ban Nha, trong vòng
40 năm qua, các vụ cháy rừng đã tăng gấp đôi và diện tích rừng bị cháy
đen tăng gấp 8 lần.
Báo Le Monde cho biết mỗi mùa hè, rừng Địa Trung Hải bị cháy nghiêm
trọng. Trong 5 quốc gia châu Âu bị thiệt hại, nặng nhất là Bồ Đào Nha,
Tây Ban Nha, Pháp, Ý và Hy Lạp, trung bình 500 000 hecta bị ngọn lửa
thiêu rụi hàng năm. Về phía Pháp, do được ưu đãi có mưa nhiều về mùa
xuân, nên tương đối ít bị cháy đầu năm này, với chưa đầy 700 hecta bị
cháy trong số 424 vụ.
Báo Le Monde nhận định trong các thập niên tới, nạn cháy rừng còn gia
tăng hơn nữa. Có hai nguyên nhân. Thứ nhất là do khí hậu trái đất nóng
lên, biểu hiện là nắng hạn kéo dài. Thứ hai là mật độ thành thị cao.
Người dân bỏ nông thôn lên thành thị. Đất đai canh tác thu hẹp, đất bị
bỏ hoang và sau đó thành rừng. Tóm lại, cháy rừng gia tăng là do các
nguyên nhân thay đổi khí hậu, xã hội và kinh tế. Đây là kết quả của công
trình nghiên cứu châu Âu (FUME) sẽ được công bố vào cuối tháng 11.
Kinh tế Pháp bị thiệt hại do thiên tai gây nên
Báo kinh tế Les Echos hôm nay cũng đặc biệt quan tâm đến thảm họa
thiên nhiên gây thiệt hại cho nền kinh tế Pháp qua bài viết : « Các cơn giông đánh lên kinh tế của nhiều tỉnh thành ».
Theo tờ báo, sấm sét, giông gió, mưa đá đã hủy hoại hàng nghìn hecta
đất trồng trọt từ 15 ngày nay. Phía Tây Nam của Pháp, hàng nghìn hộ gia
đình không có điện để xài.
ĐẶNG CHÍ HÙNG * NHỮNG KẺ CƯỚP NGÀY
Những sự thật cần phải biết (phần 13): Những kẻ cướp ngày
Đặng Chí Hùng (Danlambao) - Kính thưa bạn đọc!
Trong “Bản cáo trạng tội ác của cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh”
phần 5 tôi đã gửi tới bạn đọc tội ác của cộng sản trong việc cướp tài
sản của đồng bào thông qua đánh tư sản hoặc đẩy đi vùng kinh tế mới. Đó
là bản cáo trạng nên sự việc đó phải thu gọn để gửi tới các cơ quan như
LHQ, tòa án hình sự quốc tế. Trong khuôn khổ bài viết này. Tôi xin trình
bày cụ thể những âm mưu của đảng và điểm mặt những kẻ chủ mưu cũng như
trực tiếp điều hành cộm cán.
Sau khi đánh cho “Mỹ cút – Ngụy nhào” để đến nỗi bà Dương Thu Hương –
một cán binh theo đoàn quân vào Sài Gòn đã phải thốt lên “kẻ chiến thắng
là kẻ man rợ” thì đảng cộng sản bắt đầu thực hiện chính sách cướp ngày
của mình. Đứng đầu chủ mưu cũng như thực hiện âm mưu của đảng cộng sản
là Đỗ Mười, Mai Chí Thọ, Lê Đức Thọ, Lê Đức Anh và tầng dưới là Võ Văn
Kiệt, Nguyễn Tấn Dũng… Tất cả chỉ một mục tiêu đó là đem của cải của
người dân Miền Nam về miền Bắc làm của cải cho đảng mà ngay chính nhân
dân Miền Bắc cũng không được thừa hưởng. Trong cuốn hồi ký “Đại Học Máu” của
Hà Thúc Sinh đã mô tả sau năm 1975, mặc dù cướp được kho thuốc khổng lồ
của VNCH nhưng người dân Miền Nam, Miền Bắc và cả bộ đội cộng sản cũng
không có thuốc để dùng đành chờ chết trước những căn bệnh rất đơn giản
như kiết lỵ. . trong khi đó đảng lại viện trợ cho một nước Venezuela xa
xôi mấy tầu thuốc loan báo trên đài như một hành động anh hùng của đảng.
Những kẻ cướp ngày của chính nhân dân Việt Nam đã dùng chính tài sản
cướp được của nhân dân để vinh thân phì gia và cũng đồng thời tô điểm
cho bộ mặt toàn son phấn rẻ tiền của đảng cộng sản.
I. Cướp Tài sản của nhân dân và đẩy dân đi “kinh tế mới”:
Để cướp đoạt tài sản và tiền của thì đảng cộng sản đã tiến hành chính
sách đánh tư bản, đổi tiền và tịch thu tài sản của nhân dân dưới mỹ từ
“đánh gian thương”, “tiểu tư sản”. Hậu quả đó là hàng triệu người bị
cướp nhà giao cho cán bộ, bị mất cơ nghiệp và bị đẩy đi kinh tế mới. Kết
quả X-2 và X-3, với “công lao to lớn” của Đỗ Mười, Mai Chí Thọ. . . thu
được khoảng hơn 4. 000 kg vàng, gần 1. 200. 000 đô la, và một khối
lượng hàng hóa không thống kê hết. Từ chiếc xe hơi,TiVi, tủ lạnh, đến
bịch bột giặt, quả trứng gà đều khê khai và tịch thu chất trong các kho,
để rồi không cánh mà bay, hoặc biến thảnh phế thải. Xin quý vị theo dõi
những chứng cứ dưới đây để thấy được sự thật này.
Đánh tư sản sau năm 1975 |
Thứ nhất, trong cuốn sách “Bên thắng cuộc” của tác giả Huy
Đức có đề cập đến chiến dịch cướp bóc này. Tác giả Huy Đức đã viết ở
Chương iii - Đánh tư sản như sau: “Sau khi hàng trăm ngàn binh lính
đã được “học tập”, đã nhận thấy “tội lỗi” của mình, còn các sỹ quan thì
đã bị giữ trong các trại cải tạo, Sài Gòn lại náo động bởi chiến dịch
đánh tư sản mại bản. Theo nhận thức của những người cộng sản, đánh đổ
giai cấp tư sản là bước đi tất yếu, là nhiệm vụ của “cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân”. Chưa đầy ba năm sau khi chủ nghĩa xã hội được áp
dụng ở miền Nam, các nhà doanh nghiệp, với tên gọi mới là “tư sản”, đã
phải trải qua hai lần bị “đánh”.
“Chiến dịch X-2”
Vào lúc 7 giờ 30 phút sáng ngày 10-9-1975, Ủy ban Quân quản Thành phố
Sài Gòn họp báo, đưa ra “Bản Tuyên bố của Chính phủ Cách mạng Lâm thời
Cộng hòa Miền Nam Việt Nam”, ra lệnh “bắt giữ một số tư sản mại bản có
chứng cứ đầu cơ tích trữ, phá rối thị trường: Mã Hỷ, vua lúa gạo; Lưu Tú
Dân, lũng đoạn vải vóc; Bùi Văn Lự, nhập cảng, đầu cơ phụ tùng xe máy;
Hoàng Kim Quy, thầu cung cấp kẽm gai cho quân đội Mỹ; Trần Thiện Tứ, độc
quyền xuất cảng cà phê... ”117. Hơn bảy giờ trước đó, phần lớn các đối
tượng nằm trong danh sách sáu mươi tên đánh đợt đầu đã bị bắt.
Rồi cũng chính Huy Đức - một cựu nhà báo cộng sản cho biết thêm: “Tối
10-9-1975, “tin chiến thắng” liên tục được báo về “Đại bản doanh” của
Trung ương Cục đóng tại Dinh Độc Lập. Con số bị bắt cho đến khi ấy vẫn
tăng lên. Các đoàn đưa ra những con số chi tiết: hàng chục triệu tiền
mặt, hàng chục ký vàng, cả “kho” kim cương, hàng vạn mét vải và cả một
cơ sở chăn nuôi gồm “7. 000 con gà, thu hoạch 4. 000 trứng mỗi ngày”120 ở
Thủ Đức. Một nhà tư sản đang nằm viện bị yêu cầu kiểm tra xem ốm thật
hay cáo bệnh, trong khi đó con trai ông ta bị bắt để buộc phải khai ra
nơi cất giấu tiền, vàng. Do tin tức bị lọt ra, một số nhà tư sản đã kịp
cao chạy xa bay, có người bị bắt khi đang chuẩn bị trốn.”
Ngoài bắt bớ ra, nhà cầm quyền cộng sản còn tiến hành chính sách đổi
tiền để vơ vét tiền vào túi dưới hình thức: cướp trắng. Tác giả Huy Đức
mô tả sự kiện đổi tiển như sau: “Sau “Chiến dịch X-2”, Thành uỷ nhận
định: “Bọn tư sản mại bản bị cô lập rất cao, chúng đã mất hết chỗ dựa về
mặt quân sự và chính trị. Lực lượng kinh tế của chúng đã bị sứt mẻ và
đang bị tan vỡ dưới sự tiến công của ta”122. Nhằm “giáng tiếp những đòn
mới vào giai cấp tư sản”, ngày 22 và 23-9-75, đồng tiền cũ của chế độ
Sài Gòn đã được thay thế bởi đồng tiền mới.
Đổi tiền cũng được coi là “chiến dịch” với mật danh “X-3”. Ba yêu cầu mà
Trung ương Cục đưa ra cho Chiến dịch X-3 gồm: “Thiết lập một chế độ
tiền tệ mới; ngăn chặn giai cấp tư sản sử dụng tiền mặt để thao túng thị
trường, đồng thời tước đoạt bớt phương tiện hoạt động của bọn gián
điệp, tình báo; đẩy lùi lạm phát”123. Với nhận thức tiền còn là “phương
tiện hoạt động của bọn gián điệp, tình báo”, Chính phủ Cách mạng Lâm
thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam chỉ cho đổi một số tiền hạn chế.
Mỗi hộ gia đình được đổi tối đa 100. 000 đồng tiền “Chánh quyền Sài Gòn
cũ”- 500 đồng tiền “Chánh quyền Sài Gòn cũ” đổi được một đồng tiền mới
Ngân hàng Việt Nam. Cán bộ công nhân viên chức trong các tổ chức tập thể
được đổi mỗi người 15. 000; hộ kinh doanh tiểu công nghệ, thương
nghiệp, vận tải được đổi 100. 000 đồng; tổ chức kinh doanh lớn được đổi
từ 100. 000 đến 500. 000 đồng; khách vãng lai, mỗi người được đổi 20.
000, số còn lại nộp cho ban đổi tiền, lấy biên lai về địa phương giải
quyết. Các hộ kinh doanh và hộ gia đình nếu có nhiều tiền hơn mức được
đổi ngay thì phần còn lại sẽ quy đổi thành tiền mới, ghi vào sổ tiết
kiệm, hoặc sổ tiền gửi tại Ngân hàng Quốc gia Việt Nam.”
Song song với đánh tư sản và đổi tiền, chính quyền cộng sản còn áp dụng biện pháp “Cải
tạo công thương nghiệp tư doanh” mà tác giả Huy Đức Miêu tả như sau:
“Nếu như đối tượng của Cách mạng chỉ có chín mươi hai nhà tư sản giàu có
nhất miền Nam thì sau năm 1975, nền kinh tế vẫn còn cơ hội để hồi sinh.
Nhưng, hai năm rưỡi sau, “giai cấp tư sản” lại bị “đánh” trong một
chiến dịch mới được gọi là “Cải tạo Công Thương nghiệp Tư doanh”, một
chiến dịch được ông Đỗ Mười triển khai với “bàn tay sắt”.” [1].
Thứ hai, trong lịch sử thì sự kiện vơ vét tiền của nhân
dân sau năm 1975 ở Việt Nam không phải là lần đầu tiên. Lần đầu tiên
phải là cuộc cải cách ruộng đất vì theo thống kê chính thức của nhà nước
Việt Nam được đăng trong cuốn “Lịch sử kinh tế Việt Nam” (tập hai) cho
biết là đã có 172. 008 người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông
(trong đó có 123. 266 người bị quy sai, hơn 70%, tức là bị oan). Lần thứ
hai này, đánh “tư sản mại bản”, tịch thu tài sản hàng triệu người, đuổi
người dân đi “kinh tế mới”, vào “hợp tác xã”. Nền kinh tế bị thiệt hại
kinh hoàng, TRỰC TIẾP gây ra nạn THUYỀN NHÂN chưa từng có trong lịch sử
nhân loại, từ 100 ngàn đến 300 ngàn người bỏ mạng ngoài biển khơi.
Trên báo tuổi trẻ online của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam có bài viết
về một người từng tham gia chiến dịch cướp bóc của quần chúng nhân dân
Miền Nam. Bài viết có đoạn trích như sau: “Sau tháng 4-1975, nhà báo
Đinh Phong cùng nhóm phóng viên truyền hình túc trực ngày đêm theo những
tổ công tác làm công việc “kê biên tài sản” của những nhà tư sản Sài
Gòn ở chợ Bến Thành, chợ Tạ Thu Thâu... Đó là một thời điểm khó quên
nhưng ai cũng muốn quên. Ông Đinh Phong (ủy viên Ủy ban MTTQ VN TP. HCM,
nguyên phó giám đốc Đài truyền hình TP. HCM) hồi tưởng về những ngày
ông và nhiều đồng nghiệp được ban tuyên huấn giao những nhiệm vụ đặc
biệt nhưng bí mật đến phút cuối cùng. Ngay cả cái tên của những chiến
dịch này cũng được mã hóa thành X1, X2. . . Những tổ công tác mật được
gấp rút thành lập, bắt đầu rà soát, lên danh sách những hộ gia đình kinh
doanh, những gia đình giàu có phải “cải tạo tư sản”. Nguyên tắc hàng
đầu của chiến dịch này là bí mật. Những nhà tư sản chỉ bàng hoàng nhận
biết những gì xảy ra khi cửa mở và tổ công tác đặc biệt bất ngờ có mặt,
đọc quyết định “kê biên tài sản”.” [2]
Thứ ba, cũng nói về con số thống kê “thành tích” cướp bóc
của nhân dân Miền Nam, Trong cuốn sách “Thông tin lịch sử của TP. HCM”
của ủy ban nhân dân TPHCM có cho biết: “Cho đến ngày giải phóng 1975,
Sài Gòn đã có một cơ sở vật chất, kinh tế kỹ thuật lớn nhất miền Nam,
nơi tập trung hơn 80% năng lực sản xuất công nghiệp cả miền Nam. Nơi đây
tập trung hơn 38. 000 cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp lớn nhỏ,
trong đó có 766 công ty và 8. 548 cơ sở công nghiệp tư nhân. Để công hữu
hóa tư liệu sản xuất và đưa công nhân lao động làm chủ nhà máy, xí
nghiệp, sau năm 1975 chính quyền cách mạng đã tiến hành vận động hai đợt
cải tạo công thương nghiệp. Kết quả là đã quốc hữu hóa tài sản của 171
tư sản mại bản, 59 tư sản thương nghiệp cỡ lớn... ”
Trên thực tế ở Việt Nam thì việc “quốc hữu hóa” chính là việc nhà cầm
quyền cộng sản cướp của dân rồi đem làm tài sản riêng cho đảng viên và
các quan chức lãnh đạo thụ hưởng. [3]
Thứ tư, Đi kèm với chính sách đánh tư bản là chính sách
dồn nhân dân vào những vùng hoang sơ, rừng thiêng nước độc sau khi đảng
đã cướp hết tài san và nhà cửa của nhân dân. Đảng cộng sản không cung
cấp phương tiện sản xuất và nhà cửa cho nhân dân. Trái lại còn đẩy họ đi
khỏi thành phố lao động khổ sai với nhãn mác “đi vùng kinh tế mới”.
Dân đi kinh tế mới sau 1975
Đánh tư sản, đuổi dân đi kinh tế mới
Bắt học sinh xuống đường "bài trừ văn hóa phản động"
Một thanh niên bị bắt đeo bảng trước
ngực và đi lòng vòng địa phương nơi cư trú, dưới sự giám sát của bộ đội
cộng sản. Tội danh: Nhảy đầm. Sau đó còn phải thọ án 1 năm trong trại
cải tạo.
Và đây là điển hình cho cái gọi là "Tòa án nhân dân"
Thứ năm, Hãy cùng đọc bức thư sau đây của một gia đình là
nạn nhân cộng sản đang sống tại Việt Nam để chúng ta thấy sau năm 1975
đảng cộng sản đã cướp những gì của nhân dân:
“Kính Gửi: Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh Đảng CSVN
Bộ Chính Trị Trung Ương (TW) đảng CSVN
Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội do đảng CSVN cầm quyền.
Chúng tôi có tên dưới đây:
Huỳnh Ngọc Cảnh, đại diện một số anh chị em công nhân khu công nghiệp AMATA Đồng Nai.
Nguyễn Tấn Hoành, đại diện một số anh chị em Khu Công nghiệp Điện Bàn Quảng Nam.
Nguyễn Tấn Dung, đại diện một số anh chị em công nhân khu công nghiệp Biên Hoà II
Dương Thái Phong, Huỳnh Tiến, Trương Long, Vũ Hà, Trần Tá, Võ Hải, Nguyễn thị Tuyết, thuộc khu công nghiệp Tân Bình và khu chế xuất Vĩnh Lộc.
Hoàng Anh Tuấn, Công Ty Giày da Gia Định, quốc lộ 13 Thủ Đức, Tp. Saigon
Thưa quý Ngài lãnh đạo Bộ Chính Trị TW đảng CSVN
Ngày trước miền Nam 1975, gia đình chúng tôi chưa được cách mạng giải
phóng. Cha mẹ chúng tôi có nhà, có đất làm ăn khấm khá chưa biết làm
thuê làm mướn là gì. Trong thời đó những nhà thương gia Ấn Độ, kỹ sư
người Nhật, Hàn Quốc vào miền Nam làm thuê và mua bán. Họ hoàn toàn lệ
thuộc vào người dân Việt Nam. Sau năm 1975, miền Nam được cách mạng giải
phóng khỏi ách nô lệ, đảng hô hào nâng đỡ và đấu tranh cho hai giai cấp
công nhân và nông dân. Chính lá cờ đảng CSVN thể hiện biểu tượng búa,
liềm. Sự thật có phải như vậy không? Thưa, sự thật rất phũ phàng! Sau
khi chiếm được miền Nam là cải tạo công thương nghiệp, đánh tư sản mại
bản thì gia đình chúng tôi bị mất nhà, mất đất. Trong khi chúng tôi có
tiền dư thóc để, thì chúng tôi bị lấy nhà và bị đuổi đi vùng sâu nước
độc để khai phá đất hoang làm ăn. Do những cơn sốt rét vàng da, có những
gia đình chết phân nửa, có những gia đình phải chết hết. Khi trở về
thành phố thì nhà cao cửa rộng, ruộng vườn của mình thì bị cán bộ đảng
viên thu. Điều này chúng tôi có nói sai đâụ Những villa nhà lầu hiện nay
là nhà của đảng viên, thì thử hỏi cha ông của mấy ông này mua nhà đất
từ thời nào để lại cho mấy ông đảng viên này, nếu không phải cướp của
chúng tôi thì từ đâu mà có. Cuộc đời chúng tôi còn sống thì vẫn còn bị
cướp. Đời Cha tôi bị cướp, đời tôi cũng bị cướp. Những gia đình chúng
tôi lên vùng kinh tế mới khai hoang được vài ba mẫu đất làm ăn, cuộc
sống chưa ổn định thì trò cướp bóc lại theo đuổi theo người dân nghèo
chúng tôi, kế đến là chiêu thức kêu gọi đầu tư rước ngoại bang vào, lại
tiếp tục lấy đất của chúng tôị Bằng nhiều chiêu thức gạt gẫm lừa bịp
gian manh quỷ quyệt, trù dập vu khống chụp mũ.” [4]
II. Nạn thuyền nhân vượt biển:
Thuyền nhân đang lênh đênh tìm đường thoát khỏi cộng sản |
Chính vì cướp sạch kinh tế, nhà cửa và đày đọa quân dân cán chính VNCH
mà đảng cộng sản Việt Nam đã đây người dân Miền Nam tới nạn "thuyền
nhân" để kiếm tìm sự sống mới. Trên thực tê không chỉ có X1 và X3 đánh
kinh tế, nhà cầm quyền cộng sản còn dùng X2 để đánh văn nghệ sỹ không
theo cộng sản. Chính vì thế toàn Miền Nam là một trại tù khổng lồ, người
dân đã phải chấp nhận đánh đổi mạng sống trên những con thuyền lênh
đênh ngoài khơi để trốn chạy cộng sản. Bạn đọc có thể tìm hiểu về chiến
dịch X2 qua bài viết của một người nạn nhân:
“Tôi bị bắt ngày 5 tháng 4 năm 1976, trong cái trò bắt người mà cộng
sản gọi là “chiến dịch X2 đánh Văn Nghệ Sĩ phản động”. Chiến dịch X1
trước đó "đánh" tư sản mại bản (tức những nhà tỷ phú người Việt và người
Việt gốc Hoa, đa số ở Chợ Lớn). Có 3 nhà tỷ phú người Việt bị bắt là cụ
Hoàng Kim Quy (cựu Thượng Nghị Sĩ đệ nhị VNCH), hai anh em vua tầu thủy
Phạm Quang Khai và Phạm Quang Hoa. Trước và sau tôi bị bắt vài ngày có
hơn trăm người gồm đủ bộ môn văn nghệ Miền Nam (Văn, Thơ, Báo chí, Nhạc,
Kịch, đạo diễn điện ảnh, đạo diễn Cải lương có đôi chút tên tuổi). Đa
số giam ở T20 (số 4 Phan Đăng Lưu bên hông chợ Bà Chiểu, Gia Định) vài
người đi khám Chí Hòa. Khoảng mười tháng sau một số lớn được tha về, chỉ
còn mươi người bị quy kết tội “có nợ máu nhân dân” và “chống cộng ở
thượng tầng kiến trúc” bị giữ lại. Đây là những “tội” có thể đưa tới tử
hình. Sau hai năm tra vấn hỏi cung xong, họ đưa bọn tôi lên trại Gia
Trung (xứ sương mù Pleiku) nằm trong khu rừng già, nghe nói trước đây là
mật khu của Việt cộng, để lao động khổ sai.” Trích bài viết: “Những ngày tháng tù đày không thể quên” của tác giả Thanh Thương Hoàng.
Thậm chí khi tác giả này đã ra tù và có chính sách HO thì cũng bị nhà
cầm quyền cộng sản gây khó dễ: “Nhưng tất cả đều vô vọng. Lần nào cũng
vậy, hai lần, tôi “ôm” hồ sơ xin xuất cảnh tới Sở Ngoại Vụ đường Nguyễn
Du đều được các viên chức hữu quyền (công an CS) trả lời dứt khoát: “Nhà
Nước không có chính sách cho anh xuất cảnh. Bọn lính cũ không có súng
ống đâu còn đánh được chúng tôi nhưng với bọn anh chỉ một cây viết vẫn
có thể chống phá chúng tôi như các anh đã làm trước đây. Anh nên biết
bên đó bọn báo chí phản động nhiều như nấm”. Thế là con đường sống bị
triệt. Hết hy vọng, hết chờ mong. Tôi đành sống kiếp mạt rệp - một thứ
công dân hạng bét - ngay trên quê hương đất nước mình.” [5]
Nạn thuyền nhân đã bắt đầu sau khi nhà cầm quyền cộng sản trả thù quân
dân cán chính VNCH và cướp đi nguồn sống của nhân dân Miền Nam. Xin quý
vị có thể đọc những tài liệu sau đây để thấy rõ điều đó.
Thứ nhất, trên VOA Việt ngữ đã có bài viết thống kê về con số thuyền nhân và những người không may mắn như sau: “Sau
biến cố 30 tháng 4 năm 1975 - và trong cả hai thập niên kế tiếp - hàng
triệu người Việt đã vượt biển, vượt biên tìm tự do. Ngày nay, người ta
thường chú ý đến tập thể cựu thuyền nhân, 'bộ nhân' đã sống sót và định
cư thành công ở Bắc Mỹ, Châu Âu và Châu Úc. Cũng trong hai thập niên đen
tối ấy, trên 300 ngàn thuyền nhân Việt Nam đã tử nạn trong rừng sâu,
trên biển cả và tại các trại tị nạn ở Đông Nam Á. Rải rác khắp nơi tại
các trại tị nạn cũ - từ Thái Lan, Malaysia đến Indonesia và Philippines,
hàng ngàn ngôi mộ thuyền nhân đã bị bỏ quên - cho đến khi tổ chức Văn
khố Thuyền nhân Việt Nam phát động chương trình thăm viếng và trùng tu
mộ phần cho những đồng bào xấu số.”
Đây là những con số biết nói cho thấy cộng sản là loài thú dữ đã gây nên
cảnh tang thương cho dân tộc Việt Nam chúng tôi. Chúng tôi kính mong
quý vị xem xét và làm rõ tội ác tày trời này của cộng sản Việt Nam. [6]
Khu mộ tưởng niệm các thuyền nhân tị nạn ở Galang.
Thứ hai, trong một tập tài liệu ấn hành vào năm 2000, mang
tựa đề “The State of the World’s Refugees 2000, 50 yearsof Humanitarian
Action,” viết về tình trạng tị nạn thế giới, để đánh dấu 50 năm hoạt
động nhân đạo của Liên Hiệp Quốc, Bà Sadako Ogata, Cao Ủy Trưởng Tị Nạn
Liên Hiệp Quốc, đã nói về lòng can trường của hàng triệu người tị nạn và
lánh nạn trên thế giới đã mất tất cả, ngoại trừ niềm hy vọng, và đã
vượt qua biết bao thử thách và chông gai để đi tìm con đường sống. Bà
Ogata đã tuyên dương những người này là “Những người sống sót vĩ đại của
Thế Kỷ 20”. Cuốn sách cho biết:
“Ngay từ cuối năm 1975, những đợt người tị nạn Việt Nam đã bắt đầu
đến lánh nạn tại các nước lân bang. Vào những ngày đó, Thái Lan đã đón
nhận 5. 000 người tỵ nạn từ Việt Nam qua, tại Hồng Kông cũng đã có 4.
000 tị nạn, Tân Gia Ba 1, 800 người, và có khoảng 1. 250 người cũng đã
đến Phi Luật Tân. Vào tháng 7 năm 1976, khi chế độ Hà Nội loại trừ bộ
máy quản chế miền Nam của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam để thực
hiện việc thống nhất hai miền, cưỡng chế người dân đi vùng kinh tế mới,
và tập trung trên một triệu người miền Nam vào các trại tù cải tạo,
những làn sóng di tản bằng đường biển bắt đầu gia tăng. Và đến cuối năm
1977, đã có trên 15. 000 người Việt sang tị nạn tại các nước trong vùng
Đông Nam Á. Cho đến năm 1978, khi nhà cầm quyền Cộng Sản phát động chính
sách cải tạo tư sản, và tiếp theo đó là việc xua quân xâm chiếm Cam
Bốt, và phải đương đầu với cuộc chiến biên giới với Trung Quốc, làn sóng
tị nạn bằng đường biển đã tăng lên gấp bốn lần, với đa số người ra đi
thuộc khối người Việt gốc Hoa, để sau đó được đưa sang định cư tại các
tỉnh phía Nam Trung Quốc.
Vào cuối năm 1978, đã có 62. 000 thuyền nhân người Việt tị nạn tại
các nước Đông Nam Á. Riêng trong tháng 6 năm 1979, đã có trên 54. 000
thuyền nhân Việt Nam đến tị nạn tại các nước nói trên. Những làn sóng tị
nạn này đã khiến cho các nước trong khối Đông Nam Á, như Mã Lai Á, Thái
Lan, Phi Luật Tân, Tân Gia Ba và Nam Dương tuyên bố không nhận thêm
người tị nạn từ Việt Nam, khiến cho những đợt thuyền nhân đến sau đã bị
xua đuổi cấm không cho lên bờ. Cũng kể từ đó, con số thuyền nhân tử vong
trên biển cả cũng đã gia tăng.
Sau những cuộc hành trình hãi hùng lênh đênh trên đại dương, một số
thuyền nhân cũng đã đến được bến bờ tạm dụng. Những lớp người này đã đem
cho thế giới bên ngoài những mẫu chuyện về người cha, người mẹ, đã phải
chia nhau những hạt cơm rơi từ miệng những đứa con; đến chuyện chia
nhau từng giọt nước quý hơn vàng được vắt ra từmiếng vải thấm mưa, để
đánh lừa những cơn đói khát triền miên. Hay là những chuyện thương tâm
về người chết đã cứu được người sống với thịt máu của chính mình. Hoặc
nữa là những chuyện nói nhỏ, kể về những trường hợp phải đương đầu với
hải tặc. Ngoài những mối đe dọa do sự đầy đọa của con người đối với con
người, những thuyền nhân này còn phải đương đầu với những cơn thịnh nộ
của thiên nhiên. Những cơn phong ba bão táp đã khiến cho không biết bao
nhiêu thuyền nhân làm mồi cho biển cả. Không ai dám phỏng đoán với mỗi
người có cơ may đặt chân lên bến bờ tự do, đã có bao nhiêu người hy sinh
trên đại dương.
Cuối cùng, làn sóng người tị nạn Việt Nam bằng đường biển đã viết lê
thiên bi sử của thuyền nhân, và những câu chuyện hãi hùng của các cuộc
vượt biển của người tị nạn Việt Nam đã đánh động được lương tâm thế
giới. Vào tháng Ba 1979, chương trình Ra Đi Có Trật Tự ra đời để cố gắng
ngăn chặn những làn sóng vượt biển. Ngoài ra, cũng vào thời gian này,
các chương trình cứu người vượt biển đã được một số tổ chức thiện nguyện
quốc tế phát động hai chiếc tầu cứu vớt thuyền nhân ngoài biển là
Anamur do một tổ chức từ thiện Đức Quốc vận động vào năm 1979 L’Ile
deLumiere của tổ chức từ thiện Pháp Medecins du Monde điều hành vào năm
1980 đã cứu mạng được nhiều thuyền nhân Việt Nam lênh đênh ngoài biển cả
trong khoảng thời gian từ 1979 cho đến 1990.”
Thứ ba, theo cuốn video tài liệu của Ủy Ban Cứu Nguy Người Vượt Biển về con tầu J. Charcot, sau 20 ngày tìm vớt ngoài khơi Việt Nam: “tầu
đã vớt được 520 người, thành phần tuổi tác như sau: Từ 14 đến 30 tuổi
có 269 người, tức 51, 73%. Học trò có 224 em, gồm 136 nam, 88 nữ, chiếm
43, 08%. Người trên 50 tuổi chỉ có 11 người, chiếm 2, 11%. Người có nghề
nghiệp là 218 người, chiếm 41, 92% gồm 154 đàn ông và chỉ có 64 đàn
bà... Với thành phần trẻ chiếm đa số và nhất là giới học trò đã làm cho
Thế giới rúng động ở mức độ khinh hoàng về cuộc ra đi của người Việt.
Hàng trăm ký giả, các nhà xã hội và tôn giáo thiện nguyện đổ xô về Đông
Nam Á quan sát thảm nạn thuyền nhân khi những chiếc tầu chở hàng ngàn
thuyền nhân đổ bộ lên đảo hoang Pulau Bidong, Galang...” [7]
Thứ tư, trên trang chính của Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam
có đăng tải lại một trong những thảm kịch của thuyền nhân Việt Nam chạy
trốn cộng sản: “Sáng 1-12-1978, bão lớn kéo đến. Chẳng bao lâu sau
tầu chìm. 170 người thiệt mạng. 150 người sống sót. 123 thi hài được
chon chồng chất 4 lớp lên nhau trong nghĩa trang Cherang Ruku. 46 thi
hài khác được mai tang 3 ngày sau đó tại nghĩa trang Balai Bachok, cách
Cherang Ruku 30km về hướng Bắc”. [8]
Thứ năm, cho đến ngày hôm nay, sau hơn 80 năm cai trị Việt
nam thì đảng cộng sản vẫn còn những người ra biển tìm tự do. Xin quý vị
chú ý đến bài báo trên RFA sau đây: “Hiện nay vẫn còn có những người
Việt Nam phải bỏ nước ra đi bằng thuyền như phong trào thuyền nhân vượt
biển cách đây gần 40 năm sau thời điểm 1975. Hãng thông tấn AP hôm nay
loan tin tính đến lúc này trong năm nay có 460 người Việt Nam tìm đến
được bến bờ nước Úc. Đây là con số bằng cả năm năm qua gộp lại. Tàu chở
thuyền nhân Việt Nam mới nhất đến được đảo Christmas Island của Úc là
vào hồi tháng trước. Chiếc tàu có số hiệu đăng ký tại tỉnh Kiên Giang.
Đây là tỉnh có khoảng cách đến đảo ChirstmasIsland hơn 2300 kilomet...
Một thuyền nhân có tên Trương Chí Liêm 23 tuổi khi AP liên lạc được qua
điện thoại từ Trung Tâm Giam giữ Người Nhập cư Villawood, nằm ở ngoại vi
Sydney, cho biết là anh ta thà chết ở trại chứ không để bị cưỡng bức về
lại Việt Nam. Người này rời Việt Nam cách đây 5 năm và bị bắt giam ở
Indonesia 18 tháng khi đang trên đường tìm đến Úc.” [9]
Thứ sáu, còn rất nhiều bằng chứng về thuyền nhân Việt Nam,
chúng tôi xin gửi đến ban đọc những đường links đến cácvideo mô tả một
trong những sự kiện bi thương của dân tộc Việt nam chúng tôi mà đảng
cộng sản chính là những kẻ thủ ác.
Đôi mắt thất thần của những người Việt trong trại tỵ nạn
BẠN ĐỌC HÃY ĐỌC BÀI VIẾT CỦA GABRIELE VENZKY TRÊN BÁO DIE ZEIT (THỜI
ĐẠI) ĐÃ GIẢI CỨU 275 NGƯỜI VIỆT NAM TỊ NẠN VỀ ĐẾN HAMBURG ĐỂ THẤY THÊM
SỰ THẬT HÃI HÙNG VỀ TỘI ÁC CỘNG SẢN: “Câu chuyện bắt đầu năm 1978.
Cuộc chiến tranh Việt nam đã kết thúc được 3 năm. Cảnh tượng những máy
bay trực thăng Mỹ cuối cùng cất cánh bay khỏi Sài gòn, dưới càng máy bay
còn bám theo bao nhiêu con người hoảng loạn tột độ vẫn còn hằn sâu
trong tâm trí chúng ta, và cả làn sóng tị nạn sau đó. Và bây giờ thì
dòng người ra đi khỏi Việt nam vẫn không muốn dứt, lần này họ tìm cách
vượt biển.
Họ đi trên những chiếc thuyền chài nhỏ và chen chúc đến nghẹt thở
hướng về một phương trời vô vọng, không cả bản đồ và compas, cuối cùng
sóng đánh trôi dạt đâu đó vào các bờ biển Đông nam châu Á, vào những mỏm
đá bên bờ biển Hồng kông, nếu là may mắn. Nhiều người không gặp may. Họ
bị hãm hiếp, đánh chết hay bị ném xuống biển và chết đuối. Cứ hai
thuyền chở tị nạn vào vùng biển Thái lan thì một thuyền bị cướp. Cứ ba
người thì một người bỏ mạng trên đường, người ta tính ra khoảng một nửa
triệu người đã chết như thế.” [10]
Tuy nạn thuyền nhân là có thật và ai cũng biết đó là do cộng sản gây
nên, nhưng đảng cộng sản đã phủ nhận nó bằng những lời ngụy biện. Trên
báo Quân Đội Nhân Dân – cộng sản ngày 31-8-2007, tướng Nguyễn Đình Ước
viện trưởng Viện Lịch Sử Quân Sự Việt Nam phát biểu “nạn thuyền nhân là
chuyện có thật” nhưng nguyên nhân vì “sau chiến tranh, đất nước bị tàn
phá nặng nề mà Việt Nam còn bị bao vây, cấm vận về kinh tế”. Viên tướng
này diễn tả xã hội Việt Nam hoàn toàn tốt đẹp, không có chuyện bức chế
bất kỳ ai, không có nỗi thống khổ nào và khẳng định nạn thuyền nhân là
“âm mưu hậu chiến của Mỹ”, bởi sau khi cấm vận gây khó khăn kinh tế cho
Việt Nam, “họ lại kích động, đưa ra viễn cảnh thiên đường ở bên ngoài
gây nên tình trạng có một bộ phận người Việt Nam bỏ đất nước ra đi.
Không ít người đã thiệt mạng trên biển do bị chìm thuyền, bị bọn đưa
người vượt biên trái phép lừa gạt giết chết. Đó đúng là một thảm cảnh
nhưng là hệ quả do những chính sách chống phá Việt Nam từ bên ngoài. ”.
Nhưng thử hỏi đảng cộng sản và ông Ước là tại sao cho đến ngày hôm nay,
sau 38 năm cướp được trọn vẹn Miền Nam mà vẫn có thuyền nhân, vẫn có
người tỵ nạ trên đất Thái, Nga, Mã Lai…? Liệu đảng còn đổ thừa cho ai
nữa?
III. Điểm mặt một số gương mặt kẻ cướp:
Đảng cộng sản chính là tội đồ của dân tộc gây nên chiến tranh và cướp
bóc. Tội đánh cướp nhà cửa, tài sản… của nhân dân rồi đẩy họ đi kinh tế
mới hoặc lênh đênh trên thuyền tại Biển Đông cũng không là ngoại lệ. Nổi
bật trong số những trùm sò của đảng, xin điểm mặt một số kẻ cướp ngày
tiêu biểu.
Thứ nhất, chính Mai Chí Thọ trong 1 bài phỏng vấn đăng
trên tờ báo điện tử cộng sản Vietbao.vn đã thừa nhận những hành động
cướp bóc của mình một cách công khai: “Trầm ngâm một lát, bác Tám Cao
(Mai Chí Thọ) đúc kết: “Sau chiến thắng 30/4/1975 với chủ trương
“Tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội”, ngay sau khi giải phóng,
TW đã giao nhiệm vụ cho TP. HCM phải bắt tay ngay vào chiến dịch mang bí
số X1 và X2 với nội dung “Cải tạo kinh tế tư bản chủ nghĩa” vẫn được
quen gọi là “Đánh tư sản mại bản”. Chiến dịch X1, thì tạm được bởi chúng
ta thực hiện cải tạo những tư sản có liên quan tới đế quốc, dù trong số
họ không ít người chỉ thuần túy “làm kinh tế”.”
Rồi cũng chính Mai Chí Thọ thừa nhận: “Nhưng đến nửa chừng rà soát
lại gần 2. 000 “đối tượng X2”, thì chỉ đúng có... 3 đối tượng! Chủ
trương duy ý chí này đã làm sa sút ghê gớm, biến dạng diện mạo cũng như
nội lực của thành phố, xóa đi hết những ưu thế, cơ sở vật chất sẵn có
của “Hòn ngọc Viễn Đông... ”Không khí cải tạo ồ ạt, tịch thu, tịch
biên tài sản của các đối tượng “X1, X2”, đem về đổ dồn, chất đống đầy
các kho không chứa xuể, phải tấp táp đâu đó, sau một thời gian ngắn,
những tài sản này phần thì biến mất, số còn lại hư hỏng trở thành một
đống đổ nát khổng lồ...
Đồng bào hãy nhớ đây là một tên cướp ngày
Từ một thành phố hưởng thụ, một Trung tâm công nghiệp lớn nhất, vậy mà
chỉ sau mấy năm khi “Chiến dịch X1, X2” đi qua, toàn bộ nền sản xuất
công nghiệp của thành phố bị tê liệt tới mức cạn cùng: Nguyên vật liệu
không còn, viện trợ từ các phía bị cắt đứt, cơ sở vật chất xuống cấp
nhanh chóng, máy móc phương tiện “đắp chiếu” ngủ triền miên hết năm này
sang năm khác. Nền kinh tế của thành phố như thoi thóp, lạm phát gia
tăng chóng mặt từ 15, 3% đến 31% vào năm 1979; từ 20% năm 1980 đến 40%
năm 1981, cộng với thiên tai, mất mùa, tăng viện cho cuộc chiến phía Tây
Nam, số người thất nghiệp ngày càng gia tăng. Rồi dịch bệnh tràn lan,
phương tiện, thuốc men thiếu thốn đủ thứ khiến cho đời sống người dân
ngày càng lâm vào cảnh cùng cực. Có nhiều người không chịu đựng nổi phải
vượt biên.”
Qua những gì chính Mai Chí Thọ lúc đó là giám đốc công an Sài Gòn thừa
nhận đã cho thấy hậu quả khủng khiếp mà cộng sản gây ra cho nhân dân
Việt Nam. Đây là tội ác không thể tha thứ. [11]
Thứ hai, cũng là gương mặt cộm cán chủ mưu cùng Mai Chí
Thọ là Đỗ Mười. Chính Nguyễn Văn Linh trong một lần hội nghị ở T78 đã
nói thẳng với Đỗ Mười: “Anh Mười tưởng rằng làm Uỷ viên Bộ chính trị
là to lắm, muốn nói gì thì nói, muốn làm gì thì làm, muốn phê bình ai
cũng được… Anh Mười đứng dậy nói: “Tôi nói đó là tinh thần Bôn-sê-vich” (Trích “Làm
người là khó” – Đoàn Duy Thành – cựu phó thủ tướng nhà cầm quyền cộng
sản).Ông Đoàn Duy Thành cho biết Pham Văn Đồng đánh giá về cải tạo công
thương Nghiệp của Đỗ Mười: “Có lần tôi hỏi anh Tô (Phạm Văn Đồng): “Còn
Đỗ Mười thì sao?”. Anh Tô suy nghĩ hai ba phút rồi nói: “Chỉ có phá !”.
Khi chiến dịch X-3 đã bắt đầu.
Đỗ Mười đọc Quyết định của Thủ tướng, đọc Chỉ thị 100 – CP, và triển
khai kế hoạch cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh tại thành phố
Sài Gòn (đã bị đổi tên thành Tp. HCM) và các tỉnh phía Nam. Đỗ Mườinói: “Từ
sau giải phóng chúng ta đã thực hiện X-1, tập trung bọn ngụy quân, ngụy
quyền học tập cải tạo. Đã thực hiện X-2 đánh bọn tư sản mại bản. Bây
giờ chiến dịch X-3, quyết liệt nhất, nhằm tiêu diệt tận gốc rễ chủ nghĩa
tư bản, tay sai đế quốc Mỹ… Đánh rắn phải đánh dập đầu, ta đã đánh dập
đầu rồi, nhưng con rắn tư bản đánh dập đầu nó chưa chế, cái đuôi nó còn
nguy hiểm hơn cái đầu. Không giần cho nát cái đuôi của nó, thì nó vẫn
tác oai tác quái phá chúng ta… Cho nên chúng ta phải róc thịt chúng ra.
Bắt chúng lao động sản xuất, tự làm lấy mà ăn. Phải biết cày ruộng, cấy
lúa, trồng ngô. Đất hoang còn nhiều, bắt chúng đổ mồ hôi sôi nước mắt
kiếm miếng ăn …”
Đỗ Mười kết thúc buổi triển khai chiến dịch X-3, bằng một mấy cái chém tay như có ‘thượng phương bảo kiếm:
“Anh nào, chị nào nhụt ít chí thì lui ra một bên. Kẻ nào tỏ ra nhân
nhượng với bọn tư sản là phản bội giai cấp, không phải Bôn – sê- vích,
có tội với đảng với dân, sẽ bị trừng trị!”.
7 giờ sáng hôm sau, ngày 23-3-1978, tất cả các cửa hàng kinh doanh to
nhỏ, đủ mọi ngành nghề, ngóc ngách, đóng cửa, án binh bất động theo lệnh
của Ủy ban nhân dân thành phố. Một bản thông báo ngắn gọn do ông Vũ
Đình Liệu thay mặt UBND thành phố ký được ban hành ngay sau đó, xác nhận
“Chiến dịch X-3”, bắt đầu. Và Tất cả các cơ sở kinh doanh, buôn bán,
nhà hàng, cửa hàng, kho tàng, trung tâm dịch vụ bị niêm phong. Danh sách
đã được lên từ trước.
Đỗ Mười và đàn em Võ Văn Kiệt vui mừng vì cướp được của nhân dân Miền nam
Thứ ba, Lê Đức Thọ nắm toàn quyền thực sự trong đảng CSVN từ đại hội 3
năm 1960 với sự đồng tình của tổng bí thư Lê Duẩn. Không ai có thể ngờ
vực uy quyền tuyệt đối của Thọ, được gọi một cách kinh sợ là Sáu Búa.
Theo hồi ký "Viết cho Mẹ và Quốc Hội" của ông Nguyễn Văn Trấn (xuất bản
năm 1993), uy quyền của Thọ lớn đến nỗi ông có thể cấm cả ông Hồ phát
biểu trong một hội nghị mà ông Hồ cũng đành chịu. Được ông Trấn hỏi về
ông Lê Đức Thọ, ông Tôn Đức Thắng, chủ tịch nước, thú nhận một cách mộc
mạc: "Đ. M. , tao cũng sợ nó!". Theo nhiều nhân chứng, Thọ từng xác
quyết nhiều lần: "đảng là tao!". Mặc dù Thọ không chính thức là nhân vật
số 1 trong đảng; trong danh sách Bộ Chính Trị ông chỉ đứng hàng thứ
năm, sau các ông Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Hùng, Phạm Văn Đồng. Nhưng
Thọ lại là người nắm bộ máy đảng và là nhân vật quyền lực nhất. Thọ có
thể bắt giam những cộng sự viên của các nhân vật này mà không ai dám
chống lại hoặc đích thân chỉ huy những công tác quan trọng nhất của chế
độ khi cần: Giám sát Hội Nghị Paris và trực tiếp thương thuyết với Mỹ;
Chỉ huy cuộc tổng tấn công dứt điểm chiếm Miền Nam năm 1975 với vai trò
chính ủy. Và chính quyền lực của Lê Đức Thọ đã giúp không nhỏ cho đảng
CSVN có những hành động khủng khiếp như Cải cách ruộng đất; Phát động
cuộc chiến với Miền Nam; Tổng công kích Tết Mậu Thân 1968; Chiến dịch
mùa hè đỏ lửa 1972. Tất cả những sai lầm đó gây thiệt hại ghê gớm cho
đảng và chế độ, đồng thời cũng là những thảm kịch đối với Việt Nam. Đặc
biệt là sau năm 1975, Thọ cũng tham gia vào việc quyết định “đánh tư
sản” tại Miền Nam. Trong văn kiện đại hội đảng năm 1979 chính Thọ đã
khẳng định: “Với đường lối đúng đăn của bộ chính trị và toàn đảng,
chúng ta đã quét sạch được lũ tư bản mại bản và lấy lại những gì của
chúng…”
Hãy nhớ lấy đây cũng là gương mặt của tên cướp ngày
Thứ tư, Cũng cần phải nói qua câu chuyện của Nguyễn Tấn Dũng. Năm 1964
Nguyễn tấn Dũng đang học lớp 6 thì vào bưng theo du kích để khủng bố
nhân dân. Trong bưng Dũng vừa “đánh Mĩ cứu nước” vừa theo học bổ túc văn
hóa. Đến năm 1975 tốt nghiệp Y sĩ nhân dân và về đảm nhiệm chức vụ Thủ
trưởng bệnh viện huyện Hà Tiên. Vừa phấn đấu để lập thành tích, vừa học
hỏi để phục vụ tốt cho đảng, Dũng đã chứng tỏ là đảng viên trung kiên và
là thành phần trí thức nòng cốt, tài sản hiếm quí của đảng. Nhờ sự học
uyên bác trong quản lý kinh tế nên Dũng đã được đảng tin tưởng và giao
cho trọng trách Trưởng ban tiêu diệt tư sản mại bản tỉnh Rạch giá. Trong
đợt đánh tư sản mại bản năm 1978 tỉnh Rạch giá dưới sự chỉ đạo của Dũng
đã đạt thành tịch vượt chỉ tiêu, nêu cao ngọn cờ đầu trong công tác
tiêu diệt tư sản. Sau đó được Dũng được đề bạt nên Thiếu tướng CA nhân
dân tỉnh và đã lập thành tích rực rỡ nhờ bắt trọn ổ “phản động” Trần văn
Bá. Sự kiện Dũng phong tướng cho Bùi Tuyết Minh tại Kiên Giang vừa qua
chính là sự trả ơn cho mánh khóe làm ăn của 3 Dũng khi còn ở Rạch Giá.
Xin xem thêm “Trùm mật vụ bắt người vượt biên trở thành 'bà tướng đầu tiên' của ngành CA” của tác giả Bảng Đỏ Danlambao [12]
Đây là một tên cướp ngày của cộng sản
IV. Kết Luận:
Sau khi cướp sạch tài sản của nhân dân Việt Nam thì đảng cộng sản tiếp
tục đẩy họ ra biển với cái chết lên đến 9/10. Những chính sách tàn bạo
của đảng cộng sản là không thể bao biện và hết sức tàn ác. Không những
thế, để xóa nhòa tội ác của mình đảng cộng sản còn tiếp tục gây tội ác
với cả những thuyền nhân đã chết. Theo tờ Jakarta post ngày 20/6/2005
cho biêt là chủ tịch nước của cộng sản Việt Nam đã yêu cầu Indonexia phá
bỏ văn bia thuyền nhân bằng tuyên bố “Khẩn cấp đập tượng đài” vì lý
do”Xúc phạm tới Việt Nam” và cho rằng những nạn nhân chết thảm trên Biển
Đông là do: “Chính sách chống phá Việt Nam từ bên ngoài”.
Ngày hôm nay, những sự thật đã phơi bày, đảng cộng sản đã cho thấy mình
là một đảng cướp ngay từ nhũng ngày đầu khi cướp chính quyền của cụ Trần
Trọng Kim, cướp thành quả của nhân dân thông qua “đóng góp cho cách
mạng” và CCRĐ. Không còn cách nào khác toàn thể đồng bào trong và ngoài
nước phải đứng lên tố cáo tội ác của cộng sản để lật đổ bọn cướp ngày đã
hơn 80 năm qua cướp bóc của dân tộc Việt Nam.
02/8/2013
___________________________________-
Chú thích:
[1]. http://chauxuannguyen.org/2012/12/15/ben-thang-cuoc-phan-i-mien-nam-chuong-iii-danh-tu-san-huy-duc/
[5]. http://khungtroisaomai.com/forums/viewtopic. php?f=9&t=7699
[6]. http://www.voatiengviet.com/content/ky-niem-ngay-30-thang-4-thuyen-nhan-viet-nam-tu-nan/1651015. html
THẾ HUY * SƯ ĐOÀN III
Trả lại sự thật cho
lịch-sử về việc Sư-Đoàn 3 BB
lui quân tại Quảng-Trị vào Muà Hè Đỏ Lửa 1972
lui quân tại Quảng-Trị vào Muà Hè Đỏ Lửa 1972
THẾ HUY,
Paris
Năm nay,tháng 7/2010, trong dịp nghỉ hè tại Mỹ,chúng tôi gặp một số sĩ quan Sư-đoàn 3BB cư-ngụ tại vùng Nam California.Trong cuộc trao đổi,anh em nhắc lại kỷ niệm của những ngày binh-lửa,trong đó có cuộc lui quân của các đơn vị thuộc SĐ3 trên “Đại Lộ Kinh-Hoàng” năm 1972. Sự kiện đó đã khơi lại trong tôi nỗi bẽ bàng, đắng-cay về một trận đánh oan-khiên tới độ phi-lý mà các đơn-vị trú-phòng tại đây đã phải gánh-chịu và đấy cũng là những băn-khoăn, thắc mắc nằm sâu trong ký-ức tôi từ hơn 38 năm rưỡi qua.
Tưởng cũng phải nói ngay rằng: Khi cuộc lui quân để tái phối trí này xảy ra, tôi đang làm việc tại Ban Nghiên-cứu và Kế hoạch Đặc-biệt, dưới quyền Tr/tá Phạm-Đức-Lợi (1) thuộc Phân Khối Không-Ảnh/Phòng 2/Bộ Tổng Tham-Mưu.
Nhiệm-vụ của chúng tôi là ghi nhận tất cả mọi diễn-biến,mọi đổi thay trên toàn lãnh thổ Miền Bắc và các hoạt động địch trên Đường Mòn HCM.Trung bình mỗi tuần,chúng tôi có 2 hoặc 3 nhiệm ảnh do Hoa kỳ cung-cấp.
Chúng tôi khẳng định là TT Thiệu,Thủ-Tướng Khiêm và Đ.Tướng Viên nắm rất rõ tình-hình và biết chắc rằng VC sẽ tấn công qua vùng Phi-Quân-Sự.
Ba vị lãnh đạo cao nhất đã được chúng tôi đệ trình những tấm Slides được phóng lớn với đầy đủ chi tiết từ cuối năm1971 cho đến ngày xảy ra trận chiến vào cuối tháng 3/72 vì từ mùa thu 1971,VC đã ráo riết đưa hàng đoàn xe ủi đất và dân công để làm một lộ trình mới từ đường mòn HCM đi về hướng đông nam đến tận vùng Phi-quân-Sự.Con đường này đã được hoàn tất vào khoảng tháng 1/72
.Những tin tức tình báo kỹ thuật cũng xác nhận sự kiện đó.VC còn thiết lập các vị trí hỏa tiễn SAM, pháo 130 ly và hoả tiễn 122 ly ngay cạnh vùng Bắc PQS. Điều đó có nghĩa là các căn-cứ hoả lực cuả ta tại vùng Nam Bến-Hải đều nằm trong tầm pháo cuả VC.
Mỗi chiều thứ sáu, Đại-tá Phạm-ngọc-Thiệp, Trưởng P2/TTM đều thuyết trình trước ba vị lãnh-đạo quân sự cao nhất cuả VNCH về tình hình QS tại toà nhà chính Bộ TTM, nhưng những hoạt-động địch tại phía Bắc vùng PQS vẫn tiếp tục. Hơn thế nữa, khi VC làm tiếp đoạn đường này xuyên qua sông Bến Hải vào tận vùng Phi-quân-Sự phía Nam mà vẫn không thấy bên ta động tĩnh gì,mặc dù nhiều lần chúng tôi đã xin Không Quân HK oanh-kích. Sự bỏ ngỏ và thái-độ khó hiểu cuả các giới chức Việt/Mỹ lúc đó đã làm cho chúng tôi hết sức kinh-ngạc.
· I. Mạn
đàm với Chuẩn-tướng Vũ-văn-Giai,Cựu Tư-lệnh SĐ3BB:
Cuộc trò truyện với các chiến hữu SĐ3 khiến tôi nghĩ đến việc tìm hiểu thêm để
viết về những điều đã khiến tôi bận tâm và băn khoăn từ mấy chục năm qua. Bởi
vậy,tôi ngỏ ý muốn gặpTướng Giai để biết them về những điều mà tôi nghĩ rằng
chỉ có ông mới trả lời chính xác được. Bốn ngày sau,vào trung tuần tháng
7/2010,tôi đến gặp Tướng Giai tại tư gia của ông cũng ở Nam California. Đi cùng
với tôi là Tr/tá Nguyễn-tri-Tấn,cựu tr/đoàn phó trung đoàn 2/SĐ3. Khi VC tấn
công qua sông Bến Hải, ông Tấn là tiểu-đoàn-trưởng TĐ3/2/SĐ3. Ông là người rất
gần gũi với Tướng Giai vì đã cùng tham dự cuộc hành quân Lam Sơn 719 tại Hạ Lào
trước đây.
Vì làm việc chung với Mỹ nên chúng tôi thường sử-dụng các tên ngoại quốc mà người Mỹ đã đặt cho các căn-cứ hoả lực tại vùng nam vĩ-tuyến 17.Do đó,chúng tôi muốn biết là khi VC tấn công, các căn-cứ này do Hoa kỳ hay VN trấn giữ thì Tướng Giai cho hay là hoàn toàn do VNCH trách nhiệm.
Về việc VC sửa soạn tấn-công, Tướng Giai tiết lộ rằng ông đã được cố vấn Mỹ báo trước,nhưng trong cương-vị của mình, ông không thể làm gì hơn được. Khi cuộc chiến xảy ra, các cố vấn Mỹ khuyên ông lui quân để phòng thủ ở tuyến sau vì theo họ, lực lượng trú phòng cuả ta không thể đương cự được. Được hỏi về dư luận cho rằng Tướng Hoàng-xuân-Lãm ra khẩu lệnh cho ông rút quân, nhưng sau đó Tướng Lãm đã phủ nhận để tránh trách nhiệm;Tướng Giai trả lời rằng điều đó không đúng.Ngược lại,ông Lãm muốn SĐ3 giữ nguyên vị-trí, dù áp-lực và các trận địa pháo của địch đã phá vỡ nhiều phòng tuyến khiến các đơn vị phòng thủ hoang mang và vô cùng hoảng hốt.
Tướng Giai cũng cho chúng tôi biết thêm là ngay từ đầu, HK đã chống lại việc thành lập SĐ3 vì họ đã chuẩn bị cho việc rút quân Mỹ ra khỏi VN và không chấp nhận việc tăng quân viện cho VNCH.SĐ3/BB ra đời hoàn toàn do quyết định của Bộ TTM/QLVNCH.Do đó,Mỹ hầu như bỏ mặc cho phía VN xoay trở với những khó khăn tại vùng địa đầu giới tuyến do SĐ này đảm-trách.Sự kiện trên khiến tôi liên tưởng tới cái chết của Đại tá Lê đức Đạt,TL/SĐ22 vì ông không được cảm tình cuả John Paul Vann, người cố vấn Mỹ “rất đặc biệt” tại Quân-đoàn 2 lúc đó.
Trả lời câu hỏi là trước khi VC mở cuộc tấn-công và với tình hình sôi động như vậy,SĐ3 có được tăng cường đặc biệt bằng các đơn vị tổng-trừ-bị hay không; Tướng Giai xác-nhận là các đơn-vị TQLC và BĐQ thì đã được tăng phái cho SĐ3 từ khá lâu.Riêng trong những ngày trước khi cuộc đánh đẫm máu xảy ra thì không có thêm lực lượng nào khác.
Ngoài ra, Cựu TL/SĐ3 còn cho chúng tôi hay rằng: Trước đó một tháng, Tướng Lavelle,Tư-lệnh Không-quân Mỹ tại Thái-bình-Dương vì ra lệnh cho KQ Mỹ bắn cháy một số xe tăng của VC nên ông ta đã bị Mỹ cách chức,lột lon và truy-tố!.
Cũng trong cuộc mạn đàm này,chúng tôi được biết thêm là song song với những biến chuyển cuả tình hình Quảng Trị, Mỹ và VC vẫn tiếp tục gặp gỡ nhau trên bàn Hội Nghị Paris, và từ trước năm 1971,hai bên đã thoả thuận về việc cấm mọi hoạt động của các phi cơ quân sự Việt-Mỹ tại vùng Bắc sông Bến Hải.Sự kiện này khiến chúng tôi hiểu tại sao những bản “Đề nghị mục tiêu oanh kích” mà chúng tôi gửi cho BTL/MACV cuả Mỹ ở Sàigon,vào thời điểm đó, đã không được thực hiện. Đấy cũng là lý do khiến KQ/VNCH từ Đà Nẵng không được phép tấn công và phá hủy ngay từ khi VC bắt đầu mở lộ trình mới từ đường mòn HCM dẫn đến vùng Bến Hải hầu tiếp cận các căn cứ hoả lực và các đơn vị phòng thủ cuả VNCH tại phiá nam cuả vùng PQS.Rõ ràng là HK đã dọn đường và dành mọi điều kiện thuận lợi cho VC tấn công VNCH mà trước đó họ vẫn ca tụng là “Tiền đồn chống Cộng” cuả Thế giới Tự Do.Tổng Thống Thiệu, Đ.T.Viên dư biết các sự kiện đó,nhưng tại sao các ông không tìm một biện pháp nào tương xứng để phòng bị hoặc đối phó? Phải chăng VNCH đã được lãnh đạo bởi những người không đủ đảm lược và tầm vóc ?
Tướng Giai còn cho chúng tôi hay rằng cũng vào thời điểm này, TT Thiệu tuyên bố ngụ ý rằng đây sẽ là mồ chôn của VC.
Chúng tôi hỏi là:Về tương quan lực lượng giữa ta và địch trước khi VC tấn-công vào vùng hoả tuyến, niên-trưởng có nghĩ rằng việc sử dụng một sư-đoàn tân-lập với một quân số phức-tạp như SĐ3/BB để đương đầu với một lực lượng VC có một quân số nhiều lần lớn hơn và được tăng,pháo yểm trợ mạnh-mẽ; là một sai lầm nghiêm-trọng của Bộ TTM ở Sàigon hay không? Tướng Giai không trả lời, ông mỉm cười,một nụ cười héo hon, chua xót khiến chúng tôi chạnh lòng và xúc-động. Những thắc mắc của chúng tôi hầu như đã được giải tỏa. Hơn nữa, chúng tôi không muốn khơi lại vết thương lòng của một vị tướng vừa được vinh thăng tại mặt trận,nhưng chỉ it lâu sau đó,bị tước đoạt binh-quyền và khi VC chiếm được Miền Nam, ông lại bị Cộng Sản đọa đầy thêm 13 năm nữa. Ông hiện sống âm thầm, ẩn-dật và khép kín trong một chung cư dành cho người già cùng người vợ yếu đau và chính ông, sức khoẻ cũng không được khả quan lắm.
Có lẽ vì định mệnh,khi BTL SĐ3/BB di chuyển về căn cứ Hoà Khánh tại phiá nam đèo Hải Vân, gần Ngã Ba Huế; tôi được thuyên chuyển từ Sàigon ra tăng cường cho P2/SĐ3.Ngay sau khi trình diện Ch/Tướng Hinh TL/SĐ3,tôi được gửi ra BTL Tiền phương đóng tại Hương An và đi bay với các toán trực thăng Mỹ trong các cuộc hành quân “lấn đất giành dân” trước khi bản Hiệp Định Paris được ký kết vào ngày 27/01/1973. Trong gần ba năm,tôi đã chứng kiến điều kiện chiến đấu khó khăn cuả các đơn vị tiền đồn và tôi hiểu rằng Miền Nam sẽ mất vào bất cứ lúc nào.
Tiếp liệu và đạn dược bị hạn chế tối đa.Một viên đạn bắn đi là kho đạn trung ương hao đi một ít vì không được bổ sung.Nguyên tắc “một đổi một” được quy định trong HĐ Paris không được phía HK thực hiện. Điều đó có nghĩa:VNCH là một con bệnh mắc chứng nan y nằm chờ chết!. Chiến đấu trong hoàn cảnh đó là chiến đấu trong nỗi tuyệt vọng.Ai chịu trách nhiệm về việc này?
Tại Ngã Ba Huế,tôi chứng kiến cảnh dân quân VNCH từ Huế vượt đèo Hải Vân vào Đà Nẵng trong những ngày 21-22/3/75. Đúng một tuần lễ sau, lúc 00giờ20 ngày 29/3/75,tôi cũng là một trong những người sau cùng rời Căn cứ Hoà Khánh bằng đường bộ sau khi Tướng Hinh và một số sĩ quan cao cấp nhất có mặt tại BTL/SĐ3 lên trực thăng bay ra tàu Mỹ đậu ngoài khơi gần Đà Nẵng. Hai mươi mốt ngày sau, tôi tìm về được với gia đình và người thân ở Sàigon đúng 10 ngày trước khi thủ đô cuả VNCH rơi vào tay CS.
Vì làm việc chung với Mỹ nên chúng tôi thường sử-dụng các tên ngoại quốc mà người Mỹ đã đặt cho các căn-cứ hoả lực tại vùng nam vĩ-tuyến 17.Do đó,chúng tôi muốn biết là khi VC tấn công, các căn-cứ này do Hoa kỳ hay VN trấn giữ thì Tướng Giai cho hay là hoàn toàn do VNCH trách nhiệm.
Về việc VC sửa soạn tấn-công, Tướng Giai tiết lộ rằng ông đã được cố vấn Mỹ báo trước,nhưng trong cương-vị của mình, ông không thể làm gì hơn được. Khi cuộc chiến xảy ra, các cố vấn Mỹ khuyên ông lui quân để phòng thủ ở tuyến sau vì theo họ, lực lượng trú phòng cuả ta không thể đương cự được. Được hỏi về dư luận cho rằng Tướng Hoàng-xuân-Lãm ra khẩu lệnh cho ông rút quân, nhưng sau đó Tướng Lãm đã phủ nhận để tránh trách nhiệm;Tướng Giai trả lời rằng điều đó không đúng.Ngược lại,ông Lãm muốn SĐ3 giữ nguyên vị-trí, dù áp-lực và các trận địa pháo của địch đã phá vỡ nhiều phòng tuyến khiến các đơn vị phòng thủ hoang mang và vô cùng hoảng hốt.
Tướng Giai cũng cho chúng tôi biết thêm là ngay từ đầu, HK đã chống lại việc thành lập SĐ3 vì họ đã chuẩn bị cho việc rút quân Mỹ ra khỏi VN và không chấp nhận việc tăng quân viện cho VNCH.SĐ3/BB ra đời hoàn toàn do quyết định của Bộ TTM/QLVNCH.Do đó,Mỹ hầu như bỏ mặc cho phía VN xoay trở với những khó khăn tại vùng địa đầu giới tuyến do SĐ này đảm-trách.Sự kiện trên khiến tôi liên tưởng tới cái chết của Đại tá Lê đức Đạt,TL/SĐ22 vì ông không được cảm tình cuả John Paul Vann, người cố vấn Mỹ “rất đặc biệt” tại Quân-đoàn 2 lúc đó.
Trả lời câu hỏi là trước khi VC mở cuộc tấn-công và với tình hình sôi động như vậy,SĐ3 có được tăng cường đặc biệt bằng các đơn vị tổng-trừ-bị hay không; Tướng Giai xác-nhận là các đơn-vị TQLC và BĐQ thì đã được tăng phái cho SĐ3 từ khá lâu.Riêng trong những ngày trước khi cuộc đánh đẫm máu xảy ra thì không có thêm lực lượng nào khác.
Ngoài ra, Cựu TL/SĐ3 còn cho chúng tôi hay rằng: Trước đó một tháng, Tướng Lavelle,Tư-lệnh Không-quân Mỹ tại Thái-bình-Dương vì ra lệnh cho KQ Mỹ bắn cháy một số xe tăng của VC nên ông ta đã bị Mỹ cách chức,lột lon và truy-tố!.
Cũng trong cuộc mạn đàm này,chúng tôi được biết thêm là song song với những biến chuyển cuả tình hình Quảng Trị, Mỹ và VC vẫn tiếp tục gặp gỡ nhau trên bàn Hội Nghị Paris, và từ trước năm 1971,hai bên đã thoả thuận về việc cấm mọi hoạt động của các phi cơ quân sự Việt-Mỹ tại vùng Bắc sông Bến Hải.Sự kiện này khiến chúng tôi hiểu tại sao những bản “Đề nghị mục tiêu oanh kích” mà chúng tôi gửi cho BTL/MACV cuả Mỹ ở Sàigon,vào thời điểm đó, đã không được thực hiện. Đấy cũng là lý do khiến KQ/VNCH từ Đà Nẵng không được phép tấn công và phá hủy ngay từ khi VC bắt đầu mở lộ trình mới từ đường mòn HCM dẫn đến vùng Bến Hải hầu tiếp cận các căn cứ hoả lực và các đơn vị phòng thủ cuả VNCH tại phiá nam cuả vùng PQS.Rõ ràng là HK đã dọn đường và dành mọi điều kiện thuận lợi cho VC tấn công VNCH mà trước đó họ vẫn ca tụng là “Tiền đồn chống Cộng” cuả Thế giới Tự Do.Tổng Thống Thiệu, Đ.T.Viên dư biết các sự kiện đó,nhưng tại sao các ông không tìm một biện pháp nào tương xứng để phòng bị hoặc đối phó? Phải chăng VNCH đã được lãnh đạo bởi những người không đủ đảm lược và tầm vóc ?
Tướng Giai còn cho chúng tôi hay rằng cũng vào thời điểm này, TT Thiệu tuyên bố ngụ ý rằng đây sẽ là mồ chôn của VC.
Chúng tôi hỏi là:Về tương quan lực lượng giữa ta và địch trước khi VC tấn-công vào vùng hoả tuyến, niên-trưởng có nghĩ rằng việc sử dụng một sư-đoàn tân-lập với một quân số phức-tạp như SĐ3/BB để đương đầu với một lực lượng VC có một quân số nhiều lần lớn hơn và được tăng,pháo yểm trợ mạnh-mẽ; là một sai lầm nghiêm-trọng của Bộ TTM ở Sàigon hay không? Tướng Giai không trả lời, ông mỉm cười,một nụ cười héo hon, chua xót khiến chúng tôi chạnh lòng và xúc-động. Những thắc mắc của chúng tôi hầu như đã được giải tỏa. Hơn nữa, chúng tôi không muốn khơi lại vết thương lòng của một vị tướng vừa được vinh thăng tại mặt trận,nhưng chỉ it lâu sau đó,bị tước đoạt binh-quyền và khi VC chiếm được Miền Nam, ông lại bị Cộng Sản đọa đầy thêm 13 năm nữa. Ông hiện sống âm thầm, ẩn-dật và khép kín trong một chung cư dành cho người già cùng người vợ yếu đau và chính ông, sức khoẻ cũng không được khả quan lắm.
Có lẽ vì định mệnh,khi BTL SĐ3/BB di chuyển về căn cứ Hoà Khánh tại phiá nam đèo Hải Vân, gần Ngã Ba Huế; tôi được thuyên chuyển từ Sàigon ra tăng cường cho P2/SĐ3.Ngay sau khi trình diện Ch/Tướng Hinh TL/SĐ3,tôi được gửi ra BTL Tiền phương đóng tại Hương An và đi bay với các toán trực thăng Mỹ trong các cuộc hành quân “lấn đất giành dân” trước khi bản Hiệp Định Paris được ký kết vào ngày 27/01/1973. Trong gần ba năm,tôi đã chứng kiến điều kiện chiến đấu khó khăn cuả các đơn vị tiền đồn và tôi hiểu rằng Miền Nam sẽ mất vào bất cứ lúc nào.
Tiếp liệu và đạn dược bị hạn chế tối đa.Một viên đạn bắn đi là kho đạn trung ương hao đi một ít vì không được bổ sung.Nguyên tắc “một đổi một” được quy định trong HĐ Paris không được phía HK thực hiện. Điều đó có nghĩa:VNCH là một con bệnh mắc chứng nan y nằm chờ chết!. Chiến đấu trong hoàn cảnh đó là chiến đấu trong nỗi tuyệt vọng.Ai chịu trách nhiệm về việc này?
Tại Ngã Ba Huế,tôi chứng kiến cảnh dân quân VNCH từ Huế vượt đèo Hải Vân vào Đà Nẵng trong những ngày 21-22/3/75. Đúng một tuần lễ sau, lúc 00giờ20 ngày 29/3/75,tôi cũng là một trong những người sau cùng rời Căn cứ Hoà Khánh bằng đường bộ sau khi Tướng Hinh và một số sĩ quan cao cấp nhất có mặt tại BTL/SĐ3 lên trực thăng bay ra tàu Mỹ đậu ngoài khơi gần Đà Nẵng. Hai mươi mốt ngày sau, tôi tìm về được với gia đình và người thân ở Sàigon đúng 10 ngày trước khi thủ đô cuả VNCH rơi vào tay CS.
· II.
Phân-tích và nhận định về cuộc lui quân để tái phố trí của SĐ3/BB khỏi
Quảng-Trị năm 1972:
Chúng tôi không nhắc lại chi-tiết của các trận đánh vì trong suốt mấy chục năm
qua, nhiều tác-giả tham-dự trong biến cố này đã viết khá đầy đủ.Hơn nữa, đó
cũng không phải là chủ-đích của bài viết này.
Theo quan niệm của chúng tôi thì sự thành công hay thất bại,dù huy-hoàng hay chua xót tới đâu,chúng ta cũng có thể phân-tích và nhận-định một cách khách-quan để từ đấy, rút ra những kinh-nghiệm hữu-ích cho các thế hệ tương lai, nhất là những thất bại, để con cháu chúng ta không rơi vào vết xe đau thương và bẽ bàng cuả ông cha chúng.
Để nhìn vấn-đề một cách trung-thực và chính xác hơn,chúng ta phải nhìn từ “góc cạnh chính trị” của cuộc chiến VN vào thời điểm đó.Tuy nhiên, trên bình-diện thuần túy quân-sự,qua việc thất bại ấy,chúng ta ghi nhận những khuyết điểm sau:
Theo quan niệm của chúng tôi thì sự thành công hay thất bại,dù huy-hoàng hay chua xót tới đâu,chúng ta cũng có thể phân-tích và nhận-định một cách khách-quan để từ đấy, rút ra những kinh-nghiệm hữu-ích cho các thế hệ tương lai, nhất là những thất bại, để con cháu chúng ta không rơi vào vết xe đau thương và bẽ bàng cuả ông cha chúng.
Để nhìn vấn-đề một cách trung-thực và chính xác hơn,chúng ta phải nhìn từ “góc cạnh chính trị” của cuộc chiến VN vào thời điểm đó.Tuy nhiên, trên bình-diện thuần túy quân-sự,qua việc thất bại ấy,chúng ta ghi nhận những khuyết điểm sau:
1. Thành phần:
Thành phần chủ-lực cuả SĐ3 là Tr/đoàn 2 lấy ra từ SĐ1.Đặc biệt ,Tr/đoàn này có tới 5 tiểu đoàn.Khi được chuyển qua SĐ3 thì 3 tiểu đoàn ở lại với Tr/Đ2.Đây là một đơn vị dạn dày tác-chiến và nổi danh từ lâu tại vùng giới tuyến.Nhưng hai trung đoàn 56 và 57 thì mỗi trung đoàn có một tiểu đoàn còn lại cuảTr/Đ2 trước kia và một tiểu đoàn lấy ra từ SĐ2BB;số còn lại là các tân binh quân-dịch, địa phương quân, nghĩa quân và lao công đào binh chưa có kinh nghiệm chiến-trường mà đột nhiên phải đối mặt với một trận đánh bốc lửa có cả tăng,pháo và các loại vũ khí nặng của VC đánh phủ đầu thì việc thất trận không làm ai ngạc nhiên.Vả lại,chúng ta đừng quên rằng SĐ3 và các đơn-vị tăng phái đã phải đối-đầu với một lực lượng địch đông gấp 3 lần về quân số, và chiến trường đã được VC sửa soạn kỹ từ nhiều tháng trước.
2. Tinh-thần và khả
năng chiến đấu:
Chỉ 3 ngày sau khi VC mở trận đánh, căn-cứ Holcomb của TĐ8/TQLC đã bị VC tràn ngập.Ngay sau đó,việc đầu hàng của Tr/tá Đính,Tr/đoàn trưởng tr/đoàn 56 tại căn-cứ Tân-Lâm cùng 1500 binh-sĩ dưới quyền đã làm chấn động tinh thần quân nhân các cấp khiến nó trở thành một phản ứng dây chuyền trong những tuần lễ tiếp theo đối với các đơn vị khác.Hiện-tượng này đã được lập lại trong cuộc di-tản ồ ạt vào cuối tháng 3 và đầu tháng 4/75 tại Miền Trung trước khi mất nước.
Tóm lại,với một tương quan lực lượng như thế và với tình hình phức tạp từ trung ương đến địa phương như đã trình bày ở trên, chúng ta có thể kết luận rằng bất cứ một tướng lãnh nào, dù tài giỏi đến mấy,cũng khó có thể thay đổi được tình thế bởi nó đã vượt ra ngoài tầm kiểm soát cuả các cấp chỉ-huy.Các đơn vị tăng phái nhiều khi nhận lệnh theo hệ thống hàng dọc từ đơn vị mình chứ không hoàn toàn nằm dưới sự điều động cuả Tướng Giai.Với quân số như thế, cuộc hành quân này trở thành một cuộc hành quân cấp quân đoàn, vượt khỏi khả năng của Tướng Giai vừa được vinh thăng chuẩn tướng sau cuộc hành quân Hạ Lào 1971, nhất là nó lại xảy ra đúng vào lúc mà tinh thần quân nhân các cấp đang bị hoang mang ,giao động hết mức.
Chỉ 3 ngày sau khi VC mở trận đánh, căn-cứ Holcomb của TĐ8/TQLC đã bị VC tràn ngập.Ngay sau đó,việc đầu hàng của Tr/tá Đính,Tr/đoàn trưởng tr/đoàn 56 tại căn-cứ Tân-Lâm cùng 1500 binh-sĩ dưới quyền đã làm chấn động tinh thần quân nhân các cấp khiến nó trở thành một phản ứng dây chuyền trong những tuần lễ tiếp theo đối với các đơn vị khác.Hiện-tượng này đã được lập lại trong cuộc di-tản ồ ạt vào cuối tháng 3 và đầu tháng 4/75 tại Miền Trung trước khi mất nước.
Tóm lại,với một tương quan lực lượng như thế và với tình hình phức tạp từ trung ương đến địa phương như đã trình bày ở trên, chúng ta có thể kết luận rằng bất cứ một tướng lãnh nào, dù tài giỏi đến mấy,cũng khó có thể thay đổi được tình thế bởi nó đã vượt ra ngoài tầm kiểm soát cuả các cấp chỉ-huy.Các đơn vị tăng phái nhiều khi nhận lệnh theo hệ thống hàng dọc từ đơn vị mình chứ không hoàn toàn nằm dưới sự điều động cuả Tướng Giai.Với quân số như thế, cuộc hành quân này trở thành một cuộc hành quân cấp quân đoàn, vượt khỏi khả năng của Tướng Giai vừa được vinh thăng chuẩn tướng sau cuộc hành quân Hạ Lào 1971, nhất là nó lại xảy ra đúng vào lúc mà tinh thần quân nhân các cấp đang bị hoang mang ,giao động hết mức.
3. Các yếu-tố chính-trị liên quan đến chiến cuộc tại Miền Nam:
Trước tình hình hết sức xáo trộn tại Miền Nam sau ngày QĐ đảo chính lật đổ chính-phủ Đệ Nhất Cộng Hoà,người Mỹ đến VN “gọi là” để giúp VNCH trong cuộc chiến đấu chống cộng và họ hy vọng rằng chiến tranh sẽ chấm dứt trong một thời gian ngắn bởi họ tin-tưởng hầu như tuyệt đối vào hiệu năng cuả võ khí.
QĐ Mỹ đã chiến thắng hai cuộc Đại Chiến Thế Giới và đã thắng trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, đè bẹp đạo quân Trung-cộng và Bắc Hàn năm 1953 nên người Mỹ nghĩ rằng sẽ dễ dàng giải quyết cuộc chiến tại VN.Những người làm sách lược và chỉ huy QĐ Hoa Kỳ không hiểu được bản chất và sách lược cuả cuộc chiến tranh du-kích là kéo dài thời gian làm cho đối phương mất kiên nhẫn, mệt mỏi,chán nản và căng thẳng thần kinh khiến đối thủ phải bỏ cuộc. Với phương thức đánh lén, đánh trộm, họ có thể tấn công đối thủ vào những lúc bất ngờ và thuận lợi nhất nên dễ đạt được kết quả mà chỉ cần rất ít người tham chiến.Giả dụ,nếu thua họ sẽ dễ dàng trà trộn vào đám đông,quần chúng hay trốn vào rừng hoặc chạy qua biên-giới các nước bên cạnh.Qua hình-thái chiến tranh ấy,VC đã làm cho người Mỹ chán nản vì bị thiệt hại khá nhiều về sinh mạng cũng như về ngân sách mà kết quả đạt được không như dự tính.
Bản chất cuả người Mỹ là mau chán,tiết kiệm thời gian.Làm việc gì họ cũng đặt nặng vấn đề thời gian và năng suất bởi vậy cuối năm 1964 họ đổ quân vào VN và cuối năm 1967 họ đã nghĩ đến việc rút quân. Việc QĐ Hoa Kỳ án binh bất động khi VC bắt đầu tấn công QLVNCH trong những ngày đầu cuả Tết Mậu Thân 1968 đã một phần chứng minh điều đó.Cá nhân chúng tôi không tin rằng các cơ quan tình báo Mỹ không biết gì về cuộc Tổng-công-Kích này trước khi nó xảy ra.Là một nước cổ súy cho tự do và dân chủ,nhưng những người lãnh đạo Hoa Kỳ ít quan tâm đến tâm lý,lịch sử,truyền thống và văn hoá của người bản xứ.Người Mỹ cũng không muốn hiểu rằng sự có mặt cuả QĐ Mỹ ở VN đã tạo cơ hội cho khối CSQT mở rộng mặt trận tuyên truyền lừa gạt dư luận thế giới rằng VC đánh VNCH và Mỹ là để giải phóng Miền Nam; dù thực chất đó là một cuộc xâm lăng nhằm mở rộng Khối CSQT vì cuộc chiến VN đã bắt đầu 7 năm trước khi QĐ Mỹ đến VN.Mỗi năm CSQT đã chi ra hàng trăm triệu mỹ kim về lãnh vực đó và kết quả là dư luận thế giới nghiêng về phiá VC.Các cuộc biểu tình chống Mỹ xảy ra tại khắp nơi trên thế giới và ngay tại nước Mỹ do các thành phần phản chiến và thiên tả Mỹ chủ trương. Điều đó mặc nhiên bất lợi cho cả Mỹ lẫn VNCH.
Nước Mỹ mỗi tháng tiếp nhận hàng trăm quan tài,hàng ngàn thương binh trở về từ một nước xa xôi,không liên hệ gì đến đời sống hàng ngày của họ trong khi chi phí quốc phòng mỗi năm một tăng ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân. Đã thế, họ còn bị cả thế giới lên án thì việc chống chiến tranh cũng là một phản ứng dễ hiểu và tự nhiên.Hơn nữa,phe đối lập tại Thượng và Hạ Viện Mỹ đả kích chính phủ để kiếm phiếu trong các muà bầu cử cũng là một yếu tố khiến Mỹ muốn rút khỏi VN. Được sự viện trợ và thúc đẩy cuả CSQT, VC ngày càng mở những trận đánh quy mô hơn và tổn thất cuả mỗi bên ngày một lớn.Sinh mạng con người đối với CS chẳng nghĩa lý gì, nhưng sinh mạng người lính Mỹ khiến gia đình họ phải lo lắng nên họ đòi chính phủ HK phải chấm dứt chiến tranh bằng mọi giá để chồng con cuả họ được lành lặn trở về trước khi trở thành quá trễ.
4. Mục tiêu cuả chính phủ HK khi tham chiến tại VN:
Là một quốc gia giàu mạnh với tất cả các cơ cấu hạ tầng vĩ đại và tối tân,do đó không bao giờ HK muốn chiến tranh xảy ra ngay trên lãnh thổ cuả mình vì sự thiệt hại về tài sản cũng như về nhân mạng sẽ vô cùng to lớn. Đó là lý do khiến HK tham dự vào 2 cuộc thế chiến ở phiá bên kia bán cầu và ở Cao Ly .
Sau thế chiến thứ 2,khối CSQT lớn mạnh và chủ trương phát động cuộc chiến tranh xâm lấn khiến HK phải áp dụng sách lược bao vây để chận đứng.Với cương vị đứng đầu phe tư bản và thế giới tự do,Mỹ viện trợ cho các nước có chiến tranh bằng chính ngân sách cuả mình để phe thân Mỹ thắng hoặc nắm được ưu thế,chứ không nhằm biến các nước này thành thuộc địa như Pháp,Anh,Tây-ban-Nha,Bồ đào Nha đã làm từ cuối thế kỷ thứ 19.Riêng tại VN,trong cuộc chiến vừa qua,HK muốn dùng VNCH như một bức tường để ngăn chặn CSQT bành trướng về phía ĐNA vì theo quan điểm của Mỹ lúc ấy,họ cho rằng nếu VNCH sụp đổ thì các nước lân bang cuả VN sẽ dần dần rơi vào quỹ đạo cuả CS.VNCH chấp nhận HK là đồng minh vì cả hai có cùng một chủ đích chống CS.Vả lại,ngoài HK ra,VNCH không còn một lựa chọn nào khác.Tuy nhiên, việc HK gửi quân sang VN là một điều thất sách như đã đưọc nói đến ở trên.
5. Lý do khiến Mỹ muốn rút quân ra khỏi VN:
Ngoài nguyên nhân là phản ứng bất lợi cuả quần chúng,chính phủ Mỹ còn nghĩ rằng nếu dùng ưu thế về võ khí để thắng trong cuộc chiến VN thì Mỹ lại phải đương đầu trực tiếp với Trung Cộng. Lúc ấy điểm nóng cuả chiến tranh sẽ là vùng biên giới Việt Trung. Điều đó nhất định không phải là điều HK mong muốn. Hơn nữa,hơn ai hết,bằng những hình ảnh chụp bằng phi-cơ U2 bay trên thượng tầng khí quyển và không ảnh chụp từ vệ tinh,HK biết rất rõ rằng tại biên giới giữa Liên bang Xô Viết và Trung Cộng, mỗi bên đều dàn hơn 20 sư đoàn sẵn sàng tác chiến vì sự xung đột về ý-thức-hệ, và vì cả hai đều muốn cầm đầu khối CSQT. Đấy cũng là động lực thúc đẩy Mỹ làm thân với TC và mượn tay TC ngăn chận Nga mở rộng ảnh hưởng về phiá nam vì vào thời điểm ấy, tiềm lực quân sự của TC chưa thể là đối thủ và là mối bận tâm hàng đầu của Mỹ. Qua chiến lược đó,VNCH bắt buộc trở thành “vật hy sinh để tế thần”, cùng chung số phận với Đài Loan bị đẩy ra khỏi các tổ chức Quốc Tế vì Mỹ muốn làm vừa lòng “người bạn mới”. Đó là kết quả cuả chính sách”ngoại giao bóng bàn” cuả Henry Kissinger và Richard Nixon .Tình nghiã đồng minh với VNCH và Đài Loan chấm dứt!. VNCH bị bức tử.
Hai mươi năm sau,Liên Bang Xô Viết và khối CS Đông Âu sụp đổ. Trung Cộng mỗi ngày một lớn mạnh về kinh tế lẫn quân sự và qua những biến cố tại Biển Đông từ hơn 10 năm qua, trở thành mối lo hàng đầu của Mỹ. Trong bối cảnh ấy, HK lại tìm mọi cách để làm thân với VC để tìm một chỗ đứng tại vùng Đông Nam Á châu hầu cân bằng cán cân thế lực tại khu vực này của thế giới.
· III.Kết
Luận:
Nhiều người trách Mỹ phản bội VNCH. Họ có thể đúng nếu trên lãnh vực bang giao
QT buộc tất cả các nước trên thế giới hành sử theo nguyên tắc: Nhân, Nghĩa,Lễ,
Trí,Tín.Tiếc rằng,điều đó sẽ không bao trở thành sự thật như một quy-ước bắt mọi
người phải tôn trọng nên mỗi quốc gia đều làm những gì có lợi nhất cho mình.Hơn
ai hết,HK đã từ lâu theo đuổi chủ trương ấy. Tôi không nhớ tên một nhà lãnh đạo
nào đó của HK đã thẳng thắn xác định ngụ ý rằng HK không có Bạn,cũng không có
Thù, chỉ có quyền lợi của HK là trên hết.
Cuộc chiến VN đã kết thúc một cách đau thương, đầy nước mắt và cuộc lui quân cuả SĐ3/BB tại Vùng Hoả Tuyến năm 1972 là bước khởi đầu cho nỗi đắng cay và đọa đầy chung cuả cả Dân Tộc.
Khi chính trị chen vào bất cứ lãnh vực nào thì mọi lý lẽ và đạo đức phải đội nón ra đi !!.
Xin một phút mặc niệm cho tất cả những người đã nằm xuống vì LÝ-TƯỞNG TỰ DO.Chúng tôi nghiêng mình trước nỗi thống khổ cuả những chiến hữu đã bị đọa đầy,khổ nhục sau cuộc chiến đấu “oan khiên nhưng hào hùng và gian khổ” để bảo vệ Đất Nước.
THẾ HUY, Paris.
Viết xong tại California ngày 19/7/2010.
Cuộc chiến VN đã kết thúc một cách đau thương, đầy nước mắt và cuộc lui quân cuả SĐ3/BB tại Vùng Hoả Tuyến năm 1972 là bước khởi đầu cho nỗi đắng cay và đọa đầy chung cuả cả Dân Tộc.
Khi chính trị chen vào bất cứ lãnh vực nào thì mọi lý lẽ và đạo đức phải đội nón ra đi !!.
Xin một phút mặc niệm cho tất cả những người đã nằm xuống vì LÝ-TƯỞNG TỰ DO.Chúng tôi nghiêng mình trước nỗi thống khổ cuả những chiến hữu đã bị đọa đầy,khổ nhục sau cuộc chiến đấu “oan khiên nhưng hào hùng và gian khổ” để bảo vệ Đất Nước.
THẾ HUY, Paris.
Viết xong tại California ngày 19/7/2010.
No comments:
Post a Comment