Tuesday, September 25, 2012
THÙY LINH * SỰ TRẢ THÙ MẤT TRÍ
SỰ TRẢ THÙ MẤT TRÍ
Thùy Linh
NQL:
Mình đọc xong bài này và ngồi khóc. Mình đã còm trong blog TL, cô em
gái văn chương thân thương của mình: “Đau và đắng ngắt. Chưa bao giờ đọc
ở TL một bài chất đầy đau đớn và đắng cay như thế này”.
Bình thường không dám đăng nhưng bây giờ thì đăng.
Bài của TL:
Ảo tưởng ban đầu về một nhà nước vì dân, do dân, của dân khiến người ta tự nguyện thế chấp sổ đỏ Hoài bão
để tham gia cuộc đấu tranh long trời lở đất. Khi giành được chính quyền
mọi người hân hoan và cho rằng, sự thế chấp sổ đỏ đó là xứng đáng.
Để chính quyền đó tồn tại và phát triển, người dân tiếp tục tự nguyện thế chấp sổ đỏ Hy sinh.
Họ hy sinh xương máu, chịu đựng mọi gian khó để chính quyền không bị
xâm hại. Vẫn tin tưởng sự hy sinh đó sẽ được tưởng thưởng xứng đáng. Khi
chính quyền bộc lộ những yếu kém, người dân cố gắng thế chấp sổ đỏ Ảo tưởng
rằng, để chính quyền vững mạnh, cần có những thất bại để làm bài học
cho tương lai. Và chính quyền đang nỗ lực vì một tương lai cho chính họ
và gia đình họ. Ảo tưởng khiến người dân tiếp tục hy sinh, chịu đựng.
Tới lúc chính quyền bộc lộ quá nhiều khiếm khuyết, hạn chế người dân kiên nhẫn gán nợ sổ đỏ Cam chịu
để hy vọng sự hồi tâm của kẻ có chức quyền – những người mà họ đã từng
cưu mang, bảo vệ khi chiến tranh, loạn lạc, nghèo đói. Sự cam chịu lâu
đến mức trở thành nét tính cách khiến họ bị “thua lỗ” trong cuộc thế
chấp mịt mùng không lối thoát.
Sau những gì chính quyền của dân, do dân, vì dân thể hiện, người ta không còn tự nguyện mà bị cưỡng bức thế chấp sổ đỏ Niềm tin.
Tước đoạt sổ đỏ này, chính quyền viện trợ “không hoàn lại” sự tuân
phục. Tới đây người dân bắt đầu bị phân hóa: người cúi đầu ngoan ngoãn
sử dụng sự tuân phục không hé lời; kẻ biến sự tuân phục có lợi cho bản
thân mình trong con đường hoan lộ danh lợi, tiền tài…
Khi không còn gì hết ngoài sổ đỏ Chán ngán
thì chính quyền thu gom theo nhiều cách, mà cách thông thường nhất là
thu hồi đem tiêu hủy. Nhiều người buông xuôi để người ta sử dụng sổ đỏ
đó theo tùy thích vì họ cũng không biết dùng để làm gì ngoài sự bất mãn,
khó chịu. Số người khác đem sổ đỏ này đi thế chấp để mua Sự thật một
cách âm thầm theo những cách có thể. Biết sự thật để thêm đau đớn, khổ
sở, và sẽ càng khốn khổ nếu như họ lâm vào tình thế bất lực. Số ít không
cam chịu nên dùng sổ đỏ Chán ngán đầu tư cho Niềm tin của mình và nhiều
người khác.
Tới lúc người dân không còn gì,
ngoài lòng căm hận thì chính quyền độc tài tung dự án Đàn áp ra để chiếm
đoạt sổ đỏ Tự do của con người. Sẽ có người bị khuất phục như là lý lẽ
cuộc sống. Nhưng phần lớn là thất bại như là chân lý của lẽ phải. Vì có
kẻ độc tài nào thu gom được Tự do tâm hồn? Tù đày, giam cầm, án phạt,
bạo lực chỉ càng khiến những chiến binh thực thụ củng cố, tăng trưởng Tự
do cho tâm hồn họ. Với những chiến binh này chính quyền đừng hy vọng
bắt họ thế chấp sổ đỏ của Tự do – mà
cao cả nhất, điều mà không một sức mạnh nào có thể tước đoạt được, đó
là tự do tâm hồn. Những 12, 10 hay 4 năm tù đày chỉ là thời gian giam
cầm thân xác, nhưng sức mạnh của những tâm hồn tự do kia có thể dẫn
truyền đến hàng triệu người có lương tri trên toàn thế giới – một sức
mạnh hơn cả bom nguyên tử, một sức mạnh không thể hủy diệt.
Bản án dành cho những blogger
cất tiếng nói ôn hòa gấp ba lần án tù cho những kẻ khoác áo công quyền
để giết người đã là bản án tự kết án cho chế độ được tạo ra từ những
nghịch lý: Ảo tưởng, Bất tin, Bất tín, Căm hận, Chán ngán…Và người xưa
đã đúc kết: “bạo phát, bạo tàn”. Nếu chính phủ tiếp tục phát hành những
“trái phiếu độc đoán, chuyên chế” thì họ sẽ gặt về dự án Sụp đổ như đã
từng trước đây với những Vinashin, Vinaline…Bởi nhân dân không còn gì để
thế chấp, không còn gì để họ có thể cướp bóc, đàn áp ngoài sự oán thán,
căm hận – những cái mà chính quyền không hề muốn nhân về.
Không biết còn kéo dài bao lâu nữa sự trả thù mất trí này?
QUÊ CHOA
TRẦN MINH KHÔI * LẠI TÍNH NHẦM
Lại tính nhầm
Trần Minh Khôi
Vụ
án xử những người trong Câu lạc bộ Nhà báo Tự do hôm nay ở Sài Gòn là
một vụ án chính trị, nghĩa là từ các thủ tục, thời điểm của phiên xử –
ngay trước kỳ họp của Bộ Chính trị và của Hội nghị Bản Chấp hành Trung
ương 6 để giàn xếp các vấn đề của sự suy thoái quyền lực – đến các bản
án đều phục vụ đích chính trị. Với các bản án phi lý và bất công đó,
mười hai năm cho Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, mười năm cho Tạ Phong Tần, và
bốn năm cho Phan Thanh Hải, các thế lực cầm quyền muốn gởi thông điệp
gì? Và cho ai?
Hiển nhiên nó nhằm vào mục đích răn đe
những gương mặt đang vận động chống bá quyền Trung Quốc và cho dân chủ,
tự do ở Việt Nam. Nhưng nếu chỉ mục đích này thôi thì tòa án Việt Nam
cũng hiểu rằng không cần một bản án mười hai năm. Một bản án bốn năm
năm, như thường thấy trong các trường hợp tương tự, cũng đã có thể phục
vụ mục đích đó mà không phải gây ra thêm nữa phản ứng bất lợi cho chính
quyền từ các thế lực xung đột trong Đảng, từ các tầng lớp đông đảo trí
thức, từ các tổ chức nhân quyền quốc tế, và quan trọng hơn là từ các
quốc gia tự do ở Phương Tây.
Một lý do khác cho những bản án
chính trị loại này là phục vụ vào việc thế lực cầm quyền dùng chúng để
sau này thương lượng với các thế lực bên ngoài cho những mục tiêu quyền
lực và kinh tế khác. Một bản án mười hai năm giảm xuống sáu bảy năm đem
đến cho nhà nước một ấn tượng tốt đối với quốc tế về thái độ biết điều
của nó hơn là một nguyên án sáu bảy năm. Bên cạnh đó, quan trọng hơn, là
những mối lợi tương nhượng khác. Một trong những hành xử kinh tởm nhất
của các thế lực độc tài là dùng ngay chính các bản án tù tội đối với
công dân mình để mặc cả với các quốc gia cổ xúy tự do và dân chủ trên
thế giới cho mục đích duy trì quyền lực. Xưa nay nhà nước Việt Nam vẫn
làm điều này. Nhưng một bản án mười hai năm tù cho một người chỉ xuống
đường biểu tình chống ngoại bang và bày tỏ quan điểm chính trị của mình
vẫn là một bản án chính trị không bình thường.
Trong tình huống lộn xộn của
những xung đột nội bộ, của những cuộc thanh trừng và bắt bớ đối với các
thế lực tài chính và chính trị, của những hứa hẹn cải cách hiến pháp và
thể chế,… các bản án nặng nề đối với nhóm Câu lạc bộ Nhà Báo Tự do, đặc
biệt là đối với Điếu Cày, người đã tạo được sự quý trọng trong đông đảo
các tầng lớp sinh viên và trí thức bằng sự chính trực và ý chí không
khuất phục của anh, gợi cho chúng ta nhớ lại bản án tử hình mà các thế
lực độc tài Hàn Quốc đã giáng xuống cho Kim Dae Jung hồi những năm 80
của thế kỷ trước. Rõ ràng là nhà nước sợ Điếu Cày. Có lý do để tin rằng
các thế lực cải cách trong Đảng đã thỏa hiệp với giải pháp cách ly Điếu
Cày ra khỏi xã hội trong khi họ đang xoay xở giàn xếp xung đột nội bộ và
thực hiện những toan tính cải cách nhằm cứu vãn khủng hoảng.
Và đây chính là sai lầm của họ. Họ đã tính nhầm.
Sự sợ hãi lớn nhất của các thế
lực cải cách là họ sẽ không kiểm soát được sự bùng nổ của xã hội một khi
các định chế đóng vai trò gọng kìm duy trì bạo lực và bất công của nhà
nước đối với xã hội được nới lỏng. Nếu sự bùng nổ xã hội xảy ra thì
không ai dám chắc, kể cả những người mới hôm qua đang ở đỉnh của quyền
lực, có thể thoát khỏi sự giận dữ của bạo lực quần chúng. Do đó, một
cách bản năng, các thế lực độc tài, trước khi toan tính cải cách, có kế
hoạch tiêu diệt hoặc cách ly những gương mặt đối lập có uy tín với mục
đích là giữ quyền chủ động trong toàn bộ tiến trình cải cách. Trực giác
nói với họ rằng đó là một cách làm an toàn. Nhưng thực tế chứng minh
ngược lại: nếu không có những gương mặt có đủ thẩm quyền đạo đức, như
triển vọng đang hình thành từ sự chính trực và lòng dũng cảm của Điếu
Cày, đứng ra lãnh đạo xã hội dân sự thì tất cả mọi cố gắng cải cách xuất
phát từ xung đột quyền lực ở thượng tầng đều thất bại và xã hội sẽ rơi
ngay vào bạo loạn một khi các định chế rạn nứt.
Xã hội Việt Nam ở giai đoạn này
đã tích lũy một sự dồn nén quá lâu của những bất công xã hội mà trong
ngắn hạn không có hướng điều tiết và hóa giải. Sức ép của sự dồn nén bất
công này ngày càng có dấu hiệu bùng nổ. Nó chỉ chờ một cơ hội khi các
định chế bạo lực nhà nước đã tạo ra sự bất công này rạn nứt. Những thế
lực cải cách trong Đảng sẽ mắc phải sai lầm rất lớn nếu nghĩ rằng họ có
khả năng kiểm soát sức ép này. Thứ nhất, họ không có đủ tính chính đáng
chính trị để làm điều này. Thứ hai, họ không có đủ quyết đoán để dùng
bạo lực. Thứ ba, ngay cả khi họ đủ quyết đoán hoặc do tình huống của
những toan tính điên rồ, bạo lực nhà nước có nguy cơ sẽ làm sức ép bất
công xã hội bùng nổ mãnh liệt hơn và thiêu cháy chính họ.
Nói ngắn lại: không có những
gương mặt đối lập có đủ thẩm quyền đạo đức, nghĩa là có đủ sự chính trực
và kiên định, để lãnh đạo xã hội dân sự, duy trì sự ổn định, thì mọi cố
gắng cải cách thể chế ở thượng tầng đều có nguy cơ gây nên bạo loạn.
Gọi nó là quy luật hay gọi nó là
kết quả của ý chí dân sự thì dân chủ vẫn là một tiến trình không thể
đảo ngược. Các thế lực đang cầm quyền cũng đã hiểu ra điều này. Vấn đề
còn lại là làm thế nào để có một cuộc chuyển tiếp dân chủ ôn hòa, không
có bạo động, không có đổ vỡ, không có sự trả thù đối với thế lực cầm
quyền độc đoán đã gây nên bất công và thảm họa, và quan trọng hơn cả là
không để cho những thế lực cơ hội chính trị thao túng vì quyền lợi riêng
tư. Một cuộc chuyển tiếp dân chủ như thế chỉ có thể xảy ra với sự tham
dự của xã hội dân sự được lãnh đạo bởi những gương mặt đối lập có đủ
thẩm quyền đạo đức để kiểm soát quyền lực, kiểm soát sự chuyển giao
quyền lực giữa các phe nhóm, và để điều tiết nguy cơ bùng nổ của bạo
loạn do sự dồn nén của bất công gây ra.
Chúng ta, những người bạn của
Điếu Cày và của Câu lạc bộ Nhà báo Tự do có lý do để lạc quan; các bản
án nặng nề đối với anh và bạn bè anh một lần nữa khẳng định tính chính
trực và lòng dũng cảm, không khuất phục của họ. Nhà tù và sự sợ hãi của
quyền lực đối với họ khẳng định thẩm quyền đạo đức của họ.
Thế lực cầm quyền đã tính nhầm
với những bản án phi lý và bất công cho Điếu Cày và các bạn của anh.
Nhưng ở trong lao tù hay được tự do, cuộc vận động chuyển tiếp dân chủ
ôn hòa của chúng ta vẫn rất cần những người như họ.
Chúng ta chúc họ chân cứng đá mềm.
Theo blog FB của TMK
QUÊ CHOA
QUÊ CHOA
TRẦN MỘNG TÚ * QUÁN TRÀ
QUÁN TRÀ THINH LẶNG
TRUYỆN NGẮN TRẦN MỘNG TÚ
TRUYỆN NGẮN TRẦN MỘNG TÚ
Hà Nội là cả một thế giới bí mật, nó luôn luôn giấu những bất ngờ nho nhỏ ở một chỗ ta không hình dung ra được. Một may mắn tình cờ nào đó ta tìm thấy cái bí mật đó ngay trước mặt ta, ta bàng hoàng như được ai mời một chén rượu quý. Cái ngọt của ruợu cứ vương mãi ở cổ như một bài thơ chưa đọc đến câu cuối cùng. Câu thơ đó có thể ở lại với ta suốt một đời người.
Một buổi chiều, tôi lang thang trên đường phố Hà Nội, đi một mình trong khi chờ đợi chồng con (được một ngày mẹ cho) đang phân tán trong phố cổ trở về đi ăn tối. Vừa đi vừa ngắm nghía hai bên: phố, người, xe tấp nập buổi tan tầm, chạy đâm vào nhau, như những con rối trong tuồng múa rối nước. Cái cảnh này trên thế giới chỉ có ở những nơi đất hẹp người đông như Hà Nội, Sài Gòn Việt Nam ta có lẽ là hai nơi điển hình nhất. Chen giữa bước chân đi là những hàng ăn, hàng uống bầy cả ra hai bên phố. Ngay trước các cửa hiệu hàng hóa, ai muốn bán thì cứ bầy ra bán. Ở một con ngõ vào xóm người ta cũng có thể giăng một tấm bạt từ vách tường của nhà bên phải sang vách tường của nhà bên trái ở ngay đầu ngõ làm thành một quán cà phê hay một quán bán chè, bán cháo. Ai may mắn có được cái mặt tiền độ ba thước vuông là thành một cửa hiệu khang trang lắm rồi, còn không thì cứ bầy ngay ra trên lối đi, trên một nắp miệng cống cũng để vừa một gánh hàng rong. Khách hàng xúm xít ngồi xuống ăn uống rất là tự nhiên, giản dị, thưởng thức món ăn rất hạnh phúc, chẳng kém gì những người khách ở trong một nhà hàng sang trọng thưởng thức món ăn của mình.
Tôi hòa mình vào trong cái dòng sinh mệnh đông đảo đó. Lang thang mãi, mỏi chân và khát nước, thấy thèm một ly trà quá. Thật may, một cái quán bán nước trà, kẹo lạc (đậu phọng) đơn sơ ngay góc đường Tôn Ðức Thắng và Ðoàn Thị Ðiểm. Quán không có bảng hiệu, vài cái bàn thấp và ghế đẩu, nhưng gần như mọi người đã ngồi hết, tôi đứng loay hoay một vài giây chưa biết làm sao, bỗng có người giúi cho vào tay chiếc ghế đẩu, mà chẳng nói câu gì. Tôi vội vàng cám ơn và nhận được một nụ cười. Ngồi xuống chưa kịp gọi, thì chủ quán, một người đàn bà trẻ khoảng ngoài ba mươi đã đem đến trước mặt tôi một ly nước trà, và cái đĩa nhỏ có mấy chiếc kẹo. Chị không nói câu nào, đặt ly nước trà bốc khói, thơm ngát xuống ngay một một góc bàn đã có bốn người ngồi trước mặt tôi với một nụ cười, tôi cũng cười lại đáp lễ, cúi xuống nhìn vào ly nước một giây, rồi uống một ngụm nhỏ. Nước trà vừa chát, vừa ngọt, vừa thơm. Ðúng là trà mộc Thái Nguyên. Uống ngụm trà mà như uống một nụ cười. Hình như những người ở trong quán này ai ai cũng hào phóng nụ cười.
Nước trà làm tôi tỉnh hẳn người, lúc đó tôi mới để ý nhìn chung quanh. Quán trà nhỏ xíu nhưng ấm cúng và giản dị. Chị chủ quán đang loay hoay với nhũng chiếc ấm, những hộp, những gói trà và những chiếc ly thủy tinh. Ánh lửa ở chiếc lò ga hắt lấp lóe lên một bên má chị, nhìn thấy cả đuôi lông mày của con mắt bên đó, kéo dài một nét thanh thanh, cái bóng nhỏ bé của chị hắt một vệt rất mờ lên vách. Cả quán có ba chiếc bàn vuông và một chiếc bàn dài, bàn vuông ngồi được hai người, bàn dài ngồi được bốn người. Quán rất hẹp nên các bàn kê gần nhau lắm. Bàn nào hình như cũng chêm thêm ghế, khách ngồi sát vào nhau rất thân mật. Họ chụm đầu vào nhau trò chuyện, nhai kẹo lạc ròn thành tiếng. Khói trà nghi ngút bốc lên ngang mặt mọi người, nhưng sau làn khói mỏng manh đó, những con mắt vẫn ánh lên khi họ nhìn nhau trò chuyện. Thỉnh thoảng họ lại giơ tay đập vào vai nhau rất thân thiện.
Quán trà binh dân này không có tiếâng hát, tiếng nhạc vỡ ra từ máy phát thanh hay truyền hình như ở các quán khác, nên không khí rất êm ả. Khách nói chuyện với nhau rất khẽ, khẽ đến nỗi không nghe được tiếng, chỉ thấy những bàn tay xòe ra, nắm vào, những ngón tay chỉ vào ngực mình, hay chỉ vào mũi người khác thi nhau múa lên. Nếu họ nói thành tiếng thì chắc quán đang ồn lắm. Mặc cho tiếng ồn ào của xe gắn máy, tiếng còi xe bóp inh ỏi, tiếng người gọi nhau ơi ới, tiếng rao hàng và cả đôi khi chen vào cả tiếng cãi cọ trước cửa quán. Những người vào đây uống trà họ giữ được không khí rất thinh lặng. Nói rất khẽ và cười rất nhẹ. Chị chủ quán luôn luôn biết ý khách hàng. Không đợi gọi. Kẹo chưa hết đã đem ra, trà lúc nào cũng được rót đầy ly đem tới. Chị thong thả chuyên nước sôi từ ấm sang bình. Tiếng nước sôi trên bếp cũng nhẹ nhàng như tiếng guốc chị di chuyển, hình như tôi nghe được cả tiếng thở của chị.
Tôi uống đến ly trà thứ hai và ăn gần hết chiếc kẹo, tỉnh hẳn người, lúc đó mới quan sát kỹ đến những người khách chung quanh mình. Phần đông còn trẻ, người lớn tuổi nhất chắc chỉ khoảng bốn mươi, họ đang nói chuyện với nhau bằng những bàn tay múa khoa lên trong quán. Cách nói chuyện của họ làm tôi liên tưởng đến một lớp Sign Language ở College tôi đã theo học cách đây mấy năm. Câu đầu tiên chúng tôi học là lấy ngón tay chỉ vào giữa ngực mình, xong xòe bàn tay ra áp vào bên trái ngực, rồi chỉ ngón tay vào người đối điện. Như thế có nghĩa là I love you. Tôi đã học hết khóa vỡ lòng và có thể nói chuyện vài ba câu thông thường với người câm, điếc. Bẵng đi một thời gian không học tiếp theo, bây giờ khó mà nhớ lại được hết những điều mình đã học.
Chị chủ quán đã đến gần tôi với một mảnh giấy, đưa cho tôi đọc. “Ðây là quán Trà của người câm và điếc, bà cần gì thêm xin viết xuống đây” Tôi ngẩn người ra nhìn chị, chị nhìn lại tôi cũng vẫn với nụ cười. Tôi viết lên tờ giấy của chị vừa đem đến, hỏi chị mở quán này bao lâu? Thì chị cho biết là mới hai năm, sau khi vừa lập gia đình, anh cũng là người dùng ngôn ngữ thinh lặng như chị. Chúng tôi tiếp tục bút đàm với nhau, chị nói khi mới mở quán trà, muốn bán cho tất cả mọi người, nhưng khách nói được đến uống trà thấy cứ phải bút đàm với chủ quán mất nhiều thời giờ quá trong khi khách không nói được thì cứ giơ tay chỉ trỏ vào họ, nên họ bỏ đi. Dần dần những người câm, điếc rủ nhau đến đây uốâng trà, coi như quán này mở ra chỉ để dành riêng cho họ, những người đối thoại thinh lặng.
Tôi ngồi im trong bóng chiều chập choạng, một vài cửa tiệm đã lên đèn, chị chủ quán cũng bật lên một ngọn đèn điện ở một góc quán, ngonï đèn không được sáng lắm, nhưng cũng soi rõ những bàn tay đưa ra, những ngón tay chỉ trỏ vào nhau, tôi ngắm nhìn những bàn tay đó cố vận dụng vốn liếng ít ỏi đã học được của mình, dần dần tôi hiểu họ đang nói với nhau về việc làm, giá sinh hoạt, có người có con vừa ở bệnh viện ra, có người vừa thất nghiệp. Tôi dở quá nên nghe được mà không nói được. Nếu tôi còn nhớ để nói chuyện được với họ thì hay biết bao!
Nếu ai đã từng được thưởng thức tuồng Nô của người Nhật, là một loại tuồng trong đó các diễn viên sơn mặt trắng toát giống nhau, khi diễn kịch không nói tiếng nào, chỉ diễn tả bằng cách khoa tay múa chân, người xem phải đoán được cảm xúc của họ qua những cử chỉ đó, thì thấy những người đang uống trà trong quán này giống như họ vậy, có khác một điều là những người này không phải kịch sĩ, không quét sơn trắng lên mặt, nên ta đọc được cảm xúc trên từng cái cau lông mày, cái cười mệt mỏi nửa miệng, hay nụ cười nở tung ra như một đóa hoa. Tôi phải nhờ chị chủ quán thông dịch lại cái ngôn ngữ thinh lặng này. Tôi viết xuống giấy câu hỏi, rồi chị chủ quán dùng tay nói lại với họ. Chị cho biết phần đông những người này không biết đọc, biết viết. Nếu tôi muốn nói chuyện với họ, phải nói thật to, không được dùng tay che miệng, họ sẽ nhìn miệng tôi mà đoán tôi đang nói câu gì.
Có người rút ở trong túi ra một tờ giấy, có bọc plastic với một dòng chữ in sẵn: Tôi vừa câm vừa điếc. Không biết chữ. Xin nói to và đừng che miệng. Tôi nhìn tờ giấy được giữ gìn cẩn trọng như một tờ căn cước mà trong lòng rưng rưng, thấy nghèn nghẹn ở cuống họng, vội cúi xuống uống ngay một ngụm trà.
Tôi ngồi chuyện trò với họ bằng sự trợ giúp của chị chủ quán, chúng tôi nói với nhau về những đời thường. Chuyện gia đình, chuyện học của con, chuyện việc làm của cha mẹ. Họ hỏi tôi về cái đất nước xa xăm tôi sống, ở đó những người câm, điếc được giúp đỡ thế nào? Chúng tôi hỏi nhau cả về chuyện uống trà. Câu chuyện càng lúc càng thân thiện cởi mở, họ nói năng tự nhiên, ước mơ giản dị, chỉ mong kiếm đủ ngày hai bữa, có chút tiền dành dụm phòng khi con cái ốm đau và đủ tiền đóng học phí cho con mỗi khóa học.
Nhưng buổi chiều tan việc, họ bỏ lại tất cả nhọc nhằn khuân vác trên bến dưới thuyền ở những bãi sông; những túi xi măng, những viên gạch, tảng đá ở nơi xây cất; cái cuốc cái xẻng ở một con đường đang đào, đắp nào đó, ghé uống mấy ly nước trà và gặp những người cùng chung ngôn ngữ với họ, ngôn ngữ thinh lặng trong quán trà thinh lặng này.
Tôi ngắm nhìn họ cầm ly uống trà rất là bình dân, với vẻ sảng khoái, hình dung ra ở một nơi uống trà khác của những người được gọi là thanh lịch. Những quán trà dành cho tao nhân mặïc khách có những nghi thức cầu kỳ gọi là Trà Ðạo. Khi cho trà vào ấm thì gọi là Ngọc Diệp Hồi Cung. Khi tráng trà thì gọi là Cao Sơn Trường Thủy ( rót nước 60 độ, cao cách trà 20-30 phân) Khi pha trà thì gọi Hạ Sơn Nhập Thủy ( rót sát miệng ấm, nước sôi đủ 100 độ) Khi nhấc chén trà lên thì mấy ngón tay cũng được thăng hoa gọi là ba con rồng Tam Long Giá Ngọc, trước khi uống ngụm trà đó phải từ tốn đưa lên mũi từ trái sang phải thưởng thức mùi thơm của trà gọi là Du Sơn Lâm Thủy.* Chao ôi là nghi lễ, là cầu kỳ.
Những người uống trà trong quán trà Thinh Lặng này họ giản dị lắm, trà do chị chủ quán pha một bình lớn, rót ra sẵn trước mặt, họ cầm lấy chén trà, nhìn nhau bằng những ánh mắt thân mật, ngửa cổ lên uống một hơi đầy, uống theo cả mệt nhọc của một ngày lao động vất vả vào lồng ngực. Họ chỉ vào ngưc mình, ngực bạn, nói lòng quý mến nhau. Những tiếng động bên ngoài đường của xe cộ, của âm thanh ầm ĩ, họ bỏ cả ngoài tai. Trong những lồng ngực đơn sơ đó cái âm thanh tĩnh lặng kéo dài theo nhịp đập êm ả của trái tim.
Tôi chào họ ra về, mang theo quán trà Thinh Lặng trong trái tim nhiều tiếng động đời thường của mình, nước mắt bỗng ứa ra.
Chao ôi, là quê hương yêu dấu! Mỗi chỗ giấu một điều bí mật, ta có may mắn tìm thấy, khác nào như những người tìm được châu báu trong kho tàng cổ tích thần tiên.
Trần Mộng Tú
03/2008
Trích Ký-Những Mảnh Quê Nhà.
* Cách pha trà ở Lư Trà Quán, Thanh Xuân- Hà Nội.
PHAN BÁ THỤY DƯƠNG * TRẦN HOÀI THƯ
Qua Ô CỬA của Trần Hoài Thư, Nghĩ và Viết Về Thơ Chiến Tranh Miền Nam.
Tác giả: Phan Bá Thụy Dương
• ảnh THT
Herbert Hoover vị tổng thống thứ 31 của Hoa Kỳ đã nói: “Giới lãnh đạo già tuyên bố chiến tranh nhưng chính giới trẻ là người phải chiến đấu và chịu chết.” [1] Chiến tranh đã tạo nên không biết bao nhiêu cảnh ly tán, hủy diệt không biết bao nhiêu sinh mạng một cách oan uổng và làm kiệt quệ trầm trọng tài nguyên quốc gia. Nhưng, nếu nhìn từ một góc độ khác, chiến tranh cũng đã sản xuất, tạo nên nhiều vĩ nhân lừng danh trong quân sử, những văn thi sĩ lỗi lạc trong nền văn học sử thế giới.
Bài viết ngắn này không phải là một luận đề về thơ chiến tranh toàn cầu mà chỉ giới hạn trong thơ Chiến Tranh VN, trong giai đoạn tàn khốc nhất, từ thập niên 60 cho đến ngày miền Nam rơi vào tay chế độ Cộng Sản Hà Nội. Hạn hẹp hơn nữa, người viết chỉ muốn truyền đạt, giới thiệu đến bạn đọc một số cảm xúc, hình ảnh, tâm tư... của người lính chiến Trần Hoài Thư [THT] đã phản ảnh qua tác phẩm của anh: Ô Cửa.
Tuy nhiên, để có thêm hương vị, khải triển chủ đề rộng hơn đôi chút, người viết sẽ đề cập, dẫn trích thêm một số ít thơ về chiến tranh của các văn thi sĩ Việt, Mỹ khác - những người đã trực tiếp cùng THT tham dự cuộc chiến “ý thức hệ” trong giai đoạn đầy nhiễu nhương đó. Nếu thấy cần thiết, sau này người viết sẽ trở lại, bàn về đề tài sâu rộng hơn, với nhiều thi sĩ tiêu biểu cho cả 2 miền Nam Bắc, cùng những khuynh hướng đối kháng hay quan điểm tương đồng.
Theo lời tác giả, Ô Cửa là một tổng hợp của 5 thi tập: Thơ THT, Qua Sông Mùa Mận Chín, Tháng Bảy Hành Quân Xa, Ngày Vàng và Người Lính, mà anh đã xuất bản trước đây - sau khi nhuận sắc, tuyển chọn lại. Tập thơ dày 380 trang, với 237 bài, in trên giấy đặc biệt, tranh bìa của Thân Trọng Minh, do Thư Ấn Quán của anh ấn hành. Bản đẹp, dành tặng thân hữu nên không thấy ghi giá bán.
Danh từ “thơ chiến tranh” kể từ Homer đã trở nên càng ngày càng phổ biến một cách rộng rãi, nhất là sau khi chiến cuộc VN kết thúc. Hiện nay các quốc gia đồng minh của VNCH và đã từng trực hay gián tiếp tham chiến trên lãnh địa VN, mỗi nước đều có rất nhiều cơ quan, thư viện… lưu trữ, quảng bá thi ca viết về cuộc chiến VN, được sáng tác bởi những cựu chiến binh của họ. Cho đến bao giờ thì thi ca về thể loại này của các tác giả miền Nam trước 75 mới được các tổ chức văn hóa, chính trị hải ngoại hay nội địa dành cho nó một vị trí nghiêm túc, sáng sủa hơn, để bảo tồn những ấn chứng quan trọng trong giai đoạn lịch sử đã qua, đã được khép lại?
1. Trực diện với chiến tranh, tiếp cận với tử thần
Bây giờ chúng ta hãy bước qua Ô Cửa, thử đi vào nội dung cuốn sách để xem người chiến binh này đã trình bày, muốn chuyển gởi những gì tới người đọc, qua những năm dài phục vụ dưới cờ, trong thời tao loạn, nhiễu nhương:
Giòng sông phân tranh hai vùng thù nghịch. Đêm xuống đồi gặp con nước nổi. Súng đạn đưa khỏi đầu. Từng con một vượt sông. Rồi trước khi trèo ngọn Kỳ Sơn. Anh lạc trên cánh đồng trăng mênh mông. Không biết nơi nào là cõi dữ. Trên đôi vai anh nặng nề lịch sử. (“Đêm Vượt Sông,” tr 5)
Từ giã giảng đường chật hẹp, nóng bức, người sinh viên mang đầy lý tưởng, hoài bão và mộng mơ ấy đã chấp nhận đi vào nơi thâm sâu cùng cốc, theo lời kêu gọi của núi sông. Ngoài trách nhiệm thi hành nghĩa vụ công dân, có thể anh còn coi việc đó như một lần đi thám hiểm, khai phá về những chân trời mới, quyến rũ hơn, để thưởng ngoạn thiên nhiên, giao lưu nhân thế, thử thách định mệnh:
Ở đây đèo ải ngăn sông lộ. Trăm đứa lên có mấy đứa về. Giày trận bám bùn mưa tối mặt. Mùa hè gió thổi bụi tê tê. Thanh niên ta bỏ miền trung thổ. Theo mảng mây trời trên bản xa. Núi dựng. Rừng bạt rừng. Lá mục. Phơi ngàn năm lạnh cắt xương da. Ta về ngơ ngác cơn sinh diệt. Ngỡ làm tên ẩn sĩ tìm trầm...(Về Với Núi, tr 55)
Cũng trong ý niệm chấp nhận khoác chinh y để bảo vệ quê hương, giữ gìn lãnh thổ, t ừng l ớp, t ừng l ớp lớp thế hệ tuổi trẻ đã đành bỏ cả tương lai, hoài bảo, rồi mang theo cuộc tình để tham dự vào cuộc chiến đấu gian lao, mà tự thân họ không có quyền lựa chọn, hoặc từ chối:
“…Vào giờ G ta ra mặt trận - nón sắt bần thần theo gót giày sô - hiu hắt đường mưa tiến về âm phủ - vừa cảnh giác đời, vừa ủ chiêm bao - khẩu súng cạc bin chúi đầu xuống đất - như muốn nói gì với cánh Rừng Lăng -
Xuân Phổ bên kia chập chờn bóng địch - lập cập hồn ai, bèo vướng chân mày ? - nước lạnh môi khô lóe lên đóm nhớ - màu mắt bên màu hoa súng ngày xưa - ta vẫn yêu em, yêu toàn nhân loại - nên gắng khom lưng, tiến chiếm Xóm Dừa…” [Luân Hoán * Trên Đường Lững Thững Hành Quân, Đạn Thù Có lẽ Ngập Ngừng Tránh Ta]
để lãnh nhiệm vụ trấn thủ biên cương xa xăm, tiền đồn heo hút, dẫy đầy hiểm nguy, bất trắc. Vì chưng, họ đã lỡ sinh ra vào một giai đọan lịch sữ đen tối, vào thời buổi loạn ly, máu lửa với đạn bom và nước mắt:
“…Giặc cứ pháo xá gì cơn bão giạt - nón sắt che cho đỡ lạnh mái đầu - đêm nến thắp ánh hỏa châu hiu hắt - sinh nhật ai máu đỏ giữa canh thâu - đường truông núi hai mươi năm chất ngất - tuổi lang thang vào xương máu bàng hoàng - mai về phố với hồn chai lạnh ngắt - mua tình vui dồn trống chuỗi mênh mang - khúc chinh chiến đã từ lâu quên hát - vầng trăng treo mầu úa hướng mong chờ - mai xuống núi tiếp một ngày phiêu bạt - tìm lại mình đánh thức một cơn mơ” [Nguyễn Mạnh Trinh * Kontum Bài Thơ Cũ]
Có người tuy dấn thân, tham dự vào cuộc chinh chiến với thái độ thản nhiên, xem đó như là chuyện tai trời ách nước, một trò tiêu khiển, nhưng chắc hẳn trong thâm tâm anh cũng khó thoát khỏi những ray rức, trăn trở hoặc suy tư, đau xót về thực trạng rợn người phơi bày trước mắt:
“Bốn bề sương muối bủa quanh - hỏa châu đỏ rực năm canh rợn người - ta về tham dự cuộc chơi - rựơu cần, súng đạn với lời kêu thương.” [Huy Lực * Đêm Tiền Đồn Pleime ]
Nghĩa vụ gìn giữ biên cương, lãnh thổ, quả là một gánh nặng luôn đè trên vai những chàng lính trận tiền phương. Từng hốc đá, cánh rừng, từng bờ sông, ngọn suối, từng chân núi, triền đồi mãi mãi là nơi hiểm địa, tử địa, dể dàng hủy diệt, cướp đi mạng sống của mình:
Một chút cay cay mà lòng buồn tủi. Buồn thì về đừng nán lại thằng em. Không sao cả lên đồi cao xuống vực. Đất mở rồi ở lại cũng buồn thêm... Cùng đứng lại hai chân nghiêm cúi mặt. Đây hàng quân đọc lại thiếu tên em. Người lính trẻ chưa đầy hai mươi tuổi. Nhớ thì về cốc rượu để phần em. (Viết Cho Thằng Em Cùng Trung Đội, tr 35.)
Nhớ thì về cốc rượu để phần em. Câu thơ chứa đầy trìu mến, thể hiện một thứ tình huynh đệ chi binh thắm thiết. Đó là lời của một người anh dành cho đứa em vắn số, chứ không phải loại ngôn từ của một cấp chỉ huy nói với kẻ trực thuộc. Thứ tình huynh đệ chi binh và s ự trìu mến này, người ta cũng thấy hiện rõ nét trong thơ của Pete Agriostuthes dành cho người tiền sát viên tên Nam qua bài “He was a Chiêu Hồi”, hoặc qua thơ của Kevin Bowen, Steve Mason, Sarge Lincetum, Wilfred Owen, Walter McDonald... Đặc biệt là của Yusef Komunyakka, người đã chiếm Pulitzer Prize năm 94 với tuyển tập Neon Vernacular xuất bản năm 93, trong đó chứa đựng phần lớn các bài của tập thơ mang tựa đề Việt ngữ “Điên Cái Đầu”, vốn đã phát hành từ năm 88.
Súng đạn vô tình nào biết né tránh ai. Khi một người chiến sĩ không may, vĩnh viễn nằm xuống thì người đời thường cho rằng anh ta đã vị quốc vong thân, là một người anh hùng, là kẻ đáng được tuyên dương, ca ngợi. Có đúng vậy không hay ta cần thử suy gẫm, xét nghiệm lại câu nói lừng danh, mang hơi hám, tư tưởng phản chiến dưới đây của "papa" tức văn hào Ernest Hemingway -người đoạt giải Nobel 54 về Văn học, khi ông phát biểu: “Ngày trước người ta nói rằng: Hy sinh cho quốc gia của mình là một hành động cao cả và xứng đáng. Nhưng trong cuộc chiến hiện đại không có gì là vẽ vang hay thích nghi khi anh mất đi. Anh sẽ chết như một con chó cho một lý do chẳng có gì là tốt đẹp.”[2]
Xin mời bạn đọc tiếp những vần thơ nóng bỏng, hồi hộp khác của chàng thám báo trẻ tuổi THT:
Băng đồng, băng đồng đêm hành quân. Người đi ngoi ngóp nước mênh mông. Về đây Bình Định ma thiêng lãnh. Mỗi địa danh rờn rợn oan hồn. Trung đội những thằng trai tứ chiến. Những thằng bỏ lại tuổi thanh xuân. Diều hâu bôi mặt hù ma quỉ. Thuở đất trời bày đặt nhiễu nhương. Đêm của âm binh về xứ khổ. Poncho phơ phất gió hờn oan. Trên vai cấp số hai lần đạn. Không một vì sao để chỉ đường. (Trung Đội, tr 31)
Những cảnh tượng bi tráng, nghiệt ngã như thế cũng thể hiện đầy dẩy trong thi ca của các chiến hữu đồng minh, như Marko Whiteley đã viết tại mật khu Hố Bò qua Lonely in the Reservoir, Thoughs of War..., như W.H McDonald viết ở Phú Lợi với “I Learned About War Last Night” hoặc Sarge Lintecum qua “Ambush” và nhất là bài thơ được phổ nhạc của ông, rất phổ cập, được mọi người ưa chuộng: " The Vietnam Blues".
Xin hãy đọc thêm những dòng diễn tả vừa chân thật, vừa ngộ nghĩnh, thanh thản của người “lính sửa” trong những ngày đầu nhận lãnh trách nhiệm dẫn dắt đơn vị:
Ta trở về giáp mặt chiến tranh. Đồi cháy lửa mặt trời nhuộm lửa. Thau rượu đế mừng ta thằng lính sửa. Dzô ông thầy hữu sự có thằng em. Trung đội ta về hai mươi mấy thằng con. Đứa gốc người Kinh, đứa Nùng, đứa Thượng... Trên đầu ta mũ rừng nhẹ hẫng. Trong túi ta một gói chuồn chuồn. Bắt tù binh mời điếu thuốc thơm. Để thấy miền Nam lính hiền ghê gớm. (Ta Lính Miền Nam , tr 36)
Qua 2 câu cuối của bài thơ, ta có thể thấy rõ phong cách của ngưòi chiến binh miền Nam khi đối xử với tù binh, hàng binh, dù mới cách đó không lâu đồng đội của mình đã bị giết, bị thương. Cũng với tâm trạng, bản chất đó, ta thử đọc xem Tô Thùy Yên đã trò chuyện như thế nào với người tử sĩ bên kia chiến tuyến trong đoạn thơ dưới đây:
‘…Ở cõi âm nào người vốn không tin. Hỏi nhau chơi thỏa chút tính bông đùa. Người cùng ta ai thật sự hy sinh. Cho tổ quốc Việt Nam - một tổ quốc...? Các việc người làm, Người tưởng chừng ghê gớm lắm. Các việc ta làm, Ta xét chẳng ra chi.” [Tô Thùy Yên * Chiều Trên Phá Tam Giang]
Hay những ngôn từ phóng khoáng, thân thiện, chứa chan hào khí, tình giang hồ của một quân nhân VNCH khác khi anh giáp mặt, trực diện đối phương:
“…Kẽ thù ta ơi, các ngài du kích - hãy tránh xa ra đừng chơi bắn nheo - hãy tránh xa ra ta xin xí điều - lúc này đây ta không thèm đánh giặc - thèm uống chai bia, thèm châm điếu thuốc - thèm ngọt ngào giọng hát em chim xanh - kẻ thù ta ơi, những đứa xâm mình - ăn muối đá và hăng say chiến đấu - ta vốn hiền khô, ta là lính cậu - đi hành quân rượu đế vẫn mang theo - mang trong đầu những ý nghĩ trong veo - xem chiến cuộc như tai trời ách nước.
Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước - vì căn phần ngươi xuôi khiến đó thôi - chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi - suy nghĩ làm gì lao tâm khổ trí - lũ chúng ta sống một đời vô vị - nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau - mượn trời đêm làm nơi đốt hỏa châu - những cột khói giả rồng thiêng uốn khúc - mượn bom đạn chơi trò pháo tết - và máu xương làm phân bón rừng hoang.” [Nguyễn Bắc Sơn * Chiến Tranh và Tôi]
Chiến tranh. Ôi chiến tranh. Người ta đã nhân danh nó để hủy diệt không biết bao nhiêu nguồn sinh lực sáng lạng của quê hương, triển vọng của tổ quốc. Người ta đã nhân danh nó để làm tan rã không biết bao nhiêu cuộc tình nồng thắm và mái ấm gia đình. Lòng không mang hận thù, họ là các chiến binh VNCH đi bảo vệ lãnh địa, cương thổ. Họ là những cán binh “quân đội nhân dân” bị tuyên truyền, xô đẩy, lôi cuốn vào tình huống bi thảm “sinh Bắc tử Nam” để giới chóp bu CS mau chóng thực hiện ý đồ cướp đất, xăm lăng miền Nam. Bản thân họ nào được gì ngoài những thua thiệt, mất mát:
“Em hỏi anh bao giờ trở lại - Xin trả lời mai mốt anh về - Không bằng chiến trận Pleime - Hay Đức Cơ - Đồng Xoài - Bình Giả - Anh trở về hàng cây nghiêng ngã - Anh trở về hòm gỗ cài hoa - Anh trở về bằng chiếc băng ca - Trên trực thăng sơn màu tang trắng - Mai trở về chiều hoang trốn nắng - Poncho buồn liệm kín hồn anh - Mai trở về bờ tóc em xanh - Vội vã chít khăn sô vĩnh biệt.
Mai anh về em sầu thê thiết - Kỷ vật đây viên đạn mầu đồng - Cho em làm kỷ niệm sang sông - Đời con gái một lần dang dở - Mai anh về trên đôi nạng gỗ - Bại tướng về làm gã cụt chân - Em ngại ngùng dạo phố mùa xuân - Bên người yêu tật nguyền chai đá - Thì thôi hãy nhìn nhau xa lạ - Em nhìn anh - ánh mắt chưa quen - Anh nhìn em - anh sẽ cố quên - Tình nghĩa cũ một lần trăn trối.” [Linh Phương * Kỷ V ật Cho Em]
trong một cuộc nội chiến tương tàn mà bản thân những chiến sĩ miền Nam có lúc phải phân vân, tự vấn, suy tư:
“…những thằng lính thời nay không mang thù hận - bạn hay thù chẳng có một lằn ranh - thôi hãy uống. mọi chuyện bỏ lại sau - nếu có thể ta gầy thêm cuộc nhậu - bày làm chi trò chơi xương máu - để đôi bên nuôi mầm mống hận thù - ta chán lắm rồi ba chuyện ruồi bu - chỉ có bạn, có ta là người thua cuộc.
người yêu của bạn ở ngoài phương bắc - giờ này đang hối hả tránh bom - hay thẫn thờ dõi mắt vào Nam - để chờ người yêu mình trở thành liệt sĩ - rồi cũng sẽ quên, như bao điều suy nghĩ - tình yêu như một thứ điểm trang - che đi chút dối lòng, nhẹ bớt đi chút nhọc nhằn - uống với bạn hôm nay ta phải thật say - để không phải còn nhìn nhau hận thù ngun ngút.” [Phan Xuân Sinh * Uống Rượu Cùng Người Lính Bắc Phương]
Đọc những áng thơ hiền hòa, nhẹ nhàng kia, tôi tự nhiên như thấy lại bóng dáng của 2 ngưòi bạn gốc "cùi" là Vĩnh Nhi thủ khoa khóa 17, Hoàng Thọ Khương khóa 19 của trường Võ Bị Lâm Viên - Đà Lạt và người bạn trẻ yêu thơ Trần Phước Chí khóa 18 của đồi Tăng Nhơn Phú - Thủ Đức, hiển hiện về trước mắt.
Những chiến sĩ can trường thuộc Sư đoàn Phượng Hoàng này, khi bắt tù binh, họ luôn luôn cho đối phương ăn uống tử tế, mời mọc thuốc lá, rồi mới chuyển giao về hậu cứ. Họ không bao giờ cho sĩ quan an ninh đánh đập, dù đôi khi cần khai thác tin tức sơ khởi tại mặt trận. Rất tiếc, 3 chiến hữu tốt, hiền hòa này đều lần lượt ra đi, trước và sau biến động Tết Mậu Thân không lâu trước mắt tôi, trong những ngày tôi còn dấn thân, phục vụ tại khu chiến Tiền giang. Người viết, lúc đó, chẳng biết làm gì hơn ngoài việc viết bài chiêu niệm trên trang Văn Nghệ Quân Đội và mục Viết Cho Người Nằm Xuống để an ủi linh hồn người chết, và gia quyến họ.
Những biểu tượng đầy nhân bản tính trên đối với người khác giới tuyến của họ, cộng với sự thái độ, cảm nghỉ của THT, TTY, NBS, PXS... khiến tôi nhiều lần thấm thía tự thầm hỏi mình. Phải chăng những quân nhân này và còn nhiều, còn nhiều những anh em, chiến binh trong các quân binh chủng khác, đã luôn luôn mang theo trái tim loại “grand coeur” của d’Amacis, trên đường hành quân? Hay họ là những đệ tử ngoan của cụ Winston Churchill - vị anh hùng, nhà chính trị khét tiếng của thế kỷ 20, người đã được trao giải Nobel năm 53, vì họ luôn tuân thủ lời khuyên của ân sư: "Tác phong là một việc nhỏ, nhưng nó tạo nên những khác biệt lớn lao. Biểu lộ một chút lịch sự, tử tế cũng chẳng tốn kém, mất mát gì."[3]
Sau khi Sàigòn thất thủ, tôi thường nghe thiên hạ bảo nhau: Một trong những yếu tố quan trọng đưa đến việc mất nước là vì dân quân miền Nam đã quá hiền hòa và đối xử nhân đạo với kẻ thù. Những người cùng chung một tiếng nói bên kia lằn ranh giòng sông chia cắt, bên kia vĩ tuyến có phải là kẻ thù của chúng tôi không? Thật sự, chúng tôi có cần xem họ là kẻ thù không, sau khi cuộc đụng độ đã tàn, khói lửa đã nguội tắt, chỉ vì họ bị cưỡng bức làm những con chốt đáng thương, trong ván cờ tham vọng bành trướng chủ thuyết CS lỗi thời Mác-Lê-Mao?
Mời bạn đọc thử xem qua những hình ảnh đáng trách, dể làm nản lòng người đang dấn thân ở các tuyến đầu. Tình trạng tương phản tương ấy đã được phản ảnh dưới góc nhìn của tác giả Ô Cửa. Lời thơ tuy có man mác nỗi uất hận, phẩn nộ nhưng cũng đầy thương cảm, ngậm ngùi như một khúc bi ca:
Đất nước ta cường quốc bán buôn. Hậu phương ăn chơi biểu tình, đảo chánh. Lúc đồng đội ta chết lên chết xuống. Một đám ở nhà nhảy nhót thâu đêm. Lãnh chúa ta ăn trước ngồi trên. Hùng hổ lắm nhưng mạt hèn cũng lắm. Khóa của ta trên mấy trăm thằng tình nguyện. Đi Nhảy Dù, Thủy Bộ, Thám Báo "ác ôn". Đứng đợi cả ngày để bắt lá thăm. Toàn thứ dữ mà vui như chợ Tết. Có đứa mang bằng kỹ sư về nước. Chọn Cọp Ba Đầu Rằn làm lính tiền phong. Ta lính miền Nam hề vận nước ngửa nghiêng. Ta cũng lênh đênh cùng cơn mạt kiếp. Ta trèo lên cây hỏi rừng có biết. Có người lính nào bi tráng hơn lính miền Nam ? (Ta Lính Miền Nam , tr 36)
Giữa lúc vận nước lâm nguy như thế thì dường như một số giới lãnh đạo chỉ nghĩ đến quyền lợi riêng tư, một số người hậu tuyến chỉ lo hưởng thụ, phó mặc việc giải trừ, giải tỏa áp lực dồn dập của Bắc phương trong tay những quân nhân thiếu kém quyền lực, tiền bạc, lúc nào cũng đứng trước đầu sóng ngọn gió, ồ ập vũ bão.
Trong lúc người lính chiến VNCH đang trực diện với sự sống chết để bảo vệ lãnh địa thì đồng minh của anh ta đã đóng vai trò gì trong việc ngăn chống sự xâm nhập, mưu đồ thôn tính của giới lãnh tụ Hà Nội, với sự trợ giúp không ngừng của các nước CS đàn anh Nga, Tàu? Hãy thử nhìn qua bối cảnh, hoạt động hằng ngày của những người lính chiến Mỹ từ những dòng thơ mang đầy tử khí của Marko Whiteley thuộc Tiểu Đoàn 1/TQLC trong "Thoughs of War":
“Cuộc chiến đấu thật khốc liệt khi lâm vào trận phục kích. Sự sôi nổi rồi cũng tan biến đi trong những ánh mắt sáng ngời. Lúc này chẳng phải riêng gì đối phương mà cả anh cũng mất mạng. Màn đêm đã sắp buông, đó là lúc thuận lợi cho địch quân. Họ biết rằng địa thế không thể nhìn rõ ràng về đêm. Qua màn đen của đêm sâu thăm thẳm. Kẻ bị thương thì rên rỉ, người còn lại thì tiếp tục đánh nhau. Tâm trí khởi sự báo trước một nỗi kinh hoàng”.[4]
Những tình cảnh đó có khác xa bao nhiêu trong "Đêm Đột Kích ở Nho Lâm" (trang 42), "Đêm Đột Kích" (trang 157), hay "Những Ngày Quân Về Những Ngày Quân Đi" (trang 168). Hay thử nhìn sang tâm trạng phân vân của người "Đánh Núi" trong hoàn cảnh, tình huống tiến thối lưỡng nan:
Tiến lên lại sợ phục. Rút về sợ lột lon. Hét hoài cổ họng khan. Chỉ mình ta lãnh đủ. Đi lên dao mở lối. Gai xước rách thịt da. Đau quá tức chửi cha. Những thằng già ngoài Bắc. (Đánh Núi, tr 147)
Qua bao lần đụng trận, đánh nhau ác liệt như thế, có mấy ai tránh khỏi viên đạn vô tình thoát đi từ nòng súng của người bên kia? Cho nên THT - cây sậy mỏng manh trước những cơn bão tố của chiến trường, cũng đã hơn một lần bị đổ máu, dập vùi, lưu dấu các vết tích đạn thù trên thân thể còm cỏi:
Viên đạn đồng đã cắt thịt tôi. Tôi đau quá mà em không xót. Khi tôi biết mình vừa thoát chết. Tôi cuống cuồng sợ hãi thành điên. Lần bị thương đầu tôi vẫn anh hùng rơm. Lần bị thứ hai tôi nằm thin thít. Tôi đang ở phòng trần gian hậu chiến. Đêm cứ trôi hoài từng giọt hồi sinh. Tôi ước đến điên cuồng một giọt lệ em. (Trong Phòng Cấp Cứu, tr 311)
Tuy có áy náy, lo sợ, nhưng sau 3 lần bị thương với những ngày phép dưỡng bệnh ngắn ngủi sau khi xuất viện, người lính thám báo THT vẫn thản nhiên trở về với cương vị của một người chiến binh, tiếp tục hiến thân phục vụ dưới cờ cho đến ngày nước mất, quân tan.
2. Ghi nhận về chiến tranh qua những ngày dưỡng quân, những giờ chuyển quân
Cuộc sống của người lính trận luôn gắn liền với những lần di chuyển bất ngờ, bất định. Có khi chuyển quân ra trận mạc. Cũng có được điều động tới các địa điểm gần chiến trường để làm nút chặn, làm lực lượng trừ bị, sẵn sàng tiếp ứng cho những đơn vị cơ động đang giao tranh. Vì để bảo toàn tối đa bí mật quân sự, cho nên đôi lúc nhiều cấp chỉ huy đơn vị nhỏ chỉ nhận được lệnh hay sơ đồ hành quân vào phút chót, trước giờ xuất phát, di quân. Những vần thơ sau đây đã thể hiện đầy đủ vai trò và thân phận nghiệt ngã của các chiến sĩ tiền phương đó:
Những lần chuyển quân dù chẳng biết về đâu. Nhưng chúng tôi biết những gì chờ đợi sẵn. Như thể khi viên đạn đồng trong lòng cơ bẩm. Xẹt ra khỏi nòng rồi kiến cắn tê mê. Chỉ khi nào anh cảm nhận đau tê. Có nghĩa là anh biết mình vẫn còn sống sót. Anh hãnh diện là đã đi về phía trước. Là máu hồng anh đã đổ xuống tặng em. Và khi anh trở về ôm lấy vết thương. Anh mới biết đời vô cùng độ lượng. (Người Lính Trở Về Với Chiến Trường, tr 7)
Ta hãy xem thêm thi sĩ họ Trần đã ghi nhận lại những mất mát nào qua “Chia Tặng Chung Nhau” (trang 128), hay trong những hình ảnh máu lửa tiêu biểu của chiến trường mà anh vẽ lại dưới đây - máu lửa, bom đạn, tiếng kêu đau thương, tuyệt vọng:
Xin trả lại bên trời vầng trăng đỏ máu. Và tiếng dội ầm ầm của đám trực thăng. Và cả một biển rừng lửa bốc xung quanh. Và sườn lũng cháy đen thành than củi. Người lính cũ mắt nhìn trong bóng tối. Nghe văng vẳng bên mình lời rên rỉ: Cứu em. (Xin Trả Lại, tr 11)
để từ đó anh bồi hồi, ngậm ngùi trước những hoang phế, điêu linh rồi nghi vấn, suy tư về thân phận mình và kiếp người…:
Mặt trận đổ theo bìa Đệ Đức. Nghe cận kề lửa hưóng Tam Quan. Bồng Sơn mây ám toàn tin dữ. Chiều chưa buông quận đóng năm giờ. Giặc chiếm cận sơn người chạy loạn. Còn bên cầu trơ trọi cây đa. Cây đa có mặt khi nào nhỉ. Có phải nơi này là quê hương. Có phải mỗi con người trôi dạt. Cất trong tim bóng mát thiên đường. Cây đa vươn giữa trời bi lụy. Những thổ thần hoang lạnh lư nhang. Lửa cháy Trường Lưu đò đã chặn. Chị ra sông ơi ới đoạn trường. (Cây Đa Bên Cầu, tr 20)
Địch tan, chiếm lại đất đai chưa kịp vui mừng thì người lính trận lại phải đương đầu, đối diện trước những bức tranh mang đầy dấu vết hoang tàn, đổ nát , trước “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”:
Ta đã về dành lại quê hương. Dành lại quận đường hoang tàn đổ nát. Dành lại ngôi trường lời ca tiếng hát. Ta đã về nhìn bầy chim cút côi. Nhưng ta lại không dành được em gái ta yêu. Chúng ủ rũ như lòng ta ủ rũ. Lũ bé quì bên xác người cô trẻ. Ðặt chùm hoa mếu máo gọi cô về... Em bé quê ơi cho ta một nhánh bông. Một nhánh bông quì vàng như màu áo. Ta đặt tên em. Trống trường ảo não. Như những hồi mặc niệm em tôi. Ta đã về và đã trễ em ơi. (Đêm Tiếp Cứu Chợ Huyện, tr.28)
"Ta đã về và đã trễ em ơi". Câu thơ như một tiếng kêu thống thiết, chứa chan huyết lệ, thể hiện tình quân dân cá nước.
Một hình ảnh thê lương khác đã được Anh Thuần - người phóng viên chiến trường gan lì của Cục Tâm Lý Chiến và Đài Phát Thanh Quân Đội, đã phát họa lại đậm nét khi anh đang bám trụ trên "quốc lộ máu" năm 72 để ghi nhận, tường thuật về tin tức chiến sự:
“Em về đâu, hỡi người em lạc lõng - chiều đã buông và mây đã giăng mờ - trong lửa đạn máu tanh thời chiến loạn - còn mong gì tìm được chốn an cư.” [Anh Thuần * Chiều Chiến Loạn]
Sống ở, thác về. Người lính trận miền xa nào mà chẳng ý thức được số phận mỏng manh của mình. Bởi vì, người xưa đã trải nghiệm rồi truyền lại: “cỗ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”, thì sự mất còn đối với họ cũng chỉ như lẽ tan-tụ tất yếu của mây nổi, của hoa biển. Trong lòng kẻ trấn thủ lưu đồn - lúc nghĩ ngơi, có chăng là nỗi nhớ nhung về những con đường tình đã qua và hoài niệm về sự mất mát của bạn bè, đồng đội:
“Nằm đây thương những con đường - kể em nghe chuyện chiến trường được chưa - lòng anh thơ dại bóng cờ - ngủ yên đâu dám định giờ xuất quân - đã lâu võ nghiệp quen dần - thấy người đi cũng ân cần muốn đi - hỏi người: ai chết đêm khuya - bảo: không, ngựa lạc đường về cõi xưa.” [Hoàng Lộc * Đêm Đóng Quân Ở Định Quán]
Cùng những ngỡ ngàng của thi nhân Trần Tuấn Kiệt, người đã chiếm giải nhất về thơ của Tổng Thống năm 71, qua các cảnh tượng ảm đạm của những ngày biến loạn xảy ra ngay tại các vùng ven đô của Saigon đầu Xuân Mậu Thân 68:
“…Ra nhìn khói lửa đạn bay - khói lên từng cụm đạn cày mênh mông - qua đêm ngủ giấc say nồng - tĩnh ra bốn phía chập chùng núi non - trời xa mây bạc vô cùng - sao ta nằm ngủ giữa vùng máu xương.” [Trần Tuấn Kiệt * Tết Mậu Thân Nhậu Với Bùi Giáng]
THT tuy là người chiến sĩ dạn dày phong sương, nhưng lời thơ của anh lại rất nhẹ nhàng thi vị, man mác tâm tình của một nghệ sĩ yêu người, yêu đời và yêu quê hương sâu sắc, đậm đà:
Tôi về đây. Tôi đã trở về đây. Đồi xưa tôi gọi đồi không hay. Ai đi bỏ lại hoàng hôn lạnh. Đỏ ối đồi xưa ôm lấy mây... Có ai như thể người binh Thượng. Ngồi khom trên bờ đá thổi kèn. Hôm qua có những hồn ma lẻ. Lạc tìm về buôn bản cao nguyên. Có ai dưới lớp mồ hoang dã. Nằm xuỗi chân mắt mở trợn trừng. Chiều nay sao mọc về phương Bắc. Sao ruột lòng vứt bỏ phương Nam . Cỏ tranh lớp lớp che đường dốc. Phòng tuyến buồn hiu nhuộm nắng chiều. Trận đánh cũng đi vào quên lãng. Sao còn rờn rợn những hồn xiêu. (Đồi Xưa, tr 43)
Cảnh tượng nào sau chiến trận mà không thê thảm. Không có chiến trận nào mà không có người phải hy sinh? Ngay cả những chiến sĩ đồng minh sang phụ giúp chúng ta - để chống sự xâm lược, dành dân chiếm đất của Việt Cộng vào lãnh thổ VNCH, cũng không tránh khỏi rơi vào tuyệt lộ bi thương nói trên. Xin hãy đọc thử bài thơ “As The Sun Sets In The Dark Sky” của Guy L. Jones thuộc tiểu đoàn 43 Truyền Tin. Người lính chiến Hoa kỳ này đã nghe thấy, cảm nhận gì trong cảnh "hồn tử sĩ gió ù ù thổi," trong cảnh tịch mịch dưới màn đen, trời mờ Pleiku:
“…Khi ánh thái dương chìm khuất trong bầu trời u ám, tôi nghe âm thanh của những người lính chiến đang đi đều bước và kêu gọi nhau từ một khoảng xa. Tôi nghe họ bảo rằng đừng nhỏ lệ vì họ, bởi những nỗi đau đớn của họ giờ đã tan biến cả rồi và hiện giờ họ đang đi về với Thượng đế trong cảnh an bình vĩnh cữu.
Khi ánh mặt trời lan dần về phía chân trời, hình ảnh của những người di hành đó đã vượt khỏi tầm mắt của tôi, nhưng không phải là những lời trối trăn mà họ đã nói, vì những di ngôn của từng mỗi người đó tôi vẫn ghi giữ mãi trong tiềm thức.
Tôi đã thì thầm đáp lại cho cho họ biết là tôi sẽ thông truyền những lời trối trăn ấy tới mọi người, cho bất cứ những ai muốn nghe di ngôn của họ do tôi tường thuật lại. Công việc này tôi xin hứa với tất cả các anh, tôi sẽ làm mãi mãi khi mà tôi vẫn còn sinh tồn. Xin chào vĩnh biệt các chiến hữu, xin chào”[5]
Nhà toán học, nhà tư tưởng siêu quần Blaise Pascal đã từng ví von nhận định rằng: “Con người là một cây sậy, loại mềm yếu nhất trong vạn vật, nhưng là một cây sậy biết tư duy” [6]. Thân phận người chiến binh ngoài tuyến đầu dỉ nhiên mong manh, nhưng là người biết suy tưởng, có tình cảm, thì dù ở trong cảnh trạng khói Iửa đạn bay đi nữa, mấy ai tránh khỏi nỗi niềm mơ ước. Mơ ước, hoài vọng về một viễn ảnh sớm chấm dứt chiến tranh, đất nước sớm an bình:
“…giọt máu trên ngọn cỏ mềm - của ai không biết nằm im như tờ - đằng xa sau lớp bụi mờ - mới nhìn tôi tưởng con cờ thí thân - toán tôi vừa tới bìa rừng - đã nghe đạn nổ muốn bưng cái đầu - rạp mình xuống đất nâu nâu - mặt tôi chạm nắm cỏ khâu xanh rì.
ừ thì chú cũng như tôi - cũng khiêng sông núi trên đôi vai mình - mong cho đất nước thanh bình - chớ ai mong cảnh chiến tranh bao giờ - ừ thì anh cũng như em - cũng đem tổ quốc treo trên ngọn cờ - buồn buồn bày đặt làm thơ - vui vui thì lấy súng phơ một tràng…” [Phan Ni Tấn * Rừng Tâm Sự 5 Năm Lính]
Dẫu rằng vấn nạn ấy chỉ là mộng con hay loại “nhược đại mộng” của người lính xa nhà, trong đêm buồn tênh gối súng, nằm ngắm trăng sao, mây nổi rồi mơ ước cảnh đoàn viên:
“…Trước thượng đế hai đứa đồng cúi lạy - xin Hoa-Thương-Yêu nở khắp mọi nhà - ruộng đất không còn làm bãi tha ma - sắt thép loài người đem xây tổ ấm - dưới sương gió mây ngàn bên xóm vắng - riêng chúng mình tình tự ngắm trăng non - sớm sớm chiều chiều em sẽ dạy con - bài hát đầu tiên ngợi ca Tình-Ái.” [Phan Bá Thụy Dương * Nói Với Người Mang Tên Một Loài Chim Mùa Xuân]
Đời sống của những người lính trận, vì thường xuyên phải đối diện với thần chết nên mỗi lần được nghĩ phép, dưỡng quân là cơ hội bằng vàng cho họ tìm gặp bằng hữu, anh em để cùng nhau ngã nghiêng, ngất ngây bên ly rượu, hầu tạm quên những giây phút ác liệt, nghẹt thở, bâng khuâng ngoài chốn tiền phương:
Nửa đêm như thể ngày xưa ấy. Mấy thằng trải chiếu dưới đêm trăng. Trăng sáng phơi trên hàng kẽm lạnh. Rồi chảy vào bát rượu bâng khuâng. Nửa đêm mấy đứa chưa buồn ngủ. Buồn ngủ làm sao, ta chiêm bao. Lính trận dưỡng quân nhờ tí tửu. Để mai nằm xuống hồn bay cao. Nửa đêm doanh trại đèn leo lét. Người lính canh ngồi như tượng đêm. Ma quỉ muốn chơi xin hoãn chiến. Để ta cùng đụng với anh em. (Nửa Đêm Uống Rượu Với Bạn Bè, tr 149)
Cũng không ít anh em quân nhân quan niệm r ằng : Đánh tr ận xong rồi thì ta đánh chén. Trong lúc rãnh rỗi, dưỡng quân thì ta đánh chén trước, rồi chờ ngày đánh trận sau. Lính và rư ợu. Rượu và lính cơ hồ như đôi tình nhân luôn luôn gắn bó mật thiết. Cho dù kẻ ấy là lính “tò te” mới ra “lò” hay là người đã dạn dày chiến trận, khí phách, coi thường sinh tử. Lời thơ trích dẩn dưới đây, tuy bộc lộ rõ nét ngang tàng, khoáng đạt ấy, nhưng dường như phần nào cũng mang mang ý niệm, tư tưởng hiện sinh. Bởi vì, như ai cũng biết, từ hạ bán thập niên 50 trở đi các tác phẩm hiện sinh, lãng mạn như “ Bonjour Tristesse”, “Dans Un Mois, Dans Un An”, “Un Certaine Sourire”… của nữ văn sĩ Francoise Sagan đã ảnh hưởng khá sâu đậm như thế nào với xã hội, đặc biệt là với giới trí thức trẻ, miền Nam:
“…hãy cụng ly chết bỏ - tôm cua cá lươn sò - lương ta còn nguyên vẹn - còn cả cái Seiko - Cửu long giang ra biển - sẽ chẳng trở về đây - chiến tranh hề gặp gỡ - có chắc lần thứ hai - lai mỗi thằng mỗi ngã - thằng Cà Mâu Năm Căn - thằng Bình Dương, Bình Giã - thằng địa ngục thiên đàng - nhưng ta không sợ chết - (hơi ngán què đôi chân).
còn mày sao lại khóc - cứ cười lên đi con - ta anh hùng tứ xứ - há thua những bông hồng - nơi rừng U Minh Hạ - còn dám nở dưới bom - cứ cười như họng súng - bắn cuộc đời vỡ toang...”[Hà Thúc Sinh * Hành Quân Qua Bến Phà Mỹ Thuận Gặp Bạn Đánh Chén, Say Mèm]
Dĩ nhiên bên cạnh đó còn có sự tác động mạnh mẽ hơn của các triết gia hiện sinh hàng đầu như S. Kierkegaard, JP Sartre, F. Nietzche, A. Camus… Có thể cũng với tâm trạng, khái niệm yêu cuồng sống vội, bất kể ngày mai ấy, cùng với sự cảm nhận về nỗi bấp bênh của mình trước đầu tên mủi đạn, nên tác giả Ô Cửa nghĩ rằng có thể ngày mai anh sẽ không còn cơ hội sinh tồn. Nên hôm nay có rượu thì chết bỏ, hãy cứ hăng hái tiếp nối cuộc vui “đưa cay” với bạn bè, ngay cả với linh hồn người khác địa đầu chiến tuyến:
Xin cô hàng thêm một két bia. Hôm nay lãnh lương tôi dành đãi hết. Cô hàng ơi một mai tôi chết. Ai tiêu dùm tôi ba tháng lương... Cô hàng ơi cho một ly không. Tôi rót mời một người lính Bắc. Hắn nằm băm thây dưới hầm bí mật. Trên người còn sót lại bài thơ. (Một Ngày Không Hành Quân, tr. 45)
4 câu thơ chót là 4 câu thơ đã nói l ên đầy đủ tính chất nhân bản. Phải chăng đây là một tuyên ngôn? Tuyên ngôn về tình người - tình người không biên giới, tình chung giống nòi, huyết thống VN.
Làm lính trận miền cao là sống với rừng núi khô cằn, bụi mốc. Có mấy ai khi được nghỉ ngơi về với phố thị tránh khỏi sự rung động, khi nhìn những tà áo tha thướt, phất phơ bay bay trong gió của giai nhân, của em gái hậu phương:
Thành phố nọ trở về vui một bữa. Quán cà phê và bạn hữu tao mày. Phố xanh hồng sáu chục cũng còn say. Huống bọn trẻ ở trên rừng vắng gái. Gác chân lên bàn đôi giày vạt đế. Cốc xây chừng ngầy ngậy giọt bơ thơm. Ánh mặt trời đọng lại trong ly con. Gió sông thổi tà áo màu tha thướt. Vỉa phố trời cho rộng vài ba thước. Đường phố không dài nên đi xuống đi lên. Muốn theo gót nàng nhưng không dám làm quen. Thôi chỉ biết ngồi lì mòn cả ghế. Để cố uống một lần mai từ giã. Những mái trường, những cửa tiệm, đám đông. Đàn bướm màu làm đẹp cả hoàng hôn. Để gìn giữ làm của thời tuổi trẻ. (Về Với Phố, tr 162)
3. Thân phận, ki ếp sống gian lao và nỗi u hoài của người chiến binh sau ngày miền Nam bị nhuộm đỏ
Sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bào đệ của ông bị thảm sát do nhóm tướng lãnh chóp bu đảo chánh ngày 1/11/63, tình hình chính trị và an ninh miền Nam dần dần rơi vào trạng thái càng ngày càng bất an. Có phải cái chết của cụ Ngô như là hồi chuông báo tử trước cho Tổng Thống Kennedy và sự cáo chung của chế độ VNCH? Chỉ hơn một năm sau khi người Mỹ rút khỏi miền Nam , cắt đứt viện trợ, thì quân lực Cộng hoà càng lúc càng bị trói tay, thúc thủ, do thiếu quân cụ, nhiên liệu, đạn dược... Thêm vào đó là với lệnh buông súng “lạ lùng, khó hiểu” của tướng "big Minh" đã dễ dàng đưa toàn quốc rơi vào tay lực lượng xăm lăng CS.
Trước và sau ngày dâu biển đó, người ta truyền tụng khắp nơi rằng không biết bao nhiêu quân nhân các cấp đã tự tuẫn tiết vì chẳng chịu đầu hàng. Đa số những người khác thì vì vướng bận thê nhi, cha mẹ... đã bị đưa vào các trại tập trung lao động, tẩy não, mà kẻ chiến thắng gọi là trại cải tạo, kể cả những viên chức dân sự. Bối cảnh náo loạn, bi đát của ngày tàn chiến cuộc ấy đã được thi sĩ Diên Nghị xúc cảm
ghi lại một cách sâu sắc:
“Tháng 4 - vợ ngóng chồng đầu ngõ. Nón sắt giày sô vất bỏ dọc đường. Mưa sớm khai mùa tuôn xối xả. Đất trời xúc động nỗi tai ương. Thương binh lê lết ra y viện. Tà quyệt nào tha phận tật nguyền. Đơn vị rã hàng tàn chinh chiến. Hỏi người nhân đạo với nhân danh. Có người lính trẻ không buông súng. Ngẩng mặt hiên ngang trước kẻ thù. Thà ngã dưới cờ tròn danh dự. Dày trang sử Việt sáng thiên thu” . [Diên Nghị * Tháng Tư]
Cũng như những quân cán chính khác, bạn tôi, một người vừa là người làm báo, vừa là một cưu quân nhân ngành quân báo đã lâm vào thế bị cưỡng bức tập trung. Anh cũng như nhiều người khác tin tưởng rằng chiến tranh đã kết thúc thì việc xách khăn gói đi trình diện học tập trong mười ngày, một tháng theo lệnh của ủy ban quân quản CS là một điều tất yếu, để sau đó mọi người trong nước cùng nhau nối vòng tay lớn xây dựng, hàn gắn lại quê hương. Nhưng tất cả những kỳ vọng ấy đã được trả bằng những sự đói rét, khổ nhục trường kỳ và những đòn thù khắc nghiệt:
“Heo hút đồi cao bụi phủ mờ - những thân còm cõi dáng chơ vơ - bốn vòng gai sắc như dao nhọn - đâm suốt hồn ai nhát hững hờ - đã mấy Mùa Xuân trong đớn đau - cao su vàng lá úa u sầu - bọn ta chung kiếp tù tăm tối - ngày tháng chừng trôi qua rất lâu...” [Vũ Uyên Giang * Bài Gửi Dương Hùng Cường]
Nếu không có sự tin tưởng này thì với lực lượng quân dân cán chính can trường, bất khuất bị lường gạt ấy sẽ ứng phó ra sao? Giới cầm quyền mới có dể dàng, yên ổn thu gọn cuộc chiến thắng mà họ đã luôn tự hào, rêu rao là thần thánh kia chăng? Việc CS dồn người, đem giam giữ vào các trại tập trung xa xôi, ngấm ngầm để các nơi, các cơ cấu phụ thuộc tổ chức đưa người vượt biên hoặc cho phép các cựu tù miền Nam sang Mỹ định cư chẳng phải là nhằm vào mục đích giải trừ, tránh đi hậu hoạn về những sự đối kháng, nổi dậy nguy hiểm hay sao? Hơn ai hết, nhóm đầu não lãnh đạo phương Bắc có thể tiên liệu, biết chắc chắn là mối họa này không thể không xảy ra?
Rồi con số người bị hành hạ, chết chóc trong các trại cải tạo mỗi ngày một gia tăng. Con số người dân tìm đường vượt thoát chế độ độc tài càng ngày càng nhiều, dù họ đều biết rằng mình có thể sẽ vùi thây trong lòng biển cả hay một xó rừng, góc núi nào đó. Còn những kẻ sau thời gian bị nhục hình trong các trại tập trung trở về, người thì bị đày lên vùng kinh tế mới, kẻ thì lâm vào cảnh "anh hùng lỡ vận lên nguồn đốt than", tìm trầm quế, "chém tre đẵn gỗ trên ngàn"... dọc theo dãy Trường Sơn hay tiếp tục những gánh nặng oan khiên khác bằng nghề đẩy xe thồ, đạp xe xích lô... tự an ủi mình bằng ý nghĩ "không có nghề nào tồi tệ, xấu xa, chỉ có con người tồi tệ, xấu xa thôi" [7]. Những hình ảnh được trình dẩn dưới đây là một trong những minh chứng về chánh sách đọa đày, ngược đãi đối với những người cựu tù sống sót đã được họ tha, cho về từ những lò ô nhục mà ngôn ngữ kẻ chiến thắng gọi là trại cải tạo:
“Cõng con dắt vợ leo đồi - phá rừng làm rẫy cất chòi tịnh tâm - vợ con tắm vũng trâu nằm - lưng gùi tay rựa quanh năm cuốc cày - đầu trần chân đất hôm nay - mai sau rồi cũng bóng mây lưng đèo.” [Tr ần Văn Sơn * Tù Về, Lên Rừng Làm Rẫy]
Nơi các trại tù tập trung lao động cũng có nhi ều ngư ời bất khuất, không chịu được sự ngược đãi đã liều mình bỏ trốn. Có nhi ều ngư ời bị bắt lại, bị giết. Cũng có nhi ều ngư ời vùi thây nơi vùng Việt Bắc, nơi rừng sâu nước độc, hoang dã đầy sương lam, chướng khí trên đường tìm về. Cũng có nhi ều ngư ời vượt thoát sau bao đói khổ, truân chuyên được hội ngộ với gia đình. Nguyên Hoàng Bảo Việt là một trong số những người may mắn hiếm hoi đó. Anh là một trong những người đầu tiên đã chiếm giải Văn Chương Toàn Quốc trong thập niên 60. Hiện nay anh là nhân vật quan trọng trong Ủy Ban Bảo Vệ Nhân Quyền và trung tâm Văn Bút Âu Châu. Nhờ “Kẻ Sống Sót” này mà chúng ta có thể hình dung được thảm cảnh oan khiên của những người “ngã ngựa” phải chịu đựng triền miên trong địa ngục trần gian. Trong một nơi cực khổ, đói lạnh dai dẳng, thiếu ánh sáng:
“…Đêm đã xuống - Trên đường trốn về Nam - Tìm sao để định hướng - Con chim Việt còn nhớ cành - Sau lưng tôi - Bạn bè ở lại - Giữa trại tù tập trung - Nào ai biết - Dù màn sắt hay màn tre - Ngục hình của Cộng sản - Ngàn lần hơn Lao Bảo - Trăm lần hơn Côn Nôn - Luật rừng thời trung cổ - Khổ sai và tẩy não - Chung thân - Chết đói và tuyệt vọng - Muôn năm - Xích xiềng và liềm búa - Khua vang - Khua vang…” [ Nguyên Hoàng Bảo Việt * Kẻ Sống Sót]
Tác giả Ô Cửa thì may thay được cho về sớm để rồi bùi ngùi nhìn cảnh đổi thay, vợ con nheo nhóc. Người lính thám báo, người giáo sư yêu đời năm xưa đã mạnh dạn tìm phương tiện sinh nhai bằng một nghề mà người có học, kẻ sĩ trên khắp hoàn vũ nằm mơ, hoang tưởng mấy cũng không thể hình dung, ngờ được. Nhưng có lẽ nhờ tâm hồn nhạy cảm, dể rung động của thi nhân cùng với một nhân sinh quan cởi mở, nên có lúc THT cũng tìm thấy được phần nào nét trào phúng, ý nhị nhỏ nhoi, hài hòa trong công việc dãi dầu mưa nắng. Dẫu sao anh cũng còn cảm thấy được phần nào tự do, sung sướng hơn những năm bị lưu đày:
Ta trở về ôm những nhánh tang thương. Cúi đầu bước đi giữa lòng phố cũ. Con phố của ta ruột rà trăm ngõ. Sao bây giờ mỗi khúc mỗi đau. Ta đã trở về bốn năm phù du. Hồn hóa đá người thành dã thú. Ta dỗ dành ta tai trời ách nước. Thôi đã hết rồi món nợ tiền khiên... Sau cuộc chiến tranh làm tên sống sót. Sau cuộc tội tù đi bán cà rem. Ta bán cà rem hề, ta bán cà rem. Lắc chiếc chuông đồng khua vang làng xã... Chiếc áo trận xanh xạm màu khói lửa. Chiếc mũ rơm đan vương miện tội tù. Ta qua những miền thiên cổ âm u. Ta đập vào thùng nghêu ngao ca hát. Ta bán cà rem hề, kem đường kem chảy. Thêm kem oan cừu chất ngất miền Nam . (Ta Bán Cà Rem Hề, tr.24)
Lời thơ tuy êm êm, lãng đãng như sương khói đầu cành, nhưng sao lại ẩn tiềm, phảng phất đâu đây một nỗi cay đắng tái tê. Những dòng thơ chuyên chở những sắc thái ý nhị này người đọc có thể phát hiện dễ dàng trong toàn tuyển tập Ô Cửa của anh, điển hình như: “Sợi Tóc Nhớ Nhung” (tr. 108), “Tôi Đã Về Em Ạ Đêm Nay” (tr. 165), “Xa lạ” (tr. 201), “Hoàng Hôn Trên Bản Địa” (tr. 313)...
Trận đánh nào rồi cũng đi vào quên lãng. Thời gian nhọc nhằn, tủi nhục nào rồi cũng chìm lắng, nhạt nhòa dần với thời gian. Kết cuộc có còn chăng là những nỗi niềm u uẩn, cay đắng khôn nguôi, những vết sẹo mãi mãi hằn in trên thân thể gầy mòn của người lính tiền sát bị thất trận oan ức:
Những mảnh đời như những cơn giông. Đã xé toạc cả tiếng đời tục lụy. Đã dữ dội như trăm ngàn tạc đạn. Đã rũ mềm lê lết cất không lên... Bụi thì mù, mây thì phủ tai ương. Con ngựa đứt dây, hí hoài trên núi. Bàn tay cắt vào mảnh chai tươm máu. Hồ trường này đây, đập cốc. Về đâu? Ta thì ngậm cả tang hồ rách nát...(Cuồng Ngâm Của Tên Thất Trận, tr 124)
và có còn chăng trong lòng, trong ký ức sâu kín là niềm kiêu hãnh, sự tưởng niệm mang mang, thấm thía:
May mà tôi vẫn còn một hoài niệm xanh. Dù chỉ là nỗi niềm tự hào buồn bã. Trên ngực lép vẫn còn chiến thương ngày cũ. Như đáp đền ân lượng của quê hương. (Niềm Kiêu Hãnh Buồn Bã, tr 233)
Người bạn đồng minh James M. Hopkins thuộc Sư Đoàn 1 BB - người đã từng dẫm chân trên các nẻo đường hành quân vùng Bình Dương, Tây Ninh, khu “tam giác sắt” cũng có chung một tâm trạng như “Đêm Mất Ngủ” của THT (trang 252). Nhưng trái với sự mong đợi. Khi anh và các chiến hữu trở về không may đã bị các lực lượng phản chiến hung hăng thời đó coi như những tội đồ, thậm chí là kẻ sát nhân. Do mặc cảm tội lổi hay vì tâm trạng chua chát, tái tê trước phản ứng phủ phàng của dư luận mà bài thơ mang tựa “SONG” diển tả về tâm trạng của người lính hồi hương này đã mang nặng màu sắc bi thảm, bi quan, chán chường, để rồi anh ta phải dấu kín tâm tư, không thổ lộ được cùng ai:
“…Người lính chiến không quên được. Có lẽ -trong nhiều năm- anh ta sẽ trăn trở trong mỏi mệt. Chờ đợi giấc ngủ, chẳng bao giờ đến. Không ai có thể thoát khỏi được. Những gì anh ta đã chứng kiến, và những sự việc anh ấy đã dự phần, đều bị chôn vùi trong những giấc mơ, trong thầm lặng và câm nín…” [8]
Sao người ta lại nhìn tác động, hiệu quả của chiến trận dưới con mắt đạo đức để chỉ thấy mặt trái, đàng sau của tấm huy chương? Điều đó có oan ức cho những người vì nhiệm vụ phải thi hành trong lúc đối diện địch quân? Hơn nữa trong lúc chiến đ ấu, giết giặc - ít nhất, cũng để bảo toàn được mạng sống của mình, mà cũng bị xem là một hành vi tội lổi, phi đạo đức được chăng và như vậy thì sự công bình đối v ới tha nhân ở đâu?
Những ray rứt về những ngày ngang dọc, gian truân xa xưa như cứ đeo đẳng, bám sát tâm trí người lính trận THT. Cho dù đến nay anh đã trở thành công dân của một quốc gia khác, mà quê huơng yêu dấu cũ thì đã ngàn trùng cách ly. Nỗi hoài nhớ này được dàn trải qua 2 bài lục bát ngắn gọn dưới đây:
Bên kia lạnh nến hai hàng. Phố kia và những con đường lặng im. Nhà kia đóng cửa im lìm. Sao ta không đóng nỗi niềm muội mê. (“Hỏi lòng,” tr 256)
Tôi lạc rồi em biết không. Tôi đang quờ quạng giữa vùng mù sương. Cũng vì cái ngạnh cái ương. Ngỡ mình là lính tiền phương thuở nào. (Lạc Đường, tr257)
Dù tập thơ quá dày không thể giới thiệu thêm, nhưng người viết nhận thấy mình sẽ thiếu sót lớn nếu không đề cập đến bài thơ mang tựa của tuyển tập, mang linh hồn của cả 5 ấn phẩm mà tác giả đã chọn, gom góp lại thành một kiệt tác:
Ngôi trường cũ có bao nhiêu ô cửa. Để tôi về đếm những đám mây bay. Tôi sẽ gọi một bầy chim sẻ nhỏ. Những con chim từng xa vắng lạc bầy. Tôi sẽ đứng như một người thiên cổ. Lớp học buồn như từ cõi cô đơn. Thầy ngồi đó đôi vai gầy tóc bạc. Chút ngậm ngùi cơn nắng đọng hoàng hôn... Tôi sẽ nhớ một người tôi yêu dấu. Người nào đâu về lại buổi hôm qua. Dấu chân nhỏ như vết hài vạn cổ. Đôi mắt nào theo mãi cuộc đời tôi... Và người ấy qua dòng sông sương muối. Tôi lên rừng theo dòng thác binh đao. Và người ấy theo sông về với biển. Tôi về Đông, về Bắc, biết về đâu? Trăng thiếu phụ tôi mang vào song cửa. Cho một lần, cho vô tận ý thiên thu. (Ô Cửa, tr 14)
Tôi đoan chắc những hoài niệm triền miên, những ray rứt về các mất mát trên với niềm kiêu hãnh buồn bã nọ sẽ mãi mãi vương vấn trong tâm hồn, ký ức của người thi sĩ đa cảm, đa tình này. Tuy phần lớn trong số 237 bài là thơ chiến tranh - trực hay gián tiếp, nhưng trong Ô Cửa cũng có nhiều bài thơ tình nồng nàn, rất đáng cho người đọc ngâm nga, thưởng ngoạn như: “Nha Trang” (tr. 30), “Con đường Trăng” (tr. 52), “Thơ của Văn” (tr. 62), “Dư niệm” (tr. 196), “Từ buổi ta về” (tr. 268), “Hẹn lòng” (tr.350)
4. Lời kết
Ai cũng biết con số người Việt Nam làm thơ chiến tranh không phải là ít. Nhưng theo tôi, THT là người đã sáng tác nhiều nhất Trong nhiều tác phẩm mà tôi có trong tay do anh gởi tặng, tôi thấy hầu như bài nào, cuốn sách nào, anh cũng vẽ cho người đọc thấy những hình ảnh linh hoạt, bi hùng của nhũng người lính chiến như anh, sự thống khổ của đồng bào mà anh và những chiến hữu khác thuộc quân lực miền Nam có nhiệm vụ bảo vệ, che chở bằng tất cả nhiệt tình, nhiệt huyết.
Ô Cửa là một tuyển tập thi ca có tầm vóc lớn. THT lại biết tự chọn cho mình một hướng đi, một bản sắc riêng về thi loại, đề tài: chuyên biệt về Chiến Tranh. Thơ anh được cấu tạo bằng những thi ngữ, ngôn từ qui ước bình dị, chân phương. Nhưng bằng những cảm xúc nồng ấm, cùng lối kết từ điêu luyện, nên Ô Cửa dễ dàng lôi cuốn người đọc vào những tình tự tan hợp, những biến động tràn ngập máu lửa, khói súng trong thời loạn lạc đã qua, mà anh là một nhân chứng sống. Chất liệu nòng cốt trong thơ anh là tình nghĩa, dành cho đồng đội, tình yêu thương, trìu mến dành cho người tình, cho những người dân lành ở khắp các làng mạc, thị trấn lẻ, mà gót chân anh đã từng in dấu.
Thơ chiến tranh là một thi loại đặc thù, khó gây được sự rung cảm sâu xa trong tâm hồn người đọc. Nhưng nhờ sự biết phối hợp, hài hòa các thi ảnh, thi ngữ vào tác phẩm đúng mức nên thơ của anh trở nên dịu vợi hơn và dễ thẩm thấu vào nội tâm người thưởng ngoạn. Ô Cửa xứng đáng là một tập thơ có giá trị cao, hiếm hoi trong nền văn học hiện đại.
¤ Vài nét về Trần Hoài Thư .
THT là một người có lòng với nền văn học miền Nam . Từ khi định cự tại một tiểu thuộc miền Đông Hoa kỳ đến nay anh đã lặn lội đi các thư viện lớn để suy tầm tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ cũ để in ấn lại và lưu truyền ở hải ngoại bằng phương tiện thô sơ khiêm tốn qua Thư Ấn Quán của mình.
Ngoài ra anh và một số thân hữu còn chủ trương tập san Thư Quán Bản Thảo cứ ba rồi bây giờ là 2 tháng một lần - từ nhiều năm nay, để đăng tải các tác phẩm của bằng hữu. Đặc biệt là của những cây bút còn ở tại miền Nam VN. Tập san này không bán mà chỉ biếu tặng theo yêu cầu của những người mến mộ các văn thi sĩ cũ trước tháng 4 năm 1975.
Trần Hoài Thư tên thật Trần Quý Sách, sinh ngày 6.12.1942 tại Ðà Lạt. Anh khởi viết năm 1960 và nguyên là cựu sĩ quan VNCH ngành Thám báo. Tốt nghiệp cao học toán tại Hoa kỳ. Cựu chuyên viên điện toán của công ty điện thoại AT&T. Hiện hồi hưu và an cư tại tiểu bang New Jersey .
Một số tác phẩm tiêu biểu đã xuất bản:
Nỗi Bơ Vơ Của Bầy Ngựa Hoang ( Ý Thức)
Những Vì Sao Vĩnh Biệt (Ý Thức)
Ngọn Cỏ Ngậm Ngùi (Ý Thức)
Một Nỏi Nào Ðể Nhớ (Con Ðuông)
Ra Biển Gọi Thầm (1995)
Ban Mê Thuộc Ngày Ðầu Ngày Cuối (1997)
Về Hướng Mặt Trời Lặn (1998)
Thơ Trần Hoài Thư (1998)
Mặc Niệm Chiến Tranh - Ô Cửa (2006)…
PHAN BÁ THỤY DƯƠNG - 5/2010.
• trích thơ của các tác giả:
Anh Thu ần, Diên Nghị, Hà Thúc Sinh, Linh Phương, Hoàng Lộc, Huy Lực, Luân Hoán, Nguyên Hoàng Bảo Việt, Nguyễn Bắc Sơn, Nguyễn Mạnh Trinh, PBTD, Phan Ni Tấn, Phan Xuân Sinh, Tô Thùy Yên, Trần Tuấn Kiệt, Trần Văn Sơn, Vũ Uyên Giang.
• tạm dịch từ nguyên bản:
[1] Herbert Hoover: The old men declare war. But it is the youth who must fight and die.
[2] Ernest Hemingway: They wrote in the old days that is sweet and fitting to die for one’s country. But in the modern war, there is nothing sweet nor fitting in your dying. You will die like a dog for no good reason.
[3] Winston Churchill: Attitude is a little thing that makes a big differences. It costs nothing to be polite.
[4] Marko Whiteley: Right onto the ambush the fighting is fierce. The wildness is gone the glint in the eyes. For now it is you not just them to die. Through the blackness of the deeping night. The wounded scream the rest to fight. The mind starts to scream a terrible warning.
[5] Guy L. Jones: As the sun sets in the darken sky. I hear the voices of those who march off to the distant and calling one to another. I hear them say do not weep for us for our pain is over with now and we go to our God in peace. As the sun passes over the horizon, the image of these marching men pass from the light of my eyes but not the words they said, which I hold onto and the memory of each and very one of them. I whisper back to them I’ll pass on your words to all who hear them from me. This I promise to all of you as long as I live. Farewell my friends, farewell.
[6] Blaise Pascal: L’homme est un roseau, le plus faible de la nature, mais un roseau pensant.
[7] Winona Ryder: il n’y a pas de sot métier, il n’y a que de sottes gens.
[8] James M. Hopkins: The combat soldier, do not forget who (for perhaps years) will toss sweat, waiting for sleep, that won’t come. No one escapes. What his eyes have seen, and the things he has been, are buried in dreams, mute and dumb.
Herbert Hoover vị tổng thống thứ 31 của Hoa Kỳ đã nói: “Giới lãnh đạo già tuyên bố chiến tranh nhưng chính giới trẻ là người phải chiến đấu và chịu chết.” [1] Chiến tranh đã tạo nên không biết bao nhiêu cảnh ly tán, hủy diệt không biết bao nhiêu sinh mạng một cách oan uổng và làm kiệt quệ trầm trọng tài nguyên quốc gia. Nhưng, nếu nhìn từ một góc độ khác, chiến tranh cũng đã sản xuất, tạo nên nhiều vĩ nhân lừng danh trong quân sử, những văn thi sĩ lỗi lạc trong nền văn học sử thế giới.
Bài viết ngắn này không phải là một luận đề về thơ chiến tranh toàn cầu mà chỉ giới hạn trong thơ Chiến Tranh VN, trong giai đoạn tàn khốc nhất, từ thập niên 60 cho đến ngày miền Nam rơi vào tay chế độ Cộng Sản Hà Nội. Hạn hẹp hơn nữa, người viết chỉ muốn truyền đạt, giới thiệu đến bạn đọc một số cảm xúc, hình ảnh, tâm tư... của người lính chiến Trần Hoài Thư [THT] đã phản ảnh qua tác phẩm của anh: Ô Cửa.
Tuy nhiên, để có thêm hương vị, khải triển chủ đề rộng hơn đôi chút, người viết sẽ đề cập, dẫn trích thêm một số ít thơ về chiến tranh của các văn thi sĩ Việt, Mỹ khác - những người đã trực tiếp cùng THT tham dự cuộc chiến “ý thức hệ” trong giai đoạn đầy nhiễu nhương đó. Nếu thấy cần thiết, sau này người viết sẽ trở lại, bàn về đề tài sâu rộng hơn, với nhiều thi sĩ tiêu biểu cho cả 2 miền Nam Bắc, cùng những khuynh hướng đối kháng hay quan điểm tương đồng.
Theo lời tác giả, Ô Cửa là một tổng hợp của 5 thi tập: Thơ THT, Qua Sông Mùa Mận Chín, Tháng Bảy Hành Quân Xa, Ngày Vàng và Người Lính, mà anh đã xuất bản trước đây - sau khi nhuận sắc, tuyển chọn lại. Tập thơ dày 380 trang, với 237 bài, in trên giấy đặc biệt, tranh bìa của Thân Trọng Minh, do Thư Ấn Quán của anh ấn hành. Bản đẹp, dành tặng thân hữu nên không thấy ghi giá bán.
Danh từ “thơ chiến tranh” kể từ Homer đã trở nên càng ngày càng phổ biến một cách rộng rãi, nhất là sau khi chiến cuộc VN kết thúc. Hiện nay các quốc gia đồng minh của VNCH và đã từng trực hay gián tiếp tham chiến trên lãnh địa VN, mỗi nước đều có rất nhiều cơ quan, thư viện… lưu trữ, quảng bá thi ca viết về cuộc chiến VN, được sáng tác bởi những cựu chiến binh của họ. Cho đến bao giờ thì thi ca về thể loại này của các tác giả miền Nam trước 75 mới được các tổ chức văn hóa, chính trị hải ngoại hay nội địa dành cho nó một vị trí nghiêm túc, sáng sủa hơn, để bảo tồn những ấn chứng quan trọng trong giai đoạn lịch sử đã qua, đã được khép lại?
1. Trực diện với chiến tranh, tiếp cận với tử thần
Bây giờ chúng ta hãy bước qua Ô Cửa, thử đi vào nội dung cuốn sách để xem người chiến binh này đã trình bày, muốn chuyển gởi những gì tới người đọc, qua những năm dài phục vụ dưới cờ, trong thời tao loạn, nhiễu nhương:
Giòng sông phân tranh hai vùng thù nghịch. Đêm xuống đồi gặp con nước nổi. Súng đạn đưa khỏi đầu. Từng con một vượt sông. Rồi trước khi trèo ngọn Kỳ Sơn. Anh lạc trên cánh đồng trăng mênh mông. Không biết nơi nào là cõi dữ. Trên đôi vai anh nặng nề lịch sử. (“Đêm Vượt Sông,” tr 5)
Từ giã giảng đường chật hẹp, nóng bức, người sinh viên mang đầy lý tưởng, hoài bão và mộng mơ ấy đã chấp nhận đi vào nơi thâm sâu cùng cốc, theo lời kêu gọi của núi sông. Ngoài trách nhiệm thi hành nghĩa vụ công dân, có thể anh còn coi việc đó như một lần đi thám hiểm, khai phá về những chân trời mới, quyến rũ hơn, để thưởng ngoạn thiên nhiên, giao lưu nhân thế, thử thách định mệnh:
Ở đây đèo ải ngăn sông lộ. Trăm đứa lên có mấy đứa về. Giày trận bám bùn mưa tối mặt. Mùa hè gió thổi bụi tê tê. Thanh niên ta bỏ miền trung thổ. Theo mảng mây trời trên bản xa. Núi dựng. Rừng bạt rừng. Lá mục. Phơi ngàn năm lạnh cắt xương da. Ta về ngơ ngác cơn sinh diệt. Ngỡ làm tên ẩn sĩ tìm trầm...(Về Với Núi, tr 55)
Cũng trong ý niệm chấp nhận khoác chinh y để bảo vệ quê hương, giữ gìn lãnh thổ, t ừng l ớp, t ừng l ớp lớp thế hệ tuổi trẻ đã đành bỏ cả tương lai, hoài bảo, rồi mang theo cuộc tình để tham dự vào cuộc chiến đấu gian lao, mà tự thân họ không có quyền lựa chọn, hoặc từ chối:
“…Vào giờ G ta ra mặt trận - nón sắt bần thần theo gót giày sô - hiu hắt đường mưa tiến về âm phủ - vừa cảnh giác đời, vừa ủ chiêm bao - khẩu súng cạc bin chúi đầu xuống đất - như muốn nói gì với cánh Rừng Lăng -
Xuân Phổ bên kia chập chờn bóng địch - lập cập hồn ai, bèo vướng chân mày ? - nước lạnh môi khô lóe lên đóm nhớ - màu mắt bên màu hoa súng ngày xưa - ta vẫn yêu em, yêu toàn nhân loại - nên gắng khom lưng, tiến chiếm Xóm Dừa…” [Luân Hoán * Trên Đường Lững Thững Hành Quân, Đạn Thù Có lẽ Ngập Ngừng Tránh Ta]
để lãnh nhiệm vụ trấn thủ biên cương xa xăm, tiền đồn heo hút, dẫy đầy hiểm nguy, bất trắc. Vì chưng, họ đã lỡ sinh ra vào một giai đọan lịch sữ đen tối, vào thời buổi loạn ly, máu lửa với đạn bom và nước mắt:
“…Giặc cứ pháo xá gì cơn bão giạt - nón sắt che cho đỡ lạnh mái đầu - đêm nến thắp ánh hỏa châu hiu hắt - sinh nhật ai máu đỏ giữa canh thâu - đường truông núi hai mươi năm chất ngất - tuổi lang thang vào xương máu bàng hoàng - mai về phố với hồn chai lạnh ngắt - mua tình vui dồn trống chuỗi mênh mang - khúc chinh chiến đã từ lâu quên hát - vầng trăng treo mầu úa hướng mong chờ - mai xuống núi tiếp một ngày phiêu bạt - tìm lại mình đánh thức một cơn mơ” [Nguyễn Mạnh Trinh * Kontum Bài Thơ Cũ]
Có người tuy dấn thân, tham dự vào cuộc chinh chiến với thái độ thản nhiên, xem đó như là chuyện tai trời ách nước, một trò tiêu khiển, nhưng chắc hẳn trong thâm tâm anh cũng khó thoát khỏi những ray rức, trăn trở hoặc suy tư, đau xót về thực trạng rợn người phơi bày trước mắt:
“Bốn bề sương muối bủa quanh - hỏa châu đỏ rực năm canh rợn người - ta về tham dự cuộc chơi - rựơu cần, súng đạn với lời kêu thương.” [Huy Lực * Đêm Tiền Đồn Pleime ]
Nghĩa vụ gìn giữ biên cương, lãnh thổ, quả là một gánh nặng luôn đè trên vai những chàng lính trận tiền phương. Từng hốc đá, cánh rừng, từng bờ sông, ngọn suối, từng chân núi, triền đồi mãi mãi là nơi hiểm địa, tử địa, dể dàng hủy diệt, cướp đi mạng sống của mình:
Một chút cay cay mà lòng buồn tủi. Buồn thì về đừng nán lại thằng em. Không sao cả lên đồi cao xuống vực. Đất mở rồi ở lại cũng buồn thêm... Cùng đứng lại hai chân nghiêm cúi mặt. Đây hàng quân đọc lại thiếu tên em. Người lính trẻ chưa đầy hai mươi tuổi. Nhớ thì về cốc rượu để phần em. (Viết Cho Thằng Em Cùng Trung Đội, tr 35.)
Nhớ thì về cốc rượu để phần em. Câu thơ chứa đầy trìu mến, thể hiện một thứ tình huynh đệ chi binh thắm thiết. Đó là lời của một người anh dành cho đứa em vắn số, chứ không phải loại ngôn từ của một cấp chỉ huy nói với kẻ trực thuộc. Thứ tình huynh đệ chi binh và s ự trìu mến này, người ta cũng thấy hiện rõ nét trong thơ của Pete Agriostuthes dành cho người tiền sát viên tên Nam qua bài “He was a Chiêu Hồi”, hoặc qua thơ của Kevin Bowen, Steve Mason, Sarge Lincetum, Wilfred Owen, Walter McDonald... Đặc biệt là của Yusef Komunyakka, người đã chiếm Pulitzer Prize năm 94 với tuyển tập Neon Vernacular xuất bản năm 93, trong đó chứa đựng phần lớn các bài của tập thơ mang tựa đề Việt ngữ “Điên Cái Đầu”, vốn đã phát hành từ năm 88.
Súng đạn vô tình nào biết né tránh ai. Khi một người chiến sĩ không may, vĩnh viễn nằm xuống thì người đời thường cho rằng anh ta đã vị quốc vong thân, là một người anh hùng, là kẻ đáng được tuyên dương, ca ngợi. Có đúng vậy không hay ta cần thử suy gẫm, xét nghiệm lại câu nói lừng danh, mang hơi hám, tư tưởng phản chiến dưới đây của "papa" tức văn hào Ernest Hemingway -người đoạt giải Nobel 54 về Văn học, khi ông phát biểu: “Ngày trước người ta nói rằng: Hy sinh cho quốc gia của mình là một hành động cao cả và xứng đáng. Nhưng trong cuộc chiến hiện đại không có gì là vẽ vang hay thích nghi khi anh mất đi. Anh sẽ chết như một con chó cho một lý do chẳng có gì là tốt đẹp.”[2]
Xin mời bạn đọc tiếp những vần thơ nóng bỏng, hồi hộp khác của chàng thám báo trẻ tuổi THT:
Băng đồng, băng đồng đêm hành quân. Người đi ngoi ngóp nước mênh mông. Về đây Bình Định ma thiêng lãnh. Mỗi địa danh rờn rợn oan hồn. Trung đội những thằng trai tứ chiến. Những thằng bỏ lại tuổi thanh xuân. Diều hâu bôi mặt hù ma quỉ. Thuở đất trời bày đặt nhiễu nhương. Đêm của âm binh về xứ khổ. Poncho phơ phất gió hờn oan. Trên vai cấp số hai lần đạn. Không một vì sao để chỉ đường. (Trung Đội, tr 31)
Những cảnh tượng bi tráng, nghiệt ngã như thế cũng thể hiện đầy dẩy trong thi ca của các chiến hữu đồng minh, như Marko Whiteley đã viết tại mật khu Hố Bò qua Lonely in the Reservoir, Thoughs of War..., như W.H McDonald viết ở Phú Lợi với “I Learned About War Last Night” hoặc Sarge Lintecum qua “Ambush” và nhất là bài thơ được phổ nhạc của ông, rất phổ cập, được mọi người ưa chuộng: " The Vietnam Blues".
Xin hãy đọc thêm những dòng diễn tả vừa chân thật, vừa ngộ nghĩnh, thanh thản của người “lính sửa” trong những ngày đầu nhận lãnh trách nhiệm dẫn dắt đơn vị:
Ta trở về giáp mặt chiến tranh. Đồi cháy lửa mặt trời nhuộm lửa. Thau rượu đế mừng ta thằng lính sửa. Dzô ông thầy hữu sự có thằng em. Trung đội ta về hai mươi mấy thằng con. Đứa gốc người Kinh, đứa Nùng, đứa Thượng... Trên đầu ta mũ rừng nhẹ hẫng. Trong túi ta một gói chuồn chuồn. Bắt tù binh mời điếu thuốc thơm. Để thấy miền Nam lính hiền ghê gớm. (Ta Lính Miền Nam , tr 36)
Qua 2 câu cuối của bài thơ, ta có thể thấy rõ phong cách của ngưòi chiến binh miền Nam khi đối xử với tù binh, hàng binh, dù mới cách đó không lâu đồng đội của mình đã bị giết, bị thương. Cũng với tâm trạng, bản chất đó, ta thử đọc xem Tô Thùy Yên đã trò chuyện như thế nào với người tử sĩ bên kia chiến tuyến trong đoạn thơ dưới đây:
‘…Ở cõi âm nào người vốn không tin. Hỏi nhau chơi thỏa chút tính bông đùa. Người cùng ta ai thật sự hy sinh. Cho tổ quốc Việt Nam - một tổ quốc...? Các việc người làm, Người tưởng chừng ghê gớm lắm. Các việc ta làm, Ta xét chẳng ra chi.” [Tô Thùy Yên * Chiều Trên Phá Tam Giang]
Hay những ngôn từ phóng khoáng, thân thiện, chứa chan hào khí, tình giang hồ của một quân nhân VNCH khác khi anh giáp mặt, trực diện đối phương:
“…Kẽ thù ta ơi, các ngài du kích - hãy tránh xa ra đừng chơi bắn nheo - hãy tránh xa ra ta xin xí điều - lúc này đây ta không thèm đánh giặc - thèm uống chai bia, thèm châm điếu thuốc - thèm ngọt ngào giọng hát em chim xanh - kẻ thù ta ơi, những đứa xâm mình - ăn muối đá và hăng say chiến đấu - ta vốn hiền khô, ta là lính cậu - đi hành quân rượu đế vẫn mang theo - mang trong đầu những ý nghĩ trong veo - xem chiến cuộc như tai trời ách nước.
Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước - vì căn phần ngươi xuôi khiến đó thôi - chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi - suy nghĩ làm gì lao tâm khổ trí - lũ chúng ta sống một đời vô vị - nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau - mượn trời đêm làm nơi đốt hỏa châu - những cột khói giả rồng thiêng uốn khúc - mượn bom đạn chơi trò pháo tết - và máu xương làm phân bón rừng hoang.” [Nguyễn Bắc Sơn * Chiến Tranh và Tôi]
Chiến tranh. Ôi chiến tranh. Người ta đã nhân danh nó để hủy diệt không biết bao nhiêu nguồn sinh lực sáng lạng của quê hương, triển vọng của tổ quốc. Người ta đã nhân danh nó để làm tan rã không biết bao nhiêu cuộc tình nồng thắm và mái ấm gia đình. Lòng không mang hận thù, họ là các chiến binh VNCH đi bảo vệ lãnh địa, cương thổ. Họ là những cán binh “quân đội nhân dân” bị tuyên truyền, xô đẩy, lôi cuốn vào tình huống bi thảm “sinh Bắc tử Nam” để giới chóp bu CS mau chóng thực hiện ý đồ cướp đất, xăm lăng miền Nam. Bản thân họ nào được gì ngoài những thua thiệt, mất mát:
“Em hỏi anh bao giờ trở lại - Xin trả lời mai mốt anh về - Không bằng chiến trận Pleime - Hay Đức Cơ - Đồng Xoài - Bình Giả - Anh trở về hàng cây nghiêng ngã - Anh trở về hòm gỗ cài hoa - Anh trở về bằng chiếc băng ca - Trên trực thăng sơn màu tang trắng - Mai trở về chiều hoang trốn nắng - Poncho buồn liệm kín hồn anh - Mai trở về bờ tóc em xanh - Vội vã chít khăn sô vĩnh biệt.
Mai anh về em sầu thê thiết - Kỷ vật đây viên đạn mầu đồng - Cho em làm kỷ niệm sang sông - Đời con gái một lần dang dở - Mai anh về trên đôi nạng gỗ - Bại tướng về làm gã cụt chân - Em ngại ngùng dạo phố mùa xuân - Bên người yêu tật nguyền chai đá - Thì thôi hãy nhìn nhau xa lạ - Em nhìn anh - ánh mắt chưa quen - Anh nhìn em - anh sẽ cố quên - Tình nghĩa cũ một lần trăn trối.” [Linh Phương * Kỷ V ật Cho Em]
trong một cuộc nội chiến tương tàn mà bản thân những chiến sĩ miền Nam có lúc phải phân vân, tự vấn, suy tư:
“…những thằng lính thời nay không mang thù hận - bạn hay thù chẳng có một lằn ranh - thôi hãy uống. mọi chuyện bỏ lại sau - nếu có thể ta gầy thêm cuộc nhậu - bày làm chi trò chơi xương máu - để đôi bên nuôi mầm mống hận thù - ta chán lắm rồi ba chuyện ruồi bu - chỉ có bạn, có ta là người thua cuộc.
người yêu của bạn ở ngoài phương bắc - giờ này đang hối hả tránh bom - hay thẫn thờ dõi mắt vào Nam - để chờ người yêu mình trở thành liệt sĩ - rồi cũng sẽ quên, như bao điều suy nghĩ - tình yêu như một thứ điểm trang - che đi chút dối lòng, nhẹ bớt đi chút nhọc nhằn - uống với bạn hôm nay ta phải thật say - để không phải còn nhìn nhau hận thù ngun ngút.” [Phan Xuân Sinh * Uống Rượu Cùng Người Lính Bắc Phương]
Đọc những áng thơ hiền hòa, nhẹ nhàng kia, tôi tự nhiên như thấy lại bóng dáng của 2 ngưòi bạn gốc "cùi" là Vĩnh Nhi thủ khoa khóa 17, Hoàng Thọ Khương khóa 19 của trường Võ Bị Lâm Viên - Đà Lạt và người bạn trẻ yêu thơ Trần Phước Chí khóa 18 của đồi Tăng Nhơn Phú - Thủ Đức, hiển hiện về trước mắt.
Những chiến sĩ can trường thuộc Sư đoàn Phượng Hoàng này, khi bắt tù binh, họ luôn luôn cho đối phương ăn uống tử tế, mời mọc thuốc lá, rồi mới chuyển giao về hậu cứ. Họ không bao giờ cho sĩ quan an ninh đánh đập, dù đôi khi cần khai thác tin tức sơ khởi tại mặt trận. Rất tiếc, 3 chiến hữu tốt, hiền hòa này đều lần lượt ra đi, trước và sau biến động Tết Mậu Thân không lâu trước mắt tôi, trong những ngày tôi còn dấn thân, phục vụ tại khu chiến Tiền giang. Người viết, lúc đó, chẳng biết làm gì hơn ngoài việc viết bài chiêu niệm trên trang Văn Nghệ Quân Đội và mục Viết Cho Người Nằm Xuống để an ủi linh hồn người chết, và gia quyến họ.
Những biểu tượng đầy nhân bản tính trên đối với người khác giới tuyến của họ, cộng với sự thái độ, cảm nghỉ của THT, TTY, NBS, PXS... khiến tôi nhiều lần thấm thía tự thầm hỏi mình. Phải chăng những quân nhân này và còn nhiều, còn nhiều những anh em, chiến binh trong các quân binh chủng khác, đã luôn luôn mang theo trái tim loại “grand coeur” của d’Amacis, trên đường hành quân? Hay họ là những đệ tử ngoan của cụ Winston Churchill - vị anh hùng, nhà chính trị khét tiếng của thế kỷ 20, người đã được trao giải Nobel năm 53, vì họ luôn tuân thủ lời khuyên của ân sư: "Tác phong là một việc nhỏ, nhưng nó tạo nên những khác biệt lớn lao. Biểu lộ một chút lịch sự, tử tế cũng chẳng tốn kém, mất mát gì."[3]
Sau khi Sàigòn thất thủ, tôi thường nghe thiên hạ bảo nhau: Một trong những yếu tố quan trọng đưa đến việc mất nước là vì dân quân miền Nam đã quá hiền hòa và đối xử nhân đạo với kẻ thù. Những người cùng chung một tiếng nói bên kia lằn ranh giòng sông chia cắt, bên kia vĩ tuyến có phải là kẻ thù của chúng tôi không? Thật sự, chúng tôi có cần xem họ là kẻ thù không, sau khi cuộc đụng độ đã tàn, khói lửa đã nguội tắt, chỉ vì họ bị cưỡng bức làm những con chốt đáng thương, trong ván cờ tham vọng bành trướng chủ thuyết CS lỗi thời Mác-Lê-Mao?
Mời bạn đọc thử xem qua những hình ảnh đáng trách, dể làm nản lòng người đang dấn thân ở các tuyến đầu. Tình trạng tương phản tương ấy đã được phản ảnh dưới góc nhìn của tác giả Ô Cửa. Lời thơ tuy có man mác nỗi uất hận, phẩn nộ nhưng cũng đầy thương cảm, ngậm ngùi như một khúc bi ca:
Đất nước ta cường quốc bán buôn. Hậu phương ăn chơi biểu tình, đảo chánh. Lúc đồng đội ta chết lên chết xuống. Một đám ở nhà nhảy nhót thâu đêm. Lãnh chúa ta ăn trước ngồi trên. Hùng hổ lắm nhưng mạt hèn cũng lắm. Khóa của ta trên mấy trăm thằng tình nguyện. Đi Nhảy Dù, Thủy Bộ, Thám Báo "ác ôn". Đứng đợi cả ngày để bắt lá thăm. Toàn thứ dữ mà vui như chợ Tết. Có đứa mang bằng kỹ sư về nước. Chọn Cọp Ba Đầu Rằn làm lính tiền phong. Ta lính miền Nam hề vận nước ngửa nghiêng. Ta cũng lênh đênh cùng cơn mạt kiếp. Ta trèo lên cây hỏi rừng có biết. Có người lính nào bi tráng hơn lính miền Nam ? (Ta Lính Miền Nam , tr 36)
Giữa lúc vận nước lâm nguy như thế thì dường như một số giới lãnh đạo chỉ nghĩ đến quyền lợi riêng tư, một số người hậu tuyến chỉ lo hưởng thụ, phó mặc việc giải trừ, giải tỏa áp lực dồn dập của Bắc phương trong tay những quân nhân thiếu kém quyền lực, tiền bạc, lúc nào cũng đứng trước đầu sóng ngọn gió, ồ ập vũ bão.
Trong lúc người lính chiến VNCH đang trực diện với sự sống chết để bảo vệ lãnh địa thì đồng minh của anh ta đã đóng vai trò gì trong việc ngăn chống sự xâm nhập, mưu đồ thôn tính của giới lãnh tụ Hà Nội, với sự trợ giúp không ngừng của các nước CS đàn anh Nga, Tàu? Hãy thử nhìn qua bối cảnh, hoạt động hằng ngày của những người lính chiến Mỹ từ những dòng thơ mang đầy tử khí của Marko Whiteley thuộc Tiểu Đoàn 1/TQLC trong "Thoughs of War":
“Cuộc chiến đấu thật khốc liệt khi lâm vào trận phục kích. Sự sôi nổi rồi cũng tan biến đi trong những ánh mắt sáng ngời. Lúc này chẳng phải riêng gì đối phương mà cả anh cũng mất mạng. Màn đêm đã sắp buông, đó là lúc thuận lợi cho địch quân. Họ biết rằng địa thế không thể nhìn rõ ràng về đêm. Qua màn đen của đêm sâu thăm thẳm. Kẻ bị thương thì rên rỉ, người còn lại thì tiếp tục đánh nhau. Tâm trí khởi sự báo trước một nỗi kinh hoàng”.[4]
Những tình cảnh đó có khác xa bao nhiêu trong "Đêm Đột Kích ở Nho Lâm" (trang 42), "Đêm Đột Kích" (trang 157), hay "Những Ngày Quân Về Những Ngày Quân Đi" (trang 168). Hay thử nhìn sang tâm trạng phân vân của người "Đánh Núi" trong hoàn cảnh, tình huống tiến thối lưỡng nan:
Tiến lên lại sợ phục. Rút về sợ lột lon. Hét hoài cổ họng khan. Chỉ mình ta lãnh đủ. Đi lên dao mở lối. Gai xước rách thịt da. Đau quá tức chửi cha. Những thằng già ngoài Bắc. (Đánh Núi, tr 147)
Qua bao lần đụng trận, đánh nhau ác liệt như thế, có mấy ai tránh khỏi viên đạn vô tình thoát đi từ nòng súng của người bên kia? Cho nên THT - cây sậy mỏng manh trước những cơn bão tố của chiến trường, cũng đã hơn một lần bị đổ máu, dập vùi, lưu dấu các vết tích đạn thù trên thân thể còm cỏi:
Viên đạn đồng đã cắt thịt tôi. Tôi đau quá mà em không xót. Khi tôi biết mình vừa thoát chết. Tôi cuống cuồng sợ hãi thành điên. Lần bị thương đầu tôi vẫn anh hùng rơm. Lần bị thứ hai tôi nằm thin thít. Tôi đang ở phòng trần gian hậu chiến. Đêm cứ trôi hoài từng giọt hồi sinh. Tôi ước đến điên cuồng một giọt lệ em. (Trong Phòng Cấp Cứu, tr 311)
Tuy có áy náy, lo sợ, nhưng sau 3 lần bị thương với những ngày phép dưỡng bệnh ngắn ngủi sau khi xuất viện, người lính thám báo THT vẫn thản nhiên trở về với cương vị của một người chiến binh, tiếp tục hiến thân phục vụ dưới cờ cho đến ngày nước mất, quân tan.
2. Ghi nhận về chiến tranh qua những ngày dưỡng quân, những giờ chuyển quân
Cuộc sống của người lính trận luôn gắn liền với những lần di chuyển bất ngờ, bất định. Có khi chuyển quân ra trận mạc. Cũng có được điều động tới các địa điểm gần chiến trường để làm nút chặn, làm lực lượng trừ bị, sẵn sàng tiếp ứng cho những đơn vị cơ động đang giao tranh. Vì để bảo toàn tối đa bí mật quân sự, cho nên đôi lúc nhiều cấp chỉ huy đơn vị nhỏ chỉ nhận được lệnh hay sơ đồ hành quân vào phút chót, trước giờ xuất phát, di quân. Những vần thơ sau đây đã thể hiện đầy đủ vai trò và thân phận nghiệt ngã của các chiến sĩ tiền phương đó:
Những lần chuyển quân dù chẳng biết về đâu. Nhưng chúng tôi biết những gì chờ đợi sẵn. Như thể khi viên đạn đồng trong lòng cơ bẩm. Xẹt ra khỏi nòng rồi kiến cắn tê mê. Chỉ khi nào anh cảm nhận đau tê. Có nghĩa là anh biết mình vẫn còn sống sót. Anh hãnh diện là đã đi về phía trước. Là máu hồng anh đã đổ xuống tặng em. Và khi anh trở về ôm lấy vết thương. Anh mới biết đời vô cùng độ lượng. (Người Lính Trở Về Với Chiến Trường, tr 7)
Ta hãy xem thêm thi sĩ họ Trần đã ghi nhận lại những mất mát nào qua “Chia Tặng Chung Nhau” (trang 128), hay trong những hình ảnh máu lửa tiêu biểu của chiến trường mà anh vẽ lại dưới đây - máu lửa, bom đạn, tiếng kêu đau thương, tuyệt vọng:
Xin trả lại bên trời vầng trăng đỏ máu. Và tiếng dội ầm ầm của đám trực thăng. Và cả một biển rừng lửa bốc xung quanh. Và sườn lũng cháy đen thành than củi. Người lính cũ mắt nhìn trong bóng tối. Nghe văng vẳng bên mình lời rên rỉ: Cứu em. (Xin Trả Lại, tr 11)
để từ đó anh bồi hồi, ngậm ngùi trước những hoang phế, điêu linh rồi nghi vấn, suy tư về thân phận mình và kiếp người…:
Mặt trận đổ theo bìa Đệ Đức. Nghe cận kề lửa hưóng Tam Quan. Bồng Sơn mây ám toàn tin dữ. Chiều chưa buông quận đóng năm giờ. Giặc chiếm cận sơn người chạy loạn. Còn bên cầu trơ trọi cây đa. Cây đa có mặt khi nào nhỉ. Có phải nơi này là quê hương. Có phải mỗi con người trôi dạt. Cất trong tim bóng mát thiên đường. Cây đa vươn giữa trời bi lụy. Những thổ thần hoang lạnh lư nhang. Lửa cháy Trường Lưu đò đã chặn. Chị ra sông ơi ới đoạn trường. (Cây Đa Bên Cầu, tr 20)
Địch tan, chiếm lại đất đai chưa kịp vui mừng thì người lính trận lại phải đương đầu, đối diện trước những bức tranh mang đầy dấu vết hoang tàn, đổ nát , trước “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”:
Ta đã về dành lại quê hương. Dành lại quận đường hoang tàn đổ nát. Dành lại ngôi trường lời ca tiếng hát. Ta đã về nhìn bầy chim cút côi. Nhưng ta lại không dành được em gái ta yêu. Chúng ủ rũ như lòng ta ủ rũ. Lũ bé quì bên xác người cô trẻ. Ðặt chùm hoa mếu máo gọi cô về... Em bé quê ơi cho ta một nhánh bông. Một nhánh bông quì vàng như màu áo. Ta đặt tên em. Trống trường ảo não. Như những hồi mặc niệm em tôi. Ta đã về và đã trễ em ơi. (Đêm Tiếp Cứu Chợ Huyện, tr.28)
"Ta đã về và đã trễ em ơi". Câu thơ như một tiếng kêu thống thiết, chứa chan huyết lệ, thể hiện tình quân dân cá nước.
Một hình ảnh thê lương khác đã được Anh Thuần - người phóng viên chiến trường gan lì của Cục Tâm Lý Chiến và Đài Phát Thanh Quân Đội, đã phát họa lại đậm nét khi anh đang bám trụ trên "quốc lộ máu" năm 72 để ghi nhận, tường thuật về tin tức chiến sự:
“Em về đâu, hỡi người em lạc lõng - chiều đã buông và mây đã giăng mờ - trong lửa đạn máu tanh thời chiến loạn - còn mong gì tìm được chốn an cư.” [Anh Thuần * Chiều Chiến Loạn]
Sống ở, thác về. Người lính trận miền xa nào mà chẳng ý thức được số phận mỏng manh của mình. Bởi vì, người xưa đã trải nghiệm rồi truyền lại: “cỗ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”, thì sự mất còn đối với họ cũng chỉ như lẽ tan-tụ tất yếu của mây nổi, của hoa biển. Trong lòng kẻ trấn thủ lưu đồn - lúc nghĩ ngơi, có chăng là nỗi nhớ nhung về những con đường tình đã qua và hoài niệm về sự mất mát của bạn bè, đồng đội:
“Nằm đây thương những con đường - kể em nghe chuyện chiến trường được chưa - lòng anh thơ dại bóng cờ - ngủ yên đâu dám định giờ xuất quân - đã lâu võ nghiệp quen dần - thấy người đi cũng ân cần muốn đi - hỏi người: ai chết đêm khuya - bảo: không, ngựa lạc đường về cõi xưa.” [Hoàng Lộc * Đêm Đóng Quân Ở Định Quán]
Cùng những ngỡ ngàng của thi nhân Trần Tuấn Kiệt, người đã chiếm giải nhất về thơ của Tổng Thống năm 71, qua các cảnh tượng ảm đạm của những ngày biến loạn xảy ra ngay tại các vùng ven đô của Saigon đầu Xuân Mậu Thân 68:
“…Ra nhìn khói lửa đạn bay - khói lên từng cụm đạn cày mênh mông - qua đêm ngủ giấc say nồng - tĩnh ra bốn phía chập chùng núi non - trời xa mây bạc vô cùng - sao ta nằm ngủ giữa vùng máu xương.” [Trần Tuấn Kiệt * Tết Mậu Thân Nhậu Với Bùi Giáng]
THT tuy là người chiến sĩ dạn dày phong sương, nhưng lời thơ của anh lại rất nhẹ nhàng thi vị, man mác tâm tình của một nghệ sĩ yêu người, yêu đời và yêu quê hương sâu sắc, đậm đà:
Tôi về đây. Tôi đã trở về đây. Đồi xưa tôi gọi đồi không hay. Ai đi bỏ lại hoàng hôn lạnh. Đỏ ối đồi xưa ôm lấy mây... Có ai như thể người binh Thượng. Ngồi khom trên bờ đá thổi kèn. Hôm qua có những hồn ma lẻ. Lạc tìm về buôn bản cao nguyên. Có ai dưới lớp mồ hoang dã. Nằm xuỗi chân mắt mở trợn trừng. Chiều nay sao mọc về phương Bắc. Sao ruột lòng vứt bỏ phương Nam . Cỏ tranh lớp lớp che đường dốc. Phòng tuyến buồn hiu nhuộm nắng chiều. Trận đánh cũng đi vào quên lãng. Sao còn rờn rợn những hồn xiêu. (Đồi Xưa, tr 43)
Cảnh tượng nào sau chiến trận mà không thê thảm. Không có chiến trận nào mà không có người phải hy sinh? Ngay cả những chiến sĩ đồng minh sang phụ giúp chúng ta - để chống sự xâm lược, dành dân chiếm đất của Việt Cộng vào lãnh thổ VNCH, cũng không tránh khỏi rơi vào tuyệt lộ bi thương nói trên. Xin hãy đọc thử bài thơ “As The Sun Sets In The Dark Sky” của Guy L. Jones thuộc tiểu đoàn 43 Truyền Tin. Người lính chiến Hoa kỳ này đã nghe thấy, cảm nhận gì trong cảnh "hồn tử sĩ gió ù ù thổi," trong cảnh tịch mịch dưới màn đen, trời mờ Pleiku:
“…Khi ánh thái dương chìm khuất trong bầu trời u ám, tôi nghe âm thanh của những người lính chiến đang đi đều bước và kêu gọi nhau từ một khoảng xa. Tôi nghe họ bảo rằng đừng nhỏ lệ vì họ, bởi những nỗi đau đớn của họ giờ đã tan biến cả rồi và hiện giờ họ đang đi về với Thượng đế trong cảnh an bình vĩnh cữu.
Khi ánh mặt trời lan dần về phía chân trời, hình ảnh của những người di hành đó đã vượt khỏi tầm mắt của tôi, nhưng không phải là những lời trối trăn mà họ đã nói, vì những di ngôn của từng mỗi người đó tôi vẫn ghi giữ mãi trong tiềm thức.
Tôi đã thì thầm đáp lại cho cho họ biết là tôi sẽ thông truyền những lời trối trăn ấy tới mọi người, cho bất cứ những ai muốn nghe di ngôn của họ do tôi tường thuật lại. Công việc này tôi xin hứa với tất cả các anh, tôi sẽ làm mãi mãi khi mà tôi vẫn còn sinh tồn. Xin chào vĩnh biệt các chiến hữu, xin chào”[5]
Nhà toán học, nhà tư tưởng siêu quần Blaise Pascal đã từng ví von nhận định rằng: “Con người là một cây sậy, loại mềm yếu nhất trong vạn vật, nhưng là một cây sậy biết tư duy” [6]. Thân phận người chiến binh ngoài tuyến đầu dỉ nhiên mong manh, nhưng là người biết suy tưởng, có tình cảm, thì dù ở trong cảnh trạng khói Iửa đạn bay đi nữa, mấy ai tránh khỏi nỗi niềm mơ ước. Mơ ước, hoài vọng về một viễn ảnh sớm chấm dứt chiến tranh, đất nước sớm an bình:
“…giọt máu trên ngọn cỏ mềm - của ai không biết nằm im như tờ - đằng xa sau lớp bụi mờ - mới nhìn tôi tưởng con cờ thí thân - toán tôi vừa tới bìa rừng - đã nghe đạn nổ muốn bưng cái đầu - rạp mình xuống đất nâu nâu - mặt tôi chạm nắm cỏ khâu xanh rì.
ừ thì chú cũng như tôi - cũng khiêng sông núi trên đôi vai mình - mong cho đất nước thanh bình - chớ ai mong cảnh chiến tranh bao giờ - ừ thì anh cũng như em - cũng đem tổ quốc treo trên ngọn cờ - buồn buồn bày đặt làm thơ - vui vui thì lấy súng phơ một tràng…” [Phan Ni Tấn * Rừng Tâm Sự 5 Năm Lính]
Dẫu rằng vấn nạn ấy chỉ là mộng con hay loại “nhược đại mộng” của người lính xa nhà, trong đêm buồn tênh gối súng, nằm ngắm trăng sao, mây nổi rồi mơ ước cảnh đoàn viên:
“…Trước thượng đế hai đứa đồng cúi lạy - xin Hoa-Thương-Yêu nở khắp mọi nhà - ruộng đất không còn làm bãi tha ma - sắt thép loài người đem xây tổ ấm - dưới sương gió mây ngàn bên xóm vắng - riêng chúng mình tình tự ngắm trăng non - sớm sớm chiều chiều em sẽ dạy con - bài hát đầu tiên ngợi ca Tình-Ái.” [Phan Bá Thụy Dương * Nói Với Người Mang Tên Một Loài Chim Mùa Xuân]
Đời sống của những người lính trận, vì thường xuyên phải đối diện với thần chết nên mỗi lần được nghĩ phép, dưỡng quân là cơ hội bằng vàng cho họ tìm gặp bằng hữu, anh em để cùng nhau ngã nghiêng, ngất ngây bên ly rượu, hầu tạm quên những giây phút ác liệt, nghẹt thở, bâng khuâng ngoài chốn tiền phương:
Nửa đêm như thể ngày xưa ấy. Mấy thằng trải chiếu dưới đêm trăng. Trăng sáng phơi trên hàng kẽm lạnh. Rồi chảy vào bát rượu bâng khuâng. Nửa đêm mấy đứa chưa buồn ngủ. Buồn ngủ làm sao, ta chiêm bao. Lính trận dưỡng quân nhờ tí tửu. Để mai nằm xuống hồn bay cao. Nửa đêm doanh trại đèn leo lét. Người lính canh ngồi như tượng đêm. Ma quỉ muốn chơi xin hoãn chiến. Để ta cùng đụng với anh em. (Nửa Đêm Uống Rượu Với Bạn Bè, tr 149)
Cũng không ít anh em quân nhân quan niệm r ằng : Đánh tr ận xong rồi thì ta đánh chén. Trong lúc rãnh rỗi, dưỡng quân thì ta đánh chén trước, rồi chờ ngày đánh trận sau. Lính và rư ợu. Rượu và lính cơ hồ như đôi tình nhân luôn luôn gắn bó mật thiết. Cho dù kẻ ấy là lính “tò te” mới ra “lò” hay là người đã dạn dày chiến trận, khí phách, coi thường sinh tử. Lời thơ trích dẩn dưới đây, tuy bộc lộ rõ nét ngang tàng, khoáng đạt ấy, nhưng dường như phần nào cũng mang mang ý niệm, tư tưởng hiện sinh. Bởi vì, như ai cũng biết, từ hạ bán thập niên 50 trở đi các tác phẩm hiện sinh, lãng mạn như “ Bonjour Tristesse”, “Dans Un Mois, Dans Un An”, “Un Certaine Sourire”… của nữ văn sĩ Francoise Sagan đã ảnh hưởng khá sâu đậm như thế nào với xã hội, đặc biệt là với giới trí thức trẻ, miền Nam:
“…hãy cụng ly chết bỏ - tôm cua cá lươn sò - lương ta còn nguyên vẹn - còn cả cái Seiko - Cửu long giang ra biển - sẽ chẳng trở về đây - chiến tranh hề gặp gỡ - có chắc lần thứ hai - lai mỗi thằng mỗi ngã - thằng Cà Mâu Năm Căn - thằng Bình Dương, Bình Giã - thằng địa ngục thiên đàng - nhưng ta không sợ chết - (hơi ngán què đôi chân).
còn mày sao lại khóc - cứ cười lên đi con - ta anh hùng tứ xứ - há thua những bông hồng - nơi rừng U Minh Hạ - còn dám nở dưới bom - cứ cười như họng súng - bắn cuộc đời vỡ toang...”[Hà Thúc Sinh * Hành Quân Qua Bến Phà Mỹ Thuận Gặp Bạn Đánh Chén, Say Mèm]
Dĩ nhiên bên cạnh đó còn có sự tác động mạnh mẽ hơn của các triết gia hiện sinh hàng đầu như S. Kierkegaard, JP Sartre, F. Nietzche, A. Camus… Có thể cũng với tâm trạng, khái niệm yêu cuồng sống vội, bất kể ngày mai ấy, cùng với sự cảm nhận về nỗi bấp bênh của mình trước đầu tên mủi đạn, nên tác giả Ô Cửa nghĩ rằng có thể ngày mai anh sẽ không còn cơ hội sinh tồn. Nên hôm nay có rượu thì chết bỏ, hãy cứ hăng hái tiếp nối cuộc vui “đưa cay” với bạn bè, ngay cả với linh hồn người khác địa đầu chiến tuyến:
Xin cô hàng thêm một két bia. Hôm nay lãnh lương tôi dành đãi hết. Cô hàng ơi một mai tôi chết. Ai tiêu dùm tôi ba tháng lương... Cô hàng ơi cho một ly không. Tôi rót mời một người lính Bắc. Hắn nằm băm thây dưới hầm bí mật. Trên người còn sót lại bài thơ. (Một Ngày Không Hành Quân, tr. 45)
4 câu thơ chót là 4 câu thơ đã nói l ên đầy đủ tính chất nhân bản. Phải chăng đây là một tuyên ngôn? Tuyên ngôn về tình người - tình người không biên giới, tình chung giống nòi, huyết thống VN.
Làm lính trận miền cao là sống với rừng núi khô cằn, bụi mốc. Có mấy ai khi được nghỉ ngơi về với phố thị tránh khỏi sự rung động, khi nhìn những tà áo tha thướt, phất phơ bay bay trong gió của giai nhân, của em gái hậu phương:
Thành phố nọ trở về vui một bữa. Quán cà phê và bạn hữu tao mày. Phố xanh hồng sáu chục cũng còn say. Huống bọn trẻ ở trên rừng vắng gái. Gác chân lên bàn đôi giày vạt đế. Cốc xây chừng ngầy ngậy giọt bơ thơm. Ánh mặt trời đọng lại trong ly con. Gió sông thổi tà áo màu tha thướt. Vỉa phố trời cho rộng vài ba thước. Đường phố không dài nên đi xuống đi lên. Muốn theo gót nàng nhưng không dám làm quen. Thôi chỉ biết ngồi lì mòn cả ghế. Để cố uống một lần mai từ giã. Những mái trường, những cửa tiệm, đám đông. Đàn bướm màu làm đẹp cả hoàng hôn. Để gìn giữ làm của thời tuổi trẻ. (Về Với Phố, tr 162)
3. Thân phận, ki ếp sống gian lao và nỗi u hoài của người chiến binh sau ngày miền Nam bị nhuộm đỏ
Sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bào đệ của ông bị thảm sát do nhóm tướng lãnh chóp bu đảo chánh ngày 1/11/63, tình hình chính trị và an ninh miền Nam dần dần rơi vào trạng thái càng ngày càng bất an. Có phải cái chết của cụ Ngô như là hồi chuông báo tử trước cho Tổng Thống Kennedy và sự cáo chung của chế độ VNCH? Chỉ hơn một năm sau khi người Mỹ rút khỏi miền Nam , cắt đứt viện trợ, thì quân lực Cộng hoà càng lúc càng bị trói tay, thúc thủ, do thiếu quân cụ, nhiên liệu, đạn dược... Thêm vào đó là với lệnh buông súng “lạ lùng, khó hiểu” của tướng "big Minh" đã dễ dàng đưa toàn quốc rơi vào tay lực lượng xăm lăng CS.
Trước và sau ngày dâu biển đó, người ta truyền tụng khắp nơi rằng không biết bao nhiêu quân nhân các cấp đã tự tuẫn tiết vì chẳng chịu đầu hàng. Đa số những người khác thì vì vướng bận thê nhi, cha mẹ... đã bị đưa vào các trại tập trung lao động, tẩy não, mà kẻ chiến thắng gọi là trại cải tạo, kể cả những viên chức dân sự. Bối cảnh náo loạn, bi đát của ngày tàn chiến cuộc ấy đã được thi sĩ Diên Nghị xúc cảm
ghi lại một cách sâu sắc:
“Tháng 4 - vợ ngóng chồng đầu ngõ. Nón sắt giày sô vất bỏ dọc đường. Mưa sớm khai mùa tuôn xối xả. Đất trời xúc động nỗi tai ương. Thương binh lê lết ra y viện. Tà quyệt nào tha phận tật nguyền. Đơn vị rã hàng tàn chinh chiến. Hỏi người nhân đạo với nhân danh. Có người lính trẻ không buông súng. Ngẩng mặt hiên ngang trước kẻ thù. Thà ngã dưới cờ tròn danh dự. Dày trang sử Việt sáng thiên thu” . [Diên Nghị * Tháng Tư]
Cũng như những quân cán chính khác, bạn tôi, một người vừa là người làm báo, vừa là một cưu quân nhân ngành quân báo đã lâm vào thế bị cưỡng bức tập trung. Anh cũng như nhiều người khác tin tưởng rằng chiến tranh đã kết thúc thì việc xách khăn gói đi trình diện học tập trong mười ngày, một tháng theo lệnh của ủy ban quân quản CS là một điều tất yếu, để sau đó mọi người trong nước cùng nhau nối vòng tay lớn xây dựng, hàn gắn lại quê hương. Nhưng tất cả những kỳ vọng ấy đã được trả bằng những sự đói rét, khổ nhục trường kỳ và những đòn thù khắc nghiệt:
“Heo hút đồi cao bụi phủ mờ - những thân còm cõi dáng chơ vơ - bốn vòng gai sắc như dao nhọn - đâm suốt hồn ai nhát hững hờ - đã mấy Mùa Xuân trong đớn đau - cao su vàng lá úa u sầu - bọn ta chung kiếp tù tăm tối - ngày tháng chừng trôi qua rất lâu...” [Vũ Uyên Giang * Bài Gửi Dương Hùng Cường]
Nếu không có sự tin tưởng này thì với lực lượng quân dân cán chính can trường, bất khuất bị lường gạt ấy sẽ ứng phó ra sao? Giới cầm quyền mới có dể dàng, yên ổn thu gọn cuộc chiến thắng mà họ đã luôn tự hào, rêu rao là thần thánh kia chăng? Việc CS dồn người, đem giam giữ vào các trại tập trung xa xôi, ngấm ngầm để các nơi, các cơ cấu phụ thuộc tổ chức đưa người vượt biên hoặc cho phép các cựu tù miền Nam sang Mỹ định cư chẳng phải là nhằm vào mục đích giải trừ, tránh đi hậu hoạn về những sự đối kháng, nổi dậy nguy hiểm hay sao? Hơn ai hết, nhóm đầu não lãnh đạo phương Bắc có thể tiên liệu, biết chắc chắn là mối họa này không thể không xảy ra?
Rồi con số người bị hành hạ, chết chóc trong các trại cải tạo mỗi ngày một gia tăng. Con số người dân tìm đường vượt thoát chế độ độc tài càng ngày càng nhiều, dù họ đều biết rằng mình có thể sẽ vùi thây trong lòng biển cả hay một xó rừng, góc núi nào đó. Còn những kẻ sau thời gian bị nhục hình trong các trại tập trung trở về, người thì bị đày lên vùng kinh tế mới, kẻ thì lâm vào cảnh "anh hùng lỡ vận lên nguồn đốt than", tìm trầm quế, "chém tre đẵn gỗ trên ngàn"... dọc theo dãy Trường Sơn hay tiếp tục những gánh nặng oan khiên khác bằng nghề đẩy xe thồ, đạp xe xích lô... tự an ủi mình bằng ý nghĩ "không có nghề nào tồi tệ, xấu xa, chỉ có con người tồi tệ, xấu xa thôi" [7]. Những hình ảnh được trình dẩn dưới đây là một trong những minh chứng về chánh sách đọa đày, ngược đãi đối với những người cựu tù sống sót đã được họ tha, cho về từ những lò ô nhục mà ngôn ngữ kẻ chiến thắng gọi là trại cải tạo:
“Cõng con dắt vợ leo đồi - phá rừng làm rẫy cất chòi tịnh tâm - vợ con tắm vũng trâu nằm - lưng gùi tay rựa quanh năm cuốc cày - đầu trần chân đất hôm nay - mai sau rồi cũng bóng mây lưng đèo.” [Tr ần Văn Sơn * Tù Về, Lên Rừng Làm Rẫy]
Nơi các trại tù tập trung lao động cũng có nhi ều ngư ời bất khuất, không chịu được sự ngược đãi đã liều mình bỏ trốn. Có nhi ều ngư ời bị bắt lại, bị giết. Cũng có nhi ều ngư ời vùi thây nơi vùng Việt Bắc, nơi rừng sâu nước độc, hoang dã đầy sương lam, chướng khí trên đường tìm về. Cũng có nhi ều ngư ời vượt thoát sau bao đói khổ, truân chuyên được hội ngộ với gia đình. Nguyên Hoàng Bảo Việt là một trong số những người may mắn hiếm hoi đó. Anh là một trong những người đầu tiên đã chiếm giải Văn Chương Toàn Quốc trong thập niên 60. Hiện nay anh là nhân vật quan trọng trong Ủy Ban Bảo Vệ Nhân Quyền và trung tâm Văn Bút Âu Châu. Nhờ “Kẻ Sống Sót” này mà chúng ta có thể hình dung được thảm cảnh oan khiên của những người “ngã ngựa” phải chịu đựng triền miên trong địa ngục trần gian. Trong một nơi cực khổ, đói lạnh dai dẳng, thiếu ánh sáng:
“…Đêm đã xuống - Trên đường trốn về Nam - Tìm sao để định hướng - Con chim Việt còn nhớ cành - Sau lưng tôi - Bạn bè ở lại - Giữa trại tù tập trung - Nào ai biết - Dù màn sắt hay màn tre - Ngục hình của Cộng sản - Ngàn lần hơn Lao Bảo - Trăm lần hơn Côn Nôn - Luật rừng thời trung cổ - Khổ sai và tẩy não - Chung thân - Chết đói và tuyệt vọng - Muôn năm - Xích xiềng và liềm búa - Khua vang - Khua vang…” [ Nguyên Hoàng Bảo Việt * Kẻ Sống Sót]
Tác giả Ô Cửa thì may thay được cho về sớm để rồi bùi ngùi nhìn cảnh đổi thay, vợ con nheo nhóc. Người lính thám báo, người giáo sư yêu đời năm xưa đã mạnh dạn tìm phương tiện sinh nhai bằng một nghề mà người có học, kẻ sĩ trên khắp hoàn vũ nằm mơ, hoang tưởng mấy cũng không thể hình dung, ngờ được. Nhưng có lẽ nhờ tâm hồn nhạy cảm, dể rung động của thi nhân cùng với một nhân sinh quan cởi mở, nên có lúc THT cũng tìm thấy được phần nào nét trào phúng, ý nhị nhỏ nhoi, hài hòa trong công việc dãi dầu mưa nắng. Dẫu sao anh cũng còn cảm thấy được phần nào tự do, sung sướng hơn những năm bị lưu đày:
Ta trở về ôm những nhánh tang thương. Cúi đầu bước đi giữa lòng phố cũ. Con phố của ta ruột rà trăm ngõ. Sao bây giờ mỗi khúc mỗi đau. Ta đã trở về bốn năm phù du. Hồn hóa đá người thành dã thú. Ta dỗ dành ta tai trời ách nước. Thôi đã hết rồi món nợ tiền khiên... Sau cuộc chiến tranh làm tên sống sót. Sau cuộc tội tù đi bán cà rem. Ta bán cà rem hề, ta bán cà rem. Lắc chiếc chuông đồng khua vang làng xã... Chiếc áo trận xanh xạm màu khói lửa. Chiếc mũ rơm đan vương miện tội tù. Ta qua những miền thiên cổ âm u. Ta đập vào thùng nghêu ngao ca hát. Ta bán cà rem hề, kem đường kem chảy. Thêm kem oan cừu chất ngất miền Nam . (Ta Bán Cà Rem Hề, tr.24)
Lời thơ tuy êm êm, lãng đãng như sương khói đầu cành, nhưng sao lại ẩn tiềm, phảng phất đâu đây một nỗi cay đắng tái tê. Những dòng thơ chuyên chở những sắc thái ý nhị này người đọc có thể phát hiện dễ dàng trong toàn tuyển tập Ô Cửa của anh, điển hình như: “Sợi Tóc Nhớ Nhung” (tr. 108), “Tôi Đã Về Em Ạ Đêm Nay” (tr. 165), “Xa lạ” (tr. 201), “Hoàng Hôn Trên Bản Địa” (tr. 313)...
Trận đánh nào rồi cũng đi vào quên lãng. Thời gian nhọc nhằn, tủi nhục nào rồi cũng chìm lắng, nhạt nhòa dần với thời gian. Kết cuộc có còn chăng là những nỗi niềm u uẩn, cay đắng khôn nguôi, những vết sẹo mãi mãi hằn in trên thân thể gầy mòn của người lính tiền sát bị thất trận oan ức:
Những mảnh đời như những cơn giông. Đã xé toạc cả tiếng đời tục lụy. Đã dữ dội như trăm ngàn tạc đạn. Đã rũ mềm lê lết cất không lên... Bụi thì mù, mây thì phủ tai ương. Con ngựa đứt dây, hí hoài trên núi. Bàn tay cắt vào mảnh chai tươm máu. Hồ trường này đây, đập cốc. Về đâu? Ta thì ngậm cả tang hồ rách nát...(Cuồng Ngâm Của Tên Thất Trận, tr 124)
và có còn chăng trong lòng, trong ký ức sâu kín là niềm kiêu hãnh, sự tưởng niệm mang mang, thấm thía:
May mà tôi vẫn còn một hoài niệm xanh. Dù chỉ là nỗi niềm tự hào buồn bã. Trên ngực lép vẫn còn chiến thương ngày cũ. Như đáp đền ân lượng của quê hương. (Niềm Kiêu Hãnh Buồn Bã, tr 233)
Người bạn đồng minh James M. Hopkins thuộc Sư Đoàn 1 BB - người đã từng dẫm chân trên các nẻo đường hành quân vùng Bình Dương, Tây Ninh, khu “tam giác sắt” cũng có chung một tâm trạng như “Đêm Mất Ngủ” của THT (trang 252). Nhưng trái với sự mong đợi. Khi anh và các chiến hữu trở về không may đã bị các lực lượng phản chiến hung hăng thời đó coi như những tội đồ, thậm chí là kẻ sát nhân. Do mặc cảm tội lổi hay vì tâm trạng chua chát, tái tê trước phản ứng phủ phàng của dư luận mà bài thơ mang tựa “SONG” diển tả về tâm trạng của người lính hồi hương này đã mang nặng màu sắc bi thảm, bi quan, chán chường, để rồi anh ta phải dấu kín tâm tư, không thổ lộ được cùng ai:
“…Người lính chiến không quên được. Có lẽ -trong nhiều năm- anh ta sẽ trăn trở trong mỏi mệt. Chờ đợi giấc ngủ, chẳng bao giờ đến. Không ai có thể thoát khỏi được. Những gì anh ta đã chứng kiến, và những sự việc anh ấy đã dự phần, đều bị chôn vùi trong những giấc mơ, trong thầm lặng và câm nín…” [8]
Sao người ta lại nhìn tác động, hiệu quả của chiến trận dưới con mắt đạo đức để chỉ thấy mặt trái, đàng sau của tấm huy chương? Điều đó có oan ức cho những người vì nhiệm vụ phải thi hành trong lúc đối diện địch quân? Hơn nữa trong lúc chiến đ ấu, giết giặc - ít nhất, cũng để bảo toàn được mạng sống của mình, mà cũng bị xem là một hành vi tội lổi, phi đạo đức được chăng và như vậy thì sự công bình đối v ới tha nhân ở đâu?
Những ray rứt về những ngày ngang dọc, gian truân xa xưa như cứ đeo đẳng, bám sát tâm trí người lính trận THT. Cho dù đến nay anh đã trở thành công dân của một quốc gia khác, mà quê huơng yêu dấu cũ thì đã ngàn trùng cách ly. Nỗi hoài nhớ này được dàn trải qua 2 bài lục bát ngắn gọn dưới đây:
Bên kia lạnh nến hai hàng. Phố kia và những con đường lặng im. Nhà kia đóng cửa im lìm. Sao ta không đóng nỗi niềm muội mê. (“Hỏi lòng,” tr 256)
Tôi lạc rồi em biết không. Tôi đang quờ quạng giữa vùng mù sương. Cũng vì cái ngạnh cái ương. Ngỡ mình là lính tiền phương thuở nào. (Lạc Đường, tr257)
Dù tập thơ quá dày không thể giới thiệu thêm, nhưng người viết nhận thấy mình sẽ thiếu sót lớn nếu không đề cập đến bài thơ mang tựa của tuyển tập, mang linh hồn của cả 5 ấn phẩm mà tác giả đã chọn, gom góp lại thành một kiệt tác:
Ngôi trường cũ có bao nhiêu ô cửa. Để tôi về đếm những đám mây bay. Tôi sẽ gọi một bầy chim sẻ nhỏ. Những con chim từng xa vắng lạc bầy. Tôi sẽ đứng như một người thiên cổ. Lớp học buồn như từ cõi cô đơn. Thầy ngồi đó đôi vai gầy tóc bạc. Chút ngậm ngùi cơn nắng đọng hoàng hôn... Tôi sẽ nhớ một người tôi yêu dấu. Người nào đâu về lại buổi hôm qua. Dấu chân nhỏ như vết hài vạn cổ. Đôi mắt nào theo mãi cuộc đời tôi... Và người ấy qua dòng sông sương muối. Tôi lên rừng theo dòng thác binh đao. Và người ấy theo sông về với biển. Tôi về Đông, về Bắc, biết về đâu? Trăng thiếu phụ tôi mang vào song cửa. Cho một lần, cho vô tận ý thiên thu. (Ô Cửa, tr 14)
Tôi đoan chắc những hoài niệm triền miên, những ray rứt về các mất mát trên với niềm kiêu hãnh buồn bã nọ sẽ mãi mãi vương vấn trong tâm hồn, ký ức của người thi sĩ đa cảm, đa tình này. Tuy phần lớn trong số 237 bài là thơ chiến tranh - trực hay gián tiếp, nhưng trong Ô Cửa cũng có nhiều bài thơ tình nồng nàn, rất đáng cho người đọc ngâm nga, thưởng ngoạn như: “Nha Trang” (tr. 30), “Con đường Trăng” (tr. 52), “Thơ của Văn” (tr. 62), “Dư niệm” (tr. 196), “Từ buổi ta về” (tr. 268), “Hẹn lòng” (tr.350)
4. Lời kết
Ai cũng biết con số người Việt Nam làm thơ chiến tranh không phải là ít. Nhưng theo tôi, THT là người đã sáng tác nhiều nhất Trong nhiều tác phẩm mà tôi có trong tay do anh gởi tặng, tôi thấy hầu như bài nào, cuốn sách nào, anh cũng vẽ cho người đọc thấy những hình ảnh linh hoạt, bi hùng của nhũng người lính chiến như anh, sự thống khổ của đồng bào mà anh và những chiến hữu khác thuộc quân lực miền Nam có nhiệm vụ bảo vệ, che chở bằng tất cả nhiệt tình, nhiệt huyết.
Ô Cửa là một tuyển tập thi ca có tầm vóc lớn. THT lại biết tự chọn cho mình một hướng đi, một bản sắc riêng về thi loại, đề tài: chuyên biệt về Chiến Tranh. Thơ anh được cấu tạo bằng những thi ngữ, ngôn từ qui ước bình dị, chân phương. Nhưng bằng những cảm xúc nồng ấm, cùng lối kết từ điêu luyện, nên Ô Cửa dễ dàng lôi cuốn người đọc vào những tình tự tan hợp, những biến động tràn ngập máu lửa, khói súng trong thời loạn lạc đã qua, mà anh là một nhân chứng sống. Chất liệu nòng cốt trong thơ anh là tình nghĩa, dành cho đồng đội, tình yêu thương, trìu mến dành cho người tình, cho những người dân lành ở khắp các làng mạc, thị trấn lẻ, mà gót chân anh đã từng in dấu.
Thơ chiến tranh là một thi loại đặc thù, khó gây được sự rung cảm sâu xa trong tâm hồn người đọc. Nhưng nhờ sự biết phối hợp, hài hòa các thi ảnh, thi ngữ vào tác phẩm đúng mức nên thơ của anh trở nên dịu vợi hơn và dễ thẩm thấu vào nội tâm người thưởng ngoạn. Ô Cửa xứng đáng là một tập thơ có giá trị cao, hiếm hoi trong nền văn học hiện đại.
¤ Vài nét về Trần Hoài Thư .
THT là một người có lòng với nền văn học miền Nam . Từ khi định cự tại một tiểu thuộc miền Đông Hoa kỳ đến nay anh đã lặn lội đi các thư viện lớn để suy tầm tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ cũ để in ấn lại và lưu truyền ở hải ngoại bằng phương tiện thô sơ khiêm tốn qua Thư Ấn Quán của mình.
Ngoài ra anh và một số thân hữu còn chủ trương tập san Thư Quán Bản Thảo cứ ba rồi bây giờ là 2 tháng một lần - từ nhiều năm nay, để đăng tải các tác phẩm của bằng hữu. Đặc biệt là của những cây bút còn ở tại miền Nam VN. Tập san này không bán mà chỉ biếu tặng theo yêu cầu của những người mến mộ các văn thi sĩ cũ trước tháng 4 năm 1975.
Trần Hoài Thư tên thật Trần Quý Sách, sinh ngày 6.12.1942 tại Ðà Lạt. Anh khởi viết năm 1960 và nguyên là cựu sĩ quan VNCH ngành Thám báo. Tốt nghiệp cao học toán tại Hoa kỳ. Cựu chuyên viên điện toán của công ty điện thoại AT&T. Hiện hồi hưu và an cư tại tiểu bang New Jersey .
Một số tác phẩm tiêu biểu đã xuất bản:
Nỗi Bơ Vơ Của Bầy Ngựa Hoang ( Ý Thức)
Những Vì Sao Vĩnh Biệt (Ý Thức)
Ngọn Cỏ Ngậm Ngùi (Ý Thức)
Một Nỏi Nào Ðể Nhớ (Con Ðuông)
Ra Biển Gọi Thầm (1995)
Ban Mê Thuộc Ngày Ðầu Ngày Cuối (1997)
Về Hướng Mặt Trời Lặn (1998)
Thơ Trần Hoài Thư (1998)
Mặc Niệm Chiến Tranh - Ô Cửa (2006)…
PHAN BÁ THỤY DƯƠNG - 5/2010.
• trích thơ của các tác giả:
Anh Thu ần, Diên Nghị, Hà Thúc Sinh, Linh Phương, Hoàng Lộc, Huy Lực, Luân Hoán, Nguyên Hoàng Bảo Việt, Nguyễn Bắc Sơn, Nguyễn Mạnh Trinh, PBTD, Phan Ni Tấn, Phan Xuân Sinh, Tô Thùy Yên, Trần Tuấn Kiệt, Trần Văn Sơn, Vũ Uyên Giang.
• tạm dịch từ nguyên bản:
[1] Herbert Hoover: The old men declare war. But it is the youth who must fight and die.
[2] Ernest Hemingway: They wrote in the old days that is sweet and fitting to die for one’s country. But in the modern war, there is nothing sweet nor fitting in your dying. You will die like a dog for no good reason.
[3] Winston Churchill: Attitude is a little thing that makes a big differences. It costs nothing to be polite.
[4] Marko Whiteley: Right onto the ambush the fighting is fierce. The wildness is gone the glint in the eyes. For now it is you not just them to die. Through the blackness of the deeping night. The wounded scream the rest to fight. The mind starts to scream a terrible warning.
[5] Guy L. Jones: As the sun sets in the darken sky. I hear the voices of those who march off to the distant and calling one to another. I hear them say do not weep for us for our pain is over with now and we go to our God in peace. As the sun passes over the horizon, the image of these marching men pass from the light of my eyes but not the words they said, which I hold onto and the memory of each and very one of them. I whisper back to them I’ll pass on your words to all who hear them from me. This I promise to all of you as long as I live. Farewell my friends, farewell.
[6] Blaise Pascal: L’homme est un roseau, le plus faible de la nature, mais un roseau pensant.
[7] Winona Ryder: il n’y a pas de sot métier, il n’y a que de sottes gens.
[8] James M. Hopkins: The combat soldier, do not forget who (for perhaps years) will toss sweat, waiting for sleep, that won’t come. No one escapes. What his eyes have seen, and the things he has been, are buried in dreams, mute and dumb.
HOÀNG NGỌC LIÊN * SƯ THANH LONG
Truyện Hoàng
Ngọc Liên
Nhân
Năm Rồng, kể thêm về
Cố
Thượng Tọa Thanh Long
"Nhà Sư Của Tôi" đã bênh vực "ÔngCha Nghiêu" như thế nào?Hay là "Nhà Sư Của Tôi" đã phải làm "kiểm điểm" Rút Kinh Nghiệm về việc Ngài liệng chiếc mền đỏ cho một thanh niên "dân tộc"!
Ðể
Tưởng niệm "Nhà Sư Của Tôi"
Cầu chúc Ngài sớm siêu thăng Lạc Quốc.
Hoàng Ngọc Liên
Cầu chúc Ngài sớm siêu thăng Lạc Quốc.
Hoàng Ngọc Liên
Bữa tôi ra mắt sách tại Orlando, cựu Ðại Tá Nguyễn Quốc Quỳnh, Hội Trưởng Hội Cao Niên Orlando và Vùng Phụ Cận, có nhắc tôi là bài "Nhà Sư Của Tôi" (NSCT) trong cuốn tạp văn "Viên Ðạn Cuối Cùng" còn thiếu nhiều chi tiết. Tôi cảm ơn cụ Quỳnh và hứa là nhân dịp Tân Niên Canh Thìn (y2k) tức Năm Rồng đầu thiên niên kỷ mới, tôi sẽ kể thêm về những câu chuyện tại Trại "cải tạo" Thanh Phong, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
Cụ Nguyễn Quốc Quỳnh và kẻ viết bài này đều có nhiều kỷ niệm tại đây, nhất là với cố Thượng Tọa Thích Thanh Long, nguyên Giám Ðốc Nha Tuyên Uùy Phật Giáo Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Sở dĩ bài NSCT thiếu một vài câu chuyện về Ðại Sư Thanh Long, vì là bài viết ngắn để đăng trên Bản Tin Chùa Vạn Hạnh (Raleigh, North Carolina) mà số trang có hạn. Lẽ ra trước khi in bài này trong tập tản văn, tôi phải bổ túc, nhưng đã sơ xuất. Nay xin... chuộc lỗi bằng bài viết này.
Do một cơ duyên... tiếp nối với cụ Thanh Long, cả gần mười năm sau khi Ðại Sư viên tịch tại chùa Giác Ngạn Sài Gòn, tôi viết về Cụ. Và một chuỗi sự việc liên quan đến Cụ do bài NSCT, đưa tới việc Thượng Tọa Thích Thiện Tâm về Trụ Trì tại Chùa Vạn Hạnh; việc tôi liên lạc với thân hữu bên nước Ðức sau khi bài này được đăng lại trên Nguyệt San Viên Giác của Thượng Tọa Thích Như Ðiển; việc tôi có thêm nhiều thân hữu là Phật Tử, vì tôi là người theo Thiên Chúa Giáo mà viết bài rất trân trọng sùng kính một vị Chân Tu bên Phật Giáo.
Mỗi lần chúng tôi, những anh em đồng cảnh tù "cải tạo", nhắc đến Thượng Tọa Thích Thanh Long, ai nấy đều thành kính nhớ về Cụ như một vị anh hùng trong lòng chúng tôi.
Ở một cõi không còn hệ lụy, vị sư già của chúng tôi biết được điều này hẳn không vui lòng. Bởi Cụ vẫn cho mình là một Oâng Sư Nhà Quê, bình thường, giản dị, không muốn ai đề cao mình.
Cụ chia sẻ phần ăn của mình cho bạn tù, như một hành động phải làm như thế mà không hề có ý hành thiện để gây công đức. Thỉnh thoảng được Phật Tử - chùa Giác Ngạn -, hay vợ chồng người Công Giáo gần nhà thờ Ba Chuông ra thăm nuôi, Cụ chia thức ăn cho kỳ hết, sau đó lại nhận phần "bo bo" như... thường. Nhiều bạn tù thấy dưới chân sàn nằm của mình có bịch "ni-lông" thức ăn, đều chắp tay vái, hướng về phía chỗ cụ nằm. Anh em biết là của cụ cho. Trong đồng cảnh "đói muôn năm", ngoài cụ ra, ít ai còn có thể bớt phần ăn, phần "thăm nuôi" của mình để phân chia bằng hết cho các bạn tù, như Cụ?
Bọn "chèo" không ưa cụ, dĩ nhiên, vì:
- Anh Nong, Anh nề mề thế?
Cụ thong thả:
- Nào tôi có lề mề bao giờ đâu!
- Anh còn cãi hả?....
và:
- Anh vất túi bo bo qua hàng rào cho bọn bên kia nhận, anh tưởng cán bộ không biết sao? Anh vi phạm nội quy...
- Thì bọn trẻ đói quá...
- Anh nà bướng nắm! Tôi cảnh cáo anh!
Cụ bị làm "kiểm điểm nhiều lần mà lần nặng nhất là tội "mua bán đổi chác" với một thanh niên dân tộc thiểu số. Xin kể lại chuyện này hầu bạn đọc, như sau:
Trong thời gian làm "Trực Buồng", Cụ Thanh Long có nhiệm vụ xuống nhà bếp gánh hai thùng nước sôi về "chế" vào các "gô" - lon sữa guigoz được bạn tù dùng để nấu nướng hay đựng nước uống. Vào một buổi chiều cuối năm, vừa xuống nhà bếp - trên dốc bờ suối chạy ngang qua trại Thanh Phong - Cụ nhác thấy thấp thoáng có một thanh niên Thượng đi ngang qua. Hé mắt nhìn qua hàng rào cọc tre, cụ thấy người này co ro trong manh áo hở hang. Cái lạnh mùa đông miền núi với những cơn mưa bụi khiến mặt anh tái mét. Nhìn quanh không thấy có gì trở ngại, cụ lên tiếng vừa đủ cho anh nghe:
- Này!
Thanh niên nhìn qua kẽ hở của hàng rào:
- Cụ bảo gì?
- Anh đợi đó, tôi đi lấy cho chiếc mền!
- Mền?
- Phải rồi, là cái chăn cho ấm!
Thanh niên mừng rỡ nhìn theo Cụ thoăn thoắt đi vào phía trong.
Chỉ một lát sau. Cụ guộn chiếc mền đỏ - một trong hai cái mền màu đỏ mà "Trại" phát cho tù, cùng với chiếc áo trấn thủ cũ mèm, còn dính máu, là tất cả phương tiện "chống rét" theo tiêu chuẩn - qua hàng rào cọc tre.
Nhưng Cụ già sức yếu, đã lấy đà để liệng chiếc mền qua nhưng nó chỉ qua được gần phân nửa, phần còn lại bị máng trên đầu những cọc tre nhọn hoắt. Bên ngoài, anh càng kéo mép mền xuống, nó càng dính chặt vào đầu cọc.
Ðúng vào lúc đó, tên chèo ngồi trên vọng gác nhận ra sự việc bất thường. Gã báo động. Thấy tình trạng nguy hiểm cho người bên ngoài, Cụ bảo anh:
- Ði lẹ đi!
Thanh niên vừa chạy xuống bờ suối thì tên "cán bộ trực trại" hầm hầm bước tới. Y lớn tiếng:
- Anh Nong! Anh nàm gì ở đây?
Cụ điềm tĩnh:
- Tôi lấy nước về cho Ðội!
Y chỉ tay lên chiếc mền đỏ máng trên hàng rào?
- Anh vất chiếc chăn này cho ai bên ngoài?
- Tôi đâu biết là ai?
Y nạt lớn:
- Anh chối hả?
Cụ vẫn thong thả:
- Nào tôi có chối gì đâu?
- Tại sao anh vất chiếc mền cho người bên ngoài?
- Vì tôi thấy anh ta lạnh quá!
Y dằn từng tiếng:
- Anh... mua bán đổi chác hả?
Cụ cười:
- Cán bộ nghĩ coi, trên người anh ta chỉ có chiếc quần đùi và manh áo rách, có gì đểø tôi... mua bán đổi chác?
- Anh còn cãi hả. Anh vi phạm nội quy. Nẽ ra tôi cùm anh một chân...
- Tùy cán bộ thôi!
- Nhưng thấy anh già yếu, tôi bắt anh nghiêm chỉnh nàm kiểm điểm. Anh nghe rõ chưa?
- Nghe rõ, cán bộ!
Trước khi quay đi, y còn dọa Cụ:
- Anh phải thành thật khai báo, nghiêm khắc kiểm điểm và nộp nên văn phòng tôi ngay chiều nay. Anh nắm được chưa?
Cụ muốn phì cười khi trả lời y:
- Nắm được rồi, cán bộ.
Chiều hôm ấy, khi chúng tôi xếp hàng .. vô chuồng. Tên trực trại nói với cụ Thanh Long, khi cụ bước qua trước mặt y:
- Anh Nong! Sao chưa nộp kiểm điểm?
Cụ vẫn thong thả:
- Tôi trực buồng làm bao nhiêu việc, thì giờ đâu mà viết. Cán bộ lại chưa cho giấy bút, tôi lấy gì để viết?
Y nạt liền:
- Viết thư cho gia đình thì anh có giấy bút...
Cụ không chịu:
- Nào tôi có gia đình đâu mà viết thư...
Có tiếng cười phía sau của bạn tù còn đợi vào buồng. Tên trực trại quay lại nhưng không bắt được kẻ nào vừa phát ra tiếng cười ấy, y khoát tay:
- Vào buồng đi. Tôi sẽ cho anh giấy bút nàm kiểm điểm. Sáng mai nộp cho tôi!
Sáng hôm sau, tên trực trại đòi nộp bài kiểm điểm thì cụ làm ra bộ không hiểu:
- Tôi nghĩ sáng nay viết thì chiều nay nộp, nếu tôi tranh thủ viết kịp...
Y quát:
- Tại sao tối qua anh không viết?
Cụ cười:
- Làm sao tôi thấy đường viết, khi không đủ ánh sáng?
- Không nôi thôi với anh! Anh nà bướng lắm. Trưa nay anh phải viết xong tờ kiểm điểm, nếu không, tôi cùm anh!
Cụ không trả lời nữa. Tên trực trại bỏ đi.
Sau đó, Cụ không làm trực buồng nữa, ra lao động như trước.
- Anh Nghiêu đâu?
Linh Mục Nghiêu đứng lên:
- Có tôi!
- Anh nên đây! Ðứng bên cạnh tôi và nhìn xuống sân tập kết.
Chờ cho vị linh mục già an vị, tên trực trại ... phát:
- Trước toàn Trại, tôi cảnh cáo trại viên Nghiêu về tội nề mề trong nao động, gây ảnh hưởng xấu đến phong trào thi đua sản xuất vụ Ðông Xuân!...
Một cánh tay giơ lên, cùng với giọng nói quen thuộc của Thượng Tọa Thích Thanh Long mà phần đông anh em tù đều kêu là bố:
- Tôi có ý kiến!
Tên trực trại vốn không có hảo cảm với Cụ, y chưa kịp phản ứng thì Cu đãï lớn tiếng:
- Thưa cán bộ trực trại, tôi không đồng ý cho rằng ông cha Nghiêu...
Y ngắt lời cụ:
- Cho anh nói nại: anh Nghiêu! Không có ông cha nào ở đây cả!
Cụ nói tiếp:
- Tôi không đồng ý cho rằng anh Nghiêu lề mề trong lao động. Tôi nhận thấy anh Nghiêu rất... tích cực, luôn đạt chỉ tiêu do trại đề ra. Chỉ là anh Nghiêu lớn tuổi nên không được nhanh nhẹn...
Tên trực trại xua tay:
- Anh Nong ngồi xuống! Tôi nhắc: Trại cảnh cáo anh Nghiêu, cảnh cáo nuôn anh Nong về tội cũng nề mề nao động, còn thêm tội bao che nữa. Nếu các anh không sửa đổi, Trại sẽ có biện pháp.
Y nhìn qua phía ông cha Nghiêu:
- Anh Nghiêu và anh Nong sáng nay nên phòng cán bộ trực trại "nàm việc".
... Chúng tôi nhìn theo nhị vị chân tu trở về buồng.
Nhiều năm sau, những anh em tù từng chứng kiến khung cảnh một vị Thượng Tọa lớn tiếng bênh vực một vị linh mục ngay trong ngục tù cộng sản bất chấp mọi hậu quả,không bao giờ quên được.
Còn nữa, hình ảnh các ông sư, ông cha ngồi chồm hổm nấu nướng ngoài sân rồi ăn chung với nhau... luôn hiện ra trong những giấc mơ của tôi, dù đang sống ở Hoa Kỳ.
Tôi còn được biết Linh Mục Tống Thiện Liên (TX) đã "meo" món quà 100 mỹ kim để Welcome Thượng Tọa Thiện Tâm (hồi ngài còn ở Atlanta), khi vị sư khả ái này mới tới Mỹ.
Thử hỏi những sự thật này, mấy ai nghĩ được là đã xảy ra?
Các vị tu hành khả kính trong tù, chỉ cảm nhận tình người của nhau, không bao giờ có chuyện mất đoàn kết giữa những chiến sĩ quốc gia, vì màu sắc tôn giáo. Quý vị ấy mến thương nhau thănh khẩn khiến bạn tù đều được noi gương. Sau khi ra tù, các vị thường qua lại, thăm hỏi nhau thân thiết từ trong cũng như ngoài Nước.
Thế mà ở đâu đó sau này, ngay trên những nước Tự Do, vẫn còn những chuyện chia rẽ giữa một số - dù rất ít - con người Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo!
Cụ Thanh Long, "Nhà Sư Của Tôi", thần thông quảng đại, hẳn đau lòng về những chuyện chia rẽ, nếu còn xảy ra trong công đồng người Việt Quốc Gia, như thế.
Miền
Ðông Hoa Kỳ, Cuối năm 1999
Hoàng Ngọc Liên
Hoàng Ngọc Liên
TÔ KIỀU NGÂN * ĐINH HÙNG & VŨ HOÀNG CHƯƠNG
Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương
Những thi sĩ không… nhà !
TÔ KIỀU NGÂN
Những thi sĩ không… nhà !
Tác giả : Tô Kiều Ngân
Lịch sử văn học
Việt Nam đã ghi nhận tên tuổi họ, nhưng trong biến thiên của lịch sử dân
tộc không ít văn thi sĩ tên tuổi phải chìm nổi cùng vận mệnh đất
nước....Đinh Hùng và Vũ Hoàng Chương là những nhà thơ nổi tiếng từ hồi
“phong trào thơ mới”.Họ đều là những “đại gia” trong làng thơ nhưng cả
hai, không ai tự tạo được cho mình một mái nhà mà suốt đời toàn đi ở nhà
thuê.
Năm 1954, khi vào
Sài Gòn, hai người thuê một căn nhà lợp tôn, vách ván tại xóm Hòa Hưng.
Vũ Hoàng Chương cùng vợ ở trên gác, dưới nhà là tổ ấm của gia đình Đinh
Hùng. Nhị vị này là anh em: Vũ Hoàng Chương lấy chị ruột Đinh Hùng là bà
Đinh Thị Thục Oanh nên hai nhà sống chung với nhau trong bước đầu nơi
xứ lạ, quê người là điều dễ hiểu.Tuy nhiên thực tế lại rất… khó sống.
Quen với cảnh “miếu nguyệt, vườn sương”, “cách tường hoa ảnh động” nay
phải giam mình trong căn gác gỗ nóng hầm hập, hơi nóng từ mái tôn phả
xuống như muốn luộc chín người,Vũ Hoàng Chương cảm thấy nguồn thơ đang
bị nắng Sài Gòn làm cho khô cạn.
Dưới nhà, Đinh
Hùng cũng chẳng hơn gì, anh cũng đánh trần ra, vừa quạt, vừa nắm viết
“Kỳ Nữ gò Ôn Khâu”, “Đao phủ thành Đại La” cho các nhật báo Sài Gòn thời
đó. Ngoài viết tiểu thuyết dài từng kỳ, anh còn vẽ tranh vui và giữ
luôn mục “Đàn ngang cung” là mục thơ trào phúng ký tên Thần Đăng.Vũ
Hoàng Chương dạy học tại trường Văn Lang. Đinh Hùng viết báo và bình thơ
tại Đài phát thanh.Cả hai kiếm tiền không đến nỗi chật vật nhưng cả hai
đều không tậu được cho mình một mái ấm là vì họ trót dính đến nàng tiên
nâu nên kiếm tiền bao nhiêu đều tan thành mây khói.
Để kiếm một chỗ ở
thoải mái hơn họ Đinh và họ Vũ tạm chia tay nhau, mỗi gia đình đi thuê
một nơi ở khác.Tác giả “Thơ Say” dọn về chợ Vườn Chuối (đường Nguyễn
Đình Chiểu bây giờ).Họ Đinh thì mướn một căn gác hẹp ở xóm lao động gần
đường Frères Louis (trước 1975 là đường Võ Tánh, nay là Nguyễn Trãi).
Xóm lao động này có ngõ dẫn ra đường Lê Lai.Con đường nằm bên cạnh ga xe
lửa Sài Gòn, hồi đó chưa lập thành công viên như bây giờ, quang cảnh
còn rất vắng. Chỗ ở mới cũng không hơn gì căn nhà ở xóm Hòa Hưng, chật
hẹp, tối tăm, nóng bức.
Mỗi lần xong việc ở
đài phát thanh, Đinh Hùng thường rủ chúng tôi về nơi anh ở, không phải ở
nhà anh mà là họp nhau tại một quán rượu ở gần nhà, đường Lê Lai.Đường
này thường đêm vắng ngắt, có lần uống say, Đinh Hùng cao hứng mở cuộc
thi… bò ra đường xem ai bò nhanh. Thế là Thanh Nam, Tô Kiều Ngân, Đinh
Hùng, Thái Thủy, Hoàng Thư, Quách Đàm… hăng hái tham gia môn vận động
chưa từng diễn ra ở bất cứ vận động trường nào! Bò xong rồi nằm lăn ra
đường, vừa đọc thơ, vừa cười
.Ít lâu sau, Đinh
Hùng lại đổi nhà. Lần này anh thuê được một căn gác, nhà tường hẳn hoi,
tại đường Trần Văn Thạch, gần chợ Tân Định, nay đổi tên là Nguyễn Hữu
Cầu.Nhà lợp ngói lại ở mặt tiền nhưng vào nhà chẳng thấy bàn ghế gì, chỉ
thấy một chiếc giường nằm chình ình ngay giữa nhà. Trên giường chất
chồng đủ thứ: mền gối, sách vở, ấm chén và có một thứ không thể thiếu đó
là chiếc bàn đèn thuốc phiện. Đinh Hùng nằm lọt thỏm vào giữa “giang
sơn” của anh, vừa “dìu hồn theo cánh khói” vừa tìm ý thơ.Tác giả “Đường
vào tình sử” có thói quen nằm mà viết. Anh nằm vắt chân chữ ngũ, đặt tập
giấy lên đùi.Có lẽ lâu ngày nên quen, trong tư thế đó, chữ viết anh vẫn
bay bướm, rõ
ràng, không dập xóa, trang bản thảo nào cũng sạch sẽ, xinh đẹp.
Khi cần đi đâu ,
họ Đinh lại vớ lấy chiếc sơ mi đã mặc bốn, năm hôm trước, quàng bên
ngoài chiếc áo vét cũ, cà vạt đàng hoàng.Tắm ư, chỉ cần vào “toa-let” mở
nước ở “la-va-bô”, nhúng đầu vào bồn nước rồi hất lên, chảy xơ qua là
xong. Trông Đinh Hùng lúc nào cũng ăn mặc chỉnh tề nhưng đừng ai ngồi
quá gần anh, vì anh ít khi… tắm.
Vũ Hoàng Chương
lại đổi nhà một lần nữa. Lần này anh mướn nhà ở đường Nguyễn Khắc Nhu, ở
gần nhà Bình Nguyên Lộc.Tuy được đi dự Hội nghị Thi Ca quốc tế ở nước
ngoài, có thơ dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp, tiền kiếm được có thể mua
một căn nhà bực trung nhưng họ Vũ vẫn đi ở nhà thuê.
Vào các năm 1973 -
1975, vợ chồng anh được nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội mời về cho ở
một căn gác tại toà biệt thự đồ sộ của bà ở đường Nguyễn Trọng Tuyển.Nói
là cho ở nhưng họ Vũ phải trả tiền điện, tiền nước và tiền điện thoại.
Anh đặt tên chỗ ở mới này là “Gác Mây”.
Nơi đây, tôi và
bạn bè đã có lần uống rượu với Vũ Hoàng Chương, nghe anh đọc thơ Tuy Lý
Vương và phát hiện ra cái thôn Vỹ Dạ ở Huế đã đi vào thơ Hàn Mạc Tử
không phải là Vỹ Dạ mà là Vỹ Dã (cánh đồng lau).
Nhưng rồi Vũ Hoàng Chương cũng không an trú lại “Gác Mây” được bao lâu.
Sài Gòn 75 , bạn
bè của chủ nhân Mộng Tuyết vào ra thăm bà tấp nập.Có lẽ thấy sự hiện
diện của Vũ Hoàng Chương ở tại nhà mình có sự không tiện nên bà đánh
tiếng để họ Vũ dọn đi. Phải đi thôi nhưng phải đi đâu?Thời buổi khó
khăn, tiền đâu để đặt cọc, thuê nhà? Anh đành dắt díu vợ con về tá túc
tại căn nhà bé bằng bàn tay của bà quả phụ Đinh Hùng bên khu Khánh Hội.
Đinh Hùng ra đi
trước Vũ Hoàng Chương. Anh mất vì bệnh ung thư tại bệnh viện Bình Dân,
an táng tại nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi. Đám tang trọng thể.Thuở sinh thời,
Đinh Hùng từng viết trong thơ:
Khi tôi chết các em về đấy nhé
Cảm tấm lòng tri ngộ với nhau xưa
Tay cầm hoa, xoả tóc đến bên mồ…
Khi tôi chết các em về đấy nhé
Cảm tấm lòng tri ngộ với nhau xưa
Tay cầm hoa, xoả tóc đến bên mồ…
Điều mong ước đó,
kỳ diệu thay lại biến thành hiện thực: trong đám tang của anh người ta
thấy có hai chục cô thiếu nữ mặc áo trắng, xỏa tóc, tay cầm hoa lặng lẽ
sắp hàng đi theo linh cửu.Họ đến bên mồ và lặng lẽ thả những bó hoa
xuồng lòng huyệt, ngậm ngùi tiễn đưa người thi sĩ. Hiện tượng này không
do một sự sắp đặt mà do một cảm ứng tự nhiên.
Đinh Hùng mất rồi,
vợ anh phải trả căn nhà ở gần chợ Tân Định lại cho chủ.Đang chưa biết ở
đâu thì may thay, một vị tướng quân hồi đó, rất yêu thơ mà lại có chức
quyền nên đã vận động cấp cho bà quả phụ Đinh Hùng một căn nhà ở khu
Khánh Hội.
Bà Đinh Hùng với
con trai là Đinh Hoài Ngọc không thể ôm một căn nhà lớn để mà nhịn đói
nên đã bán căn nhà đó đi rồi rút lui vào vùng sâu, vùng xa của bến Phạm
Thế Hiển lúc đó còn đìu hiu lau lách, dựng một mái chòi để sống qua
ngày.
Chính nơi đây, Vũ
Hoàng Chương đã cùng vợ con sống chui rúc những ngày cuối đời của anh
trước khi “được” đưa đến ở một toà nhà to lớn, kiên cố, có lính gác ngày
đêm, đó là… khám Chí Hoà!
Vũ Hoàng Chương
bệnh hoạn, suy sụp rất nhanh nên ít lâu sau khi được thả ra, anh lặng lẽ
ra đi.Đám tang anh cũng cử hành trong lặng lẽ, nghèo nàn, hiu hắt.
Năm 76, Sài Gòn
xong, mọi người còn bận rộn với những vấn đề to lớn, đa số bạn bè và
người hâm mộ anh kẻ đi tập trung cải tạo, kẻ đi nước ngòai, người còn
lại thì do không biết tin anh chết nên đám tang anh chỉ thưa thớt dăm
người đi đưa, trong đó có nhà thơ Bàng Bá Lân và Tôn Nữ Hỷ Khương
Mười
năm sau, 1986 mộ Vũ Hoàng Chương được cải táng về chôn tại nghĩa địa
của chùa Giác Minh tại Gò Vấp.Suốt một đời lận đận vì nỗi không nhà, giờ
đây hai con người tài hoa kia đã có một chỗ ở trang trọng, miên viễn đó
là chỗ ngồi lâu bền trong văn học sử và điều an ủi lớn nhất là họ còn
sống mãi trong tâm hồn những khách yêu thơ.
TÔ KIỀU NGÂN
No comments:
Post a Comment