Wednesday, March 20, 2013
DU TỬ LÊ * TÔ THÙY YÊN
DU TỬ LÊ * Tô Thùy Yên, một trong những tiếng thơ lớn, của 20 năm văn chương miền Nam
Tô Thùy Yên, theo tôi, là một trong những nhà thơ của 20 năm văn học miền Nam, có ảnh hưởng rộng, lớn. Cái ảnh hưởng rộng, lớn ông có được, không phải vì ông cùng với Thanh Tâm Tuyền là hai “mũi nhọn xung kích” thổi bùng ngọn lửa thơ tự do ở miền Nam, như một số người ngộ nhận.
Sự thực, cùng với Thanh Tâm Tuyền,
những người tận hiến tâm huyết mình, cho mục đích xiển dương thơ tự do ở miền
Nam (giới hạn trong phạm vi tạp chí Sáng Tạo,) là Quách Thoại, Trần Dạ Từ, Trần
Lê Nguyễn, Đỗ Quý Toàn, Ngọc Dũng, Người Sông Thương (bút hiệu của Nguyễn Sĩ
Tế)…chứ không phải là Tô Thùy Yên. Những bài thơ của ông, được yêu thích nhất,
cũng không phải là những bài thơ Tự Do mà, lại là thơ vần, điệu. Hoặc những bài
ông dung hoà được đặc tính của thơ tự do và thơ cũ (như một số tác giả cùng
thời khác đã thành công. Điển hình, như cố thi sĩ Nguyên Sa.)
Duyệt lại hành trình thi ca Tô Thùy
Yên, 20 năm văn chương miền Nam, căn cứ trên mấy chục số tạp chí Sáng Tạo, từ
bộ cũ đến bộ mới; bên cạnh những bài thơ tự do, Tô Thùy Yên còn có nhiều, khá
nhiều, những bài thơ có vần, điệu. Đôi khi vần, điệu của ông, nơi những
bài thơ ấy, còn chặt chẽ hơn cả những thi sĩ thời tiền chiến nữa. Trong thể loại
này, Tô Thùy Yên trội, bật nhất là thể thơ 7 chữ.
Bài thơ đầu tiên (?) của Tô Thùy Yên
được giới thiệu trên Sáng Tạo, gây tiếng vang lớn và, dư âm của nó, kéo dài
nhiều năm sau, là “Cánh đồng con ngựa chuyến tàu” viết tháng 4 năm 1956. Một
bài thơ 7 chữ.
Bài thơ này có tất cả 15 câu, toàn
vần “au.” Rất chặt chẽ. Bài thơ đó, nguyên văn như sau:
“Trên cánh đồng hoang thuần một mầu
“Trên cánh đồng hoang dài đến đỗi
“Tàu chạy mau mà qua rất lâu.
“Tàu chạy mau, tàu chạy rất mau.
“Ngựa rượt tàu, rượt tàu, rượt tàu.
“Cỏ cây, cỏ cây lùi chóng mặt.
“Gò nổng cao rồi thung lũng sâu.
“Ngựa thở hào hển, thở hào hển.
"Tàu chạy mau, vẫn mau, vẫn mau.
“Mặt trời mọc xong, mặt trời lặn.
“Ngựa gục đầu, gục đầu, gục đầu.
“Cánh đồng, a! cánh đồng sắp hết.
“Tàu chạy mau, càng mau, càng mau.
“Ngựa ngã lăn mình mướt như cỏ,
“Chấm giữa nền nhung một vết nâu.” (1)
“Trên cánh đồng hoang dài đến đỗi
“Tàu chạy mau mà qua rất lâu.
“Tàu chạy mau, tàu chạy rất mau.
“Ngựa rượt tàu, rượt tàu, rượt tàu.
“Cỏ cây, cỏ cây lùi chóng mặt.
“Gò nổng cao rồi thung lũng sâu.
“Ngựa thở hào hển, thở hào hển.
"Tàu chạy mau, vẫn mau, vẫn mau.
“Mặt trời mọc xong, mặt trời lặn.
“Ngựa gục đầu, gục đầu, gục đầu.
“Cánh đồng, a! cánh đồng sắp hết.
“Tàu chạy mau, càng mau, càng mau.
“Ngựa ngã lăn mình mướt như cỏ,
“Chấm giữa nền nhung một vết nâu.” (1)
Tôi nghĩ, có thể vì tính liên tục
của cuộc rượt, đuổi giữa con ngựa và, chuyến tàu, nên tác giả đã cố tình không
phân đoạn bài thơ của mình (?)
Nếu phân đoạn bài thơ trên với 4 câu
cho mỗi khổ thơ, chúng ta sẽ có tất cả 4 khổ, mà khổ thơ chót, chỉ có 3 câu
(Như thể đánh dấu sự bỏ cuộc, gục ngã bất ngờ, phút chót của con ngựa?!.)
Dựa trên việc phân đoạn, để sự tìm
hiểu bài thơ dễ dàng hơn; ghi nhận đầu tiên của tôi là, Tô Thùy Yên đã dùng âm
“trắc” cho chữ cuối cùng của câu thứ hai - - Nhưng không phải để hiệp vần
“trắc” với chữ cuối cùng của câu thứ thư - - Mà, nó chỉ là sự chuyển đổi
vị trí. Bởi vì, ông vẫn cho hiệp vần “bằng” của các chữ cuối, ở những câu thứ
nhất với các câu thứ ba và, thứ tư.
Nói về thơ 7 chữ, cũng như nói về
thơ lục bát, những người có kinh nghiệm với cuộc chơi “chọn vần, lựa chữ,” đều
hiểu rằng, ngoài luật định hiệp vần, còn có luật định về nhịp điệu riêng của
thể thơ này nữa.
Nhìn lại những nhà thơ tiền chiến,
từng được mô tả là thành công với thể thơ 7 chữ, tôi nghĩ, chúng ta có thể nhắc
tới Huy Cận, với bài “Tràng giang.”
Khổ thơ thứ nhất của bài “Tràng
giang,” nguyên văn như sau:
“Sóng gợn tràng giang / buồn điệp
điệp,
“Con thuyền xuôi mái / nước song song.
“Thuyền về nước lại, / sầu trăm ngả;
“Củi một cành khô / lạc mấy dòng.” (2)
“Con thuyền xuôi mái / nước song song.
“Thuyền về nước lại, / sầu trăm ngả;
“Củi một cành khô / lạc mấy dòng.” (2)
Tôi dùng dấu gạch chéo / slash để
phân nhịp cho mỗi câu thơ. Kết quả, tất cả 4 câu thơ này, đều có nhịp 4/3.
Bước qua một bài thơ 7 chữ khác,
cũng của Huy Cận, ta thấy, chúng cũng có chung một nhịp 4/3 như thế. Như bài
“Vạn lý tình.” Cũng đoạn thứ nhất:
“Người ở bên trời, / ta ở đây;
“chờ mong phương nọ, / ngóng phương nầy.
“Tương tư đôi chốn / tình ngàn dặm,
“Vạn lý sầu lên / núi tiếp mây.” (3)
“chờ mong phương nọ, / ngóng phương nầy.
“Tương tư đôi chốn / tình ngàn dặm,
“Vạn lý sầu lên / núi tiếp mây.” (3)
Nhịp 4/3 cũng là nhịp của hầu hết
những bài thơ 7 chữ của Lưu Trọng Lư. Tôi xin chọn bài 7 chữ của ông, quen
thuộc nhất với chúng ta. Bài “Nắng mới”:
“Mỗi lần nắng mới / hắt bên song,
“Xao xác gà trưa / gáy não nùng;
“Lòng rượi buồn theo / thời dĩ vãng,
“Chập chờn sống lại / những ngày không.” (4)
“Xao xác gà trưa / gáy não nùng;
“Lòng rượi buồn theo / thời dĩ vãng,
“Chập chờn sống lại / những ngày không.” (4)
Ngay Xuân Diệu (người được coi là
luôn có những đổi mới đáng kể về hình thức, cũng như tu từ,) cũng dùng nhịp 4/3
cho thơ 7 chữ của ông:
“Tôi nhớ Rimbaud / với Verlaine
“Hai chàng thi sĩ / choáng hơi men
“Say thơ xa lạ, / mê tình bạn,
“Khinh rẻ khuôn mòn, / bỏ lối quen.”
(Trích Tình trai.) (5)
“Hai chàng thi sĩ / choáng hơi men
“Say thơ xa lạ, / mê tình bạn,
“Khinh rẻ khuôn mòn, / bỏ lối quen.”
(Trích Tình trai.) (5)
Nhưng Tô Thùy Yên đã cho thơ 7 chữ
của ông một nhịp, điệu khác.
Trừ 2 câu đầu, và câu số 10, với nhịp 4/3 - - Tất cả những câu còn lại của bài “Cánh đồng con ngựa chuyến tàu,” đều ở nhịp 3/4 ở những câu số 3, 4. Nhịp 3/2/2, ở những câu số 5, 9, 11, 13. Hoặc nhịp 2/5, ở những câu số 6, 14. Thậm chí ông còn cho câu số 12 của ông, một nhịp lạ hơn nữa. Đó là nhịp 2/1/4: “Cánh đồng, a! cánh đồng sắp hết.”
Trừ 2 câu đầu, và câu số 10, với nhịp 4/3 - - Tất cả những câu còn lại của bài “Cánh đồng con ngựa chuyến tàu,” đều ở nhịp 3/4 ở những câu số 3, 4. Nhịp 3/2/2, ở những câu số 5, 9, 11, 13. Hoặc nhịp 2/5, ở những câu số 6, 14. Thậm chí ông còn cho câu số 12 của ông, một nhịp lạ hơn nữa. Đó là nhịp 2/1/4: “Cánh đồng, a! cánh đồng sắp hết.”
Tuy nhiên, bài thơ không chỉ tạo
được sự chú ý chỉ bởi nhịp đi mới mẻ của nó!
Sâu xa hơn, theo tôi, lại là những
gì nằm sâu, sau phần hình thức này.
Tôi nghĩ, hình ảnh con ngựa rượt,
đuổi chuyến tàu, với phông nền là những cánh đồng nối nhau, hút mắt; là một bức
tranh sống động vẽ bằng…ngôn ngữ. Sức sống động mạnh mẽ tới độ, chúng cho ta
cảm tưởng tác giả đã chụp được một bức ảnh thời gian…Bằng tài năng đặc biệt của
mình.
Lại nữa, sự đuối sức, đầu hàng, từ
giã cuộc đua của con ngựa, vẫn theo tôi, là một ẩn dụ, nhắc nhở rằng: Ý chí,
sức mạnh của con người, dù kiên quyết, lớn lao tới đâu, cũng vẫn bị lưỡi dao
hữu hạn, đời người, chém đứt!.!
Nói cách khác, bất lực trước, sau,
vẫn là thuộc tính của con người, khi con người phải đối diện với chiều dài thời
gian. Vô tận.
Đọc lại bài thơ, một lần nữa, về
phương diện nhịp, điệu, tôi chợt có cảm nhận rằng, khi Tô Thùy Yên chọn cho bài
7 chữ này của ông, những nhịp đi gập ghềnh, có dễ ông cũng muốn cho người đọc
liên tưởng tới những hơi thở không đều của chuyến tàu, con ngựa trong cuộc
rượt. Một cuộc rượt, đuổi với tốc độ “tàu chạy mau mà qua rất lâu,” hay
“tàu chạy mau, tàu chạy rất mau”… dẫn tới kết quả là những hơi thở
“hào hển” hoặc, “cúi đầu”…
Mọi ẩn dụ, liên tưởng mà, bài thơ
đem được, đến cho người đọc, theo tôi là những chiếc chìa khoá quý giá, để độc
giả được quyền thênh thang bay bổng, phiêu hốt trong đất, trời rất tư, riêng,
của bài thơ ấy - - Dù cho (cũng dễ hiểu thôi,) nếu những cảm nhận của độc giả,
thường…xa lạ, không ăn nhằm, chẳng liên hệ gì, tới tình, ý (mơ hồ?) của tác
giả, khi sáng tác!.
Nhưng, điều đó, cũng chỉ có thể xẩy
đến cho những bài thơ hay, đi ra từ những tài thơ lớn. Mà, “Cánh đồng con ngựa
chuyến tàu,” là một thí dụ cụ thể vậy.
Một nét đặc thù khác trong thơ Tô
Thùy Yên là chủ tâm sử dụng khá nhiều ngôn ngữ Nam…rặc. Chủ tâm này rất đáng
kể; nếu người đọc nhớ lại rằng, đó là những câu thơ được viết trong khoảng thời
gian 1956 tới 1975, trên một diễn đàn cổ suý văn chương…mới. Chúng ta có thể
tìm thấy nhiều ngôn ngữ đặc biệt kia, trong Tô Thùy Yên Thơ Tuyển (TTY/TT) in
năm 1995, tại Hoa Kỳ. Như trong bài “Anh hùng tận,” ông viết:
“Dựng súng trường, cởi nón sắt
“Đơn vị dừng quân trọn buổi chiều.
“Trọn buổi chiều, ta nhậu nhẹt,
“Mồi chẳng bao nhiêu, rượu rất nhiều.
(……)
“Đơn vị dừng quân trọn buổi chiều.
“Trọn buổi chiều, ta nhậu nhẹt,
“Mồi chẳng bao nhiêu, rượu rất nhiều.
(……)
“Thiệt tình, tên bạn ta không
nhớ
“Nhưng mà trông mặt thấy quen quen.”
(……)
“Nhưng mà trông mặt thấy quen quen.”
(……)
“Tiếng hò mời dzô, dzô
tở mở,
“Muỗi thuỷ triều chừng cũng giạt ra…”
“Muỗi thuỷ triều chừng cũng giạt ra…”
(Trích TTY/TT.)
Hay một số chữ trong bài “Mòn gót
chân sương nắng tháng năm”:
“Vụt đuốc đi thầm đến mãn kiếp,
“Lèm bèm ú ớ chuyện nhân gian,”
“Lèm bèm ú ớ chuyện nhân gian,”
(……)
“Sáng ngày, đời giật mình ngơ ngác,
“Mường tượng đôi ba chuyện bắt quàng.”
“Mường tượng đôi ba chuyện bắt quàng.”
(……)
“Ta lại trồi lên dương thế rộn,
“Ngày ngày ra bãi vắng vời trông…”
“Ngày ngày ra bãi vắng vời trông…”
Hoặc:
“Ra đi như nước ao lền đặc”
(Trong bài “Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai,” TTY/TT.)
(Trong bài “Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai,” TTY/TT.)
“Thế giới làm sàm điếc lác
nặng”
(Trong bài “Bất tận nỗi đời hung hãn đó,” TTY/TT.”
(Trong bài “Bất tận nỗi đời hung hãn đó,” TTY/TT.”
Như đã nói, 7 chữ là đường kiếm lấp
lánh nhất, trong cõi thơ Tô Thùy Yên, 20 năm, miền Nam. (Ngay bài thơ nổi tiếng
“Ta về” Tô Thùy Yên viết tháng 7 năm 1985, hơn mười năm sau thời điểm vừa kể,
cũng là thơ 7 chữ.)
Căn cứ vào tập TTY / TT, do chính
tác giả xuất bản, tính riêng số thơ sáng tác trước tháng 4 năm 1975 của ông, có
tất cả 21 bài; thì hết 14 bài viết theo thể 7 chữ. Bảy bài còn lại, dành
cho tất cả những thể thơ khác.
Hầu hết thơ 7 chữ của Tô Thùy Yên
đều đậm tính “khẩu khí!” Rõ hơn, ông mượn loại thơ này, để bày tỏ tâm sự mình
trước thế sự. Cái tâm sự kẻ sĩ ngao ngán, bất mãn trước thời cuộc và, kiếp
người. Khi viết loại này, các thi sĩ thường chọn thể loại “Hành.”
Chỉ có thể loại này, mới giúp tác
giả hiển lộ tính cảm-thán của mình. Đồng thời, nó cũng dễ gợi, khêu trong tâm
hồn người đọc, cái phong vị hoài cổ. Chính vì thế mà, khi chọn thể loại “Hành,”
ngoài yếu tố thơ 7 chữ, các tác giả thường xưng “ta với ngươi,” hoặc “ta với
người.” Dường như các thi sĩ không bao giờ dùng nhân xưng đại danh tự “tôi!” Có
dễ vì nó không thích hợp với phong cách ngang tàng, chán chường, bất cần đời
mà, dạng thơ này, cung ứng.
Nói về những bài “Hành” nổi tiếng từ
thời tiền chiến, người ta thường nghĩ Thâm Tâm (6) với “Tống biệt hành;” và
Nguyễn Bính (7) với “Hành phương nam.”
“Tống biệt hành” của Thâm Tâm ngắn
hơn “Hành phương nam” của Nguyễn Bính. Nhưng bù lại, bài “hành” của Thâm Tâm
không dùng một điển tích nào, trong khi Nguyễn Bính thì có.
Bài “Tống biệt hành” của Thâm Tâm có
những câu như:
“Đưa người ta chỉ đưa người ấy
“Một giã gia đình, một dửng dưng...
“- Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ,
“Chí nhớn chưa về, bàn tay không,
“Thì không bao giờ nói trở lại!
“Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.”
“Một giã gia đình, một dửng dưng...
“- Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ,
“Chí nhớn chưa về, bàn tay không,
“Thì không bao giờ nói trở lại!
“Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.”
(……)
“Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
“Chị thà coi như là hạt bụi,
“Em thà coi như hơi rượu say.”
(Trích “Thi Nhân Việt Nam” của Hoài Thanh, Hoài Chân; nhà Văn Học Hà Nội, 1988.)
Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
“Chị thà coi như là hạt bụi,
“Em thà coi như hơi rượu say.”
(Trích “Thi Nhân Việt Nam” của Hoài Thanh, Hoài Chân; nhà Văn Học Hà Nội, 1988.)
Và bài “Hành phương nam’ của Nguyễn
Bính, có những câu như:
“Ngươi ơi buồn lắm mà không khóc
“Mà vẫn cười qua chén rượu này
“Vẫn dám ăn tiêu cho đến hết
“Ngày mai ra sao rồi sẽ hay.
“Ngày mai, có nghĩa gì đâu nhỉ?
“Cốt nhất cười vui trọn tối nay.
“Rẫy ruồng châu ngọc, thù son phấn
“Mắt đỏ lên rồi, cứ chết ngay.
(……)
“Mà vẫn cười qua chén rượu này
“Vẫn dám ăn tiêu cho đến hết
“Ngày mai ra sao rồi sẽ hay.
“Ngày mai, có nghĩa gì đâu nhỉ?
“Cốt nhất cười vui trọn tối nay.
“Rẫy ruồng châu ngọc, thù son phấn
“Mắt đỏ lên rồi, cứ chết ngay.
(……)
“Ta đi nhưng biết về đâu chứ?
“Đã dấy phong yên khắp bốn trời
“Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ
“Uống say mà gọi thế nhân ơi!
“Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ
“Ta với nhà ngươi cả tiếng cười
“Dằn chén hất cao đầu cỏ dại
“Hát rằng phương Nam ta với ngươi
“Ngươi ơi! Ngươi ơi! Hề! Ngươi ơi!...”
Nguyễn Bính, Đa kao 1943.
(Theo dactrung.com)
“Đã dấy phong yên khắp bốn trời
“Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ
“Uống say mà gọi thế nhân ơi!
“Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ
“Ta với nhà ngươi cả tiếng cười
“Dằn chén hất cao đầu cỏ dại
“Hát rằng phương Nam ta với ngươi
“Ngươi ơi! Ngươi ơi! Hề! Ngươi ơi!...”
Nguyễn Bính, Đa kao 1943.
(Theo dactrung.com)
Qua tới Tô Thùy Yên, tất cả những
chữ “ngươi,” được thay thế bằng “bạn”:
“Tới đây toàn những tay hào sĩ
“Sống chết không làm thắt ruột gan.
“Cũng không ai nhắc gì thân thế
“Có vợ con mà như độc thân.
“Bạn hỏi thăm ta cho có lệ”
“Sống chết không làm thắt ruột gan.
“Cũng không ai nhắc gì thân thế
“Có vợ con mà như độc thân.
“Bạn hỏi thăm ta cho có lệ”
(……)
“Người thuở trước tìm vàng khẩn đất
“Tiêu xác thân, để lại oan hồn
Ngày nay, ta bạn đến đây nữa
“Đất thì không khẩn, vàng không tìm…
“Bạn nhủ ta: đừng hỏi khó
“Uống mất ngon vì chuyện loạn tâm…”
(TTY/TT.)
“Tiêu xác thân, để lại oan hồn
Ngày nay, ta bạn đến đây nữa
“Đất thì không khẩn, vàng không tìm…
“Bạn nhủ ta: đừng hỏi khó
“Uống mất ngon vì chuyện loạn tâm…”
(TTY/TT.)
Đôi khi, nhân vật thứ hai trong
những bài “Hành” của Tô Thùy Yên, là kẻ vắng mặt. Kẻ “vắng mặt” ở đây, khi là
thiên, địa; lúc là lẽ tử, sinh:
“Nên ta phó mặc cho trời đất
“Trời đất vô ngôn lại bất nhân.
“Nên ta lẳng lặng đi đi khuất
“Trong lãng quên xanh hút thời gian.
“Trời đất vô ngôn lại bất nhân.
“Nên ta lẳng lặng đi đi khuất
“Trong lãng quên xanh hút thời gian.
(……)
“Trăng, bạn hiền xưa giờ tái ngộ
“Ta thức đêm nay chơi với trăng,
“Nghĩ tội thương sau này, mãi mãi
“Quanh mồ ta, trăng phải lang thang.”
“Ta thức đêm nay chơi với trăng,
“Nghĩ tội thương sau này, mãi mãi
“Quanh mồ ta, trăng phải lang thang.”
Hay:
“Những người thuở trước bây giờ lạc
“Trong dã sử nào như bóng mây,
“Trong trí nhớ nào như giọng hát.
“Hỡi ôi, trời đất lạnh tình thay!”
(TTY/TT.)
“Trong dã sử nào như bóng mây,
“Trong trí nhớ nào như giọng hát.
“Hỡi ôi, trời đất lạnh tình thay!”
(TTY/TT.)
Có lần, “nhân vật vắng mặt” kia,
được ông mệnh danh là “Hiu Quạnh lớn”:
“Mùa đông Bắc, gió miên man thổi
“Khiến cả lòng ta cũng rách tưa.
“Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh lớn
“Mà Hiu Quạnh lớn vẫn làm ngơ…”
(TTY/TT.)
“Khiến cả lòng ta cũng rách tưa.
“Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh lớn
“Mà Hiu Quạnh lớn vẫn làm ngơ…”
(TTY/TT.)
Ai làm ngơ? Thiên, địa; lẽ tử, sinh
hay, tự thân cuộc đời đã vốn là một lãng quên, lớn?
Về phương diện ngữ pháp, tôi nghĩ,
trước Tô Thùy Yên (vẫn với thể thơ 7 chữ,) ít tác giả có những câu thơ như:
“Mưa lâu, trời mốc buồn hôi
xưa.
“Con đường đáo nhậm xa như nhớ…”
(Trong “Qua sông,” TTY/TT.)
“Con đường đáo nhậm xa như nhớ…”
(Trong “Qua sông,” TTY/TT.)
Hay:
“Đôi bàn tay vỗ nháng âm
thanh.
(……)
“Cỏ cây lưu gió khóc mơ màng…
(……)
“Gió thổi chai người đứng
lặng thinh.”
(Trong “Mòn gót chân sương nắng tháng năm,” TTY/TT.)
(Trong “Mòn gót chân sương nắng tháng năm,” TTY/TT.)
Hoặc:
“Ta dậy khi gà truyền nhiễm
gáy,
“Chân trời rách đỏ vết thương dài.
“Chân trời rách đỏ vết thương dài.
(……)
“Còn lại chăng chút u hoài mốc.
“Còn lại chăng chút u hoài mốc.
(……)
“Ngọn cây, ô! đã giát
hoàng hôn.
(Trong “Hề, ta trở lại căn nhà cỏ,” TTY/TT.)
(Trong “Hề, ta trở lại căn nhà cỏ,” TTY/TT.)
Tô Thuỳ Yên cũng như nhiều tác giả
khác, từ đông qua tây, thường đối diện với những câu hỏi lớn mang tính siêu
hình. Khi đề cập tới những vấn đề này, ông cho thấy sự dứt khoát đi tới một
cách quyết liệt, không khoan nhượng. Ông không chỉ đặt vấn đề về ý nghĩa rốt ráo
của thân phận con người; như con người được sinh ra từ đâu? Để làm gì? Rồi, sau
khi chết, con người sẽ đi về đâu? Hay sự thực cuối cùng, thảm hại thay, tất cả
cũng chỉ là hư không:
“Con chim nhào chết khô trên cửa,
“Cửa đóng tự ngàn năm bặt âm,
“Như đạo bùa thiêng yểm cổ mộ.
“Sao người khai giải chưa về thăm?”
(Trong “Goá phụ,” TTY/TT.)
“Cửa đóng tự ngàn năm bặt âm,
“Như đạo bùa thiêng yểm cổ mộ.
“Sao người khai giải chưa về thăm?”
(Trong “Goá phụ,” TTY/TT.)
Hay:
“Ta thấy mặt tinh cầu xếp nếp
“Như lằn nhăn tuổi tác hư không…”
“Như lằn nhăn tuổi tác hư không…”
(Trong “Và rồi tất cả sẽ nguôi
ngoai,” TTY/TT.)
Với thơ Tô Thùy Yên, tôi không biết
có một tương quan hữu cơ nào chăng, giữa con người, sự chết và, Thượng đế:
“Vì bom đạn bất dung,
“Thi thể chẳng ai thâu,
“Nào có chi đáng kể…”
(Trong chiều trên phá tam Giang,” TTY/TT.)
“Thi thể chẳng ai thâu,
“Nào có chi đáng kể…”
(Trong chiều trên phá tam Giang,” TTY/TT.)
Hay:
“Ngọn đèn hư ảo chong linh vị
“Thắp trắng thời gian mái tóc em.”
(Trong Goá phụ, TTY/TT.)
“Thắp trắng thời gian mái tóc em.”
(Trong Goá phụ, TTY/TT.)
Hoặc:
“Ta bằng lòng phận que diêm tắt,
“Chỉ giận sao mồi lửa cháy suông.
(Trong “Tưởng tượng ta về nơi bản trạch,” TTY/TT.)
“Chỉ giận sao mồi lửa cháy suông.
(Trong “Tưởng tượng ta về nơi bản trạch,” TTY/TT.)
Chưa kể, ông luôn cho người đọc như
tôi, cảm nhận, với ông, chiến tranh cũng là một thứ thuộc tính của nhân loại,
kiếp người:
“Tiếp tế khó - đôi lần phải lục
“Trên người bạn gục đạn mươi viên.
“Di tản khó – sâu dòi lúc nhúc
“Trong vết thương người bạn nín rên.
“Người chết mấy ngày chưa lấy xác,
“Thây sình, mặt nát, lạch mương tanh…”
(Trong “Qua sông,” TTY/TT.)
“Trên người bạn gục đạn mươi viên.
“Di tản khó – sâu dòi lúc nhúc
“Trong vết thương người bạn nín rên.
“Người chết mấy ngày chưa lấy xác,
“Thây sình, mặt nát, lạch mương tanh…”
(Trong “Qua sông,” TTY/TT.)
Hoặc:
“Cỏ cây sống chết không ta than.
“Em khóc hoài chi lẽ diệt sinh?”
(Trong “Goá phụ,” TTY/TT.)
“Em khóc hoài chi lẽ diệt sinh?”
(Trong “Goá phụ,” TTY/TT.)
Phải chăng, Tô Thùy Yên chọn lựa sự
có mặt của mình, như một đối đầu sống, mái trước Thượng đế; dù có thể ông những
hiểu rằng, cách gì, con người, cuối cùng cũng chỉ là một thứ con tin, trong
vòng tay gai độc của định mệnh. Ông viết:
“Có đọc thuộc thánh thư,
“Linh hồn tôi vẫn vậy.
“Tôi vẫn không thể lạy
“Dù đứng trước hư vô.
“Linh hồn tôi vẫn vậy.
“Tôi vẫn không thể lạy
“Dù đứng trước hư vô.
(……)
“Đầu tôi cứng và trơn,
“Thượng đế làm sao ngự?”
(Trong “Thân phận của thi sĩ,” TTY/TT.)
“Thượng đế làm sao ngự?”
(Trong “Thân phận của thi sĩ,” TTY/TT.)
Dù đứng ở góc độ nhân sinh, chủ quan
nào, chấp nhận hay, ruồng rẫy tiếng thơ Tô Thùy Yên (8), tôi vẫn trân trọng
kính mời quý độc giả, cùng tôi đọc lại bài “Trường sa hành,” của ông - - Mà,
theo tôi, là một trong dăm bài Hành hay nhất, của văn học, nghệ thuật miền Nam,
20 năm:
Trường Sa Hành
Trường Sa! Trường Sa! Đảo chuếnh
choáng!
Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề.
Lính thú mươi người lạ sóng nước,
Đêm nằm còn tưởng đảo trôi đi.
Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề.
Lính thú mươi người lạ sóng nước,
Đêm nằm còn tưởng đảo trôi đi.
Mùa Đông Bắc, gió miên man thổi
Khiến cả lòng ta cũng rách tưa.
Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh lớn
Mà Hiu Quạnh Lớn vẫn làm ngơ.
Khiến cả lòng ta cũng rách tưa.
Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh lớn
Mà Hiu Quạnh Lớn vẫn làm ngơ.
Đảo hoang vắng cả hồn ma quỷ.
Thảo mộc thời nguyên thuỷ lạ tên
Mỗi ngày mỗi đắp xanh rờn lạnh
Lên xác thân người mãi đứng yên.
Thảo mộc thời nguyên thuỷ lạ tên
Mỗi ngày mỗi đắp xanh rờn lạnh
Lên xác thân người mãi đứng yên.
Bốn trăm hải lý nhớ không tới.
Ta khóc cười như tự bạo hành,
Dập giận vác khòm lưng nhẫn nhục,
Đường thân thế lỡ, cố đi nhanh.
Ta khóc cười như tự bạo hành,
Dập giận vác khòm lưng nhẫn nhục,
Đường thân thế lỡ, cố đi nhanh.
Sóng thiên cổ khóc, biển tang chế.
Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi?
Tiếc ta chẳng được bao nhiêu lệ
Nên tưởng trùng dương khóc trắng trời.
Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi?
Tiếc ta chẳng được bao nhiêu lệ
Nên tưởng trùng dương khóc trắng trời.
Mùa gió xoay chiều, gió khốc liệt,
Bãi Đông lở mất, bãi Tây bồi.
Dăm cây bật gốc chờ tan xác,
Có hối ra đời chẳng chọn nơi?
Bãi Đông lở mất, bãi Tây bồi.
Dăm cây bật gốc chờ tan xác,
Có hối ra đời chẳng chọn nơi?
Trong làn nước vịnh xanh lơ mộng,
Những cụm rong óng ả bập bềnh
Như những tầng buồn lay động mãi
Dưới hồn ta tịch mịch long lanh.
Những cụm rong óng ả bập bềnh
Như những tầng buồn lay động mãi
Dưới hồn ta tịch mịch long lanh.
Mặt trời chiều rã rưng rưng biển.
Vầng khói chim đen thảng thốt quần.
Kinh động đất trời như cháy đảo.
Ta nghe chừng phỏng khắp châu thân.
Vầng khói chim đen thảng thốt quần.
Kinh động đất trời như cháy đảo.
Ta nghe chừng phỏng khắp châu thân.
Ta ngồi bên đống lửa man rợ,
Hong tóc râu, chờ chín miếng mồi,
Nghe cây dừa ngất gió trùng điệp
Suốt kiếp đau dài nỗi tả tơi.
Hong tóc râu, chờ chín miếng mồi,
Nghe cây dừa ngất gió trùng điệp
Suốt kiếp đau dài nỗi tả tơi.
Chú em hãy hát, hát thật lớn
Những điệu vui, bất kể điệu nào
Cho ấm bữa cơm chiều viễn xứ,
Cho mái đầu ta chớ cúi sâu.
Những điệu vui, bất kể điệu nào
Cho ấm bữa cơm chiều viễn xứ,
Cho mái đầu ta chớ cúi sâu.
Ai hét trong lòng ta mỗi lúc
Như người bị bức tử canh khuya,
Xé toang từng mảng đời tê điếng
Mà gửi cùng mây, đỏ thảm thê.
Như người bị bức tử canh khuya,
Xé toang từng mảng đời tê điếng
Mà gửi cùng mây, đỏ thảm thê.
Ta nói với từng tinh tú một,
Hằng đêm, tất cả chuyện trong lòng.
Bãi lân tinh thức, âm u sáng.
Ta thấy đầu ta cũng sáng trưng.
Hằng đêm, tất cả chuyện trong lòng.
Bãi lân tinh thức, âm u sáng.
Ta thấy đầu ta cũng sáng trưng.
Đất liền, ta gọi, nghe ta không?
Đập hoảng Vô Biên, tín hiệu trùng.
Mở, mở giùm ta khoảng cách đặc.
Con chim động giấc gào cô đơn.
Đập hoảng Vô Biên, tín hiệu trùng.
Mở, mở giùm ta khoảng cách đặc.
Con chim động giấc gào cô đơn.
Ngày. Ngày trắng chói chang như
giũa.
Ánh sáng vang lừng điệu múa điên.
Mái tóc sầu nung từng sợi đỏ
Kêu dòn như tiếng nứt hoa niên.
Ánh sáng vang lừng điệu múa điên.
Mái tóc sầu nung từng sợi đỏ
Kêu dòn như tiếng nứt hoa niên.
Ôi lũ cây gầy ven bãi sụp,
Rễ bung còn gượng cuộc tồn sinh,
Gắng tươi cho đến ngày trôi ngã
Hay đến ngày bờ tái tạo xanh.
Rễ bung còn gượng cuộc tồn sinh,
Gắng tươi cho đến ngày trôi ngã
Hay đến ngày bờ tái tạo xanh.
San hô mọc tủa thêm cành nhánh.
Những nỗi niềm kia cũng mãn khai.
Thời gian kết đá mốc u tịch,
Ta lấy làm bia tưởng niệm Người.
3-1974.
(Theo TTY/TT.)
Những nỗi niềm kia cũng mãn khai.
Thời gian kết đá mốc u tịch,
Ta lấy làm bia tưởng niệm Người.
3-1974.
(Theo TTY/TT.)
Chú thích:
(1)Trích “Tô Thùy Yên / Thơ Tuyển.”
Tác giả xuất bản, 1995, Hoa Kỳ. Tr. 13.
(2,) (3,) (4,) (5): Nhà xuất bản
Đồng Nai, tủ sách thơ Việt
Nam.
(6) Nhà thơ Thâm Tâm tên thật Nguyễn
Tuấn Trình. Ông sinh ngày 12 tháng 5 năm 1917, tỉnh Hải Dương; mất ngày 18
tháng 8 năm 1950 ở gần Việt Bắc.
(7) Nhà thơ Nguyễn Bính, tên thật
Nguyễn Trọng Bính. Ông sinh năm 1918 tại Vụ Bản, tỉnh Nam Định; mất ngày 20
tháng 1 năm 1966 ở nhà một người bạn, thuộc tỉnh Hà Nam.
(8) Tên thật Đinh Thành Tiên, Tô
Thùy Yên sinh ngày 20 tháng 10 năm 1938 tại Gia Định. Ông có thơ đăng trên báo
Đời Mới (thập niên 1950,) trước khi xuất hiện trên tạp chí Sáng Tạo. Sau
30-4-1975, ông bị nhà cầm quyền CS cầm tù 3 lần; tổng cộng gần 13 năm. Cùng gia
đình, Tô Thùy Yên hiện cư ngụ tại thành phố Houston, Texas.
VƯƠNG TÂN * TẠP CHÍ SÁNG TẠO
Vương Tân * TẠP CHÍ SÁNG TẠO
Ngày 20 tháng 7 năm 1954 hiệp
định Genève ký kết giữa chánh phủ Cộng Hòa Pháp do
thủ tướng Mandès France và ngọai trưởng nươc Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa Phạm Văn Đồng đã chia đôi đất
nước VN. Chánh phủ Quốc Gia Việt Nam do thủ tướng Ngô
đinh Diệm đứng đầu đã phản đối việc chia cắt
đất nươc đã không ký hiệp định Genève khiến
cho Việt Nam trở thành hai nước , một nước VN thủ đô
là Hà nội và nước Việt Nam thủ đô là Saigon. Thời
gian này tôi làm chủ bút văn nghệ tuần báo Quê Hương
của ông Bùi Đức Thịnh một nhân vật thân tín của
chánh khách Ngô Đình Diệm, khi chánh khách Ngô đình Diệm
làm thủ tuớng chánh phủ quốc gia Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của quốc trưởng Bảo Đai thì ông Thịnh đã
quyết định tham chánh ngừng xuất bản tuần báo Quê
Hương [xem chương hồi ký VT viết về giai đọan làm chủ
bút văn nghệ tuần báo Quê Hương]. Cùng với việc làm
báo thời gan này tôi còn đi học luật tại trường đai
học luật Đông Dương ở Hà nội, hiệp đinh Genève ra đời
trường này quyết định rời Hà nội vào Saigon, tôi đã
theo trường vào Saigon. Vào Saigon tôi ở trong lều bạt
của đòan sinh viên Hà nội và đi viết báo kiếm sống. Tại
Saigon tôi gặp Buttinger -một người Mỹ- là chuyên gia
nghiên cứu lịch sử VN, nói thạo tiếng Pháp mà tôi quen
biết từ hồi còn ở ngòai Hà nội . Buttinger hỏi tôi vẫn
còn viết báo chứ, tôi cho Buttinger biết tôi hiện là một
nhà báo tự do viết báo ăn tiền bài theo đơn đạt hàng
của một vài tờ tạp chí , Buttinger cho tôi biết tổ chức
phi chánh phủ của người Mỹ đó là tổ chức
IRC [International Recue Committee] mà ông là đai diện ở VN
vừa nhận lời giúp đỡ một nhóm văn nghệ sĩ di cư mà
trong đó có một người thân với tôi là Như Phong Lê Văn
Tiến xuất bản một tờ nhật báo bằng Việt ngữ
giương cao ngọn cờ báo chí tự do vậy Buttinger muốn tôi tham
gia tờ báo này. Tôi nói với Buttinger hiện Như Phong Lê
Văn Tiến là thư ký riêng của bộ trưởng thông tin Bùi
kiến Tín và tôi là người 'kỵ' giao thiệp với các
quan chức nhà nước nên từ khi vô Saigon tôi không còn
liên lạc với Tiến. Buttinger xin địa chỉ của tôi và
nói với tôi Tiến sẽ đến kiếm tôi
Tối hôm đó lúc tôi vừa về
tới lều bạt nơi tôi ngủ đêm đã thấy Như Phong Lê
Văn Tiến ngồi ngòai cửa lều chờ tôi. Thấy tôi về
Tiến nói ngay ông Buttinger bảo với mình phải mời cậu
tham gia tờ Tự Do cậu nhận lời chứ. Với tôi Như Phong
Lê Văn Tiến không phải chỗ xa lạ. Tiến là em kết nghĩa
của nhà văn Hòang Đạo Nguyễn Tường Long, đươc nhà văn
Hòang Đao không những bồi dưỡng cho nghề văn ,nghề báo
mà còn giới thiệu với bạn văn người Nhật là ông
Komasu một nhà văn Nhật bản có tiểu thuyết được dịch
ra tiếng Pháp, từng đươc nhà thơ Nguyễn Giang con trai nhà
văn Nguyễn Văn Vĩnh, anh nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp chuyển
ra tiếng Việt. Như Phong Lê vănTiên đươc nhà văn Komasu
- người mà giới trí thưc ở Hà nội đồn rằng ông ta
là một đảng viên Đảng Hắc Long thuộc lọai vai vế ở
Hà nội dạy không những nghề văn còn nghề tình báo
nữa. Như Phong Lê Văn Tiến không chỉ là em kết nghĩa của
nhà văn Hòang Đao mà còn là thư ký riêng của nhà văn
này.Năm 1945 chính nhà văn Hòang ĐạoNguyễn Tường Long
đã giới thiệu với bác sĩ Luyện chủ nhiệm báo Tin Mới
để bác sĩ Luyện dùng Như Phong Lê Văn Tiến làm phóng
viên chánh trị của báo Tin Mới. Khi bác sĩ Nguyễn Tiến
Hỷ khai sinh ra trường Lục quân Yên Bái của Quốc dân
quân nhà văn Hòang Đạo đã gửi Như Phong Lê Văn Tiến
đi học trường Lục quân Yên Bái. Như Phong Lê Văn Tiến
sau này nổi tiếng là nhà báo ngươi Việt trong làng báo
tiếng Anh là người thông thạo nhất về nội tình Đảng
Cộng Sản Việt Nam. Như Phong Lê Văn Tiến không chỉ là
nhà báo có hạng mà còn là nhà văn kiệt xuất với bút
hịệu Lý Thắng Như Phong Lê Văn Tiến đã viết cuốn
trường giang tiểu thuyết Khói Sóng đăng trên nhật báo
Tự Do nhiều năm. cuốn tiểu thuyêt trường giang Khói Sóng
này được giới thưởng ngọan văn chương nhận định là một
trong những cuốn tiểu thuyết xuất sắc của văn chương
Việt Nam hậu bán thế kỷ hai mươi
Sau khi nhà văn Hòang Đạo đột tử
ở Qủang Châu [Trung Quốc] thì Như Phong Lê Văn Tiến về ở
hẳn với gia đình nhà văn Hòang Đạo và được đưa vào
Nha Thông Tin Bắc Việt làm biên tập viên. Tiến thân với
nhà văn Măc Thu Lưu Đức Sinh, kich tác gia Vũ Khắc Khoan và
nhà văn Chu Tử Chu Văn Bình. Do đó khi kịch tác gia Vũ
Khắc Khoan làm chánh văn phòng cho tổng trưởng bộ thông
tin là bác sĩ Bùi Kiến Tín họ Vũ đã đưa Như Phong Lê Văn Tiến
làm thư ký riêng cho tổng trưởng Bùi Kiến Tín. Như Phong
Lê Văn Tiến làm tình báo làm chánh trị và từng là cố vấn chuyên môn cho bác sĩ
Trần Kim Tuyến ông trùm tình báo của chế độ Ngô Đình
Diệm, làm chánh trị Như Phong Lê Văn Tiến từng là ủy
viên Ủy ban hành pháp trung ương [tương đương bộ
trưởng] và là người vẽ sơ đồ tổ chức cho mấy tay
tướng trẻ nắm chánh quyền [giữa năm 1976 thế kỷ hai
mưoi khi cùng ở chung phòng giam ký hiệu B với tôi tại
trại giam sở công an TPHCM nơi mà thiên hạ lúc đó
gọi 'khách sạn cây mít' Như Phong Lê Văn Tiến trả lời
câu hỏi của tôi về chuyện thiên hạ nhiều lời về
mối quan hệ giữa cậu em kết nghĩa của chồng và bà
chị dâu vừa góa chồng ở chung nhà với nhau. Như Phong Lê Văn Tiến cười sòa rồi nói rằng Như Phong
Lê Văn Tiến nghe rác tai những lời đàm tiếu của thiên
hạ về mối quan hệ giữa Tiến và chị Long nhưng thiên
hạ quên một điều quan trọng là Tiến ở nhà anh chị
Long từ khi Tiến chưa đầy hai mươi tuổi và lúc anh Long
lưu vong đã ký thác vợ con cho Tiến chăm sóc thời gian
này chị Long đã cẩn thận đón mẹ đến ở cùng. Tiến
công nhận chị Long là người đẹp vào lọai 'quốc sắc
thiên hương ' và Tiến rất là' thần tương' chị Long có
lẽ vì vậy mà tới khi chị qua đời Tiến vẫn chưa lập
gia đình. Đời Tiến có hai mối hận là không kiếm đươc
người bằng nửa thần tượng để cưới làm vợ nhưng
vì Tiến đối xử với các con anh Long như con Tiến nên
họ lúc nào cũng coi Tiến như cha nuôi, dù gọi Tiến là
chú, nỗi ân hận thứ hai là lập kế họach và dựng mô
hình đưa đám tướng trẻ lên cầm quyền đám này làm
ăn quá tệ đến nỗi phe quốc gia tan đàn xẻ nghé như
ngày nay
Theo nhà văn Tạ Quang Khôi thì
cuối đời Tiến làm cố vấn cho đài Á Châu Tự Do và
viết báo Wallstreet nhưng dành nhiều thời gian sang Paris
tìm đọc tiểu thuyết Khói Sóng trong thư viện Pháp để
sửa chữa và viết tiếp . Tiến đã hòan thành trường
giang tiểu thuyết Khói Sóng trươc khi qua đời
Tôi nhận lời Như Phong Lê Văn
Tiến về tòa sọan báo Tự Do làm phóng viên chánh trị
nhưng nói với Tiến rằng tôi là anh viết văn làm thơ
tôi không muốn rời anh em sinh viên Hà nội lúc đó đang
làm tờ nguyệt san Lửa Việt. Nhóm sinh viên này không xa
lạ gì với Như Phong Lê văn Tiến đó là những sinh viên
như luât sư Trần Thanh Hiệp sinh viên cao học luât, nhà
giáo Nguyễn Sỹ Tế sinh viên cao học luật, nhà giáo Dõan
Quốc Sỹ con rể nhà thơ Tú Mỡ sinh viên văn khoa, nhà
giáo Thanh Tâm Tuyền sinh viên luât, nhà giáo Lữ Hồ sinh
viên Cao Đẳng sư phạm.
Nhóm Trần Thanh Hiệp Thanh Tâm
Tuyền lúc đó cộng tác với Vũ Ngọc Các làm tờ nhật
báo Hòa Bình. Trần Thanh Hiệp phụ trách phần chánh trị
coi như chủ bút, Thanh Tâm Tuyền coi mảng văn nghệ coi như
chủ trương trang văn nghệ cuối tuần. Một bữa Thanh
TâmTuyền nhận đươc thư độc giả gửi một truyện
ngắn tựa đề Đêm gĩa từ Hà nội ký tên tác giả là
Mai Thảo một tên lạ hoắc Tuyền định xếp xó nhưng
đọc qua dòng đầu tiên của truyện ngắn thì sửng sốt
văn hay quá cứ như thơ vậy. Tuyền đọc xong truyện ngắn
thấy phía dưới đề đia chỉ liên lạc với tác giả
là Nguyễn Đăng Qúy bèn gọi điện thọai cho Nguyễn Sỹ
Tế chủ bút nguyệt san Lửa Viêt báo tin mình vừa khám
phá ra một thiên tài và yêu cầu Nguyễn Sỹ Tế xếp chỗ
cho truyện ngắn Đêm Gĩa Từ Hà nội trên Lửa Viêt số
sắp ra
Sự ra đời của nhà văn Mai Thảo
và tác phẩm Đêm Gĩa Từ Hà Nội là như thế đó
Sau đó tôi gặp Nguyễn Đăng Qúy
tôi mới biêt Qúy là em Nguyễn Đăng Viên và trưóc khi
Qúy là nhà văn Mai Thảo , Qúy làm thơ ký bút hiệu Nhị
Qúy là dân Thổ Khối, một xã trong làng Bát Tràng anh em
họ với nhà văn hóa Nguyễn Đăng Thục em ruột Nguyễn
Đăng Viên mà Viên thì lại chẳng xa lạ gì với tôi . Viên
là đệ tử nhà văn Chu Tử. Viên học giỏi và là bạn cùng học
với một tên tướng Pháp khi tên này làm tư lệnh quân
đội Pháp ở Bắc Việt. Viên đã được tên này đề bạt
môt lúc làm tỉnh trưởng ba tỉnh Hưng Yên Thái Bình Ninh
Bình. Viên từng đươc cố Đảng trưởng đảng Đai Việt
Trương Tử Anh kết nạp Đảng cùng thời với bác sĩ
Đặng Văn Sung, cố đảng trưởng Trương Tử Anh rất tin
tưởng Viên. Nguyễn Đăng Viên có tài nhưng phải tật tếu
táo thích đùa rỡn. Viên từng dùng trung úy Nguyễn văn
Thiệu làm sĩ quan hầu cận. Khi ông Thiệu làm Tổng Thống
có mời Viên tham chánh. Viên đã từ chối với lý do làm
giám đốc khách sạn Palace của Pháp ở đường Nguyễn
Huệ luơng to hơn lương bộ trưởng. Có lẽ vì cái tính
tếu táo mà có lúc Viên đã bị thủ tướng Ngô Đình Dịệm
nhốt vào khám Chí Hòa. Lúc Nguyễn Đăng Qúy đăng quang
cái tên nhà văn Mai Thảo thì Nguyễn Đăng Viên cùng với
nhà văn Chu Tử mở trường trung học tư thục Thăng Long
ở số 207 Bùi Viện.
Sau ngày 30 tháng tư Nguyễn Đăng
Viên bị tù cải tạo tại trại Xuyên Mộc hút thuốc lào
sòng sọc xuốt ngày, ra tù Viên vươt biển đăm tầu sác
chôn bụng cá Thái Bình Dương [muốn biết thêm về Nguyễn
Đăng Viên đọc hồi ký Vương Tân chương Nguyễn Đăng
Viên]
Khi cái tên Mai Thảo đươc Thanh
Tâm Tuyền 'đánh bóng' thì Nguyễn Đăng Qúy nghĩ ngay tới
chuỵện kinh doanh gom các truyện ngắn đã viết lại
thành một tập lấy tên là tập truyện ngắn Đêm Gĩa Từ
Hà nội in thành sách đem bán. Thời đó lọai truyện như
Đêm Gỉa Từ Hà nội phát hành tác gỉa muốn có lời
chỉ có hai nơi tiêu thụ ngon lành là Bộ Thông Tin và
Phòng Thông Tin Hoa Kỳ. Bộ Thông Tin thì Nguyễn Đăng Qúy
nhờ sư quen biết của Nguyễn Đăng Viên nên bộ này đã
nhận lời mua một nghìn cuốn. Phòng Thông Tin Hoa Kỳ qua
Viên Qúy gặp Từ Ngọc Bích phó phòng Thông Tin Hoa Kỳ
nơi này không những chịu mua cho Mai Thao tới hai nghìn
cuốn Đêm Gĩa Từ Hà nội mà Bích còn giới thiệu với
Mai Thảo một ngươi Mỹ gốc Ý tên Tucker lúc đó là
trưởng phòng Thông Tin Hoa Kỳ tại Saigon nói thạo tiếng
Pháp. Gặp Mai Thảo Tucker gợi ý Mai Thao nên xuất bản
một tạp chí văn chương ra hàng tháng với điều kiện
tạp chí này cổ võ cho xu hướng văn chương hiện đại
và văn chương tự do. Phòng Thông Tin Hoa Kỳ có thể yểm
trợ Mai Thảo bằng cách mua cho mỗi kỳ hai ngàn số để
Mai Thảo không bị lỗ vốn có thu nhập đủ chi phí cho
tòa sọan và trả tiền nhuận bút. Mai Thảo đã nhận lời
đề nghị của Tucker. Trong khi đó Đòan Sinh Viên Hà nội
hết nhiệm vụ lịch sử tờ Lửa Viêt ngưng xuất bản,
nhóm Lửa Việt xuất bản tờ Người Việt đưa nhà văn
Dõan Quốc Sỹ làm chủ nhiệm nhà văn Nguyễn Sỉ Tế làm
chũ bút
Khi Lửa Việt đổi thành Người
Việt, họa sĩ Lữ Hồ tốt nghiệp trường Cao Đẳng sư
phạm Saigon về Huế lấy vợ rời cây cọ, thành ra Người
Việt không có họa sĩ trình bầy, tôi đã giới thiệu cho
Người Việt họa sĩ Duy Thanh một họa sĩ nổi tiếng từ
Hànội là truyền nhân của họa sĩ Nguyễn Tiến Chung để
minh họa và trình bầy Người Việt [muốn biết thêm về
họa sĩ Duy Thanh đọc hồi ký Vương Tân chương viêt về
họa sĩ Duy Thanh]
Tuần báo Ngươi Việt ra ít số
thì Nguyên Sa Trần Bích Lan [vương tân dành một chương
hồi ký viết về Nguyên Sa] từ Pháp về tìm tôi nói về
nền văn học hiện sinh và đưa tôi bài thơ viết về Nga
vợ Nguyên Sa in trên một tấm thiếp báo hỉ cùng mấy
bài thơ. Tôi đã mang tấm thiếp báo hỉ và mấy bài thơ
của Nguyên Sa đưa cho Thanh Tâm Tuyền đọc. Thanh Tâm Tuyên
đọc xong mấy bài thơ Nguyên Sa đã bảo tôi đưa Thanh
Tâm Tuyền một bài thơ tôi mới sáng tác để Thanh Tâm
Tuyền làm một trang thơ bạn giới thiệu thơ tôi và thơ
Nguyên Sa như một hiện tượng thi ca mới xuât hiện trên
bầu trời thi ca Việt Nam do Thanh Tâm Tuyền viết lời
giới thiệu đăng vào Ngươi Viêt số Xuân 1956 [số báo
này còn lưu giữ nơi các thư viện ở Saigon Paris
Washington]
Báo Ngươi Việt ra đươc mấy số
thì hết tiền đình bản. Nguyên Sa Trần Bích Lan bỏ tiền
tục bản với điều kiện cho NGUYÊN Sa phần lựa bài
đăng nhưng Người Việt ra hai số với sự lựa bài của
Nguyên Sa thì Thanh Tâm Tuyền đã yêu cầu Dõan Quốc Sỹ đòi
lại báo vì không thích đuờng lối văn nghệ hiện sinh
và nói Nguyên Sa Trần Bích Lan lấy tiền của bác sĩ Trần
KimTuyến [trùm mật vụ của chế độ Ngô Đình Diệm
] xuất bản báo Người Việt. Dõan Quốc Sỹ đã làm theo
yêu cầu của Thanh Tâm Tuyền.
Trong khi Mai Thảo xuất bản tạp
chí Sáng Tạo anh em Người Viêt không ai tham gia bài vở dù
có đi ăn nhậu và khiêu vũ với Mai Thảo vì ai cũng ngại
mang tiếng viết tờ báo nhận tài trợ của Phòng Thông
Tin Hoa Kỳ
Nhưng Sáng tạo ra mấy số thấy
không có mầu mè gì của Mỹ cả vì Mai Thảo được tòan
quyền lựa bài vở theo hướng đứng về phía cái mới
làm mới văn chương Việt Nam hiện đại hóa văn chương
Việt Nam thì anh em Người Việt mới bắt đầu viết cho Sáng Tạo
Tờ Sáng Tạo đã đưa ra được
những nhà văn mới như Thảo Trường, Dương Nghiễm Mậu,
Lý Hòang Phong những nhà phê bình hội họa Nguyễn Trung,
Thái Tuấn [hai nhân vật này từ phê bình sang sáng tác đã
trở thành những danh họa]
Thiên hạ thường ba điều bốn
chuyện về chuyện tại sao Nguyên Sa là người bên cạnh
Mai Thảo từ khi Sáng Tạo sửa sọan ra đời và cũng
chính Nguyên Sa đã giới thiệu Nguyên Văn Trung tham gia
viết Sáng Tạo ban đầu với bút hiệu Hòang Thái Linh thế
mà chẳng bao lâu Nguyên Sa và Sáng Tạo lại lạnh nhạt
với nhau. Có người như Du Tử Lê chẳng hạn quả quyết
chuyện Mai Thảo lạnh nhạt với Nguyên Sa là vì một bài
phỏng vấn Nguyên Sa của Vương Tân trong bài này Nguyên
Sa nói hơi nhiều về luật bằng trắc trong thơ và thơ tự
do 'đụng' tới Thanh Tâm Tuyền khiến Thanh Tâm Tuyền áp
lưc Mai Thảo 'nghỉ chơi' với Nguyên Sa..Mai Thảo được
hỏi về chuyện này thì lại bảo rằng chuyện hơi tế
nhị nên Mai Thảo không muốn tiết lộ. Thật ra chuyện tế
nhị đó là mối quan hệ của Nguyên Sa với bác sĩ Trần
Kim Tuyến trùm mật vụ của chế độ Ngô đình Diệm, bác
sĩ Tuyến muốn nắm tờ Sáng Tạo sau khi đã nắm tờ Tự
Do chứng cớ là khi Sáng Tạo ngưng xuất bản bác sĩ
Tuyến đã tài trợ cho nhà thơ Nguyên Sa xuất bản tạp
chi Hiện Đại với ý đồ trám chỗ tạp chí Sáng Tạo
nhưng vì không mời được Mai Thảo cũng như anh em nhóm
Ngươi Việt tham gia bộ biên tập nên Hiện Đại không
vô được đất đứng của Sáng Tạo nơi bạn đọc.
Sáng tạo cả hai thời kỳ xuất
bản không nhiều số thời kỳ đầu từ 1956 tới 1960 do
Phòng Thông Tin Hoa Kỳ yểm trợ rồi thời kỳ thứ hai
năm 1964 do một tổ chức văn hóa Hoa Kỳ yểm trợ qua bác
sĩ Lý Trung Dung đã tạo đươc một vị trí tầm cỡ
trong văn học nghệ thuật Việt Nam trong những thập niên 50 và
60. Sáng Tạo nổi đình đám nhờ phất ngọn cờ làm mới
văn học nghệ thuật VN có sự tham gia của nhóm Người
Việt chứng cờ là sau Sáng Tạo Mai Thảo từng chủ
trương các tờ Nghệ Thuật rồi Văn nhưng không có sự
tham gia đông đảo của nhóm Ngươi Việt nên các tờ này
đâu thay thế được tạp chí Sáng Tạo
Tạp chí Sáng Tạo thời kỳ 1956
-1960 so với thời kỳ 1964 cũng hòan tòan khác thời kỳ
1956-1960 dấu ấn của nhóm Người Việt đậm hơn thời
kỳ 1964
Những đặc sắc của Sáng Tạo
là phất ngọn cờ đổi mới văn học nghệ thuật nỗ
lực cổ động cho phong trào sáng tác và đọc thơ tự do
và mở rộng cửa đón những văn tài mới.
Cái làm nên bản chất của tạp
chí Sáng Tạo là nhà văn Mai Thảo cộng với sự hợp tác
của nhóm Người Việt. Phải công bằng mà nói một Ngươi
Việt không chẳng thể làm nên tạp chí Sáng Tạo, chứng
cớ là sau năm 1963 Vũ Khắc Khoan ra tạp chi Vấn Đề đưa
Thanh Tâm Tuyền làm thư ký tòa sọan lôi kéo nhóm Ngươi
Việt tham gia viết nhưng Vấn Đề vẫn không thay thế
được Sáng Tạo trong khuynh hướng thưởng ngọan văn
chương của bạn đọc và Mai Thảo làm báo Nghệ thuật
rồi Văn thiếu sự góp mặt của nhóm Người Việt cũng
không tạo đươc vị thế của Sáng Tạo trong giới đọc
cũng như giới thưởng ngọan văn chương.
Sáng Tạo tuy phất ngọn cờ đổi
mới văn học nghệ thuật dứt khóat đứng về phía cái
mới chủ lưc là nhóm Người Việt nhưng là diễn đàn
mở có sự tham gia của các nhà thơ tiền chiến Đinh Hùng,
Vũ Hoàng Chương và nhà văn nhóm Quan Điểm Mặc Đỗ, nhà
văn quân đội Tạ Tỵ nhà văn công chức đài phát thanh
Saigon Lý Hòang Phong nhà thơ thuộc nhóm Đời Mới Hòang
Bảo Việt
Vị trí của Sáng tạo trong văn
học sử Việt Nam như thế nào nay đã rõ vì ngay những
nhà nghiên cứu văn học ở miền Bắc những người có
tầm nhìn khá khắc khe và hạn chế về nền văn học
miền Nam trong hai thập niên 50,60, của thế kỷ hai mươi
cũng phải thừa nhận rằng sự xuất hiện của tạp chí
Sáng Tạo đã đem lại không khí đổi mới cho văn chương
Việt Nam, đưa văn chương VN ra khỏi những hạn chế của
su hướng văn chương tiền chiến với những Tự Lưc Văn
Đòan Tiểu thuyêt thư bẩy thứ năm hay Xuân thu nhã tập
Thanh Nghị.
PHAN THANH TÂM * SÁNG TẠO
Vấn đề nguồn gốc của tạp chí “Sáng Tạo”
(xuất bản tại Sài Gòn năm 1956)
(xuất bản tại Sài Gòn năm 1956)
Kính gửi ông Nguyễn Trong Tạo
“Sáng tạo” là một tạp chí văn học nghệ thuật quan trọng xuất hiện ở miền Nam vào năm 1956 dưới chính quyền Ngô Đình Diệm. Trong một bài viết mới đây, nhà thơ Du Tử Lê đã nói đến một cách khá cụ thể nguồn gốc tài chính của “Sáng tạo” sau đó nêu ra nghi vấn chính trị trong dư
luận báo chí đối với Mai Thảo, người đứng tên chủ nhiệm tạp chí này như
sau: “Hồi nào giờ, dư luận vẫn đặt nhiều câu hỏi về nguồn gốc Sáng Tạo.
Có những bài báo không ngần ngại viết, tạp chí Sáng Tạo ra đời bằng
tiền tài trợ của người Mỹ. Từ đấy suy ra, nhà văn Mai Thảo phải là nhân
viên CIA! Chí ít, ông cũng phải có liên hệ gần xa với cơ quan tình báo
này.” (“Duy Thanh, đầu mối dưới sự ra đời tạp chí Sáng Tạo?”, blog Du Tử Lê).
Câu
hỏi này không chỉ đụng chạm đến nhân thân một cá nhân mà liên quan đến
một vấn đề lịch sử văn học, thiết tưởng không nên cho là quan trọng
những suy đoán vu vơ của dư luận mà phải dựa vào những tài liệu chính
xác để làm sáng tỏ. Do đã đọc được một tài liệu nói rõ vấn đề này cách
đây khá lâu, nay sưu tầm lại và phối hợp với sự công bố của Du Tử Lê để
bổ sung, tôi nghĩ chúng ta có thể đưa ra nhận xét như sau mà không sợ hồ
đồ. Không có cơ sở để cho rằng nhà văn Mai Thảo là “nhân viên CIA” hoặc “có liên hệ gần xa với cơ quan tình báo này”
nhưng việc nhà văn này có quan hệ với chính quyền Mỹ ở miền Nam bấy giờ
về tiền bạc khi xuất bản tờ “Sáng tạo” là hoàn toàn chính xác. Xét về
mặt lịch sử văn học, vấn đề cần làm rõ thêm ở đây là: cơ
quan nhà nước Mỹ nào đã chi tiền cho Mai Thảo làm tờ “Sáng tạo”, vị trí
thực sự của Mai Thảo đối với tạp chí này là gì? Và quan trọng hơn: các
biện pháp viện trợ văn hoá (mà trường hợp tờ “Sáng tạo” chỉ là ví dụ) đã
đóng vai trò như thế nào đối với quá trình Mỹ can thiệp vào Việt Nam?
Trang nhà Nguyễn Trọng Tạo có tải lại bài viết của Du Tử Lê, nay kính nhờ chủ bút Nguyễn Trong Tạo cho đăng thêm tài liệu nói trên để rộng đường học thuật đối với bạn đọc. Tài liệu này tôi sưu tầm được từ cuốn Cuộc xâm lăng về văn hoá và tư tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam của tác giả Lữ Phương (Nhà xuất bản Văn hoá, Hà Nội, 1981, từ tr. 216 đến tr. 222).
Trân trọng
Người sưu tầm
Phan Thanh Tâm (Bình Dương)
TÀI LIỆU 1
Đơn xin xuất bản một số tờ báo tiếng Việt (trong đó có tờ “Chân trời mới”, sau đổi là “Sáng tạo”) do Cơ quan Thông tin Hoa Kỳ tại Việt Nam (USIS) đứng tên
U.S INFORMATION SERVICE
THE FOREIGN SERVICE OF THE UNITED STATES OF AMERICA
Sài Gòn ngày 26 tháng 7 d.l 1956
Kính gửi Ông Bộ trưởng Bộ Thông tin và Thanh niên
Thưa Ông Bộ trưởng,
Tôi xin phép trình bày cùng Ông chương trình của Cơ quan Thông tin Hoa Kỳ Sài Gòn về ba tập san mà chúng tôi dự định cho xuất bản trong một ngày gần đây.
Như quí Ông đã rõ, chúng tôi hiện nay đang xuất bản hai tập san tức nguyệt san “Thế giứi Tự do” và tuần san “Sức mạnh Tự do”. Hai
tập san này đăng những bài về chương trình cải cách kinh tế, quân sự
cùng là những tiến bộ của Chánh phủ Cộng hoà Việt Nam, được phân phát
khắp giới dân chúng với mục đích cho toàn dân hiểu rõ những hoạt động
tốt đẹp của chính phủ. Những tập san này được tiếp tục xuất bản, với mục
đích tương tự và chúng tôi dự định tăng con số ấn hành.
Và đây là chi tiết những ấn loát phẩm của chúng tôi:
1)
GIA ĐÌNH: một tờ bán nguyệt san, cỡ 26×36 phân tây theo khuôn khổ các
hoạ báo “Life”, “Look” và “Paris Match”, mỗi số phát hành 80.000 số, ấn
loát tại ngoại quốc; nội dung gồm tranh, ảnh, các bài phóng sự và đoản
thiên thích hợp với hoàn cảnh và sở thích một gia đình Việt Nam bậc
trung với mục đích là:
a)
Chứng tỏ cho mọi người dân thấy đời sống gia đình của người Việt Nam
ngày nay sáng sủa đẹp đẽ hơn là trong thời thuộc địa và phong kiến trước
kia.
b) Nêu cao tinh thần đoàn kết toàn
dân. Ngày nay các đồng bào di cư sau khi thoát ách thống trị của cộng
sản, vui vẻ đón cuộc sống thanh bình, chung lưng đấu cật với đồng bào
miền Nam tự do để xây đắp một quốc gia mới và hùng mạnh.
c)
Trình bày với các gia đình Việt Nam rằng trong khi bảo tồn những thuần
phong mỹ tục của tổ tiên, họ vẫn có thể sánh vai cùng các dân tộc khác
trong Thế giới Tự do tiếp đón và thực hiện những tiến bộ mới.
d)
Vạch rõ sự kiện là trong khi gia đình tại miền Nam sự tự do được tuyệt
đối tôn trọng thì đời sống gia đình bị xâm phạm, huỷ hoại tại những vùng dặt dưới ách thống trị của Cộng sản.
Tờ bán nguyệt san này thay thế cho tờ tập san “TRẺ” do chúng tôi ấn hành trước kia sẽ do chính Sở Thông tin Hoa kì ấn loát tại ngoại quốc và phát hành tại đây.
II)
CHÂN TRỜI MỚI (New Horizons): là một tờ nguyệt san văn nghệ dày 48
trang, cỡ 16×24 phân tây, do Ban Biên tập Chân trời Mới xuất bản, dành
cho giới công chức trí thức Việt Nam.
Nội
dung sẽ gồm những truyện ngắn, những bài phóng sự, không có tính cách
chính trị mà chuyên về khoa học lịch sử, cơ khí, địa dư, y khoa v.v…
những bài khảo luận về âm nhạc, điện ảnh, mỹ thuật và kịch trường và một
mục riêng về văn chương.
Mục đích của tờ nguyệt san là:
a) Đề cao Sài Gòn là thủ đô văn hoá và trí thức của Việt Nam;
b) Đề cao trình độ và trí thức và đời sống văn hoá hiện hữu của Việt nam Tự do;
c) Vạch rõ tại Việt Nam Tự do các học giả và văn sĩ đứng đắn được hoạt động tự do trong phạm vi văn nghệ;
d) Khích lệ giới công chức Việt Nam trau dồi trí thức, thúc đẩy họ tham gia và góp phần vào công cuộc phục hưng nước nhà;
e) Làm trung tâm văn nghệ có sức hấp dẫn toàn thể người Việt ở trong nước cũng như ngoài nước.
III) Tập “NGHIÊN CỨU CHÍNH TRỊ”: là
một tạp chí do Viện Nghiên cứu chính trị Việt Nam xuất bản hàng tháng,
nội dung gồm những bài khảo luận lành mạnh và có đầy đủ tài liệu về
những vấn đề chính trị hiện đại do hiểm hoạ cộng sản gây nên với mục
đích là:
a) Đả phá âm mưu quốc tế mệnh danh là Cộng sản;
b) Trình bày rằng hiểm hoạ cộng sản ở Việt Nam là một bố cục trong cuộc âm mưu quốc tế nhằm mục đích lôi cuốn Việt nam vào vòng thống trị của khối Nga-Hoa;
c) Vạch rõ những phương pháp mà cộng sản thường dùng để cướp chính quyền tại một quốc gia;
d) Phơi bày tính chất giả dối của chủ nghĩa Cộng sản và của cách thức tuyên truyền cộng sản; cộng sản chỉ hành động theo thời cơ mà không phải vì một lý tưởng nào;
e) Lợi dụng những mâu thuẫn và nhược điểm hiện hữu và đang phát sinh trong khối cộng sản.
Vì
xuất bản thêm nhiều loại tập san, chúng tôi cần tới một số nhân viên
biên tập. Để giải quyết vấn đề này, chúng tôi có ý địunh giao hai tờ
“Chân trời mới” và “Nghiên cứu Chính trị” cho hai người Việt Nam làm chủ
nhiệm. Như vậy chúng tôi được lợi là không phải tăng thêm con số nhân
viên Phòng Xuất bản, và hơn nữa, đối với độc giả hai tập san này sẽ
không lộ rõ là những tài liệu tuyên truyền công khai.
Như
trong tôn chỉ và mục đích của mấy tờ báo kể trên, bản ý chúng tôi là
mong muốn góp phần vào công cuộc xây dựng một nền văn hoá Việt Nam lành
mạnh, và giúp cho mọi người dân Việt khắp đó đây có dịp mở rộng kiến
thức và trau đồi trí tuệ.
Vậy
chúng tôi thiết tha hy vọng Ông sẽ vui lòng cấp giấy phép cho hai chủ
nhiệm mà chúng tôi sẽ đệ trình danh sách, để chúng tôi có thể xuất bản
hai tờ nguyệt san “Chân Trời Mới” và “Nghiên cứu Chính trị” trong một
ngày tương lai rất gần đây và xin Ông nhận nơi đây lời cảm tạ chân thành
của chúng tôi.
Ông
Graham Tucker tức Trưởng ban Xuất bản của Cơ quan chúng tôi bàn qua
việc này với ông Đổng lý Văn phòng của Bộ Ông, vậy tôi xin đề nghị, với
sự chấp thuận của Ông, là để ông Tucker thảo luận kĩ càng về chi tiết và
thủ tục về việc xin cấp giấy phép với ông Đổng lý.
Trân trọng kính chúc Ông an khang
Nay kính
Ký tên
Robert P. Speer
Giám đốc Cơ quan Thông tin Hoa kỳ tại Việt Nam
TÀI LIỆU 2
Nghị
định của Bộ Thông tin và Thanh niên của Việt Nam Cộng hoà cho phép
Robert Speer giám đốc Cơ quan Thông tin Hoa kì tại Việt Nam xuất bản
nguyệt san “Sáng tạo”
VIỆT NAM CỘNG HOÀ
BỘ THÔNG TIN VÀ THANH NIÊN
NGHỊ ĐỊNH SỐ: 174-BTT/BC-1/NĐ
Cho
phép Ô. Robert Speer, Giám đốc Cơ quan Thông tin Hoa kì tại Việt Nam
xuất bản bán nguyệt san “GIA ĐÌNH” và tờ nguyệt san “SÁNG TẠO”
BỘ TRƯỞNG BỘ THÔNG TIN VÀ THANH NIÊN
Chiếu hiến ước tạm thời số 1 ngày 26-10-1955
Chiếu
sắc lệnh số 4-TTP ngày 29 tháng 10 năm 1955 ấn định thành phần Chính
phủ và sắc lệnh số 30-TTP ngày 3 tháng 12 năm 1955 của Bộ Thông Tin và
Chiến tranh Tâm lí thành Bộ Thông tin và Thanh Niên;
Chiếu
sắc lệnh số 36-TT ngày 19 tháng 9 năm 1949 ấn định chức chưởng của Bộ
trưởng Bộ Thông tin và sắc lệnh bổ túc số 19-a/TT ngày 28-3-54;
Chiếu Nghị định số 146-Cab/SG ngày 7 tháng 3 năm 1952 qui định thời hạn hiệu lực các giấy phép xuất bản báo chí;
Chiếu luật lệ báo chí hiện hành;
Chiếu
đơn ngày 26 tháng 7 năm 1956 của ông Robert Speer Giám đốc Cơ quan
Thông tin Hoa kỳ tại Việt Nam xin phép xuất bản tờ bán nguyệt san “GIA
ĐÌNH” và tờ nguyệt san “SÁNG TẠO”.
NGHỊ ĐỊNH:
ĐIỀU
THỨ NHỨT– Nay cho phép Ông Robert Speer Giám đốc Cơ quan Thông tin Hoa
Kì tại Việt Nam xuất bản một tờ bán nguyệt san Việt ngữ lấy tên là “GIA ĐÌNH” và một tờ nguyệt san Việt ngữ lấy tên là “SÁNG TẠO” kể từ ngày ký nghị định này.
ĐIỀU
THỨ HAI – Đổng lý Văn phòng, Tổng thư kí và Giám đốc Thông tin Báo chí
Bộ Thông tin và Giám đốc Nha Thông tin Nam Việt chiếu nhiệm vụ thi hành
nghị định này.
Sài Gòn ngày 6 tháng 8 năm 1956
Kí tên: TRẦN CHÁNH THÀNH
PHỤ BỔN
Giám đốc Thông tin và Báo Chí
NGUYỄN NGỌC CHÁC
Nơi nhận:
– Toà Đại biểu Chính phủ tại Nam Việt
– Bộ Nội Vụ
– Bộ Tư Pháp
– Sở Công báo Việt Nam
Đồng gởi:
– Toà Đại biểu Chính phủ tại Trung Việt và Cao nguyên miền Nam Đà lạt
Các Nha Thông tin T.V. và Cao nguyên miền Nam
No comments:
Post a Comment