Thursday, October 27, 2016

TRUYỆN TÙ - BIỂN ĐÔNG - TRUYỆN SƠN TRUNG -BÙI VIỆN

Thursday, August 29, 2013

NGÔ VIẾT TRỌNG * VĨNH BIỆT



Chim ơi! Vĩnh biệt sao đành!

Lời tác giả:Ở đời có những chuyện nói ra nghe khó tin nhưng lại là chuyện rất thật. Khi viết lại (2001), tôi vẫn thấy chuyện này như mới xảy ra, mặc dầu nó đã qua đi 25 năm rồi. Nó có những hình ảnh khiến người ta liên tưởng đến thời nô lệ thượng cổ trung cổ rất xa xưa nào đó: Hai người đàn bà trẻ cầm hai cây roi, xông xáo giữa một đám đàn ông trần truồng, tay chân khẳng khiu lòng khòng với dáng vẻ những con kanguru... Nhân chứng biết chuyện giờ vẫn còn nhiều.Tôi có gọi điện thoại đến một số người trong cuộc để nhờ xác định lại một vài chi tiết. Chuyện xảy ra ở trại giam B5 Tân Hiệp, Biên Hoà, vào năm 1976.

Khoảng cuối năm Ất Mão, không biết bệnh ghẻ phát xuất từ đâu, lan tràn nhiều nơi ở miền Nam Việt Nam và đặc biệt phát triển mạnh trong các trại tù. Ghẻ lan đi như một trận dịch. Người ta nói ghẻ theo chân mấy anh bộ đội từ rừng sâu về đồng bằng nên cũng gọi là ghẻ bộ đội. Nó không chỉ phát triển ở người mà còn ở các loài khác như chó, mèo và cả đến các loài sống dưới nước nữa. Những ai sống gần đồng gần suối lúc bấy giờ hẳn đã thấy những con cá da bị lở loét gớm ghiếc bơi lờ đờ, có con tưởng chừng như chỉ còn cái đầu với bộ xương...

Khoảng tháng 7 tháng 8/75, tôi bị đưa vào trại giam B5 Tân Hiệp Biên Hoà. Trại này có mười bốn phòng, chứa ngót ngàn người. Mỗi phòng đều có cầu tiêu và bể lớn chứa nước. Tuy vòi nước chảy mạnh, mở tự do, nhưng lượng người quá đông nên việc tắm rửa rất khó khăn. Bị nhốt chừng một tháng thì một số tù bắt đầu bị ghẻ, khởi đầu bằng những nốt nhỏ ngoài da làm cho người ta ngứa ngáy khó chịu. Trại không có thuốc trừ ghẻ nên bạn tù đã "sáng tạo" ra cách lấy nước đắng trong các ống thuốc lào để xức. Mặc dầu thứ nước đen đó có một mùi hôi rất khó chịu nhưng nhiều người vẫn tranh nhau xin để dùng. Kết quả nhiều hay ít không rõ, chỉ biết rằng, ghẻ vẫn lan ra.

Rất tội cho những người bị ghẻ "tiền phong"! Ghẻ hành hạ họ đã đành, cái lòng, cái đầu họ cũng muốn lộn tung lên vì bị bạn bè xa lánh có khi đến độ phũ phàng! Người bị ghẻ tiếp theo sau cứ trách người bị ghẻ trước "Vì mày lây sang cho tao đấy!" Trong hoàn cảnh từ chỗ nằm đến chỗ để đồ đạc đều ở trong thế ép buộc "chen vai sát cánh", vậy mà cũng phải cắt chiếu phân ranh! Cái dây mùng, cái chéo áo bên này vướng qua bên kia một chút đôi khi cũng sinh chuyện. Những cái miệng nhỏ nhen cứ mở ra là "Ở dơ thì sinh ghẻ chứ có gì lạ!" hoặc "Ghê tởm quá! Thế mà không biết chút lịch sự, cứ chung lộn với người ta!" Thậm chí khi chia đồ ăn, có cả chuyện người lành hất chén của người bị ghẻ khi người này vô tình đặt chén gần chén mình. Không thiếu những toán "người lành" ngồi với nhau rỉa rói những người bị ghẻ. Nói không quá đáng, họ hất hủi những người bị ghẻ thiệt tình như "con chó ghẻ". Có anh còn lên mặt giảng giải về phép vệ sinh, về phép xã giao, lịch sự nọ kia... tưởng chừng như mình là kẻ hoàn toàn tốt. Một số sợ ghẻ đến nỗi phải nhịn phần ăn quá đạm bạc của mình để thuê những người sáng mắt bắt con ghẻ trong các mụn ghẻ. Người ta dùng cái kim khều khều trong mụn ghẻ rồi khươi ra những sinh vật cực nhỏ, mắt thường rất khó thấy, quệt lên một cái gì đó. Chính mắt tôi đã thấy những sinh vật li ti này nhúc nhích. Trông con ghẻ hơi giống con nhện, nhỏ hơn cả con "mạc" gà. Tuỳ người ghẻ nhiều hay ít, người ta linh động ấn định số lượng con ghẻ bắt ra được để lấy một phần ăn hay nửa phần ăn. Nhưng bắt mãi ghẻ vẫn lan nên nghề này rốt rồi cũng không thọ.

Dịch ghẻ lan thật nhanh. Nhiều người tắm xát xà phòng như điên hàng ngày vẫn không thoát. Rồi những người hay giảng phép giữ vệ sinh cũng không ngăn chận được bệnh ghẻ đến với họ. Chuyện trớ trêu là cái người hay nói chuyện vệ sinh, hay mỉa mai khinh bỉ những người bị ghẻ nhất về sau lại dẫn đầu về ghẻ. Đó là ông Ẩn. Tôi là một trong những người bị ghẻ đầu tiên, ông ta từng nhìn tôi bằng cặp mắt khinh thị như nhìn con quái vật. Mãi tới ngày ông Ẩn được thăng ngạch ghẻ "thượng hạng ngoại hạng" ông mới chịu nở với tôi một nụ cười. Lúc ấy trong phòng không còn ai tránh được ghẻ nữa, còn khác nhau chăng là ghẻ nặng hay nhẹ.
 
Có điều ai cũng nhìn nhận là người da sáng sủa bị ghẻ chiếu cố mạnh mẽ hơn người da tối tăm. Một điều khá tức cười nữa là con ghẻ cũng biết nể "thể diện" con người. Nó mọc khắp chỗ hở, chỗ kín, trên đầu, khắp bàn chân, bàn tay... nhưng nó vẫn chừa ra cái mặt cho bất cứ ai. Phong trào "gảy đàn" trong phòng phát triển sôi nổi. Càng gãi càng ngứa! Càng ngứa càng gãi! Lúc này hết còn ai đổ thừa cho ai vì tất cả đều đã bị nhiễm ghẻ. Nhưng nhìn chung, những người có thăm nuôi được bồi dưỡng ghẻ vẫn ít phát triển hơn. Ngược lại, những người thiếu thốn lại còn dễ mang thêm môt chứng bệnh khác: bệnh tê bại. Dần dần có một số người phải bò lết thay vì đi đứng bình thường.

Có người bị ghẻ chay, mọc nốt trên da, tuy ngứa nhưng không làm mủ, loại này tương đối ít dơ dáy. Có người lại bị ghẻ mủ, chỗ nào cũng mưng lên từng cục mủ, lớn thì bằng hạt bắp, mọc nhiều ở lòng bàn tay, bàn chân, nhỏ thì bằng mũi kim mọc khắp mình mẩy, đụng đến thì vỡ ra nhầy nhụa tanh tưởi không ai chịu được. Cũng có người bị mang cả hai loại. Tôi thuộc dạng chay, mủ kiêm toàn này. Về sau có một số người bị ghẻ nặng đến độ kiệt quệ.

Ghẻ mủ làm người bệnh khổ sở hơn ghẻ chay rất nhiều. Người bị ghẻ nặng luôn đau đớn theo từng cử động. Nằm ngửa, nằm nghiêng, nằm sấp đều đau đớn theo từng cái trở mình. Ngồi không yên nằm cũng không ổn, thức chẳng xong ngủ cũng chẳng xuôi. Tôi đã lâm cảnh đau đớn, đờ đẫn, mê mê mệt mệt, ngày cũng như đêm. May lắm khi nào trời mát lạnh tôi mới thực sự ngủ được chút ít. Tôi chỉ tỉnh hẳn người mỗi khi được mở cửa cho ra sân trại tắm nước phèn và phơi nắng.

Sân trại giam hình chữ nhật, đất pha cát, có một số giếng đào không sâu lắm, nước đầy phèn. Sân cũng có trồng vài cây trứng cá để lấy bóng mát. Ban đầu trại ấn định hằng ngày cán bộ trực từng đợt mở cửa một hai phòng cho tù ra sân hít thở, phơi nắng một hai tiếng. Những lúc được ra chơi như thế, hầu hết tù nhân chỉ mặc quần xà lỏn và ở trần. Trong dịp này, một số tù cũng đem áo quần ra giặt phơi, tắm táp. Cũng có người thèm thuốc quá nhưng không có thuốc, họ phải hái lá trứng cá khô vấn hút cho đỡ ghiền. Đây là những dịp tốt cho tù khác phòng chuyện vãn, trao đổi gởi gắm quà cáp cho nhau.

Về sau, thấy người bị ghẻ và tê bại ngày càng nhiều, trại đặc ân cho những tù bệnh nặng ở tất cả các phòng đều được ra sân suốt ngày. Họ được tắm giặt, phơi phong thoải mái. Đó là cái ân huệ mà chẳng người tù nào muốn từ chối. Dù không làm được gì họ cũng dựa cây dựa tường để hít thở thoải mái, tránh bớt được cái ngột ngạt hôi hám trong phòng. Nghiễm nhiên họ cũng trở thành những tay liên lạc tốt giữa các phòng tù.

Nhưng dù cho tù bệnh ra sân thường ngày mà khan hiếm thuốc chữa và thiếu bổ dưỡng thì bệnh đâu có giảm! Thấy được điều đó, trại phải lo tìm một biện pháp mới.

Một buổi sáng, viên cán bộ tới mở cửa cho bọn tôi ra ngoài dặn:

"Mấy anh bị ghẻ mủ đem tất cả áo quần theo ra ngoài hết!"

Dặn xong anh ta bỏ đi mở cửa các phòng khác. Chúng tôi bắt đầu phỏng đoán nọ kia. Có thể là đổi phòng. Dám lần này họ dồn những tù ghẻ nặng về một hay hai phòng để cách ly cho ghẻ khỏi lây lan lắm. Thật sự số tù bị ghẻ và tê bại nặng được cho ra ngoài lúc bấy giờ chắc đã cao hơn con số một trăm. Người nào cũng trơ bộ xương cách trí, bụng thóp lại, hai tay do chứng tê bại tạo cho họ thói quen co gập cổ khuỷu lại trước ngực, hướng lòng bàn tay và các ngón ra phía trước, bước đi lựng khựng trông chẳng khác gì những con kanguru. Viên cán bộ mở các cửa phòng xong, bỏ đó mặc ai làm gì thì làm, đi mất tiêu.

Chừng nửa giờ sau, tôi thấy hai người đàn bà trẻ, một khá mập, một mảnh khảnh đều mặc áo bà ba đi vào, mỗi người cầm một cây roi. Cả hai đều khoảng hăm lăm hăm bảy tuổi. Đi gần đến chỗ bọn tôi đứng thì họ ngừng lại. Hai bà lặng lẽ nhìn người này rồi người khác như xoi bói điều gì. Chốc sau lại có hai người tù khỏe mạnh từ phía nhà bếp vác hai cái bao nhỏ nhưng khá nặng đến quăng xuống gần thềm một cái giếng. Đó là hai bao muối hột. Tiếp đó là bác sĩ tù Lê Công Hùng tay xách hai cái xô chứa nước bước đến. Ông vốn người Bắc, cựu thượng uý, vào Nam dự chiến dịch Mậu Thân và bị bắt trong dịp này, sau đó xin cải danh thành chiêu hồi. Ông được trại chọn làm bác sĩ khám bệnh cho tù. Chúng tôi chưa hiểu họ định làm gì thì người đàn bà mảnh khảnh đến trước mặt tôi, nhìn tôi từ đầu đến chân rồi nghiêm nghị nói:

"Cởi quần ra!"
Tôi ngạc nhiên như trên trời rớt xuống. Lúc ấy trên thân tôi chỉ có độc một cái quần đùi. Thế nghĩa là gì? Tôi ngẩn ngơ nhìn lại bà ta dò hỏi. Những bạn tù chung quanh cũng ngơ ngác nhìn bà ta và tôi. Bà ta lặp lại pha một chút cười:

"Tôi biểu anh cởi quần ra, anh nghe rõ không?"
Tôi hỏi lại:
"Cán bộ bảo cởi quần đùi này?"
Bà ta gằn giọng:
"Chứ còn cái gì nữa!"

Tôi đâu hiểu ý bà ta muốn gì. Mọi người đàn ông gần đàn bà lạ, lại là đàn bà trẻ trung láng lẩy, đều có cái xốn xang gió bão trúc gốc gẫy cành là chuyện thường tình. Cái lệnh "cởi quần ra" của người nữ cán bộ này khiến tôi vô cùng lúng túng. Tôi lo sợ sự nhạy cảm của mình. Nhưng liền đó, tôi chợt nhớ rằng, "hài nhi" của tôi đã bệnh liệt giường qua bao nhiêu ngày rồi...

Trong khi tôi đang dùng dằng thì người đàn bà hơi mập kia cũng chỉ một loạt nhiều anh tù khác ra lệnh:
"Tất cả mấy anh này cũng cởi quần ra hết!"

Qua mấy phút nhìn nhau, cả trăm người tù đàn ông đều tồng ngồng trước mặt hai người đàn bà trẻ. Thật là một cảnh tượng khác thường tôi chưa hề tưởng tượng tới bao giờ. Người đàn bà khá mập nói với bác sĩ Hùng:
"Anh lựa cho tôi mấy người mạnh khỏe!"

Bác sĩ Hùng lựa được sáu anh trong đám. Chốc sau chúng tôi mới biết mấy bà lựa những người này để múc nước tắm cho chúng tôi. Tôi và ba anh bạn khác được gọi lại đứng gần giếng để mấy anh kia dội nước và kỳ cọ cho. Hai cán bộ nữ đứng quan sát và đưa roi chỉ nặn mụt ghẻ này, gỡ mụt ghẻ nọ. Tuy có đau rát nhưng cái đau rát chịu đựng được có pha chút sảng khoái. Từ khi lên mười, tôi có bao giờ được ai tắm cho như vậy đâu!

"Xách xô nước kia lại đây!"
Người đàn bà khá mập ra lệnh. Một anh tù ì ạch xách xô nước đầy lại, trong đó có sẵn một cái lon gô. Xô nước đã được một người tù quậy hoà tan vào cả lon muối hột. Người đàn bà khá mập nói tiếp:

"Anh hãy múc nước trong xô dội cho anh này!"
Gô nước vừa dội lên mình là tôi nhảy dựng người và hét lên. Rát ơi là rát! Không khác gì xát ớt hiểm vào da bị thương! Tôi phải gập người lại, hai tay bụm lấy hạ bộ mà rên rỉ trong khi tiếng cười chung quanh vang rân. Anh tù dội nước ngưng lại. Người nữ cán bộ thét lên:

"Anh cứ dội cho nó! Không dội làm sao mà lành!"

Mấy gô nước muối nữa dội xuống làm cho tôi rát đến thấu xương tưởng chừng muốn ngất đi.

"Thôi, được rồi! Lấy nước lạnh dội lại cho anh ta!"

Khoảng nửa giờ sau tôi mới trở lại bình thường. Tôi thấy nhiều cặp mắt nhìn tôi mỉm cười, trong đó có cả bà cán bộ mập. Bấy giờ lại tới phiên tôi đứng vừa phơi nắng vừa chứng kiến những người bạn khác chịu trận. Bị dội nước muối sau khi các mày ghẻ bị tróc nó rát không tưởng tượng được. Không một ai bị dội vào mà khỏi phải rên la nhảy tưng tưng lên! Tới phiên anh tù người Đại Hàn bị dội, anh hét tướng lên như bò rống rồi vùng chạy bươn bả gặp ai xô vẹt ra nấy.
 Mấy người tù khỏe phải chạy theo bắt anh ta lại dội nước muối tiếp mặc cho anh vùng vẫy la hét. Trong khi người ta tắm cho anh, tôi lẳng lặng đưa mắt quan sát. Tôi chợt nhận ra một điều khác thường. Cái thân hình khẳng khiu vì thiếu ăn, bệnh hoạn của anh ta lại mang cái "hạ bộ" hết sức kỳ dị. Nó rất lớn, hơi đỏ, cương láng lên không khác gì hạ bộ của trâu bò thời kỳ sung sức. Hèn gì bình thường tôi thấy anh ta chỉ mặc quần đùi một ống! Tên anh ta không biết viết thế nào nhưng mọi người vẫn gọi là Chung Goam. Anh là một kỹ sư, can tội làm việc giúp Việt Nam Cộng Hoà. Lần tắm ghẻ bằng nước muối đầu tiên đã làm cho những người bị ghẻ vô cùng khiếp sợ.

Hôm sau Chung Goam và một số anh không dám ra ngoài tắm nữa.
Cũng bắt đầu từ hôm đó, ngày nào hai nữ cán bộ cũng cầm roi trên tay, xông xáo giữa đám tù đàn ông trần truồng, khẳng khiu, đi lựng khựng hay ngồi ủ rũ. Tôi cứ tưởng tượng ra đó là hai nữ chủ nhân và đám nô lệ của một thuở xa xưa nào. Hai nữ cán bộ ấy bấy giờ chúng tôi đã biết tên, bà mập có bầu tên Phấn, bà mảnh khảnh tên Hồng, đều là người miền Nam.

Cũng kể từ hôm hai cán bộ nữ bắt những người tù bị ghẻ cởi truồng thì vấn đề tù nhân cởi truồng trong trại trở nên bình thường. Nhiều anh chưa bị ghẻ bao nhiêu cũng ở truồng ké cho thoải mái. Bất cứ khi nào, trước bất cứ cán bộ trại nào, kể cả trưởng trại, không ai quan tâm đến chuyện tù mặc quần hay cởi truồng nữa. Dĩ nhiên là ngoại trừ khi đi làm việc.

Ngày kế tiếp thì trại xảy ra một biến cố lớn: Chung Goam qua đời. Có lẽ anh là người đầu tiên chết vì bệnh ghẻ trong tù!

Mãi sau này, khi tôi bị giam ở khám đường Bà Rịa, nơi có đến mấy chục người chết vì bệnh ghẻ, tôi mới rút được kinh nghiệm tất cả những ai bị ghẻ mà đến độ bộ dái sưng lên như dái trâu, mặc quần không được nữa, thì chỉ một hai ngày sau nhất định phải chết. Chính hai người bạn nằm bên trái cũng như bên phải của tôi ở khám đường Bà Rịa, một anh tên Liên, một anh tên Đày, đều chết vì chứng đó. Tôi vẫn còn xúc động mỗi lần nhớ lại việc vài hôm trước khi chết, hai anh này còn dùng muỗng ăn cơm, thay phiên cạo ghẻ cho nhau đến chảy nước vàng và cứ khen "Đã quá! Đã quá!"...

Thấy Chung Goam chết, trại không còn để tự do ai muốn ra tắm thì ra nữa mà bắt buộc các phòng phải đưa những người bị ghẻ nặng ra "tắm muối". Tắm muối như một cực hình ai cũng khiếp sợ. Ngày nào cũng có cảnh la hét tơi bời ở giếng tắm. Cho nên rất nhiều anh hễ có cơ hội thuận tiện là trốn tránh. Ngày kia, một anh Tàu Chợ Lớn tên là Lý Tường, bị lôi ra tắm nhưng anh cứ mặc quần dài và nhất quyết không chịu cởi. Cán bộ Phấn nổi giận ra lệnh:

"Mấy anh cứ đè nó xuống mà cởi ra!"
Lý Tường phát khùng lên quay nhìn cán bộ Phấn trừng mắt nạt lại:
"N... l... hay sao mà bắt người ta cởi quần để coi c...?"
Mọi người ngẩn tò te ra hết. Gã cán bộ trực đứng gần đó quay mặt giả lơ, miệng tủm tỉm cười. Còn Lý Tường nạt lại cán bộ xong, liền vùng chạy. Cán bộ Phấn hét lên:

"Bắt nó lại! Bắt nó lại!"
Thế là mấy anh khỏe mạnh đuổi bắt Lý Tường lại, đè xuống cởi đồ ra mà tắm cho hắn. Cán bộ Phấn cũng cười khi thấy Tường vùng vẫy la hét vì bị dội nước muối. Nhiều người tưởng hắn sẽ bị phạt hay ít nhất cũng bị rày một trận cảnh cáo nhưng rồi chẳng có chuyện gì xảy ra hết...

Kế hoạch chữa ghẻ bằng cách tắm muối trong trại B5 Tân Hiệp Biên Hoà đã trải qua nhiều tháng sau tết Bính Thìn. Những người ghẻ chúng tôi thành quen lệ cứ sáng ra là loã lồ trăm phần trăm ngồi đợi mở cửa. Một số lớn người bị ghẻ nặng dần thuyên giảm thật sự. Trại cho đây như là một thành công trong kế hoạch chữa bệnh do sáng kiến của trại. Riêng tôi thì không hẳn tin như thế. Tôi thấy những người bệnh đang phát triển mà được gia đình tới thăm, ăn uống đầy đủ thường thuyên giảm rất nhanh.

Một anh ghẻ mủ đang đầy người, cầm chén cầm đũa không được, thế mà chỉ sau một tuần được thăm thì ghẻ lặn bớt và nhiều vết lở mím miệng đâm da. Hiệu quả nhất là có vitamin B1 trợ sức. Thuốc tây bấy giờ quá đắt, quá hiếm cho nên người được gia đình cung cấp vẫn hay giấu kín để phòng thân. Những gia đình không kiếm ra được thuốc B1 thì gởi cám trộn đường cho thân nhân. Những gói cám đường tù trao cho nhau cũng là một thứ quà quí. Chỉ tội nghiệp những người không được thăm nuôi bệnh vẫn kéo dài. Dù sau, tắm nước muối riết rồi sự đau rát cũng dần quen phần nào.

Lúc bấy giờ tôi nghĩ rằng hiệu quả của sự tắm nước muối này chỉ là ở chỗ ngăn ngừa sự lây lan của ghẻ. Sau này khi bị đưa vào khám đường Bà Rịa tôi mới có thêm một nhận định khác. Khám đường Bà Rịa số người bị ghẻ ít hơn nhiều so với số lượng người bị ghẻ tại trại B5 nhưng lại chết trên hai mươi người, trong khi trại B5 chỉ chết một viên kỹ sư Đại Hàn Chung Goam. Phải chăng là nhờ trại B5 cho tù tắm nước muối hàng ngày trong khi khám đường Bà Rịa cả tuần tù mới được tắm sơ sài một lần, đó là chưa kể trường hợp tù biệt giam có người cả năm không được tắm? Phải chăng người bị chết là do nhiễm trùng?

Chung Goam từ khi vào tù cho đến khi chết không hề có ai thăm viếng. Anh lại là người ngoại quốc không thạo tiếng Việt nên khó bày tỏ với ai những khó khăn của mình. Cái chết của anh đã làm tôi giật mình. Người tôi yếu đuối và nhỏ con hơn anh ta nhiều. Tôi cũng bị ghẻ trước anh ta khá lâu. Phải nói đúng vào dịp tết Bính Thìn tôi đã đạt mức quán quân về ghẻ ở trại B5 Biên Hoà. Toàn thân tôi chỗ nào cũng nổi nhọt mủ, chỉ chừa mặt. Hai bàn tay chạm nhau một cái là mủ chảy tèm lem. Lại thêm chứng tê bại phụ vào, tay tôi không còn sử dụng chính xác nữa.

Khi ăn, tôi phải dùng cả hai tay đưa cái chén lên rồi cố gắng dùng tay trái ép chén vào ngực để giữ. Tay phải lại đưa xuống cầm muỗng bằng cách dùng hai ngón tay chỉ và trỏ để kẹp cán muỗng. Rất nhiều lần tôi đã làm đổ mất phần ăn của mình. Người tôi càng ngày càng luội, lúc nào cũng chỉ ưa nằm. Mà nằm thì cứ mê thiếp từng cơn, đầu óc thì cứ bị ám ảnh chuyện chết chóc.

Nhưng cũng may, vận tôi chưa đến ngày cùng! Một hôm tôi ra phơi nắng thì gặp ba vị cứu tinh. Đó là ông Võ Huyến, cựu Chỉ huy trưởng Cảnh sát Quốc gia Quảng Trị, ông Cái Viết Pháp, cựu Chỉ huy phó Trung tâm huấn luyện Cảnh sát Dã chiến Đà Lạt và anh Lưu Phát. Lưu Phát có thời gian cùng làm việc một chỗ với tôi, cũng lại là anh ruột Lưu Khánh Vân, bạn học của tôi.

Cả ba người đều mới được thăm nuôi nên đều tiếp tế thức ăn cho tôi. Riêng ông Võ Huyến, thấy tình trạng tôi kiệt quệ như thế, đã không ngần ngại đưa cho tôi cả gói thuốc B1. Kỳ diệu như phép màu, chỉ mấy ngày sau tôi đã giảm bệnh nhiều, nhất là chứng tê bại. Từ đó về sau, mỗi lần được thăm nuôi, mấy ông ấy vẫn tìm cách chia sẻ cho tôi. Có một ông đại tá tên Cát, người cao lớn, tôi chưa hề quen biết, cũng có lần cho tôi một gói đồ toàn thức ăn tốt như đường, cá và bột mình tinh. Ông lại an ủi tôi:

"Qua thấy cặp mắt em còn 'thần' lắm, không thể chết đâu mà sợ!"
Không biết ông coi tướng được thật hay là chỉ trấn an tôi, nhưng nhờ đó tôi cũng an tâm rất nhiều. Nếu không gặp được những người ấy, nhất là ông Võ Huyến, có thể tôi đã tranh đi theo Chung Goam rồi.

Qua thời gian được cho ở truồng ra ngoài tắm muối, đầu óc tôi cũng dần bình thường. Ông Võ Huyến biết tôi ngoài đời hay ngâm thơ nên mỗi lần gặp phòng ông được ra chơi, ông lại gọi tôi. Ông khuyên tôi nên ngâm thơ để giải buồn cùng luyện lại giọng. Trong thời gian bị ghẻ phát triển nặng, giọng tôi bị tắt, chỉ nói được khào khào. Tôi nghe lời, bắt đầu ngâm thơ trở lại. Bất cứ bài thơ nào tôi cũng nói là của Tố Hữu hết. "Hồ trường" cũng của Tố Hữu, "Nhớ rừng" cũng của Tố Hữu, "Hai sắc hoa tygon" cũng của Tố Hữu nốt...

Mà đã ngâm thơ Tố Hữu thì cán bộ không bao giờ thắc mắc. Tôi vốn thuộc một số bài thơ nổi danh như "Đêm liên hoan", "Bên kia sông Đuống" của Hoàng Cầm, "Đôi mắt người Sơn Tây", "Đôi bờ" của Quang Dũng, "Nhà tôi" của Yên Thao, "Màu tím hoa sim" của Hữu Loan, bốn bài thơ của T.T. K.H., một số của Tản Đà, Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Thế Lữ... nên nhiều người thích nghe tôi ngâm. Một số kiếm giấy bút lén nhờ tôi đọc cho chép lại những bài họ thích. Tôi không thể chép giúp vì chứng tê bại đã làm tôi không sử dụng viết được.

Ngày nào tôi cũng được thính giả người thưởng táng đường, kẻ cho trái chanh, cái bánh... Chính chút nghề mọn này đã giúp tôi mau hồi phục sức khoẻ thêm. Mỗi lần nhớ lại chuyện cũ, tôi không khỏi tức cười vì cái việc hi hữu mình đã làm: ở truồng ngâm thơ mà vẫn được đông thính giả ái mộ như thường! Có lúc có cả cán bộ đến nghe nữa. Những lúc đó, tôi vẫn tiếp tục ngâm, nhưng hay dùng thơ thứ thiệt của Tố Hữu. Cán bộ nghe cũng khoái chí vỗ tay khuyến khích.

Có một lần tôi trần truồng ngâm thơ cho một nhóm thính giả cũng trần truồng kẻ đứng người ngồi thưởng thức như thế thì cán bộ Phấn đến. Bà ta cũng ngồi xuống nghe. Anh Tám, một bạn tù cùng phòng với tôi vẫn rất thích nghe thơ, đang ngồi bên tôi bỗng cười khục khặc cụi tay vào người tôi rồi bỏ đi nơi khác. Tôi không hiểu anh muốn nói gì, vẫn tiếp tục ngâm nga. Khi về phòng tôi thấy anh cứ nhìn tôi mà cười ngặt nghẽo. Mấy người chung quanh xúm lại hỏi chuyện gì. Anh kể không ra hơi:

"Tôi đang nghe thằng này ngâm thơ thì mụ mập tới ngồi gần tôi. Nhìn thấy mụ nây nây cái bầu ba bốn tháng, thằng nhỏ của tôi ngủ mê đã mấy tháng nay thình lình nhảy nhổm dậy khiến tôi hoảng hồn phải chạy đi chỗ khác! Nghĩ mà cứ tức cười!"

Mọi người nghe Tám nói đều cười nghiêng cười ngả. Một anh hỏi tôi:
"Nếu 'ngâm sĩ' gặp trường hợp đó thì mần răng hè? Không lý đang ngâm mà cán bộ tới thưởng thức lại bỏ chạy! Nặng tội lắm, biệt giam như chơi đấy!"

Một người khác đùa:
"Ngâm sĩ lúc này lấy cả hai tay mà vò nó cũng không nhúc nhích được chứ đừng nói là nó nhảy nhổm dậy!"
Anh này nằm gần tôi nên biết rõ về tôi. Quả thật, mặc dầu bệnh ghẻ và bệnh tê bại của tôi có giảm nhiều nhưng hài nhi của tôi vẫn còn thiêm thiếp liệt giường. Một anh khác lại cười ngặt nghẽo nói:

"Ngâm sĩ bây giờ đã thành 'công công' rồi. Để tôi ngâm thế ngâm sĩ đôi lời gọi là thương tiếc thằng bé đã qua rồi một thời quá khứ liệt liệt oanh oanh nhé:


Trời đất từ nay xa cách mãi!
Cửa động, đầu non, đường lối cũ!
Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi!

(thơ Tản Đà)


Các bạn thấy mấy câu thơ có hợp cảnh hợp tình không?"
Mọi người lại tiếp tục cười ó khen hay. Lôi ra được những câu như thế thì thật tuyệt diệu. Nhưng chết cha! Như vậy là lạm dụng và bất kính đối với nhà thơ tiền bối đáng yêu rồi! Hi vọng rằng người xưa cũng thông cảm cho lũ hậu bối tìm chút vui nhỏ trong bước đường cùng chăng? Một người lại hỏi:

"Công công là cái gì?"
"Công công là từ dành riêng xưng gọi mấy anh thái giám ngày xưa."

Sau buổi vui đùa trên của các bạn tù, tôi càng lo nghĩ về mình. Quả thật đã khá lâu, tôi không nghĩ tới chuyện gì ngoài sự hành hạ của bệnh hoạn. Bây giờ bệnh đã giảm nhưng hài nhi của tôi vẫn cứ co ro gầm mặt. Phải chăng đời nó đã tàn?

Lợi dụng lúc mọi người yên ngủ, tôi thử mân mê vuốt ve nó nhiều lần, đủ cách, đủ kiểu nhưng nó vẫn vật và vật vượi vô hồn. Nó có thể bình phục không đây? Qua một thời gian cố gắng không kết quả, tôi đã nghĩ đến cuộc sống gia đình sau này với một viễn tượng tối tăm. Sống đây cũng như chết rồi ư!

Cửa động, đầu non, đường lối cũ,
Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi!


Ôi, lời thơ buồn thúi ruột! Từ đó, hằng ngày tôi thẫn thờ ra sân nhưng không còn hứng thú gì để ngâm nga nữa. Lòng tôi đang trĩu nặng nên tôi cứ tìm chỗ vắng mà ngồi. Dù vậy, đêm về tôi vẫn thử kiểm tra vốn riêng và vẫn hoàn toàn thất vọng!

Thời gian cứ thế trôi qua. Những người chung quanh ngạc nhiên về thái độ của tôi nên bắt đầu hỏi thăm. Chẳng đặng đừng, tôi phải tâm tình với một người bạn thân. Không ngờ anh ta hở ra với người khác để rồi cuối cùng ai cũng biết hết. Chẳng bao lâu sau, mọi người đều chú ý đến tôi làm cho tôi càng khó chịu. Có người thật tình khuyên giải an ủi, nhưng cũng có người lấy đó để trêu chọc làm trò cười. Mấy câu thơ của Tản Đà bỗng được nhiều người ngâm nga.

Lại một chuyện tức cười nữa xảy ra, một anh tù vốn chẳng hề màng đến thơ phú, một hôm cũng ồ ề ngâm Cửa động, đầu non, đường lối cũ. Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi! Gặp lúc viên quản giáo đi ngang, nghe anh ta ngâm, viên quản giáo hỏi:

"Anh đang ngâm thơ gì đó?"
Anh tù ghẻ trả lời tỉnh bơ:
"Thơ Tố Hữu đấy cán bộ!"

Viên quản giáo hỏi lại:

"Có thiệt thơ Tố Hữu không? Thơ Tố Hữu làm gì mà có 'ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi!' à? Anh liệu hồn mà ngâm thơ phản động!"

Nói xong viên quản giáo bỏ đi thẳng. Anh em tù nhìn nhau cười. Không ngờ sau này khi ra tù, tôi có gặp một bạn tù cũ, nhắc lại chuyện xưa thì anh này cũng tưởng mấy câu thơ đó là của Tố Hữu thiệt.

Một hôm, tôi đang ngồi một mình thì anh Khởi bước lại ngồi xuống bên cạnh. Trước đây anh cũng là tù ở truồng, nhưng gần đây anh đã mặc quần trở lại. Khởi nhỏ nhẹ hỏi:

"Thằng cháu anh nó đã ngồi dậy được chưa?"
Tôi cười méo mó khôi hài:

"Nó đành tâm vĩnh biệt tôi rồi anh ạ! Tôi đã cố làm nhiều cách mà đều vô hiệu."
Anh Khởi tủm tỉm cười:

"Tôi bày cho anh một cách, anh hãy cố gắng thử xem sao nhé! Nói thiệt với anh, trước đây tôi cũng bị như anh, sau nhờ nhìn lén cán bộ Phấn mấy lần mà nó hoạt động trở lại đấy anh. Anh cứ ráng vừa 'chiêm ngưỡng' vừa tưởng tượng nhiều pha gây cấn thử xem sao. 'Chiêm ngưỡng liệu pháp' có thể là cách trị liệu thần diệu đấy!"

Tôi chỉ nhìn Khởi cười buồn. Khởi lại hài hước tiếp:
"Nhưng nhớ hễ kết quả sơ sơ là lo chuồn liền chứ đừng chờ nó khỏe mạnh mà hung hăng lên là mang họa đấy nhé!"

Cán bộ Phấn có bầu cỡ ba bốn tháng chi đó. Bà ta có thói quen cẩu thả, hay bạ đâu ngồi đấy. Anh em tù nhiều người dù gần chết nhưng vẫn hay "bình phẩm" nọ kia để vớt vát tinh thần. Tôi vốn nhút nhát nên bình thường không dám đấu tranh trực diện như thế mà chỉ âm thầm luyện công thôi. Hôm ấy, sau khi nghe Khởi mách nước, tôi quyết định thử ứng dụng "chiêm ngưỡng liệu pháp" xem sao. Biết đâu nó chữa trị được căn bệnh của tôi! Thế là tôi cứ ngong ngóng cán bộ Phấn đến.

Vừa trông đợi vừa cố tưởng tượng những đòn "hồi mã tấn thương" thật tuyệt vời. Nhưng thể chất đã quá tàn lụi, dù cố gắng tưởng tượng thế nào cũng vô ích. Suốt ngày đó, cán bộ Phấn vẫn bặt tăm hơi, chỉ có cán bộ Hồng mảnh khảnh "ít gợi cảm" vào điều hành việc tắm rửa. Hôm sau cũng chỉ một mình cán bộ Hồng vào lo công việc. Lòng tôi cảm thấy buồn buồn như mất mát một cái gì. Phải nói thành thật, cả ngày tôi không ngớt theo dõi những cán bộ vào ra cổng trại.

Tôi quên luôn cả mục tiêu cần đạt là để chữa bệnh mà lại ngỡ như mình đang mong đợi một người tình, một người bạn thiết xa cách lâu ngày. Mong ngày không được lại mong đêm. Quả đúng là liên tưởng củng cố đam mê, thời gian ấy gần như lúc nào tôi cũng nghĩ tới người đàn bà đó...

Cũng may, bà Phấn không đi hẳn. Một buổi sáng kia, với cái dáng nâng náo hơn, bà Phấn lại xuất hiện để chỉ huy việc tắm xát chữa bệnh. Sau một hồi xông xáo làm việc, bà Phấn lại gốc cây trứng cá chảng chân ngồi. Tôi thấy cơ hội thuận lợi đã đến, bèn giả vô tình, mon men lại gần làm như núp nắng dưới bóng cây. Lúc này trại nới việc thăm nuôi, gia đình tiếp tế thuốc men cho tù khá thoải mái.

Những người bị ghẻ nặng nguy ngập phần lớn đã được bắn tin cho gia đình thăm nuôi tiếp thuốc, bệnh cũng giảm lần. Một số tù ở truồng đã mặc quần trở lại. Những người bị xếp vào hàng tanh tưởi nhất, trong đó có tôi, bây giờ đã ít bị người khác né tránh. Tôi đã có thể lẫn lộn giữa đám đông một cách bình thường để hành động không lộ liễu. Hễ có cơ hội là tôi tận tình vận dụng phương thức "ba mặt giáp công": mắt thì liếc chiêm ngưỡng, đầu óc thì tưởng tượng những đòn phép thần sầu, tay thì lén mân mê "nó" để hà hơi tiếp sức. Nhưng than ôi! Tôi cố thử đi thử lại rất nhiều lần mà hài nhi vẫn thiêm thiếp giấc nồng...

Đêm này qua đêm khác, tôi cứ nghĩ về tương lai tối tăm của mình:


Trời đất từ nay xa cách mãi,
Cửa động, đầu non, đường lối cũ,
Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi!


Thế là hết rồi. Trước kia tôi đã nghe nhiều người nói về cái bệnh khốn kiếp kia. Nó đã làm cho bao nhiêu người thấy mất hết ý nghĩa của cuộc sống. Nhiều gia đình đã ly tan vì nó. Tôi cứ hay nghĩ về mấy con gà trống thiến béo nung núc thui thủi kiếm ăn một mình không bầu bạn mà thương. Thôi thì cứ mặc dòng đời đưa đẩy. Cả ngày về tôi cũng chẳng còn thiết tha mong đợi nữa. Dù sức khỏe có phần vãn hồi nhưng tôi không còn chút nào hứng thú ngâm nga như trước. Tôi chỉ muốn được tĩnh lặng, không ai quấy rầy. Cái danh công công của tôi đã dần thành thông dụng. Tôi cũng thản nhiên chấp nhận, không vui, không buồn...

Thấy tình hình chữa ghẻ cho tù khả quan, hai cán bộ nữ cũng thưa tới điều khiển việc tắm rửa lần. Những người ra ngoài lúc này dần mặc quần đùi trở lại càng nhiều. Riêng tôi, tuy không còn tin tưởng mấy, nhưng nhớ lời người xưa "còn nước còn tát", tôi vẫn tiếp tục luyện công cầu may.

Một hôm, lựa lúc mọi người đã tắm xong cả tôi mới ra giếng. Lúc đó trời nắng hơi gắt, mọi người đều tìm chỗ tránh nắng. Tôi muốn được một mình một chiếu tôi tìm một chỗ vắng để dễ luyện công hơn. Không ngờ "cao nhân tất hữu cao nhân trị", một vài anh đã đoán biết ý tôi. Tôi đang tập trung thần lực truyền sức cho hài nhi thình lình một toán bốn năm người vừa cười vừa chạy nhanh đến chỗ tôi:

"Chào công công! Công công luyện chưởng thành công tới đâu rồi?"

Tôi ngượng ngùng chỉ hài nhi cười:
"Nó vẫn mê mê muội muội vậy thôi!"

Anh Bằng, người bạn tù tuổi cỡ năm mươi, ít nói, luôn tỏ ra đàng hoàng chững chạc, nhìn tôi thương hại:
"Được rồi, để mai tôi cố giúp anh thử sao! Ngày mai cũng vào giờ này, tôi ra đây tắm cho anh!"
Mấy người khác đều cười nửa tin nửa ngờ:

"Phải đấy, ngày mai tụi tôi sẽ ra đây chứng kiến sư phụ làm phép cho công công!"
Một anh cười hô hố:
"Mấy con mẹ y tá chữa được bệnh ghẻ mà lại không chữa bệnh này cho chả luôn, thiệt là bất nhân!"

Một anh khác nhìn anh Bằng dò hỏi:
"Anh không trêu gạt công công đó chớ!"
Anh Bằng cũng cười:
"Tôi nói thật mà! Biết đâu cách làm của tôi lại hiệu quả thì sao!"

Tư cách ăn ở hàng ngày của anh Bằng đã làm tôi có chút tin tưởng. Mà cũng có thể do tôi đã hết đường xoay xở, nên cố bám víu vào lời nói đó. Tôi nhìn anh biết ơn:
"Tôi rất hi vọng ở sự giúp đỡ của anh. Tôi sẽ nhớ ơn anh suốt đời!"

Anh Bằng nhìn tôi nói có vẻ thành thật:
"Tôi cũng hi vọng giúp được anh. Nhưng trước hết, nhất là trong đêm nay, anh hãy cố gắng tập trung trí tưởng tượng vào những pha cụp lạc nhất mà anh đã gặp trong đời. Nó sẽ giúp anh rất nhiều. Mong anh chuyến này toại nguyện!"

Suốt đêm đó, phải nói là tôi đã lạm dụng quá đáng. Tôi không thành công trong việc thức tỉnh hài nhi mà lại làm cho hài nhi nôn mửa tả tơi. Tôi lại càng tràn trề thất vọng vì nghĩ như thế chỉ làm cho nó đuối sức thêm.

Hôm sau, đến giờ hẹn, tôi ra giếng thì anh Bằng và rất nhiều người cùng theo ra. Tôi để ý thấy anh Bằng cầm một cái hũ Péniciline. Sau khi tắm rửa và đợi khô người xong, tôi ngồi bên miệng giếng đợi anh Bằng làm phép. Phải nói là tôi cũng khá hồi hộp. Những người khác có lẽ cũng như tôi, đều chăm chú theo dõi hành động của anh Bằng. Anh mỉm cười mở hũ péniciline: chỉ có một ít thuốc nước gì trong trong dưới đáy hũ. Anh nhìn mọi người rồi nhìn tôi:

"Công công hãy ra sức tưởng tượng đi! Bà Phấn, bà Hồng hay nàng tiên nào đó cũng được!"
Anh bảo tôi chấm ngón tay vào hũ thuốc rồi quệt lên hài nhi. Tôi quệt nhiều lần cho đến khi hết thuốc trong hũ. Ban đầu tôi cảm thấy mát mát nhưng sau đó nó nóng lên như bôi dầu nhị thiên đường. Tôi cũng cảm thấy có cả mùi dầu nhị thiên đường. Anh Bằng nói:

"Anh xoa bóp đều cho hài nhi đi! Thuốc trợ sức ngày trước xuất ngoại đem về còn chừa đó!"
Tôi làm theo lời anh, dùng cả hai bàn tay để xoa như người ta dùng tro để tẩy nhớt khi làm thịt con cá chạch hay con lươn. Mọi người chung quanh chăm chú theo dõi. Một vài người lên tiếng hỗ trợ cổ võ:

"Hậy, hậy, dô, dô!"
Lần đầu tiên từ sau trận bệnh ghẻ, tôi thật sự thấy hài nhi cựa quậy. Mọi người cùng cười rôm rả:
"Nó chuẩn bị ngồi dậy đó! Nó chuẩn bị ngồi dậy đó! Chúc mừng! Chúc mừng!"

Và quả thật nó chuyển gồng mình rồi ngóc đầu lên. Tôi sung sướng quá chừng. Trông nó cũng còn đẹp trai như thuở nào. Nó gật gật như thể cám ơn những người chung quanh đang thật tình chúc mừng cho nó. Một anh khen:

"Nó nghễu nghện trông chẳng khác gì một nhân vật quyền uy đang hiểu dụ dân chúng về một kế hoạch kinh tế nhảy vọt sắp thực hiện hỉ!"
Người bên cạnh thúc cùi chỏ vào người mới phát biểu, nói khoả lấp:

"Thôi, đừng đi quá lạc đường! Thế mới phải chớ! Tôi đã biết nó đâu nỡ để cho ngâm sĩ chịu cảnh 'Cửa động đầu non, đường lối cũ, Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi' sao đành?"

Ngô Viết Trọng

HÀ LANG * HÀNH TRÌNH BIỂN ĐÔNG



Hành Trình Vượt Biển Đông: Truyện Đứa Em Tội Nghiệp


Một buổi chiều đầu tháng năm, chị em chúng tôi đang ở nhà, ba má đi vắng, xe công an tới đậu ngay trước cổng, bao vây quanh nhà và lục soát rất kỹ đồ đạc trong các phòng. Chúng tịch thu một số bản thảo do ba tôi viết, phần nhiều là hồi ký và những suy nghĩ của ba tôi về cuộc đời tù đày, về triết lý chính trị, về chế độ bắt ông ngồi tù hơn bảy năm.

Chúng hỏi chị em chúng tôi về những người khách hay đến nhà, những người và những nơi ba tôi thường lui tới. Nghi là chúng có thể bắt ba tôi như vẫn thường xảy ra, Quỳnh nhanh chân chạy ra cầu Kinh, chờ ba má tôi về, báo cho biết và dặn ba má tôi đừng về nhà nữa.

Ba má ở lại nhà một bà thầy bói mà má tôi quen thân, gần chợ Thị Nghè. Chỉ có tôi là chị cả được lên thăm. Ba má tôi quyết định trốn đi, chỉ còn một cách là vượt biên theo đường dây của người hàng xóm vừa đi lọt hôm tết. Ba má tôi định đem theo cả hai đứa út nhưng tôi cản lại, chỉ cho một đứa. Cuối cùng thì bé Hí được đi còn bé Bi ở lại với chị em chúng tôi. Khoảng cuối tháng 6, Diễm, em gái tôi, ở Mỹ gọi điện thoại về báo cho biết là ba má đã tới Bidong. Chúng tôi quá mừng. Thế là ba tôi thoát khỏi tù tội cộng sản một lần thứ hai nữa. Nhưng bây giờ tất cả gánh nặng đổ lên đầu tôi vì tôi là chị cả.

Khi Diễm gọi về, chúng tôi được gọi ra Bưu Điện Saigon để chờ nghe điện thoại. Nghĩ lại mà tức cười. Tôi chỉ vừa nghe: “Allô! Diễm đây!” là Diễm khóc nức nở. Tôi vội vàng la to lên “Hà đây! Hà đây Diễm ơi!” Rồi tôi cũng khóc, cả mấy em tôi, đứa nào cũng giành lấy ống nghe, gọi tên và khóc. Chúng tôi chỉ nghe được có mấy tiếng “Ba má đến Bidong rồi”, thế thôi! còn lại toàn là khóc. Chị em chúng tôi xa nhau thế mà đã năm năm, vắng tiếng, vắng hình mà chị em chúng tôi thì thương nhau lắm, đứa nào vắng nhà một ngày thôi cũng đã nhớ đã thương, huống gì năm năm trời đằng đẵng.

Niềm vui gặp gỡ qua thật nhanh. Ở nhà vắng ba má, nhà vắng vẻ lạ lùng. Nhìn cái gì cũng nhớ ba má cả. Ngoài sân, trong nhà, sau bếp, trên lầu, chỗ nào cũng nhớ, cũng thấy có ba má. Ba má ngồi chỗ này, ba má ăn chỗ này, ba má nằm chỗ này, ba má ở chỗ này...Chỗ nào cũng thấy ba má. Nhớ ba má và nhớ Hí không tưởng được.
Ba ngày sau ngày đầu tiên, xe công an lại đến. Lần này không xét nhà nhưng chúng hỏi kỹ ba má đi đâu, đi bao giờ, đi bao lâu về. Chị em chúng tôi nói liều là về Huế thăm ngoại bệnh. Ngoại già lắm rồi, hơn 90 tuổi. Nói vậy cho có lý. Tháng đầu thì sợ, sợ ba má vượt biên bị bắt, nhưng nhờ ơn trên...

Tháng 6 tháng 7, xe công an đến liền liền. Chúng hỏi đi hỏi lại là ba má đi sao lâu về, hỏi địa chỉ của ngoại ở Huế. Tôi nói dối là ngoại ở quê, chúng tôi xa Huế từ hồi nhỏ xíu, không rõ. Nghe nói các bạn của ba như chú V. Chú S. đều bị bắt cả, chú T. thì bị đánh chết trong tù. Cuối cùng, công an biểu tôi về Trung gọi ba má vào, chúng dụ là chỉ hỏi chuyện ba má thôi. Tôi nói là chị cả, không đi được, bỏ em không ai coi sóc, tụi nó toàn là con gái. Công an bèn bắt thằng em trai tôi, Bảo Long, biểu ra ngoài Trung gọi ba má về. Chúng tôi cũng chẳng lo vì bây giờ biết ba má ở Bidong rồi.

Mấy hôm trước cô tôi xuống thăm, không nói gì, chỉ khóc. Cô tôi rất mau nước mắt và rất thương ba tôi. Cô tôi dặn là coi chừng tụi nó sẽ xét nhà, tịch thu nhà, có gì quý thì lo cất. Tôi và thằng em trai cạy miếng gạch bông trong phòng ăn, lấy mấy lượng vàng lận vào lưng. Sau lần bị đánh tư sản và sau bao nhiêu lần vượt biên bị bắt, bị gạt, của cải ba má cất giấu chỉ còn lại chừng đó. Nghĩ mà thương ba má quá, một đời vất vả dành dụm, bỗng tài sản đi như nước chảy.

Công an phường lại đến tìm thằng em trai tôi, buộc phải đi Trung tìm ba má về. Tôi sợ thằng em trai tôi dám bị bắt lắm. Công an bắt nó để ba má tôi trốn ở đâu đó phải về. Nhân dịp chú Sáu, chú Mười ở Cà-Mau lên thăm, hai ông là người tổ chức cho ba má tôi đi, tôi lại biểu thằng em tôi đi. Sau mấy lần ngần ngại, nó nghĩ là ba má đã đi rồi, trong nhà chỉ có nó là trai, còn lại toàn là chị em gái nên nó không muốn đi. Nhưng sau lần công an gọi nó qua phường, đe dọa, biểu phải khai rõ ba má trốn ở đâu, còn không thì sẽ quy cho nó tội ngoan cố, bao che phản động làm thằng bé sợ quá. Hôm sau, 3 giờ sáng, tôi đưa nó ra bến xe Miền Tây, cho nó về Cà Mau theo đường dây cũ của ba má mà đi vượt biên.

Tội nghiệp thằng nhỏ ở cả tháng dưới ruộng mới đi được. Nó mà chịu ở ruộng lâu như thế là nó sợ công an lắm chứ cậu ta vốn dĩ là con trai độc nhứt của gia đình có tới sáu chị em gái, đẹp trai, con nhà giàu, cả nhà ai cũng cưng, ăn diện dữ lắm, chưa bao giờ phải khổ cả. Cũng tội nghiệp cho nó nữa: Ghe nó tấp vào đảo Redang, nghe nói chỉ cách Bidong có một hòn đảo vậy mà nó bị kéo ra khơi. Nó phá ghe để vào đất liền, lại bị kéo ra. Nó xin người ta cho nó vào Bidong, bập bẹ mấy tiếng Anh “My parents are on Bidong, let me come there” nhưng cũng bị đẩy ra. Ba lần như thế, nó cố đến với ba má mà không đến được. Cuối cùng nó bị đẩy qua Indo. Bây giờ thì nó thui thủi một mình ở trại tỵ nạn Galang.

Công an thấy vắng luôn thằng nhỏ, lại truy riết tới. Ngày nào công an phường cũng gọi tôi lên hạch hỏi, lấy cung, bắt làm tờ khai, kiểm điểm. Những thằng công an này thường đến uống cà-phê nơi quán tôi, để xã giao, tôi không tính tiền. Vậy mà bây giờ chúng làm mặt lạ. Tính tôi đã lì, lại ỷ mình là đàn bà con gái, tôi lại lì hơn. Ngày nào tôi cũng làm kiểm điểm giống ngày nào. Công an tức lắm. Vả lại, tôi cũng muốn chọc tức mấy thằng này. Ba má và Bảo đi rồi, còn lại năm chị em gái, chúng nó làm gì được? Chúng dọa tịch thu nhà vì nhà má tôi đứng tên. Tôi dọa lại tôi sẽ dẫn các em ra trụ sở Ủy Ban Nhân Dân Thành phố khiếu nại. Chúng nó thách. Dù sao thì án chưa xử, chưa tịch thu nhà được, nhưng nếu khi xử, dù xử khiếm diện ba má, chúng cũng sẽ lấy nhà vì luật lệ ở trong tay chúng. Chúng viện cớ quán cà-phê má tôi đứng tên, tịch thu môn bài, đóng cửa. Thật xui, quán mở chưa được mười hôm thì ba má trốn đi. Nhưng chị em tôi cũng chưa đói. Bảo đi ngay gốc nên tốn chỉ hơn một cây, còn Diễm ở Mỹ, nghe chị em tôi ở nhà loe ngoe với nhau, gởi tiếp mấy thùng quà, đủ tiêu chán. Có điều chị em chúng tôi buồn lắm. Bỗng dưng gia đình ly tán, ba má một nơi, chị em mỗi đứa một nơi. Chúng tôi không tổ chức party mỗi kỳ sinh nhật nữa. Mấy năm sau khi ba ở tù về, ba má cho mở party nhảy đầm. Ba má nói “Để cho các con được vui!” Ba má chỉ cấm không được làm ồn ào quá lắm, công an lưu ý, còn ba má thì bắc ghế giả bộ ngồi chơi trước cổng, canh chừng công an để “các con được vui!”

*********
Tình hình thế này thì chị em chúng tôi cũng phải đi thôi, không thể ở được nữa. Chúng nó ghim nhà tôi kinh quá, “bao vây kinh tế” kỷ quá. Không cho bán cà phê là chị em chúng tôi ngồi không tối ngày. Công an cứ gọi tôi hoài, cảnh cáo là đi xa phải xin phép. “Không thì khó khăn đấy.” Đó là lời chúng đe dọa.

Chú Sáu, chú Mười lại lên. Sợ công an, tôi gởi họ bên nhà cậu mợ, bàn với họ cách cho chị em chúng tôi đi. Bi nhỏ không kể, bây giờ còn bốn chị em, không đủ tiền ghe tàu cho tất cả. Tuy nhiên, nếu đưa vàng trước cho chủ ghe tổ chức thì đủ, nhưng nếu không đi được thì coi như mất vàng. Tôi suy đi tính lại thật kỹ: Ba má đi đường này, Bảo cũng đi đường này, an toàn. Chú Sáu và chú Mười thật thà, đáng tin. Chỉ sợ gặp xui. Dù gì thì cũng phải liều thôi, như câu bà nội hay nói đùa mà nay thành ra thật: “Một liều ba bảy cũng liều, cầm như con trẻ chơi diều đứt dây.” Diều đứt dây là coi như... không dám nghĩ tiếp. Chị em chúng tôi tới đường cùng rồi, đi thì may ra thoát còn không đi thì coi như chết cứng ở đây.

Từ khi ba má đi rồi, Bi tội lắm. Nó không chơi với trẻ con hàng xóm nữa, chỉ chơi một mình. Đang ngồi, tự nhiên nó thừ ra, mắt nhìn vào đâu đâu, rồi Bi khóc. Hỏi, Bi nói: “Bi nhớ ba má và Hí lắm.”

Đúng ra Tân Long là út. Tân sinh năm 1972. Mười hai năm sau, khi ba tôi đi ở tù về, vừa đúng 49 tuổi. Má nói đàn ông 49 tuổi xui lắm, nếu má sinh một đứa nữa thì sẽ xả xui cho ba. Vì vậy, năm đó, để xả xui cho ba, má tôi sinh liền hai đứa. Cả nhà, và cả bà con nữa, ai cũng cười. Hai đứa nhỏ này cách chị nó, đứa áp út những 12 năm, trong khi chị em chúng tôi cách nhau đều đều chỉ có 2 năm.

Hai đứa bé sinh đôi, lớn lên, ăn, chơi, ngủ với nhau nên thương nhau lắm. Vậy mà bây giờ Hí thì đã đi, chỉ còn lại thui thủi một mình Bi. Nó rất người lớn, không nhỏng nhẻo như trước, mỗi ngày đôi ba lần nó thờ thẫn nhìn đâu đâu, nghĩ đâu đâu, rồi khóc, cũng khóc một mình, không quấy rầy các chị. Tôi nghiệp, nó không còn cái vui hồn nhiên của trẻ thơ nữa. Năm tuổi đầu, Bi đã biết buồn đau vì những ly tán, xa cách, nhớ nhung và âm thầm chịu đựng. Bi không còn bắt chước các chị gọi đùa tôi là “Hà che (ke)” nữa (vì tôi gầy lắm), không gọi “Bảo sún” (vì Bảo sún răng). Bi gọi đúng tên, nghiêm chỉnh. Nó mất đi cái tính vui vẻ, đùa nghịch. Có khi nghe một bài hát quen, nó bỗng gọi tôi: “Hí biết hát bài này, nó có hát đấy”. Tôi nhớ hai đứa nhỏ rất thích bài Ali Baba. Mỗi khi quán cà phê mở bản nhạc nầy ra, tôi thấy Bi thờ thẫn, nhớ nhung. Nó thường nhớ những kỷ niệm khi hai đứa nhỏ sống với nhau. Bi chỉ còn một thú vui duy nhất, chơi trò chơi điện tử. Đôi khi đưa Bi đi chợ, qua chỗ có trò chơi điện tử, nó nằng nặc xin hai trăm đồng để vào chơi. Tôi đứng ngoài chờ. Nhìn cái lưng nhỏ bé của nó đang ngồi chung với đám con trai trên dưới hai mươi tuổi mà tức cười. Vậy mà chơi lúc nào nó cũng ăn. Mấy đứa trong phường mỗi lần thấy Bi, nói với nhau: “Con bé đó, nhỏ vậy mà chơi điện tử hay vô cùng”. Bi giống chị em chúng tôi, đứa nào cũng thông minh.

Mấy đêm trú nơi cửa biển chờ vượt biên, nó đã khôn lại khéo. Nó bảo là đi gặp ba má phải mặc quần áo đẹp cho ba má thương, lại còn chuẩn bị đem quần áo sang cho Hí. Nó nói là gặp Hí sẽ không gọi “mày tao” nữa, gọi là em Hí, xưng là chị Bi, để khỏi bị người ta mắng là “mất dạy”. Buổi chiều hôm trước khi ra biển, tôi nhờ bà chủ nhà mua cua về luộc ăn. Đòi ăn cái càng cua, Bi nói: “Đưa cái miệng cua cho Bi” khiến mấy chị em tôi cười. Đêm ra đi, Bi tắm rửa, soi gương, chải tóc, lấy ráy tai, thay quần áo đẹp. Bi chuẩn bị đi thăm ba má kỹ đến thế.
Khi xuống ghe, ghe có mui, Vũ Long bồng Bi ngồi trong cùng. Chúng tôi ngồi ở ngoài. Vì vậy, khi ghe lật, Vũ và Bi kẹt trong mui, không văng ra khỏi ghe như mấy chị em. Mọi người bám vào ghe. Tôi đứng trên lưng ghe, lạy lục, van xin, người ta chui vào ghe cứu các em tôi. Quỳnh, Tân lên được trên lưng ghe, còn tỉnh. Khi lôi được Vũ ra ngoài thì nó bất tỉnh rồi, bụng đã phình lên vì uống nhiều nước. Vì bất tỉnh nên Vũ không giữ được Bi, Bi chết trong tay Vũ.

*********
Người ta vớt mấy chị em chúng tôi đưa lên ghe lớn. Vũ được hút nước, làm hô hấp nhân tạo, cả tiếng đồng hồ sau mới tỉnh lại. Mấy chị em ôm nhau mà khóc sướt mướt, thương Bi quá, và thương thân nữa. Thương Bi nhiều nhất. Vượt biên dễ sợ quá, kinh hoàng quá, ghê gớm quá! Chúng tôi ở trên ghe chờ suốt đêm hôm đó, qua hết ngày hôm sau để người ta tìm xác Bi. Nếu tìm được, tôi sẽ nhờ chủ tàu đem Bi về chôn, chúng tôi tiếp tục đi. Đến Bidong không có Bi biết ăn nói với ba má ra làm sao?! Nếu không tìm được xác Bi, chúng tôi sẽ quay về, cố tìm xác em để chôn em vào đất cho được ấm áp. Tội nghiệp cho đứa em bé nhỏ của tôi, âm thầm chịu đau đớn vì ly tán, vì thương nhớ, âm thầm đi vào cõi chết, không một tiếng khóc đau đớn, không một tiếng than cho số mệnh, không một lời nhỏng nhẻo, một cái chào tay giã từ, nhớ lời Vũ Long nói, Bi chỉ kêu lên mấy tiếng “Ba ơi, má ơi” trước khi nước tràn vào ngập cả mui ghe.
Chiều hôm đó, không tìm được xác Bi, người chủ tàu đem ghe ra đón mấy chị em chúng tôi về. Ngày ra đi vui tươi, hy vọng bao nhiêu thì ngày về buồn bã và đau đớn bấy nhiêu! Năm chi em gái đã thiếu một đứa nhỏ nhất, bé bỏng nhất, dễ thương nhất.

Ba giờ sáng, người chủ ghe đón tàu đò cho chúng tôi về Cà-Mau. Chúng tôi sẽ ở lại đó chờ tìm xác Bi, chôn cất xong, chúng tôi mới về Saigon. Nhà chắc không còn. Chúng tôi khóa nhà đi đã hơn mười ngày. Công an đang “ghim” nhà tôi, thấy vắng, chắc chúng sẽ niêm phong. Nhà không còn, tiền bạc cũng không còn, chúng tôi sống bằng gì bây giờ. Nhưng vì thương em, thế nào chúng tôi cũng phải về.
Người ta bọc xác Bi trong một cái áo mưa nylon, đóng vội cái quan tài bằng sáu miếng ván thuyền, chôn ở một khu rừng nào đó, tại một cửa sông nào đó... Bi nhỏ bé của tôi, Bi dễ thương của tôi, Bi “sinh sau đẻ muộn”, Bi đến muộn màng trong gia đình mấy chị em chúng tôi, Bi ra đi vội vàng trong gia đình mấy chị em chúng tôi, và rồi Bi đã nằm lại đó, ở một cửa sông, giữa một khu rừng đước hoang dại, cô đơn, lẻ loi, lạnh lẽo. Ôi, Bi yêu dấu; tội nghiệp cho Bi của tôi biết bao nhiêu!

Sáu tháng sau, tôi nhắn người chủ tàu lên, đưa tôi về bốc mộ cho em. Ngày đi, có Vũ Long đi theo, phòng khi tôi bị ngất xỉu vì đau đớn. Tôi về ở lại nhà người chủ tàu. Bốn giờ sáng, tôi, Vũ Long, người chủ tàu và hai người làm công chèo thuyền ra cửa sông. Tôi ngồi trên ghe, nghĩ đến đứa em bé nhỏ tội nghiệp mà nước mắt cứ tuôn ra ròng ròng. Tôi thấy Vũ Long cũng lau nước mắt. Hai chị em âm thầm khóc. Gần tới cửa sông, ghe rẻ vào một con rạch. Đi càng xa, rạch càng nhỏ dần, hai bên là rừng hoang. Sợ công an, người ta đã đưa em tôi vào đây, chôn giấu một cách lén lút, vội vàng. Ngôi mộ được đánh dấu bằng hai cọc cây: Một cao đằng đầu, một thấp đằng chân. Đầu em tôi quay về hướng nam, hướng đảo Bidong, nơi ba má tôi đang sống trong trại tỵ nạn. Không biết vô tình hay cố ý, người ta đã chôn em tôi hướng về phía ba má tôi. Đất mềm và ướt, chỉ cuốc một chốc, tiếng cuốc đụng nhẹ vào nắp hòm một tiếng cộp nhẹ, tiếng dội nhẹ đập thẳng vào tim tôi. Tôi kêu lên hai tiếng “Bi ơi” và khóc nức nở. Vũ cũng khóc. Tôi cố chồm tới để cố nhìn vào quan tài nhưng người chủ ghe giữ tôi lại, bảo tôi khóc nhỏ, sợ công an, du kích nghe thấy, tìm tới thì bị bắt cả đám. Một lúc sau, quan tài được đưa lên mặt đất, ván còn nguyên, chưa mục. Tôi lại nhoài người tới để xem em tôi nằm trong hòm nhưng người ta lại không cho. Tôi ngoan ngoãn ngồi yên. Tôi nghĩ tới nỗi đau đớn khi nắp hòm cạy ra và Bi nằm yên lặng trong đó. Tôi nhắm mắt và cố nghĩ tới ba má. Nghĩ tới ba má sẽ vơi đi những nỗi khổ đau...

*********
Ba má ơi! Nếu con đưa được em về thì coi như con đã làm tròn phần nào bổn phận đối với ba má. Con tưởng là con đem em đi cho ba má được gặp em, cho ba má đỡ nhớ, đỡ thương, cho ba má được gần gũi đứa con “ănsau chạy dọi” bé nhỏ tội nghiệp mà ba má thương lắm, cho hai chị em sinh sau muộn màng được gặp nhau, được ăn uống vui đùa cùng nhau. Ngờ đâu hôm nay con lại đưa em về, cũng lén lút như khi đưa em đi. Người ta đang sắp những lóng xương, đốt xương nhỏ bé tội nghiệp của Bi vào cái rương thiếc con đã mua sẵn. Khuôn mặt dễ thương ấy, bàn tay bàn chân nhỏ nhắn ấy, giờ đây chỉ còn lại những cái xương vô tình, còn đâu da dẻ hồng hào trắng muốt của em.

Ba má kính yêu,

Hí phiêu bạt của chị Hà,

Con đã lén lút đưa em về, và lại một lần nữa lén lút đem chôn em bên mộ bà nội. Con đã khấn trước mộ: “Nội ơi! Bây giờ ba má đi xa mà em thì côi cút. Con đưa em về ở với nội, gởi cho nội gần gũi hôm sớm để nội chăm sóc cho em, để em vui đùa với nội. Tối tối, nội sẽ hiện lên ngồi trên mộ, em sẽ bắt chí cho nội như mẹ con Cúc Hoa ngày xưa. Đến khi gà gáy sáng, em và nội sẽ về lại cõi âm. Có lẽ em sẽ hỏi bao giờ thì ba má về thăm nội, thăm em. Nội cứ liệu mà trả lời cho em khỏi buồn!”

Sau khi chúng con về, nhà đã bị tịch thu nên chị em chúng con không về nhà cũ nữa. Nhà không còn mà chị em cũng không muốn trở về lại căn nhà dấu yêu và quá nhiều kỷ niệm ấy! Để sống, chúng con phải chạy trốn kỷ niệm. Ba má tha lỗi cho chúng con.

Tết vừa qua, chỉ có bốn chị em chúng con ở với nhau, nhớ ba má, nhớ Hí, nhớ Bảo, nhớ Diễm vô cùng. Nhiều đêm bốn chị em nằm ôm nhau mà khóc. Con khóc ít nhất vì con là chị cả, nhưng con cũng ngủ sau cùng khi các em khóc nhiều, mệt và ngủ thiếp đi, cũng vì con là chị cả.

*********
Một năm sau ngày ba má đi, nhiều sóng gió quá mà chị em chúng con thì cô quạnh quá. Ba bị ở tù Cọng Sản 7 năm, vắng ba còn có má. Bây giờ thì vắng cả ba lẫn má.

Một năm qua, một năm kinh hoàng, đau khổ và cô đơn. Kinh hoàng, con không sợ vì chị em chúng con sinh ra trong chiến tranh, lớn lên trong chiến tranh, đã quá quen với bao nỗi kinh hoàng. Kinh hoàng vì năm ngàn người bị giết ở Huế hồi tết Mậu Thân, lúc gia đình mình còn ở ngoài ấy, con mới 5 tuổi; kinh hoàng vì ngày 30 tháng Tư, con mới mười ba tuổi. Đau khổ, con cũng không sợ, vì con chấp nhận triết lý Phật giáo, “Đời là bể khổ”, nhưng chị em chúng con rất sợ cô đơn. Xa ba má, chúng con rất cô đơn. Tất cả chị em chúng con đều sợ cô đơn. Ba má nhớ thư Diễm viết về khi nó ở Bidong năm 1984 không: “Tối qua, lúc ba giờ, giật mình thức dậy, cảm thấy bơ vơ và nhận thấy một cách rõ rệt và đau đớn rằng giờ ba má đã xa rồi, các em đã xa lắm rồi. Mai đây và dài lâu nữa, con một mình sống cuộc đời của kẻ tha hương, biết bao giờ con mới gặp lại ba má và các em... “

Giờ thì “ba má đã xa lắm rồi!”, đang lạc loài nơi đất khách, lưu đày nơi xứ lạ, sống đời vong quốc. Bốn chị em chúng con ở đây, ngay trên quê hương mình, cũng đang chịu kiếp lưu đày. Lưu đày ngay chính trên quê hương mình, đó là câu của Saint Exupery mà ba thường nói khi còn ở nhà. Bây giờ mấy chị em sống côi cút với nhau lại càng thấm thía lời ba nói, đau xót cho ai bị lưu đày ngay chín
h trên quê hương mình.

Hôn ba má và Hí ngàn vạn cái.

Hà Long
(Bidong, năm 1990, tuệ chương viết lại theo thư của con)

SƠN TRUNG * VỀ MIỀN TRUNG

 VỀ MIỀN TRUNG

Hè năm 1988, tôi lại về thăm quê tôi. Đây là chuyến đi thứ hai của tôi về thăm quê nhà. Chuyến này tôi đi bằng xe ô-tô từ Sài gòn ra Huế, đến Huế thăm bạn bè và bà con, sau đó đáp xe đò Huế - Vinh để về nhà.
Hôm đó tôi lên xe xích lô máy ra bến xe Pétrus Ký. Lúc này muốn đi Trung, Bắc, người ta phải ra nơi này lấy xe. Sau này, xa cảng miền Đông ra đời, người ta bỏ bến xe này. Tôi đi thật sớm, khoảng năm giờ sáng vì khoảng 6giờ sáng, xe đã lăn bánh. Xe đi ngang trường đại học Sư Phạm ở đuờng Cộng Hòa. Suốt đường này trồng hai hàng cây cao, hoa màu hồng nhạt. Đây là nơi tôi đã theo học trong ba năm trời, và đã tốt nghiệp, đi dạy học vài năm trời, mà nay thì tôi đã gĩã từ sân trường. Tôi ngạc nhiên hết sức khi thấy một hiện tượng rất lạ.

Từ xa tôi thấy đường Cộng Hòa như có sương mù dày đặc. Xe chạy lại gần, tôi mới thấy từ trên ngọn cây cao, hàng ngàn con sâu buông mình xuống lưng chừng trời bằng những sợi tơ trắng. Thế mà trước đây tôi không thấy. Có lẽ khi đêm thanh tĩnh, sương rơi xuống nhiều, đàn sâu mới thả dây xuống rong chơi phố phường, gần sáng, xe cộ qua lại ồn ào, chúng rút lui về chiến khu an toàn, và biến mất trên tàng cây cao. Té ra phải có những lúc nào đó ta mới có thể thấy những điều mà bình thường ta không thấy.


Đi xe đò thì dễ mua vé hơn là đi xe lửa, và không bị người ta nằm võng đu đưa trên đầu. Xe đò lúc này đuợc sơn phết sáng sủa , lại được trang bị cassette cho hành khách nghe âm nhạc. Sau 1975, bao nhiêu radio, cassette tôi đã bán sạch. Hơn mười năm tôi không nghe âm nhạc, bây giờ ngồi xe đò đuợc nghe lại những giọng hát của Thái Thanh, Thanh Thúy, Lệ Thu, Elvis Phương qua những băng nhạc hải ngoại, lòng tôi thật cảm xúc vô cùng. Tiếng hát thật êm ái, bay bổng nhắc nhở tôi thực tại xung quanh, những tiếng hát cộc cằn thô lỗ trên đài Sài gòn sau 1975.

 Một anh bạn sinh viên tâm sự với tôi rằng anh ta là một sinh viên nằm vùng, rất có uy tín trong địa phương. Sau 1975, anh đuợc giao công tác văn nghệ địa phương và anh dề nghị rằng bây giờ đã hoà bình, nên có giọng hát êm ái hơn là những tiêng gào thét inh tai điếc óc như trước. Kết quả là anh đuợc người ta đem đi lao động cải tạo một thời gian vì cái ý kiến đổi mới đó.

Sống trong chế độ cộng sản, cái gì cũng trở thành những vấn đề quan trọng. Âm nhạc dường như là một niềm say mê của tuổi trẻ. Töi đã đi lao động tại nông trường Lê Minh Xuân ( Củ Chi). Nông trường này đưọc coi là thí điểm của thành phố, và điểm son của thành phố. Đây là vùng nước mặn, lại sõi đá cằn khô, nông dân chỉ trồng lúa mỗi năm một vụ. Nay đảng bắt trồng một năm hai vụ. Còn chỗ nước mặn, xưa nay bỏ hoang, đảng bắt thanh niên xung phong đáp đê ngăn nước mặn, lập thành ruộng trồng thơm( dứa) xuất khẩu.

Thơm cũng không chịu nổi nưôc mặn, chết lớp này đến lớp khác nhưng đảng vẫn kiên trì bắt dân đi lao dộng trồng thơm, để rồi thỉnh thoảng cũng sản xuất đuợc một vài trái thơm nhỏ xíu và chua lè! Tội nghiệp những dân thành phố, xưa nay chưa biêt ruộng đồng là gì, nay phải lội sình đào đất làm thủy lợi và đi trồng thơm. Người ta gọi những nông trường là những 'trung tâm tàn phá sắc đẹp'' . Sau 1975, người dân Việt Nam phải sống trong đau khổ chứ không như lời ca ngợi giả dối của Trịnh Công Sơn:

Em ra đi nơi này vẫn thế. Lá vẫn xanh trên con đường nhỏ. Vườn xưa vẫn còn tiếng mẹ ru.

Và đi lao động trên công trường là một đày ải chứ không vui vẻ như lời ca tụng của Trịnh Công Sơn về nông trường đỏ.

Trên nông trường
Vang tiếng hát. .
.
.


Trong mộng tưởng của những người cộng sản, Liên Xô sẽ xây dựng nơi đây một thành phố Sài gòn thứ hai. Nhưng sự thực những khó khăn cứ đổ dồn tới. Nông trường muốn xin tiền làm một cái gì cũng phải có đủ 20 chữ ký của cấp trên. Cuối cùng những đám giải phóng miền Nam như Tạ Bá Tòng, Nguyễn Hộ đã bị cho về hưu, và nông trường Lê Minh Xuân cũng như bao nông trường khác sau một thời gian thổi phồng để lấy thành tich cho một vài vị vào trung ương đảng hay vào tỉnh ủy thì bị rơi vào quên lãng.


Cuối tuần, nông trường tổ chức văn nghệ do thanh niên xung phong tổ chức. Toàn là những bài hát nhạt nhẽo, buồn chán. Nhưng cuối cùng một màn trình diễn rất cảm động. Không có trống, không có đờn, những thanh niên xung phong đã lấy song, nồi, thùng thiếc sáng tạo ra những trống và đàn để trình bày những bản nhạc ngoại quốc thật sôi động.Họ bảo là nhạc Liên Xô, Đông Đức, Hungary nhưng âm hưởng giống nhạc kích động Mỹ.


Tôi nhớ một buổi chiếu phim trên đài Sài gòn về lễ quốc khánh Khmer. Theo thường lệ, sau thủ tục chào quốc kỳ Khmer, chụp hình các quan khách Liên Xô, Trung quôc, Việt Nam, và các đại biểu lên phát biểu là phần văn nghệ, và cuối cùng là một ban nhạc Khmer trình bày nhạc ngoại quốc mà dường như là nhạc Mỹ. Những nhạc sĩ và ca sĩ trình bày rất sống động , chứng tỏ nhạc Mỹ có một sức hấp dẫn kỳ lạ. Tôi cũng nhớ đến tình hình trước đây, bọn thanh niên Nga mê nhạc Beatles , đã lén thu băng, lén tập hát và tạp nhảy theo nhạc Mỹ. Những đứa trẻ Việt Nam lên hai lên ba, khi nghe bài hát Alababa và 40 tên cướp đã vỗ tay vui cười thích thú.

Và cũng ở Việt Nam, người ta đã khủng bố , đánh đuổi dân thiểu số từ nam chí bắc để chiếm rừng phá núi nhưng bề ngoài họ trình diễn thứ âm nhạc, gọi là nhạc dân tộc, cho các văn công mặc áo Thái Mèo, đánh đờn Tơ Rưng hoặc đàn tre, hát tiếng Thái, Mường, Mán, Mèo và tiếng Việt. Trong những buổi trình diễn này người ta đã trình diễn vài bản nhạc theo điệu nhạc Rock của Mỹ và một ca sĩ đóng khố đã gào thét như một người da đen trên màn ảnh Mỹ. Âm nhạc Mỹ đã chinh phục thế giới . Âm nhạc đích thực là một thứ ngôn ngữ quôc tế, vượt qua mọi lứa tuổi ở mọi quốc gia. Âm nhạc vô hình xuyên qua những bức tường thép, và đi vào trái tim con người và thể hiện ở nét mặt và chân tay. không cần giảng giải và lý luận. . Còn âm nhạc tuyên truyền là một hình thức tra tấn của chế độ.


Tôi về Huế, trong các tiệm ăn người ta đã mở nhạc vàng. Và tôi lại được nghe những tiếng hát hải ngoại như hồn tôi đi vào thần thoại.


Sau một ngày ở Huế, tôi ra bến xe An Hòa đón xe Huế- Vinh. Đây là một chiếc xe cũ kỹ như xe buýt An Cựu- Bến Ngự hay Bến Ngự -Đông Ba hồi 1956. Trên xe toàn là dân chúng thôn quê mà phần lớn là dân Huế, Quảng Trị. Xe chạy một đoạn lại dừng để hành khách xuống hoặc lên. Con đường quốc lộ, hai bên đồng ruộng trải dài, thỉnh thoảng có xóm làng nhà của lưa thưa và những bụi tre cằn cỗi. Đường đi toàn là ổ gà hoặc đá lởm chởm, xe chạy nhảy như ngựa lồng. Đàn bà có thai không thể đi xe này được. Trên xe là một bác tài xế tuổi khoảng 35-40 rất hoạt bát nhanh nhẹn. Tôi không hiểu bác là dân xã hội chủ nghĩa hay dân Huế mới được học tập cải tạo vì bác 'trình diễn' quá. Bác ca hát luôn miệng:


Huế của ta ơi! Biết mấy tự hào!

Bác lại ngâm thơ bài Mẹ Suốt , rồi bài Bầm ơi của Tố Hữu:

Ai về thăm mẹ quê ta,
Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm.
Bầm ơi có rét không bầm,
Heo may gió núi lâm thâm mưa phùn.
. .

Bác xách bình đựng nước, tu một hơi rồi đọc tiếp thơ Tố Hữu:


Đẹp vô cùng tổ quốc ta ơi
Ai về với quê hương ta tha thiết
Sông Hương, Bến Hải, Cửa Tùng
Ai vô đó với đồng bào, đồng chí. . .


Tháng tám vùng lên Huế của ta,
Quảng Phong ơi! Hương Thủy, Hương Trà.
Phú Vang, Phú Lộc, đò lên Huế,
Đỏ rợp dòng sông, rộn tiếng ca.
. .

Hết ngâm thơ Tố Hữu, bác kể chuyện bác Hồ, bác Tôn kính yêu. . . .


Bác là diễn viên, là cán bộ thông tin văn hóa độc nhất trên xe. Bác là người tốt, muốn giúp vui đồng bào trên xe. Mà bác cũng là cán bộ tốt, muốn tuyên truyền con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa. Đồng thời bác cũng là con người khôn ngoan muốn chứng tỏ bác là người vừa chuyên vừa hồng, theo đúng túi khôn xã hội chủ nghĩa là phải ''ca tụng bác Hồ đọc thơ Tố Hữu'' thì khi đi xin việc, đi thi , và làm việc đều đưọc diểm cao.


Khi xe đến Bàu Cá, Quảng Bình thì mấy công an xuất hiện, và họ ra dấu hiệu ngừng lại. Bác tài xuống xe trình giấy tờ và mỉm cười cầu tài. Không biết bác phạm lỗi gì, anh công an xé một lúc khoảng hai chục tờ giấy phạt. Một lúc sau bác lên xe, nét mặt vô cùng buồn bã và tức giận. Từ đó cho đến khi xe ra sông Gianh bác vẫn im lặng, khác hẳn thái độ vui tươi trước kia.


Khác với lần trước, lần này trong thôn có vài đám cưới. Thôn tôi và thôn bên cạnh, khắp nơi inh ỏi tiếng nhạc phát ra từ các loa phóng thanh. Lúc này quê tôi theo mốt mới. Họ mua máy thu băng và loa, mở máy lớn cho anh em bà con trong đám cưới nghe nhạc vàng của Sài gòn.

 Đa số dân chúng không có máy và băng cassette cho nên họ rất sung sướng khi nghe tiếng nhạc vang lên từ hai ba chiếc loa treo trong đám cưới. Và chủ nhân cũng tỏ ra tự hào vì đám cưới gia đình ta rất tân tiến! Một vài người thấy đây là mối lợi cho nên đã cho các đám cưới thuê băng và máy, khiến cho ở tận thôn quê miền Trung trước đây là vùng đất xã hội chủ nghĩa nay vang lên giọng hát của Thái Thanh, Thái Hiền, Duy Trác, Tuấn Ngọc. . , Nhưng việc mở nhạc này cũng chỉ thịnh hành một thời. Tôi về lần thứ ba thì nghe nói đã bị cấm.

 

BÙI VIỆN


Bùi Viện (1839 - 1878), hiệu Mạnh Dực, là một nhà cải cách, nhà ngoại giao của Việt Nam cuối thế kỷ 19, làm quan dưới triều nhà Nguyễn.

Thân thế

Bùi Viện ra đời vào năm 1839, ở làng Trình Phố, tổng An Bồi, huyện Trực Định phủ Kiến Xương, tỉnh Nam Định (nay là Trình Trung, xã An Ninh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình), trong một gia đình nhà nho. Cha ông mát tay bốc thuốc.

Đường khoa cử và xuất chính làm quan

Năm 1864 ông đỗ Tú tài, năm 1868 đỗ Cử nhân. Em ông là Bùi Phủng cũng đỗ cử nhân, bổ làm án sát Hưng Hóa. Bùi Viện thì sau hai lần thi hội năm 1868 và 1869 đều hỏng thi. Năm 1871 ông nhận nhiệm sở giúp Lê Tuấn, Tham tri Bộ Lễ ra Bắc dẹp loạn. Công việc hoàn thành, ông trở về Huế. Bùi Viện được Doãn Khuê, Doanh điền sứ Nam Định mời ra giúp việc khai hoang, lấn biển.

Năm 1873, trước khi vua Tự Đức buộc phải ký Hiệp ước Giáp Tuất (15 tháng 3 năm 1874) nhượng bộ nhiều yêu sách của thực dân Pháp và nguy cơ mất cả nước đã nhỡn tiền, triều đình đã chủ trương tìm kiếm những đối trọng khác ở nước ngoài để chấn hưng đất nước và cứu vãn họa xâm lăng của thực dân Pháp. Bùi Viện đã lãnh nhận sứ mạng sang Mỹ do sự tiến cử của một viên đại thần trong triều với Vua Tự Đức. Bùi Viện lúc đó đang được xem như là một nhà kinh bang tế thế, có công lớn trong việc xây dựng cảng Hải Phòng, lập ra Tuần dương quân (lực lượng hải quân thường trực) gồm 200 chiến thuyền và 2.000 quân thủy thiện chiến và lập ra hệ thống thương điếm ở khắp các tỉnh ven biển.

Sang Mỹ tìm đồng minh giao hiếu

Từ cửa biển Thuận An ở kinh đô Huế, Bùi Viện xuống thuyền ngược ra Bắc vào tháng 7 năm Quý
 Dậu (tháng 8 năm 1873) và 2 tháng sau thì đến Hương Cảng lúc đó đã là nhượng địa của nước Anh và là đầu mối giao thông nối châu Á với thế giới phương Tây. Tại đây Bùi Viện đã kết giao được với viên lãnh sự Hoa Kỳ lai Tàu nên 2 bên giao thiệp được. Được biết ý đồ của Bùi Viện, viên lãnh sự đã viết thư giới thiệu với một nguời ở Hoa Kỳ có khả năng giúp ông tiếp cận với nguyên thủ của quốc gia này.

Bùi Viện sau đó đã đi qua Yokohama (Hoành Tân, Nhật Bản) để đáp tàu sang Mỹ, rồi lưu lại ở đó mất một năm vận động mới gặp được Tổng thống Ulysses Grant (nhiệm kỳ 1868-1876). Lúc này Pháp và Mỹ đang kình nhau trong chiến tranh ở Mexico nên Mỹ cũng tỏ ý muốn giúp một quốc gia đang bị Pháp uy hiếp. Nhưng Bùi Viện không mang theo quốc thư nên 2 bên không thể có một cam kết chính thức. Vì vậy, ông lại quay về Việt Nam trở lại kinh thành Huế.

Có được thư uỷ nhiệm của vua Tự Đức, Bùi Viện lại xuất dương một lần nữa. Năm 1875 ông lại có mặt tại Hoa Kỳ. Có trong tay quốc thư nhưng lại gặp lúc Mỹ - Pháp hết thù địch nên Tổng thống Ulysses Grant lại khước từ sự cam kết giúp Việt Nam đánh Pháp.
Bùi Viện lại trở về nước, vừa đặt chân lên bờ thì nghe tin mẹ từ trần nên về quê cư tang. Ba tháng sau Bùi Viện lại được triệu về kinh đô giữ chức Thương chánh tham biện rồi chuyển sang chức Chánh quản đốc nha Tuần hải. Chẳng bao lâu Bùi Viện mất đột ngột ở tuổi chưa đầy 40.

Đánh giá

Hành trạng cũng như tư tưởng của Bùi Viện thường được ví và xếp chung vào lớp sĩ phu có tư tưởng canh tân như Phạm Phú Thứ, Nguyễn Lộ Trạch, Nguyễn Trường Tộ.
Vua Tự Đức đã có lời phê: Trẫm đối với ngươi chưa có ân nghĩa gì, mà ngươi đã coi việc nước như việc nhà, không quản xa xôi lo lắng, quỉ thần ắt cũng chứng cho[cần dẫn nguồn].



Người Việt đầu tiên đặt chân đến Hoa Kỳ.
Người Việt đầu tiên đặt chân đến Hoa Kỳ. Khi Bùi Viện (một vị quan sống dưới triều vua Tự Đức) đặt chân đến Hoa Kỳ để đặt quan hệ ngoại giao vào đầu những năm 1870, lịch sử đã coi ông là người Việt Nam đầu tiên đặt chân lên đất nước châu Mỹ này. Nhưng trong cuốn sách "con đường thiên lý" (NXB Văn hóa - Thông tin), nhà nghiên cứu Nguyễn Hiến Lê đã đưa ra những bằng chứng thuyết phục, chứng minh rằng trước Bùi Viện 20 năm, có một người Việt đã thực hiện một chuyến phiêu lưu ở miền Tây hoang dã của Hoa Kỳ như một cao bồi thực thụ. Từ một người đi tìm vàng ở California, ông đã trở thành ký giả người Việt đầu tiên trên đất Mỹ.

Ông là Trần Trọng Khiêm (người làng Xuân Lũng, phủ Lâm Thao, Phú Thọ). Từ người Việt đầu tiên đến Hoa Kỳ và nhà báo Việt đầu tiên trên đất Mỹ Trần Trọng Khiêm sinh năm Tân Tỵ (1821), tức năm Minh Mạng thứ 2, là con của một gia đình thế gia vọng tộc ở phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ nhưng trong người lúc nào cũng sẵn máu phiêu lưu.
 Năm ông 21 tuổi, vợ ông bị một viên chánh tổng âm mưu làm nhục rồi giết hại. Sau khi giết tên chánh tổng báo thù cho vợ, ông xuống Phố Hiến (Hưng Yên), xin làm việc trong một tàu buôn ngoại quốc và bắt đầu bôn ba khắp năm châu bốn bể. Suốt từ năm 1842 đến 1854, Trần Trọng Khiêm đã đi qua nhiều vùng đất, từ Hương Cảng đến Anh Cát Lợi, Hòa Lan, Pháp Lan Tây. Do trí tuệ sắc sảo, đến đâu ông cũng học được ngoại ngữ của các nước đó. Năm 1849, ông đặt chân đến thành phố New Orleans (Hoa Kỳ), bắt đầu chặng đường 4 năm phiêu bạt ở Mỹ cho đến khi tìm đường về cố hương. Sau khi đến Mỹ, ông cải trang thành một người Trung Hoa tên là Lê Kim rồi gia nhập đoàn người đi tìm vàng ở miền Tây Hoa Kỳ.

 Sau đó ông trở về thành phố Xanh - Phát - Lan - Xích - Cố ( phiên âm của San Francisco) và làm kí giả cho tờ Daily News 2 năm. Cuộc phiêu lưu của Trần Trọng Khiêm (tức Lê Kim) trên đất Mỹ đã được nhiều tài liệu ghi lại. Trong cuốn sách La Rueé Vers L'or của tác giả Rene Lefebre (NXB Dumas, Lyon, 1937) có kể về con đường tìm vàng của Lê Kim và những người đa quốc tịch Gia Nã Đại, Anh, Pháp, Hòa Lan, Mễ Tây Cơ… Họ gặp nhau ở thành phố New Orleans thuộc tiểu bang Lousiana vào giữa thế kỷ 19 rồi cùng hợp thành một đoàn đi sang miền Viễn Tây tìm vàng. Thời đó, "Wild West" (miền Tây hoang dã) là cụm từ người Mỹ dùng để chỉ bang California, nơi mà cuộc sống luôn bị rình rập bởi thú dữ, núi lửa và động đất. Trong gần 2 năm, Lê Kim đã sống cuộc đời của một cao bồi miền Tây thực thụ.
Ông đã tham gia đoàn đào vàng do một người ưa mạo hiểm người Canada tên là Mark lập nên. Để tham gia đoàn người này, tất cả các thành viên phải góp công của và tiền bạc. Lê Kim đã góp 200 Mỹ kim vào năm 1849 để mua lương thực và chuẩn bị lên đường. Đoàn có 60 người, nhưng Lê Kim đặc biệt được thủ lĩnh Mark yêu quý và tin tưởng. Do biết rất nhiều ngoại ngữ, ông được ủy nhiệm làm liên lạc viên cho thủ lĩnh Mark và thông ngôn các thứ tiếng trong đoàn, gồm tiếng Hòa Lan, tiếng Trung, tiếng Pháp.
 Ông cũng thường xuyên nói với mọi người rằng ông biết một thứ tiếng nữa là tiếng Việt Nam, nhưng không cần dùng đến. Lê Kim nói ông không phải người Hoa, nhưng đất nước nằm ngay cạnh nước Tàu. Ông và những người tìm vàng đã vượt sông Nebraska, qua núi Rocky, đi về Laramie, Salt Lake City, vừa đi vừa hát bài ca rất nổi tiếng thời đó là "Oh! Suzannah" (Oh! My Suzannah! Đừng khóc nữa em! Anh đi Cali đào vàng. Đợi anh hai năm, anh sẽ trở về. Mình cùng nhau cất ngôi nhà hạnh phúc). Họ thường xuyên đối mặt với hiểm họa đói khát và sự tấn công của người da đỏ để đến California tìm vàng. Sốt rét và rắn độc đã cướp đi mất quá nửa số thành viên trong đoàn.
 Trong đoàn, Lê Kim nổi tiếng là người lịch thiệp, cư xử đàng hoàng, tử tế nên rất được kính trọng. Nhưng đó đúng là một chuyến đi mạo hiểm, khiến già nửa thành viên trong đoàn chết vì vất vả, đói khát và nguy hiểm dọc đường đi. Sau khi tích trữ được một chút vàng làm vốn liếng, Lê Kim quay trở lại San Francisco. 
Vào giữa thế kỷ 19, nơi đây còn là một thị trấn đầy bụi bặm, trộm cướp. Là người học rộng, hiểu nhiều, lại thông thạo nhiều ngoại ngữ, Lê Kim nhanh chóng xin được công việc chạy tin tự do cho nhiều tờ báo như tờ Alta California, Morning Post rồi làm biên tập cho tờ nhật báo Daily Evening. Đề tài mà Lê Kim thường viết là về cuộc sống đầy hiểm họa và cay đắng của những người khai hoang ở bắc California và quanh khu vực San Francisco, trong đó ông hướng sự thương cảm sâu sắc đến những người da vàng mà thời đó vẫn là nạn nhân của sự phân biệt chủng tộc.

Lê Kim cho rằng, các mỏ vàng đã khiến cuộc sống ở đây trở nên méo mó và sa đọa không gì cứu vãn được. Nhiều bài báo của ông đăng trên tờ Daily Evening hiện vẫn còn lưu giữ ở thư viện Đại học California. Đặc biệt, trong số báo ra ngày 8/11/1853, có một bài báo đã kể chi tiết về cuộc gặp giữa Lê Kim và vị tướng Mỹ John A. Sutter. Tướng Sutter vốn trước là người có công khai phá thị trấn San Francisco. Khi Lê Kim mới đến đây, ông đã được tướng Sutter giúp đỡ rất nhiều. Sau khi bị lật đổ, Sutter đã bị tâm thần và sống lang thang ở khắp các bến tàu để xin ăn, bạn bè thân thiết đều không đoái hoài đến. Khi tình cờ gặp lại, Lê Kim đã cho vị tướng bất hạnh 200 Mỹ kim.

 Ông đã chê trách thái độ hững hờ, ghẻ lạnh của người dân San Francisco và nước Mỹ với tướng Sutter, điều mà theo ông là đi ngược với đạo lý "uống nước nhớ nguồn" của dân tộc ông. Sang năm 1854, khi đã quá mệt mỏi với cuộc sống hỗn loạn và nhiễu nhương ở Mỹ, cộng thêm nỗi nhớ quê hương ngày đêm thúc giục, Lê Kim đã tìm đường trở lại Việt Nam.

Nhưng ông cũng đã kịp để lại nước Mỹ dấu ấn của mình, trở thành người Việt Nam đầu tiên cưỡi ngựa, bắn súng như một cao bồi và cũng là người Việt đầu tiên làm ký giả cho báo chí Mỹ. Người Minh Hương cầm quân chống Pháp Năm 1854, Trần Trọng Khiêm trở về Việt Nam vẫn dưới cái tên Lê Kim. Để tránh bị truy nã, ông không dám trở về quê nhà mà phải lấy thân phận là người Minh Hương đi khai hoang ở tỉnh Định Tường. Ông là người có công khai hoang, sáng lập ra làng Hòa An, phủ Tân Thành, tỉnh Định Tường. Tại đây, ông tục huyền với một người phụ nữ họ Phan và sinh được hai người con trai, đặt tên là Lê Xuân Lãm và Lê Xuân Lương.

Trong di chúc để lại, ông dặn tất cả con cháu đời sau đều phải lấy tên đệm là Xuân để tưởng nhớ quê cũ ở làng Xuân Lũng. Trong bức thư bằng chữ nôm gửi về cho người anh ruột Trần Mạnh Trí ở làng Xuân Lũng vào năm 1860, Lê Kim đã kể tường tận hành trình hơn 10 năm phiêu dạt của mình từ một con tàu ngoại quốc ở Phố Hiến đến những ngày tháng đầy khắc nghiệt ở Hoa Kỳ rồi trở về an cư lạc nghiệp ở Định Tường. Khi người anh nhắn lại: "gia đình bình yên và lúc này người đi xa đừng vội trở về", Lê Kim đã phải tiếp tục chôn giấu gốc gác của mình ở miền Tây Nam Bộ. Nhưng chưa đầy 10 năm sau, khi làng xóm bắt đầu trù phú thì thực dân Pháp xâm lược nước ta. Lê Kim đã từ bỏ nhà cửa, ruộng đất, dùng toàn bộ tài sản của mình cùng với Võ Duy Dương mộ được mấy ngàn nghĩa binh phất cờ khởi nghĩa ở Đồng Tháp Mười.

Tài bắn súng học được trong những năm tháng ở miền Tây Hoa Kỳ cùng với kinh nghiệm xây thành đắp lũy đã khiến ông trở thành một vị tướng giỏi. Năng khiếu ngoại ngữ cũng giúp Lê Kim cảm hóa được một nhóm lính Pháp và dùng chính nhóm lính này tấn công quân Pháp ở Cái Bè, Mỹ Qưới, khiến cho quân giặc điêu đứng. Năm 1866, trong một đợt truy quét của Pháp do tướng De Lagrandìere chỉ huy, quân khởi nghĩa thất thủ, Lê Kim đã tuẫn tiết chứ nhất quyết không chịu rơi vào tay giặc. Gia phả nhà họ Lê do hậu duệ của Lê Kim gìn giữ có ghi lại lời trăn trối của ông: "Trước khi chết, cụ dặn cụ bà lánh qua Rạch Giá gắng sức nuôi con, dặn chúng tôi giữ đạo trung hiếu, đừng trục lợi cầu vinh, đừng ham vàng bỏ ngãi. Nghĩa quân chôn cụ ngay dưới chân Giồng Tháp. Năm đó cụ chưa tròn ngũ tuần".

Trên mộ của Lê Kim ở Giồng Tháp (tỉnh Đồng Tháp) có khắc đôi câu đối: "Lòng trời không tựa, tấm gương tiết nghĩa vì nước quyên sinh/Chính khí nêu cao, tinh thần hùng nhị còn truyền hậu thế". Như vậy, không chỉ là người đầu tiên đặt chân lên đất Mỹ, Lê Kim còn là một trong những nhà yêu nước can đảm đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Dù cuộc khởi nghĩa của ông cùng chung số phận với nhiều cuộc khởi nghĩa khác ở Nam Kỳ đều bị thực dân Pháp và triều đình Nguyễn đánh tan, nhưng Lê Kim vẫn được công nhận là một trong những danh nhân lớn ở Đồng Tháp thế kỷ 19 (Dựa trên tư liệu của học giả Nguyễn Hiến Lê)

No comments: