Wednesday, October 26, 2016

TRUNG CỘNG - CÔNG TỬ BẠC LIÊU

TIN TỨC VIỆT NAM & THẾ GIỚI

Trung Quốc thoái trào, cơ hội cho Việt Nam?

Vũ Hoàng & Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA
2013-08-14
Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này

Công nhân Trung Quốc giờ cao điểm tại bến xe
Công nhân Trung Quốc giờ cao điểm tại bến xe đường dài trong Yunyang quận, Trùng Khánh, Trung Quốc, ngày 17 tháng 2 2013.
AFP
Nghe bài này
Đến bây giờ thì hầu hết các trung tâm kinh doanh và nghiên cứu của thế giới đã đồng ý về một thay đổi lớn trong luồng giao dịch toàn cầu, là khi kinh tế Trung Quốc đi vào một giai đoạn thoái trào kéo dài. Trong giai đoạn ấy, nhiều quốc gia có thể tìm ra cơ hội trám vào khoảng trống do Trung Quốc để lại sau nhiều thập niên tăng trưởng và thu hút đầu tư quốc tế. Việt Nam có cơ hội đó hay không? Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu về chuyện này qua phần trao đổi với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa.

Dấu hiệu khủng hoảng của TQ
Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, sau 30 năm đạt mức tăng trưởng vượt bậc so với 30 năm khủng hoảng liên tục thời Mao Trạch Đông, Trung Quốc đã có dấu hiệu trì trệ và phải cải sửa chiến lược phát triển nên sẽ có đà tăng trưởng thấp hơn, với nhiều rủi ro bất ổn ở bên trong. Chiều hướng ấy đã bắt đầu sau năm năm bơm tiền kích thích kinh tế mà chỉ kích thích sự lãng phí và để lại một núi nợ khổng lồ. Bên cạnh Trung Quốc, khối công nghiệp hoá Âu-Mỹ-Nhật cũng cố gắng cải sửa từ năm năm nay và bây giờ đã có nền móng tương đối quân bình hơn và bắt đầu hồi phục để đóng góp đến 60% vào mức gia tăng sản xuất của toàn cầu. Ngược lại, nhóm kinh tế đang phát triển lại có triệu chứng mệt mỏi và suy trầm, chứ không thể là đầu máy tăng trưởng cho kinh tế thế giới như người ta đã trông đợi trước đây....
Khi nhìn lại thì sự thay đổi sau năm năm sóng gió vừa qua, và nhất là sự sa sút của Trung Quốc sau mấy chục năm bung lên rất mạnh, đang đưa kinh tế toàn cầu vào một hoàn cảnh mới. Thưa ông, trong hoàn cảnh đó, Việt Nam có thể làm gì để khai thác cơ hội và giảm thiểu rủi ro?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Ông vừa nêu lên một số điểm chính trong bối cảnh. Đó là thứ nhất, nạn suy trầm của khối kinh tế đã phát triển khiến các nước công nghiệp hóa trải qua giai đoạn cải tổ lớn và nay đã tạm có nền móng quân bình hơn để đạt mức tăng trưởng cao hơn, dù chưa mạnh thì vẫn có ảnh hưởng nhất vì đóng góp đến 60% vào đà gia tăng sản xuất của toàn cầu. Phần còn lại, là 40%, thuộc các nước đang phát triển, ngày nay cũng lại có triệu chứng hụt hơi chứ không sáng láng như họ đã mơ ước. Trong khung cảnh ấy ta mới nhìn vào Trung Quốc....
Đã vậy, vì quá lệ thuộc vào đầu tư và xuất khẩu, khi thấy kinh tế toàn cầu bị Tổng suy trầm năm năm về trước, Trung Quốc bơm tiền kích thích kinh tế mà bơm không đúng chỗ và chỉ thổi lên bong bóng đầu cơ trong nạn sản xuất thừa nên sẽ bị khủng hoảng như các nước Đông Á đã từng bị
Nguyễn-Xuân Nghĩa
Xứ này có dân số rất đông, áp dụng chiến lược phát triển của Nhật Bản và Đông Á nói chung, là khai thác lợi thế nhân công rẻ để làm gia công cho thế giới nhờ xuất khẩu hàng chế biến với giá cực thấp. Vì khởi đi từ một mức gần với số không, Trung Quốc có đà gia tăng ngoạn mục mà thật ra vẫn thiếu phẩm chất trong tăng trưởng. Khi lợi thế lương rẻ đã hết công hiệu, họ không bước lên trình độ sản xuất cao hơn, có giá trị gia tăng lớn hơn, như các nước tân hưng Đông Á là Nhật Bản, rồi Đài Loan và Nam Hàn. Đã vậy, vì quá lệ thuộc vào đầu tư và xuất khẩu, khi thấy kinh tế toàn cầu bị Tổng suy trầm năm năm về trước, Trung Quốc bơm tiền kích thích kinh tế mà bơm không đúng chỗ và chỉ thổi lên bong bóng đầu cơ trong nạn sản xuất thừa nên sẽ bị khủng hoảng như các nước Đông Á đã từng bị.
Các nữ công nhân TQ trong môt cơ sở may hàng xuất khẩu cho Hoa Kỳ. AFP
Các nữ công nhân TQ trong môt cơ sở may hàng xuất khẩu cho Hoa Kỳ. AFP
Chúng ta cần nhắc lại chuyện đó để thấy là sau khi bị khủng hoảng năm 1991, Nhật Bản không dám cải sửa nên trải qua 20 năm lụn bại đến nay mới có vẻ hồi phục. Ngược lại, Nam Hàn bị khủng hoảng năm 1997 mà lập tức cải cách nên có cơ sở vững mạnh hơn và cạnh tranh thắng lợi với chính Nhật Bản là một khuôn mẫu đi trước. Những bài học đó có thể là kinh nghiệm cho Việt Nam khi môi trường chung quanh đang có thay đổi, vừa mở ra cơ hội mới mà cũng đặt ra nhiều thách thức, chưa nói gì đến vấn đề an ninh vì vị trí riêng của xứ này bên cạnh Trung Quốc.
Thuận lợi và không thuận lợi của VN
Vũ Hoàng: Từ cái nhìn toàn cảnh về cả thời gian lẫn không gian để nói tới nhiều đổi thay đang xảy ra và có thể kéo dài khá lâu trong tương lai, thưa ông, đâu là những định đề chủ yếu mà Việt Nam cần quan tâm?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ là như mọi nước nghèo vừa bước vào giai đoạn khởi phát hay "cất cánh", Việt Nam cần vốn nên phải huy động đầu tư từ bên ngoài. Các quốc gia kia, kể cả Trung Quốc, đều trải qua giai đoạn ấy. Khi đó, vấn đề chủ yếu là ta có gì hấp dẫn hơn xứ khác để thu hút đầu tư?
Thế rồi, sau mấy năm hồ hởi khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO với lượng đầu tư quốc tế tăng vọt vào năm 2007, tình hình lại sa sút, từ đỉnh cao là hơn 70 tỷ đô la vào năm 2008 lại sụt tới 23 tỷ năm 2009 và năm qua chỉ còn 13 tỷ so với kỳ vọng 17 tỷ. Mình cần nhìn lại chuyện này vì đấy là lúc mà khối công nghiệp hoá đang bị co cụm và họ dồn đầu tư vào các nước đang phát triển để tìm cơ hội kiếm lời cao hơn. Nghĩa là vì những sai lầm và thậm chí lạm dụng trong quản lý vĩ mô, khi thiên hạ tìm nơi đầu tư thì họ lại tránh Việt Nam.
Sau hai năm sóng gió và nhiều biện pháp cải sửa giữa những tai tiếng về các đại gia làm ăn phi pháp và về một núi nợ xấu chưa biết thanh toán thế nào, Việt Nam lại chớm có hy vọng thu hút đầu tư kể từ đầu năm nay, với ngạch số gần 12 tỷ trong bảy tháng đầu năm. Nhưng ta không quên là nhóm công nghiệp hoá lại thất vọng với các thị trường đang lên và rút vốn đầu tư về để khai thác tiềm năng phục hồi của khối Âu-Mỹ-Nhật ở nhà. Vì vậy, bên cạnh hy vọng vừa chớm nở và cơ hội sẽ thuận lợi hơn khi tư bản triệt thoái khỏi thị trường Trung Quốc để tìm nơi đầu tư có lợi hơn, Việt Nam nên thấy rằng mình không tất nhiên là nơi hấp dẫn nhất.
Mình cần nhìn lại chuyện này vì đấy là lúc mà khối công nghiệp hoá đang bị co cụm và họ dồn đầu tư vào các nước đang phát triển để tìm cơ hội kiếm lời cao hơn. Nghĩa là vì những sai lầm và thậm chí lạm dụng trong quản lý vĩ mô, khi thiên hạ tìm nơi đầu tư thì họ lại tránh VN
Nguyễn-Xuân Nghĩa
Vũ Hoàng: Ông hàm ý Việt Nam cần xây dựng một môi trường thuận lợi cho đầu tư quốc tế khi các doanh nghiệp có thể rút khỏi thị trường Trung Quốc để tìm vào nơi có lợi hơn?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chúng ta cần nhìn ra quy luật phũ phàng của kinh tế hay kinh doanh là "vui lòng khách đến, buồn lòng khách đi". Trong chuyện này, khách là các doanh nghiệp có vốn đầu tư.
Thứ nhất, họ ào ạt trút tiền vào rồi thất vọng bảo nhau triệt thoái thì đều có thể gây chấn động cho nền kinh tế, đấy là chuyện mà các nước tân hưng Đông Á đã thấy từ vụ khủng hoảng 1997-98. Thứ hai, các doanh nghiệp có thể quyết định đem tiền đầu tư vào rất nhanh thường là loại nhỏ và vừa, với những yêu cầu khác biệt với các tập đoàn lớn. Đầu tư vào một quán bán thịt bầm ngoài phố có khác với đầu tư của Intel hay Samsung ở vùng ngoại thành. Thứ ba và quan trọng nhất, Việt Nam nên nhớ rằng lợi thế nhân công rẻ không là yếu tố bất biến và vĩnh cửu vì chúng ta bán sự nghèo khổ cho khách đầu tư bằng lương bổng thấp để mong rằng nguồn vốn đó sẽ làm cho dân mình giàu hơn, tức là phải có lương cao hơn sau này nên ưu thế về lương sẽ phải hết.
Do đó, ngay từ khi thu hút đầu tư để dân mình làm gia công cho thiên hạ thì đã phải nghĩ đến việc tiến lên bậc thang cao hơn của chu trình sản xuất, để chế tạo mặt hàng có giá trị hơn, đòi hỏi tay nghề và kỹ thuật khác. Khi đó ta mới hy vọng giữ khách đầu tư ở lại để tìm doanh lợi cao hơn. Muốn vậy, nhân công của ta phải có năng suất cao và phải được giáo dục đào tạo theo hướng khác hơn là chỉ giữ khách bằng lương rẻ, vì ngoài Việt Nam còn có Miên Lào, Miến, Ấn, hay Bangladesh cũng sẽ khai thác lợi thể lương thấp. Đó là chuyện về dài mà phải sớm thấy ra.
Vũ Hoàng: Thưa ông, ngay trong hiện tại thì Việt Nam có những lợi thế nào khả dĩ huy động được nguồn lực đầu tư của các nước khi họ rút khỏi thị trường Trung Quốc?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi thú thật là không mấy lạc quan với chuyện hứng tiền chảy từ Trung Quốc vào Việt Nam. Trước hết, các tổ hợp quốc tế Âu-Mỹ-Nhật đã đầu tư vào Trung Quốc từ lâu và xây dựng được một chu trình cung cấp hội nhập, nôm na là làm cơ phận này để ráp chế với cơ phận khác cũng sản xuất tại Trung Quốc trước khi xuất khẩu ra ngoài. Với tình trạng thoái trào hiện nay, lãnh đạo Bắc Kinh đang cố gắng kích thích tiêu thụ thay vì kích thích đầu tư sản xuất để xuất cảng, vì vậy, thị trường nội địa của Trung Quốc vẫn còn sự hấp dẫn của nó nên chưa chắc là các tập đoàn đầu tư, kể cả Nhật Bản, đã rút hết và nhìn vào Việt Nam với thiện cảm.
Khi Intel hay Samsung đang nói đến chuyện bạc tỷ trút vào Việt Nam và đào tạo một thế hệ mới có khả năng rất cao về công nghệ tin học thì Hà Nội lại đòi bịt mắt giới trẻ bằng mạng lưới kiểm soát thông tin và gây phản ứng từ các tập đoàn Google hay Microsoft thì đấy là một cách quảng cáo xuất sắc về sự lạc hậu của lãnh đạo
Nguyễn-Xuân Nghĩa
Thứ hai, khi quyết định đem tiền đầu tư vào Việt Nam chẳng hạn, thiên hạ chú ý đến những gì? Họ chú ý đến hạ tầng cơ sở. Hạ tầng này gồm có vật chất là hệ thống xây dựng và giao thông vận tải lẫn hủy thải phế vật. Hạ tầng này cũng có loại vô hình là nền tảng luật lệ thông thoáng minh bạch và bộ máy hành chính liêm khiết, hữu hiệu. Thứ ba, hạ tầng này còn có loại tinh thần là trình độ kiến năng, là kiến thức và khả năng của nhân công vì các tổ hợp quốc tế suy nghĩ cho 5-10 năm tới chứ không chơi trò mỳ ăn liền. Trong năm mười năm đó, họ sẽ đào tạo ra lớp nhân viên có tay nghề và có khả năng tiến lên bậc thang cao hơn của chu trình sản xuất. Do đó, họ quan tâm đến hệ thống giáo dục và đào tạo, nhất là trong các ngành kỹ thuật và quản trị.
Khi kiểm lại dù sơ sài như vậy, ta cũng thấy ra nhiều nhược điểm của môi trường Việt Nam là chưa có trục lộ giao thông hay mạng lưới yểm trợ hạ tầng tỏa rộng mà chỉ tập trung vào Sàigon, vùng đồng bằng Cửu Long và chung quanh Hà Nội, Đà Nẵng. Việt Nam cần khai thác tiềm lực của nhiều địa phương khác thì mới có được sự phát triển cân đối và công bằng, là điều Trung Quốc muốn làm từ lâu mà thất bại nên mới rơi vào thoái trào.
Vũ Hoàng: Nói về hạ tầng cơ sở của kiến năng như ông trình bày, thì kỳ trước, chúng ta cũng vừa nhắc đến Nghị định 72 về việc kiếm soát mạng lưới điện toán, ông nghĩ sao về chuyện này?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ rằng đấy là tai họa vô lường và là một vụ tự sát chính trị.
Khi Intel hay Samsung đang nói đến chuyện bạc tỷ trút vào Việt Nam và đào tạo một thế hệ mới có khả năng rất cao về công nghệ tin học thì Hà Nội lại đòi bịt mắt giới trẻ bằng mạng lưới kiểm soát thông tin và gây phản ứng từ các tập đoàn Google hay Microsoft thì đấy là một cách quảng cáo xuất sắc về sự lạc hậu của lãnh đạo. Hoá ra Hà Nội cũng chẳng khác gì Bắc Kinh!
Từ đó, thiên hạ còn suy ra một chuyện khác. Cái gọi là ưu thế ổn định chính trị của Việt Nam cũng chỉ là chuyện ảo. Giới đầu tư quốc tế sẽ sớm hiểu ra nỗi lo sợ của chế độ và còn thấy rõ hơn khi lãnh đạo của Việt Nam vẫn duy trì vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước để bảo vệ quyền lợi của tay chân và thân tộc. Nói cách khác, nếu Việt Nam chỉ là một sao bản con con của Trung Quốc thì chưa thể là một giải pháp thay thế khi người ta đã thất vọng với Trung Quốc.
Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi này.

 Kinh tế Trung Quốc hạ cánh nặng nề : Nhiều nước âu lo

Cảng container Doanh Khẩu, Liêu Ninh. Ảnh chụp  9/08/ 2013.
Cảng container Doanh Khẩu, Liêu Ninh. Ảnh chụp 9/08/ 2013.
REUTERS/Stringer
Mai Vân
Sau nhiều đợt báo động liên tiếp, gần đây nhất là của tập đoàn ngân hàng Pháp Société Générale, về khả năng suy trầm sắp tới của nền kinh tế Trung Quốc, ngày 08/08/2013 vừa qua, công ty thẩm định tài chánh quốc tế Standard & Poor's vừa loan tin : Nếu Trung Quốc "hạ cánh nặng nề" với tốc độ tăng trưởng chỉ còn là 5% một năm, thì sẽ khiến nền kinh tế của Úc bị suy trầm và thất nghiệp tăng vọt lên mức 10%. Theo giới phân tích, trong kịch bản đó, không chỉ có Úc, mà nhiều quốc gia khác cũng chịu tác động.
Phải nói là sau nhiều thập niên tăng trưởng vượt bậc, kinh tế Trung Quốc đã bắt đầu có dấu hiệu co thắt, và lãnh đạo mới của nền kinh tế đứng hạng nhì thế giới đã phải điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng là 7,5% trong năm nay (2013) và 7% trong mấy năm tới.
Thế nhưng giới quan sát kinh tế quốc tế cho rằng đà tăng trưởng ấy vẫn còn cao so với thực tế, và một kịch bản « hạ cánh nặng nề - hard landing » có thể xảy ra. Trong trường hợp đó, hiệu ứng suy trầm của Trung Quốc có thể lan rộng ra nhiều xứ khác, kể cả Úc hay Việt Nam.
Phân tích của Standard & Poor's chỉ tập trung vào trường hợp nước Úc vì lẽ Bắc Kinh là đối tác thương mại chủ chốt của Canberra, chuyên mua các loại khoáng sản, nguồn xuất khẩu chính của Úc. Trong nghiên cứu của mình, S&P đã dự trù ba kịch bản cho nền kinh tế Trung Quốc, và các tác động có thể có trên nền kinh tế Úc.

Kịch bản thứ nhất gọi là « trường hợp căn bản – base case », có nghĩa là kinh tế Trung Quốc tăng trưởng theo tỷ lệ 7,3% trong tài khóa 2013, gần đúng với ước tính của chính quyền Bắc Kinh. Trong trường hợp này, kinh tế Úc sẽ chỉ đạt tăng trưởng 2,5% trong năm 2013, và 2,9% năm 2014, còn tỷ lệ thất nghiệp lần lượt ở mức 5,7% và 6%.

Kịch bản thứ hai là « hạ cánh trung bình – medium landing », tức là tăng trưởng Trung Quốc giảm manh hơn, chỉ đạt 6,8%. Hệ quả đối với Úc sẽ là một tỷ lệ tăng trưởng 2,1% cho năm 2014 và một mức thất nghiệp 6,5%.
Kịch bản tệ hại nhất gọi là « hạ cánh nặng nề - hard landing », với GDP của Trung Quốc bất ngờ chỉ tăng trưởng 5%. Trong trường hợp này, kinh tế Úc sẽ bị co thắt với tỷ lệ âm 1% trong năm 2014, còn tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt lên thành 10% . Không những thế, Úc sẽ còn bị mất điểm cực tốt ba chữ A, dùng để đánh giá các nền kinh tế phát triển lành mạnh.
Standard & Poor's cũng công nhận là kịch bản « hạ cánh nặng nề » là một khả năng « khó xẩy ra ». Cho dù vậy, hãng thẩm định tài chánh này cho rằng nhiều mối lo ngại về kịch bản đó đang xuất hiện vào lúc kinh tế Trung Quốc bộc lộ một số điểm yếu kém.
Trả lời phỏng vấn hôm nay của RFI, chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa tại Hoa Kỳ sẽ giải thích thêm về tình trạng hạ cánh không an toàn của một nền kinh tế, cũng như tác động có thể có của hiện tượng này đối với các nền kinh tế khác trên thế giới.
RFI: Xin thân ái chào anh Nghĩa. Là người nhiều lần dự báo rằng kinh tế Trung Quốc sẽ sa sút vì những vấn đề chồng chất ở bên trong, hiển nhiên là anh không mấy ngạc nhiên với kịch bản "hạ cánh nặng nề" của Trung Quốc mà công ty Standard & Poor's vừa nhắc tới. Kỳ này, xin đề nghị anh phân tích hậu quả quốc tế từ nạn suy trầm kinh tế của một quốc gia đang có nền kinh tế hạng nhì thế giới sau Hoa Kỳ và Nhật Bản. Trước hết, thưa anh giới kinh tế cứ nói đến chuyện "hạ cánh nặng nề", thì đấy là cái gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Sau một giai đoạn tăng trưởng cao kéo dài khá lâu, nếu sản lượng kinh tế lại đột nhiên co cụm mạnh thì đấy là một vụ "hạ cánh nặng nề". Muốn tính ra một con số để định nghĩa về hạ cánh nhẹ nhàng, hạ cánh nặng nề, thậm chí hạ cánh tan tành thì còn tùy tốc độ tăng trưởng nguyên thủy, thí dụ như 9-10% của Trung Quốc trong 20 năm liền. Theo định nghĩa của S&P thì nếu kinh tế xứ này chỉ tăng 5% đã là hạ cánh nặng nề.
- Với Trung Quốc, ta khó xác định một con số chính xác vì nhiều lý do. Thứ nhất, số liệu kinh tế của họ thiếu sự chuẩn xác đáng tin mà chỉ phản ảnh một trào lưu. Thứ hai, xưa nay lãnh đạo xứ này vẫn coi 7% là đà gia tăng tối thiểu để tránh động loạn và nay đành chấp nhận một chỉ tiêu thấp hơn trong khi phải tiến hành cải cách để tìm lực đẩy khác hơn là đầu tư và xuất cảng. Thứ ba, dù phải chuyển hướng như vậy, họ vẫn sợ gây ra hốt hoảng nên có những lý luận hay dữ kiện tô hồng, và nhiều tổ hợp đầu tư quốc tế đang làm ăn tại Hoa lục cũng nói theo để trấn an thị trường, vì vậy định mức "hạ cánh nặng nề" trở thành cái gì đó khá co giãn.

- Tuy nhiên, sự thể khách quan là sau Nhật Bản năm 1991, Anh quốc năm 92, Nam Hàn năm 97 và Hoa Kỳ năm 2008, Trung Quốc khó tránh khỏi một vụ khủng hoảng tài chánh vì mắc nợ quá nhiều. Sau đó là giai đoạn co rút kéo dài. Nếu lãnh đạo xứ này thành công trong việc cải cách từ lượng sang phẩm và nâng sức tiêu thụ nội địa từ 35% hiện nay lên 50% thì kinh tế Trung Quốc chỉ có đà tăng trưởng khoảng 3-4% trong mươi năm tới. Sau giai đoạn tăng trưởng ngoạn mục và mua vào nguyên nhiên vật liệu để sản xuất đến dư thừa, khi kinh tế Trung Quốc bị thoái trào thì quả thật là thế giới có thể bị ảnh hưởng. Nhưng thật ra thế giới không chỉ có Trung Quốc.
RFI: Anh nói thế giới không chỉ có Trung Quốc vì nghĩ đến các khối kinh tế khác hay sao?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ rằng nếu muốn nhìn ra bối cảnh rộng lớn của một vụ suy trầm, thậm chí suy thoái, là dépression tại Trung Quốc, chúng ta cũng nên nhìn ra nhiều chuyển động lớn của các nền kinh tế khác sau năm năm khá đặc biệt vừa qua.
RFI: Anh nói về những chuyển động lớn sau năm năm vừa qua, đấy là gì và có ảnh hưởng thế nào đến tình trạng co thắt tại Trung Quốc?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Sau vụ khủng hoảng và Tổng suy trầm 2008-2009, người ta vội chôn sống khối kinh tế đã phát triển Âu-Mỹ-Nhật và đặt kỳ vọng vào các nước đang phát triển, đứng đầu là nhóm B.R.I.C, gồm có Brazil, Liên bang Nga, Ấn Độ và Trung Quốc. Vì sự hồ hởi sảng đó, tiền đầu tư đã từ Tây phương trút về Đông và tìm lực đẩy của các nền kinh tế đang lên.
- Bây giờ tình hình lại đảo ngược. Khối công nghiệp hoá Tây phương là Âu, Mỹ, Nhật, đã chấn chỉnh lại thất quân bình và tạm hồi phục. Dù chưa mạnh thì cũng đóng góp đến 60% vào sản lượng phụ trội của kinh tế thế giới. Ngược lại, các nền kinh tế đang lên đều có triệu chứng hụt hơi và hết là đầu máy tăng trưởng toàn cầu, kể cả nhóm BRIC này.
- Vụ Trung Quốc hạ cánh cần đặt trong bối cảnh rộng hơn vì liên hệ đến chiều hướng tái cân bằng chung. Tất nhiên là một xứ chuyên bán quặng sắt cho tiến trình công nghiệp hoá và đô thị hóa của Trung Quốc như nước Úc phải hụt hẫng và sợ nạn suy trầm cùng thất nghiệp. Nhưng vấn đề không chỉ có vậy. Về không gian, các nước sống nhờ bán nguyên liệu hay thương phẩm đệ nhất đẳng đều bị thiệt hại. Về thời gian thì sự thoái lui của Trung Quốc không chỉ là một chu kỳ co cụm đột ngột và nhất thời mà có thể kéo dài cả chục năm.
RFI: Thưa anh, trong bối cảnh rộng lớn và lâu dài như anh vừa có ý nhấn mạnh thì người ta vẫn tự hỏi vì sao riêng Trung Quốc có thể bị suy sụp nặng như vậy?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Một cách ngắn gọn thì Trung Quốc có ưu thế số một là dân số rất đông và họ khai thác thành lợi thế lương rẻ để sản xuất các mặt hàng chế biến rẻ hơn thiên hạ, nhất là các nước công nghiệp hoá. Vì thế họ tổ chức hệ thống sản xuất quanh lợi thế này và vì cả nước còn nghèo nên chẳng mua nổi sản lượng quá lớn đó thì họ phải xuất cảng. Mặt kia, họ còn phải tiếp tục đầu tư và sản xuất cực rẻ với mức lời thật thấp để tạo ra việc làm và tránh động loạn. Hai yêu cầu trái ngược đó dẫn tới sự thể là họ dựng lên một hệ thống sản xuất kém hiệu năng, đầy lãng phí mà cứ tính vào số tăng trưởng làm thế giới khâm phục.
- Thế rồi, khi kinh tế toàn cầu bị suy trầm làm xuất cảng sa sút, Trung Quốc phải bơm tiền kích thích, mà lại kích thích nạn sản xuất thừa và trợ cấp cho sự bất tài rồi chất lên núi nợ thối. Vì vậy, khủng hoảng tài chánh dễ bùng nổ. Sau đó là nạn suy trầm, cho đến ngày nào đó mà họ có thể kích thích tiêu thụ thay vì kích thích sản xuất loại hàng kém phẩm chất và gây ô nhiễm và lỗ lã. Chuyện hạ cánh nặng nề là kịch bản có xác suất cao của tình trạng quái đản này.
RFI: Câu hỏi cuối, thưa anh, nếu sự thể xảy ra như vậy thì tình hình các nước sẽ ra sao?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chúng ta có thể nhìn từ hai vế khác nhau.
- Trung Quốc bán ra hàng chế biến với giá rẻ nên cạnh tranh với các nước đang phát triển cùng trình độ kỹ thuật hay kém hơn khi thu hút đầu tư và tăng gia sản xuất. Nhưng khốn nỗi xứ này "chưa giàu đã già" và lợi thế nhân công rẻ của họ đã hết. Khi kinh tế suy trầm thì cả triệu doanh nghiệp phá sản, ngân hàng vỡ nợ và cả chục quốc gia sẽ có cơ hội trám vào khoảng trống của Trung Quốc nếu có nhân công tương đối rẻ và có tay nghề. Cơ hội đó cũng khiến các nước ấy có thể tiếp nhận thêm đầu tư của nước ngoài. Đó là trong trung hạn vài ba năm, chứ trước mắt thì vẫn là nhiều biến động đột ngột thất thường. Nhưng đột ngột hơn cả lại thuộc về vế kia.

- Để duy trì đà tăng trưởng ảo và sản xuất đến dư thừa, Trung Quốc ào ạt mua vào nguyên nhiên vật liệu, như năng lượng, nguyên liệu gốc kim loại cho công nghiệp, làm giá thương phẩm tăng vọt và đem lại mối lợi cho các nước xuất cảng. Khi kinh tế sa sút thì giá thương phẩm sụt mạnh, các nước xuất cảng đều vừa mất thị trường vừa mất mối lợi là bán ra loại hàng cao giá. Các nước như Brazil, Nga, Nam Phi hay Venezuela, chứ không chỉ có Úc Đại Lợi mới bị điêu đứng nặng vì bán nguyên liệu. Và mấy dự án bauxite tại Việt Nam lại càng sớm vỡ nợ! Giá dầu thô cũng có thể giảm vì Trung Quốc là nước ngốn dầu nhiều nhất nên gây họa cho các nước bán dầu từ Đông Nam Á qua Trung Đông.
- Song song, Trung Quốc lại mắc cái tật là "chưa hùng đã hung" nên mua vào rất nhiều võ khí và quân cụ. Khi kinh tế suy trầm thì khoản nhập cảng quân sự ấy cũng giảm. Liên bang Nga sẽ bị thiệt hai lần vì hết là nơi tiếp liệu võ khí và lại thất thế vì năng lượng sụt giá. Dầu thô mà rớt dưới 90 đô la một thùng là ngân sách của ông Putin bị lủng.
- Trong khi đó, nhà nước Trung Quốc vẫn có tiền. Khi có biến thì họ càng tẩu tán tài sản ra ngoài để khỏi sợ lỗ, nhưng không qua ngả đầu tư vào các nguồn tiếp vận thương phẩm hay năng lượng ở các nước Á Phi hay Nam Mỹ, mà chạy vào Mỹ và các nước công nghiệp hoá vì an toàn hơn.
- Nói chung, tôi nghĩ rằng người ta mới chỉ chớm thấy một sự xoay chuyển mấy chục năm mới có một lần nên sẽ còn thời giờ quan sát và điều chỉnh những dự đoán sau này.
RFI: Đài RFI xin cảm tạ chuyên gia Nguyễn-Xuân Nghĩa đã trả lời từ Hoa Kỳ.
 http://www.viet.rfi.fr/kinh-te/20130813-kinh-te-trung-quoc-ha-canh-nang-ne-nhieu-nuoc-au-lo
  Uyên – Kha: Phép thử đầu tiên cho “đối tác toàn diện”
Phạm Chí Dũng gửi RFA
2013-08-14
Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
Hai sinh viên Phương Uyên và Nguyên Kha tại Tòa án nhân dân tỉnh Long An ngày 16 tháng 5, 2013
Hai sinh viên Phương Uyên và Nguyên Kha tại Tòa án nhân dân tỉnh Long An ngày 16 tháng 5, 2013
RFA files
Sài Gòn một buổi chiều nắng vàng rộm và buồn. Hai ngày nữa, phiên xử phúc thẩm Phương Uyên và Nguyên Kha tái khởi sự. Một cảm giác nặng lòng trì lên mọi người. Căn phòng nhỏ như chìm trong một cảm xúc đè nén khó tả.
Phép thử đầu tiên cho đối tác toàn diện-sau chuyến đi của ông Trương Tấn Sang – nhân vật số hai của Đảng - đến Washington, với hàng loạt thỏa thuận mở ra một “kỷ nguyên mới” cho dân tộc Việt Nam, tái hiện bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Mỹ Harry Truman gần bảy chục năm về trước.

Những bạn trẻ đều đã trưởng thành
Mẹ của Phương Uyên kể với tôi, vài ngày trước có một số điện thoại lạ gọi vào máy chị, khuyên nhủ và cả khuyên giải làm sao để Uyên không “căng” với cơ quan an ninh điều tra. Nhưng bé Uyên làm sao biết được chuyện này? Uyên lớn rồi, đã đủ trưởng thành, và hơn nữa còn đủ tư cách để tự quyết định về cuộc đời của mình, về con đường mà Uyên đã và sẽ đi theo.
Tôi chợt nhớ lại hình ảnh một cô bé Phương Uyên trong trại giam Long An vào lần tôi được gặp. Cặp mắt vẫn hồn nhiên, nhưng có một áng gì đó thăm thẳm, suy tư và đau đáu về những gì còn ở phía trước. Một nét đẹp dịu dàng và thánh thiện mà không cho phép người khác tưởng rằng Uyên sẽ buông xuôi tất cả.
Căn phòng nhỏ của chúng tôi cũng chìm trong suy tư. Suy tư về số phận của những người bạn trẻ như Uyên và Kha, về những dấu hiệu và động thái xuất hiện vài ngày trước phiên tòa phúc thẩm. Mọi người đều đã biết Kha buộc phải viết đơn từ chối luật sư bào chữa. Mọi người còn nghe vài nguồn thông tin từ Long An cho hay, thậm chí mẩu chuyện điều tra đối với Kha có thể “chuyển hướng” nếu Kha chịu nhân nhượng một vài điểm nào đó.
Không ai tranh luận hoặc đưa ra quyết định về những việc đang xảy đến với Uyên và Kha. Anh Nguyễn Tường Thụy và anh Kha Lương Ngãi chỉ nói rằng “những bạn trẻ đều đã trưởng thành”, và không có lý do gì phải thỏa hiệp với những chuyện không cần thỏa hiệp
Không ai tranh luận hoặc đưa ra quyết định về những việc đang xảy đến với Uyên và Kha. Anh Nguyễn Tường Thụy và anh Kha Lương Ngãi chỉ nói rằng “những bạn trẻ đều đã trưởng thành”, và không có lý do gì phải thỏa hiệp với những chuyện không cần thỏa hiệp.
Cách đây vài ngày, một phái đoàn của Hạ nghị viện Hoa Kỳ đã đến Sài Gòn. Ít nhất cũng đã diễn ra một thỏa hiệp không tuyên bố khi phái đoàn này gặp cựu tù nhân lương tâm Nguyễn Bắc Truyển mà không bị gây khó dễ gì đáng kể. Không khí có vẻ bớt siết nóng như vậy lại khá là khác với những cố gắng không thành công của Phó trợ lý ngoại trưởng Mỹ Dan Baer khi ông muốn tiếp xúc với hai nhà bất đồng chính kiến có tiếng ở Việt Nam là Luật sư Nguyễn Văn Đài và bác sĩ Phạm Hồng Sơn. Câu chuyện thất bại của Dan Baer lại xảy ra đúng vào dịp một cuộc đối thoại nhân quyền Việt - Mỹ được tái lập tại Hà Nội vào tháng Tư năm 2013, sau khi bị phía Mỹ đình hoãn vào cuối năm trước.
Những nhân vật sốt sắng với chủ đề nhân quyền và dân chủ cho Việt Nam trong phái đoàn Hạ nghị viện Mỹ đã tìm hiểu nhiều, rất nhiều về những gì đã và đang xảy ra ở Hà Nội, Sài Gòn, Nghệ An, Tây Nguyên và cả An Giang. Không chỉ là những tù nhân lương tâm còn bị giam giữ như Điếu Cày, Tạ Phong Tần, Cù Huy Hà Vũ…, mà cả những người đang có nguy cơ bị xếp vào vòng lao lý hoặc giới blogger có triển vọng “nhập kho” - như một từ ngữ dân gian đang được kích hoạt ở Việt Nam.
Và nghe đâu, những người đã thúc đẩy cho sự hình thành Dự luật nhân quyền Việt Nam lẫn Dự luật chế tài nhân quyền Việt Nam đã không bỏ qua hai trường hợp Phương Uyên và Nguyên Kha sắp đưa ra xét xử phúc thẩm. Nếu chiếu theo quan điểm của những người đã tiếp ông Trương Tấn Sang vào cuối tháng Bảy năm 2013 thì những trường hợp như Uyên và Kha phải được trả tự do vô điều kiện.
HR 1897 – số hiệu của Dự luật nhân quyền Việt Nam – vừa được Hạ nghị viện Hoa Kỳ thông qua có lẽ cũng vì lý do ấy.
Ngay tại thời điểm này, một trùng hợp ngẫu nhiên sắp diễn ra là phép thử đầu tiên sau cuộc gặp của ông Sang với người Mỹ lại là Nguyên Kha - một người đồng hương với ông. Sự trùng hợp này cũng có thể khiến người ta nhớ đến một sự trùng hợp khác: ngay trước chuyến đi của ông Sang đến Bắc Kinh gặp Tập Cận Bình, một người đồng hương khác của chủ tịch nước là Đinh Nhật Uy đã bị bắt khẩn cấp, với cáo buộc liên quan điều 258 Bộ luật hình Sự.
Hai trùng hợp nhỏ biến thành một trùng hợp lớn: cả Nguyên Kha lẫn Nhật Uy đều có cùng một người mẹ. Chỉ trong chưa đầy một năm, người mẹ đó đã bị tước đi cả hai sinh linh nương tựa của mình.
Còn bây giờ, những người cầm quyền ở Việt Nam sẽ “nương tựa” vào đâu? Người ta đang nói không ngớt về câu chuyện “đi dây” giữa Bắc Kinh và Washington. Chỉ có điều, Biển Đông lại cách nước Mỹ cả một Thái Bình Dương, khác hẳn với “người bạn Bốn tốt” cùng chung đường biên giới mà không ít lần gây tai họa cho người láng giềng vẫn cam phận “Mười sáu chữ vàng” của mình.
Nắng chiều vẫn rơi nhè nhẹ, nhưng hoàng hôn đã bớt sậm màu. Anh Huỳnh Kim Báu, một trong những người nhiệt thành của phong trào Lực lượng ba ở Sài Gòn trước năm 1975, vào lần này cũng nhiệt tình không kém với đề nghị tất cả mọi người cùng đi thăm Phương Uyên và cùng tham dự phiên tòa phúc thẩm Uyên - Kha.
Sáu năm sơ thẩm cho Uyên và tám năm sơ thẩm cho Kha là quá nặng, ai cũng nghĩ thế và nói như thế. Và nếu có thể trải lòng hơn, những mầm non của dân tộc không đáng bị vùi dập đến thế.
Chưa bao giờ, chưa ở đâu, những con người viết hoa phản đối đường lưỡi bò Trung Hoa lại cần được thăng hoa như ở đây, vào lúc này.
Những tín hiệu và động thái đối ngoại vẫn chầm chậm biến hiện. Nghe nói gia đình Nhật Uy đang được gợi ý làm thủ tục bảo lãnh cho Uy được tại ngoại. Mà nếu được tại ngoại thì sẽ có nhiều khả năng được đình chỉ điều tra.
Tất nhiên, vụ của Uy không thể là lớn nếu xét theo hệ quy chiếu nội bộ. Và nếu quả thực vụ việc Đinh Nhật Uy ổn thỏa, những người yêu chuộng dân chủ có thể hy vọng một tương lai không đến nỗi tăm tối cho Phương Uyên và Nguyên Kha.
Thế cờ ngoại giao và “đối tác toàn diện” đã giăng ra, việc có hay không luật sư bào chữa cũng có thể chỉ là tiểu tiết. Vấn đề chỉ còn là án được giảm như thế nào mà thôi.
Thậm chí, nếu thẩm phán Lê Thị Hợp sớm khỏi bệnh và luật sư Lê Quốc Quân được đưa ra xét xử vào thời điểm này - nửa tháng sau tuyên bố về đối tác toàn diện Việt - Mỹ, thì hẳn số phận của Quân có thể đồng cảm với một cái ghế nào đó trong Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc đặc cách dành cho Việt Nam.
Chiều đã tắt nắng, nhưng căn phòng chợt thoáng một nét cười. Chúng tôi sắp được gặp Phương Uyên rồi…
 

ASEAN đòi Trung Quốc chấp nhận Bộ quy tắc ứng xử tại Biển Đông

Các Ngoại trưởng ASEAN nắm tay nhau thể hiện sự đoàn kết tại cuộc họp ở Brunei ngày 30/06/2013.
Các Ngoại trưởng ASEAN nắm tay nhau thể hiện sự đoàn kết tại cuộc họp ở Brunei ngày 30/06/2013.

Thụy My
Các nước ASEAN họp tại Thái Lan hôm nay 14/08/2013 đã nhất trí trong việc gây áp lực đòi Trung Quốc phải chấp nhận Bộ quy tắc ứng xử trong việc giải quyết các tranh chấp tại Biển Đông. Hãng tin Pháp AFP dẫn nguồn tin từ Bộ Ngoại giao Thái cho biết như trên.

Các Ngoại trưởng của mười nước thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) trong hội nghị không chính thức kéo dài hai ngày tại thành phố nghỉ mát Hua Hin, Thái Lan, đã thỏa thuận « nói cùng một tiếng nói » trong việc tìm kiếm một « kết luận nhanh chóng về Bộ quy tắc ứng xử ». Được biết các Ngoại trưởng ASEAN sẽ gặp các quan chức Trung Quốc tại Bắc Kinh vào cuối tháng này.
Cụ thể, theo một phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Thái Lan, thì : « ASEAN sẽ phải có một tiếng nói duy nhất và tỏ ra thống nhất. Điều này không có nghĩa là phát biểu chống lại bất kỳ ai…ASEAN đoàn kết lại thì sẽ dễ dàng thảo luận hơn. Bộ quy tắc ứng xử cần có mục tiêu củng cố niềm tin giữa ASEAN với Trung Quốc…và ngăn chận mọi sự cố bất lợi xảy ra tại Biển Đông ».
Từ hơn một thập kỷ qua, các nước ASEAN đã cố gắng tìm kiếm một hiệp ước an ninh với Trung Quốc thông qua một Bộ quy tắc ứng xử hợp lệ. Bắc Kinh đòi hỏi chủ quyền trên hầu như toàn bộ Biển Đông, kể cả những vùng biển nằm kề vùng duyên hải của các nước láng giềng nhỏ yếu hơn. Nhà cầm quyền Trung Quốc luôn ngần ngại không muốn chấp nhận Bộ quy tắc ứng xử, sợ rằng những nhượng bộ sẽ làm yêu sách của mình giảm đi trọng lượng.
Trong diễn đàn an ninh khu vực vào tháng Sáu, các quốc gia ASEAN đã tỏ ra chia rẽ về vấn đề này. Cam Bốt, nước làm chủ tịch luân phiên vào lúc đó đã từ chối ủng hộ đề nghị của Philippines là phải có thái độ cứng rắn hơn với Bắc Kinh. Nhưng theo Bộ Ngoại giao Thái Lan, sau hai ngày thảo luận, hôm nay Phó thủ tướng Cam Bốt đã chấp nhận thống nhất với quan điểm của ASEAN về Bộ quy tắc ứng xử.
Căng thẳng trong khu vực đã dâng cao do tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông, được xem là giàu tiềm năng dầu khí và là điểm nóng về mặt quân sự hiện nay. Các nước ASEAN như Việt Nam, Philippines, Brunei và Malaysia cùng với Đài Loan đều đòi hỏi chủ quyền.
Trung Quốc từ chối nâng cấp bản « Tuyên bố về quy tắc ứng xử » năm 2002 lên thành Bộ quy tắc ứng xử có giá trị luật pháp. Bắc Kinh chủ trương thương lượng song phương với từng nước để có thể dùng sức mạnh áp đảo.
Việt Nam và Philippines trong những năm gần đây lên án những hành động ngày càng hung hăng của Trung Quốc để tăng áp lực cho yêu sách của mình tại Biển Đông. Năm ngoái, các chiến hạm Trung Quốc đã chiếm giữ bãi cạn Scarborough, chỉ nằm cách đảo chính Luzon của Philippines có 140 hải lý.
tags: ASEAN - Biển Đông - Châu Á - Chính trị - Trung Quốc
 http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20130814-asean-thong-nhat-doi-trung-quoc-chap-nhan-bo-quy-tac-ung-xu-tai-bien-dong
 

LIÊN HỘI NHÂN QUYỀN




Bản Tin Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ
Phải bênh vực những phụ nữ Việt Nam và thế giới bị tù đày vì Lòng Yêu Nước,
Chống Bất Công, Bảo Vệ Nhân Quyền và Nhân Phẩm

Nhân dịp ngày Quốc Tế Phụ Nữ, Ủy Ban Văn Bút Quốc Tế Bênh Vực Nhà Văn bị Đàn áp và Cầm tù đã kiểm nhận hơn 870 trường hợp những người cầm bút bị hành hung và trấn áp trong suốt năm 2012. Càng ngày càng có nhiều phụ nữ trong số hàng trăm nhà văn bị thọ hình với những án tù lâu dài ở những nước như Trung Cộng, Việt Cộng, Thổ Nhĩ Kỳ, Erythrée và Ouzbékistan. 76 tác giả đã bị buộc phải im lặng tuyệt đối vì họ là nạn nhân của những vụ ám sát, thủ tiêu. Thủ phạm của những tội ác giết người này không ai khác hơn là những nhà cầm quyền độc tài và nhũng lạm, cùng với các nhóm tội phạm võ trang. Những người bị mất tích gần đây, nhứt là giới phụ nữ, khơi lại trong trí nhớ chúng ta cái chết đau thương của Anna Politkovskaya, bị ám sát hồi tháng 10 năm 2006 tại Mạc Tư Khoa.


Hay là : ở Mễ Tây Cơ, cơ thể bị cắt xẻo của nhà thơ Susanna Chávez Castillo được tìm thấy ngày 6 tháng giêng năm 2011. Bà bị bóp cổ, bàn tay trái bị cắt đứt. Ngày 4 tháng 7 năm 2011, phóng viên Angel Castillo Corona đã bị giết cùng với con trai 16 tuổi. Ngày 1 tháng 9 năm 2011, hai nữ ký giả Ana Maria Marcela Yarce Viveros và Rocio Gonzalez Trapaga bị chết ngạt vì dây siết cổ và tay chân bị buộc lại, tìm thấy xác trong một công viên tại thủ đô. Ngày 28 tháng 4 năm 2012, nữ ký giả Regina Martinez được tìm thấy bị đánh đập và siết cổ đến chết tại nhà riêng. Ở Ấn Độ, ngày 26 tháng 9 năm 2012, nữ phóng viên Chaitali Santra bị sát hại tại nhà riêng bởi một bưu kiện có gài bom. Chồng bà cũng bị thương nặng trong vụ bom nổ. Vẫn tại châu Á, lần đầu tiên trong lịch sử, Việt Nam đã trải qua một thảm kịch của con người chưa từng thấy. Bà Đặng Thị Kim Liêng (64 tuổi), mẹ của bà Tạ Phong Tần, nhà báo và tác giả nhựt ký điện tử, đã qua đời ngày 30 tháng 7 năm 2012 sau khi tự thiêu để phản đối việc giam cầm độc đoán trưởng nữ của bà từ tháng 9 năm 2011. Mặc dù vậy, ngày 24 tháng 9, Tạ Phong Tần vẫn bị kết án 10 năm tù giam và 5 năm tù quản chế vì tội ‘tuyên truyền chống nhà nước xã hội chủ nghĩa’’.

Trong số những phụ nữ bị đe dọa và ngược đãi, có một nhà bênh vực nhân quyền còn trẻ tuổi là cô Malala Yousafzai. Bọn khủng bố Taliban bắn xối xả vào cô học trò 14 tuổi nước Pakistan vì cô đã anh dũng chiến đấu đòi quyền được học hành và giáo dục cho trẻ em, cả gái lẫn trai. Một viên đạn đã găm gần sát bộ não của cô bé mong manh như một cánh hoa lài. Âm mưu nhẫn tâm ám sát Malala Yousafzai đã trở thành đồng nghĩa với hành vi bạo lực và phân biệt đối xử đối với trẻ em gái và phụ nữ. Tội của các nạn nhân : cất cao tiếng nói, cầm lấy cây bút để biện minh, bênh vực chính nghĩa của hàng ngàn phụ nữ bị bần cùng hóa và áp bức. Để tố cáo thảm cảnh của nông dân khốn khổ vì mảnh đất và mái nhà của họ bị tịch thu và cướp bóc. Và để làm nổi bật các điều kiện làm việc bất xứng đối với nhân phẩm của những người lao động, nữ lẫn nam, vì không có nghiệp đoàn công nhân độc lập tại nước họ.


Với một đóa hoa hồng và một ngọn nến trong trái tim chúng ta biết ơn, hãy tỏ lòng kính trọng, vinh danh những người phụ nữ dũng cảm đã chết hay mất tích, nổi tiếng hay vô danh. Đó là những nạn nhân mà những tên tội phạm lớn của thế kỷ 21 và đồng lõa của chúng đã đánh đập, tra tấn, hay ám sát nhưng lại thường không bị trừng phạt. Chúng ta hãy lên tiếng, như những con người tự do, công bằng và đoàn kết, tương thân tương ái.

Hãy hình dung lại trong ký ức chúng ta tên của vài người đàn bà - một người vợ, một người Mẹ, một người chị hay em gái, một người chị họ hay là một cô bạn láng giềng - họ là những phụ nữ dũng cảm đã dám nói lên một tiếng KHÔNG, viết lên một chữ KHÔNG, bất chấp nguy cơ đến tính mệnh của họ. KHÔNG chấp nhận bất công, hành vi bạo lực, dối trá; KHÔNG tuân phục ngụy quyền độc tài chuyên chế, cuồng tín cực đoan hay tham ô nhũng lạm; KHÔNG đồng lõa với các băng đảng mafia hay các nhóm bất lương có võ trang. Nói lên một tiếng KHÔNG đối với quốc nạn buôn bán phụ nữ và trẻ con ở Việt Nam; một tiếng KHÔNG đối với tai họa hiếp dâm tại Ấn Độ và các xã hội khác.


Chúng ta hãy hình dung lại trong ký ức chúng ta tên của vài người phụ nữ đáng quý, như những Đóa Hoa Người : ở Pakistan, Malala Yousafzai; ở Ấn Độ, Tongam Rina và Shaheen Dhada; ở Mễ Tây Cơ, Lydia Cacho Ribeiro và Olga Wornat; ở Việt Nam, Tạ Phong Tần, Hồ Thị Bích Khương, Lê Thị Kim Thu, Nguyễn Đặng Minh Mẫn, Đặng Ngọc Minh và Nguyễn Phương Uyên; ở Ethiopie, Reeyot Alemu, Désiré Ename và Blaise Mengue Menna; ở Erythrée, Astier Feshatsion, Yirgalem Asfha và Yirgalem Fisseha Mebrahtu; ở Gambie, Bintah Bah; ở Libéria, Mae Azago; ở Rwanda, Agnes Uwimana và Saidati Mukakibibi; ở Somalie, Somaia Ibrahim Ismail; ở Zimbabwe, Patience Nyangove; ở Phi Luật Tân, Jessie Mungcal;

ở Tích Lan, Frederica Jansz; ở Thái Lan, Chiranuch Premchiporn; ở Nga, Nadejda Tolokonnikova, Maria Alekhina, Oksana Chelysheva và Yekaterina Samutsevic; ở Tây Ban Nha, Teresa Toda; ở Thổ Nhĩ Kỳ, Pinar Selek (tù chung thân), Ayse Bektay, Busra Ersanli, Semiha Alankus, Nevin Erdemir, Cigdem Aslem, Yerlikaya Babi, Arzu Demir, Delek Demiral, Nahide Ermis, Sibel Guler, Sultan Gunes, Fatma Kocak, Zeynep Kuray, Ayle Oyman, Eylem Surmeli, Zuhal Tekiner, Nilgun Yildiz, Hamdiye Ciftii, Hatice Duman, Zeynep Kuray, Cicek Tahaoglu, Sibel Yalin Yadeniz, Muge Tuzcuoglu et Funda Uncu; ở Bahreïn, Zainab Al Khawaja;

ở Ba Tư, Shiva Nazar Ahari, Julia Bani Yaghoub, Manijeh Najm Eraghi, Nazanin Khosravani, Hengameh Shahidi, Nasrin Soutadeh, Rayhaneh Tabatabace et Nargess Mohammadi; ở Trung Cộng, Lưu Hà (nhà thơ và vợ nhà văn Lưu Hiểu Ba, Giải Nobel Hòa Bình), Gulmire Imin (gốc Ouïghour), Huuchinhuu Govruud (gốc Mông Cổ) và Tsering Woeser (gốc Tây Tạng); ở Do Thái, Ana Kamm; ở Syrie, Noura Al-Jizawi (mất tích), Tal Al-Mallouhi, Yara Badr, Razan Ghazzawi, Mayada Khalil, Thannaa Al-Zitani et Hanadi Zahlout; ở Colombie, Angye Gaona; ở Cuba, Dania Virgen Garcia, Yaremis es, Yoani Sanchez, Laritza Diversent và Aini Martin Valero; ở Guatemala, Carolina Vasquez Araya; ở Trinité-et-Tobago, Denyse Renne và Asha Javeed; ở Hoa Kỳ, Cynthia R. Lambert và Janet Hassan.


Genève ngày 8 tháng 3 năm 2013


Nguyên Hoàng Bảo Việt

Phó chủ tịch Trung Tâm Văn Bút Thụy Sĩ Pháp thoại

(đặc trách Ủy ban Bênh vực Nhà Văn bị Đàn áp và Cầm tù)

Hội viên Trung Tâm Nhà Văn Việt Nam Lưu Vong.


Bản Việt ngữ trên đây do Phạm Hồng Sơn – Hà Tản Viên chuyển dịch từ nguyên bản Pháp và Anh ngữ của tác giả.


Genève ngày 13 tháng 8 năm 2013

Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ

Ligue Vietnamienne des Droits de l'Homme en Suisse

Vietnamese League for Human Rights in Switzerland


Ghi chú : Bài viết bằng Pháp và Anh ngữ đã được Văn Bút Quốc Tế phổ biến trên Trang Web của Hiệp Hội Nhà Văn Thế Giới (www.pen-international.org) và tại Hội Nghị Ủy Ban Văn Bút Quốc Tế Bênh vực Nhà Văn bị cầm tù ở thành phố Cracovie, nước Ba Lan, tháng 5 năm 2013. Đồng thời, bài báo còn được chuyển tiếp đến nhiều Trung Tâm Văn Bút và các tổ chức Nhân Quyền trên thế giới. Bản Pháp ngữ đã được đăng trên các báo Thụy Sĩ Le Courrier và Tribune de Genève và được phổ biến trên Trang Web Ngày Thế Giới (www.journee-mondiale.com),


* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *http://www.pen-international.org/pen-world/centres-news/





http://www.pen-international.org/wp-content/uploads/2013/04/08-03-13-SAY-NO-TO-PERSECUTION-AGAINST-WOMEN-AND-GIRLS-FROM-WIPC-PEN-SUISSE-ROMAND.pdf
SAY NO TO THE PERSECUTION, DISCRIMINATION AND VIOLENCE

AGAINST WOMEN AND GIRLS


On the occasion of International Day of Women, PEN International’s Writers in Prison Committee monitored 877 cases of attacks for the year 2012.


Women are among hundreds of writers serving lengthy prison sentences in countries like China, Viêt Nam, Turkey, Eritrea and Uzbekistan. Seventy-six (76) authors, women and men alike, have been silenced by assassination. Predators are dictators, corrupt governments and armed criminal groups. New dead or missing, women in particular, remind us of the painful death of Anna Politkovskaya who was murdered in Moscow in October 2006.


In Mexico , the mutilated body of the poet Susanna Chávez Castillo was found on 6 January 2011. She had been strangled, her left hand cut. On 4 July 2011, Angel Castillo Corona was killed with his 16-year-old son. On 1 September 2011, Ana Maria Marcela Yarce Viveros and Rocio Gonzalez Trápaga were found in a park of the Mexican capital killed by asphyxiation, rope tied around their necks, feet and hands. On 28 April 2012, Regina Martínez, a Mexican journalist, was found beaten and strangled to death in her own home.


On 26 September 2012, Chaitali Santra, an Indian journalist, was killed by a parcel bomb she opened in her home. Her husband was also seriously injured in the explosion. Also in Asia, for the first time in its history, Viêt Nam lived through an unprecedented human tragedy. Ms. Dang Thi Kim Liêng (aged 64), the mother of Ta Phong Tân, a woman blogger-journalist, died on 30 July 2012 by burning herself alive to protest against the arbitrary detention of her daughter since September 2011. Despite her mother’s death, Ta Phong Tân was sentenced on 24 September 2012 to ten (10) years in prison followed by five (5) years of probationary detention for '' propaganda against the socialist state''.


Among women victims of threat and persecution, there is also the young defender of human rights Malala Yousafzai. That Pakistani schoolgirl (aged 14) was riddled with bullets by the Taliban because she had courageously fought for the right of girls and boys to education. A bullet lodged near the brain of this little girl, as fragile as a jasmine petal. Cold-blooded attempts to kill Malala Yousafzai have become a synonym for violence and discrimination against girls and women. Their crime was to raise their voice, or take up their pens to plead the just cause of thousands of poor and oppressed women. Or else to denounce the plight of poor farmers whose land and home were confiscated and looted. And to highlight the unworthy working conditions of workers because there are no independent trade unions in their countries.


With a rose and a candle in our grateful hearts, let’s pay tribute to these brave women, dead or missing, known or unknown, who were shot, tortured and murdered by the greatest criminals of the 21st century and their accomplices, too often with impunity. Let us raise our voices as human beings in solidarity for freedom and justice. Let us recall some women’s names – the names of a wife, a mother, a sister, a cousin or a neighbor who dared say and write the word NO and risked their lives. NO to injustice, violence, lies, to totalitarian powers, ultra fundamentalist or corrupt mafia and paramilitary groups. NO to trafficking in women and children in Viêt Nam , also NO to plague of rampant rape in India and other societies.


Let us recall some of their names, as lovely as human flowers. Among many others, in Pakistan with Malala Yousafzai; in India, Tongam Rina and Shaheen Dhada; in Mexico, Lydia Cacho Ribeiro and Olga Wornat; au Viêt Nam, Ta Phong Tân, Hô Thi Bich Khuong, Lê Thi Kim Thu, Nguyên Dang Minh Mân, Dang Ngoc Minh and Nguyên Phuong Uyên; in Ethiopia, Reeyot Alemu, Désiré Ename and Blaise Mengue Menna; in Eritrea, Astier Feshatsion, Yirgalem Asfha and Yirgalem Fisseha Mebrahtu; in Gambia, Bintah Bah; in Liberia, Mae Azago; in Rwanda, Agnes Uwimana and Saidati Mukakibibi; in Somalia, Somaia Ibrahim Ismail; in Zimbabwe, Patience Nyangove; in the Philippines, Jessie Mungcal; in Sri Lanka, Frederica Jansz; in Thailand, Chiranuch Premchiporn; in Russia, Nadezhda Tolokonnikova, Maria Alekhina, Oksana Chelysheva and Yekaterina Samutsevic; in Spain, Teresa Toda; in Turkey, Pinar Selek (life imprisonment), Ayse Bektay, Busra Ersanli, Semiha Alankus, Nevin Erdemir, Cigdem Aslem, Yerlikaya Babi, Arzu Demir, Delek Demiral, Nahide Ermis, Sibel Guler, Sultan Gunes, Fatma Kocak, Zeynep Kuray, Ayle Oyman, Eylem Surmeli, Zuhal Tekiner, Nilgun Yildiz, Hamdiye Ciftii, Hatice Duman, Zeynep Kuray, Cicek Tahaoglu, Sibel Yalin Yadeniz, Muge Tuzcuoglu and Funda Uncu; Bahrain, Zainab Al Khawaja; in Iran, Shiva Nazar Ahari, Julia Bani Yaghoub, Manijeh Najm Eraghi, Nazanin Khosravani, Hengameh Shahidi, Nasrin Soutadeh, Rayhaneh Tabatabace and Nargess Mohammadi; in China, Liu Xia (poet and wife of Peace Nobel Prize Liu Xiaobo), Gulmire Imin (Uyghur origin), Huuchinhuu Govruud (Mongoli origin), Tsering Woeser (Tibetan origin); in Israel, Ana Kamm; in Syria, Noura Al-Jizawi (missing), Tal Al-Mallouhi, Yara Badr, Razan Ghazzawi, Mayada Khalil, Thannaa Al-Zitani and Hanadi Zahlout; in Colombia, Angye Gaona; in Cuba, Dania Virgen Garcia, Yaremis Flores, Yoani Sanchez, Laritza Diversent and Aini Martin Valero; in Guatemala, Carolina Vasquez Araya; in Trinidad and Tobago, Denyse Renne and Asha Javeed; in the U.S.A, Cynthia R. Lambert and Janet Hassan.


Geneva 8 March 2013

Nguyên Hoàng Bao Viêt*

Vice president of Swiss Romand PEN Centre

For the Writers in Prison Committee

*Member of the Associated Vietnamese Writers in Exile Centre


---------------------------------------------

CENTRE SUISSE ROMAND DE PEN INTERNATIONAL




8 MARS 2013


JOURNEE INTERNATIONALE DE LA FEMME
DISONS NON À LA PERSECUTION, LA DISCRIMINATION ET LA VIOLENCE
À L’EGARD DES FEMMES ET DES FILLES


À l’occasion de la Journée Internationale de la Femme, le Comité du PEN International de défense des écrivains persécutés a recensé 870 cas d’attaques pour toute l’année 2012.

Les femmes font partie des centaines d’écrivains purgeant de longues peines de prison dans des pays comme la Chine, le Viêt Nam, la Turquie, l'Erythrée et l'Ouzbékistan. Septante-six (76) auteurs, femmes et hommes confondus, ont été réduits au silence par des assassinats. Leurs prédateurs sont des pouvoirs dictatoriaux et corrompus ainsi que des groupes armés de criminalité locale. Les nouveaux disparus, des femmes notamment, rappellent à notre mémoire sur la mort douloureuse d’Anna Politkovskaya, assassinée en octobre 2006 à Moscou.


Au Mexique, le corps mutilé de la poète Susanna Chávez Castillo avait été retrouvée le 6 janvier 2011. Elle avait été étranglée, sa main gauche coupée. Le 4 juillet 2011, Angel Castillo Corona, avait été tué avec son fils de 16 ans. Le 1er septembre 2011, Ana Maria Marcela Yarce Viveros et Rocio González Trápaga avaient été tuées par asphyxie, une corde autour du cou, pieds et mains attachées dans un parc de la capitale. Le 28 avril 2012, Regina Martnez, journaliste mexicaine, a été retrouvée battue et étranglée à mort chez elle.


Le 26 septembre 2012, Chaitali Santra, journaliste indienne, a été tuée par un colis piégé qu’elle a ouvert à son domicile. Son mari aurait également été gravement blessé dans l’explosion. Toujours en Asie, pour la première fois de son histoire, le Viêt Nam a vécu une tragédie humaine sans précédente. Mme Dang Thi Kim Liêng (64 ans), mère de Ta Phong Tân, journaliste-blogueuse, est décédée le 30 juillet 2012 après s’être immolée par le feu pour protester contre la détention arbitraire de sa fille depuis septembre 2011. En dépit de la mort de sa mère, Ta Phong Tân était condamnée le 24 septembre à dix (10) ans de prison et cinq (5) ans de détention probatoire pour ‘’propagande contre l’Etat socialiste’’.


Parmi les femmes menacées et persécutées, on trouve aussi la jeune défenseuse des droits de l’homme Malala Yousafzai. Les talibans criblaient de balles cette écolière pakistanaise de 14 ans parce qu’elle avait lutté courageusement pour le droit des filles comme des garçons à l’éducation. Une balle s’est logée tout près du cerveau de cette petite fille fragile comme une pétale de jasmin. La froide tentative de tuer Malala Yousafzai est devenue synonyme de la violence et de la discrimination à l’encontre des filles et des femmes. Leur crime : avoir élevé la voix, pris la plume pour plaider la juste cause des milliers de femmes démunies et opprimées. Pour dénoncer le drame des misérables paysannes dont la terre et la maison ont été confisquées et pillées. Et pour mettre en lumière les conditions de travail indignes des travailleuses et travailleurs parce qu’il n’existe pas de syndicat indépendant dans leurs pays.


Avec une rose et une bougie dans notre coeur reconnaissant, rendons hommage à ces braves femmes disparues, connues ou inconnues, que les grands criminels du 21ème siècle et leurs complice

Wednesday, August 14, 2013

CÔNG TỬ BẠC LIÊU


 

 Công tử Bạc Liêu: 
Cả đời xài hết 5 tấn vàng thế nào?
  Sau 3 năm “du học” bên Pháp, mà thực chất là chỉ có ăn chơi, tháng 8.1930 Trần Trinh Quy trở về nước bằng tàu thủy. Ông Hội đồng Trạch đã dày công tổ chức một cuộc đón rước con rình rang có một không hai thời bấy giờ, với những phương tiện và nghi thức không hề thua kém đón rước Vua Bảo Đại. Bắt đầu từ đây, giới ăn chơi Nam Kỳ biết đến một Công tử Bạc Liêu Trần Trinh Huy.


“Hai Lúa” mua xe như Vua Bảo Đại
Hãng bán xe hơi ngay ngã tư Charner - Bonard (ngã tư Nguyễn Huệ - Lê Lợi, quận 1, TPHCM ngày nay) không thật niềm nở khi có hai người khách trong bộ dạng nhà quê ghé vào. Người lớn tuổi trong bộ đồ bà ba “lục soạn” trắng ngả màu phèn, ôm khư khư chiếc giỏ đệm, bên trong là cái mo cau. Ông già nhà quê và người thanh niên đi cùng xem khắp lượt các loại xe hơi đậu trong hãng. Sau một hồi ngắm ngắm nghía nghía, người thanh niên kéo ông già nhà quê tới bên chiếc xe “Huê Kỳ” (xe hơi) hiệu Chevrolet loại mới nhập cảng ở Mỹ qua, chưa ai có ở Nam Kỳ.

Ông già ra lệnh cho mấy thằng Tây bán xe mở cửa xe cho ông lên ngồi, bọn chúng trố mắt ngạc nhiên nhưng vẫn làm theo khách hàng. Xong ông bảo chúng chạy một vòng quanh chợ Bến Thành. Đến chừng đã ưng ý, ông kêu sốp-phơ chạy trở về hãng, xong mở mo cau ra đếm tiền, cả cọc giấy bạc bộ lư (loại 100 đồng Đông Dương). Bọn Tây trố mắt kinh ngạc, chúng đâu biết rằng, ông già nhà quê kia là một đại điền chủ giàu nhất Nam Kỳ khi ấy, ở xứ Bạc Liêu. Ông chính là Hội đồng Trạch (Trần Trinh Trạch) - người đang nắm trong tay hơn 100 ngàn hécta ruộng lúa và khoảng 50 ngàn hécta ruộng muối.
Ông Hội đồng Trạch mua xe mới là để đón đứa con đi học bên Tây thành tài về nước cho nó đúng điệu. Trước đó gia đình ông Trạch có chiếc Ford tuy chưa cũ nhưng đã thua kém xe của nhiều điền chủ khác, trong khi chiếc Chevrolet chỉ mới Vua Bảo Đại có. Chiều ngày hôm trước, người tài xế lái chiếc Ford đưa ông bà Hội đồng Trạch và mấy người con từ Bạc Liêu lên Sài Gòn, đêm ngủ ở khách sạn Nam Kỳ, để sáng nay đi mua xe hơi. Ngày hôm sau “cậu Ba” Quy sẽ về đến cảng Sài Gòn.
Vào đầu tháng 7, cậu Ba Quy đánh dây thép từ Pháp về cho biết đã học “thành tài” và chuẩn bị lên tàu về nước. Thông tin đó làm xôn xao Nhà Lớn (Nhà Lớn là tên mà người dân Bạc Liêu đặt cho tòa nhà đồ sộ, nguy nga nằm bên sông Bạc Liêu). Đó là một biệt thự lớn, có lầu, kiến trúc theo kiểu Tây, tuy thua về diện tích khuôn viên, nhưng về kiến trúc và mức độ đồ sộ thì ăn đứt dinh thự của quan chủ tỉnh người Tây. Đó là cơ ngơi của ông đại điền chủ Trần Trinh Trạch.
Ông Hồi đồng Trạch cho tu sửa, dọn dẹp lại nhà cửa để chuẩn bị yến tiệc lớn mừng ngày đứa con quý tử của ông “vinh quy bái tổ” từ Pháp trở về. Ông Trạch có 3 người con trai, nhưng ông cưng nhất là cậu Ba Quy vì có “đầu óc hơn người”, được đi Tây học. Ông Trạch (“trạch” là tên một loài cá, cá trạch, có nhiều ở miền Tây Nam Bộ) thích đặt tên con theo các loài thủy tộc giống như mình, vì ông quan niệm “muốn giàu nuôi cá”. Đứa con trai đầu lòng ông đặt tên Trần Trinh Đinh (“đinh” là tên một loài giống như rùa, nhưng lớn hơn, sống ở ven biển Nam Bộ). Đứa con thứ ba là Trần Trinh Quy (“quy” nghĩa là rùa). Đứa con trai út, ông cũng đặt tên một loài thủy tộc khác là Trần Trinh Khương, nhưng người đời quen gọi là Tám Bò. Cậu Hai Đinh được học tới Đip-lôm (trung học), rồi học ban tú tài, nhưng ông Hội đồng Trạch không cho cậu học tiếp, mà bắt ở nhà trông coi điền đất cho ông. Ông quan niệm, học nhiều đậu kỹ sư, bác sĩ cũng không kiếm tiền nhiều bằng mấy ông chủ điền.
Trần Trinh Quy cũng học tới đậu bằng Đip-lôm, ông Hội đồng Trạch định bắt nghỉ học ở nhà làm điền chủ, nhưng Ba Quy nhất mực đòi cha cho đi học bên Tây. Ba Quy nói: “Nhà mình bạc chứa cả kho mà ba hà tiện làm gì? Để cho con một bụng chữ còn hơn để mấy chục ngàn mẫu ruộng. Nếu ba cho con qua Tây học thì thiên hạ khắp nơi trên xứ Nam Kỳ lục tỉnh này ai cũng kính nể ba”. Nghe con nói chí lý, ông Hội đồng Trạch đã mở kho lấy cả valy bạc nén cho con đi Tây du học. Thấm thoắt mà đã 3 năm, cậu Ba Quy đã học “thành tài”, sắp trở về “vinh quy bái tổ”. Một mặt, ông Hội đồng Trạch cho sửa soạn lại nhà cửa, trang hoàng thật lộng lẫy, một mặt ông sắm chiếc xe hơi loại mới nhất để ra bến cảng Sài Gòn đón cậu Ba Quy đưa về Bạc Liêu.

Lái xe, lái cả máy bay
Chiếc tàu Aramis của hãng Messageries Maritimes chạy tuyến Marseille - Sài Gòn cập bến vào lúc 9h sáng ngày 10.8.1930. Bến cảng Nhà Rồng đông nghẹt người tới đón thân nhân từ Pháp về. Gia đình Hội đồng Trạch đi trên 2 chiếc xe Huê Kỳ ra bến cảng đón con: Chiếc Ford đi bấy lâu và chiếc Chevrolet mua mua ngày hôm trước. Trong bãi xe đậu trên bến cảng, chiếc Chevrolet của Hội đồng Trạch là nổi bật hơn cả, thiên hạ kéo tới trầm trồ ngắm nhìn. Sau mấy hồi còi vang dài trên sông Sài Gòn, chiếc tàu Aramis xuất hiện, từ từ rẽ sóng tiền về bến Nhà Rồng. Từ trên boong tàu, cậu Ba Quy xuất hiện thật sang trọng, giống như tài tử trên màn bạc trong rạp chiếu bóng. Vừa ôm chầm lấy con, ông Hội đồng Trạch vừa hỏi: “Mầy coi oai như Tây. Có dẫn con đầm nào về không?”. Cậu Ba lắc đầu, mắt đượm buồn vì ông Hội đồng Trạch đã vô tình gợi lại cảnh chia ly giữa cậu và mẹ con cô gái Tây tên Maria trên bến cảng Marseille cách đó gần 1 tháng.
Ba Quy hơi bất ngờ khi được gia đình đưa tới chiếc Chevrolet mới toanh, loại xe này ở bên Pháp chỉ những nhà quý tộc mới dám mua. Ba Quy không chịu chui vào hàng ghế sau ngồi cùng cha, mà đẩy sốp-phơ sang một bên, rồi ngồi vào sau vô-lăng, trước cặp mắt kinh ngạc của ông Hội đồng Trạch: “Mầy cũng biết chạy xe nữa à?”. Không nói không rằng, Ba Quy depart rồi từ từ lăn bánh một cách điệu nghệ. Trên con đường thiên lý từ Sài Gòn về miền Tây, chiếc Chevrolet chạy như bay, qua mặt tất cả các xe đò lục tỉnh. Tốc độ tăng lên 80, rồi 90km/h, chiếc Chevrolet bỏ lại sau lưng những chiếc xe đò của các hãng Ứng Ký, Đại Đồng nổi tiếng anh chị.
Thuở ấy, xe đò Ứng Ký có sốp-phơ Ba Thẹo nổi tiếng cừ khôi, chưa từng thua bất cứ xe nào trong các cuộc đua trên con đường thiên lý. Khi thấy có chiếc xe Huê Kỳ thúc đít, Ba theo cười ngạo nghễ lạng qua lạng lại, ra chiều chọc tức chiếc xe phía sau, vừa chạy hết tốc lực, vừa cản đường không cho qua. Nhưng chỉ vài đường lạng lách là chiếc Chevrolet vọt qua như ánh chớp. Sôp-phơ Ba Thẹo trố mắt nhìn người lái xe mặc áo veste, đeo cà-vạt, mắt kính gọng vàng, đầu đội nón Mossant có giá bằng tiền lương sốp-phơ cả tháng.
Ông Hội đồng Trạch chỉ biết bấu tay vào thành ghế, nhiều lúc không dám mở mắt khi Ba Quy đua cùng xe đò. Đến khi qua được chiếc xe đò, ông Hội đồng Trạch mới thở phào nhẹ nhõm, hỏi con: “Thằng Ba mầy học hồi nào mà lái còn hơn sốp-phơ xe đò?”. Ba Quy trả lời: “Con còn lái được cả máy bay nữa kìa. Ở bên Tây các chủ điền lớn thường đi thăm ruộng bằng máy bay. Mai mốt con sẽ mua máy bay để lái đưa ba đi thăm ruộng như ở bên Tây”.
Ông Hội đồng Trạch đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Khi đi đón con, ông cũng lo sợ cậu Ba Quy qua Tây chỉ ăn chơi lêu lổng chứ không học hành gì, như con một số điền chủ khác mà ông đã từng nghe nói. Đến bây giờ thấy cậu Ba Quy lái xe hơi như bay, lại còn lái được cả máy bay, ông đã có thể yên tâm. Ông Hội đồng Trạch còn chưa biết, ngoài 2 bằng lái xe và lái máy bay, Ba Quy còn có mấy tấm bằng chứng nhận về nhảy đầm, kết quả của 3 năm ròng ăn chơi bạt mạng giữa thủ đô Paris hoa lệ, ngoài ra không có bất cứ bằng cấp kỹ sư, bác sĩ gì cả.

Nhà Lớn mở tiệc
Sau một ngày ngơi nghỉ, ông Hội đồng Trạch bàn với cậu Ba Quy về việc đãi tiệc nhân ngày cậu học “thành tài” về nước. Ông Hội đồng Trạch tính mời tất cả người Pháp và giới đại điền chủ trong tỉnh và cả Nam Kỳ, nhưng chỉ mời đàn ông thôi, không mời vợ. Với đầu óc Tây học, cậu Ba Quy khuyên cha nên mời cả 2 vợ chồng, như thế Tây họ mới nể trọng, mà giới đại điền chủ Nam Kỳ cũng kính phục vì sự tân tiến của cha con Hội đồng Trạch. Cậu Ba Quy đề nghị tổ chức nhảy đầm. Cậu nói: “Đãi tiệc Tây mà thiếu nhảy đầm thì coi như mới đãi có một nửa. Cái gì chớ chuyện nhảy đầm thì các maitre-danseur (vũ sư) ở Paris đều phải kiêng nể con. Để đó con lo”. Chu đáo hơn, Ba Quy còn bàn với cha cho sốp-phơ đi Sài Gòn chở về 6 cô vũ nữ thượng hạng để cho khách tha hồ nhảy trong bữa đại tiệc. Cậu Ba cũng cho mời cánh nhà báo, cả Tây lẫn Việt, từ Sài Gòn xuống lăng-xê cho bữa tiệc.
Ngày đại tiệc đã tới. Khoảng 500 quan khách đến từ khắp tỉnh Bạc Liêu và cả Nam Kỳ ngồi kín vòng trong, vòng ngoài khu Nhà Lớn. Khách sạn Tràng An ở ngay đầu đường lớn nhất thị xã Bạc Liêu xe hơi đậu chật kín. Xôm tụ nhất có lẽ là chiếc xe chở đám vũ nữ và cánh báo chí đến từ Sài Gòn. Cậu Ba chạy ra bắt tay từng nhà báo rồi đưa họ vào giới thiệu với các quan khách đã an vị. Thực đơn đãi tiệc toàn món Tàu do đầu bếp nhà hàng Chợ Lớn đích thân tới nấu.
Theo sắp xếp thì ông bà Hội đồng Trạch đứng ra chào đón quan khách, sau đó cậu Hai Đinh đọc diễn văn giới thiệu ý nghĩa của bữa đại tiệc là chào mừng ngày về của cậu Ba. Gia đình Hội đồng Trạch bấy giờ mới thấy hết giá trị của cánh nhà báo cả Tây cả ta. Họ đeo lỉnh kỉnh máy ảnh, ghi ghi chép chép, chia nhau đến mọi ngõ ngách của buổi tiệc, phỏng vấn người này, hỏi người kia, đưa máy ảnh lên hết chụp ông bà Hội đồng Trạch, tới chụp cậu Hai, rồi chụp cậu Ba. Chính cánh nhà báo đã làm cho buổi đại tiệc trở nên long trọng chưa từng thấy, các đại điền chủ khách chỉ biết há hốc mồm mà nhìn cha con Hội đồng Trạch phô diễn. Bấy giờ Hội đồng Trạch mới thấy phục “thằng Ba” con ông sát đất, nó học cao hiểu rộng, lường hết mọi chuyện, mấy trăm đồng ông bỏ ra để rước cánh nhà báo xuống dự tiệc quả là đáng đồng tiền bát gạo.
Cậu Ba Quy đọc diễn văn chào mừng và cảm ơn quan khách. Cậu soạn sẵn bài diễn văn cầm tay để chứng tỏ mình tôn trọng khách, nhưng chỉ cầm tờ giấy cho có lệ, còn lại cậu ứng khẩu phát biểu một bài toàn tiếng Tây lưu loát. Bài diễn văn vắn tắt nhưng sắc sảo đã làm vừa lòng mọi người, đại ý: Xứ Bạc Liêu quê mùa chứ người không quê; dân Nam có truyền thống trọng văn khinh võ, gia đình nào cũng cố gắng nuôi con ăn học thành tài theo truyền thống để cho con mớ chữ thánh hiền còn hơn để gia tài ruộng sâu trâu nái; gia đình Trần Trinh rất vinh dự khi trong buổi tiệc có sự hiện diện của các nhà trí thức đã khéo nuôi dạy con học thành tài như bác sĩ Lê Quang Trình, kỹ sư Bùi Quang Chiêu...
Rồi cậu Ba Quy chuyển sang cánh nhà báo với giọng chân tình, đại ý: Gia đình rất vinh dự được sự quan tâm của giới ngôn luận; các hiệp sĩ ngôn luận của quyền tự do thứ tư đã không ngại đường xa tới nơi cuối đất để chào mừng đứa con của đồng ruộng du học từ Pháp về; hai giới báo chí và nhà nông tuy xa cách nhau mà lại có điểm giống nhau là nhà nông lo cho bao tử, còn báo chí lo cho bộ óc của đồng bào; không có báo chí thì dân quê sống trong u tối, ngu dốt, nhờ có nhật trình mà đời sống nông thôn có chút ánh sáng văn minh... Bài diễn văn của Ba Quy được mọi người vỗ tay tán thưởng nhiều chập. Các nhà báo cả Tây lẫn ta đến bắt tay chúc mừng và cảm ơn Ba Quy vì đã đề cao nghề nghiệp của họ.
Đến phần phát biểu cảm tưởng của quan khách, mở đầu là quan tham biện chánh chủ tỉnh. Ông ta nói tiếng Pháp, cậu Ba Quy dịch sang tiếng Việt. Quan tham biện khen ngợi Hội đồng Trạch là người tiêu biểu nuôi con học hành đỗ đạt, điều đó minh chứng hùng hồn sứ mạng khai hóa của người Pháp. Sau đó, nhiều vị khách khác đã lần lượt lên chúc mừng gia tộc Trần Trinh vừa có hào con vừa có hào của.
Tiệc kéo dài đến tối, nối tiếp là buổi dạ vũ sôi động. Sáu cô vũ nữ từ Sài Gòn xuống là hạt nhân cho các quan khách cả Tây lẫn ta bu quanh. Buổi dạ vũ kéo dài suốt đêm, đèn điện sáng một góc thị xã, các ngọn cây trong vườn cũng được gắn hàng ngàn bóng đèn li ti đủ màu như bầy đom đóm lập lòe trên ngọn bần ven sông Bạc Liêu. Sáng hôm sau, cậu Ba tổ chức tắm biển Bạc Liêu cách đó chừng 7 cây số. Dân vùng biển Mỹ Thanh lần đầu tiên thấy người Sài Gòn mặc đồ tắm nhảy ùm xuống bãi biển nước đậm màu bùn. Cậu Ba đem theo nhiều súng hơi để cho khách trổ tài bắn cò, bắn chim đậu đầy quanh các vườn nhãn trên bãi biển. Rồi họ kéo vào các vườn nhãn đặc sản, loại trái to, cơm dày, hạt nhỏ để thưởng thức hương vị Bạc Liêu... Mọi người thầm thán phục, chỉ có cậu Ba Quy từ Pháp về mới tổ chức chu đáo đến nhường ấy, làm cho họ có một tiệc vui nhớ đời.
Trong bữa đại tiệc ngày 29.9.1930 tại Nhà Lớn mừng ngày cậu Ba Quy từ Pháp trở về, người ta thấy cậu Ba trao danh thiếp cho khách, trên đó ghi: Trần Trinh Huy - Proprietaire foncier - Bạc Liêu. Cậu Ba giải thích: Lật từ điển Hán - Việt ra xem, thấy “Quy” có nghĩa là rùa, nhưng cũng còn có nghĩa là quy đầu (của dương vật). Vẫn biết đó là bộ phận tối quan trọng của người đàn ông, không có nó thì không có sự sống, nhưng cậu Ba nhất định không chịu lấy nó làm tên cho mình, mà chọn một cái tên khác có âm gần giống là Huy. Chữ Huy ở đây có nghĩa là ánh sáng mặt trời, còn có nghĩa khác là ngọc (trong chữ huy thạch). Vậy là từ đó, cậu Ba Quy chính thức đổi tên là Trần Trinh Huy, cái tên gắn bó với danh tiếng Công tử Bạc Liêu còn lưu truyền đến hậu thế.

Chuyện đời Công tử Bạc Liêu: Cậu bé chăn trâu trở thành đại điền chủ giàu nhất Nam Kỳ

(LĐĐS) - Số 8 - Thứ tư 05/06/2013 15:19
Vào thập kỷ 1980, sau khi Công tử Bạc Liêu Trần Trinh Huy qua đời, dòng họ Trần Trinh chính thức khánh kiệt, những đứa con của Công tử Bạc Liêu rơi vào nghèo khổ, có người chạy xe ôm. Đúng 100 năm trước đó, dòng họ Trần Trinh cũng khởi đầu nghèo khó, ông Trần Trinh Trạch - ba của Trần Trinh Huy - là một cậu bé chăn trâu...
Nhờ đâu mà từ một cậu bé chăn trâu để kiếm chén cơm thừa của chủ, Trần Trinh Trạch lại trở thành đại điền chủ giàu nhất Nam Kỳ, để rồi đứa con Trần Trinh Huy có sẵn một núi tiền để ăn chơi vô độ, nổi danh là Công tử Bạc Liêu?

“Đái ra quần” vì phải đi học

Trong lịch sử khai khẩn vùng đất Nam Bộ, những vùng gần sông biển như Gò Công, Mỹ Tho, Rạch Giá, Hà Tiên được khai khẩn từ rất sớm, trước cả thời nhà Nguyễn. Vùng đất Bạc Liêu mới được khai khẩn từ sau khi thực dân Pháp xâm chiếm nước ta. Cha mẹ của ông Trần Trinh Trạch có mặt trong đoàn người từ miệt Gò Công tới khai khẩn vùng đất Bạc Liêu, được chính quyền thực dân đưa đến vùng đất Cái Dầy lập nghiệp bên một dòng kinh vừa mới được đào đắp.

Do đông con, hầu hết còn nhỏ, nên ba má ông Trạch không khai khẩn được nhiều ruộng. Rồi dịch bệnh xuất hiện trong vùng, mấy đứa con liên tục bị bệnh hoạn, họ phải đem cầm cố hết ruộng đất để cứu chữa các con, nên trở thành bần cố nông, không mảnh đất cắm dùi. Vừa lớn lên cậu bé Trạch phải đi ở đợ, chăn trâu ở nhà ông bá hộ trong vùng, hằng ngày được lưng bụng bằng vài chén cơm thừa, ấm lòng bằng manh áo rách của con chủ thải ra.

Sau 2 năm chăn trâu, có một việc tình cờ làm thay đổi số phận của cậu bé Trạch. Đó là vào năm 1881, chính quyền thực dân buộc các gia đình bá hộ ở Nam Kỳ phải cho con đi học trường Pháp trong kế hoạch “khai hóa” vùng đất chúng vừa chiếm đóng. Năm ấy cậu bé Trạch lên 8 tuổi, một buổi sáng, khi cậu bé vừa mở cửa chuồng trâu, tháo dây vàm, định dắt trâu ra đồng như mọi khi thì ông bá hộ ngăn lại nói: “Thôi khỏi, mày buộc trâu vô chuồng lại đi, rồi lên nhà trên ông dạy việc”.

 Cậu bé Trạch rụt rè làm theo, nghĩ rằng mình đã làm điều gì sai quấy nên chủ mới không cho giữ trâu, kêu lên la rầy hay bị đuổi cũng nên. Cậu bé rón rén bước lên nhà trên, nơi mà suốt 2 năm làm mướn ở đây cậu chưa một lần dám đặt chân lên. Ông bá hộ thấy cậu bé đến thì chìa ngay bộ quần áo mới và nói: “Đây là bộ quần áo may cho mày, đi thay đồ đi!”. Thấy bộ đồ trắng tinh như đồ của các con ông bá hộ mặc hằng ngày, cậu bé Trạch ngạc nhiên đứng chết trân. Ông bá hộ nói: “Từ nay mày khỏi chăn trâu, mà đi học thay cậu Hai!”.

Vợ chồng Công tử Bạc Liêu.

Đến đây, cậu bé Trạch không chỉ đứng chết trân, mà đái ra quần lúc nào không hay. Từ nhỏ tới lớn cậu chỉ biết ở đợ, chăn trâu, một chữ bẻ đôi cũng không đọc được. Còn cậu Hai con ông bá hộ trác tuổi với bé Trạch được học chữ thánh hiền, hằng ngày có thầy đồ tới dạy tận nhà. Bé Trạch quỳ xuống lạy ông bá hộ, vừa khóc: “Ông thương con cho con coi trâu, con không học được đâu ông ơi!”. Thời ấy nhiều người giàu có ở Nam Kỳ tuy buộc phải hợp tác với chính quyền thực dân, nhưng rất ghét Pháp. Họ không muốn cho con đi học trường Pháp, mà ở nhà mời thầy đồ tới dạy học chữ Nho. Để đối phó với chính quyền, ông bá hộ ở Cái Dầy mới nghĩ ra chuyện bắt đứa nhỏ ở đợ, chăn trâu đi học thế. Dù sợ đến đái ra quần, nhưng cậu bé Trạch rồi cũng phải đến trường theo ý chủ.

Ngày hôm sau, cậu bé Trạch được gia nhân chở bằng ghe đi đến trường huyện cách đó mấy chục cây số để đi học, sau khi bị ông bá hộ dọa: “Mày học mà không xong, tao đuổi việc, chết đói đó con”. Cứ tưởng đi học thế một hai ngày, chẳng dè ông bá hộ bắt cậu bé Trạch học hoài, ở nội trú luôn ngoài trường huyện. Sau mấy ngày vừa học vừa run, cậu bé Trạch đã sớm thể hiện mình là đứa bé “sáng dạ”, học giỏi, được các thầy khen ngợi, ông bá hộ cũng lấy làm hài lòng. Cậu bé chăn trâu được học tới hết tiểu học, học cả tiếng Tây. Sự đi học nhờ lý do có một không hai ấy như là sự sắp đặt của số phận, để từ đó mà cậu bé chăn trâu vươn lên trở thành đại điền chủ giàu nhất xứ Nam Kỳ.

Thầy ký Trạch mê làm giàu

Học hết tiểu học, bằng cả chữ quốc ngữ và chữ Tây, Trần Trinh Trạch trở thành một trong số ít người giỏi cả chữ quốc ngữ và chữ Tây trong làng. Nhờ vậy mà ông được gọi ra làm thư ký làng. Từ công việc “biện làng”, thầy ký Trạch được rút lên làm thư ký trên quận, rồi rút lên tỉnh làm ở bộ phận thu thuế điền đất. Đi làm thầy ký, ông Trạch vẫn theo nếp nhà tóc để dài và buộc thành búi, nên mọi người đặt cho ông cái tên là “thầy ký Tó”. Thời ấy năm nào các chủ điền cũng phải lên tỉnh kê khai và đóng thuế ruộng đất, thầy ký Trạch là người luôn tận tình hướng dẫn họ làm việc ấy.

 Ngôi nhà của Hội đồng Trạch, nay là khách sạn Công tử Bạc Liêu.

Lúc ấy ở Bạc Liêu có ông bá hộ tên Phan Văn Bì có hàng ngàn hécta đất, ông mỗi năm đôi lượt lên tỉnh sao lục sổ bộ đất đai và đóng thuế điền địa. Thấy thầy ký Tó làm việc có trách nhiệm giúp đỡ mình và mọi người nhiệt tình, ông bá hộ Bì có cảm tình. Một lần, bá hộ Bì mời thầy ký Trạch về nhà chơi và dùng cơm trưa. Trong bữa cơm, ông bá hộ cố ý để cho thầy ký Trạch tiếp xúc với cô con gái thứ tư của mình tên là Phan Thị Muồi. Chuyện gì đến rồi cũng đến, thầy ký độc thân và cô con gái rượu của ông bá hộ giàu nhất làng đã phải lòng nhau. Một đám cưới linh đình kéo dài 3 ngày giữa thầy ký Tó và cô con gái của bá hộ Bì.

Đám cưới xong, ông bá hộ Bì kêu thầy ký Trạch nghỉ làm việc vì lương bổng chẳng bao nhiêu, lại mang tiếng đi làm cho Tây. Ông bá hộ cho vợ chồng thầy ký Trạch mấy sở đất và cho vốn canh tác. Chỉ sau mấy mùa lúa trúng, vợ chồng ông Trạch phất lên thấy rõ, cất nhà đàng hoàng, mua sắm thêm ruộng. Không biết nhờ đâu mà một người xuất thân “bần cố nông” như Trần Trinh Trạch lại có tài năng thiên bẩm và sự đam mê làm giàu hơn người. Có chút chữ nghĩa, từng làm việc nhà nước, nay lại có chút vốn trong tay, thầy ký Trạch đăng ký đấu thầu và đã trúng thầu quản lý sở cầm đồ (Mont de Piété) của nhà nước.

Thời ấy chính quyền thuộc địa không cho tư nhân mở tiệm cầm đồ, mà nhà nước giữ độc quyền, nhờ vậy mà một mình thầy ký Trạch nắm độc quyền hoạt động cầm đồ ở tỉnh Bạc Liêu. Cũng nhờ kinh nghiệm và quen biết từ những năm đi làm thầy ký cho Tây, ông Trạch lại trúng thầu quản lý hãng rượu Bình Tây, độc quyền phân phối rượu ở Bạc Liêu. Tất cả những thứ đó đã làm cho vợ chồng ông Trạch giàu có, vượt ra ngoài phạm vi của một làng, một huyện. Nhưng chính sáng kiến của ông Trạch trong việc vay tiền Chà Sết-ty trên Sài Gòn về cho dân chúng ở Bạc Liêu vay lại, mới làm cho sự giàu có của ông Trạch bắt đầu được cả tỉnh Bạc Liêu biết đến. Ông vay tiền của nhà nước ở Sài Gòn với lãi suất thấp, đem về Bạc Liêu cho tá điền vay lại “ba phân lời” lấy chênh lệch.

Trong khi vợ chồng ông Trạch ngày càng ăn nên làm ra, thì các đứa con còn lại của ông bá hộ Bì (anh chị em vợ của thầy ký Trạch) lại mê cờ bạc, rượu chè, lâm vào nợ nần, phải bán dần đất để ăn chơi tiếp. Họ không bán cho người ngoài, mỗi khi có chuyện cần tiền là họ chạy tới vợ chồng thầy ký Trạch. Cứ vậy, hàng ngàn hécta ruộng ông bá hộ Bì chia cho cả chục đứa con lần lượt vào tay của vợ chồng đứa con thứ tư. Ông bá hộ Bì tuy có buồn khi các con bán hết đất đai, nhưng cũng tự an ủi vì đất không lọt ra người ngoài, mà vào tay vợ chồng cô Muồi con ông.

Thâu tóm hàng trăm ngàn hécta đất

Độc quyền cầm đồ, độc quyền phân phối rượu, độc quyền cho vay..., gia đình Trần Trinh Trạch phất lên như diều gặp gió. Nhưng chỉ đến khi ông Trạch trúng thầu giành quyền cung cấp muối cho cả Nam Kỳ thì sự giàu lên của ông mới nhanh như phi mã. Có tiền, ông thâu tóm thêm đất đai trong vùng, bằng cả mua bán sòng phẳng và ép buộc những người yếu thế. Cứ thế, đất đai của gia đình Trần Trinh Trạch cứ nới rộng mãi.

Vào thập niên 1930 -1940, ông Trần Trinh Trạch đã sở hữu tổng cộng gần 200.000 hécta ruộng trồng lúa và làm muối ở Bạc Liêu và vùng lân cận. Thời ấy, nếu có ai đề nghị ông Trạch đem cơ ngơi của ông để đổi lấy vùng đất mà ngày nay là nước Singapore giàu có, chắc chắn ông sẽ lắc đầu từ chối. Diện tích đất mà ông Trạch sở hữu vào lúc cực thịnh rộng gấp 3 lần nước Singapore, đất đai ở Bạc Liêu vào thời đó cũng tốt hơn nhiều so với vùng đất ven biển của nước Singapore.

Có tiền, có ruộng đất cò bay thẳng cánh, ông Trần Trinh Trạch cho xây ngôi nhà đẹp nhất miền Tây lúc đó (giờ là khách sạn Công tử Bạc Liêu, thuộc Cty Du lịch Bạc Liêu). Ngôi nhà do kỹ sư người Pháp thiết kế, có hai tầng, hai đại sảnh. Toàn bộ vật liệu xây dựng ngôi nhà đều được chở từ Pháp sang, các đồ trang trí bên trong ngôi nhà được nhập cảng từ Ý và Hoa Kỳ. Toàn bộ các đồ sứ, đồ gỗ lại được đưa từ Trung Hoa sang. Từ đó đến nay, gần một thế kỷ qua, căn nhà gần như vẫn giữ được những nét cơ bản của nó.

Năm 2003, Cty Du lịch Bạc Liêu đã đầu tư tu sửa căn nhà và đưa vào kinh doanh văn hóa, du lịch, làm khách sạn “Công Tử Bạc Liêu”. Căn phòng của Công tử Bạc Liêu ở ngày trước (phòng 101) muốn thuê phải đặt trước từ 7-10 ngày, vì phòng này lúc nào cũng có khách, phần đông là Việt kiều. Tuy nhiên do qua nhiều giai đoạn lịch sử mà vật dụng trong gia đình đã thất lạc rất nhiều, nhưng với những gì còn sót lại và được bảo quản như hiện nay cũng đủ nói lên được sự giàu có của gia đình ông Hội đồng Trạch lúc bấy giờ.

Hiện nay, cơ quan có trách nhiệm vẫn còn để một gian thờ vợ chồng ông Trần Trinh Trạch trong khách sạn Công tử Bạc Liêu như là cách người đời sau ghi ơn những người có công xây dựng nên tòa nhà đồ sộ và tuyệt đẹp này. Đó cũng là cách để ngành du lịch Bạc Liêu thu hút du khách. Trên bàn thờ vẫn còn 2 pho tượng đồng bán thân của ông Trạch và vợ, do một nhà điêu khắc từ Thụy Sĩ tên là Bernard chế tác vào năm 1933 vào dịp mừng “đáo tế” ông Hội đồng Trạch. Một tháng trước ngày mừng thọ này, cậu Ba Huy mời hẳn một điêu khắc gia lừng danh bên Thụy Sĩ sang Bạc Liêu để thực hiện 2 bức tượng bán thân kích thước cỡ người thật cho ông bà Hội đồng Trạch. Điêu khắc gia Bernard ở lại Bạc Liêu đúng 1 tuần lễ, làm việc với mỗi “người mẫu” 3 ngày để đo ni tấc, phác họa thần sắc...

Xong, ông mang tất cả về Thụy Sĩ để mấy tháng sau trở lại Bạc Liêu với 2 chiếc thùng gỗ được bảo quản cẩn mật. Cậu Ba Huy đã làm một nghi thức đón nhận 2 bức tượng đồng thật hoành tráng, giống như nghi thức dành cho các danh nhân, nguyên thủ quốc gia, với hàng trăm khách mời là những quan chức trong vùng, những hào chủ có tiếng đến dự tiệc, tất nhiên là có cả cánh nhà báo. Sau diễn văn khai mạc do chính cậu Ba Huy đọc nói về công ơn cha mẹ, ông mời lần lượt ông rồi bà Hội đồng Trạch lên kéo tấm vải điều đỏ thắm phủ bức tượng trong tiếng vỗ tay vang dội của quan khách.

Linh cảm ngày khánh kiệt

Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ bên trời Âu, tại An Nam thuộc địa, chính quyền thực dân Pháp giương lên khẩu hiệu “Rồng Nam phun bạc diệt Đức tặc” để kêu gọi giới điền chủ ủng hộ tiền bạc cho “mẫu quốc” trong cuộc chiến tranh Đức - Pháp. Ông Hội đồng Trạch vốn thừa tiền của đã “mua” chút công danh cho gia tộc bằng cách ủng hộ cho chính quyền Pháp một số tiền khá lớn. Số tiền ấy tương đương với khoảng 10 ngàn lượng vàng lúc bấy giờ (gần 400kg vàng). Chính quyền Pháp sau đó đã “ghi công” ông Trần Trinh Trạch bằng cách “ân thưởng Ngũ đẳng Bội tinh” (Légion d honneur). Chính quyền thực dân cũng thu xếp cho ông Trạch đắc cử vào Hội đồng Tư vấn Mật viện, nên ông mới có danh xưng “Hội đồng Trạch”.

Suốt cuộc đời ông Trần Trinh Trạch đã dùng bao thủ đoạn để làm giàu, để thu gom hàng trăm ngàn hécta đất đai ở xứ Bạc Liêu và vùng lân cận. Lúc tuổi đã già, ông Trạch như linh cảm hậu vận không mấy sáng sủa của dòng họ Trần Trinh, nên ông quay sang làm từ thiện để “tích đức” lại cho cháu con. Vào các dịp mừng thọ 50 tuổi (1923), 60 tuổi (1933) và 70 tuổi (1943), ông Trạch đều mở hầu bao ra để phân phát tiền của, lúa gạo cho người nghèo. Ông cũng cho xé hết giấy nợ của các tá điền, vì vậy cứ đến dịp mừng thọ của Hội đồng Trạch là cả vùng Bạc Liêu mừng như trẩy hội.

Ông Trạch cũng ủng hộ những khoản tiền lớn để làm từ thiện trên phạm vi cả nước. Một nhà nghiên cứu người Pháp tên là Pierre Procheux đã viết về ông trên một tờ báo Pháp như sau: “Phần lớn các điền chủ lớn ở Nam Kỳ có hành vi giống như các nhà phú thương và ngân hàng Châu Âu thời Trung cổ hay là các đại gia Mỹ thuộc nhóm Big Business tự thấy có nghĩa vụ trích một phần tài sản giúp những kẻ thiếu may mắn đồng thời tham gia công cuộc xây dựng xã hội. Ông Trần Trinh Trạch nổi tiếng nhất về các đóng góp xã hội của ông như xây cất Cư xá Đại học Đông Dương ở Hà Nội và vận động lạc quyên giúp quỹ cứu trợ Pháp quốc”.

Gia tộc Trần Trinh làm lễ thượng thọ cho ông Hội đồng Trạch rất lớn vào năm 1943, như thể họ linh cảm một kết cục sắp xảy ra, mặc dù lúc đó ông Trạch vẫn còn khỏe mạnh. Sau lễ thượng thọ, ông Trạch kêu con trai là Công tử Bạc Liêu Ba Huy đích thân lái chiếc Chevrolet đưa ông đi chơi Sài Gòn, Đà Lạt, Vũng Tàu một chuyến gọi là “dối già”.

Tại Vũng Tàu, một buổi chiều, sau khi tắm biển, ông Trạch trở lên khách sạn và thấy ớn lạnh trong người, rồi sốt cả đêm. Cậu Ba Huy vội lái xe đưa ông về Sài Gòn, nhưng đã không còn kịp, ông tắt thở trên đường đến bệnh viện, thọ 71 tuổi. Đám tang của ông cũng lại là một sự kiện lớn ở Bạc Liêu và cả Nam Kỳ. Tang lễ kéo dài đến 7 ngày với tất cả những nghi thức rườm rà tốn kém nhất mà người ta có thể nghĩ ra. Hàng chục ngàn người đã đi theo xe tang từ Nhà Lớn về xã Cái Dầy chôn cất ông.

Từ một đứa trẻ chăn trâu với hai bàn tay trắng, một chút may mắn và ý chí làm giàu đã đưa ông Trần Trinh Trạch tới tột đỉnh giàu sang, đến khi nằm xuống vẫn là một trong những người giàu nhất Nam Kỳ. Thế nhưng, ông không thể ngờ rằng, cậu con trai mà ông đặt nhiều kỳ vọng và trao cho cả sản nghiệp là Ba Huy sau đó đã tàn phá núi gia sản với tốc độ còn nhanh hơn người cha Hội đồng Trạch trước đó gầy dựng nên. Để đến khi Công tử Bạc Liêu nằm xuống thì núi tài sản không lồ đã vơi đi gần hết. Để rồi đến đời con cháu của Công tử Bạc Liêu, lại quay trở lại sống nghèo khổ như cái thời ông Trạch đi chăn trâu cho người!

Newer Posts Older Posts

No comments: