HÌNH ẢNH TRUNG QUỐC
Hình ảnh Chấn Động Về Những Dòng Sông “Chết” ở Trung Quốc
Người-Sưu-Tầm
April 9, 20130 Bình Luận
Du lịch Trung Quốc phát triển nhất nhì châu Á. Nhưng, khi những hình ảnh dưới đây được công bố, thế giới đã sốc trước mức độ ô nhiễm trên những dòng sông “chết” ở Trung Quốc.
Vô số những sông, hồ ở Trung Quốc đã bị ô nhiễm nặng bởi chúng nằm cạnh các nhà máy, khu công nghiệp. Đôi khi, sông hồ trở thành nơi chứa rác bất đắc dĩ của người dân.
Ô nhiễm nguồn nước đã dẫn tới sự gia tăng của những “làng ung thư” hay những khu vực mà tỉ lệ ung thư cao đột biến. Tuần trước, tờ nhật báo China Daily cho biết chính phủ Trung Quốc đã thông qua kế hoạch chi 16 tỉ đô la trong 3 năm tới để xử lý triệt để vấn đề ô nhiễm tại Bắc Kinh. Nếu không, du lịch cũng như chất lượng cuộc sống ở đây sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Hơn 2.200 con lợn chết trôi nổi trên một con sông lớn ở thành phố Thượng Hải hồi đầu tháng 3 này.
Một cậu bé bơi trong dòng nước ngập đầy tảo ở Thanh Đảo, tỉnh Sơn Đông.
Hai nhà máy hóa chất dẫn thẳng nước thải ra hệ thống cống khiến con sông Kiện Hằng ở Lạc Dương, tỉnh Hà Nam chuyển thành màu đỏ năm 2011.
Hồ Sào ở Hợp Phì, tỉnh An Huy.
Một đứa trẻ bơi trong hồ nước ô nhiễm ở phía tây nam tỉnh Quý Châu.
Một con cá chết nổi trong vùng nước dày đặc tảo ở hồ Đông, Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc.
Một nhà máy sản xuất đinh ốc và ốc vít nằm bên cạnh con sông ô nhiễm ở Gia Hưng, tỉnh Chiết Giang.
Nước thải của một nhà máy xử lý đất hiếm.
Ngư dân dọn dầu loang ven một khu cảng lớn ở miền Bắc Trung Quốc sau khi một đường ống dẫn rò rỉ hơn 1.600 tấn dầu thô ra biển hồi năm 2010.
Một người đàn ông ngồi câu cá trên ống cống đổ ra con kênh ô nhiễm ở Bắc Kinh.
Một ngư dân hớt lên một vốc nước đầy tảo ở hồ Sào, Hợp Phì, tỉnh An Huy.
Cá chết trôi nổi trên con sông ở Hợp Phì, tỉnh An Huy.
Người dân lội qua một con kênh ô nhiễm, lòng kênh đặc bùn ở Bắc Kinh.
Một cây cầu bắc qua con sông ô nhiễm ở ngoại ô Ôn Châu, tỉnh Chiết Giang.
Một ống cống rò rỉ làm ô nhiễm một con sông và một hồ chứa nước năm 2010.
Công nhân thu nhặt rác trôi nổi trên con sông Trường Giang.
Cá chết nổi đầy trên mặt hồ ở ngoại ô Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc.
Câu cá bên dòng sông ô nhiễm
Một con sông bị ô nhiễm chảy về thành phố Cáp Nhĩ Tân – một trong những thành phố lớn nhất Trung Quốc năm 2005.
Ruồi muỗi bâu đầy rào chắn dọc hồ Đông ở Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc.
Một ngư dân nhảy từ thuyền lên bờ sau một ngày làm việc trên con sông ô nhiễm ở Hợp Phì, tỉnh An Huy.
Theo Business Insider
HIGH TECH
Flag this message
Friday, April 12, 2013 12:21 AM
HIGH TECH : Toyota i-Road
From:
To:
"Son VuThanh"
Kỹ thuật cao tiến hóa không ngừng.
VHT
Hãng Toyota đã làm chấn động thế giới xe hơi trong ngày Thứ Hai 4/3/2013 khi thông báo sẽ trưng bày một kiểu xe mới tại Geneva Motor Show được tổ chức vào ngày Thứ Ba 5/3. Chiếc xe này có tên là i-ROAD, giống như một chiếc xe hơi thường, nhưng chỉ có 2 chỗ ngồi, chạy với 3 bánh, và hoàn toàn sử dụng điện. Một kỹ thuật mới được áp dụng cho loại xe này sẽ giúp cho xe tự cân bằng khi đi vào cua quẹo hoặc chạy trên đường gồ ghề. Xe có bề ngang 850 mm, không lớn hơn một xe scooter hay xe mô tô thường, nhưng thoải mái, ổn định và an toàn hơn nhiều.
Với độ an toàn này, người lái không phải đội nón an toàn như khi lái xe mô tô. Chiều dài xe là 2,350 mm, cao 1,445 mm và khoảng cách giữa 2 trục bánh xe là 1,700 mm. Với kích thước này, một ô đậu xe bình thường hiện nay có thể đậu 4 chiếc i-ROAD. Xe chạy được khoảng đường 30 miles, sau đó phải sạc pin lại trong 3 tiếng bằng hệ thống điện nhà. Có thể nói Toyota mở ra một hướng mới cho ngành sản xuất xe hơi với loại i-ROAD này, giúp cải thiện tình trạng giao thông vùng đô thị, giảm ô nhiễm, đơn giản, an toàn và dễ sử dụng.
Sạc điện không cần dây Trong thời gian qua đã có một số đồ dùng điện tử được sạc điện không cần dây, nhưng lượng điện cần không lớn. Mới đây, một dự án được tiến hành ở Đức: Sạc điện cho xe bus không cần dây nhờ áp dụng kỹ thuật sạc điện cảm ứng. Cuộc thử nghiệm sẽ tiến hành trên đường số 63 ở Mannheim, Đức Quốc, để thử xem 2 chiếc xe bus chạy bằng điện có phù hợp với kỹ thuật điện cảm ứng của hãng Primove tại Canada. Trong kỹ thuật này, điện sẽ được truyền đi không cần dây từ những bộ phận đặt nằm dưới mặt đường tới những hệ thống thu điện được lắp phía dưới của xe bus. Kỹ thuật này sẽ giúp có thể được sạc điện ngay trong lúc hoạt động, kéo dài thời gian làm việc, giảm kích thước của pin chứa điện... Với sự ủng hộ của Karlsruhe Institute of Technology, dự án này sẽ xác định xem kỹ thuật sạc bằng điện cảm ứng có thể thực hiện ngay trên đường phố đông đúc hay không. Qua đó các khoa học gia có thêm số liệu để điều chỉnh cơ cấu hạ tầng, pin điện, và giờ giấc hoạt động cho hệ thống điện cảm ứng. Nếu được áp dụng trên thực tế, sẽ có những chiếc xe bus chạy tối ngày mà không cần phải sạc điện, vừa đáp ứng được phục vụ khách hàng, mà lại không gây ô nhiễm.
NGUYỄN TRỌNG VĨNH * DỰ THẢO HIẾN PHÁP
11/04/2013
Thấy gì khi đọc kỹ bản dự thảo Hiến pháp sửa đổi
Nguyễn Trọng Vĩnh
BAUXITE VIETNAM
BAUXITE VIETNAM
Có
những điểm mâu thuẫn. Điều 2 Chương I ghi: “Tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân…”. Nhưng nhân dân không được làm và phúc quyết Hiến
pháp là văn bản luật cơ bản và cao nhất liên quan đến quyền lợi của dân
và chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của chính quyền. Điều 74, 75
chương V ghi: “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến… làm Hiến pháp và sửa
đổi Hiến pháp…” là phủ định quyền được làm và phúc quyết của dân. Việc
làm này trái với tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện trong Điều 21 của Hiến pháp 1946 ghi “Nhân dân có quyền phúc quyết Hiến pháp…” và Điều 70 trong Hiến pháp đó ghi: “Những điều thay đổi khi đã được nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết”. Mấy năm trước Đảng đã phát động học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nay sao lại làm trái tư tưởng của Người?
Điều 15 trên thực tế vô hiệu hóa gần hết Điều 26.
Điều 26 ghi: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, được
thông tin, được hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp
luật”. Khoản 2 Điều 15 ghi: “quyền con người, quyền công dân “chỉ có
thể” bị giới hạn trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe cộng đồng”. Nói “chỉ có thể bị giới hạn”… là nói “khéo”, thực ra trong thâm ý là “có thể bị giới hạn”... Trước đây đã thế, sau này thiếu gì cách người ta viện cớ “ảnh hưởng an ninh quốc gia, ảnh hưởng trật tự an toàn xã hội và đủ thứ, v.v.” để hạn chế quyền của dân, để cấm.
Có những điều trong “dự thảo” mới đọc tưởng là rất dân chủ, nhưng rất khó khả thi, ví dụ:
Khoản 2 Điều 4 ghi “… Đảng… chịu sự giám sát của nhân dân…”; Khoản 2 Điều 8 ghi: “… cán bộ, công chức, viên chức… chịu sự giám sát của nhân dân…”. Bằng cách nào, những việc cần biết lại không được biết thì làm sao giám sát được? Cơ chế gì để dân thực hiện quyền giám sát?
Có những điều ghi chung chung trong “dự thảo” chẳng có ý nghĩa gì, ghi cũng bằng không, ví dụ:
Điều 35 ghi: “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội”.
Điều 41 ghi: “Công dân có quyền được bảo vệ sức khỏe”.
Điều 46 ghi: “Mọi người được sống trong môi trường trong lành”.
Ai đảm bảo cho? Nhà nước? Bộ Y tế? Bộ Tài nguyên Môi trường? Nếu người dân tự đảm bảo lấy thì ghi vào Hiến pháp làm gì?
Điều 32 Khoản 4 ghi không rõ: “Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần…”. Cá nhân hay tổ chức nào bồi thường? Nếu không rõ thì lại chỉ là “đánh bùn sang ao” mà thôi.
Điều 59 trong Hiến pháp năm 1992 ghi hai ý:
- Bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí.
- Nhà
nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn khác được học văn hóa và học nghề phù hợp.
là rất đúng và rất cần thiết, tại sao Điều 42 “dự thảo mới” lại bớt đi. Chả lẽ mang danh là Nhà nước XHCN lại cắt xén phúc lợi của dân và bớt trách nhiệm của Nhà nước; Điều 42 cần ghi lại hai ý nói trên.
Điều
71 Hiến pháp năm 1992 ghi câu: “Không ai bị bắt, nếu không có quyết
định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện Kiểm sát
nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người
phải đúng pháp luật.” là rất đúng pháp luật và rất cần thiết để bảo vệ
quyền công dân. Tại sao Điều 22 “dự thảo mới” lại bỏ đi? Thế là buông lỏng cho các nhà chức trách tùy tiện muốn bắt ai thì bắt như từ trước đến nay sao? Nếu thật sự tôn trọng, đảm bảo quyền của công dân thì Điều 22 khoản 1 phải ghi lại câu:
“Không
ai bị bắt, nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc
phê chuẩn của Viện Kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang.
Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật.”
Nói
về nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang, Điều 45 Hiến pháp 1992 ghi:
“Các lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc
và nhân dân… chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc…”
là rất đầy đủ và cụ thể. Tại sao ỦY BAN sửa đổi Hiến pháp lại bỏ đi
những ý kiến mà chỉ ghi “… bảo vệ vững chắc Tổ quốc”. Không thể lập luận
là “bảo vệ Tổ quốc” là đủ cả, nhất là trong tình hình Trung Quốc đã và
đang dùng mọi thủ đoạn tranh cướp chủ quyền biển đảo của chúng ta.
Chẳng
lẽ ý của Ủy ban dự thảo là “đành bỏ chủ quyền” hoặc ghi như Điều 45
Hiến pháp 1992 là “phật lòng Trung Quốc”, “không giữ được tình hữu
nghị”?
Yêu cầu nhất thiết phải ghi: “Các lực lượng vũ trang có nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc…” vào Điều 69 mới.
Điều
57 vẫn ghi “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở
hữu và thống nhất quản lý” là không hợp lý, bất công và sinh nhiều tiêu
cực tệ hại. “Sở hữu toàn dân” thành ra “không người dân nào có quyền sở
hữu cả”.
Người có ruộng đất từ mấy đời ông cha để lại, người trước đây
tích cóp được tiền mua được mảnh đất, thửa ruộng nay cũng bị tước mất
quyền, không còn là của mình nữa. Nhà nước quản lý thực chất là các cấp
chính quyền tha hồ có quyền thu hồi, cấp, bán đất. Từ trước đến nay biết
bao nhiêu vụ thu hồi đất ruộng của nông dân gây nên bức xúc, khiếu
kiện, giao cho người có tiền kinh doanh lấy lãi kếch xù, thu hồi đất quá
mức giao cho nhà kinh doanh địa ốc khiến nông dân thất nghiệp sống vật
vờ và hàng vạn căn hộ trên nhà cao tầng thừa ế, thúc ngân hàng rót tiền
cho vay để “cứu”, sẽ tăng thêm “nợ xấu khó đòi”. Về nông thôn sẽ thấy
không ít chủ tịch xã cấp đất, bán đất làm giàu. Ngay ở cấp cao, nhiều vị
đã có nhà cửa đàng hoàng, vẫn được cấp đất xây nhà, ví dụ nguyên Tổng
Bí thư Nông Đức Mạnh công lao, thành tích gì, đã có nhà, vườn khá phong
quang ở Nà Rì, vẫn được cấp 800m2 đất ở Hồ Tây giá trị biết bao nhiêu tỷ.
Công bằng nhất nên sửa: “Đất đai thuộc đa sở hữu, có sở hữu cá nhân (chủ yếu là nông dân), có sở hữu tập thể, có sở hữu nhà nước.”
Trung với nước, hiếu với dân
là tư tưởng xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện ra từ cái ca
sắt tráng men phát cho bộ đội, lá cờ nhỏ tặng Trường Võ bị Trần Quốc
Tuấn, đến lá thư gửi cho thanh niên… Trong nhiều cuộc thăm và nói chuyện
với bộ đội, Người thường nhắc lại câu: “Quân đội ta trung với nước,
hiếu với dân, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Nay Ủy ban dự thảo tự cho mình là sáng suốt hơn, đúng hơn nên sửa sai
lãnh tụ ư? Đảng đã từng phát động phong trào học tập và làm theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, sao bây giờ lại làm trái với tư tưởng của Người?
Thêm nữa Điều 51 Hiến pháp 1980 và Điều 45 Hiến pháp 1992 đều ghi: “Các lực lượng vũ trang phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân…”
là rất đúng và không hề lỗi thời. Tại sao người viết lại sửa đi, chả lẽ
ông không trung thành với Tổ quốc ư? Điều 70 sửa lại là “Lực lượng vũ
trang phải tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổ quốc và
nhân dân…” đưa Đảng đứng trên Tổ quốc. Từ xưa đến nay, đối với mọi người dân, “Tổ quốc là trên hết”. Dù
là Đảng lãnh đạo, cũng từ trong lòng Tổ quốc mà sinh ra, không thể đứng
trên Tổ quốc được. Đảng sinh ra là để phục vụ Tổ quốc chứ không phải
đứng trên Tổ quốc. Đạo lý là như vậy.
VỀ VIỆC LẤY Ý KIẾN NHÂN DÂN GÓP VÀO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP
Đã
gọi là ý kiến nhân dân thì muôn hình muôn vẻ, rất nhiều ý kiến khác
nhau. Với những ý kiến khác nhau tiêu biểu đều cần được đưa lên các
phương tiên truyền thông đại chúng của nhà nước mới công bằng. Đằng này
chỉ đưa ý kiến một chiều là không quang minh chính đại.
Đối
với những điều “quan trọng, nhạy cảm”, có ý kiến không tán thành, muốn
thay đổi cho hợp quyền dân, lợi nước, có ý kiến đồng ý với dự thảo, có
người cố bênh vực ý kiến của Ủy ban dự thảo bằng lập luận ngụy biện,
không mấy đáng giá. Những ý kiến trái ngược nhau như thế, nếu thật dân
chủ, thì phải đưa cả hai loại ý kiến với lập luận của mỗi bên lên báo,
đài để bàn dân thiên hạ lập luận xem bên nào có lý. Đằng này chỉ đưa
toàn người phát biểu đồng ý, còn những ý kiến khác với dự thảo dù đúng,
dù hợp với thời đại thì bị quy chụp cho là suy thoái, theo nước ngoài,
chống Đảng, chống Nhà nước, v.v.
Nói là lấy ý
kiến nhân dân, “không có vùng cấm” cho có vẻ dân chủ, nhưng chỉ những ý
kiến đồng ý với dự thảo mới được cấp nhận, cuối cùng Hiến pháp được
thông qua đại để như bản dự thảo. Như vậy, phát động lấy ý kiến nhân dân
làm gi cho phí thời gian, công sức, giấy mực, tốn hàng mấy chục tỷ tiền
của Nhà nước.
Cách lấy được nhiều chữ ký hoặc
điểm chỉ “đồng ý dự thảo” thì dễ thôi. Bà bán rau, chị hàng cá, anh bán
đậu phụ có thì giờ đâu mà đọc dự thảo, họp tổ khu phố thấy bà tổ trưởng
bảo ký “đồng ý” thì ký thôi; công nhân, viên chức không ký “đồng ý” thì
sợ mất việc, sợ bị “trù”; ở nông thôn chị nông dân, bác nuôi cá, trưởng
thôn bảo ký thì ký, không ký sau này xin giấy tờ khó; họp chi bộ, đồng
chí nào không ký “đồng ý” thì sợ thiếu ý thức tổ chức; kiểu như thế thì
lấy bao nhiêu chữ ký đồng ý mà chả được.
Còn việc công bố là có 20 triệu, 30, 40 triệu người đồng ý với dự thảo Hiến pháp thì đó là độc quyền thông tin của T.V., báo chí nhà nước, nói sao chả được, ai biết đâu mà cãi.
N. T. V.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
ĐOÀN VƯƠNG THANH * BẤT CÔNG
Bất công !
Đoàn Vương Thanh
QUÊ CHOA
Trong một cuộc tiếp xúc với đảng viên cấp dưới, Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng nói đại ý: “sờ vào đâu cũng thấy hư hỏng”. Còn Trương Tấn Sang, Ủy
viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước cũng đã khẳng định : “Bắt một con sâu
còn khó nữa là bắt cả một bầy sâu !”. Trong khi đó, Đình Thế Huynh,
Trưởng Ban tuyên giáo trung ương thì cứ ra rả nói lớn về chỉ thị 03 của
Bộ Chính trị “đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
!”
Chao ôi dân Việt Nam vào thời điểm này, có lẽ chán ngấy về các loại
“phát động”, “vận động” từ trên giội xuống như thế này. Trong xã hội
hiện nay, điều mà hằng ngày diễn ra trước mắt mọi người dân, là sự bất
công xã hội, bất công từ chính trị tư tưởng, đến kinh tế xã hội, bất
công trong đối xử đầu tư cũng như trong người với người. Nếu mở rộng câu
nói của Tổng Bí thư của Đảng thì, ở đâu cũng có bất công. Trong khi đó
tiêu chí của Nghị quyết các Đại hội gần đây của Đảng Cộng sản là “Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh” !!!
Vì “mất dân chủ” hoặc không có dân chủ nên dẫn đến bất công. Bất công
trong chính trị tư tưởng: Cấp trung ương, nhất là các nhà lãnh đạo công
tác chính trị tư tưởng, nếu ở trung ương, công tác ở các ban ngành tư
tưởng thì hầu như đã bị “lạm phát” về tư tưởng, về nói mà không đi đôi
với làm. Nghị quyết trung ương 4 ra đời đã được tròn năm, nhưng tác dụng
và kết quả của nó hầu như mới chỉ là trên bàn hội nghị của Trung ương,
của Ban tuyên giáo.
Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh vẫn rất
mạnh ở cấp trung ương, đặc biệt là các ban ngành thuộc khối tư tưởng
chính trị. Nhưng vì sao, như nghị quyết trung ương 4 thừa nhận, “bộ phận
không nhỏ” cán bộ đảng viên có suy thoái về chính trị, tư tưởng. Nhưng
sau kiểm điểm phê và tự phê, lại không thấy một đồng chí nào nhận có
“suy thoái” về chính trị tư tưởng. Trong khi đó, thì tại Vĩnh Phúc, Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng lại lớn tiếng chụp mũ cho những người soạn Hiến
pháp 72″ những người “đòi đa nguyên, đã đảng”, “đòi tam quyền phân
lập”…là suy thoái về chính trị tư tưởng. Thế còn bảo thủ, duy trì nhóm
lợi ích, tham nhũng năng nhất, nhiều nhất, chỉ công bố những góp ý “có
lợi” cho Ban soạn thảo Hiến pháp, tức là có lợi cho Đảng, thì lại không
phải là suy thoái. Đó cũng là một bất công. Bất công này dẫn đến không
biết baonhiêu hệ lụy nghiêm trọng trong xã hội, nó sẽ đưa xã hội ta đến
đâu, bền vững hay không bền vững ?
Từ “bất công” về tư tưởng chính trị, dẫn đến bất công về kinh tế xã
hội, về văn hóa giáo dục, cả về đường hướng xây dựng lực lượng quốc
phòng bảo vệ tổ quốc đến đường lối ngoại giao “thân thiện, hữu nghị” một
chiều, dẫn đến sự hữu khuynh ghê gớm. Từ bất công về chính trị tư
tưởng, đến nhận định về xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch
vững mạnh cũng có những chệch hướng, có những hậu quả tai hại. Trong đó,
bệnh nói dối, bệnh “báo cáo láo” đang là bệnh dịch nguy hiểm hơn cả
“H5N1″, “H7N9″ đang hoành hành. Hầu như các cấp, các ngành giữ vai trò
lãnh đạo chỉ đạo, có trách nhiệm với vận mệnh quốc gia dân tộc và thực
hiện noi gương tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đều “thích” nói dối, thích
“xu nịnh” thích xuyên tạc sự thật để được vinh thân phì gia, chứ không
thích sự thật được phơi bầy. Người ta thích kiểu “thùng rỗng” kêu to,
hơn là những lời tâm sự chân thành, người ta thích “nhịn” hơn là lời nói
thật. Nói thật hay mất lòng.
Đó là sự “bất công lớn nhất, bao quát nhất” đang trùm bóng đen lên cái
xã hội chủ nghĩa của đất nước ta ngày nay, khiến cho dân chúng không
biết đằng nào mà lần !
– Bất công trong phát triển kinh tế xã hội: Nếu tính từ ngày được phát
động công cuộc “đổi mới” cởi trói cho đất nước, thì đến nay đã gần ba
mươi năm. Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, người đứng đầu BCH trung
ương Đảng khóa sáu, cùng với một số đồng chí khác chủ trương “đổi mời”
đã cứu dân tộc này thoát khỏi cái vòng kim cô đã siết chặt vào cổ từ mấy
chục năm trước.
Nhưng trong lãnh đạo cấp cao vẫn còn những “bộ óc Bảo thủ” kinh khủng,
nên công cuộc “đổi mới” chưa triệt để, nhiều việc quan trọng làm dở
dang, dở dở ương ương “khôn cho người ta dái, dại cho người ta thương,
dở dở ương ương chỉ tổ cho người ta ghét” và chỉ có hại. Lúc đầu, ta
chưa triệt để chống được tư tưởng bảo thủ, “tả khuynh pha lẫn hữu
khuynh” nên qua 5 đại hội Đảng rồi mà vẫn còn đậm nét của sự bảo thủ. Ai
có ý kiến phê phán tư tưởng bào thủ, phê phán những cái lối thời đã và
đang kìm hãm phát triển của đất nước thì bị “chụp mũ” gán ghép là “suy
thoái và thậm chí còn là tư tưởng phản động” Đã là “phản động” rồi thì
dễ vào tù như chơi. “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”, chẳng ai
muốn bị vào tù. Nhưng bị tù về chính trị tư tưởng còn đáng sợ hơn là bị
tù còng tay, cho vào nhà giam, cho ăn cớm hẩm với cá kho thối. Trời đất,
nghĩ đến thôi cũng đã
thấy rùng mình !
thấy rùng mình !
Trong khi Bộ Chính trị, Ban Bí thư “kéo” Ban chỉ đạo Phòng chống tham
nhũng về trực tiếp chỉ đạo, triển khai mong một ngày gần đây sẽ “bắt
được một bầy sâu” thì cũng dưới sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của
Đảng, lại mới sinh ra một cái Ban Phòng chông tội phạm của bên Chính
phủ. Hai cái ban này có phải được ra đời trong sự chỉ đạo chung thống
nhất của Bộ Chính trị hay không hay chỉ là một sự đối đấu phe phải nhằm
tiêu diệt lẫn nhau, tranh giành quyền lực mà thôi.
Cuối cùng thì người lương thiện, cán bộ có tâm huyết với Đảng với nhân
dân, là bị làm “nạn nhân” của cả hai ban. “Trâu bò húc nhau ruồi muỗi
chết !”Liệu còn có cái Ban nào “ra tay” nữa hay không? Trong khi một bộ
phận dân chúng vẫn đang phải sống quằn quại vì thiếu ăn, rách áo, vì
thiên tai lũ lụt, vì bị bóc lột thậm tệ, thì ở trung ương người ta, một
mặt phè phỡn trên nhung lụa, một mặt tiêu sài phung phí tiền mồ hôi nước
mắt của dân, đặt ra rất nhiều trò vè, ban nọ, bộ kia vơi 30% số cán bộ
nhân viên, công chức “ngồi chơi xơi nước và nghĩ cách hại dân !”
. Ông Nguyễn Bá Thanh, ít nhất cũng là người “sáng hơn” nhiều vị khác bí
thư Đà Nẵng vừa được điều về Trung ương làm Trưởng Ban Nội chính giúp
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ra tay chống tham nhũng, thì có ngay việc
công bố “thất thoát đất đai ở Đà Nẵng” nhằm giảm uy tín Nguyễn Bá Thanh.
Trong khi Ban Nội chính đang củng cố tổ chức và bắt đầu hoạt động thì
lại có ngay Ban phòng, chống tội phạm trực thuộc Thủ tưởng chính phủ.
Thì ra, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, kể cả Ban chấp hành trung ương lại
“đối lập” với Chính phủ ư ? Nghe tin mà người dân càng nôn nao nhớ Cụ
Hồ. Thời còn sống, Cụ tài đoàn kết thế !
Sự bất công xã hội hiện nay, bắt nguồn từ sự “mất đoàn kết từ chóp bu”
trở xuống. Chỉ một Đảng lãnh đạo thôi nhưng có nhiều “phe phái” lắm. Phe
nào cũng tập hợp nhiều quân gia xúi bẩy nhằm thịt lẫn nhau. Đó cũng là
một sự bất công xã hội chỉ mang lại hậu họa cho dân chúng mà thôi. Điều
này, cắt nghĩa vì sao có người ở Hà Nôi, khi viết vào bản gợi ý góp ý
Hiến pháp đã nói toẹt ra “Hiến pháp 1992 đã quá hủ bại rồi không thể sửa
đổi chỉ có thể hủy đi thôi !
” Còn Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh thì nói thẳng: tuyên truyền cho góp ý Hiến
pháp mà chỉ nói một chiều là bất công, không công bằng !” Ví dụ, vụ án
Đoàn Văn Vươn ở Hải Phòng, xử gia đình anh em Vươn bị tù tổng cộng mấy
chục năm, trong khi Đoàn Văn Vươn phải được tuyên dương anh hùng nông
dân, thì tuyên án bằng “phất trần” phủi bụi bọn quan tham Tiên Lãng vơi
hầu hết là tù án treo. Án treo coi như không có án !”
Thế mà có một mụ đàn bà trơ cái mặt trên truyền hình, theo sự sắp xếp
của mấy “bồi bút” đã nói rằng, án dành cho bọn “đi cướp” đất nhà anh
Vươn là nặng, còn án cho anh em vợ con anh em nhà anh Vương là nhẹ. Ôi
sao dưới chế độ này, chúng ta đang đổ xương đổ máu, đổ người đổ của cho
sự công bằng mà vẫn phải chịu bất công ghê gớm !. Tìm được công lý trong
chế độ này thật khó như đấy biển tìm kim ! Thà cứ trở về với chế độ Vua
quan như ngày xưa, may ra gặp được một ông Vua thanh liêm dân chúng lại
có nhờ hơn là “chế độ xã hội chủ nghĩa” ngàn lần tươi đẹp hơn phong
kiến đế quốc !
Bất công còn biểu hiện trên toàn bộ các hoạt động xã hội, từ chính trị,
tư tưởng, đến kinh tế xã hội, đến văn hóa, giáo dục, đến bảo vệ tổ
quốc. Mỗi năm, địa phương tôi đều có cuộc vận động thanh niên “tuổi 17″
đăng ký nghĩa vụ quân sự, vì chỉ một năm nữa, những thanh niên trong độ
tuổi làm nghĩa vụ quân sự đã 18 tuổi, tuổi để làm nghĩa vụ quân sự. Nếu
ai không chịu đi đăng ký, thì UBND xã (như thông báo) chịt mọi chứng
nhận khi đi học, đi làm, đi vào công ty. Thế cho nên phải nhanh chóng đi
“đăng ký tuổi 17″ Nhưng đăng ký thì đảng ký, còn đến đúng 18 tuổi. ai ”
bị gọi” vẫn bị gọi, còn ai là con ông cháu cha, có tiền đưa cho ông xã
đội thì được miễn. Tóm lại, nghĩa vụ của toàn dân, nhưng chỉ được thực
hiện ở một số người “thấp cổ bé họng” thôi. Xông ra chốn “múi tên hòn
đạn” ai muốn. Đó cũng là một sự bất công.
Trong xã hội “xã hội chủ nghĩa tươi đẹp của chúng ta hiện nay”, sự bất
công đã thể hiện cụ thể trên mọi lĩnh vực, kể ra không thể hết và có tài
thánh cũng không kể cho hết. Chủ trương xây dựng một xã hội “Dân giầu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh” chỉ là khẩu hiệu mị dân
không bao giờ với tới được, chỉ là cái “bánh vẽ” ru ngủ những người dân
nhẹ dạ cả tin” Khổ cái, dân mình từ xưa vốn nhẹ dạ cả tin nhiều lắm rồi,
nay lại được một lần nữa tinh vi hơn, lại nhẹ dạ cả tin gấp nhiều lần.
Họ hô thật to, nói rất nhiều lần cả văn bản lẫn nói miệng rằng phải bảo
đảm sự công bằng. Thậm chí còn dẫn lời Cụ Hồ rằng “không sợ thiếu chỉ sợ
không công bằng”
Nhưng Cụ dạy là đúng, là chân lý, nhưng thế hệ này, nhất là thế hệ các
quan thời nay không áp dụng đâu, không “học” cụ đâu, học cụ để mà “ăm
cám” ư ? Nước ta, dưới sự lãnh đạo tài tình và sáng suốt của Đảng, đã có
một lớp người “ăn không bao giờ hết gạo và cao lương mỹ vị” ở không bao
giờ hết nhà (và biệt thự), đi lại không bao giờ hết xe sang, máy bay
dành riêng cho “VIP” và muốn “cặp bồ thì không bao giờ hết chân dài !”.
Bây giờ chỉ cấn chạy được cái chân cán bộ xã trở lên là có thể có đời
sống ung dung cả vật chất lẫn tinh thần. Muốn thế phải phấn đấu vào
Đảng. Phấn đấu đươc vào Đảng rồi thì phải tìm cách “ngoi lên” Trình độ
học vấn và tài năng cá nhân, chuyện nhỏ không cần tính đến.
Vì “đất đai là sở hữu toàn dân, do Nhà nước làm chủ sở hữu” nên UBND xã
quản lý hết đất đai, cho dân bào nhiêu được bấy nhiêu, bán cho doanh
nghiệp vào đầu tư bao nhiêu được bấy nhiệu, chia cho “cánh hẩu” bao
nhiêu cũng được. Thực hiện sự thỏa thuận của Chủ tịch huyện và Chủ tịch
xã, người ta “đổi” đất một cơ sở thủ công cho mảnh đất UBND xã. đòi
“các” 1,2 tỷ. cò kè mãi thỏa thuận 600 triệu, rồi không biết 600 triệu
ấy vào túi ai thì chỉ có Trời mới biết. Quyền hành bất công, khuất tất
dẫn đến bất công trong sở hữu đất đai, làm giầu bất chính. Trên đời này
chỉ những thằng biết làm giầu bằng mọi cách là sung sướng thôi, là ô tô
nhà lầu thôi, chứ còn “thần dân” thì chỉ nhìn mà thèm thôi ! Bất công sờ
sờ ra đấy. ai cũng biết, những chẳng ai biết làm gì !
Các bạn quan tâm đến “bất công xã hội” thời nay cứ nghĩ và quan sát
xem. Chắc chắn các vị lãnh đạo dù ở cấp nào cũng thấy nhưng các vị không
dám nói vì sợ mất phần. Vì thế, con trai duy nhất của Bí thư Đảng ủy,
cờ bạc cá độ tiền tỷ, vẫn “cười như Liên Xô”. Bản thân Bí thư bồ bịch
thoải mái với một nữ đồng chí của mình làm cho vợ chồng nó phải ly thân,
chủ yếu là thằng chống là dân thường thấp cổ bé miệng thấy vợ mình cặp
kè với BTĐU vẫn không dám hé răng, một trường hợp khác, vợ một đảng viên
“bồ” với Chủ tịch xã, đảng viên nọ có biết tức quá trèo lên mái nhà
mình dỡ quẳng xuống sân 72 viên ngói cảnh cáo nhưng “bà vợ” chứng nào
vẫn tật ấy, sau đành chịu vì cái ghế của bà ta kiếm được quá nhiều tiền
để mang về nhà xây ngôi lầu 4 tầng ngon ơ, khuấy lên làm gì. Việc bà ta
làm bồ của ông Chủ tịch là chuyện nhỏ ! Bất công cả trong tình cảm riêng
tư nữa. Còn bao nhiêu bất công nữa các bạn ? Bao giờ thì hất bất công
và có công bằng ?
Tác giả gửi cho Quê Choa
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả
TRẦN MẠNH HẢO * DUY ÁC CỦA MARX
Bàn qua về hội chứng tuyệt đối trong “Chủ nghĩa Duy Ác” của Marx
Trần Mạnh Hảo (Danlambao)
- Ngày 14-3-2013 là ngày giỗ lần thứ 130 năm của Karl Marx - ngày giỗ
năm chẵn, một ngày giỗ tổ quan trọng nhất của những người cộng sản Việt
Nam. Lạ thật, tịnh không thấy báo Nhân Dân, Tạp chí cộng sản, báo Quân
đội nhân dân hay Hà Nội mới, Sài Gòn giải phóng, Công an nhân dân, Công
an TP.HCM... những tờ báo cuối cùng ở Việt Nam thề quyết bảo vệ chủ
nghĩa cộng sản tới chết nhắc tới ngày giỗ tổ của đảng cộng sản Việt Nam.
Chúng tôi đã vào công cụ tìm kiếm google.com đánh mã tìm kiếm: “kỷ niệm 130 năm ngày mất của Karl Marx và 195 ngày sinh của Marx”
hiện ra 18 đề mục, chỉ có câu lạc bộ chơi tem Việt Nam (CLB Viet Stamp)
nhắc đến hai ngày này bằng con tem có hình Marx mà thôi. Vì sao Đảng
cộng sản Việt Nam lại lờ tịt ngày giỗ tổ, không thèm thắp cho cụ cố tổ
“thiêng liêng” của mình một nén nhang? Có phải Đảng cộng sản Việt Nam đã
chủ động bỏ ngày giỗ tổ, dấu hiệu cho thấy Marx đã bị chính những người
cộng sản Việt Nam khai tử? Họ chỉ còn dùng tên ông và chủ nghĩa của ông
để làm bình phong giữ đặc quyền đặc lợi mà thôi. Cũng có thể đảng cộng
sản Việt Nam thấy đảng cộng sản Trung Quốc trong Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XVIII ngày 17-12-2012 vừa qua đã im lặng từ bỏ Marx-
Lenine- Mao Trạch Đông, không còn nhắc tên ba ông tổ này trong các văn
kiện chính thức của đại hội, nên đảng cộng sản Việt Nam cũng a tòng noi
theo chăng? Qủa thực, từ năm 1978, đảng cộng Trung Quốc đã chôn sống chủ
nghĩa Marx bằng cách xây dựng kinh tế thị trường, tức kinh tế tư bản.
Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã chôn chủ nghĩa cộng sản bằng cách xây
dựng xã hội tư bản chủ nghĩa vào năm 1986. Bởi, chủ nghĩa Marx về bản
chất là một học thuyết kinh tế. Họ bỏ giỗ ông tổ Marx là quá logic.
Nhân ngày giỗ lần thứ 130 năm của Marx 14-3-2013 vừa qua và sắp tới là
ngày 5-5-2013, kỷ niệm 195 năm ngày sinh của vĩ nhân trên, chúng tôi
viết bài báo này gồm có mấy phần sau:
1. TỪ HI LẠP ĐẾN MARX, TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY LUÔN HƯỚNG VỀ CÁI TUYỆT ĐỐI
2. TÁCH TÂM RA KHỎI VẬT, ÁP ĐẶT Ý ĐỊNH CHỦ QUAN LÊN VẠN VẬT LÀ SỰ KHỐN CÙNG CỦA TRIẾT HỌC TỪ PROTAGORAS TỚI MARX
3. MARX TIẾP THU (LẤY) MỌI HỌC THUYẾT TRƯỚC MÌNH, TRỪ CHỦ NGHĨA NHÂN ĐẠO
4. NHỮNG CÁI SAI CĂN BẢN (SAI GỐC) CỦA HỌC THUYẾT MARX
Xin quý độc giả đọc nội dung chính của bài viết:
1. TỪ HI LẠP ĐẾN MARX, TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY LUÔN HƯỚNG VỀ CÁI TUYỆT ĐỐI
Câu thần chú: - Cái Tuyệt đối, ấy là thực tính của mi - được cho là của
thần Apollon (tiếng Hy Lạp: Απόλλων Apóllon) là thần ánh sáng, chân lý
và nghệ thuật) tuyệt đối hóa cái tuyệt đối trong bản thể vũ trụ ám ảnh
nền văn minh Hi Lạp từ buổi bình minh con người, khiến con người suốt cả
mấy nghìn năm luôn luôn thao thức đi tìm linh hồn mình trong tuyệt đối
Thượng đế, trong tự nhiên và trong chính xã hội mà nó cư trú…
Diogenes Sinope, trong tiếng Hy Lạp cổ Διογένης / Diogenes (Sinope v 413
- Corinth, ca 327 trước Công nguyên), một tông đồ của thần Apollon, mỗi
ngày lại mang cây đèn đi khắp hang cùng ngõ hẻm thành Athènes đầy ắp
người ta, để tìm một con người tuyệt đối giữa ban ngày nhưng tuyệt nhiên
không thấy. Hình như toàn bộ nền triết học Hi Lạp (và cả châu Âu sau
này), cũng bị hội chứng đi tìm con người tuyệt đối, xã hội tuyệt đối,
thiên đường tuyệt đối trên mặt đất của Diogène làm cho mất ăn mất ngủ...
Protagoras (pron.: / p r oʊ t æ ɡ ə r ə s /; Hy Lạp: Πρωταγόρας, ca 490 TCN - 420 TCN) [1] Nhà
triết học Hy Lạp trước Socrates, triết gia duy vật sơ khai, tuyệt đối
tự tin đến mức chủ quan, đẩy con người vượt lên cả Thượng đế, kích thích
chú bé Hi Lạp ấu thơ hãy vươn lên thành người khổng lồ cai trị vũ trụ: “Con người là thước đo của vạn vật”.
Thalès de Milet gọi là Ta-Lét (tiếng Hy Lạp: Θαλῆς ὁ
Μιλήσιος; khoảng 624 TCN – khoảng 546 TCN), triết gia khởi nguồn văn
minh Hi Lạp coi nước là tuyệt đối vũ trụ thì Heraclite coi lửa là tuyệt
đối của vạn vật. Anaximandros, coi tuyệt đối là cái tuyệt đối không thể
tìm thấy trong một vũ trụ tuyệt đối bất định. Democritos lại đi tìm bản
nguyên vũ trụ thông qua tuyệt đối-nguyên tử, phần tử nhỏ nhất của vũ trụ
tuyệt đối không thể bị chia cắt.
Xenophanes của Colophon (tiếng Hy Lạp: Ξενοφάνης ὁ Κολοφώνιος;
570 - 475 TCN) cho rằng tuyệt đối nằm trong thực tại khách quan chứ
không nằm trong tay thần linh với câu nói nổi tiếng: “Nếu con ngựa, con bò biết vẽ, chúng sẽ vẽ thần linh của chúng có hình ngựa, hình bò!”.
Pythagoras (tiếng Hy Lạp: Πυθαγόρας; sinh khoảng năm 580 đến 572
TCN - mất khoảng năm 500 đến 490 TCN) nhà toán học vĩ đại lại đi tìm
tuyệt đối trong các con số, trong phép mầu toán học.
Sokrates hay Socrates (Về năm sinh của ông hiện vẫn chưa
có sự thống nhất giữa năm 469 hay 470. (469 - 399 TCN), (470 - 399 TCN) -
triết gia khởi nguồn túi khôn Hi Lạp đã bị tử hình vì dám đưa tinh thần
Hi Lạp từ trong đền thờ Apollon ra xã hội con người, khuyên người ta
nên đi tìm cái đẹp linh hồn trong thân xác, để thấy linh hồn đồng nhất
với thượng đế tuyệt đối. Ông tuyệt đối hóa vai trò của trí tuệ để đi tìm
chân lý tuyệt đối…
Platon (tiếng Hy Lạp: Πλάτων, Platōn, "Vai Rộng"), khoảng 427-347
TCN lại đi tìm một thế giới tuyệt đối ý niệm trong linh hồn bất tử. Ông
là người đầu tiên chỉ hướng cho nhân loại đi tìm một xã hội tuyệt đối
thiên đường, tuyệt đối hoàn thiện hoàn mỹ là xã hội cộng sản tuyệt đối
không còn tư hữu, được sinh ra trong ý niệm duy tâm của ông qua tác phẩm
trứ danh “ Cộng Hòa”. Có điều xã hội cộng sản của Platon là một xã hội
cộng sản nhân đạo, tuyệt đối cấm giết người. Marx, hơn 2000 năm sau đã
lấy ý tưởng này của Platon để xây dựng chủ nghĩa cộng sản bằng “vũ khí
duy ác”, bằng phương pháp duy nhất là giết người “ chôn tư bản”, giết
tất cả các giai cấp khác trừ giai cấp vô sản. Con đường đi vào thế giới
cộng sản của Platon có Thượng Đế và tình thương yêu nhân loại đi kèm,
tuy chỉ là một xã hội giả tưởng. Ngược lại, con đường đi lên thế giới
đại đồng, đi lên thiên đường cộng sản của Marx là con đường đầy máu và
nước mắt với những núi núi sọ người như đã từng xảy ra ở Nga cộng, Tàu
cộng, Triều cộng, Cu cộng, Việt cộng... và như hậu duệ cuối cùng của
Marx là Pôn-pốt Iêng-xa-ri vừa thực hiện thiên đường cộng sản là những
cánh đồng chết với sự tham gia của qủy dữ.
Triết gia hàng đầu của triết học Kinh Viện Thánh Aurielius Augustinus
(sinh ngày 13 tháng 11, 354, mất ngày 28 tháng 8, 430) - người đã
Platon hóa thần học Thiên Chúa giáo và ngược lại (sau này Thánh Thomas
Aquin cũng làm như vậy với Aristote), tìm tuyệt đối trong linh hồn thánh
thiện, từng phán: “Làm cho chính mình trở thành chân lý”
(Vé rum tacere se ipsum); rằng khi có Chúa tồn tại trong anh em, linh
hồn anh em là một với tuyệt đối Thiên Chúa. Sau này, Marx đã lấy câu
kinh trên của Thánh Augustinus sau khi xua đuổi Chúa Trời để biến các ảo
tưởng duy tâm cực đoan của mình thành chân lý duy nhất, chân lý vĩnh
hằng giúp các hậu duệ chân truyền của ông như Lenine, Stalin, Mao Trạch
Đông... tiêu diệt những kẻ bất đồng chính kiến bằng gông cùm tù tội bắn
giết.
René Descartes (sinh ngày 31 tháng 3 năm 1596 – mất ngày 11 tháng
2 năm 1650) tuyệt đối hóa tư duy, cho tư tưởng con người thể hiện trong
khoa học là cái tuyệt đối với hai câu nói nổi tiếng vượt qua những rào
cản của thần học, tôn sùng một Thượng đế khác là lý trí: “Tôi tư duy, tôi tồn tại”, hoặc: “Trừ tư tưởng của ta, chẳng có gì tuyệt đối nằm trong tay ta”.
Immanuel Kant, (sinh ngày 22 tháng 4 năm 1724 tại Königsberg; mất
ngày 12 tháng 2 năm 1804 tại Königsberg) triết gia vĩ đại nhất của nước
Đức và châu Âu, người từng muốn dung hòa hai cực đoan duy vật và duy
tâm trong triết học phương Tây bằng sự “phê phán lý trí thuần túy”,
hướng con người về thế giới “tiên nghiệm” với thuyết: Lệnh thức tuyệt
đối (kategorischer Imperativ) cho rằng tuyệt đối không thể nhận thức
được “vật tự nó”. Nhưng từ I. Kant, hình như triết học truy tìm cái
tuyệt đối bản thể vũ trụ phương Tây thiếu tự tin, toan tìm một lối rẽ
sang phương Đông khi ông tương đối hóa cái toàn thể: Từ “toàn thể”luôn luôn chỉ có nghĩa tương đối...”
Georg Wilhelm Friedrich Hegel (27 tháng 8 năm 1770 - 14 tháng 11 năm 1831) – người đã từng tuyên bố biện chứng pháp của tôi là lấy từ triết gia Heraclitus Êphêsô
(Hy Lạp cổ đại Ἡράκλειτος không Ἐφέσιος / Hêrákleitos Ephésios ho) là
một nhà triết học Hy Lạp từ cuối thế kỷ thứ sáu trước Công nguyên.).
Hegel đã phát triển biện chứng pháp của Héraclite tới mức hoàn thiện,
tất nhiên là biện chứng pháp tinh thần theo ý niệm tuyệt đối của ông.
Sau này, một người học trò của Hegel là K. Marx đã lật ngược biện chứng
pháp tinh thần của Hegel để thành biện chứng pháp duy vật của Marx.
Hegel đã tìm ra quy luật chung của phép biện chứng trong tư duy, trong
tự nhiên và xã hội với sự hỗ trợ của Thượng Đế. Hegel đã dùng khái niệm
Thượng Đế của Spinoza (Benedictus de Spinoza hay Baruch de Spinoza
(24/2/1633 - 21/2/1677) là một nhà triết học người Hà Lan gốc Do Thái)
để làm một cuộc cách mạng thực sự của thần học có phần nghiêng về thuyết
phiếm thần, chỉ bước nửa bước nữa là tới vô thần. Spinoza cho rằng
Thượng Đế không phải là một cá thể toàn năng, độc thần, tuyệt đối như
quan niệm của Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo và Hồi giáo; mà Thượng Đế
chính là toàn thể vũ trụ, toàn thể thế giới tự nhiên trong đó có con
người sinh sống. Hegel chỉ ra lịch sử loài người có thể phát triển tới
cái tuyệt đối toàn thiện toàn mỹ (một thiên đường dưới thế) với sự hướng
dẫn của Thượng Đế theo hướng chỉ đường của tính thiện căn tức chủ nghĩa
nhân đạo Thiên Chúa giáo.
Marx từ bỏ đạo đức Thiên Chúa giáo của Hegel, quyết mang thiên đường từ
trời xuống thế để tìm cái tuyệt đối nơi trần gian, thánh hóa con người
bằng bạo lực, quyết dùng máu của giai cấp tư bản để xây dựng xã hội cộng
sản ảo tưởng bằng Ý NIỆM TUYỆT ĐỐI DUY VẬT. Marx, một lần nữa, lặp lại
hình ảnh triết gia Diogen của Hi Lạp xa xưa, cầm đèn đi giữa ban ngày để
tìm kiếm giấc mơ cộng sản của mình trên mặt đất duy ác.
2. TÁCH TÂM RA KHỎI VẬT, ÁP ĐẶT CHỦ QUAN CON NGƯỜI LÊN VẠN VẬT LÀ SỰ KHỐN CÙNG CỦA TRIẾT HỌC TỪ PROTAGORAS ĐẾN MARX:
Triết học phương Tây từ Hi Lạp tới Marx mắc một căn bệnh trầm kha, đưa
tới sự cáo chung của triết học, ấy là căn bệnh tách TÂM (duy tâm) ra
khỏi VẬT (duy vật). Bệnh này đưa đến cuộc truy nguyên (tranh cãi) vô hồi
kỳ trận trong triết học: TÂM có trước hay VẬT có trước, VẬT sinh TÂM
hay TÂM sinh VẬT? Rằng trứng đẻ ra gà hay gà đẻ ra trứng? Rằng con người
sinh ra từ con khỉ (Darwin) hay có một Đấng toàn năng nào đó nặn ra con
người từ đất sét như Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo đã tin tưởng? Cho
đến nay, khoa học thực nghiệm phương Tây vẫn còn ngơ ngác hỏi: vũ trụ
này, tồn tại này sinh ra do TẤT ĐỊNH (do Chúa, do Đấng Toàn Năng) hay do
NGẪU NHIÊN (do vụ nổ lớn Big Bang) tạo ra? Cho đến nay, câu hỏi của
người Sume mở đầu văn minh Lưỡng hà (mở đầu văn minh nhân loại?), sắc
dân tìm ra chữ viết để viết trên gốm sớm nhất, rằng: con người từ đâu
đến, đến đây làm gì và đi về đâu vẫn chưa được các nền văn minh hậu bối
trả lời, kể cả Einstein hay đức Đạt Lai Lạt Ma...
Chỉ biết rằng, cho tới hiện nay, khoa học thực nghiệm phương Tây đã dẫn
dắt nhân loại qua những bước tiến khổng lồ về vật chất như tìm được bản
đồ gen người, sinh sản vô tính, đưa người lên vũ trụ, dùng kính viễn
vọng nhìn ra vũ trụ khôn cùng... Ngược đời thay, khoa học càng ngày càng
tiến lên càng thấy mình gần với tôn giáo... Khoa học tò mò hé mắt qua
kính viễn vọng thiên văn Hubble, hoặc kính viễn vọng khổng lồ Alma nhìn
ra vũ trụ để thấy trái đất này, thái dương hệ này cũng chỉ là kiếp hạt
bụi tí con con; hoặc bồi hồi tìm ra hạt Higgs (hạt của Chúa Trời)...
chợt sợ hãi nếu đột nhiên mình lại tìm ra hạt của qủy sứ... Nhưng khoa
học thực nghiệm chừng như đã bất lực, khi nó lơ mơ cảm thấy rằng hình
như vũ trụ này đã được một lực lượng siêu nhiên nào đó lên chương trình
từ A tới Z, đã mã hóa mọi hoạt động của con người và tự nhiên từ mở đầu
đến kết thúc?
Công cuộc tách TÂM ra khỏi VẬT của nền triết học phương Tây ngót ba
nghìn năm nay giờ đã đến lúc nhận lấy một hậu quả kinh hồn: toàn bộ nền
văn minh vật chất đã dùng khoa học thực nghiệm đưa con người vượt lên
phía trước với tốc độ siêu âm, bỏ lại nền văn minh tinh thần tiến như
rùa bò vẫn còn cố níu lấy luân lý và đạo đức thế kỷ ánh sáng thứ 17,
tiếc nuối thế kỷ thứ 18 của cách mạng Pháp và tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ
hào sảng tính nhân văn? Trong con tàu vũ trụ trái đất bay đến tương lai,
dường như tinh thần nhân loại đã bị văn minh vật chất bỏ lại ở rất xa
trong quá khứ, có cơ hồn sẽ lìa khỏi xác, một nhân loại DUY VẬT không có
DUY TÂM đi kèm, một nhân loại ác không có thiện đi kèm, phải chăng là
dấu hiệu của ngày tận thế?
Nhân loại đang tới gần nguy cơ tự hủy diệt khi thân xác bỏ rơi linh hồn,
khi khoa học bỏ rơi tôn giáo, khi cái ác bỏ rơi cái thiện, khi VẬT bỏ
rơi TÂM, khi loài người sắp đánh mất tuổi thơ, đánh mất tôn giáo và
Thượng Đế...?
Tách TÂM ra khỏi VẬT (và ngược lại) thì TÂM ấy không còn là TÂM, VẬT ấy
cũng không còn là VẬT nữa? Tách TÂM ra khỏi VẬT (và ngược lại) khác nào
tách HỒN ra khỏi XÁC. Một cái xác không hồn, cái xác ấy là một vật chết,
quyết không còn là con người nữa. Một cái hồn không có xác để cư trú,
cái hồn ấy chỉ có thể là hư vô.
TÂM và VẬT, HỒN và XÁC là quá trình đồng thời, tuyệt nhiên không thể
dùng phương pháp phân tích theo kiểu mổ xẻ: trước hết là TÂM hay trước
hết là VẬT theo kiểu triết học phương Tây đã quan niệm và cãi nhau chí
chết để cùng nhau treo cổ triết học vậy.
Người phương Đông quan niệm TÂM với VẬT là một. Tôi đang bàn về Vật,
cũng có nghĩa là tôi đang nói về Tâm đấy. Người phương Đông cho con
người là tiểu vũ trụ nên tạo ra một tam vị nhất thể (tam tài) thống nhất
THIÊN ĐỊA NHÂN. Người phương Đông coi con người là con đẻ của tự nhiên,
từ tự nhiên mà sinh ra, rồi lại quay về với tự nhiên, không bao giờ coi
mình cao hơn tự nhiên hay bá chủ tự nhiên như triết học phương tây quan
niệm.
Bằng một danh ngôn vĩ đại, triết gia Protagoras đã chỉ hướng cho nền văn
minh phương tây tha hồ áp đặt chủ quan của con người lên toàn thể vũ
trụ: “Con người là thước đo vạn vật”. Sao lại lấy cái giới hạn
làm thước đo cái vô hạn? Con người là tùy thể của vũ trụ hay ngược lại?
Con người sinh ra vũ trụ hay ngược lại mà lại lấy con người làm thước đo
vũ trụ?
Lấy VẬT phủ nhận TÂM, dùng vật chất phủ nhận mọi giá trị tinh thần con
người, áp đặt chủ quan vô cùng duy tâm của mình lên mọi vật rồi gọi là
duy vật chủ nghĩa, áp đặt rất nhiều điều phi lý, không tưởng của mình
lên con người, lên xã hội và lịch sử con người rồi gọi là duy vật biện
chứng, phủ nhận lịch sử nhân loại trước mình rồi gọi là duy vật lịch sử,
Marx và Engels đã biến chủ nghĩa hoang tưởng của mình thành đoạn đầu
đài để hành hình triết học, để đưa triết học phương tây vào huyệt mộ của
bế tắc bằng vũ khí duy nhất là cái ác.
3. MARX TIẾP THU (LẤY) MỌI HỌC THUYẾT TRƯỚC MÌNH, TRỪ CHỦ NGHĨA NHÂN ĐẠO
Karl Marx tiếp thu (lấy) hơn 90 % học thuyết Hegel làm học thuyết của
mình, trừ Thượng Đế và chủ nghĩa nhân đạo. (Nói đến Marx, cũng có nghĩa
là nói đến Engels, vì hai ông là đồng tác giả của chủ nghĩa cộng sản bạo
lực. Chúng tôi không bàn đến các đao phủ thủ của chủ nghĩa duy ác là
Lenine, Stalin, Mao Trạch Đông và hàng tá các đao phủ thủ tí con con Âu Á
cộng sản khác...)
Ngay cả ba phạm trù nổi tiếng của Marx được cho là phương pháp luận khoa
học như: lượng biến thành chất, sự phủ định của phủ định và sự đấu
tranh giữa các mặt đối lập thống nhất từng là những phát hiện của
Héraclite và Hegel.
Karl Marx đã xua đuổi chủ nghĩa nhân đạo ra khỏi thuyết duy vật còn biết thương người của Feuerbach (Ludwig Andreas von Feuerbach
(ngày 28 tháng 7 năm 1804 - ngày 13 tháng 9 năm 1872) là một nhà triết
học Đức và nhà nhân chủng học) sau khi tiếp thu (lấy) 90% học thuyết duy
vật của Feuerbach thể hiện trong tác phẩm “ Hệ tư tưởng Đức” của Marx.
Marx đã kết hợp biện chứng Hegel với duy vật Feuerbach để tạo ra duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử.
Marx quét sạch chủ nghĩa nhân văn (nhân đạo) ra khỏi học thuyết cộng sản trong tác phẩm “Cộng Hòa” của Platon (Platon
(tiếng Hy Lạp: Πλάτων, Platōn, "Vai Rộng"), khoảng 427-347 TCN, nhà
triết học cổ đại Hy Lạp được xem là thiên tài trên nhiều lĩnh vực, có
nhiều người coi ông là triết gia vĩ đại nhất mọi thời đại cùng với Socrates (Σωκράτης) là thầy ông) để lấy nguyên mẫu mô hình xã hội cộng sản này của Platon, xin trích:
“PLATON: Lí tưởng cộng sản lần đầu tiên được Platon định danh về mặt
lí luận trong các trước tác của mình. Trong tác phẩm Cộng hoà, thông qua
Socrates, Platon khẳng định rằng bất hoà và chiến tranh có nguồn gốc từ
sở hữu:
“Sự khác nhau như thế thường xảy ra do bất đồng về những từ như ‘của
tôi’ và ‘không phải của tôi’, ‘của anh ta’ và ‘không phải của anh ta’…
Chả lẽ việc xây dựng một nhà nước, nơi đa số người cùng sử dụng những từ
như ‘của tôi’ và ‘không phải của’ đối với cùng một loại đồ vật không
phải là cách làm tốt nhất hay sao?”
Trong các phẩm Các qui luật, Platon còn dự báo một xã hội, nơi người ta không những sở hữu chung tất cả, kể cả vợ con mà còn:
“riêng tư và tư hữu bị loại bỏ khỏi đời sống, những thứ về bản chất
là riêng, thí dụ như mắt và tay cũng trở thành của chung và ở mức độ nào
đó người ta cùng nhìn, cùng nghe và cùng hành động, tất cả mọi người
cùng ca tụng hay cùng lên án, cùng vui cùng buồn vì cùng những lí do như
nhau”
Aristotle, học trò của Platon, lại ngờ rằng cái Utopia cộng sản đó sẽ
không đem lại hoà bình vì một lí do đơn giản là khi cùng sở hữu thì
người ta dễ sinh ra cãi cọ hơn là tư hữu. Hơn nữa, ông khẳng định rằng
nguồn gốc của các tranh chấp không nằm ở sự tư hữu mà ở ước muốn được sở
hữu: “không cần cào bằng sở hữu mà phải san bằng ước muốn của con
người”.
(Richard Pipes - Chủ nghĩa cộng sản)- Phạm Minh Ngọc dịch
(hết trích)
Marx cũng tiếp thu (lấy) ý tưởng về một xã hội tuyệt mỹ “ thiên đường
cộng sản Thiên Chúa giáo” trong khái niệm Utopia của Thomas More (Sir Thomas More (/ m ɔr / 07 Tháng 2 1478 - 06 Tháng 7 năm 1535), được biết đến với Công giáo La Mã như Thánh Thomas More từ năm 1935)
Thomas More đã sáng tác cuốn tiểu thuyết giả tưởng có tên Utopia, mô tả
một xã hội thiên đường cộng sản hữu thần, ai không tin vào Chúa sẽ bị
chém đầu.Trong “Utopia xã” với quyền sở hữu đất, sở hữu tư nhân không
tồn tại, nam giới và phụ nữ được giáo dục như nhau, một xã hội làm theo
năng lực hưởng theo nhu cầu, con người gần như đã biến thành các vị
thánh. Marx đã lật ngược xã hội thiên đường cộng sản hữu thần của Thomas
More để trở thành xã hội thiên đường cộng sản vô thần của mình, nơi tôn
giáo bị triệt tiêu, cá nhân bị triệt tiêu, cái riêng bị triệt tiêu, gia
đình bị triệt tiêu, nhà nước bị triệt tiêu, giai cấp bị triệt tiêu, kỷ
luật và hiến pháp bị triệt tiêu, tòa án, quân đội, công an, nhà tù, hình
phạt bị triệt tiêu, cái ác, cái giả, cái xấu bị triệt tiêu, biện chứng
bị triệt tiêu, trần gian bị triệt tiêu …
Cứ đà này, học thuyết Marx có thể sẽ tiến lên một bước là triệt tiêu con
người vì Marx (lấy ý của Hegel) nói rằng lúc xã hội loài người phát
triển đến mức tuyệt hảo là thiên đường cộng sản thì lịch sử nhân loại
dừng lại, không còn sự tiến hóa nào hiện hữu nữa. Lịch sử theo ý Marx
đến đây là điểm kết thúc, điểm chết. Mà lịch sử loài người biến mất thì
con người sẽ cư trú trong hư vô hay trong cõi chết ư? Thật là hoang
đường và phi lý (!)
Marx tiếp thu (lấy) khái niệm đấu tranh giai cấp từ nhiều triết gia
trước Marx làm của mình, trong đó có ba vị tiền bối được gọi là ba nhà
của chủ nghĩa xã hội không tưởng lớn nhất: Saint Simon, Fourier, Owen
rồi đuổi cổ chủ nghĩa nhân đạo ra khỏi khái niệm đấu tranh giai cấp ôn
hòa (phi bạo lực) của ba ông thầy này.
Marx đã lấy tư tưởng xã hội chủ nghĩa là một xã hội có nền nền kinh tế
thống nhất có kế hoạch trên quy mô một quốc gia và quy mô thế giới, lần
đầu tiên do Saint Simon (1760 - 1825) sáng tạo ra để làm của mình, sau
khi đã xóa bỏ tính nhân đạo của học thuyết Saint Simon.
Marx đã lấy học thuyết Charles Fourier (1772 - 1837) làm của mình, trong
đó có một phát minh quan trọng nhất của bậc tiền bối này, rằng
tiến trình lịch sử xã hội loài người trải qua bốn giai đoạn: mông muội,
dã man, gia trưởng và văn minh. Văn minh là giai đoạn tư bản chủ nghĩa,
gia trưởng là xã hội phong kiến, dã man là xã hội chiếm hữu nô lệ và
mông muội là xã hội cộng sản nguyên thủy. Ngay cả ý tưởng công
xã (Học thuyết của Fourier về một xã hội mới là hệ thống công nghiệp mới
hay chủ nghĩa công nghiệp mới theo cách gọi của ông. Đơn vị cơ sở của
xã hội mới ấy bắt đầu từ các phalanges (phalănggiơ - một kiểu công xã)
của Fourier) Marx cũng lấy làm của mình. Ý tưởng phải thay thế chế độ tư
bản một cách triệt để bằng phương pháp hòa bình của Fourier cũng được
Marx trưng thu sau khi đã đuổi chủ nghĩa nhân đạo ra khỏi học thuyết
Fourier.
Học thuyết cho rằng chế độ tư hữu là nhân tố chính của sự suy đồi về đạo đức cần phải được tiêu diệt bằng phương pháp hòa bình đã được Marx lấy làm của mình sau khi đã xóa bỏ tình thương con người phi giai cấp của Owen (Robert Owen (1771 - 1858) mà Marx gọi là cải lương, thỏa hiệp, là không triệt để.
Tư tưởng “Xã hội mới đó vận hành hợp lý đó theo nguyên tắc sở hữu
chung và lao động chung, kết hợp lao động trí óc và chân tay, sự phát
triển toàn diện của cá nhân, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Xã hội
không có giai cấp ấy là một liên minh tự do của các công xã tự quản”
của Owen cũng được Marx lấy làm của mình sau khi đã từ bỏ phương pháp
thiện căn của Owen để dùng bạo lực xây dựng xã hội mới do Marx chủ
trương.
Học thuyết kinh tế của Marx là bắt nguồn từ hai nhà kinh tế học lớn nhất của chủ nghĩa tư bản là Adam Smith và David Ricardo.
Adam Smith, FRSE (rửa tội
ngày 16 tháng 6 năm 1723, hay 5 tháng 6 năm 1723 trong lịch Julian; mất
ngày 17 tháng 7 năm 1790) là nhà kinh tế chính trị học và triết gia đạo
đức học lớn người Scotland; là nhân vật mở đường cho phát triển lý luận
kinh tế. Bộ sách Bàn về tài sản quốc gia (Inquiry into the Nature and
Causes of the Wealth of Nations) đã giúp tạo ra kinh tế học hiện đại và
cung cấp một trong những cơ sở hợp lý nổi tiếng nhất của thương mại tự
do, chủ nghĩa tư bản, và chủ nghĩa tự do.
Adam Smith là lý thuyết gia số một đặt nền móng cho kinh tế tư bản chủ
nghĩa. Ông sinh trước Marx 95 năm và 28 năm sau khi ông mất, Marx mới ra
đời. Trước Adam Smith, kinh tế phương Tây còn mang đặc thù của nền kinh
tế phong kiến tuy đã manh nha nền kinh tế thương mại tư bản tư nhân còn
nhỏ lẻ.
Trước Adam Smith, chủ nghĩa tư bản sơ khai đã có một số nhà kinh tế bàn
đến vấn đề tự do kinh tế và tự do thương mại, bàn về các khế ước xã hội
trong mối quan hệ giữa tư bản và lao động. Nhưng chính từ Adam Smith lần
đầu tiên các lý thuyết về tự do kinh tế, tự do thương mại được hệ thống
hóa, điều kiện hóa, xã hội hóa và quốc tế hóa. Đó là những vấn đề sống
còn của chủ nghĩa tư bản nhân đạo trong mối quan hệ giữa đạo đức và kinh
tế, giữa lý thuyết về giá trị lao động và thị trường tự do tự điều tiết
mọi mâu thuẫn lao động và tư bản, về vấn đề chuyên môn hóa sản xuất
quốc tế và sự phân công lao động, về nhân tố sản xuất quan trọng hơn
nhân tố mậu dịch, về thuyết trọng thương đã vượt qua thuyết trọng nông
trong tích lũy tư bản, về “lý thuyết lợi ích tuyệt đối” trong vai trò
điều tiết của nhà nước trong kinh doanh quốc tế, về sức lao động là giá
trị đầu tiên của nền tảng sản xuất tư bản.
Vấn đề quan trọng nhất mang tính đạo đức trong kinh tế luận Adam Smith
là mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và giải phóng con người khỏi nô
lệ thân xác. Thương nghiệp và công nghiệp thành thị chỉ có thể phát
triển khi nó gắn liền với tự do cá nhân, quyền tư hữu tối thượng và pháp
lý dân chủ đại nghị. Adam Smith còn khuyến cáo nền kinh tế tư bản rằng
kinh tế chỉ có thể phát triển nếu việc trả lương lao động hợp lý trở
thành tiêu chuẩn mang tính lịch sử để tiến lên hữu sản hóa giai cấp vô
sản. Adam Smith trong kinh tế luận của mình đã coi hợp tác trong cạnh
tranh là vấn đề sống còn của xã hội tư bản.
Marx, từ người học trò trở thành người phản biện học thuyết kinh tế
AdamSmith. Marx luôn luôn nói đến duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
nhưng trong cách hành xử và lập luận của mình, Marx lại là người chủ
quan phi biện chứng và phi lịch sử hơn ai hết. Marx áp dụng biện chứng
pháp Hegel vào mọi vấn đề để đi đến công thức cứng ngắc và thiếu khoa
học là tư bản thì tuyệt đối xấu còn vô sản thì tuyệt đối tốt, rằng tư
bản bóc lột dã man vô sản bằng “giá trị thặng dư”, rằng nhất định vô sản
sẽ chôn tư bản để xây dựng một nền kinh tế chỉ huy, một nền kinh tế kế
họach hóa toàn cầu phi cạnh tranh, một nền kinh tế xóa bỏ hoàn toàn tư
hữu…Marx, bằng định kiến cố hữu đã đóng đinh tư bản vào một chỗ “bóc lột
dã man” mà không cho nó sự vận động để tự sửa chữa tốt hơn.
Thực tế đã chứng minh Marx hoàn toàn sai lầm về học thuyết kinh tế duy
tâm chủ quan thiếu luận chứng khoa học của mình. Học thuyết kinh tế tự
do và nhân đạo của Adam Smith đã chiến thắng học thuyết chôn tư bản của
Marx. Chính Marx từng nói: “ Thực tế là thước đo chân lý”. Ngày nay bốn
nước cộng sản cuối cùng của thế giới là Trung Quốc, Việt Nam và bước đầu
với Cuba và Bắc Triều Tiên đã từ bỏ (và dần dần từ bỏ) kinh tế tập
trung, kinh tế phi cạnh tranh, kinh tế bị chính trị hóa, phi tư hữu hóa
của Marx để thực thi học thuyết kinh tế tự do và nhân đạo tư bản chủ
nghĩa của Adam Smith.
Nói tóm lại, hầu hết tư tưởng của Marx là lấy từ các học phái trước
Marx, sau khi ông đã chối bỏ mọi điều thiện của các bản chính để duy ác
hóa chủ nghĩa xã hội rất thiếu lý tính, thiếu lẽ phải của mình, rồi gọi
chúng là chủ nghĩa xã hội khoa học.
4. NHỮNG CÁI SAI CĂN BẢN (SAI GỐC) CỦA HỌC THUYẾT MARX
Trong các trước tác của Marx - Engels, khái niệm “đấu tranh giai cấp”
luôn luôn được đồng nghĩa với khái niệm “ bạo lực cách mạng” với các từ
“duy ác” như “ tiêu diệt”, “giết sạch”, “chôn”, “tước đoạt”, “ cướp”...
tức là tuyệt đối hóa hành vi giết người, hành vi tước đoạt, cướp bóc của
giai cấp này với các giai cấp khác trong công cuộc tiến lên thiên đường
cộng sản. Marx chỉ ra rằng lối lên thiên đường duy nhất của giai cấp vô
sản chính là địa ngục của giai cấp tư sản.
Marx trong tuyên ngôn của đảng cộng sản do Engels chắp bút (trích từ “
Thư Viện Marx-engels” trên Internet) đã tuyệt đối hóa CÁI ÁC, coi CÁI ÁC
là động lực duy nhất của sự phát triển lịch sử nhân loại, khi ông
viết:
“Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp.”
ĐẤU TRANH GIAI CẤP BẰNG TUYỆT ĐỐI HÓA BẠO LỰC – MỘT HỌC THUYẾT PHI NHÂN
Đây chính là sự sai lầm hệ trọng nhất trong nhận thức luận của Marx về
lịch sử, một sai lầm gốc trong các sai lầm gốc khác nơi Marx (xóa bỏ tư
hữu, giá trị thặng dư, chuyên chính vô sản, mô hình phi nhân về con
người phi biện chứng, phi lịch sử, phi logic trong xã hội bịa đặt có tên
là thiên đường cộng sản...)
Lịch sử loài người là lịch sử của các cuộc đấu tranh kép (vừa hòa bình
vừa bạo lực) giữa văn minh và dã man, giữa cái thiện và cái ác, giữa cái
chân và cái giả, giữa cái tốt và cái xấu, giữa cái vị tha và cái vị
kỷ...
Việc tuyệt đối hóa cuộc đấu tranh giai cấp bằng bạo lực - tức sự giết
người hay CÁI ÁC là động lực duy nhất của lịch sử tiến hóa nơi con người
là một lý giải sai lầm lớn nhất của Marx để biến học thuyết cộng sản
của ông thành HỌC THUYẾT DUY ÁC.
Về phát kiến tai hại này của Marx, trước hết lại bắt đầu từ lời giải thích của thầy ông là triết gia duy tâm Hegel, xin trích:
“Trong "Lutvich Foiơbăc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức",
Enghen đã nhắc lại quan điểm của Hêghen (F. Hegel) về sự đối lập giữa
thiện và ác và ông đã phân tích như sau: "Hêghen viết: "Người ta tưởng
nêu được một chân lí vĩ đại khi nói con người bẩm sinh là thiện, song
người ta quên rằng người ta còn nêu được một chân lí vĩ đại hơn nữa với
lời nói này: "Con người bẩm sinh là ác". Theo Hêghen, ác là hình thức,
trong đó biểu hiện động lực của sự phát triển lịch sử. Thật ra câu nói
đó bao hàm hai ý nghĩa: một mặt, mỗi bước tiến mới tất nhiên là một tội
ác chống lại trật tự cũ đang suy đồi, nhưng được tập quán thần thánh
hoá. Mặt khác, từ khi sự đối lập giữa các giai cấp xuất hiện thì chính
những dục vọng xấu xa của con người – lòng tham và sự thèm muốn quyền
thế – đã trở thành đòn bẩy cho sự phát triển lịch sử".” (hết trích)
Qua Engels ta mới biết chính Hegel, một con người luôn vịn vào vào
Thượng đế để đi tìm tuyệt đối trong ý niệm, trong xã hội tuyệt hảo do ý
niệm tuyệt đối dẫn đường, người hình như vẫn còn tin vào thiện căn con
người, lại xúi giục Marx dùng cái ác để giải thích lịch sử của loài
người là một lịch sử duy ác, do cái ác làm tiến hóa xã hội con người.
Đây là một ngụy lý của thầy trò Hegel- Marx, gây ra sự tai hại vô song
về sau cho những hậu duệ dùng học thuyết phi khoa học này để cải tạo thế
giới bằng biện pháp duy ác, không còn chỗ cho cái thiện cư trú trong
học thuyết Marx.
Trong triết học Trung Hoa, Mạnh tử (372 trước TL - 298 trước TL) một học
phái Nho gia nổi tiếng nhất từng nói: “ Nhân chi sơ tính bản thiện”.
Tuân tử (313 trước TL - 238 trước TL) cũng một học phái Nho gia khác
sinh sau Mạnh tử 59 năm lại nói ngược rằng: “ Nhân chi sơ tính bản ác”.
Từ đó, có nhiều người suy ra rằng Mạnh tử chủ trương thiện còn Tuân tử
chủ trương ác. Sở dĩ Tuân tử nói như trên là để cân bằng với quan niệm
duy thiện của Mạnh tử, rằng con người sinh ra đã sẵn cả tính thiện và
tính ác. Bởi, thiện ác là bản năng tự nhiên tạo hóa ban cho muôn loài.
Vấn đề DUY ÁC của học thuyết Marx đấu tranh giai cấp bằng bạo lực trong
việc giải thích lịch sử loài người là ông đã lấy học thuyết “đấu tranh
sinh tồn tàn bạo, đào thải của tự nhiên tàn nhẫn và tồn tại của giống
thích ứng với môi trường ác liệt” của Charles Robert Darwin (12 tháng 2, 1809 – 19 tháng 4, 1882) làm thành học thuyết đấu tranh giai cấp bạo lực của mình.
Darwin sinh trước Marx 9 năm và mất sau Marx một năm. Mặc dù tác phẩm trứ danh nhất của Darwin là “Nguồn gốc các loài” in lần đầu tiên năm 1859, trong khi “Tuyên ngôn của đảng cộng sản” của Marx –Engels in trước đó 11 năm, tức năm 1848, thì sao lại có chuyện Marx lấy ý tưởng của Darwin?
“Nguồn gốc các loài” là cuốn sách tổng kết những thành quả của
những khám phá, nhìn nhận, ghi chép, suy đoán, kết luận của Darwin trong
chuyến đi gần 5 năm, từ 1831 đến 1836, trên hải trình của tàu Beagle
vòng quanh thế giới; và ông đã liên tục công bố các bài báo nhỏ về các
kết quả nghiên cứu này trên báo để thăm dò phản ứng của các nhà khoa
học. Marx đã lấy các ý tưởng của Darwin từ các bài báo này về sự tiến
hóa của các loài qua phép thử của cái ác đặng tăng thêm tự tin để ông
công bố kết luận gây choáng: lịch sử loài người là lịch sử của cái ác.
Chúng ta hãy nghe Engels kể lại:
“Trên các ấn phẩm của Nguồn gốc, Marx đã tham gia vào các công việc
khác. Nhưng khi ông đã có một cơ hội để đọc nó một năm sau đó, đánh giá
của nó cũng tương tự như của Engels, người mà ông đã viết trên 19 tháng
12 năm 1860:
"Trong thời gian thử nghiệm của tôi [bệnh] trong bốn tuần tôi đã đọc
tất cả các loại vật. Trong số những người khác, cuốn sách về chọn lọc tự
nhiên của Darwin. Mặc dù nó được phát triển một cách thô tiếng Anh, đây
là cuốn sách có chứa các nền tảng tự nhiên lịch sử của quan điểm của
chúng tôi. "
Một tháng sau, vào ngày 16 Tháng 1 năm 1861, ông đã viết cho Lassalle trong điều kiện tương tự:
"Công việc của Darwin là quan trọng nhất và phù hợp với mục đích của
tôi ở chỗ nó cung cấp một cơ sở khoa học tự nhiên cho lịch sử đấu tranh
giai cấp. Một, tất nhiên, không phải đưa lên với phong cách tiếng Anh
vụng về của các đối số. Mặc dù tất cả các thiếu sót của nó, nó là ở đây,
lần đầu tiên, 'mục đích luận trong khoa học tự nhiên là không chỉ là
một đòn chết, nhưng cũng hợp lý, ý nghĩa của nó được giải thích theo
kinh nghiệm."
BLOG của Đảng xã hội chủ nghĩa thế giới (Mỹ): www.wspus.org:
Thứ Hai 16 Tháng Ba, 2009
(hết trích)
Chính Engels nói trong bài phát biểu trước mộ Marx trong đám tang của
ông này, khẳng định Marx đã tiếp thu học thuyết đấu tranh sinh tồn nơi
thực động vật làm học thuyết đấu tranh giai cấp trong xã hội loài
người: “Giống như Darwin phát hiện ra quy luật của sự tiến hóa
tự nhiên đấu tranh sinh tồn, do đó, Marx phát hiện ra quy luật của của
sự tiến hóa trong lịch sử nhân loại”
Darwin và Marx trong việc tuyệt đối hóa cái ác trong sự tiến hóa của tự
nhiên và sự tiến hóa của xã hội loài người đã có sai lầm đáng tiếc.
THIỆN & ÁC là phạm trù của thế giới tự nhiên và dĩ nhiên là của cả xã hội loài người.
Văn minh Ấn Độ (gần như đồng thời với văn minh Lưỡng Hà, trước văn minh
Ai Cập và Hi Lạp) đã theo đạo Bà La Môn với quan niệm Thượng Đế tam vị
nhất thể gồm thần sáng tạo Brahma, thấn Ác Shiva và thần Thiện Vishnu.
Như vậy, Thiện và Ác chính là hai mặt của sinh diệt có sẵn trong thế
giới tự nhiên trước khi con người xuất hiện. Trong thần thoại và trong
các tôn giáo của nhân loại từ bình minh của lịch sử đều có thần ác, thần
thiện, ông Thiện và ông Ác…Chúa và Phật, Thánh Ala của tiên tri
Mohamed, Lão tử và Khổng tử... đều dạy con người hướng thiện và đấu
tranh loại trừ cái ác.
Chỉ có học thuyết sinh vật học của Darwin và học tuyết cộng sản của Marx
không có chỗ cho cái thiện cư trú, là hai học thuyết toàn ác, duy ác,
tuyệt đối ác...
Thiện Ác gần như là một bản năng tạo hóa ban cho muôn loài từ thực vật,
động vật đến con người đều dùng chung quy luật tự nhiên này. Ngay ở
trong các loài thực vật, động vật quy luật tiêu diệt nhau (cái ác) để
tồn tại và quy luật khoan hòa, bao dung (cái thiện) để cộng sinh hòa
trộn vào nhau để cùng sinh tồn là điều không còn phải bàn cãi. Trong
rừng cây nhiệt đới năm, sáu tầng mọi loài cây đều tranh nhau vươn lên để
độc chiếm ánh sáng mặt trời; tuy nhiên bằng cách nào đấy, chúng vẫn để
những kẽ hở cho ánh sáng mặt trời lọt xuống tận các loài cỏ, loài tảo,
nấm dưới mặt đất. Đấy phải chăng chính là biểu hiện của tính thiện trong
thế giới tự nhiên?
Có rất nhiều loài cây nhỏ ví như phong lan mọc ký sinh trên các thân cây
cổ thụ và chúng biết sống thân thiện, hòa bình với nhau suốt đời, tuy
nhiên cũng có loài cây mọc ký sinh như cây si, cây đa, cây đề đã tiêu
diệt cây chúng sống nhờ (nhưng loài ký sinh duy ác này rất ít so với các
loài ký sinh duy thiện).
Loài vật, ngay cả các loài ăn thịt sống bên nhau như sư tử, cọp, gấu,
chó sói… cũng ít muốn gây chiến tranh với đồng loại và các loài khác
giống, trừ trường hợp chúng tranh mồi hay tranh chấp con cái, tranh nhau
lãnh thổ…Hầu hết các loài ăn cỏ từ voi, hưu nai, trâu, bò, dê, ngựa…
chọn lối sống hòa bình trên đồng cỏ, ít khi dùng bạo lực để tranh nhau
nguồn sống. Các loài ăn thịt cũng biết cách ứng xử bao dung với loài ăn
cỏ. Chúng chỉ bắt loài ăn cỏ để ăn đủ no chứ không bao giờ tàn sát hàng
loạt loài thú ăn cỏ như con người tàn sát đồng loại để trả thù hay để
thỏa mãn tính ác. Nhờ có loài ăn thịt sống chung mà loài ăn cỏ thoát
chết hàng loạt vì nạn nhân mãn, sinh sản quá nhiều không đủ cỏ để ăn.
Loài ăn thịt và loài ăn cỏ ngoài cách giết nhau để làm mồi mà ta gọi là
ác, chúng còn biết sống cộng sinh, bao dung nhau, che chở nhau để cùng
tồn tại.
Có loài cá nhỏ chuyên môn sống trong miệng loài cá mập (sát thủ của
biển) để sống bằng nghề xỉa răng cho loài cá dữ. Lại có những loài cá
nhỏ sống quanh, sống trên lưng loài cá lớn để làm nghề dọn vệ sinh cho
bọn ác ngư mà vẫn chung sống hòa bình với nhau từ đời này đến đời khác…
Hãy nhìn đàn cá voi săn mồi bằng cách dồn các đàn cá nhỏ lại thành một
vòng tròn đen đặc; nhưng chúng chỉ ăn đủ no và bao giờ cũng để lại một
phần đàn cá nhỏ kia để loài này tồn tại và phát triển.
Thiên nhiên đã tự cân bằng sinh thái, bảo đảm cho sự tồn tại của muôn
loài bằng quy luật thiện ác, quy luật vừa hủy diệt vừa bao dung, vừa tàn
phá vừa che chở để muôn loài cộng sinh và phát triển, tránh được sự tự
hủy diệt của nạn nhân mãn.
Rất tiếc, học thuyết tuyệt đối hóa cái ác trong các quy luật tàn bạo của
hội chứng móng và vuốt (chữ của Darwin) trong đấu tranh sinh tồn mạnh
được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé, trong sự tàn nhẫn vô lương tâm của tự
nhiên khi chọn lọc giống loài…của Darwin là một cái nhìn phiến diện,
thiếu tính khoa học.
Marx đã lấy học thuyết duy ác trong các quy luật tồn tại của thực vật và
động vật trong tự nhiên của Darwin áp dụng vào thế giới con người để
thành thuyết đấu tranh giai cấp là một sai lầm lớn nhất trong thế giới
quan duy ác của ông, tạo ra các xã hội thống trị bằng cái toàn ác, không
bao giờ quan tâm đến cái thiện là chủ nghĩa nhân văn đã làm nên nhân
loại.
Stephen William Hawking (là một nhà bác học lỗi lạc, nhà Vật lý
người Anh sinh năm 1942. Trong nhiều thập kỉ, ông được coi là ông hoàng
vật lý lý thuyết của thế giới. Hawking hiện là giáo sư Lucasian, chức
danh dành cho giáo sư toán học của Đại học Cambridge. Từng đảm nhiệm vị
trí này là những nhà khoa học xuất chúng như Isaac Newton và Paul Dirac)
trong bài: “Lược sử thời gian” viết rằng về già, Darwin đã sám
hối vì nhận ra sai lầm của học thuyết vô thần tuyệt đối hóa cái ác trong
chọn lọc tự nhiên, trong đấu tranh sinh tồn của sinh vật, như sau:
“Về già Darwin lại viết:
“Có một lý lẽ rất mạnh nữa khiến tôi tin ở Thượng đế, đó là lý lẽ lý
trí chứ không phải lý lẽ cảm tính. Người ta rất khó, thậm chí hầu như
không thể, quan niệm được rằng: cả cái vũ trụ mênh mông và kỳ diệu này,
trong đó con người với khả năng nhìn lùi lại quá khứ và hướng về tương
lai, lại có thể là kết quả của một sự ngẫu nhiên mù quáng hay một tất
yếu. Sau khi suy nghĩ miên man như vậy, tôi tự cảm thấy phải tin rằng có
một cội nguồn khởi thủy có trí thông minh tương tự như người, nghĩa là
tôi tin có thượng đế. Trong thời gian viết bộ Nguồn gốc các chủng loại,
tôi nhớ là tâm trạng của tôi là như vậy. Tuy nhiên qua nhiều diễn biến
thăng trầm về sau, niềm tin của tôi không còn được như trước. Đến đây
lại nảy sinh một mối hoài nghi: Tôi tự hỏi làm sao có thể tin được rằng
linh hồn con người, thoạt đầu không khác gì linh hồn các loài vật hạ
đẳng nhất, lại có thể suy luận tới những kết luận bao la như vậy?”
Darwin không trả lời câu hỏi và kết luận như sau:
“Tôi không có tham vọng rọi sáng những vấn đề trừu tượng đó. Chúng ta
không thể biết nổi nguồn gốc của vạn vật và tôi đành cam nhân mình là
người theo chủ trương lý trí hữu hạn”.
Từ học thuyết đấu tranh giai cấp bằng tuyệt đối hóa sự giết chóc, Marx
đã đưa giai cấp vô sản lên thành giai cấp lãnh đạo tuyệt đối bằng chuyên
chế độc tài. Đây chính là vấn nạn khổ đau vô tận cho người dân phải
sống trong địa ngục chuyên chế vô sản duy ác trong các chế độ cộng sản
đã và đang bị cả loài người văn minh lên án..
(hết trích)
XÓA BỎ TƯ HỮU – MARX XÓA BỎ CHÍNH CON NGƯỜI
Kết luận của Marx: “Lịch sử loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp”,
mà khái niệm “đấu tranh” của Marx đồng nghĩa với bạo lực, với cái ác,
với sự giết người hàng loạt không hề biết thương xót; đây là một lý giải
quá tầm bậy của ông. Lấy cái ác để giải thích sự phát triển của lịch sử
nhân loại, Marx chính là một kẻ phi nhân.
Marx thể hiện sự phi nhân khác của mình khi ông giải thích chính tư hữu
(sở hữu) là nguyên nhân gây ra sự phân chia giai cấp trong xã hội, tức
là nguyên nhân mọi đau khổ của con người. Trong tuyên ngôn của đảng cộng
sản, Marx viết:
“Theo ý nghĩa đó, những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của
mình thành một luận điểm duy nhất này là: xoá bỏ chế độ tư hữu.
Nói tóm lại, ông buộc tội chúng tôi là muốn xoá bỏ sở hữu riêng của các ông. Quả thật, đó chính là điều chúng tôi muốn.”
Khi nghiên cứu tác phẩm “Cộng Hòa” của Platon (như vừa dẫn), Marx thấy
Platon nói rằng vì con người có ý thức về tư hữu, sở hữu nên mới sinh ra
tranh giành cướp đoạt của nhau; rằng muốn xây dựng một chế độ cộng sản
lý tưởng thì phải xóa bỏ tư hữu. Ý tưởng này của Platon đã được các tiền
bối của phái chủ nghĩa xã hội không tưởng trước Marx nhắc lại và đưa
vào học thuyết giả tưởng của mình, nên Marx nhất quyết xóa bỏ tư hữu nơi
con người nếu con người đó bị buộc phải vào sống trong thế giới cộng
sản của ông.
Vả, nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng trước Marx là Charles Fourier từng
cho rằng trong xã hội mông muội của loài người (tức xã hội cộng sản
nguyên thủy theo cách gọi của Marx) con người chưa từng biết tư hữu về
tư liệu sản xuất và công cụ sản xuất, nên Marx coi đây là một bằng chứng
của chân lý.
Marx lại nghiên cứu những bài báo của Lewis H. Morgan, nhà nhân chủng
học người Mỹ sinh cùng năm với Marx (1818) và chết trước ông hai năm,
từng viết rằng, trong xã hội cộng sản nguyên thủy con người chưa biết tư
hữu. Từ đây, Marx tưởng mình đã đầy đủ dẫn chứng nhân chủng học khi ông
lấy ý này của Morgan làm căn cứ khoa học của mình. Chúng ta hãy theo
dấu Engels để biết Marx bị ảnh hưởng từ Morgan:
“Dựa trên các kết quả và phát hiện của Lewis H. Morgan (Lewis Henry
Morgan (21 tháng 11 1818 - ngày 17 tháng 12 năm 1881) là một nhà nhân
chủng học người Mỹ tiên phong và lý thuyết xã hội đã làm việc như một
luật sư đường sắt), Friedrich Engels đã phân tích lịch sử nhân loại
trong những giai đoạn sớm nhất của nó, luận chứng quá trình tan rã của
chế độ công xã nguyên thủy và quá trình hình thành của xã hội có giai
cấp, dựa trên chế độ tư hữu. Ông cũng vạch rõ những đặc trưng của xã hội
đó, giải thích sự phát triển của các quan hệ gia đình trong các hình
thái kinh tế - xã hội khác nhau, chỉ ra nguồn gốc và bản chất của Nhà
nước, chứng minh sự tất yếu diệt vong của Nhà nước và xã hội có giai cấp
nói chung.
Engels bắt đầu viết cuốn này từ cuối tháng Ba năm 1884, và tới hết
tháng Năm năm đó thì hoàn tất. Khi đọc các bản thảo viết tay của Marx,
Engels đã tìm thấy một bản tóm tắt cuốn "Xã hội Cổ đại" của L.H. Morgan,
nhà khoa học tiến bộ người Mỹ, được Marx ghi trong các năm 1880-1881,
có nhiều nhận xét phê phán và luận điểm của chính Marx.
Sau khi đọc bản tóm tắt, Engels nhận thấy cuốn sách của Morgan đã xác
minh quan điểm duy vật lịch sử và các quan điểm về xã hội nguyên thủy
của Marx và mình đề xuất, và thấy cần viết một tác phẩm riêng, sử dụng
các tài liệu và kết luận của Morgan và Marx.”
(hết trích)
Thưa rằng, kết luận của Morgan và Marx khi hai ông cho rằng con người
mông muội ăn chung ở chung ngủ chung làm chung (cộng sản nguyên thủy)
không biết tư hữu là một kết luận sai lầm đến mức ấu trĩ.
Tư hữu, sở hữu là bản năng tạo hóa dành cho muôn loài từ cây cỏ, muông
thú đến con người. Từ con kiến, con ong, đến con chim, con chuột, con
cọp, con sư tử …đều biết sở hữu tổ của mình. Chúng có thể chiến đấu đến
chết để bảo vệ tổ, bảo vệ con cái của mình, bảo vệ các con của mình.
Ngay cả loài cây, tức là các loài thực vật… đều biết sở hữu vùng ánh
sáng, tranh nhau vùng ánh sáng và dùng rễ để tranh nhau các chất màu
trong đất.
Bản năng tư hữu, sở hữu đã có trong cả thế giới khoáng vật, động thực
vật, sao đến loài động vật cao cấp là con người dù con người trong thời
mông muội (cộng sản nguyên thủy) lại quên đi một bản năng tồn tại là bản
năng sở hữu, tư hữu như hai ông mạo danh khoa học kết luận là ông
Morgan và Marx là sao?
Hai đứa bé sinh đôi trong bụng mẹ chưa chào đời còn có bản năng sở hữu,
tư hữu khi chúng đá nhau tranh giành không gian chật chội, xin trích:
“Nếu như bạn không tin thì hãy đến với đoạn video thú vị dưới đây
được các nhà nghiên cứu Anh quay lại được. Đáng chú ý của cặp song sinh
này chiến đấu với nhau để có chỗ duỗi chân thoải mái trong bụng mẹ vốn
đang chật chội.
"Cuộc chiến" của cặp sinh đôi này xem ra bất phân thắng bại.
Cảnh quay trong video cho thấy đôi chân của bào thai nhỏ hơn đang
duỗi chân ra về phía bào thai to, như thể nó đang rất cố gắng để đẩy
chân hoặc đá chân vào người anh chị em mình, mặc dù sự thật, diễn giải
này không phải là chắc chắn đang xảy ra giữa các bào thai.
"Nếu bạn đang mang thai sinh đôi thì chúng không thể đứng yên một vị
trí nhất định", tiến sĩ Marjorie Greenfield, giám đốc bộ phận sản khoa
nói chung và phụ khoa nói riêng tại Đại học Trung tâm y tế ở Cleveland
(Luân Đôn, Anh) cho biết.
Greenfield, mẹ của cặp song sinh ban đầu còn tỏ ra do dự, không tin
vào mắt mình khi tận mắt chứng kiến video cảnh hai đứa con của mình đá
nhau. Greenfield nói rằng: "Hai đứa trẻ đã đá vào bụng tôi, chúng đang
đấu đá nhau. Trải nghiệm thú vị này, chỉ bây giờ tôi mới có được".
Hình ảnh được chụp lại từ video. (Theo ABC news)
Nếu con ong, con chim, con thú... không có bản năng tư hữu, sở hữu, khi
đi kiếm ăn ở những vùng xa tổ của nó, xa hang của nó có khi cả trăm cây
số, chắc là nó không thèm quay về, hoặc không còn thiết tha với cái tổ,
với lũ con không thuộc sở hữu của nó, thì muôn loài chắc đã bị hủy diệt
từ lâu?
Con người (cũng như cây cỏ muông thú), được tạo hóa ban cho bản năng gốc
là bản năng tư hữu (sở hữu). Cái sở hữu đầu tiên của con người là tôi
chính là của tôi, thân xác tôi, tay tôi, mắt tôi, tư tưởng của tôi là sở
hữu của chính tôi; rồi vợ của tôi, con của tôi, nhà của tôi, đất nước
của tôi...Đến ngôn ngữ cũng có động từ, danh từ sở hữu huống nữa là con
người. Nếu theo Marx, thử bỏ các từ “của” đi thì cuốn “ Tư bản luận” sẽ
thành vô nghĩa. Con người bị Marx xóa đi cái sở hữu, tức là xóa cái tôi,
tức xóa chính nó, xóa cá nhân, tức xóa chính con người.
Đưa con người trở về thời đại hão huyền bịa đặt là cộng sản nguyên thủy
để xóa tư hữu, tức là Marx xóa chính con người. Do đó học thuyết Marx là
một học thuyết phi nhân.
CHỦ NGHĨA MARX XÓA BỎ TÔN GIÁO, XÓA BỎ ĐẠO ĐỨC, XÓA BỎ LỊCH SỬ THÀNH VĂN
NHÂN LOẠI, XÓA BỎ GIA ĐÌNH, XÓA BỎ TỔ QUỐC, XÓA BỎ NHÀ NƯỚC, XÓA BỎ
ĐIỀU THIỆN, XÓA BỎ NHÂN TÍNH, XÓA BỎ PHÉP BIỆN CHỨNG…TỨC MARX MUỐN XÓA
BỎ LOÀI NGƯỜI
Từ học thuyết “tha hóa” và học thuyết “phủ định của phủ định” của Hegel,
Marx tiến tới xã hội cộng sản tước bỏ tư pháp, tước bỏ đạo đức, tước bỏ
gia đình, tước bỏ xã hội công dân, tước bỏ nhà nước, tước bỏ lịch sử
thế giới:
“C.Mác cũng đã vạch ra quan niệm của Hêghen về tha hoá trong xã hội:
“Chẳng hạn như trong triết học pháp quyền của Hêghen, - C.Mác viết -, tư
pháp đã bị tước bỏ là đạo đức, đạo đức đã bị tước bỏ là gia đình, gia
đình đã bị tước bỏ là xã hội công dân, xã hội công dân đã bị tước bỏ là
nhà nước, nhà nước đã bị tước bỏ là lịch sử thế giới. Trong hiện thực
thực tế, tư pháp, đạo đức, gia đình, xã hội công dân, nhà nước, v.v.
tiếp tục tồn tại như trước, chúng chỉ trở thành những nhân tố, những
hình thức sinh tồn và hình thức tồn tại hiện có của con người, những
hình thức và nhân tố này nếu cô lập với nhau thì không có sức mạnh,
chúng xoá bỏ lẫn nhau, sản sinh lẫn nhau v.v. những nhân tố của vận
động””.
(hết trích)
Trong “Tuyên ngôn của đảng cộng sản”, Marx từng tuyên bố những người cộng sản (đảng của giai cấp công nhân) không có tổ quốc:
“Công nhân không có tổ quốc. Người ta không thể cướp của họ cái mà họ
không có. Vì giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính
quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc[9], phải tự mình giành dân tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu.”
Cho nên cờ của các đảng cộng sản trên thế giới đều là cờ búa liềm, cờ
của Liên Xô. Từ khi Liên Xô sụp đổ (1991), những người cộng sản trên
khắp thế giới đều mồ côi tổ quốc.
Cũng trong “Tuyên ngôn của đảng cộng sản” Marx tuyên bố thẳng thừng
những người cộng sản triệt để xóa bỏ các thành tựu nhân văn của quá
khứ:
“Cách mạng cộng sản chủ nghĩa là sự đoạn tuyệt triệt để nhất với
những quan hệ sở hữu kế thừa của quá khứ; không có gì đáng ngạc nhiên
khi thấy rằng trong tiến trình phát triển của nó, nó đoạn tuyệt một cách
triệt để nhất với những tư tưởng kế thừa của quá khứ.”
Khi người cộng sản tuyên bố đoạn tuyệt với các tư tưởng kế thừa của quá
khứ, tức họ đoạn tuyệt với các tư tưởng nhân văn quá khứ đã làm nên nhân
loại; họ xóa bỏ và đoạn tuyệt với các nền văn minh tiền Marx như văn
minh Lưỡng Hà, văn minh Ai Cập, văn minh Hi-La, những giá trị nhân bản
vô cùng của thời Phục Hưng, thời Ánh Sáng…Và các tư tưởng nhân văn của
Cách mạng Pháp với khẩu hiệu Tự do-Bình đẳng-Bác ái cũng bị Marx đoạn
tuyệt và xóa bỏ. Như thế này, chính Marx đã xóa sổ học thuyết của ông
toàn bắt nguồn từ các dòng tư tưởng xưa cũ. Chính Marx đã khai tử duy
vật lịch sử và duy vật biện chứng của ông vậy.
Marx và những người cộng sản tuyên bố thẳng thừng họ chỉ có một biện
pháp duy ác dùng bạo lực để lật đổ thế giới cũ. Con đường họ tiến lên
xây dựng thiên đường cộng sản là con đường đẫm máu các giai cấp hữu
sản:
“Những người cộng sản coi là điều đáng khinh bỉ nếu giấu giếm những
quan điểm và ý định của mình. Họ công khai tuyên bố rằng mục đích của họ
chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo lực lật đổ toàn bộ trật tự xã
hội hiện hành. Mặc cho các giai cấp thống trị run sợ trước một cuộc Cách
mạng cộng sản chủ nghĩa! Trong cuộc cách mạng ấy, những người vô sản
chẳng mất gì hết, ngoài những xiềng xích trói buộc họ. Họ sẽ giành được
cả thế giới.
Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!
Marx từng viết về việc xóa bỏ tôn giáo với hai lời tuyên bố rùng rợn như sau:
“Điều kiện tất yếu đầu tiên cho hạnh phúc của nhân dân là sự bãi bỏ tôn giáo.
The first requisite for the happiness of the people is the abolition of religion.”
“Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân.
Religion is the opium of the masses.”
Tôn giáo là bước phát triển văn hóa lớn nhất của con người từ mông muội
đến văn minh. Cứ giả sử như không có Thượng Đế đi chăng nữa, thì sự sáng
tạo ra Thượng Đế là sự sáng tạo lớn nhất của con người nhằm thiêng
liêng hóa hình ảnh của mình, giúp con người khác xa con vật. Nhờ có tôn
giáo, nhờ có Thượng Đế làm chỗ dựa tinh thần, làm cứu cánh giúp con
người thoát khỏi mọi nỗi sợ hãi, thoát khỏi cô đơn, giải tỏa được nỗi sợ
chết có thể làm con người điên loạn mà tự hủy diệt mình. Tôn giáo chính
là con đường nhân loại cởi bỏ lốt thú vật để khoác lên mình bộ cánh
thiên giới bay đến chân trời văn minh hôm nay. Xóa bỏ tôn giáo, khác gì
Marx đã xóa bỏ chính con người.
Ta mới hiểu vì sao các xã hội cộng sản hậu bối của Marx thực thi mệnh
lệnh tiêu diệt tôn giáo khủng khiếp nhường vậy. Xin bạn đọc vào công cụ
tìm kiếm http://google.com rồi đánh tên
tác giả và tác phẩm: “ Tân tử Lăng Mao Trạch Đông ngàn năm công tội” do
Thông tấn xã Việt Nam dịch và in năm 2009, sẽ thấy Mao Trạch Đông và
cộng sản Trung Hoa phá nát đình chùa miếu mạo nhà thờ trên đất Trung Hoa
khủng khiếp ra sao.
Ở Việt Nam, chính người viết bài này đã mục kích cảnh đảng ra lệnh cho
dân quân phá hủy nhà thờ, chùa chiền hồi cải cách ruộng đất tàn bạo vô
cùng. Hãy đọc một đoạn nhà văn Đỗ Chu kể lại chiến dịch đảng cộng sản
Việt Nam ra lệnh đốt phá các chùa chiền trên núi Yên Tử ra sao:
“Hỏi các vị bô lão trong vùng mới biết có chỗ là do Tây đốt, có chỗ
là do ta đốt, ta đốt phá mới nhiều mới dữ. Một cụ chống gậy lọm khọm
bước đến trước tôi kể, chính tôi hồi ấy đã được cấp trên gọi đi đốt phá
cả chục ngôi chùa, tượng lớn tượng nhỏ cho trôi sông tuốt. Rồi ông cụ
tặc lưỡi cười rất thành thực, thì cái thời nó thế, tôi lúc đó trẻ đang
hăng lắm, được phong làm trưởng ban phá hoại huyện.”
(trích bài “ NĂM THÁNG GỌI VỀ” –ĐỖ CHU báo Văn Nghệ số Tết 2013)
Xin hãy nghe nhà văn Võ Văn Trực kể như sau:
“Ở làng tôi, đền chùa miếu mạo, nhà thờ họ, mộ cổ, rừng cổ, cây cổ thụ đã bị phá trụi, không còn gì để phục hồi nữa”
(Chuyện Làng Ngày Ấy của Võ Văn Trực do NXB Lao Động ấn hành tháng 6 năm 1993)
Marx viết: “Chế độ cộng sản bãi bỏ những chân lý muôn thưở, nó bãi bỏ
tôn giáo và đạo đức thay vì cải cách nó; và nó đi ngược lại tất cả
những phát triển lịch sử trước nó” (Marx et Engels – Manifeste du Parti communiste – trang 51. www.librio.net)
Có phải vì những lời giáo huấn duy ác này của Marx mà ta thấy trong các
chế độ cộng sản cái ác lên ngôi, cái đểu lên ngôi, cái xấu lên ngôi, cái
giả lên ngôi, cái dối trá lưu manh lên ngôi hay không?
Marx chính trị hóa triết học, cách mạng hóa lý thuyết ảo tưởng của mình
bằng hai câu nói mà nhiều người khen là tuyệt vời hơn các triết gia
khác: “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách
khác nhau, vấn đề là cải tạo thế giới “…“Giống như triết học thấy giai
cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết
học là vũ khí tinh thần của mình”
Chính khái niệm “ cải tạo thế giới” bằng triết học này của Marx đã góp
phần làm hỏng cả triết học lẫn con người. Biến triết học còn nhiều điều
chưa hợp lý, chưa khoa học, thậm chí chỉ là những giả định,những ý niệm
chủ quan duy tâm của mình thành vũ khí giết người của Marx thì lý thuyết
này khác gì tòa án giáo hội thời trung cổ dùng giàn hỏa thiêu để thực
thi đức tin tôn giáo độc quyền của nhà thờ. Thực ra, bản chất triết học
nói cho cùng chính sự hoài nghi của con người về tồn tại. Không thể có
một học phái triết học nào trở thành chân lý tuyệt đối. Lấy thuyết cộng
sản của mình làm chân lý tuyệt đối để tiêu diệt các học phái triết học
khác, chính Marx mới là ngụy triết học, phản triết học.
Theo Engels định nghĩa triết học: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”.
Lấy tư duy về tồn tại để cải tạo thế giới là một sự lầm lạc đáng tiếc
gây ra cái chết đau thương cho hàng trăm triệu con người là nạn nhân của
chủ nghĩa cộng sản do Marx vẽ vời ra để các nhà cách mạng đồ tể thực
thi.
Rất tiếc, 05 tháng trước khi qua đời, Engels đã nhận ra sai lầm của mình và Marx khi ông viết “Tuyên ngôn của đảng cộng sản”,
rằng học thuyết dùng cái ác, dùng bạo động để giành chính quyền của
giai cấp vô sản đã bị thời đại bỏ qua, đã bị chủ nghĩa tư bản nhân đạo
bỏ qua:
“Ngày 6-3-1895, trong lời nói đầu của cuốn: “Đấu tranh giai cấp ở
Pháp”, Engels viết: “Lịch sử chứng tỏ chúng ta từng mắc sai lầm. Quan
điểm của chúng ta hồi đó chỉ là ảo tưởng. Lịch sử còn làm được nhiều
hơn. Phương pháp đấu tranh năm 1848 nay đã lỗi thời về mọi mắt...” (Engels qua đời 5-8-1895)
Engels còn kể lại có vẻ khôi hài rằng: “Marx nói với Lafargue: «Tôi, Karl Marx, không phải là người Marxiste » – Thư Engels gửi Berstein - 3/11/1882”
Sự sám hối của Engels hình như đã muộn, học thuyết duy ác của các ông đã
bị Lenine bắt cóc đưa về Nga để làm cuộc tàn sát vĩ đại con người có
tên là cộng sản.
Tại quê hương Marx sinh ra, vùng Trèves, người ta có dựng lên một bức
tượng của Marx, nhưng người ta có đề hàng chữ ở dưới chân tượng: "Đây là nơi sinh ra Marx, nhưng ở đây không chấp nhận tư tưởng của ông ta..."
Những nhà xã hội chủ nghĩa dân chủ nhân đạo như Karl Kautsky, Wilhelm
Liebknecht, August Bebel, Ferdinand Lassalle... đồng thời với Marx hay
sau Marx đã chia tay học thuyết xã hội chủ nghĩa bạo lực của Marx để xây
dựng một xã hội chủ nghĩa dân chủ, bác bỏ thuyết đấu tranh giai cấp,
bác bỏ chuyên chính vô sản, bác bỏ xóa tư hữu, bác bỏ kinh tế tập trung
của Marx, chủ trương đa nguyên kinh tế và đa nguyên chính trị để giúp
giai cấp vô sản đấu tranh bằng nghị trường ôn hòa. Những nhà xã hội chủ
nghĩa dân chủ nhân đạo trên từng bị Marx, Engels, Lenine nguyền rủa nặng
nề nhưng hướng đi của họ là đúng, đã dẫn dắt châu Âu và chủ nghĩa tư
bản đến thành công mỹ mãn như hôm nay, chiến thắng hoàn toàn học thuyết
dùng cái ác để cải tạo thế giới của Marx.
Ngày 25 tháng 1 năm 2006, tại thành phố Strasburg (Pháp), Hội đồng Châu
Âu (tiếng Anh: Parliamentary Assembly of the Council of Europe; tiếng
Pháp: Assemblée parlementaire du Conseil de l'Europe), một cơ quan dân
cử của 46 quốc gia châu Âu đã có cuộc họp thường niên (bốn lần trong một
năm) bỏ phiếu và thông qua (99 phiếu thuận, 42 phiếu chống) Nghị quyết
1481 (2006) [2] với các điều khoản lên án chủ nghĩa cộng sản và đồng nhất chủ nghĩa này với tội ác chống lại loài người.
Để kết thúc bài viết, chúng tôi xin trích lời của hai nhà văn quân đội,
hai vị cựu đại tá là nhà văn Tân Tử Lăng bên Trung Quốc (hiện đang sống
tại Trung Quốc và không bị bắt bớ vì dám nói thật) và nhà văn cựu đại tá
Nguyễn Khải (đã mất) của Việt Nam, từng viết như sau:
Đây là lời của nhà văn đại tá Tân Tử Lăng Trung Quốc:
“Thiên đường cộng sản chủ nghĩa do chính Mao thiết kế và lãnh đạo xây dựng đã biến thành địa ngục trần gian.”
(Mao Trạch Đông ngàn năm công tội- Tân Tử Lăng – Thông tấn xã Việt Nam dịch và in 2009)
“Phải tiến hành một cuộc chuyển đổi ý thức hệ sâu sắc, tuyên bố công
khai và rõ ràng trước toàn đảng, toàn dân: từ bỏ những giáo điều “tả”
khuynh từ Mác, Ăng-ghen, Lenin, Stalin đến Mao Trạch Đông - những lý
luận đã mấy chục năm đưa Trung Quốc vào con đường sai lầm, đem lại cho
Trung Quốc nghèo nàn, rối loạn và chuyên chế, đến nay vẫn cản trở và phủ
định công cuộc cải cách-mở cửa.” (Tân Tử Lăng- sách đã dẫn)
Và đây là lời trăn trối lại trước khi chết của nhà văn Việt Nam đại tá Nguyễn Khải:
“Những gì mà chủ nghĩa cộng sản hứa sẽ thành hiện thực trong tương
lai thì cái hiện thực ấy sẽ giết chết cả loài người….Quả thật dân tộc
Việt Nam đã thắng lớn trong phong trào chiến tranh giải phóng nhưng lại
thua đậm trong công cuộc xây dựng một xã hội tự do và dân chủ. Thoát ách
nô lệ của thực dân lại tự nguyện tròng vào cổ cái ách của một học
thuyết đã mất hết sức sống.”
(trích bài: “ĐI TÌM CÁI TÔI ĐÃ MẤT” của nhà văn Nguyễn Khải – giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật).
Viết nhân dịp kỷ niệm 195 năm ngày sinh của Karl Marx (5.5.1818 –
5.5.2013) và kỷ niệm 130 năm ngày mất của ông (14.3.1883- 14.3.2013)
Sài Gòn ngày 10-04-2013
No comments:
Post a Comment