Tuesday, July 23, 2013
DAVID BROWN * VIỆT NAM
Việt Nam trên đe dưới búa
Tác giả/ hiệu đính: David Brown
Người dịch: Huỳnh Phan
Có phải vì thất vọng với Trung Quốc mà Chủ tịch nước Trương Tấn Sang vội vã sang Washington?Thường phải mất nhiều tháng để tổ chức các chuyến viếng thăm cho lãnh đạo quốc gia, nhưng chuyến đi Washington của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang sắp tới chỉ được thông báo trước một thời gian rất ngắn và ngay sau cuộc gặp gỡ với các nhà lãnh đạo Trung Quốc, rõ ràng là gây sốc. Có thể là các lãnh đạo Việt Nam đã quyết định chấp nhận cái giá mà Mỹ đòi hỏi phải trả cho quan hệ “đối tác chiến lược” chăng?
Đầu tháng 6, hai quan chức Bộ Ngoại giao Mỹ nói với một tiểu ban Quốc hội rằng các quan hệ chặt chẽ hơn với Việt Nam, đặc biệt là việc mua bán vũ khí, sẽ bị đình lại cho đến khi có “sự cải thiện tiếp tục, thấy được rõ ràng và vững chắc về tình trạng quyền con người”. Họ đã công khai ghi lại những điều mà các nhà ngoại giao Mỹ đã đặt ra trong các cuộc tiếp xúc riêng trong vài năm qua. Lời xác nhận của họ trước tiểu ban Quốc Hội, ngoại trừ một số bài đăng lên BBC, RFA v.v… hầu như không được các báo chú ý.
Điều trùng hợp là công an Việt Nam bắt giữ thêm một blogger nữa là ông Phạm Viết Đào, vào ngày 13 tháng 6, truy tố ông “lợi dụng quyền tự do ngôn luận xâm phạm lợi ích của Nhà nước”. Theo hãng tin AP, 43 nhà bất đồng chính kiến đã bị bắt giam trong năm nay, gấp đôi số lượng năm 2012. Hơn nữa, có bằng chứng cho thấy cục công an mạng Việt Nam (C15) đã triển khai công nghệ giám sát FinFisher – sản phẩm của Gamma International (Anh) – để cấy phần mềm gián điệp vào máy tính và điện thoại thông minh của những người truy cập vào các blog bất đồng chính kiến.
Hà Nội đã không hoan nghênh những thúc đẩy chuyển đổi của Mỹ về vấn đề quyền con người ở VN. Các đảng viên bảo thủ ngậm miệng trước những đòi hỏi để Việt Nam được tự do dân chủ hơn, sợ rằng mục tiêu thực sự của Washington là lật đổ chế độ.
Việc đàn áp các blogger mới đây của chế độ dường như thể hiện xu hướng ngã về phía Trung Quốc, con ngáo ộp bị các nhà bất đồng chính kiến ghét cay ghét đắng. Trong nhiều năm qua, các blogger bất đồng chính kiến đã phê phán thậm tệ chế độ vì theo họ, đã không bảo vệ được quyền lợi của Việt Nam trước gã láng giềng khổng lồ phương Bắc. Bằng chứng là việc Trung Quốc từng bước củng cố tuyên bố “chủ quyền không thể tranh cãi” đối với gần hết Biển Đông, kể cả vùng biển ngoài khơi ngay sát bờ biển của Việt Nam.
Lực lượng hải quân và không quân của Việt Nam, mặc dù không phải không đáng kể nhưng không sánh được với lực lượng của TQ. Thay vì đánh liều với nguy cơ xảy ra xung đột trong việc tranh giành các đảo đá và rạn san hô – và các mỏ dầu khí tiềm năng – các nhà lãnh đạo Việt Nam đã tìm cách kìm hãm bớt đà xâm lược của Trung Quốc bằng cách huy động sự ủng hộ của các đối tác ASEAN và thiết lập “quan hệ chiến lược” với các cường quốc ngoài khu vực, nhất là Hoa Kỳ. Kết quả của những nỗ lực ngoại giao này còn khiêm tốn. Mười thành viên của ASEAN có bàn thảo về “vị trí trọng tâm” trong các vấn đề khu vực, nhưng không lập ra được một mặt trận chung để đối phó với yêu sách lãnh thổ rộng quá đáng của Trung Quốc. Trong khi đó, cảnh giác sợ bị lôi kéo vào việc bảo vệ các đảo của Việt Nam hoặc Philippines, Hoa Kỳ đã nhắc đi nhắc lại là “không đứng về phía nào” trong các tranh chấp lãnh thổ. Cũng do lo ngại rằng siêu cường đang trỗi dậy sẽ trả đũa trong các lãnh vực khác, Washington và hầu hết những nước ASEAN đã tránh né thách thức trực tiếp tham vọng bá quyền của Bắc Kinh đối với vùng biển nằm giữa Hong Kong và Singapore.
Yêu sách chủ quyền của Bắc Kinh dựa trên các ghi chép trong sử sách về các chuyến đi lại trên biển của ngư dân nhiều thế kỷ trước. Ngược lại, Philippines, Malaysia, Brunei và Việt Nam dựa vào Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển và luật lệ quốc tế khác. Các chuyên gia chính sách ở Washington đồng ý rằng các yêu sách rối rắm đó phải được tháo gỡ bằng cách quy về những quy tắc pháp lý. Nhưng lập trường này bị suy yếu vì Mỹ đã lần lữa không chịu phê chuẩn UNCLOS và bốn nước ASEAN tuyến đầu vẫn chưa dàn xếp được các yêu sách mâu thuẫn giữa họ với nhau. Lập trường đó khiến khó thấy đâu là lối mà Washington sẽ theo nếu Bắc Kinh tiếp tục kiểu gặm nhắm từng chút một, tạo thành việc đã rồi.
Khi căng thẳng gia tăng, một số người ngoài Đảng và một nhóm đáng kể trong Đảng Cộng sản đã thúc giục liên minh kinh tế và quân sự trên thực tế với Hoa Kỳ. Cũng đã có những tiến bộ trong quy trình Việt Nam gia nhập vào tổ chức Quan hệ đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) do Mỹ đứng đầu. Mặc dù nhiều lãnh đạo đảng vẫn còn hoài nghi về ý định của Mỹ nhưng các cuộc tham vấn với quân đội Mỹ đã gia tăng rõ rệt trong bốn năm qua. Chẳng hạn, trong tháng 6, một phái đoàn cao cấp của Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam đã đi tham quan nhiều căn cứ ở Mỹ.
Mùa xuân này, một lần nữa các lực lượng trên biển của Bắc Kinh lại diễu võ dương oai. Trái với thường lệ, Hà Nội hầu như không phản ứng. Hồi tháng 5, Hà Nội đã đưa ra phản đối chiếu lệ về việc Trung Quốc đối xử thô bạo với ngư dân Việt Nam, và bác bỏ một báo cáo của PetroVietnam rằng tàu Trung Quốc đã quấy rối một tàu khảo sát. Tới ngày 14 tháng 6, mọi chuyện mới rõ ràng, khi Hà Nội công bố rằng Chủ tịch Trương Tấn Sang sẽ có chuyến viếng thăm Trung Quốc cấp nhà nước.
Chuyến đi ngày 19-21 tháng 6 của ông Sang, là chuyến đi đầu tiên của một nhà lãnh đạo chóp bu Việt Nam sau khi ông Tập Cận Bình được đưa lên làm chủ tịch hồi tháng 3, rầm rộ với các nghi thức và ý nghĩa tích tụ hơn ngàn năm về các phái đoàn như thế. Người Việt Nam rất tự hào về truyền thống kháng chiến chống quân xâm lược Trung Quốc. Ngoài ra trong suốt chiều dài lịch sử, họ đã thường cảm hóa Trung Quốc tôn trọng quyền tự chủ của Việt Nam qua việc tỏ vẻ phục tùng. Tháng trước, Hà Nội đã cúi đầu quy luỵ.
Việc điều phối chuyến đi của ông Sang cho thấy rằng mặc dù có những va chạm nhưng các nhà lãnh đạo Việt Nam vẫn hy vọng rằng lãnh đạo Trung Quốc sẽ không phản lại một Đảng cầm quyền giống như Đảng của chính họ. Theo thông lệ, “mối quan hệ chiến lược toàn diện” của hai nước được nhấn mạnh. Một loạt thỏa thuận bình thường được đóng dấu.
Ngoài lời động viên nghe đầy tai, ông Sang dường như đã không mang về được gì nhiều từ chuyến đi Bắc Kinh. Tập Cận Bình hứa rằng Trung Quốc sẽ tích cực thực hiện “các biện pháp mạnh mẽ và hiệu quả” nhằm thu hẹp mức mất cân đối $16 tỉ trong cán cân thương mại song phương. Lời hứa như vậy đã từng được đưa ra trước đây mà chưa có hiệu quả lớn nào. Về vấn đề Biển Đông, ông Sang cũng chẳng cho thấy gì ngoài thỏa thuận về một đường dây nóng để trao đổi các sự cố liên quan đến ngư dân. Trung Quốc không chấp nhận đề cập đến UNCLOS, mà cả hai quốc gia này đều tham gia ký kết và các quy định khác của luật pháp quốc tế như là nền tảng của việc giải quyết tranh chấp lãnh thổ. Như vậy, Bắc Kinh đã bước ra khỏi các bảo đảm mà họ đã dành cho Việt Nam 20 tháng trước, khi Hà Nội đồng ý đàm phán song phương về chủ quyền khu vực quần đảo Hoàng Sa, những đảo mà Trung Quốc giành lấy từ miền Nam Việt Nam vào năm 1974. Những cuộc đàm phán đó đã không đạt được tiến bộ có thể thấy được. Thừa nhận tới mức đó, Ông Bình và ông Sang đồng ý sẽ tăng cường các cuộc đàm phán này.
Quyết định của Bộ Chính trị cử ông Sang đi Washington cho cảm giác rằng các nhà lãnh đạo Việt Nam đã cảm thấy lung lay bởi những điều các đồng chí Trung Quốc nói riêng với ông Sang và do vậy họ sẵn sàng để đi tới thoả thuận với Mỹ về một quan hệ quốc phòng thân thiết hơn. Hai ngày trước khi chuyến đi của ông Sang được công bố, Hà Nội đã hoãn lại phiên tòa dự định xử Lê Quốc Quân, một nhà bất đồng chính kiến được nhiều người ở Mỹ biết đến. Có thể các nhà lãnh đạo Việt Nam hy vọng rằng Tổng thống Barack Obama sẽ hài lòng với những cử chỉ hời hợt bề ngoài như vậy. Nếu quả đúng thế, có nhiều khả năng là họ đã nhầm.
Như chính phủ Hoa Kỳ thừa nhận trước Quốc hội hồi tháng trước, “dân chúng Hoa Kỳ sẽ không ủng hộ một sự nâng cấp nổi bật trong các quan hệ song phương nếu không có những tiến bộ thấy được về quyền con người”. Thật ra, để bảo vệ lợi ích của mình ở biển Đông, Hoa Kỳ không cần phải có quan hệ quân sự sâu xa hơn với Việt Nam. Hoa Kỳ có đủ sức để theo đuổi một quan điểm dài hạn và làm kinh ngạc những kẻ hoài nghi bằng cách kiên định về vấn đề quyền con người. Với hai cựu chiến binh chiến tranh Việt Nam, John Kerry và Chuck Hagel, hiện đang trông coi chính sách ngoại giao và quốc phòng thì có thể các chính sách này sẽ đúng y như những gì Mỹ sẽ làm.
David Brown là nhà báo tự do và là nhà ngoại giao Hoa Kỳ nghỉ hưu, đã từng làm việc nhiều năm tại Việt Nam.
Nguồn bản tiếng Anh:
Ghi chú: Một vài chỗ trong bài đã được tác giả làm rõ nghĩa, không hoàn toàn chính xác như bản gốc, nhưng ý nghĩa không thay đổi.
*****
Nguồn bản dịch tiếng Việt:
DIỆU QUYÊN * NHÀ TÙ THỰC DÂN VÀ CỘNG SẢN
So sánh cảnh tuyệt thực trong nhà tù cộng sản và nhà tù thực dân
Diệu Quyên (Danlambao) - Hai
cái chữ thực dân nhằm nói lên tính tàn bạo của chế độ cai trị của ngoại
bang đế quốc, những kẻ đi đô hộ một quốc gia, một dân tộc khác và xem
họ như nô lệ, là cái ý nói lên sự tàn ác tận cùng, Hẳn như thế, thì nhà
tù thực dân phải là cái gì đó tương đương như địa ngục trần gian. Ấy thế
mà hỡi ơi! Ngày nay so sánh cảnh tuyệt thực của tù nhân bất đồng chính
kiến trong nhà tù cộng sản thì cảnh tuyệt thực của tù nhân chính trị
ngày xưa trong nhà tù thực dân vẫn còn sung sướng gấp ngàn lần.
Tố Hữu, một nhà thơ được gọi là lớn của cộng sản Việt Nam, đã từng viết bài “Con cá chột nưa” (1) tả cảnh tuyệt thực trong nhà tù thực dân thế này
“Năm sáu ngày mệt xỉu
Thuốc làm khuây mấy điếu
Vài ba hớp nước trong
Suy nghĩ chuyện bao đồng
Vẫn không ngoài chuyện đói
...”
Ôi chao, ở nhà tù thực dân được tha hồ hút thuốc lá, lại còn có nước
sạch nước trong mà uống, lại còn được tự do thong thả về tinh thần mà
nằm đó suy nghĩ chuyện bao đồng!
Thời nay thì ở trong tù cộng sản làm gì có chuyện cho tù nhân phì phèo
thuốc lá sướng thế. Còn nước trong à? Dân sống bên ngoài tù còn không có
nước sạch nước trong để uống nói gì đến tù nhân. Có mà mơ!
Theo lời mục sư Nguyễn Trung Tôn kể lại kinh nghiệm tuyệt thực trong nhà tù Nghệ An (2)
thì một khi tù nhân chính trị tuyên bố tuyệt thực là lập tức bị sẽ biệt
giam và bị hành hạ, bị khủng bố tinh thần liên tục từng giờ từng phút.
Chúng cho tù hình sự vào ở chung để gây áp lực. Chúng trù dập những
người tù hình sự này để tạo lòng căm ghét để họ trút giận lên người tù
chính trị, sau đó tri hô lên là bị bạn tù đánh vì lý do cá nhân chứ
không phải do cán bộ trại ngược đãi. Thật là thủ đoạn xảo quyệt khốn nạn
vô cùng!
Trong khi ở nhà tù thực dân thì như thế này
“Đầu sàn canh bốc khói
Chén cá nức mùi thơm
Lên họa với mùi cơm
Sao mà như cám dỗ
....”
Thì ra bọn thực dân ác thế mà để đối phó với tù chính trị tuyệt thực
chúng chỉ biết có mỗi chiêu dụ dỗ cho ăn bằng cách đem cơm canh thịt cá
để đấy. Chúng chẳng hề biết cái chiêu xách động lòng căm ghét của tù
hình sự đem giam chung rồi dùng họ như “quần chúng tự phát”, mượn tay họ
đánh đập, khủng bố tù chính trị, một loại thủ đoạn mượn dao giết người,
ném đá giấu tay vô cùng tàn độc mà cộng sản dùng hàng ngày để đối phó
với những người chống đối.
Lại nữa, Tố Hữu kể như sau:
“Ăn đi vài con cá
Năm bảy cái chột nưa
Có ai biết ai ngờ?
Thế vẫn tròn danh dự
Không can chi mà sợ
Có hôi miệng hôi mồm
Còn có nước khi hôm
Uống vô là sạch hết!”
Lần này tôi thú thiệt:
Lời hắn cũng hay hay
Lý sự cũng đủ đầy
Nghe ra chừng phải quá!”
Ôi! Thế ra bọn thực dân chúng nó chẳng canh gác gì cả à? Chúng nó cho tù
nhân chính trị tuyệt thực được nằm thảnh thơi, cơm ngon canh ngọt ê hề
và không có ai canh gác nên tù nhân có thể trộm ăn vài con cá, thêm năm
bẩy cái chột nưa rồi súc miệng bằng nước trong là “chẳng ai biết ai
ngờ”?
Đúng là bọn thực dân tư bản giãy chết ngu ngốc thật, chúng chẳng biết
phát huy sáng kiến như đảng ta mướn công an, cán bộ coi tù còn nhiều hơn
cả tù nhân, để đủ nhân lực canh chừng 24/24 những người tù chính trị
tuyệt thực. Theo lời kể của mục sư Tôn thì khi ông bắt đầu tuyệt thực,
công an lập tức biệt giam ông rồi cho 2 người tù hình sự vào ở chung.
Mỗi khi cho 2 người tù hình sự này ăn thì dù có cho thức ăn ngon hơn
bình thường để dụ dỗ mục sư Tôn, chúng cũng cho mấy tên cán bộ canh gác
thật kỹ còn hơn diều hâu canh xác chết, một hạt cơm rơi còn không qua
nổi mắt chúng huống gì đến “vài ba con cá” và “năm bẩy cái chột nưa”?
Càng nghĩ mà càng đau xót cho người Việt Nam yêu nước ngày hôm nay, phải
sống dưới chế độ cai trị độc tài của đảng cộng sản mà xem ra còn tàn
bạo và thủ đoạn gấp ngàn lần chế độ thực dân ngày xưa. Hồ Chí Minh ở tù
thực dân không những không phải tuyệt thực để phản đối chính sách nhà tù
khắc nghiệt, mà còn được cho luật sư miễn phí cãi giùm ngoài tòa đến
trắng án. Ngày nay thì những người tù chính trị như blogger Điếu Cày
Nguyễn Văn Hải, hôm nay đã tuyệt thực đến ngày thứ 30, tình trạng sức
khỏe vô cùng nguy ngập, lại còn bị đàn áp, khủng bố tinh thần hàng ngày
hàng giờ bằng những loại thủ đoạn tinh vi, phi nhân tính nhất.
Ông Nguyễn Văn Hải không chỉ đang dùng chính tính mạng của mình để đấu
tranh cho bản thân ông trong tù, mà ông đang đấu tranh cho cả thế giới
biết đến tội ác và những thủ đoạn vi phạm nhân quyền trầm trọng của cộng
sản trong chốn lao tù. Chúng ta không chỉ cần phải lên tiếng ủng hộ cho
ông và gia đình, không chỉ cần phải cầu nguyện cho ông được có sức khỏe
và tinh thần sắt đá vững chãi, chúng ta không chỉ lo lắng cho sức khỏe
và tính mạng ông, mà chúng ta còn cần phải lớn tiếng tố cáo những sai
phạm trầm trọng, những thủ đoạn tàn độc của nhà cầm quyền cộng sản đang
sử đụng để đàn áp những người bất đồng chính kiến đang đấu tranh ôn hòa,
cho cả thế giới biết, để tạo áp lực bắt buộc chính quyền cộng sản phải
nhượng bộ và có những thay đổi phù hợp với những quyền lợi chính đáng
của công dân, cho dù người công dân đó đang bị giam cầm, đúng theo những
quy định của bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền.
Là một ứng cử viên vào Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, chính quyền
cộng sản Việt Nam không thể một tay che trời, lừa gạt cả người dân trong
nước lẫn thế giới bằng cách nói một đàng làm một nẻo như thế được.
Chúng ta, những người yêu nước, tuyệt đối không chấp nhận điều này.
___________________________________
Chú thích:
(1) Bài thơ “Con cá chột nưa” của Tố Hữu
http://dangcongsan.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=10005&cn_id=587186
http://dangcongsan.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=10005&cn_id=587186
(2) Bài kể chuyện của mục sư Nguyễn Trung Tôn:
http://danlambaovn.blogspot.com.au/2013/07/kinh-nghiem-mot-lan-tuyet-thuc-trong.html#.Ue2Wo6wlGrg
http://danlambaovn.blogspot.com.au/2013/07/kinh-nghiem-mot-lan-tuyet-thuc-trong.html#.Ue2Wo6wlGrg
TUYÊN BỐ VỀ VIỆC TRƯƠNG TẤN SANG ĐI MỸ
TUYÊN BỐ Của Các Tổ Chức Quần Chúng
Việt Nam
Nhân dịp có cuộc gặp gỡ giữa Tổng Thống Barack Obama và Chủ Tịch Trương
Tấn Sang tại Tòa Bạch Ốc, chúng tôi, đại diện những đoàn thể quần chúng Việt Nam
ký tên dưới đây, xin đưa ra trước công luận Tuyên Bố này.
Trong những năm gần đây, CHXHCN Việt Nam dã bị các tổ chức nhân quyền quốc tế có uy tín như Ân Xá Quốc Tế (AI), Hội Theo Dõi Nhân Quyền (HRW), Nhà Tự Do (Freedom House), Ủy Ban Hoa Kỳ Về Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế (USCIRF), v.v… nhận diện là một trong những nứơc vi phạm nhân quyền tồi tệ nhất trên thế giới, và là kẻ thù của truyền thông điện tử toàn cầu (CPJ và RSF). Điều này cũng được xác nhận trong “Tuyên Bố của Mạng Lưới Bloggers Việt Nam” do 69 bloggers tại Việt Nam cùng ký tên (tính đến ngày 18/7/2013).
Việc CHXHCN Việt Nam không tôn trọng các quyền tự do căn bản của công dân Việt Nam như đã được bảo đảm trong các văn kiện luật pháp
nhân quyền quốc tế mà Việt Nam đã ký kết tham gia cho thấy Việt Nam không tôn trọng các cam kết quốc tế và không xứng đáng ngồi vào chiếc ghế thành viên Hội Đồng Nhân Quyền LHQ mà Việt Nam đang ứng tuyển.
Từ những nhận định đó, chúng tôi, đại
diện những đoàn thể quần chúng trong và ngoài Việt Nam, trước hết hoan nghênh
tuyên bố của Tòa Bạch Ốc cho biết Tổng Thống Barack Obama sẽ nêu lên vấn đề nhân
quyền trong buổi gặp gỡ Chủ Tịch Trương Tấn Sang. Chúng tôi kêu gọi cuộc thảo
luận sẽ không dừng lại ở lời nói, và sẽ dẫn đến kết quả là chính quyền Việt Nam
sẽ thực hiện những việc cụ thể như dưới đây:
1/ Hủy bỏ những điều khỏan gọi là
“an ninh quốc gia”, đặc biệt là các điều 79,87, 88, 89 và 258 trong Luật Hình
Sự hiện nay của Việt Nam.
2/ Thả tất cả các bloggers đang
bị giam giữ (35 người theo con số của Reporters Sans Frontieres) chỉ vì đã nói
tới những vấn đề đang tác hại đến đất nước, và do đó, không làm gì hơn là thực
thi một cách hòa bình quyền tự do tư tưởng và tự do phát biểu ý kiến của
họ.
3/ Trả tự do ngay lập tức cho
những tù nhân lương tâm sau đây:
-
Blogger Điếu Cầy Nguyễn Văn Hải, người mà chính Tổng Thống Barack Obama
đã nhắc đến trong ngày Báo Chí Quốc tế năm ngoái, và là người mà hiện nay đang
tuyệt thực đến ngày thứ 25 (tính đến July 17) tại trại giam số 6, tỉnh Ngệ
An.
-
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ, đã tuyệt thực 25 ngày (tính đến June
21);
-
LM Nguyễn Văn Lý, một trong những tù nhân lương tâm nổi tiếng nhất tại
Việt Nam;
-
LS Lê Quốc Quân, một cựu Fellow của NED ở Washington DC, chuyên nghiên
cứu về xã hội dân sự;
-
Ông Trần Hùynh Duy Thức, một doanh nhân bị kết án 16 năm tù chỉ vì không
chịu nhận những tội danh do chính quyền gán ghép;
-
Bà Tạ Phong Tần, một cựu sĩ quan an ninh trở thành đối kháng, một người
mà mẹ đã phải tự thiêu để đòi tự do cho con;
-
Ba nhà hoạt động lao động, Đoàn Huy Chương, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đỗ
Thị Minh Hạnh, những người muốn thành lập các nghiệp đoàn độc lập để bảo vệ công
nhân;
-
Hai nhạc sĩ Việt Khang và Trần Vũ An Bình, không làm gì khác hơn là biên
soạn những bản nhạc yêu nước;
-
Các sinh viên Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha, bị giam giữ chỉ vì
giải tuyền đơn đòi “Người Hoa, Hãy Về Nứơc”;
-
Mục Sư Nguyễn Công Chính, bị giam giữ 11 năm vì giảng Thánh Kinh cho các
sắc dân thiểu số tại Gia Lai, Kontum;
-
Và, đặc biệt, tù nhân lương tâm Nguyễn Hữu Cầu, một cựu sĩ quan Quân Đội
VNCH, đã bị giam cầm suốt 35 năm qua, và đã bị mù vì mắc nhiều bệnh tật trầm
trọng.
4/ Tôn trọng quyền tự do
tôn giáo bằng cách hủy bỏ tất cả những luật lệ giới hạn quyền hành đạo, ngưng
can thiệp vào công việc nội bộ của các Giáo hội, và ngưng đàn áp các giáo sĩ và
tín đồ.
5/ Trả tự do cho tất cả những tù nhân lương tâm hiện bị
giam giữ vì lý do tôn giáo, dù họ là Cao Đài, Hòa Hảo, Đại Thừa, Tiểu Thừa Phật
giáo (như trường hợp các tín đồ Phật Giáo Khmer Krom tại tỉnh Sóc Trang), Công
giáo (như trường hợp Cồn Dầu, Đà Nẵng hay các sinh viên Công giáo tại Nghệ An)),
các hệ phái Tin Lành (Evangelist, Mennonite, hay Tin Lành tại
gia).
Việc Tổng Thống Barack Obama can thiệp một cách nghiêm chỉnh và mang lại kết quả cụ thể cho các tù nhân lương tâm trên đây sẽ cho thấy Hoa Kỳ tuân thủ cam kết của mình, luôn đặt dân chủ và nhân quyền, những hòn đá tảng của nền cộng hòa Mỹ, lên trên những toan tính lợi ích tầm thường, dù thương mại hay quân sự. Thực ra, dân chủ và nhân quyền không hề tác hại đến mối quan hệ lâu dài, mang tính chiến lược, vì một liên minh như thế, muốn được bền vững, phải được xây dựng trên những giá trị và niềm tin cậy chung.
Chúng tôi mong rằng bản Tuyên Bố này được phổ biến rộng rãi
trong cũng như ngoài Việt Nam. Chúng tôi kêu gọi các cơ quan truyền thông công
cộng hãy giúp chuyển tải thông điệp này đến cộng đồng Việt Nam hải ngọai và cộng
đồng quốc tế.
Việt Nam, ngày 22 tháng 7 năm
2013
Những đoàn thể cùng ký
tên:
- Đại Việt Cách Mạng Đảng (Đinh
Quang Tiến, Đệ nhị Phó Chủ tịch)
- Đảng Dân Chủ Nhân Dân (Đỗ Thành
Công, Phát ngôn nhân)
- Đảng Tân Đại Việt (Lê Minh Nguyên,
Phó Chủ tịch)
- Đảng Việt Tân (Đỗ Hoàng Điềm, Chủ
tịch)
- Họp Mặt Dân Chủ (Lâm Đăng Châu, TB
Phối Hợp)
- Lực Lượng Dân Tộc Cứu Nguy Tổ Quốc
(Trần Quốc Bảo, Chủ tịch)
- Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam
(Nguyễn Bá Tùng, TB Phối Hợp)
- Nghị Hội Toàn Quốc Người Mỹ Gốc
Việt (Nguyễn Ngọc Bích, Chủ tịch)
- Tập Hợp vì Nền Dân Chủ (Nguyễn Thể
Bình, Đại diện)
- Việt Nam Quốc Dân Đảng (Trần Tử
Thanh, Chủ Tịch, Hội Đồng Điều Hợp Trung Ương Hải Ngoại)
- Viện Quốc tế vì Việt Nam (Đoàn
Viết Hoạt, Chủ tịch)
- Trung Tâm Nhân Quyền Việt Nam,
Paris (Trần Thanh Hiệp, Chủ tịch)
__________________________________________________
DECLARATION OF VIETNAMESE MASS
ORGANIZATIONS
On the occasion of the meeting
between US President Barack Obama and SRV President Truong Tan Sang in the White
House, we, the undersigned Vietnamese mass organizations, issue to the public
this declaration.
In recent years the Socialist
Republic of Vietnam (SRV) has been identified by Amnesty International (AI),
Human Rights Watch (HRW), Freedom House, United States Commission on
International Religious Freedom (USCIRF), etc., as one of the worst perpetrators
of human rights violations in the world and especially as an enemy of the
Internet (CPJ and RSF, among others)–a finding supported by the latest
“Statement from a Network of Vietnamese Bloggers” signed by 69 bloggers inside
Vietnam (as of July 18, 2013).
The SRV’s total disregard of the
most basic human rights for its citizens as guaranteed in international
covenants to which Vietnam is a signatory made a farce of its international
commitments and makes it unworthy of a place in the UN Human Rights Council
which it is coveting.
In view
of the above, we, representatives of the Vietnamese mass organizations both
inside Vietnam and in the Vietnamese Diaspora, welcome the announcement by the
White House that President Barack Obama will make a point to discuss “human
rights” in his upcoming meeting with SRV President Truong Tan Sang. We urge that
the discussion will go beyond words and result in the Vietnamese government
carrying out the concrete actions as follows
1/ To abolish vague “national
security” provisions, especially articles 79, 87, 88, 89 and 258 in Vietnam’s
Criminal Code.
2/ To release all bloggers (RSF
mentions 35 names) currently in jail simply because they have spoken up on
various issues plaguing the country and therefore doing nothing more than
exercising peacefully their rights of freedom of opinion and
expression.
3/ To immediately release the
following prisoners of conscience:
- Dieu Cay Nguyen Van
Hai, whose name has been mentioned by President Obama himself at last year’s
Press Day and who is undergoing a hunger strike in Camp 6, Nghe An Province,
reaching its 25th day as of July 17, 2013;
- Dr. Cu Huy Ha Vu, who
completed a 25-day hunger strike on June 21 last;
- Father Nguyen Van Ly, one of the most famous prisoners of conscience in the country;
- Lawyer Le Quoc Quan, a former NED Fellow in Washington and a specialist on Civil Society;
- Mr. Tran Huynh Duy Thuc, an entrepreneur who was given a 16-year jail sentence simply because he refused to admit to crimes allegedly accused by the government;
- Ms. Ta Phong Tan, a former public security officer turned dissident, whose mother had to immolate herself to demand her daughter’s release;
- the three labor activists Doan Huy Chuong, Nguyen Hoang Quoc Hung and Do Thi Minh Hanh, who tried to form independent trade unions to protect the workers’ rights;
- the musicians Viet Khang and Tran Vu An Binh, who did nothing more than compose patriotic songs;
- the students Nguyen Phuong Uyen and Dinh Nguyen Kha, who simply distributed flyers saying “Chinese, Go Home!” ;
- Father Nguyen Van Ly, one of the most famous prisoners of conscience in the country;
- Lawyer Le Quoc Quan, a former NED Fellow in Washington and a specialist on Civil Society;
- Mr. Tran Huynh Duy Thuc, an entrepreneur who was given a 16-year jail sentence simply because he refused to admit to crimes allegedly accused by the government;
- Ms. Ta Phong Tan, a former public security officer turned dissident, whose mother had to immolate herself to demand her daughter’s release;
- the three labor activists Doan Huy Chuong, Nguyen Hoang Quoc Hung and Do Thi Minh Hanh, who tried to form independent trade unions to protect the workers’ rights;
- the musicians Viet Khang and Tran Vu An Binh, who did nothing more than compose patriotic songs;
- the students Nguyen Phuong Uyen and Dinh Nguyen Kha, who simply distributed flyers saying “Chinese, Go Home!” ;
– Pastor Nguyen Cong Chính,
being imprisoned for 11 years for preaching the Gospel to ethnic groups in Gia
Lai, Kontum.
– And especially, Mr. Nguyen
Huu Cau, a former ARVN (Army of the Republic of Vietnam) officer who has so far
spent 35 years in jail and has gone blind with a variety of very severe
ailments.
4/
To respect the freedom of religion by repealing all legislation that are
intended to restrict the people’s religious practices; to stop interfering with
the internal activities of all religions, and to stop the persecution of clergy
and faithful.
5/ To release all prisoners of
conscience who are currently in jail because of their faith, whether it be Cao
Dai, Hoa Hao Buddhism, Mahayana Buddhism, Theravada Buddhism (as in the case of
Khmer Krom Buddhists in Soc Trang Province), Catholicism (as in the case of Con
Dau parishioners in Da Nang or Nghe An Catholic students), Evangelism, Mennonite
Protestants, or House Church Protestantism.
A serious and effective,
result-producing intervention on these prisoners’ behalf by the President will
prove that the United States is true to its word, that his administration puts
democracy and human rights, the cornerstones of our republic, above many other
mundane considerations whether mercantile- or defense-oriented. In fact,
democracy and human rights do not undermine long-term alliance, especially of a
strategic nature, because such an alliance, to be lasting, must be based on
common values and mutual trust.
We wish
therefore to publicize this declaration as widely as possible, both in Vietnam
and outside of Vietnam, and we call upon the public media to help us carry this
message to the Vietnamese Diaspora and to international
community.
Vietnam, July 22, 2013
Signed by the following
organizations:
- Assembly for Democracy in Vietnam
(Lam, Đang Chau)
- International Institute for
Vietnam (Doan, Viet Hoat, Chairman)
- National Congress of Vietnamese
Americans (Nguyen, Ngoc Bich, Chairman)
- Neo Dai Viet Party (Le, Minh
Nguyen – Vice-Chairman)
- Rallying For Democracy ( Nguyen ,
The- Binh – Representative)
- The Dai Viet Revolutionary Party
(Dinh, Quang Tien - 2nd Vice President)
- The People’s Democratic Party (Do,
Thanh Cong – Spokesperson)
- The People’s Force to Save Vietnam
(Tran, Quoc Bao, Chairman)
- Vietnam Center for Human Rights,
Paris (Tran, Thanh Hiep, President)
- Vietnam Human Rights Network (Nguyen,
Ba Tung, President)
- Vietnam Nationalist Party (Tran, Tu
Thanh, Chairman, Overseas Central Coordinating Council)
- Viet Tan Party (Do, Hoang Diem,
Chairman)
MỸ DU BÌNH LUẬN
Lãnh đạo Việt Nam cấp tốc sang Mỹ sau thất bại của chuyến công du Trung Quốc
Tổng
thống Hoa Kỳ Barack Obama cùng phu nhân, bà Michelle Obama chụp hình kỷ
niệm với Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang và phu nhân, bà Mai Thị
Hạnh, trước khi khai mạc thượng đỉnh APEC tại Hawaï ngày 12/11/2011.
REUTERS/Larry Downing
Đây là giả thuyết được ký giả Mỹ David Brown, nguyên là một nhà
ngoại giao phục vụ tại Việt Nam, nêu lên trong bài viết Vietnam Between
Rock and A Hard Place (tạm dịch : Việt Nam trên đe dưới búa) đăng ngày
18/07/2013 trên trang web YaleGlobal của Đại học Yale nổi tiếng tại Hoa
Kỳ.
Mỹ muốn Việt Nam cải thiện nhân quyền, Bắc Kinh muốn Hà Nội từ bỏ chủ quyền trên Biển Đông
Bối cảnh quan hệ tay ba Việt Nam Trung Quốc và Hoa Kỳ đã được YaleGlobal nêu bật trong phần dẫn nhập :
« Việt Nam – với mục tiêu hiện đại hóa cho 92 triệu người dân của mình – đang dao động giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ trong quan hệ kinh tế và quân sự. Cả hai đại cường đều chờ đợi đất nước Cộng sản nhỏ này chấp thuận một số yêu cầu cụ thể : Mỹ muốn Việt Nam cải thiện nhân quyền và tự do dân chủ, trong khi Trung Quốc lại muốn Việt Nam từ bỏ tuyên bố chủ quyền của mình tại Biển Đông. Yêu cầu nào cũng gây nên một sự phản đối bên trong Việt Nam khiến cho một hành động cân bằng giữa hai bên không dễ dàng.
Hà Nội không hoan nghênh đề xuất của Mỹ về vấn đề nhân quyền. Giới bảo thủ trong đảng cộng sản bác bỏ những yêu cầu muốn Việt Nam cho phép tự do dân chủ nhiều hơn, sợ rằng mục tiêu thực sự của Washington là lật đổ chế độ.
Tôi đồng ý với David Brown là chuyến viếng thăm Washington của Chủ tịch Trương Tấn Sang đã
được tổ chức một cách vội vã. Tuy nhiên, tôi muốn nói rằng từ gần một năm nay, Việt Nam luôn hối thúc Hoa Kỳ để có được chuyến thăm cấp cao của Chủ tịch nước. Chính điều này đã làm tôi có một phân tích hơi khác so với phân tích của David Brown.
Mỹ muốn Việt Nam cải thiện nhân quyền, Bắc Kinh muốn Hà Nội từ bỏ chủ quyền trên Biển Đông
Bối cảnh quan hệ tay ba Việt Nam Trung Quốc và Hoa Kỳ đã được YaleGlobal nêu bật trong phần dẫn nhập :
« Việt Nam – với mục tiêu hiện đại hóa cho 92 triệu người dân của mình – đang dao động giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ trong quan hệ kinh tế và quân sự. Cả hai đại cường đều chờ đợi đất nước Cộng sản nhỏ này chấp thuận một số yêu cầu cụ thể : Mỹ muốn Việt Nam cải thiện nhân quyền và tự do dân chủ, trong khi Trung Quốc lại muốn Việt Nam từ bỏ tuyên bố chủ quyền của mình tại Biển Đông. Yêu cầu nào cũng gây nên một sự phản đối bên trong Việt Nam khiến cho một hành động cân bằng giữa hai bên không dễ dàng.
Mỹ cố không đứng về phe nào trong tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông,
nhưng sự dè dặt của Mỹ trong việc phê chuẩn Hiến chương Liên Hiệp Quốc
về Luật Biển không giúp giảm bớt tranh cãi giữa các nước trong khu vực
về chủ quyền biển đảo. Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang đã đi thăm
Trung Quốc vào giữa tháng Sáu và sau đó, đã dự kiến một chuyến đi Hoa
Kỳ - vốn chỉ được loan báo trước một thời gian ngắn - nơi mà các cựu
chiến binh thời chiến tranh Việt Nam đang phụ trách ngành ngoại giao và
quốc phòng.
Ông David Brown, nguyên là một nhà ngoại giao Mỹ, tự hỏi rằng phải
chăng chuyến đi thăm đột ngột này cho thấy là các lãnh đạo Việt Nam
đang lo lắng về người láng giềng khổng lồ của họ và đã sẵn sàng thắt
chặt thêm quan hệ với Hoa Kỳ ? »
Sau đây là toàn văn bài phân tích của nhà báo David Brown :
« Các chuyến thăm cấp nguyên thủ quốc gia thường phải mất vài tháng
để tổ chức, nhưng Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang sắp đến
Washington trong một thời gian rất ngắn sau ngày chuyến công du được
thông báo, và ngay sau một cuộc gặp gỡ rõ ràng là sóng gió với các lãnh
đạo Trung Quốc. Phải chăng là ông Sang và đồng nghiệp của ông đã quyết
định trả cái giá mà Mỹ đã đặt ra cho việc thiết lập một quan hệ "đối tác
chiến lược" ?
Vào đầu tháng Sáu, các quan chức Bộ Ngoại giao Mỹ đã xác định với một
tiểu ban Quốc hội rằng quan hệ chặt chẽ hơn với Việt Nam, đặc biệt là
vấn đề bán vũ khí, vẫn chưa thể xúc tiến cho đến khi có được sự « cải
thiện liên tục, bền vững và kiểm chứng được về tình hình nhân quyền. »
Các quan chức này đã công khai hóa một thông điệp từng được họ kín
đáo nêu lên (với phía Việt Nam) từ một vài năm nay. Cuộc điều trần của
quan chức ngoại giao Mỹ trên đây hầu như không được ai chú ý, ngoại trừ
các phương tiện truyền thông trực tuyến vốn thêm củi lửa cho phong trào
ly khai tại Việt Nam.
Đàn áp giới chống Trung Quốc vì ngả theo Bắc Kinh ?
Một cách trùng hợp, công an Việt Nam đã bắt giữ thêm ông Phạm Viết
Đào, một blogger, vào ngày 13/06, và cáo buộc ông « lợi dụng các quyền
tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước ». Theo hãng tin AP, 43 nhà
bất đồng chính kiến đã bị bỏ tù trong năm nay, gấp đôi so với tốc độ của
năm 2012.
Hơn nữa, có bằng chứng cho thấy bộ phận an ninh mạng của công an Việt
Nam đã triển khai công nghệ giám sát FinFisher - do hãng Gamma
International, trụ sở tại Anh, làm ra – để cài phần mềm gián điệp vào
trong máy tính và điện thoại thông minh của những người truy cập vào các
trang blog bất đồng chính kiến.
Hà Nội không hoan nghênh đề xuất của Mỹ về vấn đề nhân quyền. Giới bảo thủ trong đảng cộng sản bác bỏ những yêu cầu muốn Việt Nam cho phép tự do dân chủ nhiều hơn, sợ rằng mục tiêu thực sự của Washington là lật đổ chế độ.
Chiến dịch đàn áp blogger dường như đã phản ánh việc chế độ đang
nghiêng về phía Trung Quốc, đối tượng căm ghét của giới bất đồng chính
kiến tại Việt Nam. Trong nhiều năm qua, các blogger bất đồng chính kiến
đã đả kích chế độ mà họ cho là đã thất bại trong việc bảo vệ quyền lợi
của Việt Nam chống lại láng giềng khổng lồ của minh. Bằng chứng cụ thể :
Trung Quốc từng bước củng cố tuyên bố « chủ quyền không thể tranh cãi »
của họ trên hầu hết Biển Đông, bao gồm cả vùng biển ngoài khơi bờ biển
của Việt Nam.
Lực lượng hải quân và không quân của Việt Nam, dù không phải là không
đáng kể, những hoàn toàn không bì kịp Trung Quốc. Thay vì chấp nhận rủi
ro xung đột bắt nguồn từ các tranh chấp bãi đá và rạn san hô - và có
thể là dầu khí – giới lãnh đạo Việt Nam đã tìm cách kềm hãm đà xâm lược
của Trung Quốc bằng cách đoàn kết các đối tác ASEAN hậu thuẫn cho mình
và bằng cách thiết lập các mối « quan hệ chiến lược » với Hoa Kỳ và các
cường quốc ngoài khu vực. Kết quả của những nỗ lực ngoại giao rất khiêm
tốn.
10 thành viên ASEAN luôn luôn nói đến tính chất « trung tâm » của
khối trong các vấn đề khu vực, nhưng lại thất bại trong việc thành lập
một mặt trận chung chống lại yêu sách lãnh thổ rộng khắp của Trung Quốc.
Trong khi đó, do thận trọng để khỏi bị lôi kéo vào việc bảo vệ các hòn
đảo nhỏ của Việt Nam hoặc Philippines, Hoa Kỳ đã nhấn mạnh rằng họ «
không đứng về phía nào » trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ.
Cũng vì lo ngại trước khả năng bị một siêu cường đang lên trả đũa
trong các lãnh vực khác, Washington và hầu hết các thủ đô ASEAN đã tránh
thách thức trực tiếp việc Bắc Kinh đòi quyền bá chủ trên vùng biển nằm
giữa Hồng Kông và Singapore.
Yêu sách chủ quyền của Bắc Kinh dựa trên các ghi nhận về các chuyến
thăm của ngư dân Trung Quốc hàng thế kỷ trước đây. Ngược lại,
Philippines, Malaysia, Brunei và Việt Nam dựa trên Công ước Liên Hiệp
Quốc về Luật Biển (UNCLOS) và các luật lệ quốc tế khác. Giới làm chính
sách ở Washington đồng ý rằng các tuyên bố chủ quyền dày đặc liên quan
đến Biển Đông cần phải được tháo gỡ bằng cách tham khảo các luật lệ đó.
Nhưng lập trường này lại bị suy yếu do việc Mỹ đã nhiều lần thất bại
trong việc phê chuẩn UNCLOS, và thất bại của 4 nước ASEAN ở tuyến đầu,
không dàn xếp được các mâu thuẫn giữa họ với nhau. Tình trạng này không
thể khiến Washington tích cực nếu Bắc Kinh tiếp tục chính sách áp đặt sự
đã rồi (tại Biển Đông).
Khi quan hệ Việt Trung căng thẳng vì Biển Đông, người Việt Nam nghĩ ngay đến Mỹ
Khi căng thẳng gia tăng, những người Việt Nam không phải là đảng viên
và một nhóm quan trọng trong Đảng Cộng sản đã kêu gọi một liên minh
kinh tế và quân sự mặc nhiên với Mỹ. Cũng đã có những tiến bộ về khả
năng Việt Nam gia nhập khối Quan hệ Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình
Dương đang hình thành do Mỹ dẫn đầu. Mặc dù nhiều lãnh đạo đảng vẫn còn
hoài nghi về ý định của Mỹ, trong bốn năm gần đây, các cuộc tham vấn với
lực lượng vũ trang Mỹ đã được mở rộng đáng kể. Trong tháng Sáu chẳng
hạn, các sĩ quan cao cấp thuộc bộ Tổng tham mưu Việt Nam đã đi một vòng
các căn cứ Mỹ.
Cho đến tuần trước, kiểu quan hệ giữa hai quân đội như kể trên – vốn
có mục tiêu nhắn nhủ Trung Quốc là Việt Nam cũng có chọn lựa khác -
dường như đã đạt đến giới hạn tự nhiên của nó – các chuyến thăm hữu nghị
và một chút hợp tác đào tạo trong các hoạt động phi tác chiến như tìm
kiếm và cứu hộ. Một năm trước đây, Việt Nam đã từ chối đề nghị của cựu
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta muốn Việt Nam tiếp nhận lình và tàu
chiến Mỹ luân phiên ghé Việt Nam.
Thế rồi một lần nữa, vào mùa xuân này, Bắc Kinh đã phô trương cơ bắp
của họ trên biển. Trái với thông lệ, Hà Nội hầu như không phản ứng. Vào
tháng Năm, họ đã than phiền chiếu lệ về cách xử lý thô bạo của Trung
Quốc đối với ngư dân Việt Nam, và cải chính một thông tin của tập đoàn
Petro Vietnam về vụ tàu Trung Quốc sách nhiễu một tàu khảo sát của Việt
Nam. Lý do tại sao đã trở nên rõ ràng vào ngày 14 tháng Sáu, khi Hà Nội
loan báo là Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang sẽ thực hiện một
chuyến thăm cấp Nhà nước qua Trung Quốc.
Chuyến đi hồi giữa tháng Sáu của ông Sang, chuyến công du Trung Quốc
đầu tiên của một nhà lãnh đạo hàng đầu tại Việt Nam kể từ khi ông Tập
Cận Bình nhậm chức chủ tịch Trung Quốc vào tháng Ba, đã mang đậm nghi
thức và ý nghĩa của một hoạt động loại này, được tích lũy từ hơn một
thiên niên kỷ nay.
Người Việt Nam rất có lý khi tự hào về truyền thống kháng chiến thành
công chống Trung Quốc xâm lược. Ngoài ra trong suốt lịch sử của mình,
họ đã thường xuyên buộc được Trung Quốc tôn trọng quyền tự chủ của Việt
Nam bằng cách bày tỏ sự tôn trọng. (Thế nhưng) vào tháng trước, Hà Nội
đã khấu đầu mạnh mẽ.
Việc dàn xếp chuyến thăm của ông Sang cho thấy là dù có những xích
mích, nhưng giới lãnh đạo Việt Nam tiếp tục hy vọng rằng ban lãnh đạo
Trung Quốc sẽ không phản bội lại một đảng cầm quyền giống như đảng của
họ. Đã có những lời lẽ nhấn mạnh đến mối « quan hệ chiến lược toàn diện »
giữa hai nước. Nhiều chữ ký đã được gắn vào một loạt những thỏa thuận
thông lệ.
Trung Quốc đối với Việt Nam : Hứa suông về kinh tế, lấn lướt về Biển Đông
(Tuy nhiên) ngoài việc nhận được khá nhiều lời nhắc nhở, ông Sang
dường như không thu hoạch được gì nhiều Bắc Kinh. Ông Tập Cận Bình đã
hứa rằng Trung Quốc sẽ « tích cực áp dụng các biện pháp hữu hiệu và
quyết liệt » để giảm bớt khoản thâm hụt 16 tỷ đô la trong trao đổi
thương mại song phương. Những lời hứa như vậy đã từng được đưa ra trước
đây nhưng không mang lại nhiều kết quả. Về hồ sơ Biển Đông, ông Sang
không giành được gì ngoài việc đạt được thỏa thuận thiết lập một đường
dây nóng để thảo luận về những sự cố liên quan đến ngư dân.
(Hơn nữa), khi bác bỏ việc nêu lên bản Công ước Liên Hiệp Quốc về
Luật Biển, mà cả hai nước đều đã ký, cũng như những quy định khác của
luật pháp quốc tế, để làm cơ sở giải quyết tranh chấp lãnh thổ, Bắc Kinh
đã rút bỏ lời hứa với Việt Nam cách nay 20 tháng khi Hà Nội đồng ý tiến
hành đối thoại song phương về những tranh chấp liên quan quần đảo Hoàng
Sa, mà Trung Quốc đã đánh chiếm từ tay miền Nam Việt Nam năm 1974. Các
cuộc thương lượng về hồ sơ này không thấy có tiến triển. Khi thừa nhận
như vậy, hai ông Tập Cận Bình và Trương Tấn Sang đồng ý là cần phải gia
tăng các cuộc thương thảo.
Quyết định của Bộ Chính trị cử ông Sang tới Washington cho thấy là
các lãnh đạo Việt Nam đã bị chấn động bởi những gì mà ông Tập Cập Bình
và các cộng sự viên đã nói với ông Sang khi gặp riêng, và Việt Nam sẵn
sàng đàm phán với Hoa Kỳ về một quan hệ quốc phòng gần gũi hơn.
Ngay trước chuyến công du của ông Sang, đã có thông báo về việc đem
ra xét xử một nhà ly khai hàng đầu. Thế nhưng, vụ xử đã được hoãn lại
vô thời hạn. Các lãnh đạo Việt Nam hy vọng là Tổng thống Barack Obama sẽ
hài lòng với những cử chỉ bề ngoài này. Nếu vậy, thì họ đã lầm.
Như chính quyền Mỹ đã thừa nhận trước Quốc hội vào tháng trước, «
nhân dân Mỹ sẽ không ủng hộ việc cải thiện đáng kể quan hệ song phương
nếu không có những tiến bộ rõ ràng về nhân quyền ». Trong thực tế, Hoa
Kỳ không cần tăng cường quan hệ quân sự với Việt Nam để bảo vệ các lợi
ích của mình tại Biển Đông. Washington có khả năng chấp nhận tầm nhìn về
lâu về dài và có thể làm cho những kẻ hoài nghi bất ngờ, khi tỏ lập
trường kiên quyết về nhân quyền. Giờ đây, với các cựu chiến binh Việt
Nam như John Kerry và Chuck Hagel phụ trách chính sách đối ngoại và quốc
phòng, thì Hoa Kỳ sẽ biết chính xác là họ sẽ phải làm gì.
Lời bình của Giáo sư Carl Thayer, trên mạng YaleGlobal ngày 19/07/2013Tôi đồng ý với David Brown là chuyến viếng thăm Washington của Chủ tịch Trương Tấn Sang đã
được tổ chức một cách vội vã. Tuy nhiên, tôi muốn nói rằng từ gần một năm nay, Việt Nam luôn hối thúc Hoa Kỳ để có được chuyến thăm cấp cao của Chủ tịch nước. Chính điều này đã làm tôi có một phân tích hơi khác so với phân tích của David Brown.
Theo nội dung một số bức điện của Hoa Kỳ được WikiLeaks tiết lộ,
trong nội bộ, chính quyền Việt Nam muốn tìm kiếm sự cân bằng thông qua
các chuyến công du nước ngoài của các lãnh đạo cấp cao.
Tôi không nhấn mạnh như ông David Brown rằng chuyến viếng thăm Trung
Quốc của ông Sang không tốt đẹp, và đã thúc đẩy Bộ Chính trị (đảng Cộng
sản Việt Nam) bất ngờ quyết định cử ông Sang tới thăm Washington. Ngược
lại, ý tôi muốn hỏi là tại sao chính quyền Obama lại bất ngờ chuyển
hướng và chấp thuận chuyến viếng thăm của ông Sang ?
Câu trả lời nằm trong Nghị quyết của Bộ Chính trị về Hội nhập Quốc tế
được thông qua ngày 13/04 và đã được công bố. Nghị quyết này nói rằng
hội nhập kinh tế phải được coi là trọng tâm trong các ưu tiên của Việt
Nam, và tất cả các khía cạnh khác của hội nhập quốc tế đều phải phục vụ
mục đích này. Chuyến đi của ông Sang chủ yếu nhằm vào hiệp định Quan hệ
Đối tác Xuyên Thái Bình Dương TPP và các quan hệ kinh tế với Hoa Kỳ
trong tương lai.
Tôi không cho rằng, việc dịch sai lời TT Obama sẽ ảnh hưởng lớn đến quan hệ hai nước Mỹ-Việt. Rào cản lớn nhất cho Việt Nam muốn trở đối tác toàn diện với Mỹ chính là vấn đề nhân quyền và ý thức hệ chính trị tại Việt Nam. Mỹ thật khó để tìm thấy một ngưởi bạn lớn mang tên Việt Nam khi những rào cản này không bao giờ có thể giải quyết được vì sự độc tài bảo thủ của chế độ Cộng sản Việt Nam.